top of page

03. Bệnh viện

Minh Chứng Thiên Đường
Tác giả: Eben Alexander

 03. Bệnh viện

Bệnh viện 


Phòng cấp cứu của Bệnh viện Đa khoa Lynchburg là phòng cấp cứu đông bệnh nhân thứ nhì bang Virginia, và giờ cao điểm thường là khoảng 9 giờ 30 phút vào buổi sáng các ngày trong tuần. Sáng thứ Hai đó cũng không phải là ngoại lệ. Mặc dù chủ yếu làm việc ở Charlottesville trong các ngày thường, tôi vẫn tiến hành nhiều ca mổ tại Bệnh viện Đa khoa Lynchburg và tôi quen hầu như tất cả mọi người ở đó. 

      Buổi sáng hôm ấy, Laura Potter, một bác sĩ của khoa cấp cứu mà tôi biết và đã cùng sát cánh làm việc suốt gần hai năm, nhận được một cuộc điện thoại từ xe cứu thương, thông báo rằng bệnh nhân là một người đàn ông da trắng năm mươi bốn tuổi, đang trong trạng thái động kinh và sắp được đưa đến phòng cấp cứu của cô. Khi cửa xe cứu thương vừa được mở ra, cô ấy liền điểm nhanh qua danh sách những nguyên nhân có thể gây ra tình trạng của bệnh nhân được chuyển đến. Nếu ở vị trí của cô ấy, tôi cũng sẽ làm việc này trước tiên, và danh sách bao gồm: hội chứng cai rượu, dùng ma túy quá liều, hạ natri huyết (nồng độ natri trong máu giảm một cách bất thường), đột quỵ, khối u tiên phát hoặc di căn ở não, xuất huyết não (hiện tượng máu chảy vào bên trong các mô não), áp xe não... và viêm màng não. 

     Khi đội cấp cứu đẩy cáng cứu thương đưa tôi vào trong Khu chính  của phòng cấp cứu, tôi vẫn đang co giật dữ dội, thỉnh thoảng lại rên rỉ và chân tay vung loạn xạ.

     Nhìn những biểu hiện mê sảng và quằn quại của tôi, tiến sĩ Potter xác định ngay rằng não của tôi đang bị tấn công nghiêm trọng. Một y tá đẩy xe đựng dụng cụ cấp cứu đến, một người khác lấy mẫu máu, và một người thứ ba thay túi đựng dịch truyền tĩnh mạch, thay cho chiếc túi đã được đội cấp cứu truyền cho tôi từ lúc ở nhà, trước khi tôi được đưa lên xe cứu thương. Trong lúc họ thực hiện các bước cấp cứu cho tôi, tôi vẫn tiếp tục quằn quại như một con cá dài hơn một mét tám khi bị lôi lên khỏi nước. Tôi thốt ra một tràng những âm thanh vô nghĩa, lộn xộn, và những tiếng nghe như tiếng kêu của những con thú. Điều khiến Laura lo ngại không chỉ là những cơn co giật của tôi, mà còn là hiện tượng bất cân xứng trong những cử động cơ thể của tôi. Điều này có thể có nghĩa là không chỉ não của tôi đang bị tấn công mà có nhiều khả năng đã có những tổn thương nghiêm trọng và có lẽ đó là những tổn thương không thể cứu vãn. 

     Vì đã trải qua nhiều năm làm việc ở phòng cấp cứu nên Laura đã chứng kiến mọi tình huống có thể xảy ra với bệnh nhân trong trường hợp này. Tuy nhiên, cô ấy chưa bao giờ gặp tình huống một bác sĩ đồng nghiệp của mình được đưa vào phòng cấp cứu trong tình trạng tương tự, và khi nhìn kỹ hơn bệnh nhân đang la hét, quằn quại trên cáng, cô ấy nói, gần như là kêu lên với chính mình: “Eben”. 

     Rồi cô nói to hơn, để thông báo với các bác sĩ và y tá khác đang ở gần đó: “Đây là Eben Alexander”.

     Nghe thấy thế, các nhân viên ở gần đó xúm lại quanh cáng của tôi. Hol- ley đi theo xe cứu thương từ nhà đến đây và đang đứng bên cáng của tôi cùng mọi người, trong khi Laura điểm qua danh sách các câu hỏi bắt buộc của phòng cấp cứu để tìm ra những nguyên nhân khả dĩ nhất gây ra tình trạng của tôi - Tôi có đang cai rượu không? Gần đây tôi có dùng chất ma túy gây ảo giác mạnh nào không? - Rồi cô ấy bắt tay vào việc cố gắng làm ngừng cơn co giật của tôi. 

     Trong mấy tháng gần đây, Eben IV bắt tôi tham gia vào một chương trình rèn luyện thể lực để chuẩn bị cho hành trình leo núi sắp tới của hai cha con, chinh phục đỉnh Cotopaxi cao 5.897 mét ở Ecuador, đỉnh núi mà Eben IV đã leo hồi tháng Hai vừa rồi. Chương trình tập luyện đã làm tăng thể lực của tôi lên đáng kể, khiến cho những người hộ lý gặp khó khăn hơn rất nhiều để đè tôi xuống. Sau năm phút và 15 miligam thuốc diazepam tiêm vào tĩnh mạch, tôi vẫn mê sảng và vùng vẫy, cố đẩy mọi người ra khỏi mình, nhưng tiến sĩ Potter thì cảm thấy nhẹ nhõm vì ít ra, tôi đang chống cự bằng cả hai bên cơ thể mình. Holley kể với Laura rằng tôi đã bị đau đầu trầm trọng trước khi bắt đầu co giật, nên tiến sĩ Potter quyết định chọc dò tủy sống của tôi - một quy trình trích một lượng nhỏ dịch não tủy từ phần đốt sống thắt lưng. 

     Dịch não tủy là một chất dịch lỏng, trong suốt, chạy dọc theo bề mặt của cột sống và trong mô bao quanh não, bảo vệ não khỏi những tác động bên ngoài. Cơ thể của một người khỏe mạnh bình thường sản xuất ra khoảng nửa lít dịch mỗi ngày, và bất kỳ sự suy giảm độ trong suốt ở mức độ nào của chất dịch cũng là dấu hiệu cho thấy bệnh nhân đã bị nhiễm trùng hoặc xuất huyết. 

     Hiện tượng nhiễm trùng như vậy được gọi là viêm màng não: đó là tình trạng sưng lên của màng não, tức những lớp màng lót dọc phần bên trong của cột sống và hộp sọ và tiếp xúc trực tiếp với dịch não tủy. Bốn trong năm trường hợp viêm màng não là do virus. Viêm màng não do virus có thể khiến tình trạng bệnh nhân trở nên nghiêm trọng, nhưng chỉ 1% trường hợp dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, một trong năm trường hợp viêm màng não là do vi khuẩn gây ra. Vi khuẩn có thể còn nguy hiểm hơn bởi nó nguyên thủy hơn virus. Những trường hợp viêm màng não do vi khuẩn nếu không được chữa trị đều sẽ gây tử vong. Thậm chí, ngay cả khi được nhanh chóng chữa trị bằng các kháng sinh phù hợp, tỷ lệ tử vong vẫn cao, từ 15% đến 40%.    

     Một trong số những thủ phạm ít gặp nhất gây ra bệnh viêm màng não ở người lớn là một loại vi khuẩn lâu năm và rất mạnh có tên gọi Es- cherichia coli - tên thường gọi là E. coli. Không ai biết chính xác E. coli đã có từ bao giờ, nhưng số năm được ước lượng là trong khoảng giữa ba và bốn tỷ năm. Sinh vật này không có nhân tế bào và tái sinh sản thông qua một quá trình nguyên thủy nhưng cực kỳ hữu hiệu được biết đến dưới tên gọi sự sinh sản phân đôi vô tính (hay nói cách khác là tự phân đôi). Hãy tưởng tượng một tế bào chủ yếu chứa đầy ADN và có thể hấp thụ các chất dinh dưỡng (thường là từ các tế bào khác mà nó tấn công và hút lấy dưỡng chất) trực tiếp qua thành tế bào. Rồi hãy tưởng tượng rằng nó có thể đồng thời sao chép một vài chuỗi ADN rồi cứ khoảng mỗi hai mươi phút lại phân đôi thành hai tế bào con. Như vậy, trong vòng một giờ sẽ có 8 tế bào được tạo ra từ mỗi tế bào. Trong mười hai tiếng đồng hồ sẽ có 69 tỷ tế bào được sản sinh. Sau mười lăm tiếng, con số sẽ là 35 ngàn tỷ. Sự phát triển bùng nổ này chỉ chậm lại khi nguồn thức ăn cho nó bắt đầu cạn. 

     E. coli cũng rất bừa bãi trong sinh hoạt. Chúng có thể trao đổi gien với các loài vi khuẩn khác thông qua một quá trình được gọi là tiếp hợp vi khuẩn, cho phép E. coli nhanh chóng tiếp nhận thêm những đặc tính mới (ví dụ như tính kháng kháng sinh đối với những kháng sinh mới) khi cần. Phương thức đơn giản này đã giúp cho E. coli thành công trong việc duy trì đời sống của nó trên hành tinh này từ những ngày đầu của sự sống đơn bào. Tất cả chúng ta đều có vi khuẩn E. coli sống trong cơ thể, chủ yếu ở đường tiêu hóa. Trong những điều kiện bình thường thì chúng vô hại, nhưng khi các chủng E. coli đa dạng đã sao chép được những chuỗi ADN khiến chúng trở nên đặc biệt táo tợn, xâm nhập vào dịch não tủy ở xung quanh cột sống và trong não thì các tế bào nguyên thủy này ngay lập tức ngấu nghiến đường glucose trong dịch và bất cứ thứ gì chúng có thể ăn được, kể cả bộ não. 

     Cho đến thời điểm đó, không ai trong phòng cấp cứu nghĩ rằng tôi bị viêm màng não do khuẩn E. coli. Họ không có lý do gì để nghi ngờ điều đó. Căn bệnh này cực kỳ hiếm khi xảy ra đối với người lớn. Trẻ sơ sinh là đối tượng có nguy cơ mắc bệnh này nhiều nhất, nhưng trường hợp trẻ trên ba tháng tuổi mắc bệnh này là vô cùng hiếm. Mỗi năm chỉ có chưa đến một trong số mười triệu người lớn mắc phải con vi khuẩn này một cách ngẫu nhiên. 

     Trong các ca viêm màng não do vi khuẩn, vi khuẩn tấn công lớp ngoài của não, tức vỏ não, trước tiên. Từ vỏ não (cortex) xuất phát từ một từ La-tinh có nghĩa là “vỏ trái cây” hay “vỏ cây”. Nếu bạn hình dung ra một quả cam, bạn sẽ thấy vỏ của nó là một mô hình khá giống với cách mà vỏ não bao quanh những phần nguyên thủy hơn của não. Vỏ não chịu trách nhiệm về trí nhớ, ngôn ngữ, cảm xúc, nhận thức hình ảnh và âm thanh, và tư duy logic. Vì vậy, khi một sinh vật như E. coli tấn công vào bộ não, những vùng não dễ dàng bị tổn thương trước hết sẽ là những phần đảm trách những chức năng quan trọng nhất trong việc duy trì các phẩm chất đặc trưng của người. Nhiều bệnh nhân viêm màng não do vi khuẩn chết trong vòng vài ngày sau khi nhiễm bệnh. Chỉ có 10% số người được đưa đến phòng cấp cứu trong tình trạng chức năng thần kinh đang suy giảm nhanh chóng, như trường hợp của tôi, là may mắn sống sót. Tuy nhiên, cơ may của họ cũng có giới hạn, vì nhiều người trong số đó sẽ sống đời sống thực vật trong suốt quãng đời còn lại. 

     Dù không nghi ngờ tôi nhiễm khuẩn E. coli, tiến sĩ Potter nghĩ rằng có lẽ tôi đã mắc phải một dạng nhiễm trùng não nào đó, nên cô ấy quyết định tiến hành chọc dò tủy sống cho tôi. Ngay khi cô ấy yêu cầu một trong các y tá mang khay dụng cụ chọc dò tủy sống lại và thực hiện các bước chuẩn bị cần thiết trên người tôi thì người tôi giật nẩy lên như thể chiếc cáng cứu thương của tôi có điện. Với luồng năng lượng mới nhận được, tôi phát ra một tiếng rên dài đau đớn, lưng oằn lên và hai cánh tay vung lên. Mặt tôi đỏ bừng và các mạch máu ở cổ phình lên một cách khác lạ. Laura la lên, gọi thêm người trợ giúp và chỉ một lát sau, hai, bốn, và cuối cùng là sáu hộ lý chạy đến, cố tìm mọi cách đè tôi xuống để Laura có thể thực hiện việc chọc dò. Họ ép tôi vào tư thế nằm nghiêng co người như tư thế của thai nhi trong khi Laura tiêm thêm cho tôi một vài mũi an thần. Cuối cùng họ cũng giữ được tôi nằm yên, đủ để Laura chọc mũi kim vào đốt sống thắt lưng của tôi. 

     Khi vi khuẩn tấn công, cơ thể ngay lập tức chuyển sang cơ chế phòng vệ, gửi các đội quân bạch cầu xung kích từ các doanh trại ở lá lách và tủy xương đến để đánh đuổi những kẻ xâm lược. Đó là đội quân chịu thương vong đầu tiên trong cuộc chiến tranh tế bào trên diện rộng, nổ ra bất cứ khi nào cơ thể bị một nhân tố sinh học ngoại lai xâm nhập, và tiến sĩ Potter biết rằng nếu có hiện tượng dịch tủy không trong suốt thì chính là do các tế bào bạch cầu của tôi. 

     Tiến sĩ Potter cúi xuống và nhìn chăm chú vào áp kế - một cái ống thẳng đứng trong suốt trong đó dịch tủy não sẽ chảy vào. Điều đầu tiên khiến Laura bất ngờ là dịch không chảy nhỏ giọt vào ống mà tuôn vào - do áp suất cao ở mức báo động. Điều ngạc nhiên thứ hai là màu sắc của dịch. Màu sắc chỉ cần hơi đục là đã dấu hiệu cho biết tôi đang gặp nguy; đằng này, thứ chất lỏng bắn vào trong áp kế là một chất dịch sền sệt màu trắng, hơi ngả màu xanh lá. 

     Dịch tủy sống của tôi đầy mủ.

bottom of page