top of page
1. ĐỨC TIN CỦA CÁC CƠ-ĐỐC NHÂN ĐẦU TIÊN (Cong 1:1-26)
Một...
...nhà sản xuất nổi tiếng ở Hollywood có lần đã nói rằng: để một bộ phim được thành công, nó phải bắt đầu bằng một cơn chấn động và phát triển đến cao điểm. Lu-ca chắc chắn đã không theo công thức ấy khi ông viết sách Công-vụ. Ngoài sự thăng thiên của Chúa Giê-xu, các sự kiện chép trong Công-vụ 1:1-26 tuyệt nhiên không mang kịch tính. Xét cho cùng, điều gì gây lý thú quanh một buổi họp bàn công việc?
Vậy tại sao ghi lại những sự kiện này? Tại sao Lu-ca không bắt đầu ngay bằng câu chuyện lễ Ngũ Tuần? Vì nhiều lý do.
Trước hết, Lu-ca đang viết quyển hai của một công tác bắt đầu từ quyển chúng ta gọi là Phúc Âm Lu-ca (Lu 1:1-4) và ông đã mở đầu với lời chào và lời giới thiệu đặc biệt. Chúng ta không biết Thê-ô-phi-lơ là ai hoặc thậm chí ông có phải là một Cơ-đốc nhân hay không nhưng lời chào của Lu-ca cho thấy ông có thể là một quan chức La-mã quan trọng (Công 23:26 Cong 24:3 Cong 26:25).
Có thể Thê-ô-phi-lơ là một Cơ-đốc nhân hoặc ít ra cũng là một người tìm kiếm nghiên cứu cẩn thận niềm tin Cơ-đốc. Tên ông nghĩa là “bạn của Đức Chúa Trời” và chúng ta hy vọng ông sống đúng với tên của mình.
Nhưng quan trọng hơn, Lu-ca phải tạo một nhịp cầu giữa sách Phúc-Âm của ông và sách Công-vụ (Lu 24:50-43). Ở cuối sách phúc-âm của mình, ông đã để các Cơ-đốc nhân trong đền thờ, ngợi khen Đức Chúa Trời. Giờ đây ông tiếp tục câu chuyện và giải thích điều xảy ra tiếp đó. Hãy tưởng tượng bạn sẽ bối rối ra sao trong việc đọc Kinh Thánh Tân-ước nếu bạn lật trang cuối cùng của Phúc-âm Giăng và khám phá ra thơ Rô-ma! Bạn sẽ tự hỏi “Hội thánh đã đến Rô-ma ra sao?” Và câu trả lời được tìm thấy trong sách Công-vụ.
Sách Công-vụ cũng là sự tường thuật về công việc của Thánh Linh trong và qua Hội thánh. Phúc-Âm Lu-ca ghi lại những điều Chúa Giê-xu “khởi sự thực hiện và dạy dỗ” trong thân thể con người của Ngài, còn sách Công-vụ cho chúng ta biết những điều Chúa Giê-xu tiếp tục thực hiện và dạy dỗ qua thân thể thuộc linh của Ngài, là Hội thánh. Ngay cả ngày nay, các hội chúng có thể học nhiều về đời sống và chức vụ của Hội thánh từ sách này, và sách này còn bao gồm những buổi họp bàn công việc!
Trong chương này, chúng ta thấy các tín đồ đang giải quyết các ‘công việc dở dang” và sẵn sàng cho lễ Ngũ Tuần. Điều họ đã nói và làm bày tỏ cho chúng ta đức tin của Hội thánh. Họ thật sự tin nơi điều gì?
1. Họ tin nơi Đấng Christ sống lại (Công 1:1-11)
Sau khi phục sinh, Chúa Giê-xu vẫn ở trên đất 40 ngày và dạy dỗ các môn đệ Ngài.Ngài đã mở trí họ để hiểu sứ điệp Cựu Ước về chính Ngài (Lu 24:44-48), nhưng có những bài học khác họ cần phải học trước khi họ có thể dấn thân vào chức vụ mới của mình. Chúa Giê-xu đã xuất hiện và biến mất suốt 40 ngày đó, và các tín đồ không hề biết khi nào Ngài có thể hiện ra. Đây là sự chuẩn bị tốt nhất cho Hội thánh vì những ngày này sẽ đến khi Ngài không còn ở trên đất để chỉ dẫn họ cách riêng tư. Cơ-đốc nhân chúng ta hôm nay không bao giờ biết khi nào Chúa mình có thể tái lâm, vì vậy hoàn cảnh chúng ta phần nào cũng tương tự với hoàn cảnh của họ.
Chúa đã dạy họ nhiều bài học quan trọng suốt thời kỳ chức vụ đặc biệt đó.
• Tính xác thực về sự phục sinh của Ngài (Cong 1:3a).
Một số tín đồ có lẽ đã có những nghi ngờ 40 ngày trước đó (Mac 16:9-14), nhưng giờ đây không thể có vấn đề nào được đặt ra về việc Chúa thực sự đã sống lại từ cõi chết. Để củng cố đức tin họ, Ngài đã cho họ “nhiều chứng cớ không thể sai lầm được” mà Lu-ca đã không giải thích. Chúng ta biết rằng khi Chúa Giê-xu gặp các môn đệ, Ngài mời họ sờ thân thể Ngài, và Ngài còn ăn trước mặt họ (Lu 24:38-43). Bất kỳ chứng cớ nào Ngài đưa ra chúng đều có sức thuyết phục.
Niềm tin nơi sự phục sinh của Ngài quan trọng đối với Hội Thánh vì quyền năng thuộc linh của họ tuỳ thuộc vào niềm tin ấy. Cũng vậy, sứ điệp của Phúc-Âm có liên quan đến chân lý về sự phục sinh (ICo 15:1-8 Ro 10:9-10). Và nếu Chúa Giê-xu chết, Hội thánh sẽ nín lặng. Lập trường chính thức của dân Do-thái là các môn đệ đã đánh cắp xác Chúa Giê-xu khỏi phần mộ (Mat 28:11-15), và các môn đệ phải có thể bẻ bác lập trường này khi họ làm chứng cho dân tộc.
Các tín đồ này đã được chọn làm những nhân chứng đặc biệt về sự phục sinh của Đấng Christ, và đó là điểm nhấn mạnh trong chức vụ của họ (Cong 1:22 Công 2:32; Công 3:15; Công 5:30-32). Hầu hết người dân ở Giê-ru-sa-lem đều biết rằng Giê-xu ở Na-xa-rét đã bị đóng đinh, nhưng họ không biết rằng Ngài đã sống lại từ cõi chết. Bằng lời nói, cách ăn ở, và những công việc to lớn, các tín đồ đã cho thế giới biết rằng Chúa Giê-xu sống. Đây là “dấu hiệu của Giô-na” mà Chúa Giê-xu đã hứa cho dân tộc này (Mat 12:38-41). Sự chết, chôn và sự sống lại của Ngài.
• Sự đến của Nước Ngài (Công 1:3b)
Điều này chỉ về sự cai trị của Đức Chúa Trời trên những tấm lòng và đời sống của những người tin nhận Ngài (Mat 6:33; IGi 3:1-9; Rô 14:17). Khi bạn đọc 4 sách Phúc-Âm, bạn khám phá rằng các sứ đồ đã có một chính kiến mạnh mẽ về Nước này và đặc biệt quan tâm về địa vị cùng những đặc quyền của riêng mình. Là những người Do-thái trung thành, họ mong mỏi sự thất bại của kẻ thù và việc thành lập cuối cùng Nước vinh hiển dưới sự cai trị của Vua Mê-si-a. Họ không nhận biết rằng trước hết phải có một sự đổi thay về thuộc linh trong lòng dân chúng (Lu 1:67-79).
Chúa Giê-xu đã không quở trách họ khi họ “luôn hỏi” về vương quốc Do-thái trong tương lai (Lu 1:7). Xét cho cùng, Ngài đã mở trí họ để hiểu Lời Kinh Thánh (Lu 24:44), vì vậy họ biết điều họ đang hỏi. Nhưng Đức Chúa Trời đã không bày tỏ thời gian biểu của Ngài cho chúng ta và thật vô ích để chúng ta suy đoán. Điều quan trọng không phải là hiếu kỳ về tương lai, nhưng bận rộn trong hiện tại, chia xẻ sứ điệp về vương quốc thuộc linh của Đức Chúa Trời. Đây là sự nhấn mạnh khác trong sách Công vụ (Công 8:12; Công 14:22; Công 20:25; Công 28:23,31).
• Quyền năng của Thánh Linh (Công 1:4-8).
Giăng Báp-tít đã rao ra một phép báp-têm trong tương lai của Thánh Linh (Mat 3:11; Mac 1:8; Lu 3:16; Gi 1:33 Công 11:16), và giờ đây lời tiên tri ấy phải ứng nghiệm. Chúa Giê-xu đã hứa về sự đến của Thánh Linh (Gi 14:16-18,26; Gi 15:26-27; Gi 16:7-15). Đó là một sự mặc lấy quyền năng dành cho các môn đệ hầu cho họ có thể hầu việc Chúa và hoàn thành ý muốn Ngài (Lu 24:49). Giăng đã nói về “Thánh Linh và lửa”, nhưng Chúa Giê-xu đã không nói gì về lửa. Tại sao? “phép báp-têm bằng lửa” có liên quan đến sự đoán phạt trong tương lai, khi dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ trải qua hoạn nạn (Mat 3:11-12). Sự xuất hiện của “những lưỡi lửa” tại lễ Ngũ Tuần (Công 2:3) không thể được gọi là một “phép báp-tem”.
Công 1:8 là câu gốc. Trước hết, nó giải thích rằng quyền năng Hội thánh đến từ Đức Thánh Linh chớ không từ con người (Xa 4:6). Dân Đức Chúa Trời kinh nghiệm những sự đổ đầy của Thánh Linh được lặp đi lặp lại khi họ đối diện những cơ hội và những trở ngại mới (Cong 2:4 Cong 4:8,31 Cong 9:17 Cong 13:9). Những người bình thường đã có thể làm những việc khác thường vì Thánh Linh Đức Chúa Trời hành động trong đời sống họ. Chức vụ của Thánh Linh không phải là một sự xa xỉ đó là một sự cần thiết tuyệt đối.
“Làm chứng” là một từ chính trong sách Công vụ và được sử dụng 29 lần như một động từ hoặc một danh từ. Chứng nhân là người kể lại những điều mình đã thấy và nghe (Cong 4:19-20). Khi bạn ở vị trí nhân chứng trong toà án, quan toà không quan tâm đến những ý niệm hay ý kiến của bạn ông ta chỉ muốn nghe những gì bạn biết. Từ tiếng Anh “martyr” (người tử đạo) đến từ Hy Lạp được dịch là “chứng nhân” và nhiều người của Đức Chúa Trời đã chứng thực sự làm chứng của họ bằng cách hy sinh mạng sống mình.
Ngày nay chúng ta nghe nhiều về việc “chinh phục linh hồn” và sự nhấn mạnh này là một sự nhấn mạnh ích lợi. Tuy nhiên, trong khi một số người của Đức Chúa Trời có một sự kêu gọi về việc rao giảng Phúc Âm (Eph 4:11) tất cả con dân Đức Chúa Trời đều được mong đợi làm chứng nhân và cho những người hư mất biết về Đấng Christ. Không phải mọi Cơ Đốc nhân đều có thể đem một tội nhân đến với đức tin và sự quyết định (mặc dù hầu hết chúng ta có thể làm tốt hơn), nhưng mọi Cơ Đốc nhân có thể làm chứng trung tín cho Đấng Christ. “kẻ làm chứng chân thật giải cứu linh hồn người ta” (Ch 14:25).
Cong 1:8 cũng cho chúng ta một đại cương chung về sách Công vụ, vì nó mô tả việc truyền bá Phúc Âm về mặt địa lý: Từ Giê-ru-sa-lem (Cong 1:1-7:60) đến xứ Giu-đê và xứ Sa-ma-ri (Cong 8:1-9:43) và rồi từ dân ngoại cho đến cùng trái đất (Cong 10:1-28:31). Như Tiến sĩ Oswald J. Smith đã thường nói: “Ánh sáng chiếu xa nhất sẽ chiếu sáng nhất ở nhà”.
- Sự biết chắc về kỳ Chúa trở lại (Cong 1:9-11). Sự thăng thiên của Chúa chúng ta là một phần quan trọng của chức vụ Ngài, vì nếu Ngài không trở về với cha, Ngài không thể ban món quà về Đức Thánh Linh như đã hứa (Gi 16:5-15). Cũng vậy, trên thiên đàng hôm nay, Đấng Christ là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm cầu thay của chúng ta, ban cho chúng ta ân điển chúng ta cần cho đời sống và sự hầu việc (He 4:14-16). Ngài cũng là Đấng Cầu Thay của chúng ta trước mặt Đức Chúa Cha, tha thứ chúng ta khi chúng ta xưng nhận tội lỗi mình (IGi 1:9-2:2). Đấng làm đầu Hội Thánh đáng tôn và vinh hiển hiện đang đồng công với dân sự Ngài trên đất và giúp họ hoàn thành mục đích Ngài (Mac 16:19-20).
Khi các tín đồ nhìn xem Chúa Giê-xu được cất lên trong sự vinh hiển, hai thiên sứ xuất hiện và nhẹ nhàng quở trách họ. Các thiên sứ đóng vai trò quan trọng trong chức vụ được mô tả ở sách công vụ, cũng như họ đóng vai trò quan trọng hôm nay, dù chúng ta không thể thấy họ (Cong 5:19-20 Cong 8:26 Cong 10:3-7 Cong 12:7-10,23 Cong 27:23). Các thiên sứ là những tôi tớ của các thánh đồ (He 1:14).
Hai vị sứ giả đã đoan chắc với các tín đồ rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại, giống như Ngài đã được cất khỏi họ. Điều này dường như chỉ về việc Ngài “đến giữa những đám mây” cách công khai (Mat 24:30 Mat 26:64 Kh 1:7) hơn là chỉ về việc Ngài đến tiếp Hội Thánh Ngài “trong giây phút, trong nháy mắt” (ICo 15:51-52 ITe 4:13-18). Không kể những quan điểm mà những người khác nhau có thể có về chương trình tiên tri của Đức Chúa Trời, các Cơ Đốc nhân đồng ý rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại và Ngài có thể đến bất cứ lúc nào. Chính điều này là một động cơ lớn cho sự hầu việc Cơ Đốc trung tín (Lu 12:34-48).
2. Họ tin nhau (Cong 1:12-14)
Họ vâng theo mệnh lệnh Chúa và trở lại thành Giê-ru-sa-lem “với sự vui mừng lớn” (Lu 24:52). Có thể nhóm người này đã nhóm trong Phòng Cao nơi lễ Vượt Qua cuối cùng được tổ chức, nhưng họ cũng được người ta tìm thấy đang thờ phượng trong đền thờ (Lu 24:53).
Nhóm tín hữu tạo nên hội chúng đầu tiên thật đa dạng! Có nam giới và phụ nữ, các sứ đồ và người “bình thường”, và cả những thành viên thuộc gia đình trên đất của Chúa (Mat 13:55 Mac 6:3). “Anh em” Ngài đã không tin Ngài suốt chức vụ của Ngài (Gi 7:5) nhưng họ thật đã tin Ngài sau sự phục sinh của Ngài (Cong 1:14). Ma-ri có mặt ở đó như một thành viên của hội chúng, tham dự sự thờ phượng và cầu nguyện cùng với những người khác. Trung tâm của sự thờ phượng này là Đấng Christ đã sống lại, và tất cả họ đều tôn kính và ngợi khen Ngài.
Thật dễ dàng biết bao để ai đó đem sự chia rẽ vào hội những người khiêm nhường tốt đẹp này! Các thành viên thuộc gia đình của Chúa lẽ ra đã có thể đòi sự công nhận đặc biệt, hoặc Phi-e-rơ có thể đã bị chỉ trích về sự chối bỏ Đấng Christ cách hèn nhát của ông. Hay có lẽ Phi-e-rơ đã có thể trách cứ Giăng, vì chính Giăng đã đưa ông vào nhà của thầy tế lễ cả (Gi 18:15-16). Giăng đã có thể nhắc nhở những người khác rằng ông đã trung tín đứng tại thập tự giá, và thậm chí được Đấng Christ chọn để chăm sóc mẹ Ngài. Nhưng không có điều nào như vậy xảy ra. Thực ra, không ai tranh cãi về việc người nào giữa vòng họ cao trọng nhất!
Nhóm từ chính là “đồng một ý”, một nhóm từ được tìm thấy 6 lần trong Công vụ (Cong 1:14 Cong 2:1,46 Cong 4:24 Cong 5:12 Cong 15:25 và cũng hãy chú ý Cong 2:44). Giữa vòng những tín hữu này có một sự hiệp nhất kỳ diệu đã kết họ lại trong Đấng Christ (Ga 3:28 Thi 133:1-3), loại hiệp nhất mà các Cơ Đốc nhân cần có hôm nay. Rowland Hill mục sư tin kính người Anh đã nói “Tôi không muốn những bức tường phân cách giữa những thứ bậc Cơ Đốc nhân khác nhau bị phá huỷ, nhưng chỉ được hạ thấp hơn, để qua chúng ta có thể bắt tay nhau dễ hơn một chút”.
Cơ Đốc nhân có đức tin nơi Chúa thì chưa đủ họ còn phải có niềm tin lẫn nhau. Chúa đã giao cho 120 người (Cong 1:15) trách nhiệm quan trọng làm chứng cho một thế giới hư mất, và không ai trong số họ có thể làm công việc này một mình. Họ sẽ trải qua sự bắt bớ gay gắt trong những ngày sắp đến, và một người trong số họ, Gia-cơ, sẽ từ bỏ mạng sống mình vì Đấng Christ. Đó không phải là lúc để hỏi:“Ai cao trọng nhất?” hoặc “Ai phạm tội trọng nhất?”. Đó là lúc để cùng nhau cầu nguyện và đứng chung nhau trong Chúa. Khi họ chờ đợi và thờ phượng với nhau, họ sẽ được chuẩn bị tốt hơn cho công tác đặt để trước mặt họ.
3. Họ tin nơi sự cầu nguyện (Cong 1:15,24-25)
Sự cầu nguyện đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện về Hội Thánh như được chép trong sách Công vụ. Các tín hữu cầu nguyện để được sự hướng dẫn trong việc thực hiện những quyết định (Cong 1:15-26) và được sự can đảm để làm chứng cho Đấng Christ (Cong 4:23-31). Thực ra, sự cầu nguyện là một phần bình thường thuộc chức vụ thường nhật của họ (Cong 2:42-47 Cong 3:1 Cong 6:4). Ê-tiên cầu nguyện khi ông bị ném đá (Cong 7:55-60). Phi-e-rơ và Giăng cầu nguyện cho những người Sa-ma-ri (Cong 8:14-17)và Sau-lơ là người Tạt-sơ cầu nguyện sau khi trở lại đạo (Cong 9:11). Phi-e-rơ cầu nguyện trước khi ông khiến Đô-ca sống lại từ cõi chết (Cong 9:36-43). Cọt-nây cầu nguyện để Đức Chúa Trời bày tỏ cho ông cách được cứu (Cong 10:1-4) và Phi-e-rơ ở trên mái nhà đang cầu nguyện khi Đức Chúa Trời bảo ông cách trở nên sự trả lời cho những lời cầu nguyện của Cọt-nây (Cong 10:9).
Các tín hữu trong nhà của Giăng Mác cầu nguyện cho Phi-e-rơ khi ông ở trong tù, và Chúa đã giải thoát cho ông khỏi ngục tù và sự chết (Cong 12:1-11). Hội Thánh tại An-ti-ốt kiêng ăn và cầu nguyện trước khi cử Ba-na-ba và Phao-lô ra đi (Cong 13:1-3 và chú ý Cong 14:23). Chính tại một buổi nhóm cầu nguyện trong thành Phi-líp mà Đức Chúa Trời mở lòng của Ly-đi (Cong 16:13), và buổi nhóm cầu nguyện khác trong thành Phi-líp đã mở các cửa ngục (Cong 16:25). Phao-lô đã cầu nguyện cho các bạn ông trước khi lìa khỏi họ (Cong 20:36 Cong 21:5). Giữa một cơn bão tố, ông cầu nguyện để Đức Chúa Trời ban phước (Cong 27:35), và sau cơn bão tố, ông cầu xin Đức Chúa Trời chữa lành một người bệnh (Cong 28:8). Ở mọi chương trong sách Công vụ bạn đều tìm thấy một chi tiết đề cập đến sự cầu nguyện, và sách này cho biết rõ rằng điều gì đó xảy ra khi dân sự Đức Chúa Trời cầu nguyện.
Đây chắc chắn là một bài học bổ ích cho Hội Thánh hôm nay. Sự cầu nguyện vừa là nhiệt kế vừa là máy điều nhiệt của Hội Thánh địa phương. Vì “nhiệt độ thuộc linh” lên hoặc xuống tuỳ thuộc vào cách dân sự Đức Chúa Trời cầu nguyện. John Bunyan tác giả cuốn sách “Pilgrim’s Progress” (Thiên lộ lịch trình) đã nói: “Sự cầu nguyện là một cái thuẫn cho linh hồn, một của lễ cho Đức Chúa Trời và là một tai hoạ cho Sa-tan”. Trong sách Công vụ, bạn thấy sự cầu nguyện hoàn thành mọi điều này.
4. Họ tin nơi sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời (Cong 1:16-23)
Chúa Giê-xu đã không còn ở với họ để ban cho họ những hướng dẫn cá nhân, nhưng họ không thiếu sự dẫn dắt của Chúa, vì họ đã có Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện. Thực ra, Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện đã tạo nên nền móng cho chức vụ của Hội Thánh như được chép trong sách Công vụ (Cong 6:4).
Phi-e-rơ đã bị chỉ trích vì đứng ra điều hành, nhưng tôi tin ông đang làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu đã cho biết rõ rằng Phi-e-rơ phải làm lãnh đạo của họ (Mat 16:19 Lu 22:31-32 Gi 21:15-17). Phi-e-rơ “đứng đầu giữa những người ngang hàng”, nhưng ông là lãnh đạo được thừa nhận của họ. Tên ông được kể đầu tiên trong mọi sanh sách sứ đồ, kể cả Cong 1:13.
Nhưng Phi-e-rơ và những người khác phải chờ đợi đến khi Thánh Linh được ban xuống chăng?Chúng ta đừng quên rằng Chúa đã “hà hơi” trên họ trước đây và ban Thánh Linh cho họ (Gi 20:22). Khi Thánh Linh giáng lâm vào lễ Ngũ Tuần, đó chính vì mục đích đổ đầy trên họ quyền năng và làm báp-tem cho họ trở nên một thân trong Đấng Christ.
Chúng ta cũng phải nhớ rằng Chúa đã mở tâm trí họ để hiểu Lời Kinh Thánh (Lu 24:45). Khi Phi-e-rơ đề cập đến Thi 69:25 Thi 109:8, ông không làm điều này bằng chính sức mình, nhưng được dẫn dắt bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời. Những người này hoàn toàn tin nơi sự hà hơi thiêng liêng của Lời Kinh Thánh cựu ước (Cong 1:16 Cong 3:18 Cong 4:25), và họ cũng tin rằng những Lời Kinh Thánh này có một ứng dụng thực tiễn cho hoàn cảnh của họ.
Một thính giả radio có lần đã viết cho tôi, “Tại sao ông dạy từ Cựu Ước? Xét cho cùng, nó là lịch sử xa xưa và nó đã được làm trọn bởi Chúa Giê-xu! ” Tôi đã giải thích rằng “Kinh Thánh” duy nhất mà Hội Thánh đầu tiên có là Cựu Ước, nhưng họ đã có thể sử dụng nó để khám phá ý muốn Đức Chúa Trời. Chúng ta cần cả Cựu và Tân Ước Thật ra, các tác giả Tân Ước thường trích dẫn từ Cựu Ước để chứng minh quan điểm của họ. Thánh Augustine đã nói: “Tân Ước được che đậy trong Cựu Ước Cựu Ước được bày tỏ bởi Tân Ước”.
Chắc chắn chúng ta phải giải nghĩa Cựu Ước bằng Tân Ước, nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng Đức Chúa Trời không còn phán với dân sự Ngài qua Lời Kinh Thánh Cựu Ước. “Cả Kinh Thánh đều được ban bởi sự hà hơi của Đức Chúa Trời, và có ích lợi” (IITi 3:16). “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Mat 4:4) Chúng ta phải sử dụng toàn bộ Kinh Thánh và quân bình Lời Kinh Thánh này với Lời Kinh Thánh khác khi chúng ta tìm cách khám phá tư tưởng Đức Chúa Trời.
Một số người tuyên bố “Nhưng, thật sai lầm để họ chọn một sứ đồ mới, vì Phao-lô là người đã được Đức Chúa Trời chọn để bổ khuyết hàng ngũ. Họ chọn Ma-thia và ông ta không bao giờ được nghe đến lần nữa! ”
Ngoài Phi-e-rơ và Giăng, không ai trong số 12 sứ đồ đầu tiên được đề cập bằng tên trong sách Cong 2:13. Phao-lô có lẻ đã không thể “bổ khuyết hàng ngũ” vì ông chưa bao giờ có thể đáp ứng những phẩm chất thiêng liêng được đặt ra trong c.21-22. Phao-lô đã không được Giăng Báp-tít làm báp-tem ông đã không ra đi với các sứ đồ khi Chúa Giê-xu ở với họ trên đất và mặc dù ông nhìn thấy Đấng Christ vinh hiển, Phao-lô không phải là một nhân chứng về sự phục sinh như các sứ đồ đầu tiên.
Phao-lô cho biết rõ rằng ông không được xếp loại cùng với 12 sứ đồ (Ga 1:15-24 ICo 15:8), và 12 sứ đồ đã biết điều đó. Nếu 12 sứ đồ nghĩ rằng Phao-lô được xem là một trong số họ, chắc chắn họ đã không bày tỏ điều đó! Thực ra, họ đã từ chối thừa nhận Phao-lô trong sự thông công ở Giê-ru-sa-lem cho đến khi Ba-na-ba đến giải cứu ông! (Cong 9:26-27). 12 sứ đồ thi hành chức vụ chủ yếu cho 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên, trong khi Phao-lô được cử đến với dân ngoại (Ga 2:1-10).
Không, Phao-lô không được xem là sứ đồ thứ 12. Phi-e-rơ và các tín hữu khác theo ý muốn Đức Chúa Trời khi họ chọn Ma-thia và Đức Chúa Trời đã bày tỏ sự chấp thuận Ma-thia bằng cách ban quyền năng cho ông với cùng một Thánh Linh đã được ban cho những người khác là những người Chúa Giê-xu đã đích thân chọn lựa (Cong 2:1-4,14).
Thật cần thiết để 12 người làm chứng tại lễ Ngũ Tuần cho 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên, và cũng để 12 người được chuẩn bị để ngồi trên 12 ngai xét đoán 12 chi phái (Lu 22:28-30). Từ Cong 2:1-7:60 sự làm chứng chủ yếu dành cho Y-sơ-ra-ên, “cho người Do Thái trước” (Ro 1:16 Cong 3:26 Cong 13:46). Một khi sứ điệp đã đến dân ngoại (Cong 10:1-11:30). Sự nhấn mạnh về người Do Thái này bắt đầu mờ dần. Khi sứ đồ Gia-cơ bị tử đạo, ông đã không được thay thế (Cong 12:1-25). Tại sao? Vì sự làm chứng chính thức cho Y-sơ-ra-ên giờ đây đã được làm trọn và sứ điệp đã đến với dân Do Thái và dân ngoại như vậy. Không còn cần thiết để 12 sứ đồ làm chứng cho 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên.
Câu chuyện của Phi-e-rơ về việc mua đất và cái chết của Giu-đa có vẽ mâu thuẫn với sự ghi chép trong Mat 27:3-10, nhưng thật ra câu chuyện này bổ sung cho sự ghi chép ấy. Giu-đa đã không mua đám ruộng này cách cá nhân, nhưng chính tiền của ông ta đã được dùng để trả cho đám ruộng nên theo ý nghĩa đó, ông là người mua.Và vì 30 miếng bạc được xem là “tiền máu”, đám ruộng được gọi là “ruộng huyết” (Mat 27:8). Không phải huyết của Giu-đa đã cho đám ruộng có tên của nó, vì dân Do Thái sẽ không sử dụng một nơi nào đó như một nghĩa địa thiêng liêng nơi đã bị ô uế bởi một vụ tự sát. Giu-đa đã treo chính mình, và rõ ràng dây thừng bị đứt và thân thể ông (có lẽ đã căng phồng) bị vỡ khi chạm mặt đất.
Các tín hữu đã cầu nguyện để được sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời trước khi họ “bỏ phiếu” vì họ muốn chọn lựa người mà Đức Chúa Trời đã chọn (Ch 16:33). Từ trời, Chúa cao quý của họ đang hành động trong họ và qua họ. Đây là trường hợp cuối cùng trong Kinh Thánh về việc rút thăm, và không có lý do vì sao các tín đồ hôm nay phải sử dụng phương cách này trong việc xác định ý muốn Đức Chúa Trời. Mặc dù không phải lúc nào cũng dễ khám phá điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm, nhưng nếu chúng ta sẵn sàng vâng lời Ngài, Ngài sẽ bày tỏ ý muốn Ngài cho chúng ta (Gi 7:17). Điều quan trọng là chúng ta noi gương Hội Thánh đầu tiên bằng cách nhấn mạnh Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện.
Không phải mọi môn đệ của Chúa chúng ta đều đã ở trong Phòng Cao vì chỉ có 120 người hiện diện và ICo 15:6 cho biết rằng ít nhất 500 người đã cùng một lúc thấy Đấng Christ sống lại. Các học giả Kinh Thánh không đồng ý về dân số Palestine thời bấy giờ, và theo ước tính của họ con số có thể từ 600.000 đến 4 triệu. Nhưng bất kể con số nào bạn chọn, 120 tín đồ vẫn là một thiểu số thế nhưng họ đã đảo ngược thế giới cho Đấng Christ!
Bí quyết của họ là gì? Quyền năng của Đức Thánh Linh!
Bác sĩ Lu-ca giải thích điều này trong chương Cong 2:1-47.
2. QUYỀN NĂNG TỪ TRỜI (Cong 2:1-47)
“Chúng ta sẽ không lay chuyển được thế giới này bằng sự chỉ trích nó hay sự tuân thủ theo nó, nhưng bằng sự nóng cháy bên trong nó về những đời sống được đốt cháy bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời”.
Vance Havner đã thực hiện lời tuyên bố đó và ông đã đúng. Hội Thánh đầu tiên đã không có những điều mà chúng ta nghĩ rất cần thiết cho sự thành công hôm nay – nhà cửa, tiền bạc, ảnh hưởng chính trị, địa vị xã hội – và tuy vậy Hội Thánh đã thu phục rất nhiều người cho Đấng Christ và chứng kiến nhiều Hội Thánh được thành lập khắp thế giới La Mã. Tại sao? Vì Hội Thánh đã có quyền năng của Thánh Linh ban năng lực cho chức vụ của họ. Họ là một dân “được Thánh Linh Đức Chúa Trời đốt cháy”.
Hôm nay, cùng một quyền năng Thánh Linh đó sẵn có cho chúng ta để khiến chúng ta trở nên những chứng nhân hiệu quả hơn cho Đấng Christ. Càng hiểu rõ hơn hành động của Ngài tại lễ Ngũ Tuần, chúng ta sẽ có thể liên hệ với Ngài và kinh nghiệm quyền năng Ngài cách tốt hơn. Chức vụ của Thánh Linh là để làm vinh hiển Đấng Christ trong đời sống và sự làm chứng của Cơ Đốc nhân (Gi 13:14) và đó là điều quan trọng. Cong 2:1-47 giúp chúng ta hiểu Đức Thánh Linh bằng cách ghi lại 4 kinh nghiệm trong đời sống của Hội Thánh.
1. Hội Thánh chờ đợi Đức Thánh Linh (Cong 2:1)
Ngũ Tuần nghĩa là “thứ 50” vì lễ này được tổ chức 50 ngày sau lễ hoa quả đầu mùa (Le 23:15-22). Lịch về những kỳ lễ của Do Thái trong Le 23:1-44 là nét phác thảo về công việc của Chúa Giê-xu. Lễ Vượt Qua phác hoạ sự chết của Ngài như Chiên Con của Đức Chúa Trời (ICo 5:7 Gi 1:29). Và lễ hoa quả đầu mùa phác hoạ sự sống lại của Ngài từ cõi chết (ICo 15:20-23). 50 ngày sau lễ trái đầu mùa là lễ Ngũ Tuần, phác hoạ sự thành lập Hội Thánh. Vào lễ Ngũ Tuần, dân Do Thái kỷ niệm sự ban luật pháp, nhưng Cơ Đốc nhân kỷ niệm lễ ấy vì sự ban Thánh Linh cho Hội Thánh.
Lễ hoa quả đầu mùa xảy ra vào ngày sau lễ Sa-bát tiếp theo lễ Vượt Qua, nghĩa là lễ luôn vào ngày đầu tuần. (Ngày Sa-bát là ngày thứ bảy). Chúa Giê-xu đã sống lại từ cõi chết vào ngày đầu tuần và “trở thành trái đầu mùa của những kẻ ngủ” (ICo 15:20). Giờ đây, nếu lễ Ngũ Tuần cũng xảy ra vào ngày đầu tuần, vì vào ngày ấy Chúa chúng ta đã sống lại từ cõi chết, nhưng đó cũng là ngày Thánh Linh được ban cho Hội Thánh.
Vào lễ hoa quả đầu mùa, thầy tế lễ đưa một bó lúa qua lại trước mặt Chúa nhưng vào lễ Ngũ Tuần, thầy tế lễ dâng 2 ổ bánh. Vì sao? Vì vào lễ Ngũ Tuần, Đức Thánh Linh làm báp-tem cho các tín đồ và hiệp họ thành một thân. Các tín đồ Do Thái đã nhận phép báp-tem này vào lễ Ngũ Tuần, và các tín đồ người ngoại nhận báp-tem trong nhà Cọt-nây (Cong 10:1-48. Điều này giải thích sự hiện diện của 2 ổ bánh (ICo 10:17). Sự kiện có men trong lúc ổ bánh chỉ về sự hiện diện của tội lỗi trong Hội Thánh trên đất. Hội Thánh sẽ không hoàn hảo cho đến khi họ đến thiên đàng.
Chúng ta đừng kết luận rằng buổi nhóm cầu nguyện 10 ngày này đã mang lại những phép lạ của lễ Ngũ Tuần, hay chúng ta hôm nay có thể cầu nguyện như họ đã cầu nguyện và kinh nghiệm “lễ Ngũ Tuần khác”. Giống như sự chết của Chúa chúng ta tại đồi Gô-gô-tha, lễ Ngũ Tuần đã là một sự kiện một lần đủ cả mà sẽ không được lập lại.Hội Thánh có thể kinh nghiệm những sự đổ đầy mới mẻ của Thánh Linh, và chắc chắn sự cầu nguyện kiên nhẫn là một yếu tố cần thiết cho sức mạnh thuộc linh, nhưng chúng ta sẽ không cầu xin lễ Ngũ Tuần nào khác giống như chúng ta sẽ không cầu xin đồi Gô-gô-tha khác.
2. Hội Thánh thờ phượng Chúa (Cong 2:2-13)
Khi chúng ta nghiên cứu những sự kiện của lễ Ngũ Tuần, thật quan trọng để chúng ta tách những sự việc xảy ra khỏi những yếu tố cần thiết. Thánh Linh đến và những người này nghe tiếng gió thổi ào ào và thấy những lưỡi lửa. Đức Thánh Linh đã làm báp-tem và đổ đầy các tín hữu, rồi nói khi họ ngợi khen Đức Chúa Trời bằng những ngôn ngữ khác nhau. Thánh Linh đã ban quyền năng cho Phi-e-rơ để giảng đạo, và rồi Ngài kết án những người nghe đến nỗi 3.000 người trong số họ đã tin Đấng Christ và được cứu. Chúng ta hãy xem xét những chức vụ này từng việc một.
* Thánh Linh đến:Trước lễ Ngũ Tuần Thánh Linh đã hành động và làm việc trong sự sáng tạo (Sa 1:1-2), trong lịch sử Cựu Ước (Cac 6:34 ISa 16:13), và trong đời sống cùng chức vụ của Chúa Giê-xu (Lu 1:30-37 Lu 4:1,14 Cong 10:36). Tuy nhiên, giờ đây có hai sự thay đổi: Thánh Linh sẽ ngự trong con người chớ không chỉ đến trên họ, và sự hiện diện của Ngài sẽ thường trực, không phải tạm thời (Gi 14:16-17). Thánh Linh có lẽ đã không thể đến sớm hơn, vì thật cần thiết để Chúa Giê-xu chịu chết, được khiến sống lại từ cõi chết, và trở về trời trước khi Thánh Linh có thể được ban cho (Gi 7:37-39 Gi 16:7). Hãy nhớ lịch Do Thái trong (Le 23:1-44)lễ Vượt Qua, lễ hoa quả đầu mùa và sau đó lễ Ngũ Tuần.
Có những dấu hiệu gây sửng sốt kèm theo sự đến của Đức Thánh Linh: tiếng của một cơn gió thổi ào ào, những lưỡi lửa, và các tín đồ ngợi khen Đức Chúa Trời bằng những ngôn ngữ khác nhau. Từ “Thánh Linh” giống như từ “gió” trong tiếng Hê-bơ-rơ và cả tiếng Hy Lạp (Gi 3:8). Những người này không rờ đụng được gió, họ nghe tiếng một cơn gió mạnh. Có lẽ các tín đồ đã ở trong đền thờ khi điều này xảy ra (Lu 24:53). Từ “nhà” trong Cong 2:2 có thể chỉ về đền thờ (Lu 7:47). Những lưỡi lửa tượng trưng cho sự làm chứng đầy quyền năng của Hội Thánh cho dân chúng. Campbell Morgan nhắc chúng ta rằng lưỡi của chúng ta có thể được đốt bởi lửa hoặc thiên đàng hoặc địa ngục! (Gia 3:5-6). Hãy kết hợp gió với lửa và bạn có một ngọn lửa!
* Thánh Linh làm báp-tem (Cong 1:5). Từ Hy Lạp “baptizo” có 2 nghĩa, một nghĩa đen và một nghĩa bóng. Từ này theo nghĩa đen là “dìm xuống nước”, nhưng nghĩa bóng là”được đồng nhất hoá (với)”. Phép báp-tem của Thánh Linh là hành động của Đức Chúa Trời bởi đó Ngài đồng nhất hoá các tín đồ với Đấng làm đầu tôn quí của Hội Thánh là Chúa Giê-xu Christ và tạo nên thân thể thuộc linh của Đấng Christ trên đất (ICo 12:12-14). Về mặt lịch sử, phép báp-tem này xảy ra vào lễ Ngũ Tuần. Hôm nay, phép báp-tem ấy xảy ra bất cứ khi nào một tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu và được tái sinh.
Khi bạn đọc về “phép báp-tem” trong Kinh Thánh Tân Ước, bạn phải thực hành sự phân biệt để xác định từ này phải được giải thích theo nghĩa đen hay theo nghĩa tượng trưng. Chẳng hạn, trong Ro 6:3-4 Ga 3:27-28, sự ám chỉ mang tính tượng trưng vì phép báp-tem bằng nước không thể đặt một tội nhân trong Chúa Giê-xu Christ. Chỉ có Thánh Linh mới có thể làm được điều đó (Ro 8:9 ICo 12:13 Cong 10:44-48). Phép báp-tem bằng nước là một bằng cớ công khai về sự đồng nhất hoá với Chúa Giê-xu Christ của con người trong khi phép báp-tem bằng Thánh Linh là kinh nghiệm cá nhân và riêng tư mà nó đồng nhất hoá con người với Đấng Christ.
Điều quan trọng cần chú ý là về mặt lịch sử, phép báp-tem của Thánh Linh đã xảy ra ở 2 giai đoạn các tín đồ Do Thái đã được báp-tem vào lễ Ngũ Tuần, và những người ngoại được báp-tem và bổ sung cho thân thể này tại nhà của Cọt-nây (Cong 10:44-48 Cong 11:15-17 Eph 2:11-22).
* Thánh Linh đổ đầy (Cong 2:4). Sự đầy dẫy Thánh Linh có liên quan với quyền năng để làm chứng và hầu việc (Cong 1:8). Chúng ta không được khuyến khích để chịu phép báp-tem bằng Thánh Linh, vì đây là điều Đức Chúa Trời thực hiện một lần đủ cả khi chúng ta tin nhận Con Ngài. Chúng ta được bảo phải đầy dẫy Thánh Linh (Eph 5:18), vì chúng ta cần quyền năng Ngài luôn luôn nếu chúng ta muốn hầu việc Đức Chúa Trời cách hữu hiệu. Vào lễ Ngũ Tuần, các Cơ Đốc nhân đã được đầy dẫy Thánh Linh và kinh nghiệm phép báp-tem của Thánh Linh.Nhưng sau đó, họ đã kinh nghiệm nhiều sự đổ đầy (Cong 4:8,31 Cong 9:17 Cong 13:9) nhưng không phải là những phép báp-tem nữa.
Đôi khi ai đó nói rằng “Chúng ta có dùng từ nào đi nữa thì cũng chẳng tạo khác biệt gì. Điều quan trọng là chúng ta có kinh nghiệm! ” Tôi nghi ngờ rằng họ sẽ áp dụng cùng một phương cách đó vào mọi lãnh vực khác của đời sống chẳng hạn như y học, sự nấu ăn, hoặc cơ học. Có gì khác biệt nếu dược sĩ sử dụng chất Asenic hoặc thuốc aspirin trong đơn thuốc, miễn là chúng ta khoẻ mạnh? Hoặc nếu người thợ máy lắp đặt một máy phát điện hay một bộ chế hoà khí, miễn là chiếc xe hơi hoạt động?
Thánh Linh đã bày tỏ chân lý của Đức Chúa Trời cho chúng ta bằng những từ ngữ (ICo 2:12-13) và những từ ngữ này có những ý nghĩa rõ ràng không nên bị nhầm lẫn. Sự tái sinh không nên bị nhầm lẫn với sự xưng công bình, sự chuộc tội cũng không nên bị nhầm lẫn với sự làm con nuôi. Mỗi từ trong số này quan trọng trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời và phải được định nghĩa chính xác và được sử dụng cẩn thận.
Phép báp-tem của Thánh Linh nghĩa là tôi thuộc về thân Ngài sự đầy dẫy Thánh Linh nghĩa là thân thể tôi thuộc về Ngài. Phép báp-tem là một lần đủ cả sự đầy dẫy được lặp lại khi chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời để được quyền năng mới cho sự làm chứng. Phép báp-tem có liên quan đến mọi tín đồ khác, vì nó khiến chúng ta thành một trong thân Đấng Christ (Eph 4:1-6). Trong khi sự đầy dẫy mang tính chất riêng tư và cá nhân. Đây là 2 kinh nghiệm khác biệt và chúng không nên bị nhầm lẫn.
* Thánh Linh nói (Cong 2:4,11). Hãy để ý rằng các tín đồ đang ngợi khen Đức Chúa Trời, không phải rao giảng Phúc Âm, và họ đã sử dụng những ngôn ngữ được người ta biết, không phải một “tiếng lạ” (Cong 2:6,8). Lu-ca đã kể tên 15 vị trí địa lý khác nhau và tuyên bố rõ ràng rằng những công dân của các nơi đó đã nghe Phi-e-rơ cùng những người khác rao ra các công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời bằng những ngôn ngữ họ có thể hiểu được. Từ Hy Lạp được dịch là “ngôn ngữ” trong Cong 2:6 và “tiếng” ở Cong 2:8 là “dialektos” và chỉ về một ngôn ngữ hoặc tiếng địa phương của quốc gia hay khu vực nào đó (Cong 21:40 Cong 22:2 Cong 26:14). Nếu chúng ta không được chỉ dẫn trong Kinh Thánh theo một cách khác, chúng ta phải thừa nhận rằng khi “việc nói bằng những tiếng riêng” được đề cập đâu đó trong công vụ hay trong ICô-rinh-tô, nó chỉ về một kinh nghiệm giống nhau: các tín đồ ngợi khen Đức Chúa Trời trong Thánh Linh bằng những ngôn ngữ được người ta biết.
Tại sao Đức Chúa Trời đã làm điều này? Trước hết, lễ Ngũ Tuần là một sự đảo ngược về sự đoán phạt tại tháp Ba-bên khi Đức Chúa Trời làm lộn xộn tiếng nói của loài người (Sa 11:1-9). Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời tại tháp Ba-bên đã làm tản lạc dân chúng nhưng sự chúc phước của Đức Chúa Trời tại lễ Ngũ Tuần đã hiệp các tín đồ trong Thánh Linh. Tại tháp Ba-bên, dân chúng đã không thể hiểu nhau nhưng tại lễ Ngũ Tuần, người ta đã nghe những lời ngợi khen Đức Chúa Trời và hiểu điều được nói ra. Tháp Ba-bên là một kế hoạch được lập ra để ngợi khen loài người và tạo một danh tiếng cho loài người, nhưng lễ Ngũ Tuần đã đem đến sự ngợi khen cho Đức Chúa Trời. Công trình tháp Ba-bên là một hành động của sự chống nghịch, nhưng lễ Ngũ Tuần là một chức vụ về sự đầu phục khiêm nhường trước Đức Chúa Trời. Quả là một sự tương phản!
Lý do khác về sự ban cho nói các thứ tiếng là để dân chúng biết rằng Phúc Âm dành cho cả thế giới. Đức Chúa Trời muốn nói với mỗi người bằng chính ngôn ngữ của họ và ban sứ điệp cứu rỗi trong Chúa Giê-xu. Sự nhấn mạnh trong sách Công vụ là về sự rao giảng Phúc Âm khắp thế giới “cho đến cùng trái đất” (Cong 1:8). Henry Martyn đã nói: “Thánh Linh của Đấng Christ là tinh thần của việc truyền giáo, và chúng ta càng gần Ngài, chúng ta phải trở nên những nhà truyền giáo nhiệt tâm hơn”.
Rõ ràng tiếng gió thổi đã thu hút dân chúng đến đền thờ nơi các tín đồ nhóm lại, nhưng chính sự ngợi khen của các tín đồ đã thật sự thu hút sự chú ý của họ.Những người lắng nghe bất cẩn đã chế nhạo và tố cáo các tín đồ về tội say sưa, nhưng những người khác thật lòng quan tâm tìm biết điều gì đang xảy ra. Dân chúng bối rối (Cong 2:6), kinh ngạc (Cong 2:7,12) và lấy làm lạ (c.7).
Thú vị là những kẻ chế nhạo đã phải cáo các tín đồ tội say rượu, vì rượu được liên hệ với Thánh Linh (Eph 5:18). Phao-lô liên hệ hai điều này trong sự tương phản, vì khi một người đầy dẫy rượu mạnh người ấy mất tự chủ và cuối cùng bị xấu hổ nhưng khi một người được đầy dẫy Thánh Linh, người ấy có sự tự chủ và làm sáng danh Đức Chúa Trời. Rượu mạnh có thể đem lại một sự hồ hởi tạm thời, nhưng Thánh Linh ban cho một sự thoả lòng sâu xa và một niềm vui bất tận.
3. Hội Thánh làm chứng cho những người hư mất (Cong 2:14-41)
Phi-e-rơ đã không rao giảng bằng những tiếng lạ, ông nói với thính giả của mình bằng ngôn ngữ A-ram thường nhật họ đã hiểu. Sứ điệp được rao ra bởi một người Do Thái, cho dân Do Thái (Cong 2:14,22,29,36), vào một thánh nhật của dân Do Thái, nói về sự phục sinh của Đấng Mê-si-a Do Thái người mà dân tộc họ đã đóng đinh vào thập tự giá. Dân ngoại có mặt ở đó là những người mới theo đạo Do Thái (Cong 2:10). Phi-e-rơ đã không mở cánh cửa đức tin cho dân ngoại cho đến khi ông thăm viếng Cọt-nây (Cong 10:1-48).
Có 3 sự giải thích trong bài giảng của Phi-e-rơ.
-Ông giải thích điều đã xảy ra: Đức Thánh Linh đã đến (Cong 2:14-21).
Sự thờ phượng đầy vui mừng của các tín đồ không phải là kết quả của quá nhiều rượu đó là chứng cớ về sự đến của Đức Thánh Linh để ngự trong dân sự Ngài. Dân Do Thái chính thống đã không ăn hoặc uống trước 9 giờ sáng vào ngày lễ Sa-bát hay vào một thánh nhật họ cũng không hay uống rượu trừ những bữa ăn.
Phi-e-rơ đã không nói rằng lễ Ngũ Tuần là sự ứng nghiệm lời tiên tri của Gio 2:28-32 vì những dấu hiệu và sự lạ được tiên đoán đã không xảy ra. Khi bạn đọc lời tiên tri của Giô-ên theo ngữ cảnh, bạn thấy rằng nó đề cập đến dân tộc Y-sơ-ra-ên trong thời kỳ sau rốt liên hệ đến “Ngày của Chúa”. Tuy nhiên, Phi-e-rơ đã được Thánh Linh dẫn dắt để thấy trong lời tiên tri này một ứng dụng cho Hội Thánh.Ông đã nói: “Đây là cùng một Đức Thánh Linh ấy mà Giô-ên đã viết về Ngài. Ngài hiện diện ở đây! ”. Một lời tuyên bố như vậy dường như không thể tin được đối với dân Do Thái, vì họ nghĩ Thánh Linh Đức Chúa Trời chỉ được ban cho một số ít người được chọn (Dan 11:28-29). Nhưng đây là 120 người trong số dân Do Thái đồng hương của họ, đàn ông và đàn bà, vui mừng hưởng sự chúc phước của cùng một Thánh Linh Đấng đã ban quyền năng cho Môi-se, Đa-vít và các tiên tri.
Đó thực sự là buổi bình minh của một thời kỳ mới, “những ngày sau rốt” mà Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành kế hoạch cứu rỗi của Ngài cho nhân loại. Chúa Giê-xu đã hoàn tất công tác cứu chuộc vĩ đại và không còn gì phải được thực hiện ngoại trừ chia xẻ Phúc Âm cho thế giới, bắt đầu với dân tộc Y-sơ-ra-ên. Lời mời là “Ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu” (Cong 2:21).
-Ông giải thích cách nó đã xảy ra: Chúa Giê-xu sống (Cong 2:22-35).
Tin tức lan nhanh ở phía Đông và có lẽ hầu hết những người trưởng thành ở Giê-ru-sa-lem, cư dân và khách kiều ngụ đều đã biết về việc Chúa Giê-xu Na-xa-rét bị bắt, xử án và đóng đinh. Họ cũng đã nghe những tin đồn về một “lời tuyên bố chính thức”rằng các môn đệ đã đánh cắp xác Chúa Giê-xu chỉ để khiến người ta nghĩ rằng Ngài đã giữ lời và đã được khiến sống lại từ cõi chết.
Nhưng Phi-e-rơ đã cho họ biết sự thật: Chúa Giê-xu Na-xa-rét thực sự đã được khiến sống lại từ cõi chết, và sự phục sinh này chứng minh rằng Ngài là Đấng Mê-si-a! Phi-e-rơ đã trình bày cho họ bốn bằng chứng về sự phục sinh của Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, và rồi ông kêu gọi họ tin nơi Đấng Christ và được cứu.
-Bằng chứng thứ nhất của ông là Con người của Chúa Giê-xu (Cong 2:22-24).
Các thính giả của Phi-e-rơ biết rằng Chúa Giê-xu là một con người có thật xuất thân từ thị trấn Na-xa-rét và biết rằng Ngài đã thực hiện nhiều dấu và phép lạ. (Về “Chúa Giê-xu Na-xa-rét” hãy (Cong 2:22 Cong 3:6 Cong 4:10 Cong 6:14 Cong 10:38 Cong 22:8 Cong 26:9 Cong 24:5). Rõ ràng bàn tay Đức Chúa Trời ở trên Ngài. Họ đã nghe Ngài nói và nhìn xem đời sống Ngài. Họ còn nhìn thấy Ngài khiến kẻ chết sống lại, vả lại họ đã không thể tìm thấy lỗi lầm nào nơi Ngài – và những điều này đã không “được thực hiện trong một nơi kín đáo”! (Cong 26:26).
Không thể tin rằng một Con người như thế lại bị sự chết đánh bại. Theo một quan điểm, sự đóng đinh Chúa Giê-xu là một tội ác gớm ghiếc (Cong 2:23), nhưng theo quan điểm khác đó là một chiến thắng kỳ diệu (Cong 2:24). Từ được dịch là “những sự đau đớn” nghĩa là “cơn đau đẻ” ý nói rằng phần mộ là một “tử cung” mà Chúa Giê-xu được “sinh ra” trong vinh hiển của sự phục sinh (Cong 13:33).
-Bằng chứng thứ hai của Phi-e-rơ là lời tiên tri của Đa-vít (Cong 2:25-31).
Ông trích dẫn Thi 16:8-11 những câu rõ ràng không thể ứng dụng cho Đa-vít là người đã chết và được chôn. Là một tiên tri của Đức Chúa Trời, Đa-vít đã viết về Đấng Mê-si-a, rằng linh hồn Ngài sẽ không ở trong âm phủ (cõi của người chết) hay thân thể Ngài trong phần mộ nơi sẽ hư nát.
-Bằng chứng thứ 3 là sự làm chứng của các tín đồ (Cong 2:33). Sau khi phục sinh, Chúa Giê-xu đã không hiện ra cho đông đảo thiên hạ, nhưng cho các môn đệ Ngài những người Ngài giao nhiệm vụ làm chứng cho người khác rằng Ngài sống (Cong 1:3,22). Nhưng những người này có phải là những chứng nhân đáng tin cậy không?Chúng ta có thể tin họ không? Chúng ta chắc chắn có thể! Trước sự phục sinh của Đấng Christ, các môn đệ thậm chí đã không tin rằng Ngài sẽ được khiến sống lại từ cõi chết và chính họ đã phải tin (Mac 16:9-14 Cong 1:3). Họ không được lợi gì bằng cách rao giảng một sự dối trá, vì sứ điệp của họ đã khuấy động sự chống đối công khai và thậm chí dẫn đến sự giam cầm và sự chết của vài tín đồ. Một số ít kẻ cuồng tín có thể sẵn sàng tin và tâng bốc một sự dối trá một thời gian, nhưng khi hằng ngàn người tin một sứ điệp, và khi sứ điệp đó được hổ trợ bởi những phép lạ, bạn không thể dễ dàng bỏ qua sứ điệp ấy. Những chứng nhận này đáng tin cậy.
Bằng chứng thứ tư của Phi-e-rơ về sự phục sinh của Đấng Christ là sự hiện diện của Đức Thánh Linh (Cong 2:33-36). Hãy theo lôgic của ông. Nếu Thánh Linh ở trong thế gian, vậy Đức Chúa Trời chắc đã sai Ngài đến, Giô-ên đã tiên tri rằng một ngày nào đó Đức Thánh Linh sẽ đến, và chính Chúa Giê-xu đã hứa gởi sự ban cho Thánh Linh cho dân Ngài (Lu 24:49 Gi 14:26 Gi 15:26 Cong 1:4). Nhưng nếu Chúa Giê-xu chết, Ngài không thể ban Thánh Linh vì vậy, Ngài phải sống. Hơn nữa, Ngài không thể ban Thánh Linh trừ khi Ngài đã trở về Trời với Cha (Gi 16:7). Vậy Chúa Giê-xu đã thăng thiên! Để hổ trợ cho nhận định này, Phi-e-rơ đã trích dẫn Thi 110:1 một câu Kinh Thánh chắc chắn không thể được ứng dụng cho Đa-vít (chú ý Mat 22:41-46).
Kết luận của Phi-e-rơ vừa là một lời tuyên bố vừa là một lời tố cáo Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a của các ngươi, nhưng các ngươi đã đóng đinh Ngài! (Cong 2:23). Phi-e-rơ đã không bày tỏ thập tự giá như nơi mà Đấng thay thế vô tội đã chết vì thế gian, nhưng như nơi dân Y-sơ-ra-ên đã giết chính Đấng Mê-si-a của mình! Họ đã phạm tội trọng nhất trong lịch sử! Có hy vọng gì không? Có, vì Phi-e-rơ đã đưa ra một lời giải thích thứ ba đó là tin tức tốt lành cho lòng họ.
-Ông giải thích lý do điều đó đã xảy ra để cứu tội nhân (Cong 2:36-41). Đức Thánh Linh đã dùng sứ điệp của Phi-e-rơ và sử dụng nó để thuyết phục lòng người nghe. (Trong Cong 5:33 và Cong 7:54, từ Hy Lạp khác được sử dụng nói về sự giận dữ hơn là sự thuyết phục đối với tội lỗi). Xét cho cùng, nếu họ phạm tội đóng đinh Đấng Mê-si-a của mình, Đức Chúa Trời có thể làm điều đó cho họ! Hãy chú ý rằng họ đã đặt câu hỏi cho các sứ đồ khác cũng như cho Phi-e-rơ, vì tất cả 12 sứ đồ đều có liên quan trong sự làm chứng ngày ấy, và Phi-e-rơ chỉ là người đầu tiên giữa các đồng bạn.
Phi-e-rơ đã cho họ biết cách để được cứu: họ phải ăn năn tội lỗi mình và tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Họ phải bày tỏ bằng chứng về sự ăn năn thành thật và đức tin mình bằng cách chịu báp-tem trong danh Chúa Giê-xu, như vậy đồng nhất hoá chính họ cách công khai với Đấng Mê-si-a và Đấng Christ của họ. Chỉ bằng cách ăn năn và tin nơi Đấng Christ, họ đã có thể nhận được sự ban cho của Thánh Linh (Ga 3:2,14) và lời hứa này dành cho dân Do Thái và cả dân ngoại “ở xa” (Eph 2:13-19).
Tiếc rằng lời dịch trong Cong 2:38 bản dịch King James ý nói rằng người ta phải chịu báp-tem để được cứu, vì đây không phải là điều Kinh Thánh dạy. Từ Hy Lạp “eis” (được dịch là “để” trong nhóm từ “để được sự tha tội”) có thể có nghĩa “vì lý do” hoặc “trên cơ sở của”. Trong Mat 3:11 Giăng Báp-tít đã làm báp-tem trên cơ sở người ta đã ăn năn. Cong 2:38 không nên được sử dụng để dạy sự cứu rỗi bằng phép báp-tem. Nếu phép báp-tem cần thiết cho sự cứu rỗi thì dường như thật lạ khi Phi-e-rơ đã không nói gì về phép báp-tem trong những bài giảng khác của ông (Cong 3:12-26 Cong 5:29-32 Cong 10:34-43). Thật ra, những người trong nhà Cọt-nây đã nhận lãnh Thánh Linh trước khi họ chịu báp tem! (Cong 10:44-48). Vì các tín đồ được truyền dạy phải chịu báp-tem, nên điều quan trọng là chúng ta có một lương tâm thanh sạch bằng cách vâng lời (IPhi 3:21), nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng phép báp-tem là một phần của sự cứu rỗi. Nếu vậy không người nào trong He 11:1-41 được cứu vì không ai trong số họ từng chịu báp-tem cả.
Cong 2:40 cho thấy rằng các sứ đồ đã tiếp tục chia sẻ Lời Chúa và thúc giục dân chúng tin nhận Chúa Giê-xu. Họ nhìn dân tộc Y-sơ-ra-ên như một “dòng dõi gian ác” đã bị định tội (Mat 16:4 Mat 17:17 Phi 2:15). Trong thực tế, dân tộc này có được khoảng 40 năm trước khi Đế quốc La Mã đến và phá huỷ thành cùng đền thờ và làm tản lạc dân sự. Lịch sử đang lập lại chính nó. Suốt 40 năm trong đồng vắng, dòng dõi mới “đã tự cứu chính nó” khỏi dòng dõi đi trước là dòng dõi đã chống nghịch Đức Chúa Trời. Giờ đây, Đức Chúa Trời sẽ ban cho dân Ngài 40 năm ân điển nữa và vào ngày đó 3.000 người đã ăn năn, tin và được cứu.
4. Hội Thánh bước đi trong Thánh Linh (Cong 2:42-47)
Các tín đồ đã tiếp tục dùng đền thờ làm nơi nhóm họp và phục vụ của họ, nhưng họ cũng nhóm nhau trong những gia đình khác. 3.000 người theo đạo cần có sự hướng dẫn trong Lời Chúa và mối thông công với dân sự Đức Chúa Trời nếu họ muốn tăng trưởng và trở nên những chứng nhân có hiệu quả. Hội Thánh đầu tiên không những đã tạo ra những người qui đạo họ còn tạo ra những môn đệ (Mat 28:19-20).
Hai nhóm từ trong Cong 2:42 có thể cần sự giải thích “Bẻ bánh” có thể chỉ về những bữa ăn thông thường của họ, nhưng vào cuối mỗi bữa ăn, họ có thể đã tạm dừng để nhớ đến Chúa bằng cách tiến hành điều mà chúng ta gọi là “Bữa ăn tối của Chúa”.Bánh và rượu là thức ăn bình thường tại một bàn ăn của người Do Thái. Từ “sự thông công” có nghĩa nhiều hơn “cùng nhau” Nó có nghĩa là “có chung” và có lẽ chỉ về sự chia xẻ của cải vật chất được thực hiện trong Hội Thánh đầu tiên. Đây chắc chắn không phải là một hình thức của Chủ nghĩa Cộng sản hiện đại, vì chương trình này hoàn toàn mang tính tự nguyện tạm thời (Cong 11:27-30) và được thúc đẩy bởi tình yêu thương.
Hội Thánh được hiệp một (Cong 2:33), ngợi khen Đức Chúa Trời (Cong 2:47a) và được gia tăng (Cong 2:47b). Hội Thánh đã có một lời chứng kỳ diệu giữa vòng những người Do Thái không được cứu, không chỉ vì những phép lạ được các sứ đồ thực hiện (Cong 2:43), mà còn vì cách các thành viên thuộc nhóm thông công yêu thương nhau và hầu việc Chúa. Chúa phục sinh đã tiếp tục đồng công với họ (Mac 16:20) và người ta tiếp tục được cứu. Quả là một Hội Thánh!
Các Cơ Đốc nhân bạn gặp trong sách Công vụ đã không hài lòng nhóm một lần một tuần trong “những lễ thờ phượng thông thường”. Họ nhóm lại hằng ngày (Cong 2:46), quan tâm hằng ngày (Cong 6:1), thu phục linh hồn hằng ngày (Cong 2:47) tra cứu Kinh Thánh hằng gnày (Cong 17:11) và thêm lên số lượng hằng ngày (Cong 16:5). Niềm tin Cơ Đốc của họ là môt thực tế từng ngày, không phải một thông lệ một lần trong một tuần. Tại sao?Vì Đấng Christ phục sinh là một sự thực sống động đối với họ, và quyền năng phục sinh của Ngài hành động trong đời sống họ qua Thánh Linh.
Lời hứa vẫn còn hiệu lực: “Ai cầu khẩn danh Chúa thì sẽ được cứu” (Cong 2:21 Ro 10:13)Bạn đã cầu khẩn chưa? Bạn đã tin nhận Chúa Giê-xu để được cứu chưa?
3. QUYỀN NĂNG CỦA DANH NGÀI (Cong 3:1-4:4)
Sự nhấn mạnh trong Cong 3:1-4:37 nói về danh Chúa Giê-xu (Cong 3:6,16 Cong 4:7,10,12,17,18,30). Dĩ nhiên một tên gọi ngụ ý nhiều hơn sự nhân dạng nó mang với nó thẩm quyền, danh tiếng và thế lực. Khi ai đó nói “bạn có thể sử dụng tên tôi! ”, bạn thật lòng hy vọng tên này đáng sử dụng. Nếu một mệnh lệnh được ban ra nhân danh Tổng thống Hoa-kỳ hoặc Thủ tướng Anh quốc, những ai nhận lệnh đều biết rằng họ buộc phải vâng lời. Nếu tôi phải công bố những mệnh lệnh tại Nhà Trắng hay tại số 10 đường Downing (ngay cả nếu tôi có thể bước vào), không ai sẽ chú ý nhiều, vì tên tôi không có thẩm quyền chính thức nào đằng sau nó.
Nhưng danh Chúa Giê-xu có mọi thẩm quyền đằng sau nó, vì Ngài là Con Đức Chúa Trời (Mat 28:18). Vì danh Ngài “trên hết mọi danh” (Phi 2:9-11), Ngài xứng đáng nhận sự thờ phượng và vâng lời của chúng ta. Mối quan tâm lớn của các Cơ Đốc nhân đầu tiên là danh của Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời. phải được vinh hiển, và các tín đồ hôm nay phải có cùng một sự quan tâm đó.
Khi chúng ta nghiên cứu phân đoạn này, chúng ta phải chú ý rằng sự nhấn mạnh của người Do Thái rất rõ rệt. Phi-e-rơ đã nói với những người Do Thái (Cong 3:12)và gọi họ là “con cái của đấng tiên tri và của giao ước” (Cong 3:25). Ông nói đến các tổ phụ người Do Thái (Cong 3:13) cũng như các tiên tri (Cong 3:18,21-25). Nhóm từ “kỳ phục hồi” (Cong 3:21) rõ ràng thuộc về người Do Thái và chỉ về vương quốc của Đấng Mê-si-a đã được tiên đoán qua các tiên tri. Sứ điệp vẫn đang rao ra “cho người Do Thái trước” (Cong 3:26) và được trình bày bằng những thuật ngữ Do Thái.
Có ba giai đoạn trong sự kiện này, và mỗi giai đoạn đều bày tỏ điều gì đó kỳ diệu về Chúa Giê-xu.
1. Sự kinh ngạc: Chúa Giê-xu Đấng Chữa Lành (Cong 3:1-10)
Các tín đồ vẫn gắn bó với đền thờ và với những giờ cầu nguyện theo truyền thống (Thi 55:17 Da 6:10 Cong 10:30). Hãy nhớ rằng Cong 1:1-10:48 mô tả một sự chuyển tiếp tiệm tiến từ Y-sơ-ra-ên đến dân ngoại, và từ “Cơ Đốc giáo Do Thái” (chú ý Cong 21:10) đến “một thân được” tạo thành từ dân Do Thái và dân ngoại. Phải mất một số năm trước khi nhiều tín đồ Do Thái thật sự hiểu vị trí của dân ngoại trong chương trình của Đức Chúa Trời, và sự hiểu biết này đã không hình thành nếu không có những mâu thuẫn của nó.
Sự tương phản giữa đoạn 2 và 3 thật thú vụ: Phi-e-rơ người giảng đạo – Phi-e-rơ người làm việc trực tiếp, đám đông – một người nghèo sự phục vụ đem đến phước hạnh – sự phục vụ đem đến sự giam cầm và bắt bớ. Những biến cố trong đoạn 3 là một minh hoạ của phần cuối trong Cong 2:47 cho chúng ta biết thế nào Chúa đã thêm vào Hội Thánh Ngài hằng ngày. Mặc dù Đức Thánh Linh không được nhắc đến trong chương này, Ngài chắc chắn đã hành động trong và qua các sứ đồ, thực hiện chức vụ về việc câu cá (Lu 5:10). Họ đã chuẩn bị lễ Vượt Qua cuối cùng cho Chúa Giê-xu (Lu 22:8) họ đã chạy đến phần mộ vào sáng Chủ nhật Phục sinh đầu tiên (Gi 20:3-4), và họ đã phục vụ cho dân Sa-ma-ri là những người đã tin Chúa Giê-xu (Cong 8:14). Giờ đây họ đã được đầy dẫy Thánh Linh, các sứ đồ không còn cạnh tranh về sự cao trọng, nhưng sau cùng đã đồng công cách trung tín để gây dựng Hội Thánh (Thi 133:1-3).
Việc Phi-e-rơ chú ý người ăn xin què là một bằng chứng nữa về chức vụ của Thánh Linh. Có thể hằng ngàn người đã ở gần đền thờ (Cong 4:4) và có lẽ có rất nhiều người ăn xin, nhưng Chúa đã bảo Phi-e-rơ chữa lành một người nằm tại Cửa Đẹp.Có 9 cửa dẫn từ sân của dân ngoại vào chính đền thờ. Các học giả không đồng ý nhau, nhưng Cửa đẹp có thể là “cửa Đông” dẫn vào sân cửa Phụ nữ. Được làm bằng đồng của người Cô-rinh-tô nữa. Cửa này trông giống như vàng và chắc chắn đó là một nơi thích hợp cho một người què ăn xin.
Sự ban cho của bố thí đã là một phần quan trọng niềm tin của người Do Thái, vì vậy những người ăn xin thấy có lợi để ở gần đền thờ. Vì các tín đồ đã góp chung những nguồn của cải của họ (Cong 2:44-45) nên hai vị sứ đồ này không có tiền bạc để ban cho nhưng tiền bạc không phải là điều người đàn ông này cần nhất. Ông cần sự cứu rỗi cho linh hồn mình và sự chữa lành cho thân thể mình, và tiền bạc không thể cung cấp được điều nào trong hai điều trên. Bởi quyền năng của danh Chúa Giê-xu, người ăn xin được chữa lành hoàn toàn và ông ấy quá vui mừng và phấn khởi đến nỗi ông hành động như một đứa trẻ, nhảy nhót và ngợi khen Đức Chúa Trời.
Thật dễ nhìn thấy nơi người đàn ông này một minh hoạ về sự cứu rỗi như thế nào. Ông bị què bẩm sinh, và tất cả chúng ta bẩm sinh không thể bước đi cách đẹp lòng Đức Chúa Trời. Tổ phụ A-đam của chúng ta đã vấp ngã và truyền sự què quặt của người cho tất cả con cháu người (Ro 5:12-21). Người đàn ông này cũng nghèo nàn, và chúng ta như những tội nhân bị phá sản trước mặt Đức Chúa Trời, không có khả năng trả món nợ to lớn mà chúng ta nợ Ngài (Lu 7:36-50). Ông ta “ở ngoài đền thờ”, và mọi tội nhân bị phân cách với Đức Chúa Trời, cho dù họ có thể ở gần cửa. Người này được chữa lành hoàn toàn bởi ân điển Đức Chúa Trời, và sự chữa lành mang tính tức thì (Eph 2:8-9). Ông ta đã bày tỏ chứng cớ về điều Đức Chúa Trời đã làm bằng cách “vừa đi vừa nhảy và ngợi khen Đức Chúa Trời” (Cong 3:8)và bằng cách công khai gắn bó với các sứ đồ, cả trong đền thờ Cong 3:11) và trong tình trạng giam cầm của họ (Cong 34:14). Giờ đây ông có thể đứng được, và việc ông này đứng ở đâu chắc không ai thắc mắc!
2. Sự buộc tội: Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời (Cong 3:11-16)
Việc chữa lành người ăn xin què đã thu hút một đám đông bao quanh ba người. Hiên cửa Sa-lô-môn, ở phía đông đền thờ, là một hành lang nơi Chúa chúng ta đã giảng đạo (Gi 10:23) và là nơi Hội Thánh thờ phượng (Cong 5:12).
Trong bài giảng của mình vào lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ đã bác bỏ lời tố cáo rằng các tín đồ say rượu. Trong bài giảng này ông đã phải bác bỏ ý niệm cho rằng ông và Giăng đã chữa lành cho người đàn ông bằng chính quyền năng của họ. Phao-lô và Ba-na-ba đã đối diện với một hoàn cảnh tương tự sau khi chữa lành cho một người què (Cong 14:8-18). Phi-e-rơ lập tức xác nhận nguồn phép lạ – Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời. Một cách khôn ngoan, Phi-e-rơ đã nói rằng đây là Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham Y-sác và Gia-cốp.
Đức Thánh Linh chắc chắn đã ban cho Phi-e-rơ sự dạn dĩ khi ông nhắc cho dân Do Thái cách họ đã đối xử với Chúa Giê-xu. Họ đã chối bỏ Ngài và nộp Ngài để bị đóng đinh. Thậm chí tồi tệ hơn họ đã xin cho một người có tội, Ba-na-ba, được thả tự do để một tù nhân vô tội có thể bị đóng đinh! Để thuyết phục họ tin những tội ác của họ, Phi-e-rơ đã sử dụng nhiều tên gọi và danh hiệu khác nhau dành cho Chúa chúng ta! Con Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu, Đấng Thánh, Đấng Công bình, Chúa (người dẫn đầu) của sự sống. Đây không phải là con người bình thường mà họ đã nộp cho người La Mã để đóng đinh!
Gô-gô-tha có thể là từ cuối cùng của con người, nhưng ngôi mộ trống là từ cuối cùng của Đức Chúa Trời. Ngài đã làm vinh hiển Con Ngài bằng cách khiến Con Ngài sống lại từ cõi chết và đưa Con Ngài trở về trời. Đấng Christ ngự trên ngôi đã ban Thánh Linh Ngài và hành động qua Hội Thánh Ngài. Người ăn xin được chữa lành là chứng cớ rằng Chúa Giê-xu sống. Nếu có một dân nào từng phạm tội lỗi, đó chính là dân mà Phi-e-rơ nói chuyện trong đền thờ. Họ phạm tội giết Đấng Mê-si-a của mình!
Đây có thể không phải là loại sứ điệp chúng ta sẽ rao ra tại một buổi nhóm truyền giảng ngày nay, vì sứ điệp đó được dự trù đặc biệt cho thính giả Do Thái của Phi-e-rơ. Như tại lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ nói với những người đã biết Kinh Thánh và quen thuộc với những sự kiện mới xảy ra trong thành Giê-ru-sa-lem (Lu 24:18). Đó không phải là một nhóm người ngoại đạo dốt nát không có kiến thức tôn giáo. Hơn nữa, các lãnh đạo Do Thái đã gây ra một bất công lớn khi họ bắt giữ và kết tội Chúa Giê-xu và yêu cầu Phi-lát để Ngài bị đóng đinh. Có bao nhiêu công dân đồng ý với quyết định của họ, chúng ta không biết nhưng bạn có thể hình dung sự hối hận của dân chúng khi họ biết rằng họ đã phản bội và giết Đấng Mê-si-a của chính mình.
Phải có sự kết tội trước khi một tội nhân có thể kinh nghiệm sự qui đạo. Nếu một bệnh nhân không tin rằng mình bị bệnh, người ấy sẽ không bao giờ chấp nhận sự chẩn đoán hoặc nhận sự chữa bệnh. Phi-e-rơ đã biến đền thờ trở thành một phòng xử án và đưa ra mọi chứng cớ cho mọi người thấy. Làm sao hai người đánh cá bình thường lại có thể thực hiện một phép lạ lớn dường ấy nếu Đức Chúa Trời không ở cùng họ? Không ai dám chối phép lạ này vì người ăn xin đứng đó trước mặt họ hết thảy trong “sự mạnh khoẻ trọn vẹn” (Cong 3:16 Cong 4:14). Chấp nhận phép lạ này là thừa nhận rằng Chúa Giê-xu thật sự là Con Đức Chúa Trời hằng sống và nhận rằng danh Ngài có quyền năng.
3. Sự khích lệ: Chúa Giê-xu, Đấng Christ (Cong 3:17-26 Cong 4:1-4)
(Cong 3:17-26). Nhưng Phi-e-rơ đã không để cho dân chúng vô vọng. Thật ra, ông hầu như ông biện hộ cho họ bằng cách chỉ ra rằng họ đã hành động trong sự ngu dốt (Cong 3:17) trong khi đồng thời họ đã làm ứng nghiệm Lời Đức Chúa Trời (Cong 3:18).
Trong luật pháp Cựu Ước, có một sự khác nhau giữa các tội cố ý và các tội về sự ngu dốt (Le 4:1-5:19 Dan 15:22-31). Người phạm tội cách cố tình là một người chống nghịch Đức Chúa Trời và phạm tội trọng. Người ấy phải bị “truất khỏi” dân sự mình (Dan 15:30-31), có thể nghĩa là sự rút phép thông công và thậm chí là sự chết. Tội nhân “ngạo mạn” bướng bỉnh bị kết án, nhưng người phạm tội vô ý và không có chủ tâm được ban cho cơ hội ăn năn và tìm kiếm sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Sự ngu dốt không xoá bỏ được lỗi lầm của tội nhân, nhưng nó làm giảm nhẹ những tình huống.
Chúa Giê-xu đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu 23:34) và Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện ấy. Thay vì giáng sự đoán phạt, Ngài đã sai Thánh Linh đến để ban quyền năng cho Hội Thánh Ngài và để kết án tội nhân hư mất. Hoàn cảnh của Y-sơ-ra-ên giống như hoàn cảnh của “kẻ sát nhân” đã giết chết người láng giềng của mình mà không có ác ý trước, và đã chạy trốn đến Thành Ẩn Náu gần nhất (Dan 35:9-34). Bao lâu người ấy ở trong thành này, người ấy được an toàn, vì khi đó những kẻ báo thù không thể đến gần và giết người ấy. Người ấy được tự do về nhà chỉ sau sự chết của thầy tế lễ thượng phẩm. Phi-e-rơ đã mời gọi “những kẻ giết người” này ẩn trốn bằng đức tin nơi Chúa Giê-xu và tìm thấy nơi ẩn náu trong Ngài (He 6:18).
Trong bài giảng trước, Phi-e-rơ đã giải thích rằng thập tự giá là nơi hội tụ quyền tể trị thiêng liêng và trách nhiệm của con người (Cong 2:23), và ông đã lập lại chân lý này trong bài giảng thứ hai (Cong 3:17,18). Có những điều mầu nhiệm ở đây mà trí óc con người không thể hiểu đầy đủ, vì vậy chúng ta phải chấp nhận chúng bằng đức tin. Đức Chúa Trời đã có một kế hoạch từ ngàn xưa, nhưng kế hoạch của Ngài đã không buộc con người hành động ngược với ý chí của riêng họ. Các tiên tri đã tiên báo sự thương khó và sự chết của Đấng Mê-si-a, và dân tộc này đã làm ứng nghiệm những lời tiên tri này mà không nhận biết điều mình đang làm.Khi Đức Chúa Trời không thể chế ngự, Ngài tể trị và luôn hoàn thành những mục đích và sắc lệnh thiêng liêng của Ngài.
Tuyên bố tội ác, đưa ra chứng cớ và giải thích bản chất tội lỗi của họ, khi ấy Phi-e-rơ trình bày cho họ sự tha thứ! (c.19-26). Thật là điều kỳ lạ để vị luật sư công tố trở thành luật sư biện hộ và là quan án tha thứ! Gánh nặng của Phi-e-rơ là khích lệ dân sự ông tin nhận Đấng Christ và kinh nghiệm sự cứu rỗi nhân từ của Ngài.
Ông bảo họ làm gì? Trước hết, họ phải ăn năn tội lỗi mình (Cong 2:38 Cong 5:31 Cong 17:30), có nghĩa là có một sự thay đổi suy nghĩ về chính mình, tội lỗi mình và Chúa Giê-xu. Sự ăn năn vượt hơn nhiều so với “cảm giác hối tiếc về tội lỗi bạn”. Như cô bé trường Chúa Nhật đã nói: “Nó có nghĩa là cảm xúc hối tiếc đủ để ngừng lại! ”. Những sự buồn rầu giả tạo về tội lỗi có thể chỉ là sự hối hận (“Tôi tiếc là tôi đã bị bắt! ”) hay sự ân hận (“Tôi cảm thấy khủng khiếp! ”) và những cảm giác như vậy có xu hướng mất đi. Sự ăn năn không giống như “hành xác” như thể chúng ta phải thực hiện một của lễ đặc biệt cho Đức Chúa Trời để chứng minh rằng chúng ta thành thật. Sự ăn năn thật là thừa nhận rằng điều Đức Chúa Trời phán là đúng và vì nó đúng, chúng ta thay đổi suy nghĩ về tội lỗi mình và về Đấng Christ.
Sứ điệp về sự ăn năn không mới mẻ đối với dân Do Thái, vì Giăng Báp-tít đã rao giảng điều đó và Chúa Giê-xu cũng vậy (Mat 3:2 Mat 4:17). Theo một ý nghĩa nào đó, sự ăn năn là một sự ban cho từ Đức Chúa Trời (Cong 11:18). Theo ý nghĩa khác, đó là sự đáp ứng của tấm lòng đối với chức vụ cáo trách của Thánh Linh Đức Chúa Trời (Cong 26:20). Người thành tâm ăn năn sẽ có ít khó khăn khi đặt niềm tin trong Đấng Christ.
Thứ hai, họ phải được thay đổi, “quay lại” và thực hành đức tin cứu rỗi trong Chúa Giê-xu. Sứ điệp Kinh Thánh là “sự ăn năn đối với Đức Chúa Trời, và đức tin đối với Chúa Giê-xu chúng ta” (Cong 20:21), và cả hai điều đi đôi với nhau. Nếu chúng ta không từ bỏ tội lỗi mình, chúng ta không thể đặt đức tin cứu rỗi trong Chúa Giê-xu. Đáng tiếc là một số mục sư truyền đạo đã quá lờ đi giáo lý về sự ăn năn đến nỗi những “người qui đạo” của họ thiếu mất một ý thức đúng đắn về sự nhận biết tội lỗi. Sự truyền giảng Phúc Âm quân bình trình bày cho tội nhân cả sự ăn năn và đức tin.
Phi-e-rơ đã công bố điều sẽ xảy ra nếu họ ăn năn và trở lại với Chúa Giê-xu: “hầu cho tội lỗi mình có thể được xoá đi, hầu cho kỳ thơ thái có thể đến từ sự hiện diện của Chúa, hầu cho Ngài có thể sai Chúa Giê-xu đến” (lời dịch theo nghĩa đen). Có một lời hứa cho cá nhân (tội lỗi được tha) và một lời hứa cho dân tộc (kỳ thơ thái thuộc linh). Phi-e-rơ thật sự kêu gọi sự ăn năn của dân tộc vì dân tộc này qua các lãnh tụ của họ đã chối bỏ Đấng Mê-si-a của mình và kết án Ngài phải chết. Sự công bố là nếu dân tộc ăn năn và tin nhận, Đấng Mê-si-a sẽ tái lâm và thiết lập vương quốc đã hứa. Dân tộc này đã không ăn năn – và chắc chắn Đức Chúa Trời đã biết điều này sẽ xảy ra – vì vậy sứ điệp cuối cùng đã chuyển từ dân Do Thái đi đến dân Sa-ma-ri (Cong 8:1-40) và đến với dân ngoại (Cong 10:1-48).
Sự nhấn mạnh trong Cong 3:22-25 nói về các tiên tri những người đã rao sự đến của Đấng Mê-si-a. Phi-e-rơ đã trích dẫn từ Môi-se (Phu 18:15,18-19) và nhắc các thính giả của ông rằng Môi-se đã tiên đoán sự đến của một Đấng tiên tri, và Đấng tiên tri này là Đấng Mê-si-a (Lu 24:19 Gi 1:19-28 Gi 6:14). Không vâng lời (“nghe”)Đấng Tiên Tri này đồng nghĩa với sự kết án. Nhưng Môi-se không phải là người duy nhất nói trước sự đến của Chúa Giê-xu, vì mọi tiên tri đã hiệp lại trong sự làm chứng cho Ngài (Lu 24:25-27,44-48).
Khi Phi-e-rơ nói về “những ngày này” ông đang ám chỉ “những ngày” nào? Những ngày thuộc đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu, những ngày khi Đấng Tiên Tri của Đức Chúa Trời sẽ nói với dân Ngài và ban cho họ sự cứu rỗi. Sự chối bỏ Ngài của dân tộc này đã khiến họ trở nên đặc biệt tội lỗi vì dân Do Thái được đặc quyền là “con của các tiên tri và của giao ước”. Họ đã phạm tội nghịch với một nguồn sự sáng!
Khi Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham, Ngài đã lập một giao ước vô điều kiện với ông và con cháu ông rằng nhờ họ các dân tộc trên thế giới sẽ được phước (Sa 12:1-3). Lời hứa này đã được ứng nghiệm khi Chúa Giê-xu đến trong thế gian qua dân tộc Do Thái (Ga 3:6-14). Sứ điệp Phúc Âm đã đến “với người Do Thái trước” vì dân Do Thái là công cụ được chọn của Đức Chúa Trời nhờ đó dân ngoại sẽ được phước (Cong 3:26 Cong 13:46 Ro 1:16). Những Cơ Đốc nhân đầu tiên là người Do Thái và những nhà truyền giáo đầu tiên là người Do Thái.
Nhưng hãy để ý rằng Phi-e-rơ đã không cho phép “những phước hạnh của dân tộc” làm lu mờ trách nhiệm riêng của những cá nhân nghe sứ điệp của ông Cong 3:26). Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giê-xu sống lại và sai Ngài đến với mỗi người nào từ bỏ tội lỗi mình (chú ý Cong 3:20). Sự ăn năn của dân tộc tuỳ thuộc nơi sự ăn năn cá nhân, sự đáp ứng của cá nhân tội nhân đối với sứ điệp cứu rỗi. Phi-e-rơ nói với một đám đông, nhưng ông vẫn thực hiện sự ứng dụng mang tính cá nhân.
Sứ điệp của ông sinh ra hai kết quả trái ngược (1) khoảng 2.000 người Do Thái tin Đạo và được biến đổi, và (2) các chức sắc tôn giáo của dân tộc này đã chối từ sứ điệp và tìm cách làm cho các sứ đồ nín lặng. Chúng ta có ở đây khởi đầu của sự bắt bớ mà Chúa Giê-xu đã báo trước về nó cho các môn đệ Ngài (Mat 10:17-18 Lu 21:12-15 Gi 15:18-16:4).
Chúng ta cho rằng người Sa-đu-sê sẽ chống đối sứ điệp vì họ không tin nơi sự sống lại của thân thể con người (Cong 23:6-8). Lời tuyên bố bạo dạn của Phi-e-rơ rằng Chúa Giê-xu đã được khiến sống lại từ cõi chết đã đi ngược lại với niềm tin tôn giáo của họ. Nếu những thường dân nghi vấn về thần học của những lãnh đạo thuộc linh của họ, nó có thể làm suy yếu thẩm quyền của cả hội đồng Do Thái. Thay vì trung thực xem xét chứng cớ, các chức sắc này đã bắt giữ các sứ đồ và tạm giam họ qua đêm, định xét xử họ ngày hôm sau. Tuy nhiên, sự đến của các lính canh đền thờ đã không thể ngăn cản 2.000 người tin nhận Chúa Giê-xu và gắn bó với các tín đồ tại Giê-ru-sa-lem.
Khi bạn xem lại phân đoạn này trong Công vụ, bạn không thể không có ấn tượng về những chân lý thực tiễn đã khích lệ tất cả chúng ta trong việc làm chứng cớ Đấng Christ.
1.Đức Chúa Trời đã nhịn nhục tội nhân hư mất.
Các lãnh đạo Y-sơ-ra-ên đã chối từ chức vụ của Giăng Báp-tít (Mat 21:23-27) và chức vụ của Chúa Giê-xu, nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho họ cơ hội khác để ăn năn và được cứu. Họ đã chối bỏ và giết Đấng Mê-si-a của mình, nhưng Đức Chúa Trời kiên nhẫn giữ lại sự đoán phạt của Ngài và sai Thánh Linh Ngài đối phó với họ. Dân sự Đức Chúa Trời hôm nay cần sự kiên nhẫn khi chúng ta làm chứng cho một thế giới hư mất.
2.Lời chứng thật bao gồm “tin xấu” về tội lỗi và sự vi phạm cũng như “tin tốt lành” về sự cứu rỗi nhờ đức tin trong Chúa Giê-xu. Không thể có đức tin thật trong Đấng Christ trừ khi trước tiên có sự ăn năn xây bỏ tội lỗi. Đó là chức vụ của Đức Thánh Linh để kết án tội nhân hư mất (Gi 16:7-11) và Ngài sẽ làm điều này nếu chúng ta trung tín làm chứng và sử dụng Lời Đức Chúa Trời.
3.Cách để đến với quần chúng là giúp đỡ cá nhân tội nhân. Phi-e-rơ và Giăng đã thu phục người ăn xin què và đời sống ông ta đã dẫn đến sự qui đạo của 2.000 người! Tôi tớ của Đức Chúa Trời mà không có thời gian cho công việc riêng với cá nhân tội nhân sẽ không được ban cho nhiều cơ hội giảng dạy cho quần chúng lớn. Giống như Chúa Giê-xu, các sứ đồ đã dành thời gian cho các cá nhân.
4.Sự bảo vệ tốt nhất cho chân lý của niềm tin Cơ Đốc là một đời sống được thay đổi. Người ăn xin được chữa lành là “sự phô bày tốt nhất” trong sự bảo vệ của Phi-e-rơ cho sự phục sinh của Chúa Giê-xu. Trong những chức vụ truyền giảng Phúc Âm của mình, Mục sư hội giám lý Samuel Chadwid thường cầu nguyện cho “một La-xa-rơ” trong mọi chiến dịch, “vài tội nhân ghê gớm” nào đó mà sự qui đạo của họ có thể làm sửng sốt cộng đồng Ông lấy ý niệm từ Gi 12:9-11. Đức Chúa Trời đã nhậm những lời cầu nguyện của ông trong từng buổi nhóm khi nhửng người làm ác có tiếng đã tin nhận Đấng Christ và trở nên những chứng nhân qua đời sống được thay đổi của họ. Chúng ta hãy tìm kiếm những “trường hợp khó” và xem điều Đức Chúa Trời có thể làm!
5.Mỗi khi Đức Chúa Trời chúc phước, Sa-tan xuất hiện để chống lại công việc này và làm nín lặng sự làm chứng và nó thường sử dụng giáo dân để thực hiện công việc của nó. Chính đám đông đã chống đối chức vụ của Chúa Giê-xu cũng đã chống đối công việc của các sứ đồ, và họ sẽ chống đối chức vụ của chúng ta hôm nay.Hãy chờ đợi điều đó, nhưng đừng để nó ngăn trở bạn! Điều quan trọng không phải là chúng ta được dễ chịu, nhưng là danh của Chúa được vinh hiển qua việc rao giảng Phúc Âm.
6.Đức Chúa Trời đã hứa ban phước và sử dụng Lời Ngài, vậy chúng ta hãy trung tín làm chứng. Chúa Giê-xu cũng đã cầu nguyện để sự làm chứng của chúng ta sẽ thành công (Gi 17:20), vậy chúng ta có mọi lý do để được khích lệ. Có quyền năng trong danh Chúa Giê-xu, nên chúng ta không phải sợ hãi khi làm chứng và kêu gọi tội nhân ăn năn.
7.Danh Chúa Giê-xu vẫn có quyền năng! Dù hôm nay chúng ta không thể thực hiện những phép lạ giống các sứ đồ đã được người ta chứng kiến trong Hội Thánh đầu tiên, nhưng chúng ta vẫn có thể nắm giữ thẩm quyền của Chúa Giê-xu khi Ngài hướng dẫn chúng ta trong Lời Ngài.
Chúng ta có thể rao giảng “sự tha tội” trong danh Ngài (Lu 24:17) hầu cho người ta có thể tin và có “sự sống nhờ danh Ngài” (Gi 20:31). Chúng ta có thể cho ai đó một cốc nước lạnh nhân danh Ngài (Mac 9:41), và chúng ta có thể tiếp một đứa trẻ nhân danh Ngài (Mat 18:5). Những chức vụ này có thể dường như không ngoạn mục như việc chữa lành một người què, nhưng chúng vẫn quan trọng đối với công việc của Đức Chúa Trời.
Chúng ta có thể cầu xin nhân danh Ngài khi chúng ta cầu nguyện (Gi 14:13-14 Gi 15:16 Gi 16:23-26). Khi chúng ta cầu xin Cha điều gì “nhân danh Chúa Giê-xu”, điều đó như thể chính chúa Giê-xu đã cầu xin. Nếu chúng ta ghi nhớ điều này, nó sẽ giúp giữ chúng ta không cầu xin những điều bất xứng với danh Ngài.
Vâng, danh Chúa Giê-xu vẫn còn có thẩm quyền và quyền năng. Chúng ta hãy tiến tới trong danh Ngài và chiến thắng!
Cong 4:1-4, Xem phần giải nghĩa chung với Cong 3:17-26
4. SỰ BẮT BỚ, CẦU NGUYỆN VÀ QUYỀN NĂNG (Cong 4:5-31)
Hội Thánh ban đầu đã không có gì thuộc “những thuận lợi” mà một số giáo đoàn lấy làm hãnh diện và phụ thuộc vào chúng hôm nay. Họ đã không có ngân quỹ to lớn do những người quyên góp giàu có cung cấp. Các mục sư của họ đã không có sự chứng nhận của các bậc cầm quyền có uy thế thời bấy giờ. Đa số những người thi hành chức vụ của họ đã có kỷ lục bị bắt giam và có lẽ sẽ rất khó khăn khi gia nhập những Hội Thánh của chúng ta ngày nay, không nói đến việc lãnh đạo Hội Thánh.Bí quyết thành công của họ thật sự là gì? Chương này cung cấp lời giải đáp: các Cơ Đốc nhân của Hội Thánh đầu tiên đã biết cách cầu nguyện để bàn tay Đức Chúa Trời có thể hành động bằng quyền năng mạnh mẽ.
Khi được yêu cầu giải thích bí quyết về chức vụ xuất sắc của mình, mục sư Anh quốc nổi tiếng Charles Haddon Spurgeon đã đáp: “Dân sự tôi cầu nguyện cho tôi”.Thánh Augustine đã nói: “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự tuỳ thuộc nơi Đức Chúa Trời, và hãy làm việc như thể mọi sự tuỳ thuộc nơi bạn”. Sự cầu nguyện không phải là một sự trốn thoát trách nhiệm đó là đáp ứng của chúng ta đối với khả năng của Đức Chúa Trời. Sự cầu nguyện thật tiếp nghị lực cho chúng ta để sự hầu việc và chiến trận.
Một lần nữa, trung tâm của sự chú ý là danh của Chúa Giê-xu (Cong 4:7,10,12,17,18). Trong chương này, chúng ta thấy điều mà ba nhóm người thực hiện bằng danh Ngài.
1. Các sứ đồ: bảo vệ danh chúa (Cong 4:5-14)
Toà án nhóm họp lại (Cong 4:5-7) thực chất bao gồm gia đình của thầy tế lễ cả. Hệ thống Do Thái giáo đã trở nên đồi bại đến nỗi các chức vụ đã được truyền từ người bà con này đến người bà con khác mà không có sự quan tâm đến Lời Đức Chúa Trời. Khi An-ne đã bị truất phế khỏi chức tế lễ, con rể ông là Cai-phe được bổ nhiệm. Thật ra, 5 con trai của An-ne đã giữ chức vụ lúc này hay lúc khác. Có người đã định nghĩa “một người quen thói bao che dung túng người nhà” là “một người xấu xa, biết cách cho con cái mình những món quà tốt”. An-ne chắc chắn là đủ khả năng.
Đây là một buổi họp chính thức của toà Công Luận (Cong 4:15), cũng chính hội đồng này vài tháng trước đó đã xử tội chết cho Chúa Giê-xu. Thật ra, các nghị viên này đã nhận ra Phi-e-rơ và Giăng là cộng sự của Chúa Giê-xu (Cong 4:13). Toà Công Luận được giao trách nhiệm bảo vệ niềm tin của người Do Thái, và điều này nghĩa là họ phải xem xét mọi giáo sư và sự dạy dỗ mới xuất hiện trong xứ (Phu 13:1-18). Họ chắc chắn có quyền điều tra việc Hội Thánh đang làm, nhưng họ không có quyền bắt giữ những người vô tội từ chối xem xét chứng cớ cách trung thực.
Câu hỏi của họ hợp pháp, nhưng họ đã làm mọi điều có thể để tránh thừa nhận rằng một phép lạ đã xảy ra (Cong 4:14). Họ lẩn tránh và chỉ đề cập đến phép lạ như là “điều này”. Có lẽ họ cũng tỏ ra khinh thường, nên câu hỏi của họ có thể được diễn ý: “Người tầm thường như các ngươi đã lấy thẩm quyền và quyền hạn ở đâu để làm một việc như việc này?” Đó lại là câu hỏi về “bởi danh của ai?” Xét cho cùng, các sứ đồ cũng có thể liên minh với ma quỉ! Cả Sa-tan cũng có thể làm phép lạ!
Phi-e-rơ đã trình bày trường hợp này (Cong 4:8-14) trong quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Hãy để ý rằng Phi-e-rơ một lần nữa đã được đầy dẫy Thánh Linh (Cong 2:4)và kinh nghiệm sự đầy dẫy khác trước khi ngày này chấm dứt (Cong 4:31). Báp-tem của Đức Thánh Linh chỉ xảy ra một lần vào lúc qui đạo (ICo 12:13), nhưng phải có nhiều lần đầy dẫy Thánh Linh nếu tín đồ muốn làm một chứng nhân hiệu quả cho Chúa Giê-xu (Eph 5:18).
Phi-e-rơ trịnh trọng khởi sự bằng một sự giải thích về cách phép lạ đã xảy ra. Chắc chắn những thành viên của toà Công Luận đã nhìn thấy người ăn xin què nhiều lần, và có lẽ họ còn bố thí cho ông ta và thành tâm cầu nguyện cho ông. Người mà ai cũng biết này đã được chữa lành ra sao? “Bởi danh Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét”.Những lời này chắc đã đâm thấu lòng của những thành viên trong hội đồng! Họ nghĩ họ đã giải quyết xong Đấng Tiên tri từ Na-xa-rét, và giờ đây các môn đệ Ngài đang cho mọi người biết rằng Chúa Giê-xu sống! Vì người Sa-đu-sê không tin sự sống lại của kẻ chết, lời tuyên bố của Phi-e-rơ gần như một lời tuyên chiến!
Nhưng Thánh Linh đang cho Phi-e-rơ biết điều gì để nói (Lu 21:12-15) và vị sứ đồ này đã trích dẫn Thi 118:22 rõ ràng là một ám chỉ về Đấng Mê-si-a (Mat 21:12 IPhi 2:4-8). Ông nói rõ ràng những thành viên của hội đồng là “các thợ xây” và họ đã loại bỏ Hòn Đá của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời.
Hình ảnh “hòn đá” không phải mới mẻ đối với những người này là những nhà chuyên môn về Kinh Thánh cựu ước. Họ biết rằng “đá” là một biểu tượng về Đức Chúa Trời (Phu 32:4,15,18,31 IISa 22:2 Thi 18:2 Es 28:16), và biết rằng Tiên tri Đa-ni-ên đã dùng tảng đá để phác hoạ Đấng mê-si và sự đến của vương quốc Ngài trên đất (Da 2:31-45). Dân Do Thái đã vấp ngã trên Đá này (Ro 9:32 ICo 1:23)và loại bỏ Ngài, đúng như Thi 118:22 đã tiên đoán. Tuy nhiên, đối với những ai đã tin nhận Ngài, Chúa Giê-xu là đá góc nhà quý báu (IPhi 2:4-8) và là đá góc nhà chính (Eph 2:20).
Phi-e-rơ tiếp tục giải thích rằng Chúa Giê-xu không chỉ là Tảng Đá, Ngài còn là Đấng Christ (Cong 4:12). Phi-e-rơ nhìn thấy trong sự chữa lành người ăn xin là một bức tranh về sự chữa lành thuộc linh đến trong sự cứu rỗi. “Được lành” trong Cong 4:9 là một cách dịch của cùng một từ Hy Lạp được dịch là “được cứu” trong Cong 4:12 vì sự cứu rỗi nghĩa là sự lành lặn và sức khoẻ thuộc linh. Chúa Giê-xu là Vị Thầy thuốc vĩ đại Đấng duy nhất có thể chữa lành bệnh tật trầm trọng nhất của loài người, bệnh của tội lỗi (Mac 2:14-17). Dĩ nhiên, Phi-e-rơ cũng nghĩ đến “cả dân Y-sơ-ra-ên” khi ông nói (Cong 4:10) vì sứ điệp vẫn đang loan ra đặc biệt cho người Do Thái. Ngay cả Thi 118:1-29 mà Phi-e-rơ đã trích dẫn từ đó, cũng nói về một sự cứu rỗi dân tộc trong tương lai dành cho Y-sơ-ra-ên.
2. Hội đồng: chống đối danh Chúa (Cong 4:15-22)
Vấn đề của họ (Cong 4:13-14) là họ ở trong một tình trạng tiến thoái lưỡng nan cho dù họ xoay đường nào, họ đã “bị mắc bẫy”. Họ không thể phủ nhận phép lạ, vì người đàn ông này đang đứng trước mặt họ vả lại họ cũng không thể giải thích làm thế nào “những người dốt nát và không được học hỏi” có thể thực hiện một việc lớn như vậy. Phi-e-rơ và Giăng là những người đánh cá bình thường, không phải là những thầy thông giáo chuyên nghiệp hay các mục sư có thẩm quyền của Do Thái giáo. Họ là những môn đệ của Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét, nhưng Ngài đã chết! Hội đồng để ý về sự dạn dĩ và tin quyết của Phi-e-rơ cùng Giăng, cũng như quyền năng những lời nói của Phi-e-rơ, và điều đó càng gây thêm bối rối.
Điều quan trọng cần chú ý là phép lạ tự nó không phải là chứng cớ về sự phục sinh của Đấng Christ hay thậm chí về chân lý của sứ điệp của Phi-e-rơ. Sa-tan có thể làm phép lạ (IITe 2:9-10) và các tiên tri giả có thể làm những sự lạ (Phu 13:1-5). Phép lạ và sứ điệp, trong khung cảnh của tất cả mọi sự đang diễn tiến từ lễ Ngũ Tuần, là một bằng chứng nữa rằng Chúa Giê-xu đang sống và hành động trong Hội Thánh bởi Thánh Linh Ngài. Trong cả hai bài giảng, Phi-e-rơ đã sử dụng Kinh Thánh Cựu Ước để hổ trợ và giải thích những lời tuyên bố của ông, và đây là một bằng chứng về một tiên tri thật của Đức Chúa Trời (Phu 13:1-5 Es 8:20). Phép lạ không phải là một sự thay thế cho Lời Đức Chúa Trời (Lu 16:27-31).
Trong sự bàn luận của mình (Cong 4:15-18), hội đồng đã không tìm kiếm chân lý, nhưng kiếm cách để lẩn tránh chân lý! Nếu họ thật lòng xem xét chứng cớ và nhu mì lắng nghe sứ điệp, họ có thể đã được cứu, nhưng sự kiêu ngạo và cứng lòng của họ đã cản lối. Một số thầy tế lễ cả và các trưởng lão đã kinh nghiệm một tình thế tiến thoái lưỡng nan tương tự suốt kỳ lễ Vượt Qua khi họ tìm cách gài bẫy Chúa Giê-xu trong đền thờ (Mat 21:23-27). Một số người chưa bao giờ biết! Nhưng đáp ứng của họ là chứng cớ cho thấy chỉ phép lạ không thôi thì không bao giờ có thể kết án hay thay đổi tội nhân hư mất. Chỉ có Lời Đức Chúa Trời mới có thể làm được điều đó (Gi 11:45-53 Cong 14:1-20).
Kết luận của họ là “để cho sự việc chết một cái chết tự nhiên”. Điều này nghĩa là đe doạ các sứ đồ và cấm họ dạy dỗ và rao giảng nhân danh Chúa Giê-xu. Sự tuyên án chính thức này cho thấy mức độ kẻ thù sợ lời chứng của Hội Thánh, vì Sa-tan đã tìm cách làm cho dân sự Đức Chúa Trời nín lặng ngay từ ban đầu. Thật buồn mà nói, nó đã thành công với quá nhiều Cơ Đốc nhân, những “chứng nhân im lặng” của Hội Thánh. Ngay cả triết gia hiện sinh Albert Camus đã nói: “Điều mà thế giới trông đợi ở các Cơ Đốc nhân là các Cơ Đốc nhân phải nói ra, lớn tiếng và rõ ràng... bằng một phương cách không bao giờ khơi dậy trong lòng một con người đơn sơ nhất một sự nghi ngờ nào, ngay cả một sự nghi ngờ thoáng qua.
Hội đồng đã không muốn sứ điệp Phúc Âm loan ra, nhưng đó chính xác là điều đã xảy ra! Từ 120 đàn ông và đàn bà cầu nguyện trong Cong 1:1-26 Hội Thánh đã gia tăng hơn 3.000 người vào ngày lễ Ngũ Tuần và giờ đây có hơn 5.000 môn đệ trong sự thông công. Trong những ngày kế tiếp, người tin theo đã được thêm nhiều cho Chúa, nam nữ đều đông lắm” (Cong 5:14 Cong 6:1,7).
Sự thất bại của hội đồng (Cong 4:19-22) đã rõ rệt khi Phi-e-rơ từ chối để bị hăm doạ bởi những lời đe doạ của họ. Tất cả chúng ta cần noi gương Phi-e-rơ và thực hiện những quyết định của mình trên cơ sở “điều đó đúng không?” chớ không phải “điều đó được người ta ưa chuộng không?” hay “điều đó có an toàn không?”. Tuy nhiên, chúng ta phải biết chắc rằng mình có sự dạy dỗ rõ ràng về Lời Đức Chúa Trời cho phần mình trước khi chúng ta tuyên bố quan điểm ngược lại thẩm quyền của nhà cầm quyền. Phi-e-rơ biết điều Chúa đã ra lệnh các tín đồ phải thực hiện (Cong 1:8) và ông vâng lời Ngài bằng bất cứ giá nào.
Ngày nay việc đề xướng những mục đích khác nhau bằng cách coi thường nhà cầm quyền, bất phục luật pháp, và bảo vệ những hành động này trên cơ sở của lương tâm là điều phổ biến. Vì ngay cả một số Cơ Đốc nhân cũng có liên quan trong sự tiếp cận này với hoạt động xã hội, thật quan trọng để hiểu loại “chống đối pháp luật” do những người trong Kinh Thánh đã hành động. Phi-e-rơ và Giăng là những người duy nhất bất phục chính quyền để hầu việc Đức Chúa Trời. Một danh sách “những người phản đối có lương tâm tận tuỵ” sẽ thêm vào giữa những người khác:Các bà mụ Do Thái (Xu 1:1-22), cha mẹ của Môi-se (He 11:23), Đa-ni-ên (Da 1:1-21 Da 6:1-28), ba bạn Hê-bơ-rơ (Da 3:1-30). Khi bạn nghiên cứu những ghi chép này, bạn khám phá những nguyên tắc Thánh Kinh mà bởi đó họ đã hành động, những nguyên tắc mà không phải lúc nào cũng được làm theo ngày nay.
Trước hết, mỗi người trong số những người phản đối” này đã có một sứ điệp từ Đức Chúa Trời mà không thể bị thắc mắc. Các bà mụ và cha mẹ của Môi-se biết rằng giết các trẻ sơ sinh là sai trái. Đa-ni-ên và các bạn ông, và ba bạn Hê-bơ-rơ biết rằng ăn thức ăn cúng cho thần tượng hoặc quỳ trước thần tượng để thờ phượng là sai trái. Phi-e-rơ và Giăng biết rằng họ ở dưới những mệnh lệnh của Chúa họ để rao giảng Phúc Âm đến cùng trái đất, và biết rằng sẽ sai trái nếu vâng lời Toà Công luận. Tất cả những người này đã trung tín vâng theo một lời rõ ràng của Đức Chúa Trời chớ không chỉ làm theo ý muốn riêng bất chợt đầy ích kỷ của bản thân họ.
Thứ hai, những lời kết tội của họ đã đụng đến mọi lãnh vực của đời sống họ. Nói cách khác, họ đã làm mọi điều “bằng lương tâm đối với Đức Chúa Trời” (IPhi 2:19) vì họ thuộc về Đức Chúa Trời. Ngày nay, sinh viên đại học nào có lương tâm cho phép mình gian lận những kỳ thi hoặc lái xe trong khi say sưa, nhưng không đăng ký phục vụ quân đội, không làm tôi tin rằng người ấy thực sự đang trau dồi một lương tâm lành mạnh. Khi toàn bộ đời sống của một người ở dưới sự hướng dẫn của một lương tâm tin kính. Khi ấy tôi thấy dễ hơn để có sự tin tưởng, nơi những quyết định không được lòng người của anh ta.
Cũng hãy để ý rằng những gương mẫu của chúng ta trong Kinh Thánh đã hành động với sự tôn trọng và nhã nhặn, ngay cả khi họ bất chấp luật pháp. Cơ Đốc nhân có thể tôn trọng thẩm quyền và đồng thời không vâng theo nhà cầm quyền (Ro 13:1-14 IPhi 2:13-25 Tit 3:1-2). Đa-ni-ên đã tìm cách tránh đưa người lính canh của ông vào rắc rối, và các sứ đồ đã sử dụng những sự bắt giữ họ như những cơ hội để làm chứng. Đây hoàn toàn là điều trái ngược với một số “Cơ Đốc nhân phản đối” ngày nay những người dường như chuyên về sự phản đối và tố cáo hơn là sự làm chứng yêu thương.
Dĩ nhiên, tấm gương tuyệt vời nhất về sự chịu khổ bất công là gương của Chúa Giê-xu, và chúng ta phải bắt chước Ngài (IPhi 2:13-25). Chúa Giê-xu dạy chúng ta rằng sự phản kháng công bình chống lại sự bất công luôn đòi hỏi sự hy sinh và sự chịu khổ, và phải được thúc đẩy bởi tình yêu thương. Dân sự Đức Chúa Trời phải cẩn thận để không mặc cho thành kiến của mình những lớp vỏ của “sự phẫn nộ công bình” và mạo nhận chúng như những người lính can đảm của lương tâm. Chúng ta phải thành thật xét lòng mình để chắc chắn chúng ta sẽ không tiến hành một “cuộc thánh chiến” chỉ để thoả mãn những bực mình bên trong.
Do không thể đưa ra một vụ kiện thật nào hội đồng chỉ có thể doạ những người này và cho họ đi. Xét cho cùng, khi bạn có một phép lạ sống động trước mặt mình, cũng như một sự tán thành của quần chúng quanh mình, bạn phải cẩn thận điều mình làm!
3. Hội Thánh: kêu cầu danh Chúa (Cong 4:23-31)
Sự tập trung về quyền năng lớn nhất trong thành Giê-ru-sa-lem hôm ấy là trong buổi nhóm cầu nguyện sau cuộc xét xử. Đây là một trong những sự cầu nguyện thật sự tuyệt vời được chép trong Kinh Thánh, và đó là một gương bổ ích cho chúng ta noi theo.
Trước hết, đó là một sự cầu nguyện xuất phát từ sự làm chứng và hầu việc cho Chúa.Phi-e-rơ vừa mới bước vào “từ những đường hào”, và Hội Thánh đã nhóm lại cầu nguyện để đánh bại kẻ thù. Rất thường ngày nay, các tín đồ nhóm lại để cầu nguyện như thể tham dự một buổi hoà nhạc hay một bữa tiệc. Có ít ý thức về sự cấp bách và nguy hiểm vì đa số chúng ta đều thoải mái trong lối sống Cơ-đốc.Nếu có thêm dân sự Đức Chúa Trời làm chứng cho Đấng Christ trong đời sống hằng ngày, sẽ có thêm sự cấp bách và phước hạnh khi Hội Thánh nhóm lại để cầu nguyện.
Đó là buổi nhóm cầu nguyện hiệp nhất vì họ đã “một lòng cất tiếng lên cầu Đức Chúa Trời” (Cong 4:24 Cong 1:14). Những người này đồng một lòng và trí, và Đức Chúa Trời hài lòng nhậm những lời thỉnh cầu của họ. Sự chia rẽ trong Hội Thánh luôn ngăn trở sự cầu nguyện và cướp đi của Hội Thánh quyền năng thuộc linh.
Sự cầu nguyện của họ được dựa vững chắc trên Lời Đức Chúa Trời, trong trường hợp này là Thi 2:1-12. Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện phải luôn đi đôi với nhau (Gi 15:7). Trong Lời Ngài, Đức Chúa Trời phán với chúng ta và cho chúng ta biết điều Ngài muốn làm. Trong sự cầu nguyện, chúng ta nói với Ngài và khiến bản thân sẵn sàng thực hiện ý muốn Ngài. Sự cầu nguyện thật không phải là cho Đức Chúa Trời biết điều phải làm, nhưng cầu xin Ngài thực hiện ý muốn Ngài trong chúng ta và qua chúng ta (IGi 5:14-15). Điều đó có nghĩa là để ý muốn của Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất, không phải ý muốn của con người được thực hiện trên trời.
Họ đã không cầu xin để những hoàn cảnh của họ được thay đổi hay kẻ thù họ mất chức. Đúng hơn, họ cầu xin Đức Chúa Trời ban quyền năng cho họ để tận dụng mọi hoàn cảnh của mình và hoàn thành điều Ngài đã định (Cong 4:28). Đây không phải là “thuyết định mệnh” nhưng là đức tin nơi Chúa của lịch sử Đấng có một kế hoạch hoàn hảo và luôn đắc thắng. Họ cầu xin sự giúp đỡ thiêng liêng, không phải sự trốn chạy, và Đức Chúa Trời đã ban cho họ quyền năng họ cần.
Philip Brooks đã viết: “Đừng cầu xin đời sống dễ chịu. Hãy cầu xin được làm những người nam người nữ mạnh mẽ hơn. Đừng cầu xin những nhiệm vụ ngang với năng lực của bạn. Hãy cầu xin được năng lực ngang với nhiệm vụ của bạn”. Đó là cách các Cơ Đốc nhân đầu tiên đã cầu nguyện, và đó là cách dân sự Đức Chúa Trời phải cầu nguyện hôm nay.
Họ đã xưng Đức Chúa Trời là “Chúa tối cao”, Đức Chúa Trời Đấng điều khiển mọi sự.Từ Hy Lạp cho chúng ta từ tiếng Anh là “despot” người cai trị thực hiện uy quyền tuyệt đối, hoặc nhân từ hoặc chuyên quyền. Si-mê-ôn đã sử dụng cùng một danh này khi ông cầu nguyện trong đền thờ (Lu 2:29). Thật hữu ích để biết Chúa Tối Cao khi bạn kinh nghiệm sự bắt bớ.
Họ cũng đã đến gần Ngài như Đấng Sáng tạo, vì xét cho cùng, nếu Cha bạn là “Chúa của Trời và Đất”, và bạn phải sợ gì chớ? (Mat 11:25-30). Nê-hê-mi đã đến gần Đức Chúa Trời trên chính cơ sở này (Ne 9:6), và tác giả Thi thiên (Thi 145:1-21) cùng tiên tri Ê-sai Es 42:1-25 cũng đã làm vậy. Những năm về sau, khi viết thư đầu tiên, Phi-e-rơ đã khích lệ các thánh đồ chịu khổ dâng mình cho Đấng sáng tạo thành tín (IPhi 4:19).
Thi 2:1-12 mô tả sự nổi loạn của các nước chống lại Chúa và Đấng Christ của Ngài.Thi thiên này vốn ra đời từ sự lên ngôi của một vua mới trong Y-sơ-ra-ên, có lẽ là Đa-vít hoặc Sa-lô-môn. Nhưng sứ điệp chủ yếu chỉ về Vua của muôn vua, Chúa Giê-xu. Mỗi khi một vua mới được lên ngôi, các vua chư hầu xung quanh được yêu cầu đến và quy phục Ngài, nhưng một số vua chối từ làm việc này. Đức Chúa Trời chỉ cười vào sự nổi loạn của họ, vì Ngài biết họ không bao giờ có thể đứng lên chống lại Vua của Ngài.
Các tín đồ đầu tiên đã áp dụng sứ điệp của Thi thiên này vào hoàn cảnh riêng của họ và nhận ra những kẻ đối địch họ là Hê-rốt, Phi-lát, người La Mã và người Do Thái. Những kẻ thù này đã “câu kết nhau” chống lại Chúa Giê-xu Christ và thậm chí đóng đinh Ngài, nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết và đưa Ngài lên ngôi trên trời. Mọi điều này là một phần của kế hoạch hoàn hảo của Đức Chúa Trời (Cong 2:23 Cong 3:18), vì vậy không cần thiết để sợ hãi.
Hội Thánh đầu tiên đã tin mạnh mẽ nơi sự tể trị của Đức Chúa Trời và công tác trọn vẹn của Ngài cho dân sự Ngài. Nhưng hãy chú ý rằng họ đã không để cho đức tin của mình nơi sự tể trị thiêng liêng huỷ hoại trách nhiệm con người, vì họ đã trung tín làm chứng và cầu nguyện. Chính khi dân sự Đức Chúa Trời ra khỏi sự quân bình và quá nhấn mạnh sự tể trị hoặc trách nhiệm là lúc Hội Thánh đánh mất quyền năng. Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở về những lời khôn ngoan của Augustine “Hãy cầu nguyện như thể mọi sự tuỳ thuộc nơi Đức Chúa Trời, và hãy làm việc như thể mọi sự tuỳ thuộc nơi bạn”. Đức tin nơi Chúa tối cao là một sự khích lệ to lớn cho dân sự Đức Chúa Trời để cứ hầu việc Chúa khi hoàn cảnh khó khăn.
Họ đã không cầu xin sự bảo vệ, họ cầu xin quyền năng. Họ đã không cầu xin lửa từ trời huỷ diệt kẻ thù (Lu 9:51-56), nhưng cầu xin quyền năng từ trời để rao giảng Lời Chúa và chữa lành kẻ bệnh tật (Mat 5:10-12,43-48). Ước muốn lớn lao của họ là sự dạn dĩ trong việc đương đầu với sự chống đối (Cong 4:17). Sự nhấn mạnh là về bàn tay Đức Chúa Trời đang hành động trong đời sống của Hội Thánh (c.28,30), không phải bàn tay con người làm việc cho Đức Chúa Trời. Sự cầu nguyện có niềm tin làm lay động quyền năng của Đức Chúa Trời và giúp cho bàn tay của Đức Chúa Trời chuyển động (Es 50:2 Es 64:1-8).
Sau cùng, hãy chú ý rằng họ muốn làm sáng danh Con Đức Chúa Trời (tôi tớ) Chúa Giê-xu Christ (Cong 4:27,30). Chính danh Ngài đã ban cho họ quyền năng để giảng dạy Lời Chúa và làm phép lạ, và chỉ danh Ngài xứng đáng được vinh hiển. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, không phải những việc làm của con người, là mục đích cao nhất của lời cầu nguyện được nhậm.
Sự nhậm lời của Đức Chúa Trời là làm rung động nơi họ đang nhóm lại và làm đầy dẫy dân sự một lần nữa bằng Thánh Linh Đức Chúa Trời (Cong 4:31). Điều này cho họ sự dạn dĩ họ cần để tiếp tục hầu việc Đức Chúa Trời bất chấp sự chống đối công khai. Đây không phải “lễ Ngũ Tuần thứ hai”, vì không thể có lễ Ngũ Tuần nào khác cũng như không thể có đồi Gô-gô-tha khác. Đó là một sự đầy dẫy Thánh Linh để trang bị cho các tín đồ hầu việc Đức Chúa Trời và giảng dạy cho dân chúng.
Chúng ta sẽ xem xét Cong 4:32-37 trong bài học kế tiếp, nhưng đáng chú ý là sự đầy dẫy mới của Thánh Linh đã tạo nên một sự đoàn kết sâu sắc hơn giữa vòng dân sự (Cong 4:34) và một ước muốn lớn hơn để hy sinh và chia sẻ với nhau. Họ vui hưởng “quyền năng lớn” và “ân điển lớn” đó phải là những đặc điểm của một Hội Thánh “lớn”. Điều này dẫn đến một sự gặt hái lớn những linh hồn cho Chúa.
“Lạy Chúa, Ngài là Đức Chúa Trời! ”. Quả là một lời tuyên ngôn đức tin và thật là một ứng dụng thực tiễn của thần học tốt! Tuy nhiên nếu đời sống của họ không chịu thuận phục sự điều khiển của Ngài, họ không thể cầu nguyện cách ấy. Sự dạn dĩ trong cầu nguyện là kết quả của sự trung tín trong đời sống và sự hầu việc.Quyền tối cao của Đức Chúa Trời không phải là một giáo lý trừu tượng mà chúng ta chấp nhận và bảo vệ. Đó là một chân lý sống mà chúng ta hành động theo và nhờ cậy cho mọi nhu cầu. Khi bạn trung thành với Chúa và đặt Ngài lên hàng đầu (Cong 4:19), vậy bạn có thể tin Ngài thành tín với bạn và hiểu thấu bạn.
Danh Chúa Giê-xu đã không mất đi quyền năng của nó, nhưng nhiều dân sự của Đức Chúa Trời đã đánh mất quyền năng của mình vì họ đã thôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời tối cao. “Không có gì nằm ngoài tầm của sự cầu nguyện trừ phi nó nằm ngoài ý muốn Đức Chúa Trời”. Tôi không biết ai đã nói vậy trước tiên, nhưng nhận định này tuyệt đối đúng. Tấn sĩ R.A.Torrey, nhà truyền đạo và là nhà giáo dục nổi tiếng đã nói: “Hãy cầu nguyện cho những việc lớn, hãy trông chờ những việc lớn, hãy làm việc vì những việc lớn, nhưng trên hết – hãy cầu nguyện”.
Hội Thánh đầu tiên đã cầu nguyện, và Đức Chúa Trời đã nhậm lời trong quyền năng lớn lao.
Đức Chúa Trời vẫn sẵn sàng đáp lời
Chúng ta sẽ cầu nguyện chớ?
5. HÃY COI CHỪNG CON RẮN! (Cong 4:32-5:16)
Sa-tan đã thất bại hoàn toàn trong nỗ lực của nó để dập tắt sự làm chứng của Hội Thánh. Tuy nhiên, kẻ thù này không bao giờ đầu hàng, nó chỉ thay đổi chiến lược của mình. Cách tiếp cận trước tiên của nó là tấn công Hội Thánh từ bên ngoài, hy vọng rằng sự bắt bớ và đe doạ sẽ làm các lãnh đạo sợ hãi. Khi cách ấy thất bại, Sa-tan quyết định tấn công Hội Thánh từ bên trong sử dụng những người thuộc nhóm thông công.
Chúng ta phải đối diện vấn đề Sa-tan là một kẻ thù khôn khéo. Nếu nó không thành công như “sư tử rống” (IPhi 5:8), vậy nó lại tấn công như “con rắn lừa dối” hay một “thiên sứ sáng láng” (IICo 11:3,13-14). Sa-tan vừa là một kẻ giết người vừa là một kẻ nói dối (Gi 8:44), và Hội Thánh phải được chuẩn bị cho cả 2 sự tấn công.
1. Sự rời rộng của các tín đồ (Cong 4:32-37)
Các tín đồ đã cầu nguyện và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đổ đầy trên họ và ban cho họ sức mới. Hội Thánh cậy nơi sự cầu nguyện có đức tin sẽ biết sự chúc phước của Thánh Linh trong chức vụ mình. Chúng ta có thể nói sao khi một Hội Thánh địa phương thật sự đầy dẫy Thánh Linh? Khi bạn quay lại sự kiện về sự đổ đầy đầu tiên tại lễ Ngũ Tuần (Cong 2:44-47), bạn khám phá ba đặc điểm nổi bật của một Hội Thánh được đầy dẫy Thánh Linh.
Trước hết, một Hội Thánh đầy dẫy Thánh Linh được hiệp nhất (Cong 2:44,46). Đây là một sự hiệp nhất thuộc linh do Đức Chúa Trời ban cho, không phải một sự đồng nhất về tổ chức do con người tạo ra. Hội Thánh là một cơ thể được hiệp lại bởi sự sống, và sự sống đó đến qua Thánh Linh. Dĩ nhiên, Hội Thánh phải có tổ chức vì nếu một cơ thể không có tổ chức, nó sẽ chết. Tuy nhiên, khi sự tổ chức bắt đầu ngăn trở sự sống và chức vụ thuộc linh, khi đó Hội Thánh trở nên như một tổ chức tôn giáo khác tồn tại để giữ cho chính nó hoạt động. Khi Thánh Linh hành động, dân Đức Chúa Trời sẽ được hiệp lại trong niềm tin giáo lý của họ, cũng như trong mối thông công sự ban cho và sự thờ phượng (Cong 2:32).
Thứ hai, một Hội Thánh đầy dẫy Thánh Linh được ngợi khen và sẽ dành được “sự ủng hộ của cả dân chúng” (Cong 2:47). Bất chấp sự chống đối của các quan chức, những thường dân được muốn hút đến với các tín đồ vì có điều gì đó mới mẻ và thích thú đang xảy ra. Khi các chức sắc tôn giáo tìm cách làm cho Hội Thánh nín lặng, chính sự sợ dân chúng của họ đã ngăn trở họ (Cong 4:21 Cong 5:26). Vâng một Hội Thánh đầy dẫy Thánh Linh sẽ lôi cuốn sự chú ý và sự khâm phục của dân chúng. Những người đói khát được biết Đức Chúa Trời.
Thứ ba, một Hội Thánh đầy dẫy Thánh Linh được thêm lên, vì mỗi ngày Chúa sẽ thêm những tín đồ mới cho Hội Thánh (Cong 2:41). Sự truyền giảng Phúc Âm sẽ không phải là công tác của một số ít người được chọn, nhưng là sự vui thích và chức vụ thường ngày của cả hội chúng. Trong Hội Thánh đầu tiên, mỗi thành viên đã tìm cách làm một chứng nhân hữu hiệu cho Chúa Giê-xu, bất kể nơi nào người ấy tình cờ có mặt. Không có gì ngạc nhiên khi Hội Thánh phát triển từ 120 người đến hơn 5.000 người chỉ trong một thời gian ngắn!
Sự tấn công của Sa-tan đã ảnh hưởng ra sao đến hoàn cảnh thuộc linh của Hội Thánh?Chẳng có gì cả! Sự kiện Phi-e-rơ và Giăng bị bắt, bị xét xử và bị đe doạ tuyệt đối không ảnh hưởng gì trên đời sống thuộc linh của Hội Thánh, vì Hội Thánh vẫn được hiệp nhất (Cong 4:32), được ngợi khen (Cong 4:33) và được thêm lên! (Cong 4:32).
Một chứng cớ về sự hiệp nhất của Hội Thánh là cách họ hy sinh và san sẻ với nhau.Khi Đức Thánh Linh hành động, sự ban cho là một phước hạnh chớ không phải một gánh nặng. Chúng ta phải nhớ rằng “chủ nghĩa cộng sản Cơ-đốc” này thật không giống với chủ nghĩa cộng sản về chính trị của thời đại chúng ta. Điều mà các tín đồ đã làm hoàn toàn mang tính tự nguyện (Cong 5:4) và được thúc đẩy bởi tình yêu thương. Có lẽ nhiều người trong số các tân tín hữu là những khách viếng thăm tại Giê-ru-sa-lem, đã đến vì những kỳ lễ, và họ đã phải nhờ vào những người bạn Cơ Đốc giúp đáp ứng những nhu cầu hằng ngày của họ.
Chúng ta cũng không nên nghĩ rằng mỗi tín đồ đã bán hết của cải mình và đem tiền đến các sứ đồ. Câu (Cong 4:34 chỉ ra rằng một số thuộc viên “thỉnh thoảng” bán một số tài sản và góp vào quỹ chung. Khi hội chúng có nhu cầu, Thánh Linh hướng dẫn ai đó bán món đồ nào đó và đáp ứng nhu cầu.
Mặc dù tinh thần hy sinh và lòng rộng rãi yêu thương của Hôị thánh đầu tiên xứng đáng cho sự thi đua của chúng ta, nhưng các tín đồ ngày nay không buộc phải bắt chước những hành động này. Những nguyên tắc về sự ban cho Cơ Đốc được phác thảo trong các thư tín, đặc biệt trong IICo 8:1-9:15 và không chỗ nào chúng ta được hướng dẫn đem tiền bạc mình và đặt nó nơi chân mục sư (Cong 4:35) như thể người ấy là một sứ đồ. Chính tinh thần về sự ban cho của họ là quan trọng, đối với chúng ta ngày nay chớ không phải “chủ nghĩa” của hệ thống của họ.
Giô-sép, được đặt tên là “Ba-na-ba” (con trai của sự yên ủi) được giới thiệu tại thời điểm này vì nhiều lý do. Trước hết ông là một người ban cho rời rộng và minh hoạ chính điều mà bác sĩ Lu-ca đã mô tả. Thứ hai, hành động cao quý của ông rõ ràng đã khiến A-na-nia và Sa-phi-ra đầy ghen tị nên họ đã cố gắng gây ấn tượng cho Hội Thánh bằng sự ban cho của mình và đi đến kết thúc bị giết. Thứ ba, Ba-na-ba sẽ có một chức vụ quan trọng trong Hội Thánh và được nhắc đến 25 lần trong sách Công vụ và 5 lần trong các thơ tín. Thật ra, chính Ba-na-ba là người đã khích lệ Phao-lô trong sự hầu việc Chúa đầu tiên của ông (Cong 9:26-27 Cong 11:19-30 Cong 13:1-5) và là người đã cho người bà con mình Giăng Mác sự khích lệ ông cần sau sự thất bại (Cong 13:13 Cong 15:36-41 Co 4:10).
Người Lê-vi không được phép làm chủ đất, vì vậy thật khó hiểu cách nào Ba-na-ba đã có được tài sản mà ông đã bán. Có lẽ luật đặc biệt đó (Dan 18:20 Phu 10:9) đã áp dụng chỉ trong xứ Palestine và tài sản này ở trong xứ Chíp-rơ, hoặc có lẽ các chức sắc tôn giáo đồi bại đã trở nên buông lỏng trong việc củng cố luật pháp.Có nhiều điều chúng ta không biết về Giô-sép Ba-na-ba, nhưng chúng ta thật biết điều này: ông là người đầy dẫy Thánh Linh, là sự khích lệ đối với Hội Thánh vì ông đã dâng tất cả cho Chúa không phải mọi tín đồ đều có thể giống Phi-e-rơ và Giăng, nhưng chúng ta đều có thể giống như Ba-na-ba và có một chức vụ về sự khích lệ.
2. Sự giải hình của A-na-nia và Sa-phi-ra (Cong 5:1-11)
George Mac Donald đã viết: “Phân nửa sự khốn khổ trên thế giới đến từ việc cố gắng tỏ ra, thay vì cố gắng trở nên điều mà một người không đạt được”. Tên mà Chúa Giê-xu đã dành cho hành động này là “sự giả hình”, đơn giản nghĩa là “mang một mặt nạ, đóng vai diễn viên”. Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thất bại không đạt được những lý tưởng của mình là sự giả hình, vì không có tín đồ nào sống đúng với mọi điều người ấy biết hoặc có trong Chúa. Sự giả hình là sự dối trá có chủ tâm, cố gắng làm cho người ta nghĩ chúng ta thuộc linh nhiều hơn thực trạng của mình.
Khi làm mục sư trong Hội Thánh đầu tiên của mình, Chúa đã hướng dẫn chúng tôi xây dựng một nhà thờ mới. Chúng tôi không phải là một hội chúng giàu có, vì vậy những kế hoạch của chúng tôi đã phải khiêm tốn. Vào một thời điểm trong việc lập kế hoạch, tôi đã đề nghị với kiến trúc sư rằng có lẽ chúng tôi có thể xây dựng một công trình đơn giản với một mặt tiền công phu hơn để làm cho nó có vẻ càng giống một nhà thờ sang trọng.
Ông ta đáp: “tuyệt đối không! Một nhà thờ đại diện cho lẽ thật và sự trung thực, và bất cứ nhà thờ nào mà tôi thiết kế sẽ không có một mặt tiền! Một toà nhà phải cho biết sự thật chớ không giả vờ là cái mà nó không phải vậy”.
Những năm sau đó, tôi tình cờ thấy bài thơ này, mà tự nó là một bài giảng:
Họ đã xây mặt tiền giống như thánh đường Mark
Hoặc giống như Tu viện Westminster
Và rồi, như thể lừa dối Chúa
Họ làm những phần phía sau tồi tàn.
Đó là tội lỗi của A-na-nia và Sa-phi-ra: mang một “vẻ ngoài” đáng yêu để che giấu tội lỗi tồi tệ trong đời sống họ, tội lỗi mà phải trả bằng mạng sống của họ.
A-na-nia nghĩa là “Đức Chúa Trời nhân từ”, nhưng ông biết rằng Đức Chúa Trời cũng thánh khiết và Sa-phi-ra nghĩa là “đẹp” nhưng lòng bà xấu xa với tội lỗi. Có thể một số người đã sửng sốt khi họ đọc biết rằng Đức Chúa Trời đã giết hai người chỉ vì họ nói dối về một việc mua bán và về việc dâng hiến cho Hội Thánh của mình.Nhưng khi bạn xem xét những đặc điểm có liên quan đến tội lỗi này bạn phải đồng ý rằng Đức Chúa Trời đã làm việc đúng bằng cách đoán phạt họ.
Đáng chú ý là Đức Chúa Trời đoán phạt tội lỗi nghiêm khắc ngay từ đầu một giai đoạn mới trong lịch sử cứu rỗi. Ngay sau khi đền tạm được dựng lên, Đức Chúa Trời đã giết Na-đáp và A-bi-hu vì tìm cách dâng cho Chúa “lửa lạ” (Le 10:1-20). Ngài cũng đã để A-can bị giết vì bất tuân mệnh lệnh sau khi Y-sơ-ra-ên đã vào Đất Hứa (Gios 7:1-26). Mặc dù Đức Chúa Trời chắc chắn không chịu trách nhiệm về tội lỗi họ, nhưng Ngài đã sử dụng những sự đoán phạt này như những lời cảnh cáo cho dân sự và ngay cả cho chúng ta (ICo 10:11-12).
Trước hết, tội lỗi của A-na-nia và Sa-phi-ra đã do Sa-tan tiếp sức (Cong 5:3) và đó là một vấn đề nghiêm trọng. Nếu Sa-tan không thể đánh bại Hội Thánh bằng những sự tấn công từ bên ngoài, nó sẽ tiến vào bên trong và làm việc (Cong 20:28-31). Nó biết cách lừa dối lòng và trí của các thuộc viên Hội Thánh, cả những Cơ Đốc nhân thật, và khiến họ làm theo những mệnh lệnh của nó. Chúng ta đừng quên rằng lời khuyên về giáp thuộc linh (Eph 6:10-18) đã được viết cho dân sự Đức Chúa Trời, không phải cho những người vô tín, vì chính Cơ Đốc nhân là những người ở trong nguy cơ bị Sa-tan lợi dụng để thực hiện những mục đích xấu xa của nó.
Oliver Wendell Holmes đã viết: “Tội lỗi có nhiều công cụ, nhưng sự nói dối là một cái cán vừa vặn cho tất cả”. Sa-tan là một kẻ nói dối và kẻ giết người (Gi 8:44). Nó đã nói dối với A-na-nia và Sa-phi-ra và qua đôi vợ chồng này, và sự nói dối dẫn đến sự chết của họ. Khi Đức Chúa Trời đoán phạt A-na-nia và Sa-phi-ra, Ngài cũng đoán phạt Sa-tan. Ngài để mọi người biết rằng Ngài sẽ không dung thứ sự lừa dối trong Hội Thánh Ngài.
Tội lỗi của họ bị thúc đẩy bởi sự kiêu ngạo, và kiêu ngạo là một tội lỗi mà Đức Chúa Trời đặc biệt ghét và đoán phạt (Ch 8:13). Chắc hẳn Hội Thánh đang ngợi khen Đức Chúa Trời về sự dâng hiến rời rộng mà Ba-na-ba đã đem đến thì Sa-tan thì thầm với đôi vợ chồng: “Các ngươi cũng có thể sưởi ấm trong thứ vinh hiển này! Các ngươi có thể khiến người khác nghĩ rằng các ngươi thuộc linh như Ba-na-ba! ”. Thay vì chống lại những cách tiếp cận của Sa-tan, họ đã đầu phục nó và vạch chiến lược của mình.
Chúa Giê-xu đã cho biết rõ rằng chúng ta phải cẩn thẩn cách chúng ta ban cho, kẻo vinh hiển thuộc về Đức Chúa Trời sẽ được dành cho chúng ta (Mat 6:1-4,19-34). Người Pha-ri-si rất giỏi gợi sự chú ý vào những sự ban cho của họ, và họ đã nhận những lời khen ngợi của con người, nhưng đó là tất cả những gì họ đã nhận.Bất cứ điều gì chúng ta có, Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta, chúng ta là những quản gia, không phải những chủ nhân. Chúng ta phải sử dụng điều Ngài ban cho chúng ta vì vinh hiển của Ngài mà thôi (Gi 5:44).
Daniel Defoe đã gọi sự kiêu ngạo là “nhà quý tộc và tổng thống đầu tiên của địa ngục”.Thật vậy, chính sự kiêu ngạo đã biến Luciphe thành Sa-tan (Es 14:12-15) và chính sự kiêu ngạo (“ngươi sẽ bằng Đức Chúa Trời! ”) đã khiến tổ phụ đầu tiên của chúng ta phạm tội (Sa 3:1-24). Sự kiêu ngạo mở cửa cho mọi tội lỗi khác, vì một khi chúng ta quan tâm nhiều về danh tiếng của mình hơn bản tính thì không có mục đích nào cho việc chúng ta sẽ làm ngoài ra chỉ làm cho chính mình “có vẻ tốt đẹp” trước những người khác.
Đặc điểm thứ ba của tội lỗi của họ là đặc biệt gian ác, tội lỗi của họ đã được điều hướng chống lại Hội Thánh Đức Chúa Trời. Chúng ta có lý do để tin rằng A-na-nia và Sa-phi-ra là những tín đồ. Mức thuộc linh của Hội Thánh thời ấy cao đến nỗi thật đáng ngờ khi “một người chỉ tự xưng là tín đồ” có thể gia nhập vào nhóm thông công mà không bị phát hiện ra. Việc họ có thể nói dối Thánh Linh (Cong 5:3) và thử Thánh Linh (c.9) cho thấy rằng họ đã có Thánh Linh Đức Chúa Trời sống ở trong.
Đức Chúa Trời yêu Hội Thánh Ngài và ghen với Hội Thánh vì Hội Thánh đã được mua bằng huyết Con Đức Chúa Trời (Cong 20:28 Eph 5:25) và đã đặt trên đất để làm sáng danh Ngài và thực hiện công việc Ngài. Sa-tan muốn tiêu diệt Hội Thánh, và cách dễ dàng nhất để làm điều đó là sử dụng những người trong nhóm thông công.Nếu Phi-e-rơ không sáng suốt, A-na-nia và Sa-phi-ra đã trở nên những người có ảnh hưởng trong Hội Thánh! Sa-tan sẽ hành động qua họ để hoàn thành những mục đích của nó!
Hội Thánh là “trụ và nền của chân lý” (ITi 3:15) và Sa-tan tấn công Hội Thánh bằng những sự dối trá của nó. Hội Thánh là đền thờ của Đức Chúa Trời nơi Ngài ngự (ICo 3:16), và Sa-tan cũng vào và ở đó nữa. Hội Thánh là quân đội của Đức Chúa Trời (IITi 2:1-4) và Sa-tan tìm cách đưa vào trong hàng ngũ nhiều kẻ phản bội như nó có thể. Hội Thánh được an toàn bao lâu Sa-tan tấn công từ bên ngoài, nhưng khi nó tiến vào bên trong, Hội Thánh ở trong nguy hiểm.
Thật dễ cho chúng ta lên án A-na-nia và Sa-phia-ra về sự không trung thực của họ, nhưng chúng ta cần xét đời sống mình để xem sự tuyên bố của chúng ta có được hổ trợ bằng hành động thực tiễn không. Chúng ta có thật tâm với những điều chúng ta cầu nguyện giữa công chúng không? Chúng ta có hát những Thánh Ca và Phúc Âm ca một cách thành tâm hay theo thông lệ? “Dân này lấy môi miếng tôn kính ta nhưng lòng chúng nó xa ta lắm” (Mat 15:8). Nếu Đức Chúa Trời giết “những kẻ lừa dối trong tôn giáo” ngày nay, bao nhiêu thuộc viên Hội Thánh sẽ bị bỏ?
Điều được mô tả trong chương này không phải là một trường hợp về kỷ luật Hội Thánh.Đúng hơn đó là một guơng về sự đoán xét cá nhân của Đức Chúa Trời. “Chúa sẽ xét đoán dân mình. Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay” (He 10:30-31). Nếu A-na-nia và Sa-phi-ra xét đoán tội lỗi của chính họ, Đức Chúa Trời sẽ không xét đoán họ (ICo 11:31), nhưng họ đã đồng ý nói dối, và Đức Chúa Trời đã phải đối phó với họ.
A-na-nia đã chết và bị chôn, và Sa-phi-ra thậm chí đã không biết điều đó! Sa-tan luôn giữ lấy tôi tớ nó trong sự tối tăm, trong khi Đức Chúa Trời hướng dẫn tôi tớ Ngài trong sự sáng (Gi 15:15). Phi-e-rơ đã tố cáo bà về tội thử Thánh Linh Đức Chúa Trời, đó là cố tình bất tuân Đức Chúa Trời và xem Đức Chúa Trời sẽ đi bao xa (Xu 17:2 Phu 6:16). Họ thật sự coi thường Đức Chúa Trời và thách thức Ngài hành động_Và Ngài đã hành động, bằng sự nhanh chóng và dứt khoát. “Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi” (Mat 4:7)
Chúng ta phải nhớ rằng tội lỗi của họ không phải trong việc cướp đi của Đức Chúa Trời tiền bạc nhưng trong việc nói dối với Ngài và cướp đi của Ngài sự vinh hiển. Họ không bị buộc phải bán tài sản và sau khi đã bán đi, họ không bị buộc phải dâng bất cứ khoản tiền nào cho Hội Thánh (Cong 5:4). Sự ham muốn danh tiếng của họ đã cưu mang tội lỗi trong lòng họ (Cong 5:4,9), và tội lỗi đó cuối cùng đã sinh ra sự chết (Gia 1:15).
3. Chức vụ của các sứ đồ (Cong 5:12-16)
Chúng ta đã biết rằng Hội Thánh đầy dẫy Thánh Linh được hiệp nhất, được ngợi khen và được thêm lên. Sa-tan muốn chia rẽ Hội Thánh, sỉ nhục Hội Thánh và làm Hội Thánh sa sút, và nó sẽ làm vậy, nếu chúng ta cho phép nó.
Nhưng Hội Thánh được mô tả ở đây hoàn toàn thắng hơn những sự tấn công của Sa-tan! Dân sự vẫn được hiệp nhất (Cong 5:12), được ngợi khen (Cong 5:13) và được thêm lên (Cong 5:14). Nhiều người đã được thêm vào cho Chúa, và lần đầu tiên, Lu-ca đề cập sự cứu rỗi phụ nữ. Cả trong sách Phúc Âm và sách Công vụ của mình, Lu-ca có nhiều điều để nói về phụ nữ và mối liên hệ của họ với Đấng Christ và Hội Thánh. Có ít nhất 12 chi tiết trong Công vụ nói về phụ nữ, khi Lu-ca trình bày vai trò chính mà phụ nữ đóng góp trong Hội Thánh của sứ đồ. Đây là điều đáng chú ý khi bạn xem xét quan điểm chung về phụ nữ trong nền văn hoá thời bấy giờ (Ga 3:26-28).
Đức Chúa Trời đã ban cho các sứ đồ quyền năng làm các phép lạ lớn. Mặc dù đúng là một số thuộc viên bình thường đã thực hiện những quyền năng lạ lùng (Ga 6:8), nhưng chủ yếu là các sứ đồ đã làm phép lạ. Những “dấu và sự lạ” này là cách Đức Chúa Trời chứng thực cho chức vụ của họ (He 2:4 IICo 12:12 Ro 15:18-19).
Giống như có những sự đoán phạt đặc biệt ngay từ đầu một kỷ nguyên mới, thì cũng có những phép lạ đặc biệt. Trong sách Sáng thế ký, chúng ta không tìm thấy dân sự Đức Chúa Trời làm phép lạ. Nhưng vào đầu thời kỳ luật pháp, Môi-se đã thực hiện những dấu và việc lạ lớn. Ê-li và Ê-li-sê là những người làm phép lạ vào đầu kỷ nguyên lớn của các tiên tri, Chúa Giê-xu và các sứ đồ đã làm dấu và sự lạ khi thời kỳ Phúc Âm mở đầu. Mỗi thời kỳ Đức Chúa Trời mở một cánh cửa mới. Ngài đã kéo sự chú ý của con người vào đó. Đó là cách Ngài phán “Hãy làm theo những lãnh đạo này, vì ta đã sai họ”.
Những sự lạ lớn lao được các sứ đồ thực hiện là sự ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời rằng họ sẽ làm “những việc lớn hơn” trong sự nhậm lời cầu nguyện có đức tin (Gi 14:13-14). Khi Chúa Giê-xu làm phép lạ suốt chức vụ Ngài trên đất, Ngài có trong trí ba mục đích: 1. Bày tỏ sự thương xót và đáp ứng nhu cầu của con người 2. Trình ra uỷ nhiệm thư của Ngài với tư cách Con Đức Chúa Trời và 3.Truyền đạt chân lý thuộc linh. Chẳng hạn, khi Ngài nuôi 5.000 người, phép lạ đã đáp ứng nhu cầu thuộc thể của họ, bày tỏ Ngài là Con Đức Chúa Trời, và cho Ngài cơ hội giảng một bài giảng về Bánh Sự Sống (Gi 6:1-71).
Các phép lạ của sứ đồ đã theo một kiểu mẫu giống nhau. Phi-e-rơ và Giăng đã chữa lành người ăn xin què và đáp ứng nhu cầu của ông ta, nhưng Phi-e-rơ đã sử dụng phép lạ ấy để rao ra một bài giảng về sự cứu rỗi và chứng minh với dân chúng cùng hội đồng rằng ông và Giăng thật sự là tôi tớ của Đấng Christ hằng sống.Một trong những tiêu chuẩn đối với một sứ đồ là người ấy đã nhìn thấy Đấng Christ sống lại (Cong 1:22 ICo 9:1), và vì không ai có thể tuyên bố kinh nghiệm ấy hôm nay, nên không có sứ đồ trong Hội Thánh. Các sứ đồ và tiên tri đã đặt nền cho Hội Thánh (Eph 2:20), và các mục sư, giáo viên, cùng những người rao giảng Phúc Âm đang xây trên nền ấy. Nếu không có sứ đồ, không thể có “dấu hiệu của một sứ đồ” như đã tìm thấy trong sách Công vụ (IICo 12:12).
Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời bị giới hạn và không còn làm phép lạ cho dân Ngài! Nhưng điều này nghĩa là nhu cầu về việc làm phép lạ đã qua đi. Giờ đây chúng ta đã có Lời Đức Chúa Trời được trọn và chúng ta kiểm chứng những người giảng dạy bằng sứ điệp của họ chớ không phải bằng phép lạ (IGi 2:18-29 IGi 4:16). Và chúng ta phải nhớ rằng Sa-tan là một kẻ lừa dối và đủ khả năng dụ dỗ những người không thận trọng. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, bất cứ tiên tri nào đã làm phép lạ nhưng đồng thời đã dẫn dân sự đi xa Lời Đức Chúa Trời đều bị xem là tiên tri giả và đều bị giết (Phu 13:1-18). Điều quan trọng không phải là những phép lạ, nhưng sứ điệp người ấy có đúng với Lời Đức Chúa Trời hay không.
Một thính giả đài phát thanh đã viết thư cho tôi và muốn tranh luận vấn đề này với tôi, một mực cho rằng ngày nay có những trường hợp con người được sống lại từ cõi chết. Tôi đã viết cho anh ta một bức thư đàng hoàng và yêu cầu anh gởi tôi những lời chứng về những điều làm chứng này, thứ chứng cớ mà có thể được trình bày trong toà án. Anh ta đã hồi âm và thành thực thừa nhận rằng thứ chứng cớ đó không thể có, nhưng anh ta vẫn tin điều đó vì anh đã nghe một mục sư đài truyền hình nói vậy. Đa số các phép lạ được chép trong Kinh Thánh thể hiện công khai cho mọi người xem thấy, và sẽ không khó khăn gì để chứng minh chúng trong một toà án luật pháp.
Phi-e-rơ và các sứ đồ khác thấy mình thi hành chức vụ như Chúa họ đã làm, với dân chúng đến từ mọi nơi, đem đến những người bệnh hoạn và tàn tật (Mac 1:45 Mac 2:8-12 Mat 4:23-25). Mười hai sứ đồ cảm thấy rất khó đi ra đường, vì dân chúng tụ họp quanh họ và đặt trước mặt họ những người bệnh trên giường nhỏ. Một số người thậm chí đã có niềm tin mê tín khi cho rằng bóng của Phi-e-rơ cũng có thể chữa lành.
Điều thật ý nghĩa là tất cả những người này đã được chữa lành. Không có sự thất bại hoặc không ai bị đuổi đi vì người đó “không có đức tin để được chữa lành”. Đây là những ngày của quyền năng lớn khi Đức Chúa Trời phán với dân Y-sơ-ra-ên và cho họ biết rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét thật sự là Đấng Mê-si-a và Cứu Chúa của họ. “Người Do Thái đòi một dấu lạ” (ICo 1:22) và Đức Chúa Trời đã ban những dấu lạ cho họ. Điều quan trọng không phải là sự chữa lành những kẻ tàn tật, nhưng là sự chinh phục những linh hồn hư mất, khi nhiều người được thêm vào nhóm thông công. Thánh Linh đã ban cho họ quyền năng để làm những sự lạ và quyền năng để làm chứng (Cong 1:8), vì phép lạ xa rời Lời Đức Chúa Trời thì không thể cứu được những kẻ hư mất.
Phép lạ vĩ đại hơn hết là sự biến đổi một tội nhân hư mất thành con cái Đức Chúa Trời bởi ân điển Đức Chúa Trời. Đó là phép lạ đáp ứng nhu cầu lớn nhất, tồn tại lâu dài nhất, và trả một giá cao nhất - huyết của Con Đức Chúa Trời.
Và đó là một phép lạ chúng ta đều có thể góp phần khi chúng ta chia sẻ sứ điệp của Phúc Âm, “quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Ro 1:16).
4. Chân lý và những kết quả (Cong 5:17-42)
Sau lễ Ngũ Tuần, sứ điệp về sự phục sinh của Chúa Giê-xu đã lan nhanh trong Giê-ru-sa-lem khi các chứng nhân được Thánh Linh ban quyền năng đã chia sẻ Phúc Âm với những người hư mất. Những dấu và sự lạ kèm theo việc rao giảng Đạo, và không ai có thể phủ nhận rằng Đức Chúa Trời đã hành động trong một cách mới giữa vòng dân sự xưa của Ngài.
Nhưng không phải mọi người đều vui sướng với thành công của Hội Thánh. “Thể chế uy tôn giáo” đã chống đối chức vụ của Chúa Giê-xu, và sau đó đã đóng đinh Ngài, sử dụng cùng một phương cách thù địch đối với các sứ đồ. Chúa Giê-xu đã phán: “Nếu họ đã bắt bớ ta, họ cũng sẽ bắt bớ các ngươi. Họ sẽ đuổi các ngươi ra khỏi nhà hội. Vâng, giờ đến, khi ai giết các ngươi sẽ tưởng rằng mình hầu việc Đức Chúa Trời” (Gi 15:20 Gi 16:2). Những lời này đã bắt đầu được ứng nghiệm.
Đó là cuộc xung đột lâu đời giữa chân lý sống và truyền thống chết. Rượu mới không thể được giữ trong bầu da cũ, cũng như miếng vải mới không thể được vá vào áo sờn cũ (Mat 9:14-17). Thánh tử đạo người Anh – Hugh Latimer đã nói: “Bất cứ khi nào bạn thấy sự bắt bớ, có hơn một khả năng chân lý ở phía người bị bắt bớ”.
Chúng ta thấy trong bản tường thuật này bốn đáp ứng khác nhau đối với lẽ thật của Đức Chúa Trời, những đáp ứng chúng ta vẫn thấy ngày nay.
Hội đồng: công kích chân lý (Cong 5:17-28). Thầy tế lễ cả cùng các cộng sự của ông ta đã có ba lý do để bắt giam các sứ đồ (lúc này đó là tất cả các sứ đồ) và đem họ đến xét xử. Trước tiên, Phi-e-rơ và Giăng đã không làm theo những lệnh chính thức ngừng việc rao giảng nhân danh Chúa Giê-xu. Họ phạm tội coi thường luật pháp quốc gia. Thứ hai, sự làm chứng của Hội Thánh đã bẻ bác các giáo lý được người Sa-đu-sê tán thành, đưa ra mọi chứng cứ rằng Chúa Giê-xu vẫn sống. Thứ ba, các chức sắc tôn giáo đầy sự đố kỵ (“sự phẫn nộ”) về thành công lớn của những người không có kinh nghiệm và không được uỷ quyền (Mat 27:18 Cong 13:45). Những truyền thống của các tổ phụ đã không lôi cuốn nhiều sự chú ý đó hay đạt được nhiều môn đệ đó trong một thời gian ngắn như vậy. Thật đáng kinh ngạc mức độ đố kỵ có thể được che giấu dưới sự trá hình của việc “bảo vệ niềm tin”.
Các sứ đồ đã không chống cự sự bắt giữ hay tổ chức một sự kháng nghị công khai. Họ lặng lẽ đi theo người lính canh đền thờ và thật sự trải qua vài giờ trong khám công. Nhưng đang đêm, một thiên sứ đã giải thoát cho họ và bảo họ trở lại với việc làm chứng của mình trong đền thờ. (Dĩ nhiên người Sa-đu-sê không tin nơi các thiên sứ. (Cong 23:8). Trong sách Công vụ, bạn sẽ tìm thấy nhiều trường hợp về chức vụ của thiên sứ khi Đức Chúa Trời chăm sóc dân sự Ngài (Cong 8:26 Cong 10:3 Cong 12:7-11,23 Cong 27:23). Các thiên sứ là tôi tớ giúp đỡ chúng ta, khi chúng ta hầu việc Chúa (He 1:14).
Như trong sự giải cứu Phi-e-rơ (Cong 12:7-11), các lính canh và các chức sắc đều không biết rằng những tù nhân đã được giải cứu. Bạn tức cười khi hình dung những vẻ ngạc nhiên trên gương mặt các lính canh lúc họ khám phá rằng hầu hết các tù nhân quan trọng của họ đã đi mất. Và chỉ hãy hình dung sự kinh ngạc của các nghị viên đố kỵ của toà Công Luận khi họ nghe sự tường thuật! Ở đây họ tìm cách ngăn chận phép lạ, nhưng những hành động của họ chỉ làm nhân lên những phép lạ!
Quả là một sự tương phản giữa các sứ đồ và các thành viên hội đồng. Hội đồng là những người có học thức, được phong chức và được chấp nhận, nhưng họ đã không có chức vụ của quyền năng. Các sứ đồ là những thường dân, nhưng quyền năng Đức Chúa Trời đã hành động trong đời sống họ. Hội đồng ra sức tìm cách bảo vệ chính họ và những truyền thống chết của họ, trong khi các sứ đồ liều mạng sống mình để chia sẻ Lời Đức Chúa Trời hằng sống. Hội Thánh năng động đang vui hưởng những điều mới mẻ. Hội đồng chết đang bảo vệ những điều cũ kỹ.
Bạn tìm thấy một sự khác nhau về những cảm xúc trong phân đoạn này: sự đố kỵ (Cong 5:17), sự bối rối (Cong 5:24), và sự sợ hãi (Cong 5:26 Cong 4:21 Mat 21:26). Tuy nhiên, khi các sứ đồ bước vào, thầy tế lễ cả dạn dĩ tố cáo họ tội coi thường luật pháp và gây rối. Ông thậm chí không sử dụng danh Chúa Giê-xu, nhưng thay vào đó đã nói “danh này” và “máu người này” e rằng bằng cách nói danh Ngài, ông sẽ làm ô uế môi miệng mình hoặc khiến cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời giáng xuống (Gi 15:21).
Nhưng ngay cả lời buộc tội đầy căm ghét này đã là một sự thừa nhận rằng Hội Thánh đang gia tăng và công việc đã được thực hiện tốt! Cơn thạnh nộ của con người đã đem đến cho Chúa sự ngợi khen (Thi 76:10). Thầy tế lễ thượng phẩm nhận ra rằng nếu các sứ đồ đúng, vậy các chức sắc Do Thái đã sai lầm trong việc kết án Chúa Giê-xu. Thật vây, nếu các sứ đồ đúng, vậy hội đồng đã phạm tội về huyết Ngài (Mat 27:25 ITe 2:14-16). Khi “việc xét xử” này diễn tiến, các sứ đồ trở nên những quan án và hội đồng trở nên các bị cáo.
Các sứ đồ: xác nhận chân lý (Cong 5:29-32) Các sứ đồ đã không thay đổi sự tin chắc của họ (Cong 4:19-20). Họ vâng lời Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài giải quyết hậu quả. Họ không thể hầu việc hai chủ, và họ sẵn sàng tuyên bố họ đứng về phía ai. Nếu là những nhà ngoại giao thay vì những đại sứ (IICo 5:20), họ đã có thể làm hài lòng mọi người và thoát khỏi trận đòn. Nhưng họ đã đứng vững vì Chúa, và Ngài ưu ái sự can đảm cùng đức tin của họ.
Họ cũng đã không thay đổi sứ điệp mình (Cong 5:30-32). Phi-e-rơ đã buộc tội các chức sắc về sự chết của Chúa Giê-xu (Cong 3:13-14 Cong 4:10), và dạn dĩ xác nhận một lần nữa rằng Chúa Giê-xu đã được khiến sống lại từ cõi chết. Chúa Giê-xu không chỉ được khiến sống lại từ cõi chết, nhưng Ngài cũng được Đức Chúa Trời tôn cao lên trời. Công việc của Đức Thánh Linh trong những ngày đương thời là chứng cớ Chúa Giê-xu đã trở về trời và sai Thánh Linh Ngài như Ngài đã hứa. Người Sa-đu-sê chắc chắn đã không vui mừng nghe các sứ đồ nói về sự sống lại từ cõi chết.
Chúa Giê-xu ở bên hữu Đức Chúa Trời là một chủ đề chính trong Kinh Thánh. Dĩ nhiên bên hữu là nơi tôn trọng, quyền năng, quyền thế. Thi 110:1 là lời tiên tri cơ bản, nhưng có nhiều chỗ đề cập: Cong 2:33-34 Cong 5:31 Mat 22:44 Mac 14:62 Mac 16:19 Ro 8:34 Eph 1:20 Co 3:1 He 1:3 He 8:1 He 10:12 He 12:2 IPhi 3:22. Chẳng bao lâu, Ê-tiên sẽ thấy Chúa Giê-xu đứng bên hữu Đức Chúa Trời (Cong 7:55).
Trong bài giảng thứ hai của mình, Phi-e-rơ đã gọi Chúa Giê-xu là “Chúa của sự sống” (Cong 3:15) và ở đây ông gọi Ngài là “Vua và Cứu Chúa”. Từ Vua có nghĩa là “một người tiên phong, người dẫn đường, người khởi đầu”. Toà Công Luận không quan tâm đến việc mở đầu điều gì mọi điều họ muốn làm là bảo vệ những quyền lợi được trao cho và giữ mọi sự chính xác như cũ (Gi 11:47-52). Là “Chúa của sự sống”, Chúa Giê-xu cứu chúng ta và dẫn chúng ta vào những từng trải thú vị khi chúng ta bước đi “trong đời mới” (Ro 6:4). Luôn luôn có những lối mới để đi tiên phong.
He 2:10 gọi Chúa là “Đấng Tiên Phong (người đứng đầu) của sự cứu rỗi, vì kinh nghiệm về sự cứu rỗi của chúng ta phải không bao giờ trở nên tĩnh tại. Đời sống Cơ Đốc không phải là một bãi đậu xe đó là một bệ phóng! Chỉ được tái sinh thì chưa đủ chúng ta cũng phải tăng trưởng thuộc linh (IIPhi 3:18) và tấn tới trong cách ăn ở mình. Trong He 12:2 Chúa Giê-xu được gọi là “Đấng Tiên Phong” (tác giả), y nói rằng Ngài dẫn chúng ta vào những từng trải mới thử nghiệm đức tin chúng ta và giúp nó tăng trưởng. Một trong những chủ đề chính của Hê-bơ-rơ là “chúng ta hãy tấn tới sự trưởng thành” (He 6:1) và chúng ta không thể trưởng thành nếu chúng ta không đi theo Đấng Christ, Đấng Tiên Phong, vào trong những lãnh vực mới của đức tin và chức vụ.
Danh hiệu “Cứu Chúa” đã không mới mẻ đối với những thành viên của hội đồng, vì từ này được sử dụng cho các thầy thuốc (người cứu mạng sống con người), các triết gia (những người giải quyết vấn đề của con người) và các chính khách (những người cứu con người khỏi nguy hiểm và chiến tranh). Từ đó còn được áp dụng cả cho Hoàng Đế. Nhưng chỉ có Chúa Giê-xu là Cứu Chúa thật và hằng sống, Đấng cứu khỏi tội, sự chết và sự đoán phạt tất cả những ai sẽ tin nhận Ngài.
Phi-e-rơ một lần nữa kêu gọi dân tộc ăn năn (Cong 2:36 Cong 3:19-26 Cong 4:10-12) và hứa rằng sự ban cho của Thánh Linh sẽ dành cho mọi kẻ “vâng lời Ngài”. Điều này không ngụ ý rằng sự ban cho của Thánh Linh là một phần thưởng cho sự vâng lời, vì một sự ban cho có thể được nhận chỉ bởi đức tin. Nhóm từ “vâng lời Ngài” giống như “vâng theo đạo” ở Cong 6:7 và nghĩa là “vâng theo sự kêu gọi của Đức Chúa Trời và tin nhận Con Đức Chúa Trời”. Đức Chúa Trời không đề nghị rằng những tội nhân ăn năn và tin Ngài ra lệnh điều đó (Cong 17:30).
Đó là một lời chứng dạn dĩ mà các sứ đồ đã trình bày trước toà án tôn giáo Do Thái tối cao. Thánh Linh Đức Chúa Trời đã giúp họ và họ không sợ sệt. Xét cho cùng, Chúa Giê-xu đã hứa ở cùng họ, qua Thánh Linh Ngài ban quyền năng cho họ để làm chứng và hầu việc. Họ là những chứng nhân về sự phục sinh của Ngài (Cong 1:22 Cong 2:24,32 Cong 3:15,26 Cong 4:10) và Ngài sẽ giúp họ thành công.
Ga-ma-li-ên: lẫn tránh chân lý (Cong 5:33-39) Ga-ma-li-ên là một người Pha-ri-si có lẽ đã không muốn chứng kiến người Sa-đu-sê dành bất cứ thắng lợi nào. Ông là một học giả rất được dân chúng kính trọng, có phần phóng khoáng trong những áp dụng của mình về luật pháp, và rõ ràng có tính ôn hoà trong cách tiếp cận những vấn đề. Người Do Thái đã nói: “khi trưởng lão Rabba Gamalien chết, thì vinh quang của luật pháp đã chấm dứt và sự thánh khiết cùng sự kiêng ăn đã chết”. Phao-lô đã được Ga-ma-li-ên đào tạo (Cong 22:3). “Lời khuyên” của Ga-ma-li-ên thiếu khôn ngoan và nguy hiểm, nhưng Đức Chúa Trời đã dùng nó để cứu các sứ đồ khỏi sự chết. Việc người Sa-đu-sê đã để ý những lời của một người Pha-ri-si cho thấy Ga-na-li-ên và một người đặc biệt dường nào.
Mặc cho sự kiện Ga-ma-li-ên cố gắng sử dụng những cảm xúc lô-gic ôn hoà hơn là nóng cháy, cách tiếp cận của ông vẫn sai lầm. Trước hết, ông đã tự động phân loại Chúa Giê-xu với hai kẻ nổi loạn, có nghĩa là ông đã chối bỏ chứng cớ. Đối với ông, “Giê-xu ở Na-xa-rét” này chỉ là người Do Thái nhiệt huyết khác, tìm cách giải phóng dân tộc khỏi La Mã. Nhưng Thêu-đa hay Giu-đa có bao giờ làm những việc Chúa Giê-xu đã làm chăng? Họ có được khiến sống lại từ cõi chết không? Với một sự bóp méo khôn khéo về lô-gic dỏm, Ga-ma-li-ên đã thuyết phục hội đồng tin rằng thật sự chẳng có gì lo lắng! Những kẻ gây rối đến và đi, vậy hãy kiên nhẫn.
Hơn nữa, Ga-ma-li-ên đã cho rằng “lịch sử lặp lại chính nó”. Thêu-đa và Giu-đa đã nổi loạn, bị đánh bại và những kẻ theo họ đã tản lạc, hãy cho những người Ga-li-lê này đủ thời gian và họ cũng sẽ giải tán, và các bạn sẽ không bao giờ nghe về Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét lần nữa. Trong khi có một số người nghiên cứu Kinh Thánh nói rằng họ thấy “những chu kỳ” trong lịch sử, những “chu kỳ” này có thể chỉ có trong mắt của những người nhìn xem. Bằng cách lựa chọn cẩn thận chứng cớ của mình, bạn có thể chứng minh hầu hết bất cứ điều gì từ lịch sử. Sự giáng sinh, đời sống, sự chết, và sự phục sinh của Chúa Giê-xu chưa bao giờ xảy ra trước đó và sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa. Đức Chúa Trời đã thâm nhập vào lịch sử và viếng thăm trái đất này!
Ga-ma-li-ên cũng có quan niệm sai lầm rằng, nếu điều gì đó không thuộc Đức Chúa Trời, nó phải thất bại. Nhưng quan niệm này không xét đến bản chất tội lỗi của con người và sự hiện diện của Sa-tan trong thế gian. Mark Twain đã nói rằng một sự dối trá chạy quanh thế giới trong khi sự thật vẫn còn đang xỏ chân vào giày. Cuối cùng, chân lý của Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng nhưng khi ấy, Sa-tan có thể rất mạnh và ảnh hưởng đến vô số người.
Thành công không phải là sự kiểm nghiệm nào của chân lý, mặc cho những kẻ theo chủ nghĩa thực dụng nói gì. Các giáo phái giả thường phát triển nhanh hơn Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Thế gian này là một chiến trường mà trên đó chân lý và sự sai lầm ở trong cuộc chiến một mất một còn, và thường có vẻ như thể chân lý đang ở “trên đoạn đầu đài” trong khi điều sai trái ngạo mạn ngồi trên ngai. Hội đồng phải chờ đợi bao lâu để thấy phong trào mới sẽ tồn tại hay không? Họ sẽ sử dụng những thử nghiệm nào để xác định nó thành công hay không? Cho dù bạn nhìn xem nó thế nào, “sự khôn ngoan” của Ga-ma-li-ên là dại dột.
Nhưng khuyết điểm lớn nhất về lời khuyên của ông là động cơ của ông: ông khuyến khích tính trung lập khi hội đồng đang đối diện với một vấn đề sống, chết đòi hỏi sự quyết định. “Hãy chờ và xem! ” thật sự không phải là tính trung lập đó là một quyết định rõ ràng. Ga-ma-li-ên đang bỏ phiếu “không”, nhưng lại giảng rằng “có thể ngày nào đó”.
Có nhiều vấn đề trong cuộc sống không đòi hỏi một quyết định dũng cảm của lương tâm. Tôi có một người bạn trong Đại chủng viện là người đã trở nên bối rối về mặt cảm xúc vì anh ta tìm cách thực hiện quyết định một vấn đề về lương tâm, bao gồm ngũ cốc anh ăn vào bữa điểm tâm và tuyến đường anh chọn khi anh đi bộ đến cửa hàng. Nhưng khi chúng ta đối diện một vấn đề nghiêm túc về lương tâm chúng ta tốt hơn hết là nên xem xét chứng cớ cẩn thận. Điều này, Ga-ma-li-ên đã từ chối làm. Ông đã đánh mất một cơ hội cho sự cứu rỗi vì ông đã biến buổi họp thành một cuộc thảo luận tầm thường về những người Do Thái nổi dậy.
Chúa Giê-xu đã cho biết rằng không thể trung lập về Ngài và sứ điệp của Ngài “Ai không ở với ta, thì nghịch cùng ta ai không thâu hiệp với ta thì tan ra” (Mat 12:30). Những thành viên của hội đồng đã biết những lời của Ê-li: “Các ngươi sẽ dao động giữa hai quan điểm cho đến chừng nào?” (IVua 18:21). Có những lúc trung lập nghĩa là thực hiện một quyết định lặng lẽ (có lẽ hèn nhát) khước từ đề nghị của Đức Chúa Trời. Thật ý nghĩa là nhóm người đầu tiên được kể tên giữa vòng những kẻ đi đến địa ngục là “những kẻ sợ hãi” (Kh 21:8) những người biết chân lý nhưng sợ tuyên bố quan điểm của mình.
Nếu Ga-ma-li-ên thật sự sợ đánh giặc với Đức Chúa Trời, tại sao ông không thành thật kiểm tra chứng cớ, siêng năng nghiên cứu Kinh Thánh, lắng nghe các chứng nhân, và cầu xin Đức Chúa Trời sự khôn ngoan? Đây là cơ hội của một đời người! Daniel Defoe, tác giả của cuốn sách “Robinson Crusoe” đã tuyên bố rằng không ai sinh ra là một kẻ hèn nhát. Ông viết: “Chân lý tạo nên một con người can đảm, và tội lỗi làm cho người can đảm ấy thành một kẻ hèn nhát”. Điều mà một số người gọi là sự thận trong, Đức Chúa Trời sẽ gọi là sự hèn nhát. Các sứ đồ là những đại sứ thật, Ga-ma-li-ên thật sự chỉ là một “chính khách tôn giáo”.
Hội Thánh: rao chân lý (Cong 5:40-42) Phía hội đồng muốn giết các sứ đồ (Cong 5:33), nhưng lời nói của Ga-ma-li-ên đã làm dịu cơn bạo lực của họ. Trong một bước thoả hiệp, hội đồng quyết định sai đánh đòn các sứ đồ vì vậy những người này đã bị dành cho 39 roi (Phu 25:1-3 IICo 11:24). Sau đó các sứ đồ bị buộc chấm dứt nói nhân danh Chúa Giê-xu nếu không điều gì đó tồi tệ sẽ xảy đến cho họ (Cong 2:22 Cong 3:6,16 Cong 4:10,12,17-18,30).
Khi người ta chối từ giải quyết những bất đồng trên cơ sở của nguyên tắc và chân lý, họ thường viện đến sự hung bạo bằng lời nói hoặc bạo lực, và đôi khi là cả hai. Điều đáng buồn là sự hung bạo này thường giả trang như lòng yêu nước hay như nhiệt thành tôn giáo. Khi sự hiểu biết thiếu kém, bạo lực bắt đầu thao túng và người ta bắt đầu tiêu diệt lẫn nhau nhân danh dân tộc họ hoặc Đức Chúa Trời của họ. Bi thảm là ngay cả lịch sử của tôn giáo cũng không thiếu những sự kiện về những sự bắt bớ và các cuộc “thánh chiến”. William Temple đã nói rằng Cơ Đốc nhân được gọi vào nhiệm vụ khó nhất trong tất cả các nhiệm vụ: chiến đấu mà không có lòng căm thù, kháng cự mà không cay đắng, và cuối cùng nếu Đức Chúa Trời ban cho điều đó chiến thắng mà không báo thù.
Các sứ đồ đã phản ứng ra sao với sự đối xử bất hợp pháp này từ các chức sắc tôn giáo của dân tộc họ? Họ vui mừng! Chúa Giê-xu đã bảo họ chờ đợi sự bắt bớ và dạy họ vui mừng trong điều đó (Mat 5:10-12). Sự chống đối của con người nghĩa là sự tán thành của Đức Chúa Trời, và đó thật sự là một đặc quyền được chịu khổ vì danh Ngài (Phi 1:29).
Diễn đạt ý của Philip Brooks, mục đích đời sống là làm vinh hiển Đức Chúa Trời bằng cách gây dựng bản tính qua chân lý. Toà Công Luận nghĩ rằng họ đã dành được một chiến thắng lớn trong khi thật sự hội đồng đã trải qua một thất bại liểng xiểng. Rất có thể họ đã chúc mừng nhau vì làm được một việc tốt bảo vệ niềm tin như vậy! Nhưng chính các sứ đồ là những người chiến thắng, vì họ đã tăng trưởng trong sự tin kính khi họ đầu phục ý chỉ của Đức Chúa Trời và chịu khổ vì Chủ mình. Trong những năm sau đó, Phi-e-rơ đã có nhiều điều để nói trong thư tín đầu tiên của ông về ý nghĩa của việc chịu khổ trong đời sống tín đồ nhưng giờ đây ông đang học những bài học này.
Những lời đe doạ hay những trận đòn cũng không ngăn họ làm chứng cho Chúa Giê-xu. Có thể nói ngược lại, sự bắt bớ này chỉ khiến họ tin cậy Đức Chúa Trời hơn và tìm kiếm quyền năng lớn hơn trong chức vụ mình. Tín đồ thật không phải là “người bỏ cuộc”. Các sứ đồ đã có một nhiệm vụ để thực hiện, và họ đã có ý định tiếp tục trong chừng mực Chúa họ ban khả năng cho họ. Cong 5:42 tóm tắt gương mẫu cho sự truyền giảng Phúc Âm, một gương mẫu xuất sắc cho chúng ta noi theo.
Trước hết, họ đã làm chứng “hằng ngày”. Điều này có nghĩa là họ đã lợi dụng những cơ hội để làm chứng bất kể họ hiện diện ở đâu (Eph 5:15-16). Mỗi Cơ Đốc nhân là một chứng nhân, một chứng nhân giỏi hoặc một chứng nhân dở và sự làm chứng của chúng ta hoặc kéo người khác đến với Đấng Christ hoặc đánh dạt họ đi. Thật là một thói quen tốt khi bắt đầu một ngày cầu xin Chúa cho sự khôn ngoan và ơn cần thiết để làm một chứng nhân yêu thương cho Đấng Christ ngày hôm ấy. Nếu chúng ta thành thật tìm kiếm những cơ hội và mong mỏi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những cơ hội ấy, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu những cánh cửa rộng mở.
D.L.Moody đã không sợ hãi trong sự làm chứng của ông cho Đấng Christ và tìm cách nói về những vấn đề thuộc linh ít nhất với một linh hồn mỗi ngày. Ông sẽ hỏi: “Hôm nay linh hồn bạn thịnh vượng ra sao?” hoặc “Bạn có yêu Chúa không? Bạn có thuộc về Đấng Christ không?”. Một số người đã bực mình bởi thái độ mạnh mẽ của ông, nhưng không ít người đã được dẫn dắt đến Đấng Christ ngay lúc ấy. Ông nói: “Chúng ta càng sử dụng những phương tiện và cơ hội mình có, khả năng và những cơ hội của chúng ta sẽ càng gia tăng”. Ông cũng nói: “Tôi sống vì những linh hồn và sự vĩnh cửu. Tôi muốn chinh phục linh hồn nào đó cho Đấng Christ”. Ông đã không hài lòng chỉ nói với những đám đông lớn, ông cũng cảm thấy bị thúc ép để nói với người ta cách riêng tư và giục họ tin nhận Chúa Giê-xu.
Các tín hữu đã làm chứng “trong đền thờ”. Xét cho cùng, đó là những người “sùng đạo” nhóm lại, và đến với họ ở đó thật dễ dàng hơn. Đã nhiều năm, Hội Thánh được xem như “giáo phái” khác của Do Thái giáo, và cả đền thờ cùng nhiều nhà hội đã mở cửa tiếp các tín đồ. Trong những hành trình truyền giáo của mình, Phao-lô luôn đến nhà hội địa phương hoặc nơi cầu nguyện của người Do Thái trước tiên, và ông đã làm chứng ở đó cho đến khi ông bị đuổi ra.
Lời khuyên của tôi đối với các Cơ Đốc nhân mới thường là: “hãy trở về nhà và Hội Thánh của bạn, hãy làm một chứng nhân yêu thương cho Đấng Christ, và hãy ở lại cho đến khi họ yêu cầu bạn ra đi” (ICo 7:17-24). Các sứ đồ đã không từ bỏ đền thờ Do Thái dù họ biết rằng hệ thống tôn giáo cũ đã chấm dứt và ngày nào đó, đền thờ sẽ bị phá huỷ. Họ không thoả hiệp họ đang “mua hết cơ hội” để giành thêm người cho Đấng Christ.
Trong lúc tôi thi hành chức vụ tại Hội Thánh Moody ở Chicago, niềm vui mừng của tôi là hướng dẫn một mục sư đến Đấng Christ, một người có khả năng phục vụ một hội chúng giàu có. Anh trở lại Hội Thánh của mình và bắt đầu chia sẻ về Đấng Christ, và nhiều người dân của anh đã được cứu. Lúc ấy những lãnh đạo giáo phái bước vào và bắt đầu đe doạ sa thải anh.
Anh đã hỏi: “Tôi phải làm gì?” Tôi đã nói: “Hãy ở đó cho đến khi họ đuổi anh ra.Hãy yêu thương và tử tế, nhưng đừng nhượng bộ! ”. Cuối cùng anh bị buộc ra khỏi nhà thờ, nhưng không phải trước khi sự làm chứng của anh đã ảnh hưởng đến nhiều người cả trong Hội Thánh và trong cộng đồng của anh. Hôm nay, Đức Chúa Trời đang sử dụng anh trong một cách đặc biệt để làm chứng cho Đấng Christ và huấn luyện người khác làm chứng. Anh có thể vào những Hội Thánh và những nhóm mà có thể chưa bao giờ mời tôi!
Các Cơ Đốc nhân đầu tiên đã làm chứng “trong từng nhà”. Không như những hội chúng ngày nay, những người này đã không có những toà nhà được dành riêng cho sự thờ phượng và thông công. Các tín hữu sẽ nhóm trong những gia đình khác nhau, thờ phượng Chúa, nghe sự dạy dỗ, và tìm cách chinh phục những người hư mất (Cong 2:46). Phao-lô đã đề cập đến một số “nhóm thông công tại gia” khi ông chào hỏi các thánh đồ ở Rô-ma (Ro 16:5,10,11,14). Hội Thánh đầu tiên đã đem Đạo trực tiếp vào các gia đình, và chúng ta phải noi gương họ. Điều này không có nghĩa là có những toà nhà được dành riêng cho sự phục vụ Hội Thánh là sai trái, nhưng chỉ có nghĩa rằng chúng ta không nên giới hạn sự phục vụ trong bốn bức tường của một ngôi nhà thờ.
Sự phục vụ của họ đã tiếp tục không dứt. Nhà chức trách đã bảo họ ngưng làm chứng, nhưng họ chỉ càng làm chứng nhiều hơn! Động cơ của họ không phải là sự coi thường luật pháp nhưng đúng hơn là sự vâng Lời Chúa. Nó không phải là cái gì đó họ tắt mở, tuỳ thuộc nơi hoàn cảnh. Họ “luôn hiện diện tại đó” và họ đã kiên trì làm việc ấy ở chừng mực mà Đức Chúa Trời ban cho họ những cơ hội.
Sự làm chứng của Hội Thánh bao gồm cả sự dạy dỗ và giảng đạo, và đó là một sự quân bình hữu ích. Từ được dịch là “rao giảng” cho chúng ta từ tiếng Anh “avangelize” và đây là lần đầu tiên trong 15 lần từ này được sử dụng trong Công vụ. Nó đơn giản có nghĩa là “Giảng Phúc Âm, chia xẻ Phúc Âm của Chúa Giê-xu” (ICo 15:1-8) để có sự tuyên bố chính thức về sứ điệp Phúc Âm.
Tuy nhiên, sự tuyên bố phải được quân bình với sự chỉ dẫn (Cong 2:42) hầu cho tội nhân biết tin điều gì và những người qui đạo mới hiểu lý do họ tin. Sứ điệp không thể sinh ra trái trừ phi con người hiểu nó và có thể thực hiện một quyết định thông minh (Mat 13:18-23). Các tín đồ không thể tăng trưởng nếu họ không được dạy dỗ Lời Đức Chúa Trời (IPhi 2:1-3).
Sau cùng, chính Chúa Giê-xu là trung tâm của sự làm chứng của họ. Chính là danh ấy mà toà Công Luận đã kết án! Hội Thánh đã không lo việc tranh cãi tôn giáo hay lên án giới quyền uy họ chỉ nói cho người ta biết về Chúa Giê-xu và giục họ tin nơi Ngài. “Vì chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Giê-xu” (IICo 4:5). “Các ngươi sẽ làm chứng về ta” (Cong 1:8).
Thật là một đặc quyền của tôi để được nói chuyện tại một buổi lễ kỷ niệm thứ 40 của một người bạn mục sư mà chức vụ của ông đã đem phước cho nhiều người. Một số bạn của ông đã dự trong buổi lễ và bày tỏ tình yêu của họ đối với ông cùng sự cảm kích của họ đối với chức vụ ông. Bạn tôi trở nên càng bối rối hơn khi buổi nhóm tiến hành và lúc tới giờ tôi đem đến sứ điệp, ông ghé vào tai tôi thì thầm: “Warren, xin hãy nói cho họ biết về Chúa Giê-xu! ”
Trong cuốn sách “The Gospel Blimp” khôn ngoan và có sức thuyết phục, cố tác giả Joe Bayly đã viết: “Chúa Giê-xu đã không uỷ nhiệm Phúc Âm cho một môi giới quảng cáo Ngài đã uỷ nhiệm cho các môn đệ”.
Sự uỷ nhiệm ấy vẫn còn giá trị.
Trong đời sống bạn, đó là nhiệm vụ hay sự chểnh mảng?
bottom of page