top of page
8. HÃY LỘT BỎ VẢI LIỆM! (Eph 4:17-32)
Kinh...
...Thánh được viết ra để mọi người làm theo, chớ không phải chỉ để nghiên cứu, và đây là lý do vì sao những chữ “vậy” và “như vậy” được lặp lại thật thường xuyên trong nửa phần sau của thư Ê-phê-sô (Eph 4:1,17,25; Eph 5:1,7,14,17,24).
Phao-lô đang nói, “Đây là điều Đấng Christ đã làm cho anh em. Giờ đây, trong ánh sáng của điều này, đây là điều chúng ta cần phải làm cho Đấng Christ.” Chúng ta sẽ phải là những người làm theo Lời Đức Chúa Trời, chớ không phải chỉ là những kẻ nghe mà thôi (Gia 1:22).
Sự kiện chúng ta đã được kêu gọi trong Đấng Christ (Eph 1:18) cần phải thúc giục chúng ta bước đi trong sự hiệp một (Eph 4:1-16).
Và sự kiện chúng ta đã được sống lại từ kẻ chết (Eph 2:10) cần phải giục giã chúng ta bước đi trong sự thánh khiết (Eph 4:17-5:17), hay, như Phao-lô đã nói với những tín hữu tại Rô-ma “sống trong đời mới” (Rô 6:4). Chúng ta được sống trong Đấng Christ, chớ không phải chết trong tội lỗi vì vậy “hãy thoát lốt người cũ . . .và mặc lấy người mới” (Eph 4:22,24). Hãy lột bỏ những vải liệm và mặc chiếc áo ân điển vào!
1. Lời khuyên răn (Eph 4:17-19)
Có một số điều cấm đoán trong đời sống Cơ-đốc nhân và đây là một trong những điều ấy: “Chớ nên ăn ở như người ngoại đạo nữa.” Cơ-đốc nhân không được bắt chước đời sống của những người chưa được cứu chung quanh mình.
Họ đã “chết vì lầm lỗi và tội ác mình” (Eph 2:1), trong khi Cơ-đốc nhân đã được sống lại từ kẻ chết và được ban cho sự sống đời đời trong Đấng Christ. Phao-lô giải thích sự khác biệt giữa những người được cứu và những kẻ chưa được cứu.
-Trước tiên, Cơ-đốc nhân suy nghĩ khác với những người chưa được cứu. Hãy lưu ý ở đây Phao-lô nhấn mạnh vào việc suy nghĩ: ý tưởng, tâm trí (Eph 4:17,23), trí khôn (c.18), sự ngu muội (c.18), “học cho biết Đấng Christ” (Eph 4:20).
Sự cứu rỗi bắt đầu với sự ăn năn, tức một sự thay đổi của tâm trí, ý tưởng. Toàn thể quan điểm của một người thay đổi khi người ấy tin Đấng Christ, bao gồm các giá trị, mục tiêu, và cách hiểu của người ấy về cuộc sống. Có gì sai trật với tâm trí của người chưa được cứu? Về một phương diện, cách nghĩ của người ấy là “hư không” (vô ích). Nó không hướng đến một mục đích lớn lao nào cả. Vì cớ người ấy không biết Đức Chúa Trời, người ấy không thể nào thực sự hiểu được thế gian chung quanh mình, người ấy cũng không thể hiểu được chính mình.
Câu chuyện buồn thảm được thuật lại trong Rô 1:21-25. Thế giới ngày nay có sự tri thức rất lớn, nhưng có rất ít sự khôn ngoan thông sáng. Thoreau mô tả rất hay khi ông nói rằng chúng ta có “những phương tiện được cải tiến nhằm hướng đến những cứu cánh không được cải tiến.”
Cách suy nghĩ của người chưa được cứu thì hư không vì nó bị làm cho tối tăm. Người ấy cho rằng mình được soi sáng vì đã khước từ Kinh Thánh và tin những triết lý mới nhất, khi trong thực tế người ấy còn ở trong sự tối tăm. “Họ tự xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại” (Rô 1:22). Nhưng họ cho rằng mình khôn ngoan. Sa-tan đã làm mù lòng những kẻ chưa được cứu (IICôr 4:3-6) vì nó không muốn họ nhìn thấy chân lý trong Chúa Giê-xu Christ. Không phải đơn thuần là mắt họ bị làm cho mù đi để họ không thể nhìn thấy được, mà là ý tưởng họ bị làm cho tối tăm để họ không thể suy nghĩ đúng đắn về những vấn đề về tâm linh.
Dĩ nhiên, người chưa được cứu đã chết vì cớ sự ngu muội thuộc linh này. Chân lý và sự sống đi đôi với nhau. Nếu bạn tin chân lý của Đức Chúa Trời, thì bạn nhận được sự sống của Đức Chúa Trời. Nhưng bạn sẽ cho rằng người vô tín sẽ làm hết sức mình để thoát ra khỏi nỗi tuyệt vọng kinh khiếp về phần tâm linh. Than ôi, sự cứng cỏi của lòng người ấy trói buộc mình. Người ấy “không còn cảm xúc nữa” vì đã nộp mình cho tội lỗi đến mức tội lỗi cai trị người ấy. Xin hãy xem Rô 1:18-32 để hiểu thấu đáo hơn ba câu ngắn ngủi này.
Cơ-đốc nhân không thể lấy người chưa được cứu làm khuôn mẫu cho chính mình, vì Cơ-đốc nhân đã từng trải phép lạ của việc được sống lại từ kẻ chết. Đời sống của người ấy không hư không, nhưng đầy ý nghĩa. Tâm trí người ấy đầy dẫy ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời, và tấm lòng người ấy dư dật sự sống của Đức Chúa Trời.
Người ấy dâng thân thể mình cho Đức Chúa Trời như một đồ dùng của sự công bình (Rô 6:13), chớ không phải cho tội lỗi để thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của riêng mình. Về mọi mặt, người tín-đồ khác hẳn với người vô tín, và vì vậy lời khuyên răn ở đây là: “Chớ nên ăn ở như người ngoại đạo!”
2. Lập luận (Eph 4:20-24)
Phao-lô làm cho lời khuyên răn của mình thêm mạnh mẽ với một lập luận từ từng trải thuộc linh của độc giả ông. Một lần nữa ông nhấn mạnh đến tâm trí, hay cách nhìn, về người tín đồ. “Nhưng anh em học cho biết Đấng Christ thì chẳng phải như vậy” (c.20).
Ông không nói “học về Đấng Christ,” vì có thể học về Đấng Christ và rồi chẳng bao giờ được cứu cả. “Học cho biết Đấng Christ” có nghĩa là có một mối quan hệ cá nhân với Đấng Christ hầu cho bạn đạt đến chỗ biết Ngài càng nhiều hơn mỗi ngày. Tôi có thể học về Ngài Winston Churchill vì tôi có nhiều sách của ông ta và có thể tìm được sách vở về cuộc đời ông ta. Nhưng tôi không bao giờ có thể học cho biết ông ấy, vì ông đã chết rồi. Chúa Giê-xu Christ vẫn đang sống! Vì vậy, tôi có thể “học cho biết Đấng Christ” qua một mối tương giao riêng tư với Ngài.
Mối tương giao này dựa trên Lời của Đức Chúa Trời. Tôi có thể được dạy dỗ “chân lý” vì nó ở trong Chúa Giê-xu Christ. Càng hiểu Lời Đức Chúa Trời hơn, tôi càng hiểu biết Con Đức Chúa Trời hơn, vì cả Kinh Thánh là một sự mạc khải về Chúa Giê-xu Christ (Lu 24:27; Gi 5:39). Người chưa được cứu ngu muội về phần tâm linh, trong khi Cơ-đốc nhân thì thông sáng trong những điều thuộc Lời Đức Chúa Trời. Và người chưa được cứu không biết Đấng Christ, trong khi người tín đồ lớn lên trong sự thông biết Đấng Christ cách riêng tư mỗi ngày. Chúng ta đã tin chân lý chúng ta đã nhận được sự sống vì vậy, chúng ta sẽ bước đi “trong đường lối chân thật” chớ không sống theo mẫu mực của thế gian chưa được cứu.
Nhưng kinh nghiệm cứu rỗi này diễn biến sâu xa hơn điều này nhiều, vì nó đưa đến kết quả là một địa vị hoàn toàn mới trước mặt Đức Chúa Trời. Con người cũ (đời sống trước đây) đã được lột bỏ, và chúng ta giờ đây có thể bước đi trong đời sống mới qua Đấng Christ.
Các câu 22-24 là phần tóm ý của Rô 5:1-8:39, nơi mà Phao-lô giải bày sự đồng nhất hóa của người tín-đồ với Đấng Christ trong sự chết, sự chôn, và sự sống lại. Ông cũng đề cập đến điều này trong Eph 2:4-6, cũng như trong Côl 3:1-25. Là những Cơ-đốc nhân, chúng ta không chỉ biến đổi tâm trí của mình. Chúng ta đã thay đổi hoàn toàn quyền công dân của mình. Chúng ta là “người dựng nên mới” của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ (IICôr 5:17), và như vậy, những ý tưởng và ước muốn của con người cũ không còn cai trị đời sống chúng ta nữa.
Hình ảnh minh hoạ đơn giản nhất của chân lý vĩ đại này được ghi lại trong Gi 11:1-46, đó là sự sống lại của La-xa-rơ. La-xa-rơ, bạn hữu của Cứu Chúa chúng ta, đã ở trong phần mộ bốn ngày khi Chúa Giê-xu và các môn đệ Ngài đến làng Bê tha ni, và ngay cả Ma thê cũng thừa nhận rằng, cho đến bấy giờ, thân xác đang hư nát sẽ có mùi (Gi 11:39).
Nhưng Chúa Giê-xu phán Lời Đức Chúa Trời và La-xa-rơ sống lại bước ra, một hình ảnh minh hoạ của Gi 5:24. Hãy lưu ý câu nói tiếp theo của Chúa chúng ta, “Hãy mở cho người, và để người đi” (Gi 11:44). Hãy lột bỏ những vải liệm! La-xa-rơ không còn thuộc về sự thống trị cũ của sự chết, vì giờ đây ông đã sống lại. Tại sao lại đi khắp nơi trong những tấm vải liệm?Hãy cởi bỏ lốt người cũ và mặc lấy người mới!
Đây là lập luận của Phao-lô – bạn không còn thuộc về sự hư hoại của tội lỗi trước đây, bạn đã là người dựng nên mới trong Đấng Christ! Hãy lột bỏ những tấm vải liệm! Chúng ta làm điều này như thế nào? “Phải làm nên mới trong tâm trí mình” (c.23). Sự trở lại đạo là một bước quyết định dẫn đến một tiến trình.
Qua Đấng Christ, một lần đủ cả, chúng ta đã được ban cho một địa vị mới trong sự tạo dựng mới của Ngài, nhưng mỗi ngày, chúng ta phải bởi đức tin mà chiếm lấy những gì Ngài đã ban cho chúng ta. Lời của Đức Chúa Trời đổi mới tâm trí khi chúng ta dâng tất cả mọi điều mình có cho Ngài (Rô 12:1-2). “Xin Cha lấy chân lý khiến họ nên thánh lời Cha tức là chân lý” (Gi 17:17).
Khi tâm trí hiểu chân lý của Lời Đức Chúa Trời, nó được biến đổi dần bởi Đức Thánh Linh, và sự làm nên mới này dẫn đến một đời sống được thay đổi. Về thể chất, những thứ bạn ăn tạo nên con người bạn, nhưng về tâm linh, những gì bạn suy nghĩ tạo nên con người bạn. “Vì hắn tưởng trong lòng thế nào, thì hắn thể ấy” (Ch 23:7). Đây là lý do vì sao đối với chúng ta là những Cơ-đốc nhân việc dành thời giờ mỗi ngày suy ngẫm Lời Chúa, cầu nguyện, và tương giao với Đấng Christ thật quan trọng.
3. Sự ứng dụng (Eph 4:25-32)
Phao-lô không hài lòng khi chỉ giải bày một nguyên tắc và rồi bỏ mặc nó. Ông luôn áp dụng nguyên tắc đó vào những lãnh vực khác nhau của đời sống vốn cần cảm nhận năng quyền của nó. Phao-lô thậm chí dám kể tên các tội lỗi ra. Năm tội khác nhau được kể ra trong phần này, và Phao-lô bảo chúng ta tránh xa chúng và ông giải thích vì sao.
• Sự nói dối (Eph 4:25)
Một lời nói dối là một câu phát biểu trái ngược với sự thật, được nói ra nhằm để dối gạt. Nếu tôi nói với bạn bây giờ là giữa trưa, và rồi khám phá rằng đồng hồ của mình đi sai, thì tôi đã không nói dối. Nhưng nếu tôi nói giờ sai để rồi bạn bị trễ một cuộc họp và tôi sẽ được lợi qua việc đó, đó sẽ là một lời nói dối.
Sa-tan là một kẻ nói dối (Gi 8:44) và nó muốn chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời là một kẻ nói dối. “Mà chi, Đức Chúa Trời há có phán?” (Sa 3:1). Bất cứ khi nào chúng ta nói ra sự thật Thánh Linh của Đức Chúa Trời hành động, nhưng hễ khi nào chúng ta nói một lời giả dối, Sa-tan sẽ hành động.
Chúng ta thích tin rằng chúng ta giúp đỡ người khác bằng cách nói dối với họ, nhưng không phải như vậy. Chúng ta không thể nhìn thấy những hậu quả đau buồn ngay tức khắc, nhưng cuối cùng chúng sẽ xảy đến. “Các con biết rằng chẳng có sự dối trá nào bởi chân lý mà ra” (IGi 2:21). Địa ngục dành cho “những kẻ ưa thích cùng làm sự giả dối” (Kh 22:15). Điều này không có nghĩa là bất cứ ai từng nói một lời giả dối đều sẽ đi xuống địa ngục, nhưng đúng hơn là những ai có đời sống bị những sự dối trá thống trị – họ ưa thích những sự dối trá và họ tạo ra những sự dối trá – thì bị hư mất đời đời. Đời sống của Cơ-đốc nhân được cai trị bởi chân lý.
Hãy chú ý lý do Phao-lô nêu lên cho việc nói ra lẽ chân thật: Chúng ta thuộc về nhau trong Đấng Christ. Ông khuyên nài chúng ta gây dựng Thân thể trong sự yêu thương (Eph 4:16) và ông khuyên nài chúng ta gây dựng Thân thể trong chân lý. “Lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” (Eph 4:15). Làm “chi thể cho nhau” chúng ta ảnh hưởng lẫn nhau, và tách rời khỏi chân lý chúng ta không thể nào gây dựng lẫn nhau. Tội lỗi đầu tiên bị phán xét trong Hội thánh ban đầu là tội nói dối (Công 5:1-11).
• Sự giận dữ (Công 4:26-27) là một sự khơi dậy của cảm xúc do một điều gì đó khiến chúng ta không hài lòng gây ra. Tự nó, giận không phải là một tội lỗi, vì ngay đến Đức Chúa Trời cũng có thể giận dữ (Phu 9:8,20; Thi 2:12). Nhiều lần trong Cựu-ước câu này xuất hiện, “cơn giận của Đức Giê-hô-va” (Dan 25:4; Gie 4:8; Gie 12:13).
Cơn giận thánh khiết của Đức Chúa Trời là một phần của sự đoán phạt Ngài nghịch với tội lỗi, như được minh hoạ trong cơn giận của Chúa chúng ta khi Ngài dẹp sạch đền thờ (Mat 21:12-13). Kinh Thánh thường nói đến cơn giận “được khơi lên” (Sa 30:2; Phuc 6:15), như thể cơn giận có thể được ví sánh với lửa. Đôi lúc cơn giận của một người nung nấu, và điều này chúng ta sẽ gọi là sự hiểm độc nhưng cùng cơn giận đó có thể bất ngờ bộc phát và thiêu đốt, và điều này chúng ta sẽ gọi là sự thạnh nộ.
Thật khó mà chúng ta có được một sự giận dữ thực sự thánh khiết hoặc một sự phẫn nộ công bình vì những cảm xúc của chúng ta bị tội lỗi làm cho ô nhơ đi, và chúng ta không có sự hiểu biết giống như Đức Chúa Trời trong mọi vấn đề. Đức Chúa Trời nhìn thấy mọi việc cách rõ ràng và biết mọi sự cách trọn vẹn, còn chúng ta thì không. Nguyên tắc của Tân-ước dường như là người tín đồ cần phải nổi giận trước tội lỗi nhưng yêu thương đối với tội nhân. “Hỡi những kẻ yêu mến Đức Giê-hô-va, hãy ghét sự ác” (Thi 97:10).
Có thể chúng ta giận dữ trước nhiều điều mà chẳng phạm tội, nhưng nếu chúng ta có phạm tội, thì chúng ta phải giải quyết vấn đề nhanh chóng và chớ căm giận cho đến khi mặt trời lặn. “Hãy lập tức làm hoà với kẻ thù nghịch mình” (Mat 5:25). “Hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người” (Mat 18:15).
Ngọn lửa giận dữ, nếu không được dập tắt bởi sự tha thứ đầy yêu thương, sẽ lan rộng và làm ô uế và huỷ phá công việc của Đức Chúa Trời. Theo Chúa Giê-xu, sự giận dữ là bước đầu tiên đưa đến tội sát nhân (Mat 5:21-26), vì sự giận dữ cho ma quỉ một chỗ đứng trong đời sống chúng ta, và Sa-tan là một kẻ giết người (Gi 8:44).
Sa-tan ghét Đức Chúa Trời và con cái Ngài, và khi nó tìm thấy một tín-đồ có những tia giận dữ trong lòng, nó quạt những tia ấy lên, thêm dầu vào ngọn lửa, và gây ra vô số thiệt hại cho dân sự Đức Chúa Trời và Hội thánh của Đức Chúa Trời. Cả việc nói dối lẫn sự giận dữ “đều đem lại dịp tiện cho ma quỷ” (c.27).
Tôi được biết là cứ mỗi 35 cái chết tại thành phố Chicago thì có một vụ là giết người, và đa số những vụ giết người này liên quan tới họ hàng và bạn hữu. Chúng là điều mà pháp luật gọi là “những tội ác của sự giận dữ.” Hai người bạn sinh ra cãi cọ (thường là khi bài bạc), và một trong hai người nổi giận, rút súng hoặc dao ra, và giết chết bạn mình. Horace thật đúng khi ông nói, “Cơn giận là sự điên dại trong nhất thời.”
Một phụ nữ cố biện hộ cho tánh xấu của mình bằng cách nói, “Tôi nổi giận đùng đùng và rồi mọi sự đều qua đi thôi.”
“Vâng,” một người bạn đáp, “y hệt như một cây súng lục vậy – nhưng hãy nhìn vào sự thiệt hại còn để lại phía sau.”
“Bất cứ ai cũng có thể nổi giận,” Aristote đã viết. “Nhưng giận đúng người, đúng mức độ, đúng lúc, đúng lý do, và đúng cách – điều này quả không dễ.”
Sa-lô-môn có một kết luận hay: “Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm” (Ch 15:1).
• Việc trộm cắp (Ch 4:28) – “Các ngươi chớ trộm cắp” là một trong Mười Điều Răn, và khi Đức Chúa Trời ban điều răn ấy, Ngài thiết lập quyền tư hữu đối với tài sản. Một người có quyền dùng sức lực mình để kiếm thu nhập, giữ sự thu nhập đó và sử dụng nó theo như người ấy thấy là đúng. Đức Chúa Trời ban bố vô số luật lệ cho người Do-thái để bảo vệ tài sản của họ, và các nguyên tắc này đã trở thành một phần của luật pháp chúng ta ngày nay.
Việc trộm cắp đặc biệt là một tội của các nô lệ trong thời của Phao-lô. Thường thì họ không được chăm sóc chu đáo và luôn luôn thiếu thốn, và luật pháp hầu như không dành cho họ sự bảo vệ nào cả. Khi Phao-lô viết thư cho Tít, ông khuyên nài Tít hãy răn dạy các nô lệ chớ “trộm cắp” nhưng hãy trung thành với chủ mình (Tit 2:10). Nhưng không phải chỉ các nô lệ thôi, mà mọi công dân nói chung, là những người đã quen thói trộm cắp, vì Phao-lô viết cho những người tại Hội thánh Ê-phê-sô đã có nghề lương thiện để kiếm sống (Eph 4:28).
Giống y như Sa-tan là một kẻ nói dối và một kẻ giết người, nó cũng là một kẻ trộm.“Kẻ trộm chỉ đến để cướp giết và huỷ diệt” (Gi 10:10). Nó biến Giu-đa thành một tên trộm cắp (Gi 12:6) và nó sẽ làm điều tương tự đối với chúng ta nếu có thể được. Khi nó cám dỗ bà Ê-va, nó làm cho bà trở thành một kẻ trộm, vì bà đã hái trái cấm ăn. Và đến phiên bà, bà lại khiến A-đam thành một tên trộm. A-đam thứ nhất là một tên trộm và bị đuổi ra khỏi vườn Địa đàng, nhưng A-đam sau cùng, tức Đấng Christ, đã quay sang một tên trộm cướp và phán, “Hôm nay ngươi sẽ ở với Ta trong nơi Ba ra đi” (Lu 23:43).
Phao-lô thêm lý do vào lời khuyên răn này. Chúng ta cần phải nói ra lẽ chân thật vì chúng ta “làm chi thể cho nhau.” Chúng ta cần phải kiềm chế cơn giận của mình kẻo chúng ta “để cho ma quỷ nhân dịp.” Chúng ta cần phải làm việc, chớ không được trộm cắp, hầu cho chúng ta có thể “giúp cho kẻ thiếu thốn.” Bạn sẽ mong đợi Phao-lô nói rằng, “Hãy để người làm việc hầu cho người có thể chăm lo cho chính mình và không bị cám dỗ đi trộm cắp.”
Thay vào đó, Phao-lô nâng việc lao động của con người lên một mức độ cao hơn nhiều. Chúng ta làm việc để có thể giúp đỡ kẻ khác. Nếu chúng ta trộm cắp, chúng ta làm thương tổn những người khác vì vậy, chúng ta cần phải làm việc để chúng ta có thể giúp đỡ người khác.
Ngay cả sự lao động lương thiện cũng có thể trở nên một việc vị kỷ, và điều này Phao-lô cố tìm cách ngăn ngừa. Dĩ nhiên, chính quy tắc cơ bản trong Hội Thánh ban đầu là “nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa” (IITe 3:10). Một Cơ-đốc nhân biếng nhác ăn trộm của chính mình, của những người khác, và của Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên, Phao-lô không đang đề cập đến những tín đồ không thể làm việc vì cớ tật nguyền, mà đề cập đến những người không muốn làm việc.
Chính mình Phao-lô là một gương mẫu của sự chuyên cần làm việc, vì trong khi ông đang thiết lập các Hội Thánh địa phương, ông cũng đang làm nghề may trại. Mỗi thầy dạy luật Do-thái đều được dạy một nghề, vì, các thầy dạy luật nói, “Nếu các anh không dạy cho con mình một nghề, tức là các anh dạy nó trở thành một kẻ trộm.”
Những người Đức Chúa Trời kêu gọi trong Thánh Kinh đều đang bận rộn làm việc khi Chúa kêu gọi họ. Môi-se đang chăn chiên Ghê-đê-ôn đang đập lúa mì Đa-vít đang canh giữ bầy súc vật của cha mình và bốn môn đệ đầu tiên đều hoặc đang thả lưới hoặc đang vá lưới mình. Chính mình Chúa Giê-xu cũng là một người thợ mộc.
• Lời nói bại hoại (IITes 4:29) – Môi miệng và tấm lòng có liên quan nhau. “Bởi vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” (Mat 12:34). Chúng ta trông mong một sự đổi mới trong cách nói năng khi một người trở thành một Cơ-đốc nhân.
Thật thú vị khi truy nguyên từ môi miệng qua Sách Rô-ma và thấy được thế nào Đấng Christ tạo nên một sự khác biệt trong lời nói của một người. Môi miệng của một người có tội thì “đầy những lời nguyền rủa và cay đắng” (Rô 3:14) nhưng khi người ấy tin Đấng Christ, môi miệng người ấy vui mừng xưng “Chúa Giê-xu Christ là Chúa” (Rô 10:9-10).
Là một tội nhân bị kết án, miệng người ấy ngậm lại trước ngôi của Đức Chúa Trời (Rô 3:19) nhưng là một tín đồ, miệng người ấy được mở ra để ngợi khen Đức Chúa Trời (Rô 15:6). Hãy đổi mới tấm lòng và rồi bạn sẽ đổi mới cách nói năng của mình. Phao-lô chắc hẳn biết sự khác biệt, vì khi ông còn là một thầy dạy luật chưa được cứu, ông “hằng ngăm đe và chém giết môn-đệ của Chúa” (Công 9:1).
Nhưng khi ông tin Đấng Christ, một sự thay đổi đã xảy ra: “Vì này, người đương cầu nguyện” (Công 9:11). Từ “làm hại” (preying) đến “cầu nguyện” (praying) chỉ có một bước của đức tin!
Từ xấu (hay bại hoại, hư hỏng, thối nát), được dùng trong Mat 7:17-18, ám chỉ trái cây bị hư thối. Nó có nghĩa là “vật không có giá trị, xấu, hoặc hư thối.” Lời nói của chúng ta không cần phải “bẩn thỉu” mới xem là không có giá trị. Đôi lúc chúng ta đi cùng với đám đông người và cố tạo ấn tượng nơi người khác với sự kiện rằng mình không quá nghiêm khắc như họ nghĩ.
Phi-e-rơ có thể đã có lý do này trong đầu khi ông bị người tớ gái tố giác mình là một trong các môn-đệ của Đấng Christ. “Người bèn rủa mà thề rằng: Ta không biết người đó đâu” (Mat 26:74). Những sự ham muốn của đời sống cũ thỉnh thoảng lộ ra khi chúng ta cho phép “lời nói tục tỉu” ra từ miệng mình (Co 3:8). Hãy nhớ, trước khi được cứu, chúng ta sống trong sự chết về tâm linh (Eph 2:1-3), và, giống như La-xa-rơ, sự hư nát của con người chúng ta toát ra một thứ mùi khiến Đức Chúa Trời không đẹp lòng. Không có gì lạ khi Phao-lô đã viết, “Họng chúng nó như huyệt mả mở ra” (Rô 3:13).
Phương cách chữa trị là bạn phải biết chắc rằng lòng mình đầy sự chúc phước. Vậy hãy để sự yêu thương của Đấng Christ đổ đầy trong lòng hầu cho môi miệng mình chỉ có thể nói ra lẽ chân thật và sự thánh sạch mà thôi Không bao giờ cần phải nói.“Nào hãy nhận lấy điều này với một chút muối”.
Phao-lô khuyên chúng ta thêm muối của ân điển Đức Chúa Trời vào mọi điều mình nói. “Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối” (Côl 4:6). Và hãy ghi nhớ rằng lời nói của chúng ta có sức mạnh, hoặc hướng đến điều thiện hoặc nhằm vào điều ác. Phao-lô khuyên chúng ta phải nói năng sao cho những gì chúng ta nói sẽ gây dựng người nghe chớ không làm tổn thương họ.
Lời nói của chúng ta cần phải bày tỏ ân điển và giúp kéo những người khác đến gần Đấng Christ hơn. Sa-tan, dĩ nhiên, cổ vũ lời nói sẽ làm tổn thương người khác và huỷ phá công việc của Đấng Christ. Nếu bạn cần được nhắc nhở về năng quyền của lưỡi, xin đọc chương thứ ba của sách Gia-cơ.
• Sự cay đắng (Côl 4:30-32) – Những câu này cảnh cáo chúng ta trước tội lỗi của thái độ và bàn rộng thêm những điều Phao-lô viết về sự giận dữ. Sự cay đắng đề cập tới thái độ thù địch cố hữu làm thiệt hại cho người bề trong.
Một người nào đó làm một điều gì đó chúng ta không ưa thích, vì vậy chúng ta chứa chấp ý muốn xấu nghịch cùng người ấy. “Hởi kẻ làm chồng, hãy yêu vợ mình, chớ hề ở cay nghiệt với người” (Côl 3:19).
Sự cay đắng dẫn đến thạnh nộ, vốn là sự bùng nổ bên ngoài của những cảm xúc bên trong.
Sự thạnh nộ và giận dữ thường đưa đến việc cãi lẫy ầm ĩ (làm ồn ào to tiếng) hoặc những lời nói báng bổ (lời nói xấu, ác ý, hiểm độc).
Việc đầu tiên là đánh đấm nhau, việc thứ hai là chửi rủa nhau. Thật khó mà tin được rằng Cơ-đốc nhân sẽ hành động như thế, nhưng họ lại làm, và đây là lý do vì sao Phao-lô cảnh cáo chúng ta. “Kìa, anh em ăn ở hoà thuận nhau, thật tốt đẹp thay!” (Thi 133:1).
Một hôm nọ có một ông đứng tuổi đẹp lão bước vào phòng làm việc của tôi và hỏi xin tôi cử hành hôn lễ cho ông ta. Tôi đề nghị là ông đưa cô dâu đến để chúng tôi có thể trò chuyện với nhau và hiểu rõ nhau hơn, vì tôi ngần ngại khi phải làm lễ hôn phối cho những người lạ. Ông ấy nói, “Trước khi bà ấy đến, tôi xin được giải thích lễ cưới này với ông. Cả hai chúng tôi đều đã kết hôn trước đây – với nhau! Hơn ba mươi năm trước, chúng tôi có lần gây gỗ với nhau, tôi nổi giận, và chúng tôi ly thân. Rồi chúng tôi đã làm một việc ngu xuẩn là ly dị. Tôi cho rằng cả hai chúng tôi đều quá kiêu ngạo không chịu xin lỗi nhau. Thế là, trong suốt những năm tháng này chúng tôi đã sống một mình, và giờ đây chúng tôi thấy mình đã dại dột biết bao. Sự cay đắng của chúng tôi đã cướp đi những sự vui mừng trong đời sống, và giờ đây chúng tôi muốn tái kết hôn và xem thử liệu Chúa sẽ ban cho chúng tôi một vài năm hạnh phúc trước khi chúng tôi qua đời chăng.”
Lòng cay đắng và giận dữ, thường vì những điều nhỏ nhặt tầm thường, tàn phá gia đình, Hội thánh, và tình bè bạn.
Phao-lô nêu lên ba lý do vì sao chúng ta phải tránh sự cay đắng.
-Trước tiên, nó làm buồn lòng Đức Thánh Linh. Ngài sống trong Cơ-đốc nhân, và khi tấm lòng người ấy đầy cay đắng và giận dữ, Thánh Linh đau buồn. Bậc cha mẹ chúng ta biết chỉ một ít về cảm xúc này khi con cái chúng ta trong gia đình kình chống nhau. Đức Thánh Linh sung sướng nhất trong một bầu không khí đầy yêu thương, vui mừng, và bình an, vì những điều này là “trái của Thánh Linh” mà Ngài tạo nên trong đời sống chúng ta khi chúng ta vâng lời Ngài. Đức Thánh Linh không thể lìa bỏ chúng ta, vì Ngài đã đóng ấn chúng ta cho đến ngày mà Đấng Christ trở lại để đem chúng ta về với Ngài. Chúng ta không mất sự cứu rỗi của mình vì cớ những thái độ tội lỗi của chúng ta, nhưng chắc chắn chúng ta đánh mất sự vui mừng của sự cứu rỗi và sự đầy trọn của phước hạnh từ nơi Đức Thánh Linh.
-Thứ nhì, tội lỗi của chúng ta làm buồn lòng Đức Chúa Con, Đấng đã chết vì cớ chúng ta.
-Thứ ba, nó làm buồn lòng Đức Chúa Cha Đấng đã tha thứ chúng ta khi chúng ta tin Đấng Christ. Tại đây Phao-lô vạch đúng nguyên nhân căn bản của một thái độ cay đắng: Chúng ta không thể tha thứ người khác. Một tinh thần không tha thứ là sân chơi của ma quỷ, và chẳng bao lâu nó trở thành bãi chiến trường của Cơ-đốc nhân.
Nếu một người nào đó làm tổn thương chúng ta, hoặc cố ý hay vô tình, và chúng ta không tha thứ cho người ấy, thì chúng ta bắt đầu phát triển sự cay đắng bên trong, sẽ làm lòng chúng ta cứng cỏi hơn. Chúng ta cần phải có lòng mềm mại và nhân từ, nhưng thay vào đó chúng ta lại cứng lòng và cay đắng.
Thực ra, chúng ta không đang làm tổn thương người gây thương tổn cho mình đâu chúng ta chỉ đang làm thương tổn chính mình thôi. Sự cay đắng trong lòng khiến chúng ta đối xử với người khác theo cách Sa-tan đối xử với họ, trong khi chúng ta cần phải đối xử với người khác theo cách Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta. Bởi lòng nhân từ đầy ân điển của Ngài, Đức Chúa Trời đã tha thứ cho chúng ta, và chúng ta cần phải tha thứ cho nhau.
Chúng ta không tha thứ vì cớ lợi ích của chính mình, mặc dù chúng ta thật sự nhận được phước từ điều đó, hay thậm chí vì lợi ích của họ, mà là vì cớ Chúa Giê-xu. Học biết làm thế nào để tha thứ và quên là một trong những bí quyết của một đời sống Cơ-đốc phước hạnh.
Một lần nữa hãy xem xét lại những lý do của việc “bước đi trong sự thánh sạch”: Chúng ta là các chi thể của nhau Sa-tan muốn có được một chỗ đứng trong đời sống chúng ta chúng ta cần phải san sẻ với những người khác chúng ta cần phải gây dựng lẫn nhau và chúng ta không nên làm buồn lòng Đức Chúa Trời. Và, rốt lại thì, chúng ta đã được sống lại từ kẻ chết – vì vậy tại sao lại mặc những vải liệm? Chúa Giê-xu phán về bạn như Ngài đã phán về La-xa-rơ: “Hãy mở cho người, và để người đi! ”
8. BẮT CHƯỚC CHA CHÚNG TA (Eph 5:1-17)
Từ “những kẻ làm theo” trong câu 1 (bản K.J.V.) cũng có nghĩa là những kẻ bắt chước vì vậy câu này có thể dịch là: “Anh em hãy trở nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời như con cái rất yêu dấu của Ngài.” Điều này nêu lên chủ đề của phần này.
Phao-lô chỉ đang vạch rõ rằng con cái thì giống cha mẹ, là một thực tế có thể vừa khích lệ vừa gây bối rối cho những ai trong chúng ta có con cái. Bạn có bao giờ nhìn thấy một đứa bé ngồi ở ghế trước của một chiếc xe hơi, thử lái xe như cha của nó! Hoặc đi phía sau ông, giả bộ cắt cỏ chưa? Hoặc, tiếc thay, bắt chước Bố hút một điếu thuốc hay uống một ngụm rượu? Con cái có lẽ học biết bằng cách theo dõi và bắt chước nhiều hơn bất cứ cách nào khác.
Nếu chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, thì chúng ta cần phải bắt chước Cha mình.Đây là nền tảng của ba lời khuyên răn trong phần này. Đức Chúa Trời là sự yêu thương (IGi 4:8), vì vậy, “hãy bước đi trong sự yêu thương” (Eph 5:1-2). Đức Chúa Trời là sự sáng (IGi 1:5) vì thế, hãy bước đi như các con cái sáng láng (Eph 5:8). Đức Chúa Trời là chân lý (IGi 5:6) thế nên hãy bước đi trong sự khôn ngoan (Eph 5:15-17). Dĩ nhiên, mỗi điều trong những sự “bước đi” này là một phần trong lời cổ vũ của Phao-lô để bước đi trong sự thánh sạch.
1. Hãy bước đi trong sự yêu thương (Eph 5:1-2)
Lời khuyên răn này nối kết với hai câu cuối của chương trước nơi Phao-lô cảnh cáo chúng ta đối với sự cay đắng và giận dữ. Thật đau buồn khi những thái độ này xuất hiện trong gia đình của Đức Chúa Trời. Là một mục sư, tôi đã chứng kiến sự hiểm độc và cay đắng trong đời sống của nhiều người khi tôi cử hành tang lễ và cả đến hôn lễ nữa.
Bạn sẽ nghĩ rằng việc chia sẻ nỗi đau buồn của việc mất mát một người thân yêu, hay chia sẻ niềm vui của một cuộc hôn nhân, sẽ giúp người ta có thể tha thứ những điều sai trật trong quá khứ và cố gắng hòa thuận lại với nhau. Nhưng vấn đề không phải như vậy. Nó đòi hỏi một tình yêu thật sự trong tấm lòng, vì “tình yêu thương sẽ che đậy vô số tội lỗi” (IPhi 4:8).
Phao-lô nêu ra nhiều lý do vì sao Cơ-đốc nhân cần phải bước đi trong sự yêu thương.
Người ấy là con cái Đức Chúa Trời. Đã được sinh lại bởi đức tin trong Đấng Christ, vậy nên người ấy là một “kẻ dự phần bản tính thiên thượng” (IIPhi 1:4) và vì “Đức Chúa Trời là sự yêu thương” nên con cái Đức Chúa Trời sẽ bước đi trong sự yêu thương là điều phải lẽ. Khi Phao-lô khích lệ độc giả mình “hãy bước đi trong sự yêu thương,” ông không đang yêu cầu họ làm một điều gì đó xa lạ đối với đời sống Cơ-đốc vì chúng ta đã nhận lãnh một bản tính mới và bản tính này mong muốn được tự biểu lộ bằng tình yêu thương. Bản tánh cũ về cơ bản thì ích kỷ, và vì lý do này xây lên những bức tường và tuyên bố chiến tranh. Nhưng bản tính mới thì đầy yêu thương, và vì thế xây nên những chiếc cầu và công bố sự hòa bình.
Người ấy là con cái yêu dấu của Đức Chúa Trời. “Anh em hãy trở nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời như con cái rất yêu dấu của Ngài.” Hãy tưởng tượng, Đức Chúa Trời phán với chúng ta như cách Ngài đã phán với Chúa Giê-xu Christ: “Này là con yêu dấu của Ta” (Mat 3:17). Trên thực tế, Đức Chúa Cha yêu thương chúng ta như Ngài yêu thương Con Ngài (Gi 17:23).
Chúng ta được đặt vào trong mối quan hệ đầy yêu thương với Cha thiên thượng và kết quả của điều này là chúng ta phải bày tỏ lòng yêu mến đối với Ngài qua cách sống của mình. Đức Chúa Cha cũng đã có thể làm gì nữa để biểu lộ sự yêu thương của Ngài đối với chúng ta? Việc “bước đi trong sự yêu thương” để làm đẹp lòng Ngài có phải là đòi hỏi quá nhiều đối với chúng ta không?
• Người ấy đã được chuộc với một giá cao.
“Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình” (Gi 15:13). Nhưng Ngài đã phó sự sống mình vì cớ những kẻ thù nghịch với Ngài (Ro 5:10). Tình yêu thương của chúng ta dành cho Ngài là cách để chúng ta đáp lại sự yêu thương của Ngài đối với chúng ta.
Phao-lô so sánh sự hy sinh của Đấng Christ trên thập tự giá với những của tế lễ “có mùi thơm” được dâng nơi bàn thờ của đền thờ (Le 1:9,13,17 Le 2:9). Từ “có mùi thơm”bao hàm ý tưởng đơn giản là của lễ được đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Điều này không ám chỉ rằng Đức Chúa Trời hài lòng về việc tội lỗi đòi hỏi sự chết, hoặc việc Con Ngài phải chết để cứu những tội nhân hư mất. Đúng hơn, nó cho thấy rằng sự chết của Đấng Christ thoả mãn luật pháp thánh khiết của Đức Chúa Trời và vì vậy có thể chấp nhận được và đẹp lòng đối với Đức Chúa Cha.
Những của lễ có mùi thơm được mô tả trong Le 1:1-3:17 của lễ thiêu, của lễ chay, và của lễ thù ân.
-Của lễ thiêu làm hình bóng về sự phó dâng hoàn toàn của Đấng Christ cho Đức Chúa Trời.
-Của lễ chay, nói lên sự trọn vẹn của tính cách Ngài và của lễ thù ân, Ngài đem đến sự giảng hòa giữa tội nhân và Đức Chúa Trời.
-Vì của lễ chuộc tội và của lễ chuộc sự mắc lỗi (Le 4:1-5:19) làm hình bóng về việc Đấng Christ thế chỗ của tội nhân, chúng không được xem là những của lễ “có mùi thơm.” Chắc hẳn chẳng có gì tốt đẹp về tội lỗi cả!
Phao-lô bắt đầu với việc “hãy bước đi trong sự yêu thương” vì tình yêu thương là yếu tố căn bản trong đời sống Cơ-đốc nhân. Nếu chúng ta bước đi trong sự yêu thương, chúng ta sẽ không bất tuân Đức Chúa Trời hay làm tổn thương người khác vì “ai yêu kẻ lân cận mình ấy là đã làm trọn luật pháp” (Rô 13:8). Đức Thánh Linh đặt tình yêu thương này vào lòng chúng ta (Rô 5:5).
2. Hãy bước đi như các con cái sáng láng (Eph 5:3-14)
Vì “Đức Chúa Trời là sự sáng” và chúng ta đang bắt chước Cha chúng ta, vậy nên chúng ta cần phải bước đi trong sự sáng và không nên can dự gì với sự tối tăm của tội lỗi. Phao-lô nêu ba hình ảnh mô tả các tín-đồ để chứng minh quan điểm của mình.
• Chúng ta là các thánh-đồ (Eph 5:3-4).
Điều đó có nghĩa là, chúng ta là “những người được biệt riêng” và không còn thuộc về thế giới tối tăm chung quanh mình. Chúng ta đã được “gọi ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (IPhi 2:9).
Thật không xứng đáng với phẩm cách của một thánh đồ khi ham mê những tội lỗi thuộc về thế gian tối tăm, một số trong những tội đó được Phao-lô kể tên ở đây. Ông cảnh cáo chúng ta trước những tội lỗi về tình dục (gian dâm, ô uế) rất phổ biến thời bấy giờ – và phổ biến ngày nay nữa.
Tiếc thay, những tội lỗi này đã xâm nhập vào gia đình các Cơ-đốc nhân và đem lại sự đau đớn cho cả các Hội thánh địa phương nữa. “Sự tham lam” có thể dường như không đúng chỗ khi đặt kế bên sự gian dâm, nhưng hai tội này chỉ là những từ khác nhau mô tả sự yếu đuối giống nhau về căn bản của bản tính sa ngã – sự ham muốn không được kiềm chế.
Kẻ gian dâm và người tham lam thảy đều mong muốn thoả mãn sự thèm khát bằng cách chiếm hữu những gì không thuộc về họ. “Sự mê tham của xác thịt và sự mê tham của mắt” (IGi 2:16) mô tả hai tội lỗi này. Phao-lô đã nói, “Chớ có phạm dù một chút xíu nào trong những tội lỗi này.”
Trong câu 4 ông cảnh cáo chúng ta trước những tội lỗi của lưỡi, hẳn nhiên là những tội lỗi từ tấm lòng mà ra. Để thấy được mối quan hệ giữa những tội lỗi kể tên trong câu 3 và những tội trong câu 4 thật không khó. Những người có những sự ham muốn thấp hèn thường nuôi dưỡng một loại lời nói và ý thích thấp hèn, và thường thì những người muốn phạm những tội về tình dục, hoặc đã phạm những tội đó, ưa thích giễu cợt về chúng.
Hai điều biểu lộ tính cách của một người là những gì làm người ấy cười và những gì khiến người ấy khóc. Thánh đồ của Đức Chúa Trời chẳng thấy có điều gì khôi hài trong ngôn ngữ tục tỉu hay những lời giễu cợt. “Việc giả ngộ tầm phào” không có nghĩa là sự khôi hài vô hại mà đúng hơn là sự nói chuyện vô nghĩa làm hạ thấp con người và không chiếu sáng hay bày tỏ ân điển cho những kẻ nghe (Eph 4:29).
Phao-lô không đang lên án chuyện phiếm bởi lẽ việc nói nhiều rơi vào sự phân loại đó. Ông đang lên án việc giả ngộ tầm phào là việc không đạt tới mục đích tốt đẹp nào cả.
Việc giễu cợt dịch từ một chữ có nghĩa là “có thể xoay chuyển dễ dàng.” Điều này ám chỉ một loại người nào đó có tài nói chuyện có thể xoay chuyển bất cứ câu nói nào thành ra một lời giễu cợt thô tục. Có khả năng nói dí dỏm là một phước hạnh, nhưng khi nó gắn liền với một đầu óc bẩn thỉu hoặc một động cơ thấp hèn thì nó trở thành một sự rủa sả.
Có những người nhạy dí dỏm có thể làm vẩn đục bất cứ cuộc nói chuyện nào bằng những lời giễu cợt luôn luôn gây phiền phức (không đúng lúc). Thật tốt đẹp hơn biết dường nào khi chúng ta mau mắn trong sự cảm tạ! Đây chắc chắn là cách tốt nhất để tôn vinh Đức Chúa Trời và giữ cho cuộc trò chuyện được thánh sạch.
Một phụ nữ Cơ-đốc dự một bữa ăn tối kỷ niệm để tỏ lòng tôn kính đối với một người bạn, không hay biết rằng sẽ có một chương trình hài kịch rẻ tiền tiếp theo sau bữa ăn. Người được mệnh danh là diễn viên hài cố gắng làm cho đám đông giải khuây bằng sự hài hước thô tục làm hạ giá trị mọi điều mà vị khách Cơ-đốc cho là thiêng liêng và đáng tôn kính. Vào một lúc nọ trong chương trình, diễn viên hài bị khô cổ. Anh ta gọi một bồi bàn đến nói, “Làm ơn đem cho tôi một ly nước.”
Vào lúc đó người phụ nữ Cơ-đốc nói thêm, “Và mang cả một cái bàn chải đánh răng với một cục xà phòng nữa!” Hẳn nhiên, xà phòng trong miệng sẽ không bao giờ tẩy sạch câu chuyện được, nhưng bà nêu rõ quan điểm của mình.
Cơ-đốc nhân có Lời Đức Chúa Trời trong lòng (Côl 3:16) sẽ luôn nêm thêm muối vào lời nói của mình (Côl 4:6) vì ân hậu trong lòng có nghĩa là ân hậu trên môi miệng.
• Chúng ta là vua (Eph 5:5-6).
Khi chúng ta tin nhận Đấng Christ, chúng ta bước vào trong nước của Đức Chúa Trời (Gi 3:3) nhưng chúng ta cũng đang đợi chờ sự mạc khải đầy trọn của nước Ngài khi Ngài trở lại (IITi 4:1).
Phao-lô vạch rõ rằng những người cố tình và cứ miệt mài sống trong tội lỗi sẽ không được dự phần trong nước Đức Chúa Trời. “Hễ ai phạm những việc thể ấy thì không được hưởng nước Đức Chúa Trời” (Ga 5:21).
Từ ngữ Hy-lạp pornos cho chúng ta chữ pornography có nghĩa là “một người thực hành sự gian dâm – tình dục trái phép.” Những kẻ ô uế và tham lam về phương diện luân lý sẽ nhập chung với những kẻ gian dâm trong sự phán xét.
Phao-lô đặt sự tham lam ngang hàng với sự thờ hình tượng, vì đó là sự thờ lạy một điều gì khác hơn Đức Chúa Trời.
Những lời cảnh cáo này liên quan tới việc thường xuyên phạm tội, chớ không phải hành vi phạm tội thỉnh thoảng xảy ra. Đa-vít phạm tội tà dâm, thế nhưng Đức Chúa Trời tha thứ cho ông và một ngày kia đã đem ông về thiên đàng. Chắc hẳn Đa-vít bị sửa phạt vì cớ tội mình, nhưng ông không bị Đức Chúa Trời khước từ.
Vào thời của Phao-lô, có những Cơ-đốc nhân giả dối tranh cãi rằng tín đồ có thể sống trong tội lỗi và thoát khỏi hình phạt của nó. Những kẻ phỉnh gạt này có nhiều lý lẽ để thuyết phục các Cơ-đốc nhân không hiểu biết rằng họ có thể phạm tội lặp đi lặp lại nhiều lần và vẫn được vào nước Đức Chúa Trời.
“Anh em được cứu bởi ân điển!” họ biện luận. “Vì thế cứ phạm tội đi hầu cho ân điển Đức Chúa Trời được dư dật!” Phao-lô trả lời sự biện luận ngu dại đó trong Rô 6:1-23. “Tội lỗi trong đời sống một tín đồ khác hẳn với tội lỗi trong đời sống của một người chưa được cứu!” Đúng vậy – nó còn xấu xa hơn nữa! Đức Chúa Trời đoán phạt tội lỗi dù cho Ngài tìm thấy tội ấy nơi đâu, và Ngài không muốn tìm thấy nó trong đời sống của một trong các con cái của chính Ngài. Cá nhân tôi tin rằng không một Cơ-đốc nhân chân thật nào có thể bị hư mất cả, nhưng người ấy sẽ chứng tỏ sự thực hữu của đức tin mình bằng một đời sống vâng lời.
Có nhiều giáo sư không phải là những sở hữu chủ (Mat 7:21-23). Một Cơ-đốc nhân không phải là không có tội (sinless), nhưng người ấy thực sự phạm tội ít hơn (sin less)– và ngày càng ít hơn – và càng ít hơn! Cơ-đốc nhân là một vị vua, và thật không xứng đáng với phẩm cách của người ấy khi ham mê những lề thói của thế gian hư mất vốn ở ngoài vương quốc của Đức Chúa Trời.
• Chúng ta là sự sáng (Eph 5:7-14).
Hình ảnh này là sự đột phá chính yếu của đoạn này, vì Phao-lô đang khuyên răn độc giả của ông “hãy bước đi trong sự sáng.” Bạn sẽ mong muốn đọc IICôr 6:14-7:1 để có một đoạn văn tương đương giải thích sự trái ngược hiện hữu giữa con cái Đức Chúa Trời với người chưa được cứu.
Phao-lô không nói rằng chúng ta “ở trong sự tối tăm,” mà là chúng ta “đương còn tối tăm.” Giờ thì chúng ta đã được cứu, “Sự sáng với sự tối tăm có thông đồng gì với nhau được chăng?” Rốt lại thì, sự sáng sinh ra bông trái, nhưng những việc làm của sự tối tăm thì không kết quả đối với những điều thuộc linh.
“Vì trái của Thánh Linh (hoặc “sự sáng láng”) ở tại mọi điều nhân từ, công bình và thành thật.” Không thể nào cùng một lúc lại vừa ở trong sự tối tăm cũng vừa ở trong sự sáng được!
Sự sáng sinh ra “sự nhân từ, ” là một biểu hiện của trái Thánh Linh (Ga 5:22). Nhơn từ là “yêu thương bằng hành động.” Công bình nghĩa là có đặc tính ngay thẳng, phải lẽ trước mặt Đức Chúa Trời và có những hành vi đúng đắn, phải lẽ đối với con người. Cả hai phẩm chất này đều dựa trên lẽ thật, là điều phù hợp với Lời Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài.
Chúa Giê-xu phán dạy nhiều điều về sự sáng và sự tối tăm.
“Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Mat 5:16).
“Bởi vì phàm ai làm ác thì ghét sự sáng và không đến cùng sự sáng, e rằng công việc của mình phải trách móc chăng. Nhưng kẻ nào làm theo chân lý thì đến cùng sự sáng, hầu cho các việc của mình được bày tỏ ra, vì đã làm trong Đức Chúa Trời.” (Gi 3:20-21).
“Bước đi trong sự sáng” có nghĩa là sống trước mặt Đức Chúa Trời, không giấu giếm chi cả. Tương đối dễ khi che giấu mọi sự với những người khác vì họ không thể nhìn thấy được tấm lòng và tâm trí của chúng ta “nhưng tất cả mọi sự thảy đều trần trụi và lộ ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải thưa lại” (Heb 4:13). Mỗi lần tôi đáp máy bay đi dự một cuộc hội họp, tôi phải để bộ phận kiểm tra rà soát lại trên người tôi và hành lý, và tôi vui mừng khi làm điều này, vì sự kiểm tra này giúp phát hiện ra bom. Tôi không hề e sợ khi đi qua “hệ thống thăm dò” hay đưa hành lý mình qua hệ thống x quang, vì tôi không có gì để giấu giếm cả.
Một tác giả nọ xin phép Charles Spurgeon để viết tiểu sử cuộc đời ông, và nhà truyền đạo vĩ đại đáp, “Ông có thể viết cuộc đời tôi trên các tầng trời – tôi không có gì để giấu kín cả!”
Nhưng việc bước đi “như các con cái sáng láng” cũng có nghĩa là bày tỏ sự sáng của Đức Chúa Trời trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Qua tính cách và lối cư xử của chúng ta, chúng ta đem sự sáng của Đức Chúa Trời vào một thế giới tối tăm.
Là những ngọn đèn của Đức Chúa Trời, chúng ta giúp đỡ người khác tìm ra con đường dẫn đến cùng Đấng Christ. Tâm trí của người chưa được cứu bị Sa-tan làm cho mù lòa đi (IICôr 4:3-4) và bị tội tỗi làm cho tối tăm (Eph 4:17-19). Chỉ khi chúng ta làm chứng và chia sẻ Đấng Christ thì sự sáng mới có thể chiếu rọi vào.
Y như một người mạnh khoẻ có thể giúp đỡ cho người đau yếu, cũng vậy một con cái Đức Chúa Trời có thể dẫn dắt những kẻ hư mất ra khỏi nơi tối tăm vào trong sự sáng lạ lùng của Đức Chúa Trời.
Sự sáng bày tỏ Đức Chúa Trời sự sáng sinh ra bông trái nhưng sự sáng cũng phơi bày điều sai trật. Không nhà phẫu thuật nào ưa thích giải phẫu trong bóng tối e rằng mình sơ suất lỡ tay thì sẽ mất một mạng người. Làm thế nào một hoạ sĩ có thể vẽ một bức tranh xác thực trong bóng tối được?
Sự sáng bày tỏ chân lý và phơi bày đặc tính trung thực của mọi vật. Điều này giải thích vì sao người chưa được cứu tránh xa Hội thánh và Kinh Thánh. Sự sáng của Đức Chúa Trời bày tỏ đặc tính thật của người ấy, và sự phơi bày đó không có gì đáng phải ngợi khen cả. Khi Cơ-đốc nhân chúng ta bước đi trong sự sáng, chúng ta khước từ thông công với sự tối tăm, và chúng ta phơi bày những việc tối tăm của tội lỗi đúng với thực chất của chúng.
“Ta là sự sáng đã đến thế gian,” Chúa Giê-xu phán (Gi 12:46). Ngài cũng phán cùng các môn-đệ, “Các ngươi là sự sáng của thế gian” (Mat 5:14). Khi Ngài còn tại thế, sự trọn vẹn của tính chất và đạo đức của Ngài phơi bày tình trạng tội lỗi của những người chung quanh Ngài. Đây là một nguyên do vì sao những nhà lãnh đạo tôn giáo ghen ghét Ngài và tìm cách tiêu diệt Ngài.
“Nếu Ta không đến và không phán dạy họ, thì họ chẳng có tội lỗi gì nhưng bây giờ họ không có thể chữa chối được tội lỗi mình” (Gi 15:22). Giống y như một người khoẻ mạnh vô tình phơi bày những sự tật nguyền và bệnh hoạn của những người mình đến thăm tại một bệnh viện, cũng vậy Cơ-đốc nhân phơi bày sự tối tăm và tội lỗi chung quanh mình chỉ bởi việc sống như một Cơ-đốc nhân.
Phao-lô khuyên chúng ta sống đời sống có sự cân bằng – về mặt tích cực, bước đi trong sự sáng, về mặt tiêu cực, tố cáo và phơi bày tình trạng xấu xa của những kẻ sống trong tối tăm. Chỉ phơi bày tình trạng xấu xa của những người ở trong sự tối tăm thì không đủ. Chỉ phơi bày tội lỗi cũng không đủ. Chúng ta phải kết quả nữa.
Nhưng câu 12 cho chúng ta một sự thận trọng. Hãy cẩn thận cách bạn đối phó với “những công việc vô ích của sự tối tăm.” Khẩu hiệu ngày nay dường như là “Hãy diễn đạt nó cách trung thực!” Thế nhưng đó có thể là một cách xử sự nguy hiểm khi nó tiến đến chỗ phơi bày những điều ô uế của sự tối tăm, e rằng chúng ta vô tình quảng cáo và đề cao tội lỗi.
Phao-lô nói, “vì dầu nói đến điều mà những người đó làm cách kín giấu, cũng đã là hổ thẹn rồi” (Eph 6:12). Một số nhà truyền đạo ưa thích say sưa với những điều tạo nên cảm xúc mạnh nơi người nghe, thật nhiều để các bài giảng của họ khơi dậy những sự ham muốn và đem đến cho những người đơn sơ nhiều kiến thức hơn điều họ cần. “Nhưng tôi mong rằng anh em khôn ngoan về điều lành, và thanh sạch đối với điều dữ” (Rô 16:19).
Tôi nhớ lại một người bạn trong công tác thanh niên. Người bạn này cảm thấy cần thiết phải đọc tất cả những gì lứa tuổi thiếu niên đang đọc “để có thể hiểu rõ chúng hơn,” và nó đã làm vẩn đục tâm trí ông ta đến nỗi bản thân ông đã rơi vào tội lỗi. Người tín-đồ không cần thiết phải thực hiện một cuộc xét nghiệm tử thi đang mục rữa để phơi bày sự mục nát của nó. Tất cả điều người ấy phải làm là bật đèn lên! “Phàm điều chi đã tỏ ra thì trở nên sự sáng vậy” (Eph 5:13).
Khi bạn nghĩ đến sự sáng, bạn nghĩ đến việc thức dậy vào một ngày mới, và Phao-lô mô tả bức tranh này (c.14), diễn giải Es 60:1. Bạn có hình ảnh tương tự trong Rô 13:11-13 và ITes 5:1-10. Buổi sáng Phục sinh ấy, khi Đấng Christ sống lại từ kẻ chết, là buổi bình minh của một ngày mới cho thế giới.
Cơ-đốc nhân không đang ngủ trong tội lỗi và sự chết. Chúng ta đã được sống lại từ kẻ chết bởi đức tin nơi Ngài. Sự tối tăm của phần mộ đã qua rồi, và giờ đây chúng ta đang bước đi trong ánh sáng của sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi là khởi đầu của một ngày mới, và chúng ta cần phải sống như những kẻ thuộc về sự sáng, chớ không thuộc về sự tối tăm. “Hỡi La-xa-rơ, hãy bước ra!”
Người tín-đồ không có phần gì trong sự tối tăm. Người ấy là một thánh-đồ, có nghĩa là người ấy là một người dự phần “cơ nghiệp của các thánh trong sự sáng” (Côl 1:12). Người ấy là một vị vua, vì người ấy đã được giải thoát “quyền của sự tối tăm” và đã được dời “qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” (Côl 1:13). Người ấy là “người sáng láng trong Chúa” (Eph 5:8).
3. Hãy bước đi trong sự khôn ngoan (Eph 5:15-17)
Từ circumspect (thận trọng) ra từ hai từ ngữ La tinh có nghĩa là “nhìn quanh.” Từ Hy-lạp mang ý tưởng của sự đúng đắn và tính chính xác. Ý nghĩa của câu này là “Hãy chắc chắn là bạn bước đi cách cẩn trọng, với sự chính xác.” Điều ngược lại là bước đi cách cẩu thả và không có sự dẫn dắt và đắn đo cân nhắc đúng đắn.Chúng ta không thể bỏ mặc đời sống Cơ-đốc cho số phận. Chúng ta phải có những quyết định khôn ngoan và cố gắng làm theo ý muốn Đức Chúa Trời.
Các câu 14,15 có liên hệ nhau. Phao-lô hình như muốn nói, “Đừng bước đi khi bạn đang ngủ! Hãy thức dậy! Hãy mở mắt ra! Hãy lợi dụng thì giờ!” Thật đáng buồn khi nhìn thấy nhiều người tự xưng là Cơ-đốc nhân “lênh đênh” trong biển đời, như những người mộng du, chưa bao giờ lợi dụng các cơ hội để sống cho Đấng Christ và hầu việc Ngài. Phao-lô trình bày nhiều nguyên do vì sao chúng ta cần phải đúng đắn và cẩn trọng trong cuộc sống mình.
• Đó là một dấu hiệu của sự khôn ngoan (Eph 5:15).
Chỉ có kẻ ngu dại mới bị sóng gió cuốn trôi đi. Một người khôn ngoan vạch ra đường đi của mình, giương buồm lên, và điều khiển bánh lái cho tới khi người ấy đến được nơi mình muốn đến. Khi một người muốn xây một ngôi nhà, người ấy trước hết vẽ các đồ án để biết được mình sẽ làm gì.
Thế nhưng, có bao nhiêu Cơ-đốc nhân hoạch định các ngày của mình để tận dụng các cơ hội mình có cách khôn ngoan? Đúng vậy, chúng ta không thể biết một ngày có thể đem lại điều gì (Gia 4:13-17). Cũng đúng là một đời sống có hoạch định có thể xử lý những biến cố bất ngờ tốt đẹp hơn. Có người đã nói, “Khi viên hoa tiêu không biết mình đang hướng đến cảng nào, thì không luồng gió nào là luồng gió thích hợp cả.”
Đời sống ngắn ngủi (Gia 5:16). “Lợi dụng cơ hội – tận dụng nó.” Một câu ngạn ngữ xưa của Trung Hoa nói rằng, “Khi gặp cơ hội bạn có thể nắm bắt lấy nó. Một khi nó đã qua đi thì bạn không thể nào bắt lấy nó một lần nữa được.” Từ cơ hội (opportunity) trong tiếng Anh ra từ tiếng La-tinh và có nghĩa là “hướng đến cảng.” Nó ám chỉ một con tàu lợi dụng gió và thuỷ triều để đến cảng an toàn. Sự ngắn ngủi của đời sống là một lý lẽ mạnh mẽ để chúng ta tận dụng những dịp tiện Đức Chúa Trời ban cho mình.
• Những ngày là xấu (Gia 5:16).
Vào thời của Phao-lô, điều này có nghĩa là sự bắt bớ của người La Mã đang diễn ra (IPhi 4:12-19). Thật dại dột biết bao khi để lỡ những cơ hội giành lấy những linh hồn hư mất vì chẳng bao lâu khi tội lỗi trong xã hội càng gia tăng thì những cơ hội này có thể sẽ không còn nữa! Nếu những ngày là xấu khi Phao-lô viết bức thư này thì tình trạng của những ngày hiện nay sẽ ra sao?
Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một tâm trí (IPhi 5:17). “Hiểu rõ” ám chỉ việc sử dụng tâm trí của chúng ta để khám phá và làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Quá nhiều Cơ-đốc nhân cho rằng việc khám phá ý muốn Đức Chúa Trời là một từng trải bí ẩn khiến loại trừ sự suy nghĩ rõ ràng dễ hiễu.
Nhưng ý tưởng này sai trật – và nguy hiểm. Chúng ta khám phá ý muốn Đức Chúa Trời khi Ngài đổi mới tâm trí chúng ta (Rô 12:1-2) và sự đổi mới này là kết quả của Lời Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện, sự suy ngẫm, và sự thờ phượng.
Nếu Đức Chúa Trời ban cho bạn một tâm trí, tức Ngài mong bạn sử dụng nó. Điều này có nghĩa là việc học biết ý muốn Đức Chúa Trời bao gồm việc thu thập các dữ kiện, xem xét chúng, cân nhắc chúng, và cầu xin sự khôn ngoan của Ngài (Gia 1:5). Đức Chúa Trời không muốn chúng ta chỉ biết ý muốn của Ngài thôi Ngài muốn chúng ta hiểu rõ ý muốn của Ngài nữa.
• Đức Chúa Trời có một chương trình cho đời sống chúng ta (Gia 5:17).
Phao-lô đã nói đến chương trình này (Eph 2:10). Nếu Đức Chúa Trời cứu tôi, thì Ngài có một mục đích cho đời sống của tôi, và tôi cần phải khám phá mục đích đó và rồi lèo lái cuộc đời mình theo mục đích đó. Ngài bày tỏ chương trình của Ngài qua Lời Ngài (Côl 1:9-10), qua Thánh Linh Ngài trong lòng chúng ta (Côl 3:15), và việc tác động của hoàn cảnh (Rô 8:28).
Cơ-đốc nhân có thể bước đi cách cẩn trọng và đúng đắn vì người ấy biết Đức Chúa Trời muốn mình làm gì. Giống như người thợ xây làm theo bản thiết kế, người ấy thực hiện những gì viên kiến trúc sư đã vạch ra.
Điều này hoàn tất phần chúng ta gọi là “Hãy bước đi trong sự Thanh sạch.” Điểm cần nhấn mạnh là đời sống mới tương phản với đời sống cũ, bắt chước Đức Chúa Trời chớ không làm theo thế gian xấu xa chung quanh chúng ta. Trong phần kế tiếp “Hãy bước đi trong sự hòa thuận,” Phao-lô đề cập tới những mối quan hệ trong cuộc sống và cho thấy đời sống trong Đấng Christ có thể đem thiên đàng đến với gia đình chúng ta ra sao.
9. THIÊN ĐÀNG TRONG GIA ĐÌNH BẠN (Eph 5:18-33)
Charles Haddon Spurgeon đã nói, “Khi gia đình được dạy dỗ theo Lời Đức Chúa Trời, thì các thiên sứ có thể được mời ở lại với chúng ta, và họ sẽ không thấy chính mình bị lạc lỏng trong môi trường đó.”
Vấn đề là nhiều gia đình không được cai quản bởi Lời Đức Chúa Trời – kể cả những gia đình mà các thành viên đang tự xưng là những Cơ-đốc nhân – và hậu quả thật thảm hại. Thay vì các thiên sứ là những vị khách mời trong một số gia đình, thì dường như ma quỉ đang làm chủ. Cứ ba cuộc hôn nhân là có một cuộc kết thúc tại toà án ly hôn, và không ai biết bao nhiêu cặp vợ chồng về mặt tình cảm đã ly dị nhau mặc dù họ vẫn ở chung một địa chỉ.
Nhà thơ William Cowper gọi gia đình là “niềm hạnh phúc duy nhất của Thiên đàng còn tồn tại sau khi loài người Sa ngã,” nhưng quá nhiều gia đình là một tiền đồn của Địa ngục thay vì là một vùng đất của Thiên đàng.
Lời giải đáp là Thánh Linh của Đức Chúa Trời! Chỉ bởi năng quyền của Đức Thánh Linh chúng ta mới có thể bước đi trong sự hoà thuận giữa vợ với chồng (Eph 5:22-23), cha mẹ với con cái (Eph 6:1-4), và chủ với tớ (Eph 6:5-9). Sự hiệp nhất của con cái Đức Chúa Trời mà Phao-lô mô tả (Eph 4:1-16) phải được đem vào nếp sống hàng ngày nếu chúng ta muốn tận hưởng sự hoà thuận vốn là một sự nếm trước của thiên đàng trên đất.
1. Đầy dẫy Đức thánh Linh (Eph 5:18)
C.18 “Hãy đầy dẫy Đức Thánh Linh” là mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và Ngài mong đợi chúng ta vâng theo. Mạnh lệnh này ở số nhiều, vì thế nó áp dụng cho mọi Cơ-đốc nhân chớ không chỉ dành riêng cho một số ít người được lựa chọn. Động từ ở thì hiện tại – “hãy tiếp tục đầy dẫy Đức Thánh Linh” – và vì thế đó là một từng trải chúng ta cần phải tận hưởng mỗi ngày chớ không phải chỉ vào những dịp đặc biệt.
Và, động từ ở thể thụ động. Chúng ta không tự đổ đầy chính mình nhưng để Đức Thánh Linh đổ đầy chúng ta. Động từ “đổ đầy” không liên quan gì đến nội dung hay số lượng, như thể chúng ta là những chiếc thuyền khô cạn cần một số lượng nhiên liệu thuộc linh cần thiết để tiếp tục chạy.
Trong Kinh Thánh, được đổ đầy có nghĩa là “được điều khiển (làm chủ, kiểm soát) bởi.” “Họ . . . đầy sự tức giận” (Lu 4:28) có nghĩa là “họ bị sự tức giận điều khiển” và vì lý do đó đã cố gắng giết Chúa Giê-xu. “Những người Giu-đa đầy lòng ghen ghét” (Công 13:45) có nghĩa là những người Giu-đa bị điều khiển bởi sự ghen ghét và chống nghịch lại chức vụ của Phao-lô và Ba-na-ba.
Được “đổ đầy Đức Thánh Linh” có nghĩa là thường xuyên được Đức Thánh Linh làm chủ trong tâm trí, tình cảm, và ước muốn của chúng ta.
Khi một người tin nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình, người ấy lập tức được Đức Thánh Linh báp têm vào trong Thân thể Đấng Christ (ICôr 12:13). Không nơi nào trong Tân-ước chúng ta được truyền dạy là phải được báp-têm bởi Thánh Linh, vì đây là một kinh nghiệm một lần đủ cả diễn ra khi tiếp nhận Chúa.
Khi Đức Thánh Linh giáng lâm vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ được báp-têm bằng Đức Thánh Linh và do đó Thân thể Đấng Christ được hình thành (Công 1:4-5). Nhưng họ cũng được “đổ đầy bởi Đức Thánh Linh” (Công 2:4), và chính việc đổ đầy này đã ban cho họ năng quyền họ cần đến để làm chứng cho Đấng Christ (Công 1:8).
Trong Công 2:1-47, các tín đồ người Do-thái được báp têm bởi Thánh Linh, và trong Công 10:1-48 các tín-đồ gốc dân ngoại có kinh nghiệm tương tự (Công 10:44-48; Công 11:15-17). Vì thế Thân thể Đấng Christ đã được lập nên bởi cả người Do-thái lẫn các dân ngoại (Eph 2:11-22). Phép báp-têm có tính cách lịch sử đó, trong hai giai đoạn, không hề được lặp lại nữa cũng như biến cố Thập tự giá không hề được lặp lại.
Nhưng phép báp-têm đó được làm cách cá nhân khi tội nhân tin nhận Đấng Christ và Thánh Linh ngự vào lòng để khiến người ấy trở nên một chi thể trong Thân Đấng Christ. Phép báp-têm bởi Đức Thánh Linh có nghĩa là tôi thuộc về Thân thể của Đấng Christ. Việc đầy dẫy Đức Thánh Linh có nghĩa là thân thể tôi thuộc về Đấng Christ.
Chúng ta thường nghĩ đến năng quyền của Thánh Linh là cần thiết cho việc giảng dạy và làm chứng, và điều này đúng. (Công 4:8,31; Công 6:3,5; Công 7:55; Công 13:9. Các sứ-đồ đã từng trải những việc đổ đầy nhiều lần sau kinh nghiệm ban đầu vào ngày lễ Ngũ Tuần đó.
Nhưng Phao-lô đã viết rằng sự đầy dẫy Thánh Linh cũng cần thiết tại gia đình nữa. Nếu gia đình chúng ta muốn là một thiên đàng trên đất, thì chúng ta phải được Đức Thánh Linh làm chủ. Nhưng làm thế nào một người có thể nói rằng mình được đầy dẫy Thánh Linh hay không?
Phao-lô nêu lên rằng có ba bằng chứng của sự đầy dẫy Thánh Linh trong đời sống của người tín-đồ: người ấy đầy sự vui mừng (c.19), đầy lòng tạ ơn (c.20), và biết vâng phục (c.21-23). Phao-lô không nói gì về phép lạ hay tiếng lạ, hay những biểu lộ đặc biệt nào khác. Ông nêu rằng gia đình có thể là một thiên đàng trên đất nếu mỗi thành viên trong gia đình được Thánh Linh làm chủ, và đầy sự vui mừng, lòng tạ ơn, và biết vâng phục.
2. Đầy sự vui mừng (Eph 5:19)
Sự vui mừng là một bông trái của Thánh Linh (Ga 5:22). Sự vui mừng của Cơ-đốc nhân không phải là một cảm xúc hời hợt, giống như một hàn thử biểu, lên xuống với bầu không khí hay thay đổi của gia đình. Đúng hơn, sự vui mừng của Cơ-đốc nhân là một từng trải sâu xa của sự đầy đủ và tin cậy bất chấp hoàn cảnh chung quanh chúng ta ra sao.
Cơ-đốc nhân có thể vui mừng ngay cả trong lúc đau đớn và chịu khổ. Loại vui mừng này không phải là một hàn thử biểu mà là một máy điều nhiệt.Thay vì lên xuống với hoàn cảnh, nó quyết định nhiệt độ thuộc linh của hoàn cảnh. Phao-lô diễn tả rất hay khi ông viết, “Tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thoả lòng ở vậy” (Phi 4:11).
Để minh họa sự vui mừng này, Phao-lô dùng từng trải quen thuộc của sự say rượu:“Đừng say rượu . . . nhưng hãy đầy dẫy Đức Thánh Linh” (c.18). Khi các tín-đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần được đầy dẫy Thánh Linh, đoàn dân đông lên án họ là bị say rượu mới (Công 2:13-15). Họ thật sự vui mừng đến độ những kẻ vô tín không thể nghĩ đến sự so sánh nào hay hơn nữa.
Nhưng một số bài học thực tiễn có thể được rút ra từ sự so sánh này. Đầu tiên, kẻ say rượu ở dưới sự điều khiển của một thế lực khác, vì rượu thực ra là một thứ thuốc giảm đau. Người ấy có cảm giác được giải thoát rất mạnh mẽ – tất cả những phiền muộn của người ấy đều tan biến đi. Người ấy có thể “gây sự với bất cứ ai ở trong nhà!” Kẻ say rượu không xấu hổ khi bộc lộ chính mình (mặc dầu những gì người ấy nói và làm đều đáng hổ thẹn), người ấy cũng không thể che giấu những gì đang diễn ra trong đời sống mình.
Hãy chuyển bức tranh này sang người tín đồ được đầy dẫy Thánh Linh. Đức Chúa Trời làm chủ đời sống người ấy, và người ấy kinh nghiệm một sự vui mừng sâu xa mà người ấy không ngần ngại biểu lộ để tôn vinh Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên, kẻ say rượu quả thật là không tự kiểm soát được, vì rượu ảnh hưởng đầu óc người ấy, trong khi người tín-đồ kinh nghiệm một sự tiết độ tốt đẹp vốn thực sự là Đức Chúa Trời đang làm chủ. Sự tiết độ là bông trái của Thánh Linh (Ga 5:23). “Tâm thần của các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri” (ICôr 14:32). Kẻ say rượu làm cho mình ra ngu dại, nhưng Cơ-đốc nhân đầy dẫy Thánh Linh tôn vinh Đức Chúa Trời và sẵn lòng trở nên một “kẻ ngu dại vì cớ Đấng Christ” (ICôr 4:10). Kẻ say rượu khiến người khác chú ý đến chính mình, trong khi người tín-đồ đầy dẫy Thánh Linh là một chứng nhân cho Đấng Christ.
Hẳn nhiên không khó khi sống hay làm việc với một người được đầy dẫy Thánh Linh và sự vui mừng. Người ấy có một bài ca trong lòng mình và trên môi miệng mình. Kẻ say rượu thường ca hát, nhưng những bài hát của người ấy chỉ bộc lộ sự bại hoại trong lòng người ấy. Bài hát của Cơ-đốc nhân đầy dẫy Thánh Linh đến từ Đức Chúa Trời, một bài hát người ấy không bao giờ có thể hát nếu không bởi năng quyền của Thánh Linh. Đức Chúa Trời cũng ban cho chúng ta những bài ca trong ban đêm (Thi 42:8). Bất chấp sự đau đớn và tủi nhục, Phao-lô và Si la đã có thể hát những lời ngợi khen dâng lên Đức Chúa Trời trong ngục tù ở thành Phi líp (Công 16:25), và kết quả là sự trở lại đạo của người cai ngục và gia đình ông. Tất cả họ đã có được một thì giờ vui sướng biết bao vào giờ phút nửa đêm đó – và họ không cần phải say rượu để tận hưởng sự vui mừng ấy!
“Quán rượu trong khu phố của bạn là nơi thân thiện nhất trong thành phố này!” Khẩu hiệu đó xuất hiện trong tiêu đề của một phụ trang báo đặc biệt trong suốt “Tháng Quán rượu Quốc gia,” vì thế tôi quyết định thử tính xác thực của nó. Tôi để ý xem báo suốt nhiều tuần lễ và cắt ra những mẫu tin liên quan tới các quán rượu – và tất cả những mẩu tin này đều có liên hệ tới những vụ cãi lộn và giết người.
Nơi thân thiện nhất trong thành phố! Nhưng tiêu đề này nhắc nhở tôi rằng những người nhậu nhẹt chung với nhau thường có một sự đồng cảm và sự vui vẻ với nhau. Sự kiện này không phải là lý lẽ ủng hộ cho việc uống rượu, nhưng nó thực sự minh hoạ một điểm: Cơ-đốc nhân được đầy dẫy Thánh Linh ưa thích hiệp lại với nhau và từng trải một ý nghĩa của sự hiệp nhất đầy vui mừng trong Chúa.
Họ không cần những chất kích thích giả tạo của thế gian. Họ có Thánh Linh của Đức Chúa Trời – và Ngài là tất cả những gì họ cần đến.
3. Đầy lòng tạ ơn (Eph 5:20)
Có người định nghĩa gia đình là “nơi chúng ta được đối xử tốt đẹp nhất – và nơi chúng ta than phiền nhiều nhất!” Điều này đúng biết bao!
“Cha tôi không hề nói chuyện với tôi trừ khi ông ấy muốn chửi mắng tôi hoặc hỏi về thứ hạng của tôi,” một thiếu niên nọ đã có lần nói với tôi.
“Cuối cùng thì, một anh chàng trai trẻ đôi lúc cũng cần một sự khích lệ nào đó chớ!” Những nhà khải đạo về hôn nhân bảo chúng tôi rằng “việc vợ chồng vì quá quen thuộc nên xem thường nhau” là một trong những nguyên nhân chính của các vấn đề thuộc hôn nhân.
Cảm tạ Đức Chúa Trời về người phối ngẫu của mình là một bí quyết của một gia đình hạnh phúc, và chính Đức Thánh Linh là Đấng ban cho chúng ta thái độ biết ơn.
Làm thế nào một tấm lòng biết ơn khơi dậy sự hoà thuận trong gia đình? Về một mặt, người có lòng thành thật biết ơn nhận ra rằng mình được nên giàu có vì cớ những người khác, đó là một dấu hiệu của sự khiêm nhường. Người nào cho rằng thế giới nợ mình cuộc sống sẽ chẳng bao giờ biết ơn về bất cứ điều gì. Người ấy nghĩ rằng mình đang làm ơn cho người khác bằng cách cho phép họ phục vụ mình. Tấm lòng biết ơn thường khiêm nhường, là một tấm lòng vui mừng nhận biết Đức Chúa Trời là “Đấng ban mọi ân điển tốt lành cùng mọi sự ban cho trọn vẹn” (Gia 1:17).
Giống như món quà của Ma-ri dâng lên Chúa Giê-xu trong Gi 12:1-11, lòng biết ơn khiến căn nhà sực nức hương thơm.
Đúng là như thế, tất cả chúng ta đều biết ơn về những điều nào đó vào những dịp đặc biệt nào đó nhưng Phao-lô truyền cho các độc giả của ông hãy tạ ơn về tất cả mọi điều vào mọi lúc. Lời cổ vũ này tự nó chứng minh nhu cầu của chúng ta là phải đầy dẫy Thánh Linh Đức Chúa Trời, vì bởi sức riêng của chúng ta chúng ta không bao giờ có thể vâng theo mạnh lệnh này được. Chúng ta có thể thực sự cảm tạ Chúa vì sự đau khổ, những nỗi tuyệt vọng, và cả sự mất đi một người thân chăng? Hãy ghi nhớ rằng Phao-lô là một người tù khi ông viết những dòng chữ này, thế nhưng ông đầy sự tạ ơn về những gì Đức Chúa Trời đang làm trong ông và vì cớ ông (Eph 1:16; Eph 5:4,20; Côl 1:3,12; Côl 2:7; Côl 3:17; Côl 4:2; Phi 1:3).
Khi một Cơ-đốc nhân thấy mình rơi vào một tình cảnh khó khăn, người ấy nên lập tức cảm tạ Đức Chúa Cha, nhân danh Chúa Giê-xu Christ, bởi quyền phép của Thánh Linh, để giữ cho lòng mình không than vãn và buồn rầu. Ma quỷ len lỏi vào khi một Cơ-đốc nhân bắt đầu phàn nàn, nhưng việc cảm tạ trong Thánh Linh đánh bại ma quỉ và tôn vinh Chúa. “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-xu Christ đối với anh em là như vậy” (ITes 5:18).
Hai từ lòng biết ơn (gratitude) và ân điển (grace) có cùng gốc từ như nhau. Nếu chúng ta đã kinh nghiệm ân điển của Đức Chúa Trời, thì chúng ta cần phải biết ơn về những gì Đức Chúa Trời đem đến cho chúng ta. Hai từ cám ơn và suy nghĩ cũng ra từ chữ có cùng gốc. Nếu chúng ta suy nghĩ thêm hơn, chúng ta sẽ cảm tạ nhiều hơn.
4. Biết thuận phục (Eph 5:21-33)
Phao-lô áp dụng nguyên tắc của sự hòa hợp với vợ và chồng (Eph 5:21-33), cha mẹ và con cái (Eph 6:1-4), và chủ và tớ (Eph 6:5-9) và ông bắt đầu với lời khuyên răn là mỗi người phải thuận phục người kia. Phải chăng điều này ám chỉ là con cái bảo cha mẹ điều cần làm, hoặc những người chủ phải vâng lời tôi tớ? Dĩ nhiên là không!
Sự thuận phục không có liên quan gì đến thứ tự của thẩm quyền, nhưng đúng hơn nó quản trị việc sử dụng thẩm quyền, thẩm quyền được ban ra như thế nào và nó được nhận lãnh ra sao. Nhiều lần Chúa Giê-xu cố gắng dạy dỗ các môn đệ Ngài chớ cư xử cách kiêu ngạo, hoặc cố tìm cách trở nên lớn mà chẳng đem lại lợi ích cho ai khác.
Thật không may, họ không chịu học bài học này, và thậm chí vào Bữa Tiệc Ly họ lại đang cãi lẫy nhau ai là lớn hơn hết (Lu 22:24-27). Khi Chúa Giê-xu rửa chân cho họ, Ngài dạy họ rằng người lớn hơn hết là người sử dụng thẩm quyền của mình để gây dựng người khác, chớ không, như người Pha-ri-si, xây đắp uy quyền của mình và làm cho chính mình trở nên quan trọng.
Chúng ta phải xem những người khác “quan trọng hơn chính mình” (Phi 2:1-4; Rô 12:10). Theo bản tính, chúng ta muốn đề cao chính mình, nhưng Đức Thánh Linh giúp chúng ta có thể vâng phục.
Khi bạn nghiên cứu những lời khuyên dạy của Phao-lô đối với vợ và chồng, hãy nhớ rằng ông đang viết cho các tín hữu. Không nơi nào ông đang ám chỉ rằng người nữ thì thấp kém hơn người nam, hoặc mọi người nữ đều phải khuất phục trước mọi người nam trong mọi tình huống. Sự kiện ông dùng Đấng Christ và Hội thánh để minh họa là bằng chứng cho thấy ông nghĩ đến gia đình Cơ-đốc trong trí mình.
• Hỡi kẻ làm vợ, phải vâng phục (Eph 5:22-24).
Ông nêu lên hai nguyên do cho mệnh lệnh này: uy quyền của Đấng Christ (c.22) và cương vị làm đầu của người nam trong Đấng Christ (c. 23). Khi người vợ Cơ-đốc vâng phục Đấng Christ, và để Ngài làm Chúa của đời sống mình, nàng sẽ không gặp khó khăn khi vâng phục chồng mình.
Điều này không có nghĩa là nàng trở nên một nô lệ, vì người chồng cũng phải vâng phục Đấng Christ. Và nếu cả hai đang sống dưới uy quyền của Đấng Christ, thì chỉ có sự hoà hợp mà thôi. Cương vị làm đầu không phải là sự độc tài. “Mỗi người vì người kia, cả hai vì Chúa.” Những vợ chồng Cơ-đốc cần phải cầu nguyện với nhau và dành thời gian học Lời Chúa chung, hầu cho họ có thể biết được ý muốn Đức Chúa Trời cho đời sống cá nhân mình và cho gia đình mình. Hầu hết những mối xung đột trong hôn nhân tôi đã giải quyết với tư cách một mục sư xuất phát từ việc người chồng và/hoặc người vợ không chịu thuận phục Đấng Christ, dành thời gian học Lời Chúa, và cố gắng làm theo ý muốn của Ngài mỗi ngày.
Điều này giải thích vì sao một Cơ-đốc nhân nên kết hôn với một Cơ-đốc nhân chớ không “mang ách chung” với kẻ chẳng tin (IICo 6:14-18). Nếu Cơ-đốc nhân vâng phục Đấng Christ, người ấy sẽ không cố gắng thiết lập một gia đình bất tuân Lời của Đức Chúa Trời. Một gia đình như thế mời gọi cuộc nội chiến ngay từ buổi ban đầu.
• Nhưng có điều khác cũng quan trọng.
Cặp vợ chồng Cơ-đốc phải cẩn trọng thuận phục uy quyền của Đấng Christ ngay cả trước khi họ kết hôn. Nếu cả hai không cùng cầu nguyện và chân thành tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời trong Lời Ngài, cuộc hôn nhân của họ sẽ bắt đầu trên một nền tảng không vững vàng. Tội lỗi đã phạm trước khi kết hôn (“Chúng ta là Cơ-đốc nhân – chúng ta có thể tránh xa điều này!”) có một cách thức gây ra những nan đề sau khi kết hôn.
Hẳn nhiên Đức Chúa Trời có thể tha thứ, nhưng chúng ta vẫn đánh mất một điều gì đó rất quý giá y như vậy. Tiến sĩ William Culbertson, nguyên chủ tịch của Viện Thánh Kinh Moody, đã từng cảnh cáo về “những hậu quả đau buồn của tội lỗi đã được tha, ” và những đôi nam nữ Cơ-đốc đã đính hôn cần ghi nhớ lời cảnh cáo này trong lòng.
• Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình (Eph 5:25-33).
Phao-lô có nhiều điều để nói với những người chồng Cơ-đốc hơn là với những người vợ. Ông đặt ra cho họ một tiêu chuẩn rất cao: Hãy yêu vợ mình “như Đấng Christ đã yêu Hội thánh.” Phao-lô đang nâng tình yêu thương trong hôn nhân lên mức độ cao nhất có thể được, vì ông nhìn thấy trong gia đình Cơ-đốc một hình ảnh minh họa của mối quan hệ giữa Đấng Christ và Hội thánh.
Đức Chúa Trời thiết lập hôn nhân vì nhiều nguyên do. Về một mặt, nó thoả mãn nhu cầu tình cảm của con người. “Loài người ở một mình thì không tốt” (Sa 2:18). Hôn nhân cũng có một mục đích xã hội trong việc sinh con cái để nối dõi (Sa 1:28).
Phao-lô cho thấy một mục đích về mặt thể chất đối với hôn nhân – để giúp người nam và người nữ đáp ứng những dục vọng mà Đức Chúa Trời ban cho họ (ICôr 7:1-3). Nhưng trong thư Eph 5:1-33, Phao-lô cũng cho thấy một mục đích về mặt tâm linh trong hôn nhân, khi người chồng và người vợ cùng kinh nghiệm sự thuận phục và tình yêu thương của Đấng Christ (Eph 5:22-23).
Nếu người chồng lấy tình yêu của Đấng Christ đối với Hội thánh làm mẫu mực để yêu thương vợ mình, thì người ấy sẽ yêu nàng với lòng hy sinh (c.25). Đấng Christ đã phó Chính mình Ngài vì Hội thánh, vậy nên người chồng, trong tình yêu thương, cũng phó chính mình vì vợ.
Gia-cốp quá yêu Ra chên đến nỗi ông đã chịu hy sinh làm việc mười bốn năm để có được nàng. Tình yêu Cơ-đốc chân thật “chẳng kiếm tư lợi” (ICôr 13:5) – nó không vị kỷ. Nếu một người chồng vâng phục Đấng Christ và được đầy dẫy Thánh Linh, tình yêu có tính chất hy sinh của người ấy sẽ sẵn lòng trả một giá hầu cho người vợ có thể hầu việc Đấng Christ trong gia đình và tôn vinh Ngài.
Tình yêu của người chồng cũng sẽ là một tình yêu thánh sạch (ICôr 5:26-27). Từ thánh hóa có nghĩa là “biệt riêng ra.” Trong lễ hôn phối, người chồng được biệt riêng ra để thuộc về người vợ, và người vợ được biệt riêng ra để thuộc về người chồng.Bất cứ sự phân rẽ nào đối với sự sắp đặt do Đức Chúa Trời ban cho này đều là tội lỗi.
Ngày nay, Đấng Christ đang thanh tẩy Hội thánh Ngài qua sự hành động của Lời Ngài (Gi 15:3; Gi 17:17). Tình yêu của người chồng đối với vợ mình cần phải làm cho vợ (và người ấy) nên tinh sạch hầu cho cả hai ngày càng trở nên giống Đấng Christ hơn. Ngay cả quan hệ thân xác của họ cũng cần phải được Đức Chúa Trời kiểm soát để nó trở nên một phương tiện làm cho phong phú về mặt tâm linh cũng như vui hưởng hạnh phúc riêng tư (ICôr 7:3-5).
Người chồng không được “sử dụng” vợ mình cho sự vui thú riêng, nhưng đúng hơn phải bày tỏ loại tình yêu thương xứng hiệp và thánh sạch cho nhau. Kinh nghiệm trong hôn nhân là một từng trải cứ gia tăng mãi khi Đấng Christ là Chủ của gia đình. Tình yêu luôn làm gia tăng thêm và phong phú hơn, trong khi tính ích kỷ chỉ mang lại sự trái ngược mà thôi.
Hội thánh ngày nay không hoàn hảo nó có những dấu vết và những nếp nhăn. Những dấu vết do sự ô uế bên ngoài gây ra, trong khi những nếp nhăn do sự hư hoại bên trong tạo nên. Vì Hội thánh đã bị thế gian làm cho ô uế, nó cần sự tẩy rửa thường xuyên, và Lời của Đức Chúa Trời là tác nhân để thanh tẩy. “Hãy giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia 1:27).
Nghiêm chỉnh mà nói, không được có nếp nhăn nào trong Hội thánh, vì những nếp nhăn là chứng cớ của tuổi già và sự hư nát bề trong. Khi Hội thánh được nuôi dưỡng bởi Lời Đức Chúa Trời, những nếp nhăn này cần phải tan biến đi. Giống như một cô dâu xinh đẹp, Hội thánh cần phải được thanh sạch và tươi trẻ, là điều có thể thực hiện được bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời dùng Lời của Ngài. Một ngày kia Hội thánh sẽ được trình diện trên thiên đàng như “một Hội thánh đầy vinh hiển” khi Chúa Giê-xu Christ hiện đến (Giu 1:24).
Tình yêu của người chồng đối với vợ mình cần phải mang tính hy sinh và thánh sạch, nhưng nó cũng cần phải đem lại sự thoả mãn (Giu 5:28-30). Trong mối quan hệ hôn nhân, người chồng và vợ trở nên “một thịt.” Vì thế, bất cứ điều gì người này làm cho người kia, tức là người ấy đang làm cho chính mình.
Đó là một từng trải mang lại sự thoả mãn cho nhau. Người nam yêu vợ mình là đang thực sự yêu chính thân mình, vì người ấy với vợ mình là một thịt. Khi người chồng yêu vợ mình, người ấy đang nuôi dưỡng nàng. Y như tình yêu thương là hệ tuần hoàn của Thân thể Đấng Christ (Eph 4:16), cũng vậy tình yêu thương là thức ăn bổ dưỡng của gia đình.
Biết bao người đã thú nhận, “Tôi đói khát tình yêu thương.” Không được có sự đói khát tình yêu thương trong gia đình Cơ-đốc, vì vợ chồng cần phải thật yêu thương nhau đến nỗi những nhu cầu về thể xác, tình cảm, và tâm linh của họ đều được đáp ứng. Nếu cả hai đều vâng phục Chúa, và vâng phục nhau, họ sẽ được thật thoả mãn đến độ họ sẽ không bị cám dỗ để tìm kiếm sự đáp ứng ở bất cứ nơi nào khác.
Các gia đình Cơ-đốc phải là những bức tranh về mối quan hệ của Đấng Christ với Hội thánh Ngài. Mỗi tín đồ là một chi thể trong Thân thể của Đấng Christ, và mỗi tín đồ sẽ phải giúp nuôi dưỡng Thân bằng tình yêu thương (Eph 4:16). Chúng ta là một với Đấng Christ. Hội thánh là Thân thể Ngài và Tân Nương của Ngài, và gia đình Cơ-đốc là một hình ảnh minh hoạ được xếp đặt cách thiên thượng của mối quan hệ này. Điều này chắc hẳn khiến cho hôn nhân trở nên một vấn đề nghiêm chỉnh.
Phao-lô liên hệ đến sự tạo dựng nên Ê-va và việc thiết lập gia đình đầu tiên (Sa 2:18-24). A-đam đã phải cho đi phân nửa của chính mình để có được một cô dâu, nhưng Đấng Christ đã phó tất cả Thân mình để chuộc mua Tân Nương của Ngài tại thập tự giá. Đức Chúa Trời đã mở sườn của A-đam, nhưng những kẻ tội lỗi đã đâm vào hông Đấng Christ.
Vậy nên một cặp vợ chồng được kết hợp với nhau đến độ họ là “một thịt.” Sự hiệp nhất của họ thậm chí còn khắng khít hơn sự hiệp nhất của cha mẹ và con cái nữa. Sự hiệp nhất của tín đồ với Đấng Christ thậm chí còn khắng khít hơn và, không như hôn nhân của con người, sẽ trường tồn suốt cả cõi đời đời. Phao-lô kết thúc với một lời khuyên cuối cùng là người chồng yêu vợ mình và người vợ kính trọng chồng mình, tất cả mọi điều này cần đến năng quyền của Đức Thánh Linh.
Nếu những cặp vợ chồng Cơ-đốc có năng quyền của Thánh Linh vùa giúp mình, và gương của Đấng Christ khích lệ mình, tại sao quá nhiều cuộc hôn nhân Cơ-đốc lại thất bại? Có người đang ở ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời. Chỉ vì hai Cơ-đốc nhân quen biết nhau và hoà hợp nhau không có nghĩa là họ có nhiệm vụ phải cưới nhau.Trên thực tế, không phải mọi tín đồ đều phải lập gia đình.
Đôi khi ý muốn của Đức Chúa Trời đối với một Cơ-đốc nhân là cứ ở độc thân (Mat 19:12; ICôr 7:7-9). Thật sai trật nếu một tín đồ lấy một người ngoại, nhưng cũng sai trật nếu hai Cơ-đốc nhân lấy nhau ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời.
Nhưng ngay cả nếu hai Cơ-đốc nhân lấy nhau trong ý muốn của Đức Chúa Trời, họ vẫn phải cứ ở trong ý muốn Đức Chúa Trời nếu gia đình họ phải trở thành mối thông công sáng tạo như Đức Chúa Trời mong muốn. “Trái của Thánh Linh là tình yêu thương” (Ga 5:22) và nếu cả vợ lẫn chồng không bước đi trong Thánh Linh họ không thể nào san sẻ tình yêu thương của Đấng Christ, là tình yêu thương đã được mô tả thật tuyệt vời trong ICôr 13:1-13.
Gốc rễ của mọi nan đề trong hôn nhân là tội lỗi, và gốc rễ của mọi tội lỗi là sự ích kỷ. Sự thuận phục Đấng Christ và thuận phục nhau là phương cách duy nhất thắng hơn sự ích kỷ, vì khi chúng ta vâng phục, Đức Thánh Linh có thể đổ đầy chúng ta và giúp chúng ta có thể yêu thương nhau theo một cách thức hy sinh, thánh sạch, đem đến sự thoả mãn – là cách thức Đấng Christ đã yêu thương Hội thánh.
Để kinh nghiệm sự đầy dẫy Thánh Linh một người phải trước tiên có Thánh Linh –phải là một Cơ-đốc nhân. Kế đó phải có một ước muốn tôn vinh Đấng Christ cách chân thật, vì đây là lý do vì sao Đức Thánh Linh đã được ban xuống (Gi 16:14). Chúng ta không sử dụng Đức Thánh Linh Ngài sử dụng chúng ta. Phải có một sự khao khát sâu xa được sự đầy dẫy của Đức Chúa Trời, một sự xưng nhận rằng không có năng quyền của Ngài chúng ta không thể nào làm theo ý muốn Ngài được. Chúng ta phải nhận lấy lời hứa của Gi 7:37-39: “Nếu người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống!”
Bởi đức tin hãy phó dâng chính mình bạn cho Đấng Christ bởi đức tin hãy cầu xin Ngài để được sự đầy dẫy của Đức Thánh Linh. Bởi đức tin hãy nhận lãnh. Khi bạn thấy chính mình đầy lòng vui mừng, đầy sự tạ ơn, và sẵn sàng vâng phục, bạn sẽ biết rằng Đức Chúa Trời đã nhậm lời.
Một yếu tố quan trọng nữa cần phải được xem xét. Thánh Linh của Đức Chúa Trời dùng Lời của Đức Chúa Trời để hành động trong đời sống chúng ta. Xin hãy đọc Côl 3:16-4:1 và bạn sẽ thấy một đoạn Kinh Thánh tương đương với đoạn Kinh Thánh trong Ê-phê-sô của chúng ta. Và bạn sẽ nhận thấy là được đầy dẫy Lời của Đức Chúa Trời sinh ra sự vui mừng, lòng biết ơn, và sự vâng phục.
Nói cách khác, khi bạn được Lời Đức Chúa Trời cai trị lòng mình, bạn được đầy dẫy Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Không chỉ những người làm chồng làm vợ, mà tất cả mọi Cơ-đốc nhân đều cần dành thời gian hàng ngày để cho Lời của Đấng Christ ngự trị trong họ cách phong phú, vì lúc ấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời có thể hành động trong đời sống chúng ta để khiến chúng ta được vui mừng, cảm tạ, và thuận phục.Và điều này có nghĩa là thiên đàng trong gia đình – hay bất cứ nơi nào Đức Chúa Trời có thể đặt để chúng ta.
10. SỐNG TRONG UY QUYỀN CỦA ĐẤNG CHRIST (Eph 6:1-9)
Sau khi xem một chương trình biểu diễn của ti-vi về tuổi trẻ nổi loạn, một người chồng nói với vợ, “Thật là một cảnh hỗn độn! Thế hệ chúng ta đã lầm lạc ở đâu vậy?” Người vợ trầm tĩnh đáp, “Chúng ta đã có con cái.”
Dường như bất cứ nơi nào chúng ta nhìn vào xã hội hiện đại, chúng ta đều thấy sự phản kháng, sự chia rẽ, và sự nổi loạn. Các cặp vợ chồng đang ly dị nhau con cái đang nổi loạn chống nghịch lại cha mẹ chúng và chủ nhân với công nhân đang tìm kiếm những giải pháp mới để tránh những vụ đình công và giữ cho máy móc công nghiệp hoạt động cách hữu hiệu.
Chúng ta đã thử biện pháp giáo dục, pháp lý, và mọi biện pháp khác, nhưng không biện pháp nào có vẻ công hiệu cả. Giải pháp của Phao-lô đối với sự phản kháng trong gia đình và trong xã hội là sự tái sinh –một tấm lòng mới từ Đức Chúa Trời và một sự đầu phục mới đối với Đấng Christ và với nhau.
Chương trình vĩ đại nhất của Đức Chúa Trời là “hội hiệp muôn vật lại trong Đấng Christ” (Eph 1:10). Phao-lô cho thấy rằng sự hòa hiệp về tâm linh này bắt đầu trong đời sống của các Cơ-đốc nhân đã đầu phục uy quyền của Đấng Christ.
Trong phần này Phao-lô đã khuyên răn bốn nhóm Cơ-đốc nhân về cách thức họ có thể có sự hoà hiệp trong Đấng Christ.
1. Những người con Cơ-đốc (Eph 6:1-3)
Phao-lô không bảo các bậc cha mẹ khuyên răn con cái đích thân ông làm việc ấy. Các con trẻ đang hiện diện trong hội chúng khi bức thư này được đọc lên. Liệu chúng hiểu tất cả mọi điều Phao-lô đã viết chăng? Chúng ta có hiểu hết cả bức thư này chăng? Các gia đình Cơ-đốc tham dự những buổi nhóm họp thờ phượng chung với nhau, và chắc chắn các bậc cha mẹ đã giải thích Lời Chúa với con cái khi chúng ở nhà. Ông nêu cho chúng bốn nguyên do vì sao chúng cần phải thuận phục cha mẹ mình:
Chúng là những Cơ-đốc nhân (“trong Chúa”). Lập luận này là một sự ứng dụng của chủ đề của cả phần này, đó là “Hãy kính sợ Đức Chúa Trời mà vâng phục nhau” (Eph 5:21). Khi một người trở thành một Cơ-đốc nhân, người ấy không được giải thoát khỏi những nghĩa vụ bình thường của cuộc sống.
Nếu có, thì đức tin của người ấy trong Đấng Christ cần phải khiến người ấy thành một đứa con tốt hơn trong gia đình. Với người Cô-lô-se Phao-lô làm cho lời khuyên của mình thêm mạnh mẽ với câu “vì điều đó đẹp lòng Chúa” (Côl 3:20). Đây là sự hòa hiệp trong gia đình: người vợ thuận phục chồng “như thuận phục Đấng Christ” người chồng yêu vợ “như Đấng Christ cũng yêu Hội thánh” và con cái vâng lời “trong Chúa.”
• Sự vâng lời là hợp lẽ.
Có một thứ tự trong thiên nhiên, được định bởi Đức Chúa Trời, là lập luận để biện minh cho sự hợp lẽ của một hành động. Vì cha mẹ đã sinh thành ra đứa con trong thế gian này, và vì họ hiểu biết nhiều hơn và khôn ngoan hơn đứa con, nên việc đứa con vâng lời cha mẹ mình là điều phải lẽ. Ngay cả các thú vật còn nhỏ cũng được dạy phải vâng lời.
• Sự vâng lời là mệnh lệnh (Eph 6:1).
Tại đây Phao-lô trích dẫn Điều răn Thứ Năm (Xu 20:12; Phuc 5:16) và áp dụng nó với người tín-đồ thời Tân-ước. Điều này không có nghĩa là Cơ-đốc nhân “ở dưới luật pháp,” vì Đấng Christ đã giải thoát chúng ta khỏi cả sự rủa sả lẫn ách nô lệ của Luật pháp (Ga 3:13; Ga 5:1). Nhưng sự công bình của Luật pháp vẫn còn là một sự mạc khải về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, và Đức Thánh Linh giúp chúng ta có thể thực hành sự công bình đó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta (Rô 8:1-4).
Tất cả Mười Điều răn đều được lặp lại trong Tân-ước để Cơ-đốc nhân tuân giữ ngoại trừ “Hãy nhớ giữ ngày Sa bát đặng làm nên ngày thánh.” Đối với một Cơ-đốc nhân thời Tân-ước việc không tôn kính cha mẹ mình cũng sai trật y như đối với một người Do-thái thời Cựu-ước vậy.
Việc “tôn kính” cha mẹ chúng ta mang nhiều ý nghĩa hơn là chỉ vâng lời họ. Nó có nghĩa là bày tỏ lòng kính trọng và tình yêu thương đối với họ, chăm sóc cho họ bao lâu mà họ còn cần đến chúng ta, và cố gắng đem vinh dự về cho họ bởi cách chúng ta sống.
Một cặp vợ chồng trẻ đến gặp tôi về việc kết hôn, và tôi hỏi là cha mẹ họ có đồng ý với lễ cưới không. Họ bối rối nhìn nhau, rồi thú thật, “Chúng tôi đang hy vọng là ông sẽ không hỏi chúng tôi về việc ấy.” Tôi đã để ra một giờ sau đó cố gắng thuyết phục họ rằng cha mẹ họ có một đặc quyền được vui mừng trong sự kiện này, và nếu không cho họ hưởng quyền đó sẽ gây nên những vết thương lòng không bao giờ có thể lành được.
“Ngay cả nếu họ chưa tin Chúa,” tôi nói, “họ là cha mẹ của các bạn, và các bạn mắc nợ họ về tình yêu thương và sự tôn kính.” Cuối cùng hai người đã đồng ý, và những điều chúng tôi cùng hoạch định khiến cho cả hai gia đình đều vui sướng. Nếu chúng tôi làm theo những kế hoạch ban đầu của cặp thanh niên này, thì cả hai người rất có thể đã mất đi lời chứng của mình với họ hàng hai bên, nhưng, thay vào đó, họ đã có thể làm chứng tốt cho Chúa Giê-xu Christ.
• Sự vâng lời đem đến phước hạnh (Eph 6:2-3).
Điều răn Thứ Năm có một lời hứa nối theo nó: “Hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho ngươi” (Xu 20:12). Lời hứa này từ buổi ban đầu áp dụng cho những người Do-thái khi họ tiến vào xứ Ca-na-an, nhưng Phao-lô ứng dụng nó cho tín đồ ngày nay. Ông thay thế chữ “xứ” (land) bằng chữ “đất” (earth) và cho chúng ta biết rằng người con Cơ-đốc tôn kính cha mẹ mình có thể trông mong hai phước hạnh. Người ấy sẽ được phước, và người ấy sẽ sống lâu trên đất. Điều này không có nghĩa là mọi người chết trẻ đều không tôn kính cha mẹ mình.
Ông đang nêu lên một nguyên tắc: khi con cái vâng lời cha mẹ mình trong Chúa, họ sẽ thoát được nhiều tội lỗi và hiểm hoạ và bởi đó tránh được những điều có thể đe doạ hoặc làm cho đời sống họ rút ngắn lại. Nhưng đời sống không chỉ đo bằng số lượng thời gian. Nó cũng được đo bằng tính chất của sự từng trải. Đức Chúa Trời làm cho đời sống của người con biết vâng lời được phong phú hơn cho dù người ấy có thể sống bao lâu trên đất đi nữa. Tội lỗi luôn tước đoạt của chúng ta sự vâng lời luôn khiến chúng ta thêm giàu có.
Thế nên, người làm con phải học tập vâng lời cha mẹ từ lúc còn nhỏ, không chỉ vì họ là cha mẹ mình, nhưng cũng vì Đức Chúa Trời đã ra lệnh như vậy. Không vâng lời cha mẹ là nổi loạn nghịch lại với Đức Chúa Trời. Tình trạng đáng buồn trong các gia đình ngày nay là kết quả của sự chối bỏ Lời Đức Chúa Trời (Rô 1:28-30; IITi 3:1-5). Theo bản tính, một đứa con thường ích kỷ, nhưng trong năng quyền của Đức Thánh Linh, một đứa con có thể vâng lời cha mẹ mình và tôn vinh Đức Chúa Trời.
2. Những người cha Cơ-đốc (Eph 6:4)
Nếu để một mình chúng, con cái sẽ là những kẻ nổi loạn, vì vậy các bậc cha mẹ cần phải uốn nắn con cái mình. Cách đây nhiều năm, vị Công tước của Windsor lúc đó đã nói, “Mọi thứ trong gia đình người Mỹ đều được điều khiển bởi những cái nút vặn – ngoại trừ bọn trẻ con!”
Kinh Thánh ký thuật lại những hậu quả đau buồn của những bậc cha mẹ bỏ mặc con cái mình, hoặc do việc làm gương xấu cho chúng hoặc không chịu sửa phạt chúng cách đúng đắn.
-Đa-vít đã nuông chìu Áp-sa-lôm và làm gương xấu cho người, và hậu quả thật bi thương.
-Ê-li đã không chịu sửa phạt các con trai ông và chúng đem sự sỉ nhục đến cho danh tiếng ông và sự đại bại đến cho dân tộc Y-sơ-ra-ên.
-Vào những năm cuối đời mình, cả Y-sác cũng nuông chìu Ê-sau, trong khi vợ ông lại tỏ ra thiên vị Gia-cốp và kết quả là một gia đình bị phân rẽ.
-Gia-cốp đang tỏ ra thiên vị đối với Giô-sép khi Đức Chúa Trời bởi ơn thần hựu đã giải cứu chàng trai trẻ này và khiến chàng trở nên một người tiếng tăm tại xứ Ai-cập.
-Phao-lô cho chúng ta biết rằng người cha có nhiều trách nhiệm đối với con cái mình.
• Người ấy không được chọc giận chúng.
Vào thời của Phao-lô, người cha có thẩm quyền cao nhất trên gia đình. Chẳng hạn như khi một đứa bé được sinh ra trong một gia đình La-mã, nó được mang ra và đặt trước mặt người cha. Nếu người cha bồng nó lên, điều đó có nghĩa là ông chấp nhận nó vào trong gia đình. Nhưng nếu ông ta không bồng nó lên, điều đó có nghĩa là đứa bé bị khước từ. Nó có thể bị bán, bị cho đi, hay thậm chí chết do bị vứt bỏ ra ngoài đường. Chắc chắn tình yêu của một người cha sẽ thắng hơn những việc làm tàn ác như thế, nhưng những thói tục này là hợp pháp trong thời đó.
Phao-lô nói với những bậc cha mẹ, “Chớ dùng thẩm quyền mình để ngược đãi, làm nhục con cái, nhưng hãy khích lệ và gây dựng nó.” Với tín-hữu tại Cô-lô-se ông viết, “Hỡi kẻ làm cha, chớ hề chọc giận con cái mình, e nó ngã lòng chăng” (Côl 3:21). Vậy nên, trái với sự “khiêu chọc” là sự “khích lệ.”
Tôi đang giảng cho một nhóm sinh viên Cơ-đốc về đề tài cầu nguyện, và đang vạch ra rằng Cha trên trời của chúng ta luôn sẵn sàng lắng nghe khi chúng ta kêu cầu. Để minh họa điều đó, tôi bảo họ rằng cô lo việc tiếp tân ở văn phòng của Hội thánh chúng tôi có một danh sách tên do tôi soạn ra, và những người này có thể đến với tôi vào bất cứ lúc nào dù tôi đang làm gì đi nữa.
Ngay cả nếu tôi đang ở trong một cuộc họp ban trị sự, hay trong một buổi khải đạo, nếu bất kỳ ai trong những người này điện thoại đến, cô ta sẽ phải gọi tôi ngay lập tức. Đứng đầu danh sách này là gia đình tôi. Ngay cả nếu vấn đề dường như đối với tôi không quan trọng, tôi vẫn muốn gia đình tôi biết là tôi luôn sẵn sàng. Sau buổi nhóm, một trong các sinh viên nói với tôi, “Liệu ông có sẽ nhận cháu làm con nuôi không? Cháu chưa bao giờ có thể hiểu được bố cháu cách tường tận, và cháu cần sự khích lệ của ông ấy vô cùng!”
Những người làm cha khiêu chọc con cái mình và khiến chúng ngã lòng bởi việc nói một đàng mà làm một nẻo. Bởi việc cứ luôn trách mắng chớ không bao giờ khen ngợi. Bởi việc không kiên định và thiếu công bằng trong kỷ luật, và bởi việc tỏ ra thiên vị trong gia đình. Cũng bởi việc hứa hẹn nhưng không giữ lời hứa, và bởi việc xem nhẹ những vấn đề mà, đối với trẻ con, rất là quan trọng. Những bậc cha mẹ Cơ-đốc cần sự đầy dẫy Thánh Linh để họ có thể nhạy bén đối với những nhu cầu và những nan đề của con cái mình.
• Người ấy phải nuôi nấng chúng.
Đoạn Kinh Thánh này ghi rằng “nhưng hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng.” Động từ được dịch là “nuôi nấng chúng” là chữ tương tự được dịch là “nuôi nấng săn sóc” trong Eph 5:29.
Người chồng Cơ-đốc sẽ phải nuôi nấng săn sóc vợ và con cái mình bằng cách san sẻ tình yêu thương và sự khích lệ trong Chúa. Nuôi nấng con cái về mặt thể chất bằng cách cung cấp thức ăn, nhà ở, và quần áo cho chúng không, chưa đủ. Người ấy cũng phải nuôi nấng chúng về mặt tình cảm và tâm linh nữa.
Sự phát triển của cậu bé Giê-xu là gương mẫu của chúng ta: “Chúa Giê-xu khôn ngoan càng thêm, thân hình càng lớn, càng được đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta” (Lu 2:52). Đây là sự tăng trưởng cân bằng: về lý trí, về thể lực, về tâm linh, và về xã hội. Không nơi nào trong Kinh Thánh mà việc dạy dỗ con cái được giao cho những tác nhân bên ngoài gia đình, dù cho những người này có thể trợ giúp ra sao đi nữa. Đức Chúa Trời trông mong những bậc cha mẹ đem đến cho con cái việc dạy dỗ mà chúng cần.
• Người ấy phải sửa phạt chúng.
Từ “nuôi nấng” chứa đựng ý tưởng của việc học tập qua sự trách phạt. Nó được dịch là “sự sửa phạt” trong Hêb 12:1-11. Một số nhà tâm lý học hiện đại phản đối ý niệm sửa trị đã lỗi thời, và nhiều nhà giáo dục tuân theo triết lý của họ. “Hãy để con cái tự bộc lộ mình!” họ bảo chúng ta. “Nếu bạn sửa phạt chúng, bạn có thể làm cho tính cách của chúng bị sai lệch đi.”
Thế nhưng sự sửa phạt là một nguyên tắc căn bản của đời sống và một chứng cớ của tình yêu thương. “Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu” (Hêb 12:6). “Ai thương con ắt sửa trị nó cách chuyên cần” (Ch 13:24, dịch sát nghĩa).
Tuy nhiên, chúng ta phải chắc chắn rằng mình sửa phạt con cái cách đúng đắn. Đầu tiên, chúng ta phải sửa phạt trong sự yêu thương chớ không phải trong sự giận dữ, e chúng ta làm tổn thương đến thân thể hoặc tâm hồn của đứa con, hoặc có thể là cả hai. Nếu chúng ta không bị sửa phạt, chắc hẳn chúng ta không thể nào sửa phạt những người khác được, và “việc mất bình tĩnh” không bao giờ khiến cho hoặc đứa con hoặc người làm cha mẹ tốt hơn.
Cũng vậy, sự sửa phạt của chúng ta phải công bằng và trước sau như một. “Cha tôi sẽ dùng một cây súng cối để giết một con muỗi!” một thiếu niên đã có lần nói với tôi. “Hoặc là tôi tránh được kẻ giết người, hoặc nhận lấy sự trách mắng về mọi chuyện!” Sự sửa phạt đầy yêu thương, trước sau như một đem lại sự tin chắc cho đứa con. Nó có thể không đồng ý với chúng ta, nhưng ít ra nó biết rằng chúng ta quan tâm đủ để xây lên những bức tường che chở quanh nó cho đến khi nó có thể tự lo lấy cho mình.
“Tôi không bao giờ biết mình có thể đi xa đến đâu,” một bé gái bướng bỉnh nói với tôi, “vì cha mẹ tôi không hề quan tâm đủ để sửa phạt tôi. Tôi hình dung là nếu điều đó không quan trọng đối với họ, tại sao nó lại cần phải quan trọng đối với tôi chớ?”
• Người ấy phải dạy dỗ và khích lệ chúng.
Đây là ý nghĩa của từ “khuyên bảo.” Bậc cha mẹ không chỉ dùng hành động để dạy con, mà cũng dùng cả lời nói nữa. Trong Sách Châm-ngôn, chẳng hạn, chúng ta có một sự ký thuật đầy cảm hứng về một người cha dùng lời khuyên bảo khôn ngoan để dạy dỗ con trai mình. Con cái chúng ta không phải lúc nào cũng hiểu rõ giá trị sự khuyên dạy của chúng ta, nhưng điều đó không khiến chúng ta lờ đi bổn phận chúng ta phải dạy dỗ và khích lệ chúng. Dĩ nhiên, sự dạy dỗ của chúng ta phải luôn gắn chặt với Lời Đức Chúa Trời (IITi 3:13-17).
Khi Tòa án Tối cao ban bố quyết định chống lại sự cầu nguyện cần phải có trong các trường công, nhà vẽ tranh biếm họa báo nổi tiếng Herblock ấn hành một tranh biếm họa trong tờ Washington Post vẽ một người cha giận dữ đang vẫy một tờ báo trước mặt gia đình ông và la to, “Họ mong đợi chúng ta làm gì – lắng nghe những đứa trẻ cầu nguyện tại nhà à?”
Câu trả lời là: Đúng vậy! Gia đình là nơi mà con cái cần phải học biết về Chúa và đời sống Cơ-đốc. Đã đến lúc các bậc cha mẹ Cơ-đốc chấm dứt “việc đổ trách nhiệm” cho các giáo viên Trường Chúa Nhật và các giáo viên trường Cơ-đốc, và khởi sự nuôi nấng săn sóc con cái mình.
3. Những người tôi tớ Cơ-đốc (Eph 6:5-8)
Từ “tôi tớ” chắc hẳn ám chỉ những người nô lệ Cơ-đốc, nhưng chúng ta hẳn nhiên có thể ứng dụng những từ này với công nhân Cơ-đốc ngày nay. Hầu như có khoảng sáu triệu nô lệ trong Đế quốc La-mã vào thời đó, và chế độ nô lệ là một thể chế được chấp nhận. Không nơi nào trong Tân-ước mà bản thân chế độ nô lệ bị tấn công hay lên án, mặc dầu toàn bộ Phúc-Âm đều chống lại nó.
Chức vụ của Phao-lô không phải là lật đổ chính quyền La-mã hay bất cứ thể chế nào của nó, mà là rao giảng Phúc-Âm và giành lấy những người hư mất cho Đấng Christ. Chắc hẳn những kết quả của việc truyền giảng của ông cuối cùng đã dẫn tới việc lật đổ Đế quốc La-mã, nhưng đó không phải là động cơ chính của Phao-lô.
Giống như việc rao giảng của Wesley và Whitefield đưa đến kết quả là sự xóa bỏ chế độ nô lệ và lao động trẻ con, sự nâng cao phẩm giá của phụ nữ, và sự chăm sóc cho những kẻ thiếu thốn, vì thế chức vụ của Phao-lô góp phần vào sự chấm dứt của chế độ nô lệ và cổ vũ cho tự do. Tuy nhiên, ông cẩn trọng không lẫn lộn hệ thống xã hội với trật tự thuộc linh trong Hội thánh (ICôr 7:20-24).
Phao-lô khuyên những kẻ tôi tớ phải vâng lời, vì nhiều lý do tốt đẹp.
-Trước hết, họ đang thực sự hầu việc Đấng Christ. Thật vậy, họ có “chủ về phần xác,” nhưng người chủ thật sự của họ đang ở trên thiên đàng (Eph 6:9). Sự kiện một công nhân và chủ người ấy cả hai đều là Cơ-đốc nhân không phải là lý do bào chữa cho người này hoặc người kia làm ít việc hơn. Đúng hơn, đó là một lý do tốt để càng trung tín với nhau hơn. Người làm công cần phải tỏ lòng kính trọng phải lẽ đối với chủ mình, chớ đừng cố tìm cách lợi dụng người. Người ấy cần phải hết lòng hết sức mà làm công việc được giao phó (“sự chân thật của tấm lòng”).
Cách tốt nhất để trở nên một chứng nhân trong công việc mình làm là làm tốt công việc mỗi ngày. Một nhân viên Cơ-đốc sẽ tránh “lối làm việc chiếu lệ” – chỉ làm việc khi người chủ đang để ý, hoặc làm việc thật cật lực khi ông ta đang theo dõi để tạo ấn tượng là mình đang làm công việc rất tốt.
-Lý do thứ nhì là làm tốt một công việc là ý muốn của Đức Chúa Trời. Cơ-đốc giáo không biết điều gì là thiêng liêng và thế tục. Một Cơ-đốc nhân có thể thực hiện bất cứ việc lành nào như một sự hầu việc Đấng Christ, nhằm tôn vinh Đức Chúa Trời. Vì lý do này, người làm công phải làm công việc mình “hết lòng,” vì người ấy đang hầu việc Đấng Christ và đang làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Có những nhiệm vụ được giao cho những nô lệ này mà họ không thích, nhưng họ sẽ phải thực hiện chúng y như vậy, miễn là họ không đang bất tuân ý chỉ của Đức Chúa Trời. “Sự chân thật của tấm lòng” và “việc làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời cách hết lòng” cả hai đều cho thấy tầm quan trọng của một thái độ đúng đắn của tấm lòng đối với công việc.
-Lập luận thứ ba của Phao-lô là họ sẽ được Chúa ban thưởng (c.8). Vào thời đó, nô lệ bị đối xử như những món tài sản, dù họ có được giáo dục tốt đến đâu đi nữa. Một người nô lệ có học vấn, có văn hóa đã trở nên một Cơ-đốc nhân có thể nhận được cách đối xử thậm chí hà khắc hơn từ nơi chủ vì cớ đức tin của người ấy, nhưng cách đối xử khắc nghiệt sẽ không khiến người ấy không làm việc hết sức mình (IPhi 2:18-25). Chúng ta có bổn phận hầu việc Đấng Christ, chớ không phải hầu việc người ta. Chúng ta sẽ nhận lãnh phần thưởng của mình từ Đấng Christ, chớ không phải từ người ta.
Có lẽ bạn đã nghe câu chuyện của một nhà truyền giáo già đang trở lại quê hương sau nhiều năm hy sinh phục vụ tại Phi Châu. Trên cùng chuyến tàu là Tổng thống Theodore Roosevelt, đang trở về Mỹ sau một cuộc đi săn tại Châu Phi. Khi chuyến tàu cập bến tại New York, những đám đông chào mừng vị tổng thống, và báo chí có mặt tại đó để theo dõi câu chuyện. Vị giáo sĩ già cùng với vợ ông rời khỏi tàu cách lặng lẽ và đi nhanh về một khách sạn rẻ tiền để nghỉ qua đêm, trước khi đi tiếp về phía tây.
“Điều này hoàn toàn dường như không hợp lẽ!” nhà truyền giáo nói với vợ mình bằng một giọng khá cay đắng. “Chúng ta dâng đời sống mình ở Phi Châu để giành lấy linh hồn tội nhân về cho Đấng Christ, nhưng khi chúng ta về lại quê hương, không ai chào đón chúng ta và không có phần thưởng gì cả. Vị tổng thống săn được vài con thú và rồi ông nhận được một sự tiếp đón thật long trọng!”
Khi họ đang cầu nguyện trước khi nghỉ ngơi, dường như Chúa đã phán với họ rằng: “Các con của Ta, các con có biết vì sao mình chưa nhận được phần thưởng không?Đó là vì các con chưa về đến nhà thôi!”
4. Những người chủ Cơ-đốc (Eph 6:9)
Đức tin Cơ-đốc không mang lại sự hoà hiệp bằng cách xoá bỏ những khác biệt về xã hội hay văn hóa. Những người tôi tớ vẫn là những tôi tớ khi họ tin nhận Đấng Christ, và những người chủ vẫn là chủ. Đúng hơn, đức tin Cơ-đốc mang lại sự hoà hiệp bằng cách hành động trong tấm lòng. Đấng Christ ban cho chúng ta một động cơ thúc đẩy mới, chớ không phải một tổ chức mới. Cả tôi tớ lẫn người chủ đều đang hầu việc Chúa và cố tìm cách làm đẹp lòng Ngài, và theo cách này họ có thể cùng làm việc với nhau để tôn vinh Đức Chúa Trời. Trách nhiệm của một người chủ Cơ-đốc đối với người làm công của mình là gì?
Người ấy phải chăm tìm lợi ích của họ – “hãy đối đãi kẻ tôi tớ mình đồng một thể ấy.” Nếu người chủ mong đợi những người làm công nỗ lực hết sức cho mình , người ấy phải nổ lực hết sức vì cớ họ. Người chủ phải hầu việc Chúa hết lòng nếu người ấy trông mong các tôi tớ mình làm điều tương tự. Người ấy không được bóc lột họ.
Một trong những gương mẫu vĩ đại nhất của điều này trong Kinh Thánh là Bô-ô trong Sách Ru-tơ. Ông chào hỏi những người làm công cho mình với câu, “Nguyện Đức Giê-hô-va ở cùng các ngươi!” Và họ đáp, “Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho ông!” (Ru 2:4).
Bô-ô nhạy bén đối với nhu cầu của những kẻ làm công cho ông và rộng rãi đối với khách lạ là Ru-tơ. Mối quan hệ giữa ông với những người làm công là một mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau và một sự mong ước tôn vinh Đức Giê-hô-va. Thật đáng tiếc khi một nhân viên nói, “Ông chủ của tôi cho rằng mình là một Cơ-đốc nhân, nhưng bạn sẽ không hề biết điều đó đâu!”
Người ấy không được ngăm dọa – Những người chủ La-mã có thế lực và uy quyền hợp pháp để giết một nô lệ nổi loạn, mặc dầu rất ít người làm điều đó. Những người nô lệ trị giá rất nhiều tiền nên không thể giết hại họ được. Phao-lô gợi ý là người chủ Cơ-đốc nên có một cách thức tốt hơn để khích lệ sự vâng lời và phục vụ hơn là những lời ngăm doạ trừng phạt.
Sức mạnh của sự sợ hãi tiêu cực có thể đưa đến kết quả là người làm công làm việc ít đi thay vì nhiều thêm, và loại động cơ thúc đẩy này không thể nào được tiếp tục lâu dài. Càng tốt hơn nữa là sự thúc đẩy tích cực của “đều công bình chánh trực” (Côl 4:1).
Hãy để một người san sẻ những thành quả của sự lao nhọc mình và rồi người ấy sẽ làm việc tốt hơn và chăm chỉ hơn. Cả Cựu-ước cũng cho lời khuyên tương tự này: “Ngươi chớ lấn lướt mà khắc bạc họ, nhưng phải kính sợ Đức Chúa Trời ngươi” (Le 25:43).
• Người ấy phải vâng phục Chúa – “Chủ của anh em cũng ở trên trời” (Le 6:9). Đây là việc thực hành uy quyền của Đấng Christ. Người vợ vâng phục chồng mình “như vâng phục Chúa” (Eph 5:22), và người chồng yêu vợ mình “như Đấng Christ cũng yêu thương Hội thánh” (Eph 5:25). Con cái vâng phục cha mẹ mình “trong Chúa” (Eph 6:1), và cha mẹ nuôi nấng con cái mình “trong sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa” (Eph 6:4). Tôi tớ vâng phục “như vâng phục Chúa” (Eph 6:5), và những người làm chủ đối đãi với tôi tớ mình như “Chủ của họ ở trên trời” mong muốn họ làm. Mỗi người, trong sự vâng phục Chúa, không gặp khó khăn gì khi vâng phục những người trên mình.
Chúa Giê-xu cho biết cách để trở nên một người cai trị là trước tiên hãy trở nên một tôi tớ (Mat 25:21). Người nào không ở dưới thẩm quyền không có quyền thực thi thẩm quyền. Điều này giải thích vì sao nhiều người vĩ đại trong Kinh Thánh trước tiên đều là những tôi tớ trước khi Đức Chúa Trời lập họ làm những kẻ cai trị: Giô-sép, Môi-se, Giô-suê, Đa-vít, và Nê-hê-mi chỉ là một vài ví dụ. Ngay cả sau khi một người trở thành một người lãnh đạo, người ấy vẫn còn phải lãnh đạo bằng việc phục vụ. Một câu tục ngữ Châu Phi nói rằng, “Người đứng đầu là đầy tớ của mọi người.” “Và kẻ nào muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi các ngươi” (Mat 20:27).
Một người bạn của tôi được đề bạt lên cương vị uỷ viên của ban quản trị và thật tiếc thay, điều này khiến anh sinh lòng kiêu ngạo. Anh tận hưởng mọi quyền hạn của mình với tư cách uỷ viên ban quản trị và hơn nữa, và không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để nhắc nhở các nhân viên của mình ai đang đứng đầu. Nhưng anh ta đánh mất sự kính trọng của nhân viên mình, và sự sản xuất và năng suất giảm sút thật nhanh đến nỗi ban giám đốc đã phải thay người thế chỗ anh ta. Vì người bạn tôi quên rằng anh ta có một “Chủ ở trên trời, ” nên anh ta đã không thể làm một người “chủ tốt ở trên đất.”
Người ấy không được xử sự thiên vị – Đức Chúa Trời không tây vị ai. Ngài sẽ đoán xét một người chủ hay một tôi tớ nếu người ấy phạm tội, hoặc Ngài sẽ ban thưởng một người chủ hay một tôi tớ nếu người ấy vâng lời (c. 8). Một người chủ Cơ-đốc không thể thi hành các đặc quyền với Đức Chúa Trời chỉ vì cớ địa vị của mình người ấy cũng không nên xử sự thiên vị với những kẻ ở dưới thẩm quyền mình.
Phao-lô nhắc nhở Ti-mô-thê hãy “giữ những đều đó, đừng in trí trước, phàm việc gì cũng chớ tây vị bên nào” (ITi 5:21). Một trong những cách nhanh nhất để một người lãnh đạo chia rẽ những kẻ theo mình và mất lòng tin của họ là người ấy xử sự thiên vị và tỏ ra bất công.
Điều này kết thúc phần chúng ta gọi là “Hãy bước đi trong sự hài hòa.” Nếu chúng ta đầy dẫy Đức Thánh Linh và đầy sự vui mừng, đầy lòng cảm tạ, và sẵn sàng vâng phục, thì chúng ta có thể tận hưởng sự hài hoà trong những mối quan hệ của đời sống khi chúng ta sống và làm việc với những Cơ-đốc nhân khác. Chúng ta cũng sẽ thấy dễ dàng hơn khi làm việc với và làm chứng cho những người chưa tin Chúa là những người có thể bất đồng với chúng ta. Bông trái của Thánh Linh là tình yêu thương, và tình yêu thương là sợi dây nối kết vĩ đại nhất trên thế gian này!
11. BẠN HIỆN ĐANG Ở TRONG QUÂN ĐỘI! (Eph 6:10-24)
Không sớm thì muộn mọi tín hữu đều khám phá rằng đời sống Cơ Đốc là một bãi chiến trường, chớ không phải một sân chơi, và người ấy đối diện một kẻ thù vốn mạnh mẽ hơn mình nhiều – ngoài ra Chúa. Việc Phao-lô dùng quân đội để minh hoạ sự xung đột giữa người tín đồ với Sa-tan là hợp lý. Bản thân ông đã bị xiềng vào một tên lính La-mã (Eph 6:20), và độc giả của ông chắc hẳn quen thuộc với những người lính và các dụng cụ họ dùng. Trên thực tế, những hình ảnh minh hoạ liên quan đến quân sự là những điều Phao-lô ưa thích (IITi 2:3; IITi 4:7; ITi 6:12; IICôr 10:4).
Là những Cơ-đốc nhân, chúng ta đương đầu ba kẻ thù: thế gian, xác thịt, và ma quỉ (Eph 2:1-3). “Thế gian” ám chỉ hệ thống chung quanh chúng ta chống nghịch với Đức Chúa Trời, phục vụ cho “sự mê tham của xác thịt, và sự mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời” (IGi 2:15-17). “Xã hội tách biệt khỏi Đức Chúa Trời” là một định nghĩa đơn giản, nhưng chính xác về “thế gian.” “Xác thịt” là bản tính cũ mà chúng ta kế thừa từ A-đam, một bản tính chống nghịch với Đức Chúa Trời và không thể làm bất cứ điều gì có tính cách thuộc linh để đẹp lòng Đức Chúa Trời.Bởi sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ, Ngài đã đắc thắng thế gian (Gi 16:33; Ga 6:14), xác thịt (Ga 2:20; Rô 6:1-6), và ma quỷ (Eph 1:19-23). Nói cách khác, là tín đồ, chúng ta không chiến đấu để có chiến thắng – chúng ta chiến đấu từ chiến thắng! Thánh Linh của Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, bởi đức tin, để giành lấy sự đắc thắng của Đấng Christ cho chính mình.
Trong những câu kết của bức thư, Phao-lô bàn về bốn đề tài để các độc giả của ông có thể bước đi trong sự đắc thắng bởi việc thấu hiểu và áp dụng những chân lý này.
1. Kẻ thù (Eph 6:10-12)
Các quân đoàn tình báo giữ một phần quan trọng trong cuộc chiến vì nó giúp các sĩ quan có thể biết và hiểu được kẻ thù. Nếu chúng ta không biết kẻ thù là ai, nó ở đâu, và nó có thể làm gì, chúng ta phải khó khăn lắm trong việc đánh bại kẻ thù. Không chỉ trong Ê-phê-sô 6, nhưng trong suốt cả Kinh Thánh, Đức Chúa Trời chỉ dạy chúng ta về kẻ thù, vì thế không có lý do gì để chúng ta bị bắt gặp là thiếu cảnh giác.
• Kẻ lãnh đạo – ma quỷ.
Kẻ thù có nhiều tên gọi khác nhau. Ma quỷ có nghĩa là “kẻ kiện cáo, ” vì nó ngày đêm kiện cáo dân sự của Đức Chúa Trời trước ngôi Đức Chúa Trời (Kh 12:7-11). Sa-tan có nghĩa là “kẻ đối địch, ” vì nó là kẻ thù của Đức Chúa Trời.
Nó cũng được gọi là kẻ cám dỗ (Mat 4:3), và kẻ giết người và kẻ nói dối (Gi 8:44). Nó được ví sánh với con sư tử (IPhi 5:8), con rắn (Sa 3:1 Kh 12:9), và thiên sứ sáng láng (IICôr 11:13-15), cũng như là “chúa của đời này” (IICôr 4:4).
Tạo vật thần linh này, kẻ luôn tìm cách chống nghịch Đức Chúa Trời và đánh bại công việc của Ngài, đến từ đâu? Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng trong sự tạo dựng nguyên thuỷ, nó là “Lu-ci-phe con trai của sáng sớm” (Es 14:12-15) và nó đã bị quăng xuống vì cớ sự kiêu ngạo mình và lòng ham muốn chiếm ngai vị của Đức Chúa Trời.
Nhiều điều bí ẩn có liên hệ tới nguồn gốc của Sa-tan, nhưng nó đang làm gì và nó đang đi đâu chắc hẳn không có gì là bí ẩn cả! Vì nó là một vật thọ tạo, chớ không còn đời đời (như Đức Chúa Trời), nên nó bị giới hạn trong sự hiểu biết và hoạt động của mình. Không như Đức Chúa Trời, Sa-tan không toàn tri, toàn năng, hoặc có mặt ở khắp mọi nơi. Vậy thì làm thế nào nó hoàn tất rất nhiều việc trong rất nhiều phần khác nhau của thế giới? Câu trả lời là nhờ những kẻ trợ giúp có tổ chức của nó.
• Những kẻ trợ giúp của Sa-tan.
Phao-lô gọi chúng là “các chủ quyền . . . các thế lực .. . các vua chúa của thế gian . . . các thần dữ ở các miền trên trời” (c.12). Charles B. William dịch câu này là: “Vì chúng ta chiến đấu không phải với những kẻ thù là con người mà thôi, mà còn với các vua chúa, các kẻ cầm quyền, và các thế lực trên không trung của thế gian tối tăm này tức là, với các lực lượng thần linh gian ác thách thức chúng ta trong cuộc chiến đấu ở trên trời” (Tân-ước trong Ngôn ngữ của Mọi người).
Điều này ám chỉ một đạo quân rõ ràng gồm các tạo vật thuộc ma quỉ hỗ trợ cho Sa-tan trong những cuộc tấn công của nó vào các tín-đồ. Sứ-đồ Giăng ám chỉ rằng một phần ba thiên sứ đã sa ngã với Sa-tan khi nó phản loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời (Kh 12:4), và Đa-ni-ên đã viết rằng các thiên sứ của Sa-tan chống trả với các thiên sứ của Đức Chúa Trời để giành quyền kiểm soát công việc của các nước (Da 10:13-20).
Một trận chiến thuộc linh đang diễn ra trên thế giới này, và trong phạm vi của “các miền trên trời, ” và bạn cùng tôi là một phần của cuộc chiến này. Việc nhìn biết này khiến cho “việc bước đi trong sự đắc thắng” là một điều quan trọng sống còn đối với chúng ta –và cả đối với Đức Chúa Trời.
Điểm quan trọng là cuộc chiến của chúng ta không phải chống lại những con người. Nó chống lại những thế lực thuộc linh. Chúng ta đang phí thời gian chống trả với con người trong khi chúng ta lẽ ra cần phải đang chiến đấu chống lại ma quỉ là kẻ cố tìm cách khống chế con người và khiến họ chống nghịch lại công việc của Đức Chúa Trời.
Trong suốt chức vụ của Phao-lô tại Ê-phê-sô, một cuộc dấy loạn đã diễn ra có thể đã huỷ diệt Hội thánh (Công 19:21-41). Điều này không chỉ do Đê-mê-triu và những kẻ đồng bọn của hắn gây ra, vì đàng sau chúng là Sa-tan và đồng bọn của nó.
Chắc hẳn Phao-lô và Hội thánh đã cầu nguyện, và sự chống đối đã được dẹp yên. Lời vua Sy-ri khuyên các lính chiến của người có thể được áp dụng cho cuộc chiến thuộc linh của chúng ta: “Các ngươi chớ áp đánh ai bất kỳ lớn hay nhỏ, nhưng chỉ một mình vua mà thôi” (IVua 22:31).
• Những khả năng của Sa-tan.
Những lời khuyên Phao-lô nêu lên cho thấy rằng Sa-tan là một kẻ thù mạnh mẽ (c.10-12), và chúng ta cần năng quyền của Đức Chúa Trời để có thể cự địch lại nó. Đừng bao giờ đánh giá thấp quyền lực của ma quỉ. Nó không được ví sánh với một con sư tử hay một con rồng chỉ cho vui mà thôi! Sách Gióp thuật lại những gì quyền lực của nó có thể thực hiện trên thân thể, gia đình, tài sản, và bạn hữu của một người.
Chúa Giê-xu gọi Sa-tan là một kẻ trộm đã đến “để cướp giết và huỷ diệt” (Gi 10:10). Sa-tan không chỉ mạnh, mà nó cũng khôn ngoan và quỷ quyệt, và chúng ta chống cự lại “những mưu chước của ma quỷ.” Mưu chước có nghĩa là “sự xảo quyệt, gian giảo, mánh khoé xảo trá, mưu mô.” Cơ-đốc nhân không thể nào “không biết gì về mưu chước của nó” (IICôr 2:11). Một số người xảo quyệt và lắm mánh khoé và “rình rập để lừa đảo” (Eph 4:14), nhưng đàng sau họ là kẻ dối gạt tinh quái, tức Sa-tan. Nó giả mạo làm thiên sứ sáng láng (IICôr 11:14) và tìm cách làm tâm trí con người bị đui mù đối với chân lý của Lời Đức Chúa Trời.
Sự kiện Phao-lô dùng từ đánh trận (vật lộn) ám chỉ là chúng ta tham dự vào một trận chiến tay đôi chớ không chỉ là những khán giả tại một cuộc thi đấu. Sa-tan muốn sử dụng kẻ thù bên ngoài chúng ta, tức thế gian, và kẻ thù bên trong chúng ta, tức xác thịt, để đánh bại chúng ta. Vũ khí và những kế hoạch chiến trận của nó thật dễ sợ.
2. Những sự trang bị (Eph 6:13-17)
Vì chúng ta đang chiến đấu chống lại những kẻ thù trong thế giới thần linh, chúng ta cần sự trang bị đặc biệt để vừa tấn công vừa phòng thủ. Đức Chúa Trời đã cung cấp “cả bộ áo giáp” cho chúng ta, và chúng ta không dám bỏ quên bất kỳ bộ phận nào. Sa-tan tìm kiếm vùng nào không được canh phòng để có thể len lỏi vào được (Eph 4:27).
Phao-lô truyền cho độc giả của mình hãy mặc áo giáp vào, cầm lấy các khí giới, và cự địch lại Sa-tan, tất cả mọi điều này chúng ta làm bởi đức tin. Nhận biết rằng Đấng Christ đã thắng hơn Sa-tan rồi, và áo giáp cùng những khí giới thuộc linh đã được sắm sẵn, bởi đức tin chúng ta tiếp nhận những gì Đức Chúa Trời ban cho mình và đi ra đối đầu với kẻ thù. Ngày thì xấu, và kẻ thù thì gian ác, nhưng “nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?” (Rô 8:31).
• Thắt lưng bằng chân lý (Eph 6:14) – Sa-tan là một kẻ nói dối (Gi 8:44), nhưng người tín đồ có đời sống được chân lý cai quản sẽ đánh bại nó.Cái thắt lưng giữ chặt các phần khác của bộ áo giáp lại với nhau, và chân lý là sức mạnh đem đến một sự hiệp nhất trong đời sống của Cơ-đốc nhân đắc thắng.
Một người với một phẩm hạnh tốt, một lương tâm trong sạch, có thể đối diện kẻ thù mà không hề sợ hãi. Cái thắt lưng cũng giữ lấy thanh gươm. Nếu chúng ta không làm theo chân lý, chúng ta không thể nào sử dụng Lời của chân lý. Một khi một lời dối trá len lỏi vào đời sống một tín đồ, mọi thứ bắt đầu sai trật. Suốt hơn một năm, Vua Đa-vít đã nói dối về tội lỗi của mình với Bát-sê-ba, và mọi sự đều không như ý ông muốn. Thi 32:1-11 và Thi 51:1-19 cho biết cái giá ông phải trả.
• Giáp của sự công bình (Eph 6:14) – Phần này của bộ áo giáp, được làm bằng những tấm kim loại hoặc những dây xích kim loại, che phủ thân từ cổ đến thắt lưng, cả trước lẫn sau. Nó tượng trưng cho sự công bình trong Đấng Christ của người tín đồ (IICôr 5:21) cũng như đời sống công bình trong Đấng Christ của người ấy (Eph 4:24).
Sa-tan là kẻ kiện cáo, nhưng nó không thể kiện cáo người tín đồ đang sống một đời sống tin kính trong năng quyền của Thánh Linh. Đời sống mà chúng ta sống hoặc khiến chúng ta mạnh mẽ hơn để chống lại những sự tấn công của Sa-tan, hoặc khiến nó dễ dàng đánh bại chúng ta hơn (IICôr 6:1-10). Phao-lô cũng đề cập đến áo giáp (IICôr 6:7).
Khi Sa-tan kiện cáo Cơ-đốc nhân, thì chính sự công bình của Đấng Christ bảo đảm cho người tín-đồ về sự cứu rỗi của người ấy. Nhưng địa vị công bình của chúng ta trong Đấng Christ, nếu không có việc làm theo sự công bình trong đời sống hàng ngày, thì chỉ tạo cơ hội để Sa-tan tấn công chúng ta mà thôi.
• Giày dép của Phúc-Âm (Eph 6:15) – Người lính La-mã mang giày có đinh đầu to đóng vào đế để người ấy có thể đứng vững vàng khi đánh trận. Nếu chúng ta muốn “đứng” và “trụ lại,” thì chúng ta cần giày dép của Phúc-Âm. Vì chúng ta có sự bình an với Đức Chúa Trời (Rô 5:1) đến từ Phúc-Âm, chúng ta không cần phải sợ hãi sự tấn công của Sa-tan hoặc con người.
Chúng ta phải hòa thuận với Đức Chúa Trời, và với nhau, nếu chúng ta muốn đánh bại ma quỷ (Gia 4:1-7). Nhưng giày dép còn có một ý nghĩa khác. Chúng ta phải sẵn sàng mỗi ngày để chia sẻ Phúc-Âm bình an với một thế giới hư mất. Cơ-đốc nhân đắc thắng nhất là một Cơ-đốc nhân đang làm chứng cho Chúa. Nếu chúng ta mang giày dép của Phúc-Âm, thì chúng ta có “đôi chân xinh đẹp” được đề cập trong Es 52:7 và Rô 10:15.
Sa-tan đã tuyên chiến, nhưng bạn và tôi là những sứ giả giảng hòa (IICôr 5:18-21) và như thế, chúng ta đem Phúc-Âm bình an đến bất cứ nơi nào mình đi.
Thuẫn đức tin (Eph 6:16) – Cái thuẫn thì lớn, thường có diện tích khoảng 1m3 x 0m6, làm bằng gỗ, và phủ bằng loại da bền. Khi người lính giữ cái thuẫn phía trước mình, nó che chở người ấy khỏi những mũi giáo, tên, và “tên lửa.” Những cạnh của các thuẫn này được chế thật kỹ đến độ nguyên một hàng lính chiến có thể cài những cái thuẫn sát vào nhau và xông vào kẻ thù như một bức tường vững chắc.
Điều này ám chỉ là Cơ-đốc nhân chúng ta không đánh trận cách đơn độc. “Đức tin” đề cập ở đây không phải là đức tin cứu rỗi, nhưng là đức tin sống động, một sự tin cậy vào lời hứa và năng quyền của Đức Chúa Trời. Đức tin là một khí giới phòng thủ để che chở chúng ta khỏi những tên lửa của Sa-tan.
Vào thời của Phao-lô, những mũi tên, nhúng vào trong một chất dễ cháy nào đó và đốt lên, được bắn vào quân thù. Sa-tan bắn “những tên lửa” vào tấm lòng và tâm trí của chúng ta: những lời dối trá, những ý tưởng báng bổ, những tư tưởng ghen ghét đối với người khác, những sự nghi ngờ, và những ham muốn mãnh liệt đối với tội lỗi. Nếu chúng ta không bởi đức tin mà dập tắt những tên này, chúng sẽ nhen một ngọn lửa trong lòng chúng ta và chúng ta sẽ bất tuân Đức Chúa Trời. Chúng ta không bao giờ biết Sa-tan sẽ bắn tên vào chúng ta khi nào, vì vậy chúng ta phải luôn bước đi bởi đức tin và sử dụng thuẫn đức tin.
• Mão trụ của sự cứu rỗi (Eph 6:17) – Sa-tan muốn tấn công vào tâm trí, theo cách nó đã đánh bại Ê-va (Sa 3:1-24; IICôr 11:1-3). Chiếc mão ám chỉ tâm trí được Đức Chúa Trời cai quản. Thật quá tai hại là nhiều Cơ-đốc nhân có ý tưởng rằng trí tuệ không quan trọng, trong khi trên thực tế nó đóng một vai trò chủ yếu trong sự trưởng thành, hầu việc, và đắc thắng của Cơ-đốc nhân.
Khi Đức Chúa Trời cai quản tâm trí, Sa-tan không thể dẫn người tín đồ đi lạc đường được.
Cơ-đốc nhân nghiên cứu Kinh Thánh và học biết ý nghĩa của những giáo lý trong Kinh Thánh sẽ không bị dẫn lạc đường cách quá dễ dàng. Chúng ta cần được “dạy dỗ trong Ngài y theo chân lý trong Đức Chúa Giê-xu” (Eph 4:21). “Chúng ta phải tấn tới trong ân điển, và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Chúa Giê-xu Christ” (IIPhi 3:18). Bất cứ nơi nào Phao-lô phục sự Chúa, ông đều dạy những người mới trở lại đạo những chân lý của Lời Đức Chúa Trời, và chiếc mão này che chở họ khỏi những lời dối gạt của Sa-tan.
Một buổi chiều Chúa nhật nọ, tôi đến thăm một người đã từng là một chấp sự tại một Hội thánh địa phương, nhưng vào lúc ấy đang dính líu với một tà giáo. Chúng tôi ngồi tại bàn với những quyển Thánh Kinh mở ta, và tôi cố gắng chỉ cho ông ta thấy chân lý của Lời Đức Chúa Trời, nhưng dường như tâm trí ông ta đã bị những lời dối trá làm cho mù lòa. “Làm thế nào mà ông lại xoay khỏi một Hội thánh rao giảng Lời Kinh Thánh và bị cuốn hút vào sự tin tưởng này vậy?” Tôi hỏi, và câu trả lời của ông ta khiến tôi sửng sốt.
“Thưa Mục sư, theo tôi lỗi là do Hội thánh. Tôi không biết gì về Kinh Thánh, nhưng họ không dạy cho tôi nhiều hơn. Tôi muốn học Kinh Thánh, nhưng không ai chỉ cho tôi học cách nào. Rồi họ bầu tôi làm một chấp sự, còn tôi lại chưa sẵn sàng với chức vụ đó. Nó quá sức tôi. Tôi nghe người này giảng dạy Kinh Thánh trên ra đi ô và dường như thể ông ta biết một điều gì đó. Tôi khởi sự đọc tạp chí của ông ta và nghiên cứu sách của ông, và giờ thì tôi đoan chắc rằng ông ta đúng.”
Thật là một điều đau buồn khi Hội thánh địa phương của ông ta đã nhận ông ta vào, vì họ không chịu chuẩn bị ông ta để thích hợp với mão trụ của sự cứu rỗi. Nếu mà họ đã làm theo chân lý tìm thấy trong IITi 2:2, thì người này có thể đã không trở thành một nạn nhân trong chiến trận.
• Gươm của Thánh Linh (Eph 6:17) – là khí giới để tấn công Đức Chúa Trời ban cho chúng ta. Người lính La-mã mang trên thắt lưng mình một thanh gươm ngắn dùng để cận chiến. Hêb 4:12 so sánh Lời Đức Chúa Trời như một thanh gươm, vì nó sắc bén và có thể đâm thấu vào người bề trong giống như một thanh gươm thật đâm thấu vào thân thể. Bạn và tôi bị “đâm thấu vào lòng” (Công 2:37; Công 5:33) khi Lời Chúa cáo trách chúng ta về tội lỗi mình.
Phi-e-rơ đã cố gắng dùng gươm để bảo vệ Chúa Giê-xu trong Vườn (Lu 22:47-51) nhưng ông học được vào ngày lễ Ngũ Tuần rằng “gươm của Thánh Linh” thực hiện một công tác tốt đẹp hơn nhiều. Môi-se đã cố gắng chiến thắng bằng một thanh gươm thật (Xu 2:11-15), chỉ để khám phá rằng chỉ Lời Đức Chúa Trời thôi là quá đủ để đánh bại xứ Ai-cập.
Một thanh gươm cụ thể đâm thấu vào thân thể, nhưng Lời Đức Chúa Trời đâm thấu tấm lòng. Càng sử dụng gươm thuộc thể càng bị lụt đi, nhưng việc sử dụng Lời Đức Chúa Trời chỉ làm cho lời ấy sắc bén hơn trong đời sống chúng ta. Một thanh gươm vật chất cần đến bàn tay của một người lính, nhưng gươm của Thánh Linh tự nó có năng quyền, vì nó là “sống và linh nghiệm” (Hêb 4:12).
Thánh linh viết ra Lời Đức Chúa Trời, và Thánh Linh sử dụng Lời ấy khi chúng ta nhận lấy nó bởi đức tin và sử dụng nó. Một thanh gươm cụ thể gây thương tích để làm hại và giết chết, trong khi gươm của Thánh Linh gây thương tích để chữa lành và ban cho sự sống. Nhưng khi chúng ta sử dụng gươm chống lại Sa-tan, chúng ta kiên quyết giáng cho nó một đòn để nó sẽ phải bại xuội và giữ nó khỏi cản trở công việc của Đức Chúa Trời.
Khi Đấng Christ bị Sa-tan cám dỗ trong đồng vắng, Ngài sử dụng gươm của Thánh Linh và đã đánh bại kẻ thù. Ba lần Chúa Giê-xu phán, “Có chép rằng” (Lu 4:1-13). Hãy lưu ý là Sa-tan cũng có thể trích dẫn Lời Chúa: “vì có chép rằng” (Lu 4:10), nhưng nó không trích dẫn hoàn toàn.
Sa-tan cố gắng dùng Lời của Đức Chúa Trời để làm chúng ta rối rắm, vì thế điều quan trọng là chúng ta phải biết mọi lời mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta. Có người đã nói “bạn có thể dùng Kinh Thánh để chứng minh bất cứ điều gì,”. Đúng vậy – nếu bạn lấy những câu Kinh Thánh ra khỏi mạch văn, bỏ qua một số từ ngữ, và áp dụng những câu ấy cho Cơ-đốc nhân ngày nay điều mà thật sự không áp dụng được. Càng biết Lời Đức Chúa Trời tận tường hơn, bạn sẽ càng dễ dàng nhận ra những sự dối trá của Sa-tan hơn và dễ dàng khước từ những đề nghị của nó hơn.
Về một ý nghĩa, “cả bộ áo giáp của Đức Chúa Trời” là một hình ảnh của Chúa Giê-xu Christ. Đấng Christ là chân lý (Gi 14:6), và Ngài là sự công bình của chúng ta (IICôr 5:21) và sự hòa hiệp của chúng ta (Eph 2:14). Sự thành tín của Ngài khiến đức tin của chúng ta có thể thành hiện thực (Ga 2:20) Ngài là sự cứu rỗi của chúng ta (Lu 2:30) và Ngài là Lời của Đức Chúa Trời (Gi 1:1,14).
Điều này có nghĩa là khi chúng ta tin cậy Đấng Christ, chúng ta đã nhận lãnh áo giáp này.
Phao-lô truyền dạy các tín-hữu ở thành Rô-ma phải làm gì với bộ áo giáp này (Rô 13:11-14): hãy thức dậy (c.11), từ bỏ tội lỗi, và “mặc lấy áo giáp sáng láng” (c.12). Chúng ta làm điều này bằng cách “mặc lấy Chúa Giê-xu Christ” (c.14). Bởi đức tin, hãy mặc lấy áo giáp và tin cậy Đức Chúa Trời để có sự chiến thắng.
Một lần đủ cả, chúng ta đã mặc lấy áo giáp vào lúc được cứu. Nhưng phải có một sự nhận lấy cho chính mình hàng ngày. Khi Vua Đa-vít cởi áo giáp ra và trở về cung điện của mình, ông ở trong tình trạng hiểm nguy hơn nhiều so với khi ông ở ngoài chiến trường (IISa 11:1-27). Chúng ta không bao giờ ở ngoài tầm hoạt động của mưu chước Sa-tan cả, vì thế chúng ta không bao giờ được thiếu cả bộ áo giáp của Đức Chúa Trời.
3. Năng lực (Eph 6:18-20)
Sự cầu nguyện là năng lực khiến người chiến sĩ Cơ-đốc có thể mặc áo giáp và sử dụng gươm. Chúng ta không thể nào đánh trận bằng sức riêng của mình được, dù cho chúng ta có thể cho rằng mình mạnh mẽ hay tài giỏi đến đâu đi nữa. Khi dân A-ma-léc tấn công dân Y-sơ-ra-ên, Môi-se đi lên núi để cầu nguyện, trong khi Giô-suê dùng gươm chiến đấu dưới trũng (Xu 17:8-16). Phải cần cả hai để đánh bại A-ma-léc – sự cầu thay của Môi-se trên núi, và việc dùng gươm chiến đấu của Giô-suê nơi trũng. Sự cầu nguyện là năng lực để chiến thắng, nhưng không phải bất cứ loại cầu nguyện nào. Phao-lô cho chúng ta biết phải cầu nguyện như thế nào nếu chúng ta muốn đánh bại Sa-tan.
• Hãy cầu nguyện luôn luôn.
Điều này hiển nhiên không có nghĩa là “miệng luôn luôn cầu nguyện.” Chúa không nghe chúng ta vì chúng ta “nói nhiều” (Mat 6:7). “Hãy cầu nguyện không thôi” (ITe 5:17) dạy chúng ta, “Hãy luôn ở trong mối tương giao với Chúa. Chớ gác ống nghe lên máy!” Khi bạn cầu nguyện đừng bao giờ cần phải nói rằng, “Lạy Chúa, chúng con đến trong sự hiện diện của Ngài” vì bạn không bao giờ rời khỏi sự hiện diện của Chúa cả!
Một Cơ-đốc nhân phải “cầu nguyện luôn” vì người ấy luôn đối diện với những sự cám dỗ và những sự tấn công của ma quỷ. Một cuộc tấn công bất ngờ đánh bại nhiều tín-đồ là những người đã quên “cầu nguyện không thôi.”
• Hãy làm đủ mọi thứ cầu nguyện và nài xin.
Có nhiều loại cầu nguyện: khẩn nguyện, kêu van, cầu thay, tạ ơn (Phi 4:6 ITi 2:1). Người tín-đồ cầu nguyện chỉ để cầu xin điều này điều khác đang bỏ mất những phước hạnh có được do sự cầu thay và cảm tạ. Trên thực tế, việc cảm tạ là một vũ khí cầu nguyện lớn lao để đánh bại Sa-tan. “Sự ngợi khen làm thay đổi mọi việc” cũng y như “lời cầu nguyện làm thay đổi mọi việc.” Sự cầu thay cho người khác có thể đem đến sự đắc thắng cho đời sống riêng của chúng ta. “Vậy, khi Gióp đã cầu nguyện cho bạn hữu mình rồi, Đức Giê-hô-va bèn đem người ra khỏi cảnh khốn người” (Giop 42:10).
• Hãy cầu nguyện trong Thánh Linh.
Công thức của Thánh Kinh là chúng ta cầu nguyện với Đức Chúa Cha, qua Đức Chúa Con, và trong Đức Thánh Linh. Rô 8:26-27 cho chúng ta biết rằng chỉ trong năng quyền của Thánh Linh chúng ta mới có thể cầu xin trong ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu không, sự cầu xin của chúng ta có thể ích kỷ và ra ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời.
Trong đền tạm thời Cựu-ước, có một bàn thờ nhỏ bằng vàng đặt trước bức màn, và thầy tế lễ dâng hương tại đây (Xu 30:1-10; Lu 1:1-11). Hương thơm là một hình ảnh của lời cầu nguyện. Nó phải được pha trộn theo kế hoạch của Đức Chúa Trời, chớ không thể do con người giả mạo được. Lửa trên bàn thờ là hình ảnh của Đức Thánh Linh, vì chính Ngài nhận lấy những lời cầu xin của chúng ta và đốt cháy chúng trong ý muốn của Đức Chúa Trời.
Có thể lắm chúng ta cầu nguyện cách nhiệt thành trong xác thịt và không bao giờ đến được với Đức Chúa Trời. Cũng có thể lắm chúng ta cầu nguyện cách yên lặng trong Thánh Linh và nhìn thấy bàn tay Đức Chúa Trời thực hiện nhiều điều lớn lao.
Hãy cầu nguyện trong sự tỉnh thức. Thức canh có nghĩa là “giữ cảnh giác.” Câu “thức canh và cầu nguyện” thường thấy trong Kinh Thánh. Khi Nê-hê-mi đang xây sửa những bức tường thành của Giê-ru-sa-lem, và kẻ thù đang cố gắng khiến công việc phải dừng lại, Nê-hê-mi đã đánh bại kẻ thù bằng cách thức canh và cầu nguyện. “Nhưng chúng tôi cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời chúng tôi, và lập kẻ canh giữ” (Ne 4:9). “Hãy thức canh và cầu nguyện” là bí quyết của sự đắc thắng đối với thế gian (Mac 13:33), xác thịt (Mac 14:38), và ma quỷ (Eph 6:18).
Phi-e-rơ ngủ gục khi đáng lẽ ra ông phải đang cầu nguyện, và kết quả là sự chiến thắng của Sa-tan (Mac 14:29-31,67-72). Đức Chúa Trời mong đợi chúng ta sử dụng những sự khôn ngoan do Ngài ban cho chúng ta, nhờ Thánh Linh dẫn dắt, để chúng ta nhận ra Sa-tan khi nó đang bắt đầu hành động.
• Hãy cầu nguyện bền đỗ.
Từ kiên trì đơn giản có nghĩa là “bám lấy nó chớ không bỏ đi.” Những tín-đồ ban đầu đã cầu nguyện theo cách này (Công 1:14; Công 2:42; Công 6:4) và chúng ta cũng cần phải cầu nguyện theo cách này (Rô 12:12). Sự bền đỗ trong sự cầu nguyện không có nghĩa là chúng ta đang cố nắm lấy cánh tay của Đức Chúa Trời, nhưng đúng hơn là chúng ta đang quan tâm sâu xa và nặng lòng tột độ và không thể yên nghỉ cho đến khi chúng ta nhận được sự đáp lời của Đức Chúa Trời. Như Robert Law đã nói, “Cầu nguyện không phải là việc làm cho ý muốn của con người được thực hiện ở trên trời nó là việc làm cho ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất này” (Những Thử nghiệm của Đời sống, Grand Rapids:Baker, 1968).
Đa số chúng ta thôi cầu nguyện trước khi Đức Chúa Trời sắp ban cho chiến thắng. Không phải ai cũng có thể chất thật khoẻ mạnh để có thể chân thành dành trọn cả đêm trong sự cầu nguyện, nhưng tất cả chúng ta đều có thể bền đỗ trong sự cầu nguyện nhiều hơn điều mình đã làm. Hội thánh ban đầu đã cầu nguyện không thôi khi Phi-e-rơ ở trong tù, và vào phút chót, Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu xin của họ (Công 12:1-19). Hãy tiếp tục cầu nguyện cho đến khi Đức Thánh Linh ngăn bạn lại hoặc Đức Chúa Cha đáp lời bạn. Ngay gần lúc bạn cảm thấy muốn thôi cầu nguyện, thì Đức Chúa Trời sẽ đáp lời.
Hãy cầu nguyện cho hết thảy các thánh đồ. Lời Cầu nguyện của Chúa bắt đầu với câu “Lạy Cha chúng con” – chớ không phải “Lạy Cha của con.” Chúng ta cầu nguyện như một phần của một đại gia đình vốn cũng đang thưa chuyện với Đức Chúa Trời, và chúng ta cần phải cầu nguyện cho những thành viên khác của gia đình nữa.
Ngay đến Phao-lô cũng cầu xin những tín hữu tại Ê-phê-sô hỗ trợ cho ông trong sự cầu nguyện – và ông đã từng lên đến tầng trời thứ ba và trở về. Nếu Phao-lô còn cần đến những lời cầu thay của các thánh-đồ, thì bạn và tôi càng cần những lời cầu thay ấy nhiều hơn biết bao! Nếu những lời cầu xin của tôi giúp một tín đồ khác đánh bại Sa-tan, thì chiến thắng ấy cũng sẽ giúp đỡ tôi nữa. Hãy lưu ý là Phao-lô không xin họ cầu nguyện cho sự thoải mái hay an ninh của ông, nhưng cho sự hữu hiệu của việc làm chứng và chức vụ của ông mà thôi.
4. Sự khích lệ (Eph 6:21-24)
Chúng ta không đang đánh trận một mình. Có nhiều tín đồ khác cũng đang đứng với chúng ta trong cuộc chiến, và chúng ta cần phải cẩn trọng khích lệ lẫn nhau. Phao-lô đã khích lệ những người ở Ê-phê-sô Ty-chi-cơ là một sự khích lệ đối với Phao-lô (Cong 20:4) và Phao-lô sắp sai Ty-chi-cơ đến thành Ê-phê-sô để khích lệ họ.
Phao-lô không phải là loại giáo sĩ chỉ giữ lấy công việc cho bản thân mình. Ông muốn dân sự Đức Chúa Trời biết Đức Chúa Trời đang làm gì, những lời cầu xin của họ đang được nhậm ra sao, và Sa-tan đang làm gì để chống lại công việc Chúa. Động cơ của ông không vị kỷ. Ông không đang cố gắng để nhận được một điều gì đó từ nơi họ.
Thật là một sự khích lệ biết bao được làm một phần của gia đình Đức Chúa Trời! Không nơi nào trong Tân-ước chúng ta tìm thấy một tín đồ bị lẻ loi. Cơ-đốc nhân giống như những con chiên chúng tụ tập lại với nhau. Hội thánh là một đạo quân và những người lính chiến cần phải đứng chung với nhau và cùng nhau chiến đấu.
Hãy lưu ý những lời lẽ Phao-lô dùng khi ông kết thúc bức thư này: sự bình an, yêu thương, đức tin, ân điển! Ông đang là một tù nhân của La-mã, thế nhưng ông giàu có hơn vị hoàng đế. Dù chúng ta có thể ở trong những hoàn cảnh ra sao đi nữa, nhưng trong Chúa Giê-xu Christ chúng ta “được chúc phước với đủ mọi thứ phước thiêng liêng”!
Bạn thân mến, HÃY TRỞ NÊN GIÀU CÓ!
bottom of page