top of page
9. ĐÂY LÀ TÔI TỚ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Es 49:1-52:12)
Một bức trang trí trong phòng một người bạn viết rằng: “Thế gian đầy những người muốn phục vụ với tư cách cố vấn”.
Nhưng...
...Chúa Giê-xu Christ đã không đến với lời khuyên tốt lành, Ngài đến bằng tin tức tốt lành, Phúc-Âm mà tội nhân có thể được tha thứ và đời sống có thể trở nên mới mẻ một cách phấn khởi. Phúc-Âm là tin tức tốt lành đối với chúng ta, nhưng đó là “tin xấu” cho Con Đức Chúa Trời, vì nó có nghĩa là Ngài sẽ cần phải chuộc tội lỗi của thế gian.
Những chương này giới thiệu Tôi Tớ của Đức Chúa Trời, Đấng Mê-si-a trong 3 mối liên hệ quan trọng: với các dân ngoại (Es 49:1-50:3), với Cha Ngài (Es 50:4-11) và với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài (Es 51:1-52:12).
1. Tôi Tớ và dân ngoại (Es 49:1-26) (Es 49:1-50:3)
Tôi Tớ nói với các dân tộc không biết Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Dân ngoại là “xa lạ” và chỉ Tôi Tớ Đức Chúa Trời mới có thể đem họ đến gần (Eph 2:11-22). Đâng Christ đã xác nhận những lời hứa của Đức Chúa Trời đối với dân Do-thái và cũng trải rọng ân điển Đức Chúa Trời đến các dân ngoại (Ro 15:8-12).
rong sứ điệp này, Tôi Tớ Đức Chúa Trời giải thích chức vụ của Ngài với tư cách đem sự sáng vào nơi tối tăm (Es 49:1-7), sự giải phóng vào nơi giam cầm (c.8-13) và tình yêu cùng hy vọng cho những người nản lòng (Es 49:14-50:3).
• Sự sáng trong nơi tối tăm (Es 49:1-7).
Tôi Tớ Đức Chúa Trời đã phải nói với các dân ngoại điều gì hợp với quyền hạn của Ngài như thế? Từ trước khi Ngài giáng sinh, Ngài đã được Đức Chúa Trời kêu gọi vào chức vụ (Gie 1:5; Ga 1:15) và Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho Ngài như một gươm bén và một tên nhọn (He 4:12; Kh 116). Đấng Mê-si-a đã đến với tư cách một Tôi Tớ và một Chiến sĩ, hầu việc những ai tin cậy Ngài và cuối cùng xét đoán những ai chống nghịch Ngài.
Mọi tôi tớ của Đức Chúa Trời sẽ giống như vũ khí sẵn sàng. Robert Murray Mc Cheyne đã viết: “Không phải là những tài năng lớn mà Đức Chúa Trời chúc phước nhiều như Chúa Giê-xu. Một người thi hành chức vụ thánh (tôi tớ) là một vũ khí đáng sợ trong tay Đức Chúa Trời”.
Dân tộc Do-thái được kêu gọi để làm vinh hiển Đức Chúa Trời và làm sự sáng cho dân ngoại. Nhưng họ đã thất bại trong sứ mạng mình. Đây là lý do Đấng Mê-si-a được gọi là “Y-sơ-ra-ên” trong Es 49:3 Ngài làm công việc mà Y-sơ-ra-ên lẽ ra phải làm.
Ngày nay, Hội thánh là sự sáng của Đức Chúa Trời giữa thế giới tối tăm này (Công 13:46-49; Mat 5:14-16), và như Y-sơ-ra-ên, chúng ta dường như thất bại trong sứ mạng của mình để đem Phúc-Âm đến đầu cùng trái đất. Chúng ta không thể làm công việc thật hiệu quả khi chỉ 5% ngân sách của Hội thánh địa phương thông thường được dành cho sự truyền giảng Phúc-Âm!
Khi Chúa Giê-xu Christ thi hành chức vụ trên đất, đặc biệt cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, có những lúc khi công việc của Ngài dường như vô ích (Es 49:4). Các chức sắc tôn giáo đã chống đối Ngài, các môn đồ không phải lúc nào cũng hiểu Ngài, và những người được Ngài giúp đỡ không phải luôn cảm ơn Ngài. Ngài đã sống và lao động bởi đức tin, và Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài sự thành công.
Chúa của chúng ta đã không thể dạy dỗ cho dân ngoại cho đến khi Ngài trước hết dạy dỗ cho dân Do-thái (c.5-6). Hãy đọc cẩn thận Mat 10:5-6; Mat 15:24; Lu 24:44-49; Công 3:25-26; Công 13:46-47; Rô 1:16. Khi Chúa chúng ta trở về trời, Ngài để lại một số người Do-thái tin kính sót lại thực hiện công việc Ngài. Chúng ta đừng quên rằng “Sự cứu rỗi thuộc về dân Do-thái” (Gi 4:22). Kinh Thánh là một cuốn sách của Do-thái, những tín đồ và những truyền đạo đầu tiên là dân Do-thái, và dân ngoại sẽ không nghe về Phúc-Âm nếu nó không được đem đến cho họ bởi dân Do-thái. Đấng Mê-si-a đã bị cả dân Do-thái lẫn dân ngoại khinh dể (Gi 49:7), nhưng Ngài đã làm công việc của Đức Chúa Trời và được vinh hiển (Phi 2:1-11).
• Sự giải phóng và những phu tù (Es 49:8-13).
Tôi Tớ Đức Chúa Trời không chỉ là “Y-sơ-ra-ên mới”, nhưng Ngài cũng là “Môi-se mới” trong việc giải phóng dân Ngài. Chúa Giê-xu Christ là giao-ước của Đức Chúa Trời (Es 42:6), vì vậy chúng ta có thể chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ giữ những lời hứa của Ngài. Môi-se đã dẫn dân tộc ra khỏi ách nô lệ ở Ê-díp-tô, và Đức Chúa Trời sẽ dẫn dân Ngài ra khỏi sự giam cầm ở Ba-by-lôn. Giô-suê đã dẫn dân sự vào xứ họ để họ có thể tuyên bố di sản của mình, và Đức Chúa Trời sẽ đem họ về xứ họ “đặng lập lại những di sản hoang vu của nó” (Es 49:8 NIV).
Điều này áp dụng ra sao cho dân ngoại?
Nếu Đức Chúa Trời không hồi phục dân sự, thành và đền thờ, Ngài không hể làm trọn những lời hứa của Ngài có liên quan đến Đấng Mê-si-a. Nếu không có Giê-ru-sa-lem, Ngài sẽ được sinh ra ở đâu? Nếu không có Na-xa-rét, Ngài sẽ lớn lên ở đâu? Nếu không có Giê-ru-sa-lem và đền thờ, Ngài sẽ dạy dỗ, chịu khổ và chịu chết ở đâu? và Ngài đã làm điều này cho dân ngoại cũng như dân Do-thái.
Câu 10-12 nhìn xa hơn sự giải cứu khỏi Ba-by-lôn vào năm 536 TC để thấy vương quốc vinh hiển trong tương lai. Chúa sẽ gọi dân Do-thái từ đầu cùng trái đất và nhóm họ lại trong xứ họ (Es 14:1-3; Es 35:6; Es 40:11; Es 43:19).
• Tình yêu và hy vọng cho những người nản lòng (Es 49:14-50:3).
“Đức Giê-hô-va sẽ yên ủi dân Ngài và sẽ bày tỏ sự thương xót trên những kẻ khốn khó của Ngài” (Es 49:13 NIV).
Vì vậy dân sự Đức Chúa Trời ca hát khi họ suy gẫm sự giải cứu trong tương lai, nhưng dân sự bị giam cầm và những người ở trong “những di sản hoang vu” không vui mừng như vậy. Thay vì ca hát họ phàn nàn: “Đức Giê-hô-va đã lìa bỏ ta.Và Chúa ta đã quên ta” (c.14 NKJV).
Chúa bảo đảm với họ về tình yêu Ngài bằng cách so sánh Ngài với một người mẹ đầy lòng thương xót (c.14-23), một chiến sĩ can đảm (c.24-26), và một người yêu bất biến (Es 50:1-3).
a. Một người mẹ đầy lòng thương xót (c.14-23).
Kinh Thánh nhấn mạnh địa vị người cha của Đức Chúa Trời, nhưng cũng có một mặt “địa vị người mẹ” đối với bản chất của Đức Chúa Trời mà chúng ta không nên quên. Đức Chúa Trời đầy thương xót và yên ủi chúng ta như một người mẹ yên ủi con cái mình (Es 66:13).
Ê-sai mô tả Y-sơ-ra-ên như một đứa trẻ bú sữa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa là Đấng sẽ không bao giờ quên họ hoặc lìa bỏ họ. Thầy tế lễ cả mang tên của các chi phái Y-sơ-ra-ên trên vai và trong lòng ông (Xu 28:6-9), chạm trên bích ngọc, nhưng Đức Chúa Trời đã khắc tên con cái Ngài trên tay Ngài. Từ “chạm” nghĩa là “chèn vào” biểu thị sự lâu dài của nó. Đức Chúa Trời không bao giờ có thể quên Si-ôn hay con cái của Si-ôn.
Si-ôn dường như là một người mẹ bị từ bỏ và son sẻ, nhưng bà sẽ được Đức Chua Trời chúc phước đến nỗi sẽ không có chỗ cho con cái bà! Chúng sẽ giống như những đồ trang sức xinh đẹp của cô dâu, không phải là những kẻ tị nạn già yếu từ sự lưu đày. Một lần nữa, tiên tri nhìn về trước cho đến thời kỳ cuối cùng khi dân ngoại sẽ tôn kính Đức Giê-hô-va và Y-sơ-ra-ên cac vua và các hoàng hậu sẽ là những bà vú cho con cái của Y-sơ-ra-ên!
b. Một chiến sĩ can đảm (c.24-26).
Dân Ba-by-lôn là những chiến sĩ mạnh mẽ, nhưng Chúa sẽ giật lấy Y-sơ-ra-ên từ tay họ. Bằng sự thương xót, Ngài sẽ giải phóng những phu tù và bảo đảm rằng Ba-by-lôn sẽ không bao giờ làm khổ họ lần nữa. Sự kiện Đức Chúa Trời cho phép thời điểm thích hợp đến, Ngài sẽ giải phóng dân Ngài. “Những kẻ trông cậy ta sẽ chẳng hổ thẹn” (c.23).
c. Một người yêu bất biến (Es 50:1-3).
Hình ảnh Y-sơ-ra-ên là vợ của Đức Giê-hô-va thường được tì thấy nơi các tiên tri (Es 54:4-5; Es 62:1-5; Gie 2:1-3 Gie 3:1-11; Os 2:1-23; Exe 16:1-63).
Y-sơ-ra-ên đã được “gả” cho Đức Giê-hô-va khi họ chấp nhận giao-ước tại núi Si-nai (Xu 19:1-20:26), nhưng họ đã vi phạm giao-ước đó bằng cách “làm gái điếm” và thờ phượng hình tượng. Nhưng Đức Chúa Trời đã không lìa bỏ dân sự Ngài cho dù họ đã không trung thành với Ngài.
• Sự cho phép ly dị theo luật Môi-se được tìm thấy trong Phuc 24:1-4; Mat 19:1-2.
“Tờ ly dị” tuyên bố rằng cuộc hôn nhân trước đó đã bị phá vỡ và người đàn bà được tự do tái lập gia đình. Nhưng nó cũng ngăn trở người đàn bà trở lại với chồng trước của mình. Đức Chúa Trời thật sự đã “ly dị” vương quốc phía Bắc và cho phép nó bị dân A-si-ri đồng hoá (Gie 3:8), vì vậy nó không thể trở về. Nhưng Ngài đã không “ly dị” với vương quốc phía Nam, Ngài chỉ để cho người vợ bất trung của mình chịu sự trừng phạt trong tay Ba-by-lôn.Ngài sẽ tha thứ này và chấp nhận nàng trở lại lần nữa.
Bức tranh thứ 2 trong đoạn này là bức tranh về một gia đình nghèo bán con cái mình làm nô lệ (IIVua 4:1-7; Ne 5:1-5). Đức Chúa Trời đã không bán dân Ngài; bởi tội lỗi họ, họ đã tự bán mình. Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ nhiều lần và tìm cách khiến họ quay lưng với những lối ác của họ, nhưng họ không chịu lắng nghe.Giu-đa đã mắc vào sự lưu đày không phải vì sự yếu đuối của Đức Chúa Trời, nhưng vì sự phạm tội của họ.
Làm sao dân sự có thể nói họ bị quên và bị lìa bỏ khi Chúa là một người mẹ đầy lòng thương xót, một chiến sĩ can đảm và một người yêu bất biến? Ngài thành tín với Lời Ngài thậm chí khi chúng ta vô tín (IITi 2:11-13), nhưng Ngài cũng thành tín tha thứ khi chúng ta ăn năn và xưng tội (IGi 1:9).
Sứ điệp của Tôi Tớ cho dân ngoại là một sứ điệp về hy vọng và phước hạnh Ngài sẽ đối phó với dân Ngài để đến lượt họ có thể đem đến phước hạnh của Đức Chúa Trời cho dân ngoại.
-Es 50:1-3; xem giải nghĩa Es 49:1-26.
2. Tôi Tớ và Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Es 50:4-11)
Trong 2 “Bài ca về Tôi Tớ” đầu tiên (Es 42:1-7; Es 49:1-7), bạn tìm thấy những ngụ ý về sự chống đối chức vụ của Đấng Mê-si-a, nhưng trong Bài ca thứ 3 này, sự chịu khổ của Ngài được mô tả cách sống động. Khi chúng ta đi đến Bài ca thứ 4 (Es 52:12-53:12), chúng ta sẽ được biết không chỉ là cách Ngài chịu khổ, mà còn được biết lý do sự chịu khổ của Ngài là cần thiết.
Hãy chú ý rằng 4 lần trong phân đoạn này, Tôi Tớ sử dụng danh “Chúa Giê-hô-va”. “Jehovah Adonai” có thể được dịch là “Chúa tối cao” và bạn sẽ tìm thấy danh hiệu này không nơi nào khác trong “những bài ca về Tôi Tớ”. Theo Robert B.Girdlestone, danh “Jehovah Adonai” nghĩa là “Đức Chúa Trời là chủ của mỗi thành viên trong gia đình loài người, và do đó Ngài đòi hỏi sự vâng phục không hạn chế của mọi người” (Synonyms of the Old Testament (những từ đồng nghĩa trong Cựu-ước); Eerdmans, 1951, tr.34). Vì vậy điểm nhấn mạnh ở đây là về sự đầu phục Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Tôi Tớ trong mọi lãnh vực của đời sống và sự phục vụ của Ngài.
Tâm trí Ngài đầu phục Đức Chúa Trời để Ngài có thể học Lời Đức Chúa Trời và ý muốn Đức Chúa Trời (Es 50:4). Mọi điều Chúa Giê-xu nói và làm đã được Cha Ngài dạy cho Ngài (Gi 5:9,30; Gi 6:38; Gi 8:28). Ngài cầu nguyện với Cha để được sự hướng dẫn (Gi 11:42; Mac 1:35) và suy gẫm Lời Chúa. Điều Đức Chúa Trời dạy Tôi Tớ, Tôi Tớ đã chia sẻ với những người cần sự khích lệ và giúp đỡ. Tôi Tớ nêu một gương tốt ở đây cho mọi người biết tầm quan trọng của “thời gian yên tĩnh” với Chúa mỗi ngày.
• Ý chí của Tôi Tớ cũng đầu phục Đức Chúa Trời.
“Tai được mở ra” là tai nghe và vâng theo tiếng của chủ. Những người được Ê-sai dạy dỗ đã không “sẵn sàng” và “vâng lời” (Es 119), nhưng Tôi Tớ đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời cách vui mừng. Điều này không chỉ vì nó có nghĩa là phó thân Ngài cho kẻ ác là những kẻ chế nhạo Ngài, đánh đòn Ngài, tát tai Ngài và rồi đóng đinh Ngài vào thập tự (Mat 26:67; Mat 27:26,30).
• Tôi Tớ đã làm mọi điều này bằng đức tin nơi Đức Chúa Trời (Es 50:7-11).
Ngài quyết định làm theo ý muốn Đức Chúa Trời dù điều đó có nghĩa là lên thập tự giá (Lu 9:51; Gi 18:1-11) vì Ngài biết rằng Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ Ngài.Tôi Tớ đã bị vu cáo, nhưng Ngài biết rằng Đức Chúa Trời sẽ bào chữa cho Ngài và cuối cùng đặt kẻ thù Ngài vào chỗ nhục nhã.
Hãy nhớ rằng khi Chúa Giê-xu Christ thi hành chức vụ trên đất, Ngài phải sống bằng đức tin như chúng ta phải sống như vậy hôm nay. Ngài đã không sử dụng quyền năng thiêng liêng cách ích kỷ cho chính Ngài nhưng tin cậy Đức Chúa Trời và nhờ vào quyền năng của Thánh Linh.
Câu 10-11 được nói đặc biệt với dân Do-thái còn sót lại, nhưng những câu ấy có một ứng dụng cho dân Đức Chúa Trời ngày nay. Những người trung tín của Ngài bối rối về điều Đức Chúa Trời đang làm, nhưng Ngài bảo đảm với họ rằng đức tin của họ sẽ được tưởng thưởng.
Tấn sĩ BobJenes thường nói: “Đừng bao giờ nghi ngờ trong bóng tối điều mà Đức Chúa Trời đã cho bạn biết trong ánh sáng”. Nhưng những người vô tín tìm cách loại bỏ bóng tối bằng cách thắp sáng những ngọn lửa của riêng họ (chẳng hạn như làm theo những kế hoạch của họ), sẽ đi đến chỗ buồn rầu và khổ sở. Trong sự vâng lời Chúa, bạn có thể tìm thấy chính mình trong bóng tối, nhưng đừng hoảng sợ, vì Ngài sẽ đem đến cho bạn ánh sáng bạn cần ngay đúng lúc.
3. Tôi Tớ và Y-sơ-ra-ên (Es 50:4-11) (Es 51:1-52:12)
Phần này chứa đựng nhiều lời khuyên: “hãy lắng nghe Ta” (Es 51:1,4,7) “Hãy thức dậy, thức dậy” (c.9,17 Es 52:1-6) và “hãy ra đi” (c.7,12). Không kể Es 51:6-9 là một lời cầu nguyện được nói Chúa, mỗi lời khuyên này đều từ Đức Chúa Trời dành cho dân Ngài ở Ba-by-lôn.
“Hãy lắng nghe ta” (Es 51:1-8). Ba lời khuyên này được nói với những người trung tín còn sót lại ở Y-sơ-ra-ên, dân được mô tả trong Es 50:10. Trong lời khuyên thứ nhất (Es 51:1-3), Chúa bảo họ nhìn lại và nớ đến Áp-ra-ham với Sa-ra, tổ tiên của dân tộc Do-thái (Sa 12:1-25:34). Đức Chúa Trời đã kêu gọi họ “chỉ một mình”, nhưng từ 2 người già này đã ra một dân nhiều như bụi trên đất và sao trên trời (Sa 13:16 Sa 15:5).
Những người còn sót lại rời Ba-by-lôn vốn nhỏ bé và yếu đuối, nhưng Đức Chúa Trời đã có thể khiến họ gia tăng thành một dân tộc hùng mạnh và cũng biến xứ tàn phá của họ thành một thiên đường. Đức Chúa Trời phán với một dân sự Ngài: “Hãy yên lòng! Điều tốt nhất dù sao phải đến!”
• Trong mệnh lệnh thứ 2 (Es 51:4-6),
Đức Chúa Trời bảo họ nhìn lên và nhận biệt rằng sự công bình sẽ đến thế gian và họ sẽ được Chúa bênh vực. Hãy chú ý sự nhấn mạnh về từ “của Ta”: Dân của ta, nước của ta, sự công bình của ta, cánh tay ta, sự cứu rỗi của ta. Đây là ân điển của Đức Chúa Trời, làm cho dân Ngài điều mà họ không xứng đáng được và điều họ không thể làm cho chính mình. “Cánh tay của Chúa” là một ý niệm chính trong lời tiên tri của Ê-sai (Es 30:30; Es 4:10; Es 51:5,9; Es 52:10; Es 53:1; Es 59:16; Es 62:8; Es 63:5,12). Trời và đất sẽ qua đi, nhưng sự công bình và sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ còn lại đời đời. Sự công bình đó sẽ được thể hiện cách đặc biệt khi Đấng Mê-si-a tái lâm và thiết lập vương quốc Ngài trên đất.
• Lời khuyên thứ 3 (Es 51:7-8) tập trung về việc nhìn vào, nơi chúng ta tìm thấy sự sợ hãi hoặc đức tin. Tại sao dân tộc phải sợ loài người khi Đức Chúa Trời ở cạnh họ? “Này Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi, tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi” (Es 12:2). “Hãy tôn Đức Giê-hô-va vạn quân là thánh; các ngươi chỉ nên sợ Ngài và kinh hãi Ngài” (Es 8:13).
Có luật pháp Đức Chúa Trời trong lòng bạn nghĩa là thuộc về Ngài và được cứu (Gie 31:31-34; He 10:16). Sâu và mọt sẽ hủy diệt kẻ thù, nhưng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ còn lại. Sâu và mọt không làm việc của chúng một cách rõ ràng, nhưng chúng làm việc có hiệu quả như nhau. Những hạt giống của sự tàn phá đã hiện diện ở đế quốc Ba-by-lôn, và quan trưởng không biết điều đó.
• “Hãy thức dậy, thức dậy” (Es 51:9-52:6).
“Hãy lắng nghe ta” được nói để khuyên dân sự, nhưng “hãy thức dậy, thức dậy” dành cho sự đánh thức Chúa (Es 5:9-16) và Giê-ru-sa-lem (c 17-23 Es 52:1-6).
Những người xót lại ở Ba-by-lôn đã cầu nguyện như thể Đức Chúa Trời đang ngủ và cần được đánh thức Thi 7:6; Thi 44:23; Thi 78:65-72). Họ muốn Đức Chúa Trời để lộ cánh tay Ngài khi Ngài làm việc vào lúc Ngài đánh bại Pha-ra-ôn và cứu dân Ngài khỏi ách nô lệ của Ê-díp-tô. Sự trở về từ Ba-by-lôn được xem như “sự rời Ê-díp-tô” khác (Es 43:16-17; Es 49:9-12) với Đức Chúa Trời điều khiển hoàn toàn và kẻ thù hoàn toàn bị đánh bại.
Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của họ bằng những lời yên ủi (Es 51:12-16; Es 51:3,19). Ngài nhắc họ lần nữa về sự yếu đuối của loài người (Es 40:6-8) và quyền năng của Đức Chúa Trời Đấng Sáng Tạo (Es 51:13). tại sao họ phải sợ cỏ rác khi Đức Chúa Trời của vũ trụ ở cạnh họ? Vì họ là dân Ngài được đặt vào Lời Ngài, và Ngài sẽ giải thoát họ, bảo vệ họ và chu cấp cho họ. Họ có môt nhiệm vụ quan trọng để thực hiện, và Ngài sẽ giúp họ có thể làm được việc đó.
Trong “sự kêu gọi thức dậy” thứ 2, tiên tri nói với thành Giê-ru-sa-lem đổ nát (c.17-23) và mô tả nó như một bà mẹ sững sờ như say sưa vì không có con để giúp đỡ. Trong Kinh Thánh, sự xét đoán đôi khi được mô tả như việc uống một chén rượu (Es 29:9; Es 63:6; Thi 75:8; Gie 25:15-16; Kh 14:10).
Con cái của Giê-ru-sa-lem đã mắc vào sự lưu đày, nhưng giờ đây họ sẽ trở về và cho “mẹ” của họ hy vọng mới và một khởi đầu của họ. Đặt chân trên cổ kẻ thù bạn là một sự tuyên bố có tính làm nhục nhã về sự chiến bại của họ, nhưng thay vì Ba-by-lôn “bước trên” dân Do-thái, dân Do-thái sẽ “bước trên” dân Ba-by-lôn!
Sự “kêu gọi thức dậy” thứ 3 (Es 52:1-6) cũng được nói với Giê-ru-sa-lem, và là một mệnh lệnh không chỉ để thức dậy nhưng còn để ăn mặc tề chỉnh! cất bỏ sự sững sờ của nó thì chưa đủ, nó còn phải mặc vào quần áo vinh hiển của mình.
Ba-by-lôn “nữ hoàng” sẽ ngã xuống bụi đất trong sự nhục nhã (Es 47:1), nhưng Giê-ru-sa-lem sẽ dấy lên từ bụi đất và được tôn lên ngôi làm nữ hoàng! Ê-díp-tô đã bắt dân sự Đức Chúa Trời làm nô lệ, A-si-ri đã áp bưc họ, và Ba-by-lôn đã lưu đày họ, nhưng giờ đây điều đó đã chấm dứt. Dĩ nhiên sự ứng nghiệm cuối cùng về lời hứa này sẽ xảy ra khi Đấng Mê-si-a tái lâm, giải phóng Giê-ru-sa-lem khỏi kẻ thù của nó, và thiết lập núi Si-ôn làm sự vui mừng của cả đất (Es 61:4-11).
Thành Giê-ru-sa-lem được gọi là “thành thánh” 8 lần trong Kinh Thánh (Ne 11:1,18; Es 48:2; Es 52:1; Da 9:24; Mat 4:5; Mat 27:53; Kh 11:2). Thành đã được Đức Chúa Trời “biệt riêng” cho những mục đích riêng biệt của Ngài, nhưng khi dân sự Ngài không vâng lời Ngài, Ngài ra lệnh cho thành bị hủy diệt, trước tiên bởi quân Ba-by-lôn và sau đó bởi quân Rô-ma.
Suốt thời kỳ lưu đày, danh Đức Chúa Trời đã bị nói phạm thượng vì kẻ thù chế nhạo dân Do-thái và hỏi họ vì sao Đức Chúa Trời vĩ đại của họ không giải cứu họ (Thi 115:1-18; Thi 137:1-9). Phao-lô đã trích dẫn Es 52:5 trong Ro 2:24. Nhưng khi những người còn xót lại được phục hồi, sẽ biết danh Đức Chúa Trời và tìm cách tôn kính danh ấy.
• “Hãy đi, hãy đi” (Es 52:7-12).
Sự thất bại của Ba-by-lôn do Si-ru chắc chắn là tin tức tốt lành cho dân Do-thái vì nó có nghĩa là sự tự do cho các phu tù (Es 40:9; Es 41:27). Phúc-Âm chúng ta chia sẻ ngày nay là Chúa Giê-xu Christ có thể giải phóng các tù nhân (Rô 10:15). trong mấy mươi năm, những người xót lại đã chịu khổ trong một nước ngoại bang, không có bàn thờ hay chức tế lệ, nhưng giờ đây họ sẽ trở về xứ mình, xây lại đền thờ mình và phục hồi chức vụ Đức Chúa Trời ban cho mình.
Người ta thường nói rằng “tin tức tốt lành là để chia sẻ” và đó là điêù xảy ra ở Giê-ru-sa-lem. Các quan trưởng (người canh gác” hiểu sứ điệp và cùng hát với nhau vì vinh hiển của Đức Chua Trời (Es 44:23). Nhưng họ không chỉ nghe điều Đức Chúa Trời đã làm họ cũng thấy nó xảy ra! Đồng vắng sẽ dự phần vào bài ca vì các thành hoang vu và “những nơi bỏ hoang” sẽ được biến đổi (Es 51:3). Những người xót lại đã cầu xin cánh tay thánh khiết của Đức Chúa Trời hành động, và Ngài đáp lời cầu nguyện của họ (c.9).
Ê-sai thích sử dụng sự lặp lại: “Hãy yên ủi, hãy yên ủi” (Es 40:1) “Hãy thức dậy, thức dậy” (Es 51:9,17 Es 52:1), và giờ đây “Hãy đi, hãy đi” (Es 52:11).
Dường như kỳ lạ khi Đức Chúa Trời sẽ phải thúc giục dân Ngài rời khỏi một nơi giam cầm, nhưng một số người trong số họ đã trở nên quen thuộc với Ba-by-lôn và lưỡng lự ra đi. Nhóm thứ nhất, khoảng 50.000 người, đã rời Ba-by-lôn vào năm 538 TC khi Si-ru ra chiếu chỉ của mình. Họ ở dưới sự lãnh đạo của Sết-ba-xa, Xô-rô-ba-bên, và thầy tế lễ cả Giê-sua (Exo 1:1-2:68). Họ mang theo mình “khí dụng của Đức Giê-hô-va” (Es 52:11), là những vật cần cho sự phục vụ trong đền thờ. Một nhóm thứ 2 gần 1800 người được lãnh đạo bởi E-xơ-ra ra đi vào năm 458 TC.
Đức Chúa Trời đã ra lệnh họ ra đi vì Ba-by-lôn là một thành bị kết án (Gie 50:8; Gie 51:6,45). Ngài cảnh cáo họ đừng nấn ná nhưng phải nhanh chóng đi ra trong khi họ có cơ hội (Gie 48:20). Họ không phải chạy trốn như tội phạm, nhưng không có lý do gì để nán lại. Ngài cũng lưu ý họ đừng mang theo mình bất cứ vật ô uế nào của Ba-by-lôn. “Đừng động đến đồ ô uế nào” (Gie 52:11) chắc chắn sẽ kể đến toàn bộ hệ thống thờ thần tượng và những tập tục huyền bí của Ba-by-lôn đã làm hư hỏng dân tộc Do-thái (Gie 47:11-15). Phao-lô thực hiện những ứng dụng cho các tín đồ ngày nay trong IICôr 6:14-7:1.
Đức Chúa Trời có một lời đặc biệt cho các thầy tế lễ và người Lê-vi là những người mang khí dụng của đền thờ: “Hãy ra khỏi đó (Ba-by-lôn) và hãy tinh sạch” (IICôr 52:11 NIV). Đây là một mệnh lệnh tốt lành cho mọi tôi tớ của Đức Chúa Trời vâng heo. Nếu chúng ta làm ô uế mình, chúng ta cũng sẽ làm ô uế công việc của Chúa. Bi thảm thay cho một chức vụ thánh trở nên một người ô uế cho dân sự Đức Chúa Trời!
Tiên tri thêm vào một lời khích lệ sau cùng: “Đức Giê-hô-va sẽ đi trước mặt các ngươi, và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ là sự bảo vệ đằng sau ngươi” (c.12 IICo 58:8). Điều này nhắc nhở chúng ta về sự rời khỏi Ê-díp-tô của Y-sơ-ra-ên khi Chúa đi trước họ (Xu 13:21) và đứng giữa họ với kẻ thù (Xu 14:19-20) Khi dân sự Đức Chúa Trời vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời, họ luôn có thể nương tựa nơi sự dẫn dắt và bảo vệ của Đức Chúa Trời.
Ê-sai đã dọn đường cho “trung tâm” của mối liên hệ của Đức Chúa Trời với tôi Tớ Mê-si-a, Bài ca thứ 4 về Tôi Tớ (Es 52:13-53:12). Chúng ta phải dọn lòng mình, vì chúng ta đang bước trên đất thánh.
-Es 51:1-23; xem giải nghĩa Es 50:4-11.
-Es 52:1-12; xem giải nghĩa Es 51:1-23.
10. LEO LÊN NÚI EVEREST (Es 52:13-53:12)
“Năm khổ thơ vô song này của bài thơ Tôi Tớ thứ 4 là núi Everest của lời tiên tri về Đấng Mê-si-a”.
Học giả Cựu-ước, Tiến sĩ Kyle M.Yates đã viết như vậy cách đây hơn 50 năm, và những lời của ông vẫn có giá trị. Phân đoạn này ở trung tâm của các chương 49-57, và sứ điệp của nó ở trung tâm của Phúc-Âm. Giống như núi Everest, Es 53:1-12 nổi bật về vẻ đẹp và sự cao quý, nhưng chỉ vì nó bày tỏ Chúa Giê-xu Christ và đưa chúng ta đến đồi Gô-gô-tha.
Sự giải nghĩa về Đấng Mê-si-a ở Es 53:1-12 được tiếp tục bởi các ra-bi Do-thái cho đến thế kỷ 12. Sau đó, các học giả Do-thái bắt đầu giải nghĩa phân đoạn này như một mô tả về những hoạn nạn của dân tộc Y-sơ-ra-ên. Nhưng làm sao Y-sơ-ra-ên có thể chết cho tội lỗi của Y-sơ-ra-ên? (c.8). Và ai đã tuyên bố rằng Y-sơ-ra-ên vô tội và do đó đã chịu khổ một cách bất công? (c.9). Không, tiên tri viết về một cá nhân vô tội, không phải một dân tộc phạm tội. Ông đã khiến nó trở nên hoàn toàn rõ ràng rằn cá nhân này chết vì tội lỗi của nhữngkẻ phạm tội hầu cho những kẻ phạm tội có thể tự do.
Tôi Tớ mà Ê-sai mô tả là Đấng mê-si-a, và Tân-ước xác định rằng Tôi Tớ Mê-si-a này là Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, Con Đức Chúa Trời (Mat 8:17; Mac 15:28; Lu 22:37; Gi 12:38; Công 8:27-40; IPhi 2:21-24). Es 53:1-12; được trích dẫn hoặc được ám chỉ trong Tân-ước thường xuyên hơn bất cứ chương Cựu-ước nào khác. Danh mục những trích dẫn trong phụ lục Tân-ước Hy-lạp của tôi cho ít nhất 41 trích dẫn khác nhau, và đây có thể không phải là tất cả.
Mười lăm câu tạo nên bài ca Tôi Tớ thứ 4 rơi vào 5 khổ thơ của từng 3 câu, và mỗi khổ thơ này bày tỏ một l4 thật quan trọng về Tôi Tớ và điêu Ngài thực hiện cho chúng ta.
1. Sự cao trọng: Tôi Tớ gây sửng sốt (Es 52:13-15) (Es 52:13-53:12)
Dân sự Ngài đã không thán phục hoặc ưa thích Tôi Tớ (Es 52:2-3), và dù vậy khi đến cuối cùng, Ngài khiến các vua sửng sốt và kinh ngạc! nếu chúng ta hiểu 5 câu này theo thứ tự niên đại, chúng ta thấy rằng dân sự sửng sốt bởi hình dung Ngài (Es 52:14), sự cao trọng của Ngài (c.13) và sứ điệp của Ngài (c.15). Ở đây chúng ta có sự thương khó và sự chết của Chúa, sự sống lại và thăng thiên của Ngài và sự rao giảng Phúc-Âm khắp thế giới.
• Bị giật mình vì hình dạng của tôi tớ (Es 52:14).
“Họ sẽ thấy Tôi Tớ ta bị đánh, bị đổ huyết, xấu xí đến nỗi chắc chắn không biết một người đang đứng đó” (TLB). “Ngài trông quá xấu xí đến nỗi Ngài dường như không còn là người nữa” (JB).
Khi bạn xem xét mọi điều Chúa Giê-xu chịu đựng về thuộc thể giữa thời gian Ngài bị bắt và bị đóng đinh trên thập tự, không có gì ngạc nhiên khi Ngài không còn trông như một con người. Những quyền hợp pháp của Ngài không chỉ bị cất khỏi Ngài, kể cả quyền về một cuộc xử án công bằng, nhưng những quyền con người của Ngài cũng bị cất khỏi Ngài, vì vậy Ngài thậm chí đã không được đối xử như một con người, chớ đừng nói đến một công dân Do-thái.
Khi bị xét hỏi trước mặt An-ne, Chúa Giê-xu đã bị một quan chức vả mặt (Gi 18:22). Tại phiên toà trước Cai-phe, Ngài đã bị nhổ nước miếng, bị vả và bị đánh trên đầu bằng những đấm tay (Mat 26:67; Mac 14:65; Lu 22:63). Phi-lát sai đánh đòn Ngài (Gi 19:1; Mat 27:26; Mac 15:15), và quân lính của ông ta đánh Ngài (Gi 19:3). Sự đánh đòn khủng khiếp đến nỗi các tù nhân được biết là chết vì thử thách. Tôi Tớ Đức Chúa Trời đã nói: “Ta đã đưa lưng cho kẻ đánh ta, và má cho kẻ nhổ râu ta; Ta đã không giấu mặt ta khỏi sự sỉ nhuc và khạc nhổ” (Es 50:6). Và họ đã làm điều này cho chính Con của Đức Chúa Trời!
Câu chuyện sinh động về sự chịu khổ của Ngài được trình bày trong một số bài giảng nhưng được tìm thấy trong Kinh Thánh, có lẽ ngoại trừ ở Thi 22:1-30. Các tác giả Phúc-Âm cho chúng ta những sự kiện nhưng không phải những chi tiết. Đủ để nói rằng khi tội nhân được hoàn chỉnh với Chúa Cứu Thế, Ngài không trông như con người, và con người quá kinh hoàng đến nỗi họ quay mặt đi. Điều đã được làm cho Chúa Giê-xu lẽ ra phải được thực hiện cho Ba-ra-ba và cho chúng ta.
• Giật mình vì sự cao trọng của Tôi Tớ (Es 52:13).
Tôi Tớ đã chịu thương khó và chịu chết, nhưng Ngài đã không chết mãi, Ngài “được tôn lên, dấy lên, và rất cao trọng”. Nhóm từ “làm cách khôn ngoan” nghĩa là “thành công trong nỗ lực của mình”. Điều mà đối với con người giống như một thất bại nhục nhã, là một đại thắng trong mắt Đức Chúa Trời (Co 2:15). Ngài đã nói với Cha Ngài: “Con đã tôn vinh Cha trên đất làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4).
Chúa Giê-xu không chỉ được khiến sống lại từ cõi chết, thân thể Ngài còn được vinh hiển. Ngài đã thăng thiên về nơi Ngài ngự bên hữu của Cha. Ngài có mọi quyền hạn (Mat 28:18) vì mọi sự đã được đặt dưới chân Ngài (Eph 1:20-23). Không có ai trong vũ trụ cao hơn Chúa Giê-xu. Thật là một sửng sốt cho những kẻ xem Ngài là người thấp hèn nhất (Phi 2:1-11).
• Giật mình vì sứ điệp của Tôi Tớ (Es 52:15).
Những người có miệng mở ra sửng sốt về sự nhục nhã và sự cao trọng của Ngài sẽ ngậm miệng lại trong tội lỗi khi họ nghe sự tuyên bố của Ngài. Phao-lô giải nghĩa điều này như sự rao giảng Phúc-Âm cho các dân ngoại (Ro 15:20-21). “hầu cho mọi miệng phải ngậm lại, và cả thế gian đều trở nên tội lỗi trước mặt Đức Chúa Trời” (Ro 3:19).
Nhiều người đã bị tra tấn và giết chết cách tàn nhẫn, nhưng việc biết sự chịu khổ của họ không đụng đến lương tâm chúng ta, dù nó có thể gợi lên niềm thương cảm của chúng ta. Những sự chịu khổ và sự chết của Chúa chúng ta thì khác, vì chúng có liên quan đến mọi người trong thế gian. Sứ điệp Phúc-Âm không phải là “Đấng Christ đã chết”, vì đó chỉ là một sự kiện trong lịch sử, giống như “Napoleon đã chết”. Sứ điệp Phúc-Âm là “Đâng Christ đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta” (ICo 6:1-4). Bạn và tôi đều phạm tội về sự chết của Đấng Christ như An-ne, Cai-phe, Hê-rốt An-ti-pa và Phi-lát.
Giờ đây chúng ta hiểu vì sao người ta kinh ngạc khi họ hiểu sứ điệp Phúc-Âm: Người mà họ đã kết án đã tuyên bố rằng họ bị kết án nếu họ không từ bỏ tội lỗi và tin Ngài. bạn không thể vui mừng trong Tin Mừng về sự cứu rỗi cho đến khi bạn trước hết đối diện với tin xấu về sự kết án. Chúa Giê-xu đã chịu thương khó và chịu chết không phải vì Ngài có tội, nhưng vì chúng ta có tội. Người ta ngạc nhiên về sự kiện này, nó làm miệng họ ngậm lại.
Từ được dịch là “vảy rửa” trong Es 52:15 có thể được dịch là “làm giật mình”, nhưng hầu hết có lẽ nó chỉ về sự tẩy rửa theo nghi thức, là một phần quan trọng trong hệ thống tế lễ của Môi-se (Le 14:1-7,16; Le 16:14-15; Dan 8:7). Mặc dù sự rảy huyết, nước và dầu không cất đi tội lỗi, nhưng nó khiến cho người nhận được tinh sạch về mặt nghi thức và được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời.
Bởi sự hy sinh của Đấng Christ, chúng ta có thể nói cho mọi dân tộc biết sự tha thứ và sự cứu chuộc đó được ban cho vô điều kiện đối với tất cả những ai tiếp nhận Ngài (IPhi 1:1-2).
2. Sự nhục nhã: Tôi Tớ buồn bực (Es 53:1-3)
Es 53:1-12 mô tả đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu Christ (c.1-4) sự chết (c.5-8) và chôn của Ngài (c.9), cùng sự sống lại và sự tôn cao của Ngài (c.10-12). Chủ đề kết nối chương này là Tôi Tớ đã chết thay cho kẻ có tội. Khi các nhà thần học nói về “sự chuộc tội thay”, đó là điều họ muốn nói. Chúng ta không thể giải thích mọi điều về thập tự giá, nhưng điều này dường như rõ ràng: Chúa Giê-xu đã thế chỗ của tội nhân và trả giá cho sự cứu rỗi họ.
Hoàn toàn có một sự tương phản giữa “cánh tay của Chúa” nói về quyền năng mạnh mẽ và “cái rễ ra từ đất khô” là một hình ảnh về sự nhục nhã và yếu đuối. Khi Đức Chúa Trời tạo nên vũ trụ, Ngài đã sử dụng các ngón tay Ngài (Thi 8:3) và khi Ngài giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi Ê-díp-tô chính là bởi bàn tay mạnh mẽ của Ngài (Xu 13:3). Nhưng để cứu tội nhân hư mất, Ngài đã phải giơ cánh tay mạnh mẽ của Ngài! Nhưng dân sự vẫn không chịu tin sự bày tỏ lớn lao này về quyền năng Đức Chúa Trời (Ro 1:16; Gi 12:37-40).
Tôi Tớ là Đức Chúa Trời, nhưng Ngài trở nên loài người và lớn lên! Con trẻ được sinh ra đó là nhân tính của Ngài, Con được ban cho đó là thần tính của Ngài (Es 9:6). Khi viết về tương lai của Y-so-ra-ên, Ê-sai đã sử dụng hình ảnh về cây: Đấng Mê-si-a là Chồi của Đức Giê-hô-va (Es 4:2), những người xót lại giống như những gốc cây bị chặt (Es 6:13), các dân tộc kiêu ngạo sẽ bị hạ như cây, nhưng từ gốc cây dường như chết của Đa-vít “chồi của Y-sai” sẽ ra (Es 10:33-11:1). Vì Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời, Ngài là “chồi của Đa-vít” nhưng vì Ngài là con người, Ngài là “hậu tự của Đa-vít” (Kh 22:16).
Y-sơ-ra-ên không phải là một thiên đường khi Chúa Giê-xu ra đời, về mặt chính trị và thuộc linh, đó là một đồng vắng của vùng đất khô Ngài không đến như một cây lớn nhưng như một “thực vật mỏng manh” Ngài được sinh ra trong cảnh nghèo nàn ở Bết-lê-hem và lớn lên trong một trại của người thợ mộc tại Na-xa-rét tầm thường (Gi 1:43-46).
Bởi Lời Ngài và việc làm của Ngài, Chúa Giê-xu đã thu hút đoàn dân đông, nhưng không có điều gì về ngoại hình thể xác Ngài khiến Ngài khác biệt với bất kỳ người Do-thái nào. Mặc dù có một số ít người cố tình tìm cách để không gây thu hút, xã hội ngày nay đã tạo ra một tôn giáo vì vẻ đẹp thể chất. Thật tốt để nhớ rằng Chúa Giê-xu đã thành công mà không cần điều đó.
Một khi họ hiểu điều Ngài yêu cầu nơi họ, đa số người đã đối xử Tôi Tớ ra sao? Như cách họ đối xử với bất cứ nô lệ nào khác: Họ khinh dể Ngài, định giá rẻ về Ngài (30 miếng bạc) và “nhìn hướng khác khi Ngài đi qua” (Es 53:3 TLB). họ xấu hổ về Ngài vì Ngài không bày tỏ những điều quan trọng đối với họ, những điều như của cải (Lu 16:14) thanh thế xã hội (Lu 14:7-14; Lu 15:1-2) danh vọng (Lu 18:9-14), được người khác phục vụ (Lu 22:24-27) và chiều theo bản thân (Mat 16:21-28). Ngài bị khước từ hôm nay vì những lý do tương tự.
3. Sự chuộc tội: Tôi Tớ bị đánh đập (Es 53:4-6)
Đây là trung tâm của đoạn này, và nó giới thiệu trung tâm của sứ điệp Phúc-Âm: Tôi Tớ vô tội chịu chết làm của lễ cho tội lỗi. Sứ điệp này ở trung tâm của hệ thống tôn giáo Y-sơ-ra-ên, con sinh tế vô tội chết thay cho tội nhân (Le 16:1-24), nhưng Ngài cũng đồng nhất hoá với những hậu quả tội lỗi của A-đam khi Ngài dạy dỗ cho những người nghèo khó.
Mat 8:14-17 ứng dụng Es 53:4 cho chức vụ chữa bệnh của Chúa chúng ta chớ không phải sự chết thay của Ngài. Mọi phước hạnh chúng ta có trong đời sống Cơ-đốc đến bởi thập tự giá, nhưng câu này không dạy rằng có “sự chữa bệnh trong sự chuộc tội” và vì vậy mọi tín đồ có “quyền” để được chữa lành bệnh, lời tiên tri này được ứng nghiệm suốt đời sống của Chúa chúng ta, không phải sự chết của Ngài.
Sự nhấn mạnh trong các câu 4-6 là về những đại từ số nhiều: sự đau đớn và buồn rầu của chúng ta, tội lỗi chúng ta, sự vi phạm của chúng ta. Chúng ta đã lạc lối, chúng ta đã hướng về con đường riêng của mình, Ngài chịu chết không vì bất cứ điều gì Ngài đã làm nhưng vì điều chúng ta đã làm.
Ngài “bị thương” nghĩa là “bị đâm”. Tay và chân Ngài đã bị đinh đâm xuyên (Thi 22:16; Lu 24:39-40) và hông Ngài bị đâm bằng giáo (Gi 19:31-37; Xa 12:10; Kh 1:7). Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá, không phải là một hình thức xử tử của Do-thái (Gi 12:32-33; Gi 18:31-32). Hình phạt xử tử đối với người Do-thái nghĩa là ném đá (Lê 24:14; Dân 15:35-36). Nếu họ muốn làm nhục nạn nhân thêm nữa, họ có thể phơi bày thi thể giữa công chúng (Phuc 21:22-23), một tập tục mà Phi-e-rơ đã liên hệ đến sự đóng đinh trên thập tự giá (Công 5:30; Công 10:39; IPhi 2:24).
Trên thập tự giá, Chúa Giê-xu Christ đã “bị vết” nghĩa là “bị đè nén dưới một ánh nặng”. Gánh nặng nào? “Đức Giê-hô-va đã chất trên người tội lỗi của hết thảy chúng ta” (Es 53:6,12,14). Tội lỗi thật sự là một gánh nặng trở nên nặng nề hơn bao lâu chúng ta chống nghịch Đức Chúa Trời (Thi 38:4).
Ngài bị “đánh phạt” và hứng nhiều “lằn roi”, nhưng hình phạt đó đem cho chúng ta sự bình an và sự chữa lành. Cách duy nhất mà một người phạm luật có thể bình an với luật pháp là phải chịu hình phạt mà luật pháp yêu cầu. Chúa Giê-xu đã giữ luật pháp cách trọn vẹn, nhưng Ngài đã gánh chịu trận roi đòn thuộc về chúng ta.
Vì Ngài đã thế chỗ chúng ta, chúng ta giờ đây có sự bình an với Đức Chúa Trời và không thể bị kết án bởi luật pháp của Đức Chúa Trời (Rô 5:1; Rô 8:1). “Sự lành bệnh” trong Es 53:5 chỉ về sự tha tội, không phải sự lành bệnh của thân thể (IPhi 2:24; Thi 103:3). Tội lỗi không chỉ như một gánh nặng, mà nó còn giống như một căn bệnh chỉ Đức Chúa Trời mới có thể chữa trị (Es 1:4-6; Gie 30:12; Na 3:19).
• Tội lỗi thật nghiêm trọng.
Tiên tri gọi nó là sự vi phạm, nghĩa là sự chống nghịch với Đức Chúa Trời, dám vượt qua ranh giới Đức Chúa Trời đã vạch (Es 53:5,8). Ngài cũng gọi nó là sự gian ác, chỉ về tính cong quẹo của bản chất tội lỗi (c.5-6). Nói cách khác, chúng ta là tội nhân do sự lựa chọn và bản chất.
Giống như chiên, chúng ta được sinh ra có một bản chất xúi giục chúng ta lạc lối, và giống như chiên, chúng ta dại dột quyết định đi con đường riêng của mình. Bởi bản chất, chúng ta sinh ra là con cái của sự thạnh nộ (Eph 2:2), Dưới luật pháp của Môi-se, chiên chết thay cho người chăn, nhưng dưới ân điển, Đấng Chăn Chiên Hiền Lành đã chế thay cho con chiên (Gi 10:1-18).
4. Sự cam chịu: Tôi Tớ yên lặng (Es 53:7-9)
Một tôi tớ không được phép nói lại, người ấy phải đầu phục vụ ý muốn của chủ mình. Chúa Giê-xu Christ đã yên lặng trước những người tố cáo Ngài cũng như những kẻ làm khổ Ngài. Ngài đã yên lặng trước Cai-phe (Mat 26:62-63), các thầy tế lễ cả và trưởng lão (Mat 27:13) Phi-lát (Mat 27:14; Gi 19:9) và Hê-rốt An-ti-pa (Lu 23:9). Ngài không nói khi quân lính chế giễu Ngài và đánh Ngài (IPhi 2:21-23). Đây là điều đã gây ấn tượng cho quan coi kho người Ê-thi-ô-pi khi ông đọc đoạn sách này trong Ê-sai (Công 8:26-40).
Es 53:7 nói về sự im lặng của Ngài dưới hoạn nạn và c.8 nói về sự im lặng của Ngài khi bị xét xử và bị kết tội chết một cách bất hợp pháp. Trong các toà án ngày nay, một người có thể bị phát hiện phạm những tội lỗi khủng khiếp, nhưng nếu người ta có thể chứng minh rằng có điều gì đó trong cuộc xét xử là bất hợp pháp, vụ kiện phải được xử lại. Mọi điều về những cuộc xét xử Ngài là bất hợp pháp, nhưng Chúa Giê-xu không cầu xin cuộc xét xử khác. “Ta há chẳng uống chén mà Cha đã ban cho ta uống sao?” (Gi 18:11).
Tôi tớ được ví sánh với một chiên con (Es 53:7) là một trong những biểu tượng thường xuyên về Chúa Cứu Thế trong Kinh Thánh. Một chiên con đã chết cho mỗi gia đình Do-thái tại lễ Vượt Qua (Xu 12:1-13), và Tôi Tớ đã chết cho dân Ngài, dân tộc Y-sơ-ra-ên (Es 53:8). Chúa Giê-xu là “Chiên Con Đức Chúa Trời Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Gi 1:29) và 28 lần trong Sách Khải-huyền, Chúa Giê-xu Christ được ám chỉ như Chiên Con.
Vì Chúa Giê-xu Christ đã bị đóng đinh trên thập tự giá cùng với những tội nhân với tư cách một tội nhân, nên thật hữu lý khi thi thể Ngài sẽ không được chôn cất nhưng Đức Chúa Trời đã có những kế hoạch khác. Sự chôn Chúa Giê-xu Christ là một phần của Phúc-Âm cũng như sự chết của Ngài vậy (ICôr 15:1-5), vì sự chôn cất là chứng cớ Ngài đã thật sự chết.
Nhà cầm quyền Rô-ma sẽ không giao xác cho Giô-sép và Ni-cô-đem nếu nạn nhân chưa chết (Gi 19:38-42; Mac 15:42-47). Một người giàu có như Giô-sép sẽ không bao giờ đục một ngôi mộ cho chính mình quá gần với nơi xử án, đặc biệt khi nhà ông cách xa hằng dặm. Ông đã chuẩn bị nó cho Chúa Giê-xu và có hương liệu cùng vải liệm sẵn sàng cho sự chôn cất.
Đức Chúa Trời đã làm ứng nghiệm lời tiên tri của Ê-sai cách kỳ diệu thay!
5. Sự xác minh: Tôi Tớ được thỏa lòng (Es 53:10-12)
Tiên tri giờ đây giải thích thập tự giá theo quan điểm của Đức Chúa Trời. Cho dù Chúa Giê-xu bị đóng đinh bởi bàn tay kẻ ác, sự chết của Ngài đã được Đức Chúa Trời định trước (Công 2:22-23). Chúa Giê-xu không phải là một thánh tử đạo, sự chết Ngài cũng không phải là một tai nạn. Ngài là của lễ của Đức Chúa Trời thay cho tội lỗi của thế gian.
Ngài không chết mãi! “Ngài sẽ kéo dài những ngày của người” (Es 53:10) nghĩa là Tôi Tớ được phục sinh để sống đời đời, trong sự sống lại của Ngài, Ngài đã chiến thắng mọi kẻ thù và giành được chiến lợi phẩm (Eph 1:19-23; Eph 4:8). Sa-tan đã đề nghị với Đấng Christ một vương quốc vinh hiển để đổi lấy sự thờ lạy (Mat 4:8-10), nghĩa là tránh thập tự giá. Chúa Giê-xu đã “vâng phục cho đến chết” và Đức Chúa Trời đã “tôn cao Ngài” (Phi 2:8-9).
Phần khác của “phần thưởng” Ngài được tìm thấy trong nhận định “Người sẽ thấy dòng dõi mình” (Es 53:10). Chết mà khôntg có con là một nỗi khổ và sự nhục nhã đối với dân Do-thái nhưng Chúa Giê-xu đã sinh ra một gia đình thuộc linh bởi sự đau đớn của Ngài trên thập tự giá (c.11). Nhận định của Ê-sai về gia đình thuộc linh của Ngài (Es 8:18) được trích dẫn trong He 2:13 và được áp dụng cho Đấng Christ cùng gia đình thuộc linh của Ngài.
Công việc của Tôi Tớ trên thập tự giá đem đến sự thỏa mãn (Es 53:11). Trước hết, Tôi Tớ đã làm thoả lòng Cha. “Ta hằng làm sự đẹp lòng Ngài (Cha)” (Gi 8:29). Cha trên trời không thấy sự vui mừng khi xem Con yêu dấy của Ngài chịu khổ, vì Cha không hài lòng với sự chết của kẻ ác chớ đừng nói đến sự chết của Con Đức Chúa Trời công bình. Nhưng Cha hài lòng rằng sự vâng phục của Con Ngài đã hoàn thành sự cứu chuộc mà Ngài đã hoạch định từ ngàn xưa (IPhi 1:20) “Mọi việc đã được trọn” (Gi 19:30).
Sự chết của Tôi Tớ cũng thoả mãn luật pháp Đức Chúa Trời. Thuật ngữ thần học cho điều này là “sự chuộc tội” (Ro 3:25; IGi 2:2). Trong các tà giáo, từ này nghĩa là “dâng một của lễ để xoa dịu một vị thần giận dữ” nhưng ý nghĩa Cơ-đốc phong phú hơn. Đức Chúa Trời giận dữ về tội lỗi vì nó xúc phạm sự thánh khiết của Ngài và vi phạm Thánh luật của Ngài. Trong sự thánh khiết của mình, Ngài phải xét đoán tội nhân, nhưng trong tình yêu của mình, Ngài mong muốn tha thứ họ. Đức Chúa Trời không thể bỏ qua tội lỗi hoặc thoả hiệp với nó, vì điều đó sẽ mâu thuẫn với bản chất và luật pháp Ngài.
Đức Chúa Trời đã giải quyết vấn đề ra sao? Quan án đã thế chỗ tội phạm và đáp ứng đúng những yêu cầu của Thánh luật Ngài! “Ngài đã bị kể vào hàng kẻ dữ” và thậm chí cầu nguyện cho họ (Es 53:12; Lu 22:37; Lu 23:33-34). Luật pháp đã được thoả mãn, và Đức Chúa Trời giờ đây có thể nhân từ tha thứ tất cả những ai sẽ tiếp nhận Con Ngài.
Ân điển là tình yêu đã trả giá, và tội nhân được cứu bởi ân điển (Eph 2:8-10). Sự công bình chỉ có hể kết án kẻ ác và biện hộ cho người công bình (IVua 8:32), nhưng ân điển biện hộ cho người bất kính khi họ tin Chúa Giê-xu Christ! (Es 53:11; Ro 4:5). Biện hộ nghĩa là “xưng công bình”. Ngài gánh tội lỗi của chúng ta để chúng ta có thể nhận được món quà của sự công bình Ngài (IICôr 5:21; Rô 5:17). Sự biện hộ nghĩa là Đức Chúa Trời tuyên bố tội nhân tin nhận là công bình trong Đấng Christ là không bao giờ ghi nhớ tội lỗi họ (Thi 32:1-2; Rô 4:1-8).
Vào buổi sáng 29/5/1953, ông Edmund Hillary và Tenzing Norgay đã chinh phục, núi Everest, đỉnh núi cao nhất thế giới. Không ai từng “chinh phục” Es 53:1-12 vì luôn có những độ cao mới để đạt đến. Điều quan trọng là biết Tôi Tớ công bình của Đức Chúa Trời một cách riêng tư Chúa Giê-xu Christ, sự chinh phục của Ngài trên tội lỗi là chủ đề của chương này.“Bằng sự thông biết về mình (nghĩa là biết Ngài cách riêng tư bằng đức tin), Tôi Tớ công bình của Ta sẽ xưng công bình nhiều người (c.11).
“Này là sự sống đời đời: đó là họ có thể biết Cha, Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Giê-xu Christ là Đấng Cha đã sai đến” (Gi 17:3 NIV).
11. LỜI HỨA VÀ HÌNH PHẠT (Es 54:1-59:21)
Tôi Tớ đã vâng phục hoàn tất công việc Ngài trên đất, và hôm nay Ngài đang hành động trên trời, cầu thay cho dân sự Đức Chúa Trời (He 7:25; Rô 8:34). Nhưng đâu là những kết quả của sự hy sinh Ngài? Đối với Y-sơ-ra-ên, nó có nghĩa là sự hồi phục (Es 541-17). Đối với các dân ngoại, nó có nghĩa là một sự mời gọi (Rô 55:1-56:8) và đối với tội nhân chống nghịch, nó có nghĩa là một sự tố cáo (Rô 56:9-59:21) một cảnh cáo từ Đức Chúa Trời rằng họ cần phải ăn năn.
1. Sự hồi phục cho Y-sơ-ra-ên (Es 54:1-17)
Hình ảnh trong chương này là hình ảnh về Đức Giê-hô-va, người chồng chung thuỷ, tha thứ Y-sơ-ra-ên, người vợ bất trung, và phục hồi nàng vào nơi phước hạnh. Ê-sai đã sử dụng hình ảnh hôn nhân trước đó (Es 50:1-3) và sẽ sử dụng nó lần nữa (Es 62:4).
Giê-rê-mi cũng đã sử dụng nó (Gie 3:8), và đó là một chủ đề quan trọng trong Ô-sê (Os 2:1-23) và Ê-xê-chi-ên (Exe 16:1-63; Exe 23:1-49). Dân tộc đã được “gả” cho Đức Giê-hô-va tại núi Si-nai, nhưng nàng phạm tội tà dâm bằng cách quay sang các thần khác, và Chúa đã tạm thời lìa bỏ nàng. Tuy nhiên, các tiên tri tiên đoán rằng Y-sơ-ra-ên sẽ được phục hồi khi Đấng Mê-si-a đến và thiết lập Vương Quốc Ngài.
Đó sẽ là loại phục hồi nào?
Trước hết, đó là một sự hồi phục niềm vui mừng và vì vậy là một cơ hội để ca hát (Es 54:1a). Ê-sai chắc chắn là tiên tri về ca hát ông đề cập những bài ca và việc hát hơn 30 lần trong sách ông. Cơ hội trực tiếp cho sự vui mừng này là sự giải phóng dân tộc, khỏi sự lưu đày, nhưng sự ứng nghiệm cuối cùng là khi Đấng Cứu Chuộc đến Si-ôn và dân tộc được sinh ra lần nữa (Es 59:20).
Đó cũng là một sự hồi phục sự kết quả khi dân tộc sẽ gia tăng và cần nhiều chỗ hơn (Es 54:1b-3). Dân tộc đã bị giảm bớt bởi sự xâm lược của Ba-by-lôn, nhưng Đức Chúa Trời sẽ giúp họ sinh sôi nảy mở trở lại. Vào cuối thời kỳ này, chỉ một số người tin còn sót lại sẽ bước vào vương quốc, nhưng Chúa sẽ mở rộng, và những thành hoang vu sẽ có cư dân trở lại!
Phao-lô đã trích dẫn Es 54:1 trong Ga 4:27 và ứng dụng nguyên tắc thuộc linh cho Hội thánh: Thậm chí khi Đức Chúa Trời chúc phước Sa-ra và những người Do-thái sót lại bằng con cái. Ngài cũng sẽ chúc phước Hội thánh, dầu Hội thánh chỉ là một nhóm người nhỏ bé trên thế gian.
Phao-lô không đặt Y-sơ-ra-ên ngang hàng với Hội thánh hay gợi ý rằng những lời hứa thời Cựu-ước đối với dân Do-thái giờ đây được ứng nghiệm qua Hội thánh. Nếu chúng ta tuyên bố những lời tiên tri về Do-thái trong Cựu-ước cho Hội thánh, vậy chúng ta phải tuyên bố tất cả, những sự xét đoán cũng như những phước hạnh, và đa số người không muốn làm vậy!
Sự phục hồi xứ của Y-sơ-ra-ên cũng có nghĩa là sự tin quyết (Es 54:4-10). Ê-sai trình bày một lời hứa khác trong những lời hứa “đừng sợ” của ông (Es 41:10,13,14; Es 43:1,5; Es 44:2,8; Es 51:7; Es 54:14) và giải thích vì sao dân tộc không cần phải sợ hãi.
-Trước hết, tội lỗi họ đã được tha (c.4).
Tại sao họ phải sợ tương lai khi Đức Chúa Trời đã bôi xoá tội lỗi của quá khứ? (Es 43:25; Es 44:22). Vâng, dân sự đã phạm trọng tội với Đức Chúa Trời của họ, nhưng Ngài tha thứ họ, và điều này có nghĩa là một khởi đầu mới (Es 40:1-5). Họ có thể quên sự xấu hổ về tội lỗi mình như một dân tộc non trẻ, như được chép trong Các quan xét và ISa-mu-ên, cũng như sự sỉ nhục về “cảnh goá bụa” của họ trong sự lưu đày ở Ba-by-lôn.
-Lý do khác cho sự tin quyết là tình yêu không đổi thay của Chúa (Es 54:5-6). Đức Giê-hô-va là Đấng dựng nên họ và sẽ không huỷ diệt dân mà Ngài đã tạo dựng vì vinh hiển Ngài.
Ngài là Đấng Cứu Chuộc họ và không thể bán họ vào tay kẻ thù.Ngài là Chồng của họ và sẽ không phá vỡ những lời hứa giao ước của Ngài. Như một người vợ bất trung, Y-sơ-ra-ên đã bỏ Chồng mình, nhưng Ngài không bỏ nàng mãi mãi. Ngài chỉ cho nàng cơ hội để thấy sống trong một xứ mà người ta thờ lạy các thần giả tạo là như thế nào. Đức Chúa Trời sẽ gọi nàng về cầu hôn nàng cho chính Ngài (Os 2:14-23) và nàng sẽ không còn là “người vợ bị để nữa” (Es 54:6 NIV). Nàng cảm thấy bị từ bỏ (Es 49:14) nhưng Đức Chúa Trời đã không bỏ nàng.
-Một lý do thứ 3 cho sự tin quyết là lời hứa đáng tin cậy của Đức Chúa Trời (Es 54:7-10). Đức Chúa Trời phải bày tỏ sự giận dữ của Ngài đối với tội lỗi họ, nhưng giờ đây sự sửa phạt đã chấm dứt, và họ sẽ trở về xứ mình (về cơn giận của Đức Chúa Trời, hãy xem Es 9:12,17,21). Ngài hứa: “Ta sẽ lấy lòng thương xót cả thể mà thâu ngươi lại. Ta sẽ thương xót ngươi vì lòng nhơn từ vô cùng”.
Mỗi khi chúng ta chống nghịch Đức Chúa Trời và không chịu lắng nghe những lời cảnh cáo của Ngài, Ngài phải sửa phạt chúng ta, và Ngài làm điều đó trong tình yêu (He 12:1-11). Cha chúng ta không thể cho phép con cái Ngài phạm tội và thoát được sự trừng phạt. Nhưng mục đích của sự sửa phạt của Ngài là để đem chúng ta đến sự ăn năn và giúp chúng ta có thể sanh “bông trái bình an của sự công bình” (He 12:11). Khi Đức Chúa Trời “đánh” con cái lầm lỗi của Ngài, Ngài có thể làm họ đau, nhưng Ngài không bao giờ làm hại họ. Điều đó luôn vì ích lợi của chúng ta và vinh hiển Ngài.
Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa Ngài về Cơn Nước Lụt (Sa 9:11-17) và Ngài sẽ giữ những lời hứa của Ngài đối với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Họ có thể tin cậy nơi tình yêu Ngài, giao-ước Ngài, và sự thương xót của Ngài.
Các phu tù không chỉ sẽ được tự do và dân tộc được hồi phục, mà thành Giê-ru-sa-lem cũng sẽ được xây lại (Es 54:11-17). Nếu ngôn ngữ ở đây dường như quá đáng, hãy nhớ rằng tiên tri nhìn thấy một sự ứng nghiệm trực tiếp và cả sự ứng nghiệm cuối cùng (Kh 21:18-21).
Những người xót lại đã xây lại đền thờ và thành dưới sự lãnh đạo của quan tổng trấn Giê-ru-sa-lem, thầy tế lễ cả Giê-sua, thầy thông giáo Ê-xơ-ra, người xây tường thành Nê-hê-mi, cùng các tiên tri A-ghê và Xa-cha-ri. Nhưng Giê-ru-sa-lem được phục hồi chẳng giống gì với điều Ê-sai mô tả ở đây! Về thành xinh đẹp đó, chúng ta phải chờ đợi cho đến kỳ tái lâm của Chúa là sự thiết lập Vương Quốc Ngài. Khi ấy mọi công dân của Giê-ru-sa-lem sẽ biết Chúa (Es 54:13), và thành sẽ tự do khỏi sự kinh hãi với chiến tranh (c.14).
Chúa chúng ta đã trích dẫn phần đầu của c.13 trong Gi 6:45 khi bạn đọc bản văn, bắt đầu ở c.34 bạn thấy rằng Chúa Giê-xu đang nói về những người đến với Cha. “Mọi kẻ Cha cho Ta sẽ đến cùng Ta” (c.37, NKJV) không có nghĩa là Cha ép buộc tội nhân được cứu. Những người đến cùng Ngài vì họ được “Đức Chúa Trời dạy dỗ” và Thánh Linh đến gần họ qua Lời Ngài. Sự truyền giảng Phúc-Âm cá nhân sẽ không cần ở Giê-ru-sa-lem mới, vì mọi công dân sẽ biết Chúa.
2. Sự mời gọi đối với dân ngoại (Es 54:1-17) (Es 55:1-56:8)
Tôi Tớ đã chịu chết không chỉ vì tội lỗi của Y-sơ-ra-ên (Es 53:8), mà còn vì tội lỗi của cả thế gian (Gi 1:29 IGi 4:14). Ê-sai nói rõ qua sát của ông rằng dân ngoại được kể đến trong kế hoạch của Đức Chúa Trời. Điều mà Ê-sai và các tiên tri khác không biết là dân Do-thái và dân ngoại tin nhận một ngày nàođó sẽ được hiệp nhất trong Chúa Giê-xu Christ, ở trong Hội thánh (Eph 3:1-12).
Đức Chúa Trời đưa ra một lời mời gọi cho dân ngoại với 3 ý: hãy đến (Es 55:1-5), hãy tìm kiếm (c.6-13) và hãy thờ phượng (Es 56:1-8).
• Hãy đến (Es 55:1-5).
Lời mời gọi được mở rộng cho “mọi người, chớ không chỉ cho dân Do-thái. Bất cứ ai khao khát điều gì thật sự làm thỏa mãn (Gi 4:10-14) đều được hoan nghênh đến. Như trong Es 25:6 tiên tri mô tả những phước hạnh của Đức Chúa Trời bằng những thuật ngữ về một đại yến tiệc, nơi Đức Chúa Trời là chủ tiệc.
Ở phương Đông, nước là một thành phần quý báu và sự dư dật nước là một phước hạnh đặc biệt (Es 41:17; Es 44:3). Rượu, sữa và bánh là những món ăn chủ yếu của họ. Dân sự đang sống nhờ vào những thứ thay thế không nuôi dưỡng họ. họ cần “đồ thật” mà chỉ Chúa mới có thể ban cho. Trong Kinh Thánh, cả nước và rượu là những hình ảnh về Đức Thánh Linh (Gi 7:37-39; Eph 5:18).
Chúa Giê-xu là “bánh của sự sống” (Gi 6:32-35) và Lời hằng sống của Ngài gi6óng như sữa (IPhi 2:2). Chúa chúng ta có thể đã nghĩ đến Es 55:2 khi Ngài phán: “Đừng làm việc vì đồ ăn hay hư nát, nhưng vì đồ ăn còn lại đến sự sống đời đời” (Gi 6:27 NKJV).
Con người phải làm việc cực nhọc để đào giếng, chăm sóc bầy chiên cùng đàn gia súc, gieo giống và trông nom vườn nho. Nhưng Chúa đã ban cho họ vô điều kiện mọi sự họ đang lao nhọc vì nó. Nếu họ lắng nghe Lời Ngài, họ sẽ có khuynh hướng đến, vì Đức Chúa Trời kéo tội nhân đến với chính Ngài qua Lời Ngài (Gi 5:24). Hãy chú ý sự nhấn mạnh về việc nghe trong Es 55:2-3.
“Những sự thương xót chắc chắn dành cho Đa-vít” có liên quan đến giao-ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít (IISa 7:1-29) trong đó Ngài hứa rằng một hậu tự sẽ cai trị trên ngôi Đa-vít đời đời. Dĩ nhiên đây là Chúa Giê-xu Christ (Lu 1:30-33) và chứng cớ Ngài là Vua của Đức Chúa Trời được nhìn thấy qua sự sống lại của Ngài từ cõi chết (Công 13:34-39). Chúa Giê-xu Christ là giao ước của Đức Chúa Trời dành cho dân ngoại (“các dân”) và những lời hứa của Ngài sẽ không thay đổi bao lâu Con Ngài vẫn sống, tức là đời đời.
Es 55:5 chỉ ra rằng Đức Chúa Trời sẽ sử dụng Y-sơ-ra-ên để kêu gọi dân ngoại đến với sự cứu rỗi, mà chắc chắn có thật trong những ngày đầu của Hội Thánh (Công 10:1; Công 11:13; Công 13:1) và sẽ trở thành sự thật trong suốt thời kỳ vương quốc (Es 2:2-4; Es 25:14; Xa 8:22). Giê-ru-sa-lem sẽ là trung tâm thờ phượng trên thế giới, và Đức Chúa Trời sẽ được quy vinh hiển khi các dân tộc gặp gỡ với Y-sơ-ra-ên để tôn kính Chúa.
• Hãy tìm kiếm (Es 55:6-13).
Khi Đức Chúa Trời giải cứu dân sự Ngài khỏi Ba-by-lôn và đưa họ trở về xứ của họ cách bình an, đó là một chứng cớ đối với các dân tộc khác. nó cũng cho Y-sơ-ra-ên cơ hội nữa để làm sự sáng cho các dân ngoại (Es 49:6) và đem họ đến đức tin nơi Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. trong khi thật quan trọng để Y-sơ-ra-ên tìm kiếm Chúa và hoàn toàn tận hiến cho Ngài, cũng quan trọng để họ chia sẻ lời mời gọi này với các dân tộc.
Điều gì có liên quan trong việc “tìm kiếm Chúa”? Trước hết, nó có nghĩa là thừa nhận rằng chúng ta là tội nhân và chúng ta đã xúc phạm Đức Chúa Trời thánh khiết. Đó có nghĩa là ăn năn (Es 55:7), đổi ý về tội lỗi, từ bỏ tội lỗi và đến với Chúa. Chúng ta phải trở lại với Đức Chúa Trời bằng đức tin và tin lời hứa của Ngài rằng Ngài sẽ tha thứ dư dật trong sự thương xót. Sự ăn năn và đức tin đi đôi với nhau: “sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin đối với Chúa Giê-xu Christ chúng ta” (Công 20:21).
Nhưng không ai nên trì hoãn làm điều này! Nhóm từ “đang khi Ngài có thể được tìm thấy” gợi ý rằng, nếu chúng ta không nhận lời mời gọi của Ngài cách nghiêm túc, lời mời có thể chấm dứt trong lúc chúng ta đang trì hoãn. Trong ví dụ về Tiệc Yến Lớn, Đức Chúa Trời đã đóng cửa đối với những người khước từ lời mời của Ngài (Lu 14:16-24; Ch 1:20-33). “Kìa, hiện nay là thì thuận tiện; kìa hiện nay là ngày cứu rỗi” (IICôr 6:2).
Tìm cách “ước đoán” Đức Chúa Trời không phải là một dấu hiệu khôn ngoan, vì đường lối và tư tưởng Ngài vượt quá sự hiểu biết của chúng ta (Es 55:8-9). Chúng ta tạo ra Đức Chúa Trời theo hình ảnh của chính mình rồi kết luận rằng Ngài suy nghĩ và hành động giống như chúng ta (Thi 50:21), và chúng ta sai lầm! bạn có bao giờ tìm cách giải thích ân điển Đức Chúa Trời cho một người chưa được cứu là người nghĩ rằng thiên đàng là một “Tòa nhà Danh tiếng” cho những người thành đạt thay vì là nhà Cha cho những người tin nhận. Trong thế gian này, bạn làm việc vì những gì bạn có được, và bạn nghi ngờ bất cứ điều gì vô điều kiện.
Đức Chúa Trời bắt đầu kêu gọi và cứu rỗi tội nhân hư mất ra sao? bằng quyền năng của Lời Ngài (Es 55:10-11). Lời Đức Chúa Trời là hạt giống (Lu 8:11). Như mưa và tuyết không bao giờ bị lãng phí nhưng thực hiện những mục đích của Ngài, Lời Ngài cũng không bao giờ qua đi.
“Lời của Đức Chúa Trời chúng ta còn mãi mãi đời đời” (Es 40:8). Chúng ta không bao giờ biết Đức Chúa Trời sẽ sử dụng thậm chí một lời tự nhiên của chứng nhân ra sao để trồng và tưới hạt giống trong lòng ai đó.
Es 55:12-13 mô tả sự vui mừng của những phu tù về sự giải thoát của họ khỏi cảnh lưu đày và cả sự vui mừng của Y-sơ-ra-ên khi họ dự phần vào “sự rời Ê-díp-tô vinh hiển” đó vào thời kỳ cuối cùng và trở về xứ họ. Khi vương quốc được thiết lập, cả thiên nhiên sẽ ngợi ca Chúa (Es 32:13; Es 35:1-2; Es 49:23; Es 52:8-9).
• Hãy thờ phượng (Es 56:1-8).
Dân tộc đã bị lưu đày vì đã bất tuân luật pháp Đức Chúa Trời, đặc biệt là điều răn thứ Es 4: “Hãy nhớ ngày Sa-bát để giữ nó nên thánh” (Xu 20:8). Điều răn này là một “dấu” đặc biệt giữa Đức Chúa Trời và dân Do-thái (Xu 31:12-18; Ne 9:13-14). Nó chưa bao giờ được dành cho dân ngoại. dân Do-thái bị quở trách vì họ xem ngày Sa-bát cách hời hợt suốt thời gian đi trong đồng vắng (Exe 20:10-26) và khi họ sống trong xứ (Gie 17:19-27). thậm chí sau khi trở về xứ thánh sau sự lưu đày, dân Do-thái tiếp tục vi phạm ngày Sa-bát (Ne 13:15-22).
Hãy nhớ rằng ngày Sa-bát là ngày thứ 7 trong tuần, ngày mà Đức Chúa Trời làm nên thánh khi Ngài hoàn tất sự sáng tạo (Sa 2:1-3). Chúa nhật là Ngày của Chúa ngày đầu tiên trong tuần, và nó kỷ niệm “sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ từ cõi chết”. Gọi Chúa nhật là “ngày Sa-bát” hay “Ngày Sa-bát Cơ-đốc” là lẫn lộn 2 ngày quan trọng này. Ngày Sa-bát là một dấu hiệu đối với dân Do-thái và thuộc về luật pháp: bạn lao động 6 ngày, và sau đó bạn nghỉ ngơi. Ngày của Chúa nói về sự sống lại và thuộc về ân điển. Dân sự Đức Chúa Trời tin nơi Đấng Christ, và rồi việc làm theo sau.
Đức Chúa Trời chưa bao giờ yêu cầu dân ngoại dự phần với dân Do-thái trong việc giữ ngày Sa-bát trước đây nhưng ở đây Ngài yêu cầu như thế. Ngài kêu gọi mọi dân mà Ngài đã cấm bước vào quốc gia giao-ước của Ngài: người ngoại quốc và hoạn quan (Phuc 23:1-8). Đây là bức tranh khác về ân điển Đức Chúa Trời (Công 8:26). Lời mời gọi vẫn là: “Nào, mọi người! Hãy đến!”. Nó áp dụng cho tội nhân ngày nay, nhưng nó vẫn áp dụng một cách đặc biệt khi Y-sơ-ra-ên bước vào vương quốc mình, những sự hầu việc trong đền thờ được phục hồi, và ngày Sa-bát một lần nữa là một phần của sự thờ phượng Do-thái.
Lời khuyên của Đức Chúa Trời đối với những người còn sót lại để “giữ điều chánh trực, và làm sự công bình” (Es 56:1) đã không được vâng theo. Khi bạn đọc E-xơ-ra, Nê-hê-mi, A-ghê, và Ma-la-chi bạn khám phá rằng dân Do-thái đã sớm quên sự nhân từ của Đức Chúa Trời và trở lại với con đường cũ của họ. Việc dành thời gian đặc biệt mỗi tuần để nhớ Chúa và thờ phượng Ngài giúp chúng ta vâng theo ý muốn Ngài.
-Es 55:1-13; xem giải nghĩa Es 54:1-17.
-Es 56:1-8; xem giải nghĩa Es 54:1-17.
3. Sự tố cáo nghịch với tội nhân (Es 56:9-12) (Es 56:9-59:21)
(Es 56:9-12). Tiên tri trình bày trong phân đoạn này một loạt những lời buộc tội những người bất tuân trong dân tộc: các quan trưởng (Es 56:9-57:2), người thờ thần tượng (Es 57:3-13), người kiêu ngạo và người tham lam (c.14-21), những người thờ phượng giả hình (Es 58:1-14), và những người chịu trách nhiệm về sự bất công trong xứ (Es 59:1-21). Nhưng thậm chí trong sự thạnh nộ của Ngài, Đức Chúa Trời nhớ đến sự thương xót (Ha 3:2). Vì cùng với những lời buộc tội, Chúa biện hộ cho những người hạ mình và đầu phục Ngài.
• Các quan trưởng trong dân (Es 56:9-57:2).
Chính hạnh kiểm bất kính của các quan trưởng đã gây cho Giu-đa rơi vào Ba-by-lôn (Ca 4:13-14). Nếu các tiên tri, thầy tế lễ cả, và các quan trưởng trở lại với Đức Chúa Trời trong sự ăn năn và đức tin, Ngài sẽ can thiệp thay họ, nhưng họ cứ ở trong sự chống nghịch. Với những lời mỉa mai chua cay, Ê-sai gọi họ là “những kẻ canh giữ đui mù” không thể nhìn thấy kẻ thù đang đến, và “những con chó ngủ” không thể sủa cảnh báo thậm chí nếu chúng thức! Các quan trưởng không cảnh giác. Họ thích ngủ, và khi họ thức, họ thích ăn và uống.
Những lãnh đạo thuộc linh là “những người canh gác” (Exe 3:17-21; Exe 33:1-11) phải tỉnh thức trước những hiểm hoạ đe doạ dân sự Đức Chúa Trời. Họ là “những người chăn chiên” phải đặt sự chăm sóc bầy chiên lên trên những ham muốn riêng. Khi những kẻ xâm lược ngoại bang (“những loài thú đồng”) đến, những người chăn chiên phải bảo vệ bầy chiên, cho dù nguy hiểm có thể ra sao. (Công 20:18-38) về sự mô tả một chức vụ thuộc linh trung tín.
Đức Chúa Trời cho phép các quan trưởng không công bình sống gánh chịu những hậu quả khủng khiếp của tội lỗi họ, nhưng người công bình đã chết trước khi sự xét đoán giáng xuống. Những người tin kính đã tìm thấy sự yên nghỉ và bình an; những người bất kính bị lưu đày, và một số người đã bị chết.
Những người chống nghịch không xứng đáng làm những lãnh đạo thuộc linh tận tụy, khi dân sự Ngài khước từ Lời Ngài và thích những lãnh đạo thế gian hơn, Đức Chúa Trời có thể ban cho họ đúng những gì họ ước muốn và để cho họ gánh chịu những hậu quả.
• Những người thờ thần tượng (Es 57:3-13).
Suốt những ngày cuốic ùng của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trước khi Ba-by-lôn đến, xứ và thành đã bị ô uế bởi những thần tượng. Vua Ê-xê-chi-ên và vua Giô-si-a đã lãnh đão dân sự trong việc phá huỷ các hình tượng và nơi cao, nhưng ngay khi một vua bất kính lên ngôi, dân sự trở lại ngay con đường cũ của họ. Cả Ê-sai và Giê-rê-mi đã cho dân sự biết rằng Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt họ vì phạm luật pháp Ngài, nhưng họ cứ đi trong con đường của các dân tộc bất kính quanh họ.
Đức Chúa Trời nhìn thấy sự thờ thần tượng như sự gian dâm và đĩ thỏa (c.3). Dân sự biết điều đó là sai trái, nhưng họ đã ngạo mạn thực hành sự thờ phượng theo xác thịt (“kích động bản thân bằng những thần tượng”) mà không xấu hổ, bạn sẽ tìm thầy họ khắp nơi: thăm viếng các gái điếm là điện thờ dưới những cây xanh trong rừng, đưa con cái qua lửa trong thung lũng, thờ lạy dưới những vách đá và gần những hòn đá phẳng, dâng của lễ trong núi, và phạm tội tà dâm dưới cửa như họ. Một cách công khai và riêng tư, dân sự đã dâng mình cho các thần tượng và sự đồi bại.
Nhưng họ cũng phạm tội giao thiệp với các quan trưởng ngoại đạo và tin cậy họ để được sự bảo vệ thay vì tin cậy Đức Chúa Trời (c.9). Tin cậy một quan trưởng ngoại đạo và quân đội của người ấy giống như tin cậy thần giả dối mà họ đã thờ lạy (Es 30:1-7; Es 31:3). Họ tìm thấy sức mạnh giả tạo qua các liên minh chính trị của họ và không thừa nhận rằng những hiệp ước này vô hy vọng (Es 57:10). Đức Chúa Trời sẽ phơi bày tội lỗi họ và xét đoán nó, và như điều đó xảy ra, tập thể các thần của họ (“những người đồng hành” trong c.13 KJV) sẽ không cứu họ.
Bất cứ điều gì chúng ta tin cậy hơn Chúa đều trở thành thần của chúng ta và do đó nó là một thần tượng. Đó cóthể là sự rèn luyện, kinh nghiệm, công việc, tiền bạc, bạn bè hoặc địa vị của chúng ta. Một trong những cách tốt nhất để tìm ra chúng ta có thần tượng trong đời sống mình hay không là tự hỏi: “Theo bản năng, tôi hướng về đâu khi tôi đối diện với một quyết định hay cần giải quyết một vấn đề?” Chúng ta có đi đến điện thoại để gọi cho một người bạn? Chúng ta có đảm bảo với mình rằng chúng ta có thể tự giải quyết hoàn cảnh? Hay chúng ta hướng về Đức Chúa Trời và tìm kiếm ý muốn cùng sự giúp đỡ của Ngài.
Khi cơn bão bắt đầu thổi, các thần tượng sẽ cuốn đi như rơm rạ (c.13). Chúng đều “hư ảo” nghĩa là “hư không”. Cơn bão không tạo nên một con người, nó bày tỏ con người được dựng nên từ cái gì và đức tin người đó ở đâu. Nếu chúng ta xem Chúa là nơi trú ẩn của mình, chúng ta chẳng có gì để sợ hãi.
• Những kẻ kiêu ngạo và tham lam (Es 57:14-21).
Đức Chúa Trời có một lời khích lệ cho những người trung tín còn sót lại: Đường cái sẽ được xây dựng và những trở ngại sẽ bị cất bỏ, hầu cho những phu tù có thể trở về xứ và hầu việc Chúa (về chủ đề “dường cái” hãy xem Es 11:16). Đức Chúa Trời sẽ ở cùng họ vì họ có tinh thần khiêm nhường (Es 66:2; Thi 34:18; Thi 51:17). Sự kiêu ngạo là một tội lỗi Đức Chúa Trời ghét (Ch 6:16-17) và Đức Chúa Trời chống cự (IPhi 5:5-6).
Đức Chúa Trời đã bị “chọc giận” bởi “sự tham lam tội lỗi của Y-sơ-ra-ên và liên tục quở phạt họ về điều đó, nhưng họ không thay đổi (Es 57:17). Bao lần Ngài đã “đem họ đến tòa án” và chứng minh cho họ thấy tội lỗi, nhưng họ không đầu phục. Nhưng giờ đây điều đó đã chấm dứt, kỳ đã đến để Đức Chúa Trời chữa lành họ, hướng dẫn họ, và yên ủi họ.
• Những kẻ giả hình (Es 58:1-14).
Đức Chúa Trời bảo Ê-sai kêu to bằng một giọng giống như kèn và rao ra tội lỗi của dân tộc. Dân sự đến đền thờ, vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời, kiêng ăn, và tỏ ra nôn nả tìm kiếm Chúa; nhưng sự thờ phượng của họ chỉ là sự phô diễn bên ngoài. Lòng họ đã cách xa Đức Chúa Trời (Es 1:10-15; Es 29:13; Mat 15:8-9) khi chúng ta thờ phượng vì đó là việc làm thông thường, chớ không vì đó là việc đúng đắn phải làm, khi ấy sự thờ phượng của chúng ta trở nên giả hình.
Dân Do-thái được lệnh thực hiện chỉ một lần kiêng ăn vào lễ Chuộc tội hằng năm (Le 16:29-31), nhưng họ được phép kiêng ăn cách riêng tư nếu họ muốn. Họ phàn nàn rằng không ai có vẻ để ý điều họ đang làm. Có lẽ họ đang tìm cách “mua phước hạnh của Đức Chúa Trời” bằng sự kiêng ăn của mình. Việc thờ phượng Đức Chúa Trời đòi hỏi nhiều hơn là thực hiện một lễ nghi bên ngoài, phải có một sự vâng lời và đầu phục Chúa ở bên trong (Mat 6:16-18).
Nếu trong những nhiệm vụ tôn giáo của tôi, tôi đang làm điều vừa ý mình, và nếu làm điều đó không khiến tôi trở nên một con người tốt hơn, vậy tôi đang lãng phí thời gian của mình, và sự thờ phượng của tôi chỉ là tội lỗi. Kiêng ăn và tranh cạnh không đi đôi với nhau! Thế mà có biết bao gia đình bước ra khỏi nhà thờ một cách ngoan đạo vào cuối lễ thờ phượng Chúa nhật, bước vào xe hơi gia đình, và tiếp tục tranh cãi với nhau suốt đường về nhà!
Sự kiêng ăn thật sẽ dẫn đến tính khiêm nhường trước mặt Đức Chúa Trời và chức vụ đối với người khác. Chúng ta tự bỏ mình đi để chúng ta có thể chia sẻ với người khác và làm vậy vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta kiêng ăn để được điều gì đó từ Đức Chúa Trời cho chính mình, thay vì để trở nên người tốt hơn vì cớ kẻ khác, vậy chúng ta đã hiểu sai ý nghĩa của sự thờ phượng. Nó làm Đức Chúa Trời vui mừng khi chúng ta vui mừng trong Chúa.
• Những kẻ bất chính (Es 59:1-21).
Có rất nhiều sự bất công trong xứ, mà người giàu bóc lột người nghèo và các quan trưởng sử dụng quyền hạn của họ chỉ để làm giàu cho bản thân (Es 1:17-23; Es 3:13-15; Es 5:8-30). dân sự đã giơ tay lên để thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng tay họ bị vấy máu (Es 1:15,21). Đức Chúa Trời không thể đáp lời cầu nguyện của họ vì tội lỗi họ đã che khuất mặt Ngài khỏi họ.
Đó là một mâu thuẫn giữa lẽ thật và sự giả dối, giống như ngày nay. Ê-sai ví sánh các quan trưởng gian ác như những thai phụ sinh ra tội lỗi (Es 59:4; Thi 7:14; Es 33:11), những con rắn ắp trứng chúng, và những con nhện giăng lưới (Es 59:5-6). Những gì họ sinh ra chỉ sẽ huỷ diệt họ (Gia 1:13-15) và những mạng nhện xinh xắn của sự giả dối không bao giờ có thể bảo vệ họ.
Khi người ta sống bằng những sự giả dối, họ sống trong một miền chạng vạng và không biết mình đang đi đâu (Es 59:9-11). Khi sự thật ập xuống, nó tạo ra một sự “tắc nghẽn” và sự công chính cùng sự trung thực không thể tiến bộ (c.12-15). Đức Chúa Trời không hài lòng với sự bất chính, và Ngài ngạc nhiên rằng không ai trong dân Ngài sẽ cầu thay hay can thiệp (Ch 24:11-12). vì vậy chính Chúa đã can thiệp và đem dân Ba-by-lôn đến để huỷ diệt Giu-đa cùng Giê-ru-sa-lem và để dạy dân Ngài rằng họ không thể coi thường luật pháp Ngài và tránh được sự trừng phạt.
Sự xét đoán của Đức Chúa Trời trên dân sự là một điềm báo trước về Ngày của Chúa sau cùng đó khi mọi dân tộc sẽ bị xét đoán. Khi nó chấm dứt, thì “Đấng Cứu Chuộc sẽ đến Si-ôn” (Es 59:20), và Vương Quốc vinh hiển sẽ được thiết lập. Y-sơ-ra-ên sẽ không chỉ là tuyển dân của Đức Chúa Trời, mà còn là dân tinh sạch của Đức Chúa Trời, và vinh hiển của Chúa sẽ chiếu ra từ núi Si-ôn.
Vinh hiển của Chúa trong Vương Quốc được hứa là chủ đề của các chương cuối sách Ê-sai, . trong khi chúng ta chờ đợi và cầu nguyện, “Nước Ngài đến” có lẽ chúng ta cũng phải cầu thay và can thiệp. Chúng ta là muối của đất và sự sáng của thế gian (Mat 5:13-16) và Đức Chúa Trời mong chờ chúng ta thực hiện một thay đổi.
-Es 57:1-21; xem giải nghĩa Es 54:1-17.
-Es 58:1-14; xem giải nghĩa Es 54:1-17.
-Es 59:1-21; xem giải nghĩa Es 54:1-17.
12. VƯƠNG QUỐC VÀ SỰ VINH HIỂN (Es 60:1-66:24)
Jonathan Edwards đã nói: “Ân điển chỉ là vinh hiển khởi đầu và vinh hiển chỉ là ân điển được trọn vẹn”.
Bất cứ điều gì khởi đầu với ân điển của Đức Chúa Trời sẽ dẫn đến vinh hiển của Đức Chúa Trời (IPhi 5:10), và điều đó kể đến dân tộc Y-sơ-ra-ên.
Ê-sai bắt đầu “Sách của sự yên ủi” của ông (chương 40-66) bằng cách tiên tri rằng “sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va sẽ hiện ra” (IPhi 40:5). Giờ đây ông kết luận bằng cách mô tả cho chúng ta sự vinh hiển đó. Trong 7 chương này, ông sử dụng từ “vinh hiển” dạng này hay dạng khác ít nhất 23 lần. Khi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời xuất hiện, mọi sự trở nên mới.
1. Bình minh của một ngày mới (Es 60:1-22)
“Hãy dấy lên và sáng loè ra!” là “sự kêu gọi thức dậy” của Đức Chúa Trời đối với Giê-ru-sa-lem (c.14). Sự sáng này không từ mặt trời nhưng từ vinh hiển của Đức Chúa Trời chiếu sáng trên thành.
Vinh hiển của Đức Chúa Trời đã từng ngự trong đền tạm (Xu 40:34-38), chỉ ra đi vì tội lỗi của Y-sơ-ra-ên (ISa 4:21). Vinh hiển của Đức Chúa Trời sau đó đến trong đền thờ (IVua 8:11), nhưng vinh hiển đã ra đi khi dân tộc quay sang thần tượng (Exe 9:3; Exe 10:4,18; Exe 11:22-23). Vinh hiển đã đến với Y-sơ-ra-ên trong thân vị Chúa Giê-xu Christ (Gi 1:14), nhưng dân tộc đã đóng đinh vinh hiển đó vào thập tự giá. Ngày nay, vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự trong Hội thánh Ngài (Eph 2:20-22) và cá nhân dân sự Ngài (ICôr 6:19-20). Nhưng ngày nào đó, vinh hiển Ngài sẽ được bày tỏ trên đất khi Ngài đáp lời câù nguyện của dân sự Ngài, “nguyện Nước Ngài đến”.
Sự lưu đày ở Ba-by-lôn là giờ phút tối tăm nhất của dân tộc, nhưng đó không phải là sự tối tăm Ê-sai đang mô tả. Ông mô tả sự tối tăm khủng khiếp sự bao phủ đất suốt Ngày của Chúa (Am 5:8), khi Đức Chúa Trời trừng phạt các dân tộc trên đất vì tội lỗi của họ (Es 2:12 Es 13:6). Nhưng tiên tri cũng mô tả ánh sáng vinh hiển sẽ đến với Y-sơ-ra-ên khi Đấng Mê-si-a tái lâm để cai trị ở Giê-ru-sa-lem. Khi ấy “đất sẽ đầy dẫy sự nhận biết vinh hiển của Đức Giê-hô-va như nước đầy tràn biển” (Ha 2:14). Các con trai và con gái của Y-sơ-ra-ên sẽ trở về nhà lần nữa (Es 60:4,8-9) và tất cả họ sẽ biết Chúa.
Đó sẽ là bình minh của một ngày mới cho các dân trên thế giới cũng như cho Y-sơ-ra-ên (c.3,10-13). Dân ngoại sẽ đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Chúa và để chia sẻ của cải họ (Es 2:2-4; Es 11:9; Es 27:13; Es 56:7; Es 57:13; Es 65:25; Es 66:20). Một số người “thuộc linh hoá” những lời hứa này và áp dụng chúng cho những dân ngoại đến với Đấng Christ và Hội thánh Ngài hôm nay, nhưng đó không phải là sự giải thích cơ bản. Ê-sai nhìn thấy các thuyền cùng các đoàn bộ hành đem đến người và của cải cho Giê-ru-sa-lem (Es 60:5-7), và những ngước không chịu tôn kính Chúa cùng thành của Ngài sẽ bị xét đoán (c.12). Thậm chí các kẻ thù xưa của Y-sơ-ra-ên cũng sẽ đầu phục và giúp hầu việc Chúa (c.10,14).
Trong các câu 15-22, Chúa mô tả một số niềm vui và sự kỳ diệu của Vương Quốc vinh hiển. dân tộc sẽ không còn bị từ bỏ nhưng sẽ được giàu có bởi dân ngoại và được nuôi dưỡng giống như một đứa trẻ được yêu mến (c.4,16; Es 49:23; Es 61:6). Như trong thời của vua Sa-lô-môn (IVua 10:21,27), các kim loại quý sẽ phong phú, Đó sẽ là một thời kỳ hoà bình và an ổn. “Ta sẽ khiến sự bình an làm quan cai trị ngươi, và sự công bình làm quan xử đoán ngươi” (Es 60:17).
Giăng đã sử dụng một số đặc điểm của Giê-ru-sa-lem ngàn năm khi ông mô tả thành thánh (Kh 21:1-22:21). Mặt trời không bao giờ lặn, không có sự buồn rầu, các cửa không giờ đóng, v.v.. Nhưng thành Ê-sai mô tả là thủ phủ của nước Do-thái được hồi phục, và Chúa Christ sẽ ngự trên ngôi Đa-vít và xét đoán cách công bình. Những người Do-thái “còn sót lại” sẽ gia tăng và đầy dẫy xứ (Es 60:22; Es 51:2; Es 54:3).
2. Khởi đầu của một đời sống mới (Es 61:1-11)
Chúa phán (Es 61:1-9). Chúa Giê-xu đã trích dẫn từ đoạn này khi Ngài nói trong nhà hội tại Na-xa-rét, và Ngài áp dụng Lời Kinh Thánh này cho chính Ngài (Lu 4:16-21). (Chú ý rằng Es 61:1 kể ra Đức Chúa Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh). Tuy nhiên, Ngài đã không trích dẫn, “và ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta” từ c.2 vì ngày ấy vẫn chưa đến (Es 34:8; Es 35:4; Es 63:4).
Bối cảnh của phân đoạn này là “Năm Hân hỉ” được mô tả trong Le 25:7. Cứ 7 năm dân Do-thái phải tiến hành một “năm Sa-bát” và để cho đất được nghỉ. Sau 7 năm Sa-bát hoặc 49 năm, họ phải kỷ niệm năm thứ 50 làm “Năm hân Hỉ”. Suốt năm đó, mọi nợ nần được xoá, mọi đất đai được trả về cho nguyên chủ, các nô lệ được trả tự do, và mọi người được ban cho một khởi đầu tươi mới. Đây là cách Đức Chúa Trời quân bình kinh tế và ngăn trở những người giàu bóc lột người nghèo.
Nếu bạn đã tin Đấng Christ là Cứu Chúa mình, hôm nay bạn đang sống trong một “Năm Hân Hỉ” thuộc linh. Bạn đã được giải phóng khỏi ách nô lệ, món nợ thuộc linh của bạn đối với Chúa đã được trả. Bạn đang sống trong “năm có thể chấp nhận của Chúa”. Thay cho tro tàn của sự than khóc, bạn có một mão miện trên đầu, vì Ngài đã khiến bạn trở nên một vua (Kh 1:6). bạn đã được xức dầu bằng dầu của Đức Thánh Linh, và bạn mặc quần áo của sự công bình (Es 61:3,10).
Trong những ngày chống nghịch của mình, Y-sơ-ra-ên giống như một cây sồi héo úa và khu vườn không nước (Es 1:30), nhưng trong Vương Quốc, nó sẽ giống như một vườn năng tưới (Es 58:11) và cây (sồi)của sự công bình (Es 61:3). Nhưng mọi dân Đức Chúa Trời sẽ là cây của Ngài (Thi 1:1-3), “Là việc trồng của Đức Giê-hô-va để Ngài có thể được vinh hiển” (Thi 61:3).
Trong Vương Quốc “Năm Hân Hỉ” của họ, dân Do-thái sẽ xây lại, sửa lại và phục hồi xứ họ, dân ngoại sẽ chăn bầy chiên cùng bầy gia súc của Y-sơ-ra-ên, và coi sóc mùa màng của họ. Thay vì làm nông phu và người chăn chiên, dân Do-thái sẽ làm thầy tế lễ và người thi hành chức vụ! Đức Chúa Trời sẽ công nhận họ là con trưởng của Ngài (Xu 4:22) và ban cho họ phần gấp đôi phước hạnh của Ngài (Es 61:7; Phuc 21:17).
“Giao-ước đời đời” ở Es 61:8) được mô tả trong Gie 31:31-37 và bao gồm những phước hạnh của giao ước Mới mà Chúa Giê-xu Christ đã lập bởi sự chết Ngài (He 10:1-18; Mat 26:28). Hãy chú ý rằng Es 61:9 nói về “dòng dõi” của dân Do-thái. Những ai bước vào vương quốc ngàn năm sẽ cưới giả, có gia đình, và hưởng những phước hạnh của Đức Chúa Trời trên đất trong một ngàn năm (Kh 20:1-5). Họ sẽ học Lời Đức Chúa Trời từ đời này sang đời khác (Es 59:21)
• Tiên tri nói (Es 61:10-11).
Ê-sai đang nói thay cho những người sót lại là những người sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời về mọi điều Ngài đã làm. Họ vui mừng rằng Ngài đã tẩy sạch họ, mặc cho họ và biến sa mạc của họ thành một khu vườn sai trái (Es 55:10). Họ đã đi từ một đám tang đến một lễ cưới!
3. Đặt cho một tên mới (Es 62:1-12)
Đức Chúa Trời sẽ không cầm giữ sự hoà bình của Ngài (Es 62:1-5). Từ “Ta” trong c.6 chỉ ra rằng Chúa là người nói Đức Chúa Trời hứa giữ việc nói là làm cho đến khi những mục đích của Ngài đối với Giê-ru-sa-lem được làm trọn. Đây không chỉ vì cớ Si-ôn mà còn vì cớ các dân tộc trên thế giới. Sẽ không có sự công bình và hoà bình trên đất cho đến khi Giê-ru-sa-lem nhận được tên mới của nó và trở thành một mão triều vinh hiển cho Chúa.
Như người vợ bất trung, Giê-ru-sa-lem đã bị Chúa “từ bỏ” nhưng không “bị để” (Es 50:1-3). Những thử thách của nàng sẽ được quên đi khi nàng nhân tên mới là “Hép-xi-ba” có nghĩa “sự vui mừng của ta ở nơi nàng”. Đức Chúa Trời vui mừng nơi dân sự Ngài và vui ban cho họ điều tốt nhất của Ngài. Tên cũ là “Hoang vu” sẽ được thay thế bằng “Bu-la” có nghĩa “có chồng” (Es 54:1). Khi nàng dâu lấy chồng, nàng nhận một tên mới. Trong trường hợp của Y-sơ-ra-ên, nàng đã kết hôn với Đức Giê-hô-va, nhưng nàng sẽ có một tên mới khi nàng được hoà thuận với Ngài.
Những người canh gác không nên cầm giữ sự hoà bình của mình (Es 62:6-12). Đức Chúa Trời ban cho dân Ngài các quan trưởng để hướng dẫn họ, nhưng họ đã không trung tín (Es 56:10). Giờ đây, Ngài ban cho họ những người canh gác trung tín, là những người thường trực nhắc nhở Đức Chúa Trời về những lời hứa của Ngài. “Đừng cho Ngài sự an nghỉ cho đến chừng Ngài lập Giê-ru-sa-lem và khiến nó làm sự ngợi khen của đất” (Es 62:7 NIV). Quả là một sự khích lệ cho chúng ta để “cầu hoà bình cho Giê-ru-sa-lem” (Thi 122:6).
Đức Chúa Trời hứa rằng dân Do-thái sẽ không bao giờ mất mùa lần nữa cho kẻ thù nhưng sẽ hưởng hoa quả của công lao động mình trong chính hành lang của nơithánh Ngài. Thật là một đặc quyền! Theo Exe 40:1-48:35 sẽ có một đền thờ ngàn năm, và dân Do-thái sẽ thờ phượng Chúa ở đó. Đã tiếp nhận Đấng Mê-si-a của mình, giờ đây họ sẽ hiểu rõ ý nghĩa thuộc linh về sự thờ phượng của họ. Ngày nay, trí họ đã bị che đậy (IICôr 3:14-18), nhưng rồi, mắt họ sẽ được mở ra.
Es 62:10 là một đề cập khác về “đường cái” (Es 11:16; Es 40:3-5), và có một sự cấp bách về những từ này. Chúa sắp đến, và dân sự phải dọn đường sẵn! Khi công việc được hoàn tất, họ phải giương một ngọn cờ để báo hiệu họ sẵn sàng.
“Hãy xem, Đấng Cứu Rỗi ngươi đến!” (Es 62:11 NIV). Đây là một lời rao báo đến đầu cùng trái đất! Và khi Ngài đến, Ngài chia sẻ thêm những tên mới: Y-sơ-ra-ên được gọi là “Dân Thánh” và “Dân được chuộc của Đức Giê-hô-va” và Giê-ru-sa-lem được gọi là “Thành hay tìm đến, thành không bị bỏ” (c.12)
Đức Chúa Trời sẽ không có sự yên nghỉ cho đến khi Ngài thực hiện những mục đích của Ngài cho dân sự Ngài, và thế gian sẽ không có hòa bình cho đến khi Ngài thành công. Ngài yêu cầu chúng ta “đừng cho Ngài sự an nghỉ” (c.7) nhưng cầu thay cho Y-sơ-ra-ên và Giê-ru-sa-lem, vì những lời cầu nguyện của dân Ngài là một phần quan trọng trong chương trình của Đức Chúa Trời.
4. Rao ra một chiến thắng mới (Es 62:1-12) (Es 63:1-64:12)
Tiên tri nhìn phiá trước trong Es 63:1-6 và thấy Chúa Giê-xu Christ tái lâm từ trận chiến Armageddon mà đỉnh điểm là Ngày của Chúa (Kh 19:11-21). Ê-đôm được gọi tên ở đây như một đại diện của các dân đã áp bức dân Do Thái. Bốt-ra là một trong những thành phố chính của nó, và tên nó nghĩa là “hái nho”. Điều này có ý nghĩa vì hình ảnh ở đây là hình ảnh về bàn ép rượu (Giô 3:13; Kh 14:17-20). Tên “Ê-đôm” nghĩa là “đỏ” và là một biệt danh của Ê-sau (Sa 25:30).
Bàn ép rượu cổ xưa là một tảng đá lớn, rỗng, trong đó nho được đặt vào để người ta giẫm lên. Nước nho chảy qua một cái lỗ trong tảng đá và được cất trong những cái bình. Khi người ta nghiền nát nho, một phần nước nho sẽ văng lên quần áo họ. Quần áo của Chúa chúng ta đã bị nhuộm bởi huyết như kết quả của chiến thắng lớn trên kẻ thù Ngài (Kh 19:13).
Khi Chúa Giê-xu đến trên đất lần đầu tiên, nó mở đâù “năm được chấp nhận của Chúa” (Es 61:2; Lu 4:19). Khi Ngài đến lần thứ 2, đó sẽ là đỉnh điểm “ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta” (Es 63:4; Es 61:2). Kẻ thù sẽ bị nghiền nát như nho và bị ép phải uống máu của chính mình từ chén thạnh nộ của Đức Chúa Trời (Es 51:17; Gie 25:15-16). Những hình ảnh này không thể lôi cuốn những con người thạo đời ngày nay, nhưng dân Do-thái thời đó hoàn toàn hiểu chúng.
Sau đó tiên tri nhìn lại điều Đức Chúa Trời đã làm cho Y-sơ-ra-ên (Es 63:7-14). Ông ngợi khen Đức Chúa Trời về sự nhân từ và tốt lành của Ngài, về sự thương xót và tình yêu ban cho Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã đồng nhất hoá với những hoạn nạn của họ (c.9; Cac 10:16; Phuc 32:10-12) cũng như Ngài làm vậy với dân Ngài hôm nay (IPhi 5:7). Dân Do-thái đã hỏi: “Đức Chúa Trời của chúng ta Đấng đã làm những việc lạ cho dân Ngài ở đâu? Tại sao Ngài không hành động thay chúng ta?”
Tiên tri nhìn lên và kêu cầu Đức Chúa Trời giơ cánh tay Ngài và bày tỏ quyền năng Ngài (Es 63:15-64:12). Vì cớ Áp-ra-ham, vì cớ Y-sơ-ra-ên, vì Đức Chúa Trời là Cha của họ, cầu xin một sự bày tỏ quyền năng như Đức Chúa Trời đã làm thời xưa.
Ông cầu xin Đức Chúa Trời “ngó xuống” (Es 63:15) và “ngự xuống” (Es 64:1). Đây là một trong những “lời cầu nguyện phục hưng” lớn nhất được tìm thấy trong Kinh Thánh. Như Đức Chúa Trời đã ngự xuống trong lửa tại núi Si-nai (Xu 19:16-19), vì vậy hãy để Ngài ngự xuống lần nữa và bày tỏ quyền năng đáng sợ của Ngài cho các nươc. Họ tin cậy nơi các thần tượng chết, vậy hãy để họ nhìn thấy điều mà Đức Chúa Trời hằng sống của Y-sơ-ra-ên có thể làm!
Tại sao Đức Chúa Trời không làm những sự lạ? Họ đã phạm tội (Es 64:5-6), phải xưng nhận tội lỗi mình và từ bỏ chúng. Nếu sự công bình của chúng ta là bẩn thỉu, thì tội lỗi chúng ta còn ra gì trước mặt Ngài! Theo c.4 Đức Chúa Trời đã hoạch định cho dân Ngài những việc kỳ diệu vượt quá sự tưởng tượng của họ;nhưng tội lỗi họ ngăn trở Ngài chia sẻ những phước hạnh của Ngài (ICôr 2:9; Eph 3:20-21).
Có hay vọng nào? Vâng, vì Đức Chúa Trời là Cha tha thứ và Thợ gốm kiên nhẫn (Gie 18:1-23). Ngài có thể tẩy sạch chúng ta và làm chúng ta trở nên mới nếu chúng ta để Ngài làm theo ý Ngài.
Người cầu nguyện này (và những người tin còn sót lại) kết thúc bằng một câu hỏi: Vì sao Đức Chúa Trời yên lặng? Đền thờ Ngài đã bị phá huỷ, xứ vinh hiển của Ngài đã bị tàn phá, và dân Ngài ở trong vòng lưu đày. “Hỡi Đức Giê-hô-va, sau mọi điều này, Ngài sẽ kìm mình lại sao? Lẽ nào Ngài sẽ giữ yên lặng và trừng phạt chúng tôi quá mức ư?” Es 64:12 NIV). Sự trả lời của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong 2 chương kế tiếp.
-Es 63:1-19; xem giải nghĩa Es 62:1-12.
-Es 64:1-12; xem giải nghĩa Es 62:1-12.
5. Chúc phước một sự sáng tạo mới (Es 65:1-25)
Giờ đây Đức Chúa Trời đáp: “Ta sẽ không giữ sự im lặng, nhưng sẽ đền bù, thậm chí đền bù vào ngực chúng” (Es 65:6).
-Thứ nhất, Ngài tuyên bố rằng sự cứu rỗi của Ngài sẽ đến các dân ngoại (c.1), thậm chí dù họ không tìm kiếm Chúa hoặc kinh nghiệm những phước hạnh Ngài đã ban cho Y-sơ-ra-ên. Phao-lô áp dụng câu này cho dân ngoại trong Rô 10:19-20. nếu Y-sơ-ra-ên không muốn điều Đức Chúa Trời đã phải ban cho, vậy Ngài sẽ ban điều đó cho người khác. Xem Lu 14:16-24; Lu 21:10 cùng Công 28:23-31 để có những minh hoạ khác về nguyên tắc thiêng liêng này.
Sau đó, Đức Chúa Trời mô tả tội lỗi của dân Ngài đã ngăn trở Ngài đáp lời cầu nguyện của họ (Es 65:2-7). Họ đã chống nghịch ân điển và những lời kêu gọi yêu thương của Ngài, thì Ngài đã giơ tay Ngài ra cho họ và phán với họ qua Lời Ngài (Rô 10:21). Họ đã đi theo lối riêng của mình (Es 53:6) và khiêu khích Ngài bằng sự thờ phượng các thần giả dối cách gian ác của mình, có liên quan đến sự huyền bí và ma quỉ. Họ ăn thức ăn ô uế và công khai thờ lạy các thần tượng ở nơi cao. Thế mà những người chống nghịch này đã xem mình tốt lành hơn kẻ khác. “Ta thánh khiết hơn ngươi! ”
Đức Chúa Trời khi ấy giải thích rằng Ngài phải xét đoán dân tộc vì tọi lỗi họ (Es 6:8-16). Ngài gọi dân Ba-by-lôn làm công cụ trừng phạt của Ngài để dạy dân Ngài rằng họ không thể phạm tội và tránh được sự trừng phạt. Tuy nhiên, trong sự thương xót Ngài đã duy trì những người còn sót lại như một ít nho được cứu khỏi bàn ép rượu – và những người sót lại đó sẽ trở về xứ và phục hồi đất nước. Khi dân sự Ngài thành tâm tìm kiếm Ngài (c.10), thì Ngài sẽ chúc phước họ (IISu 7:14).
“Trũng A-cô” là nơi A-can đã bị ném đá đến chết vì đã bất tuân với Chúa (Gios 7:1-26). Khi Chúa phục hồi người vợ bị cách ly của Ngài, Y-sơ-ra-ên, Trũng A-cô sẽ trở nên “cửa hy vọng” đối với họ (Os 2:15).
Trong Es 65:11-16 Đức Chúa Trời nhìn thấy 2 loại người trong xứ: những người lìa bỏ Chúa, và những người hầu việc Chúa, (“Tôi Tớ Ta” giờ đây đã trở thành “các tôi tớ Ta”). Những ai lìa bỏ Chúa đều phớt lờ đền thờ Ngài và thờ lạy các thần giả dối, như thần Số và thần Mạng (trong c.11, “that troop” và “that number”). Những người Do-thái bât tuân này sẽ không sống nhưng bị huỷ diệt, và những ai sống sót sẽ không vui mừng điều đó. Thật ra, chính tên của họ sẽ bị sử dụng làm những sự rủa sả trong các năm hầu đến!
Đức Chúa Trời để dành điều tốt nhất cho sự cuối cùng; Sự mô tả của Ngài về “trời mới và đất mới” (Vương Quốc ngàn năm) trong Es 65:17-66:24).
Đây không giống với “trời mới và đất mới” của Giăng (Kh 21:1), vì những đặc điểm Ê-sai đưa ra không phù hợp với chính thể đời đời. Theo như chúng ta biết, trong chính thể đời đời, con người sẽ không già hoặc chết (Es 65:20), cũng sẽ không có hiểm hoạ nào về việc mất điều gì cho những kẻ xâm lược (c.21-23).
Giê-ru-sa-lem sẽ là một nguồn vui mừng, không chỉ đối với Chúa mà còn đối với cả đất. Đó sẽ là một thành của sựthánh khiết, hoà thuận và hạnh púc suốt thời kỳ vươngquốc ngàn năm dân sự sẽ làm việc, và Đức Chúa Trời sẽ chúc phước cho sự lao nhọc của họ. Dân sự sẽ cầu nguyện, và Đức Chúa Trời sẽ đáp lời (c.24). Thiên nhiên sẽ ở trong sự hoà bình (c.25)vì sự rủa sả sẽ được cất đi.
6. Sự ra đời của một dân tộc mới (Es 66:1-24)
Dĩ nhiên, điều đáng chú ý sẽ là “sự ra đời của một dân tộc” khi Y-sơ-ra-ên đi đến khán đài trung tâm trên hiện trường thế giới (c.7-9). Sự trở về xứ của dân Do-thái sẽ nhanh chóng như sự ra đời của một em bé. “Cơn đau đẻ”của Y-sơ-ra-ên sẽ là “Ngày của Chúa” hoặc “kỳ tai hại của Gia-cốp” (Gie 30:7), khi Đức Chúa Trời sẽ thanh tẩy dân Ngài và chuẩn bị cho họ về sự đến của Đấng Mê-si-a họ.
Y-sơ-ra-ên theo mặt chính trị ra đời vào ngày 14/5/1948, nhưng “Y-sơ-ra-ên mới” sẽ “được sinh ra trong một ngày” khi họ tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Giê-ru-sa-lem sẽ kinh nghiệm sự vui mừng, bình an và sự thoả lòng (Es 66:10-14). Giống như một đứa trẻ bú sữa, nó sẽ tìm thấy sự khoẻ mạnh và bình an trong cánh tay của Chúa. “Sự bình an như một con sông” nhắc chúng ta về những lời của Ê-sai nói với A-cha (Es 8:5-8) và những lời hứa của Đức Chúa Trời trong Es 41:18 và Es 48:18.
• Sẽ có một đền thờ mới (Es 66:1-6; Exe 40:1-48:35).
Nhưng những lễ thờ phượng không bao giờ có thể thay thế cho một tấm lòng khiêm nhường. Đức Chúa Trời không sống trong những toà nhà, Ngài ngự cùng những ai đầu phục Ngài.
Ê-tiên đã trích dẫn Es 66:1-2 để bênh vực mình trước dân Do-thái (Công 7:48-50), và Phao-lô đã đề cập những lời này trong cuộc nói chuyện của ông với các triết gia người A-thên (Công 17:24).
Trong thời của Ê-sai, dân sự Đức Chúa Trời có run rẩy trước Lời Ngài hay không? Họ không run rẩy. Trái lại, họ trải qua những hành động thờ phượng mà không có một tấm lòng cho Đức Chúa Trời. Dân sự không dâng tế lễ những thú vật; Họ sát hại chúng! Vì lòng họ đã xa cách Đức Chúa Trời (Es 29:13) những của lễ của họ như những đồ ô uế trước mặt Chúa. Chính tấm lòng của người thờ phượng quyết định giá trị của lễ.
Tay Đức Chúa Trời sẽ đem đến phước hạnh cho các tôi tớ Ngài nhưng đem đến “sự giận nghịch cùng kẻ cừu địch Ngài” (Es 66:14), và Ê-sai mô tả sự “giận nghịch” đó trong các câu 15-18. Ngày của Chúa sẽ là bão tố của sự xét đoán bằng lửa và gió lốc, và bằng gươm, của Đức Chúa Trời “những kẻ bị giết bởi Đức Giê-hô-va sẽ nhiều”.
Ai sẽ bị giết? Những ai đã bất tuân luật pháp của Đưc Chúa Trời trong việc ăn uống và thờ phượng của họ (c.17-18). Thay vì thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, họ đã quay sang cac thần tượng ngoại đạo và những tập tục ngoại đạo. “Ngoan đạo” thì chưa đủ, chúng ta phải hầu việc Ngài theo điều Ngài phán trong Lời Ngài (Es 8:20).
Sách kết thúc bằng một sự chú ý dường như tiêu cực mô tả những người thờ phượng nhìn vào những xác chết của kẻ chống nghịch bị báng bổ và bị hư nát (c.24). Trũng Hin-nôm (tiếng Hê-bơ-rơ, ge hinnom: Gehenna trong tiếng Hy-lạp) là một bức tranh về sự xét đoán (Es 30:33), Chúa Giê-xu đã sử dụng nó để mô tả địa ngục (Mac 9:43-48). Những người đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng cũng sẽ ra ngoài thành để đến “đống rác” này và được nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời là đám lửa hay thiêu đốt (Gie 7:32)
Suốt sách của ông, Ê-sai đã trình bày cho chúng ta với những sự lựa chọn 1 trong 2 khả năng: Tin cậy Chúa và sống, hoặc chống nghịch Chúa và chết.Ông đã giải thích ân điển cùng sự thương xót của Đức Chúa Trời và bày tỏ sự tha thứ của Ngài. Ông cũng giải thích sự thánh khiết với cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời và cảnh cáo về sự xét đoán của Ngài. Ông đã nói tiên tri sự vinh hiển cho những ai sẽ tin và sự xét đoán cho những ai chế nhạo. Ông giải thích sự dại dột của việc tin cậy khôn ngoan loài người và những tiềm năng của thế gian.
Tiên tri kêu gọi dân sự của Đức Chúa Trời trở lại với lẽ thật thuộc linh. Ông cảnh cáo nghịch với sự giả hình và sự thờ phượng trống rỗng. Ông cầu xin đức tin, sự vâng lời, một tấm lòng vui mừng trong Đức Chúa Trời, và một đời sống làm vinh hiển Đức Chúa Trời.
Chúa đã phán “không có sự bình an cho kẻ ác” (Es 48:22; Es 57:21). Để có sự bình an, bạn phải có sự công bình (Es 32:17). Cách duy nhất để có sự công bình là bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ (Ro 3:19-31).
Sứ điệp của Ê-sai là “Hãy được yên ủi bởi Chúa!”. (Es 12:1; Es 40:1-2; Es 49:13; Es 51:3,19; Es 52:9; Es 54:11; Es 57:18; Es 61:2; Es 66:13) Nhưng Đức Chúa Trời không thể yên ủi những kẻ chống nghịch! Nếu chúng ta đang phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời và dễ chịu về điều đó, có cái gì triệt để sai trái. Sự an ủi sai lầm đó sẽ dẫn đến sự tin quyết sai lầm, và điều đó sẽ dẫn đến bàn tay quở phạt của Đức Chúa Trời.
“Hãy tìm kiếm Chúa đang khi Ngài có thể tìm thấy được” (Es 55:6).
“Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết” (Es 1:18).
“Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi sẽ ngợi khen Chúa, Dầu Chúa giận dữ với tôi, sự giận dữ của Ngài đã lánh khỏi, và Chúa yên ủi tôi” (Es 12:1 NKJV).
HÃY YÊN LÒNG!
bottom of page