top of page
13. NHIỀU CỬA MỞ (Cong 15:36-16:40)
Đối...
...với sứ đồ Phao-lô, Hội thánh tại An-ti-ốt không phải là một bãi đậu xe: đó là một bệ phóng. Ông chưa bao giờ có thể yên tâm với một “chức vụ tiện nghi” bất cứ nơi đâu từ khi có những cánh cửa mở cho việc rao giảng Phúc-âm.
Phao-lô có lẽ sẽ nhiệt tình đồng ý với những lời của Robertson Mc Quilker trong cuốn sách của ông “The Great Omission” (sự thiếu sót lớn): “Trong một thế giới mà 9 trong số 10 người hư mất, 3 trong số 4 người chưa bao giờ nghe đạo, và 1 trong số 2 người không thể nghe, Hội Thánh ngủ, có thể nào chúng ta nghĩ phải có con đường nào khác? Hay có lẽ chúng ta thật sự không quan tâm nhiều về điều đó”.Phao-lô đã quan tâm – và chúng ta cũng nên như thế.
Có nhiều yếu tố mới trong hành trình thứ hai này cho thấy rằng Đức Chúa Trời vẫn hành động, bất kể những trở ngại có thể xảy ra và những khó khăn riêng phát sinh.
1. Một đồng bạn mới (Cong 15:36-41)
Phao-lô và Ba-na-ba đã nhất trí về tầm quan trọng của chuyến đi, nhưng họ đã không thể nhất trí về thành phần của “nhóm”. Đây là hai người dấn thân vừa mới giúp mang lại sự hiệp nhất cho Hội Thánh, nhưng họ đã không thể dàn xếp những bất đồng của chính mình! Những xung đột này gây bối rối và đau đớn, chúng thường được thấy trong lịch sử Hội Thánh, nhưng Đức Chúa Trời có thể tể trị chúng và hoàn thành những mục đích của Ngài.
Việc Ba-na-ba bênh vực Giăng Mác chắc chắn không có gì ngạc nhiên. Ông và Mác là bà con (Co 4:10), và mối dây gia đình sẽ vững chắc. Nhưng hơn nữa Ba-na-ba là loại người nôn nóng tìm cách giúp người khác đó là lý do Hội Thánh đầu tiên đặt tên cho ông “con trai của sự yên ủi” (Co 4:36). Ông sẵn sàng cho Giăng Mác một cơ hội để hầu việc Chúa và để chứng minh bản thân. Ba-na-ba “cứ nhất định” (Wuest, bản dịch thoát) để họ đem Mác cùng đi.
Nhưng Phao-lô vẫn khẳng định rằng họ không đem Mác đi! Xét cho cùng, ở hành trình truyền giáo thứ nhất, Giăng Mác lìa bỏ họ để trở về nhà (Co 13:13). Và đây là một biểu hiện của sự yếu đuối. Chức vụ rất quan trọng, và công việc đòi hỏi nhiều nỗ lực, nên không thể chọn người nào tỏ ra không đáng tin cậy.
Khi sự thảo luận tiếp tục, nó đã trở thành một cuộc tranh cãi thật sự (Từ “paroxym”) đến từ từ được dịch là “sự cãi nhau”) và dường như giải pháp duy nhất là những người bạn phân khu vực và chia tay nhau. Ba-na-ba đã đem Mác theo và đi đến Chíp-rơ quê của ông, còn Phao-lô đem Si-la theo và thẳng đến xứ Sy-ri và xứ Si-li-si (chú ý Cong 15:23).
Ai đã đúng? Điều đó thật sự không tạo khác biệt gì nhiều. Có lẽ hai người đều đúng về những điều gì đó và sai về những điều khác. Chúng ta biết rằng Giăng Mác cuối cùng đã thành công trong chức vụ và Phao-lô đã trở nên yêu mến và cảm kích ông (Phil 21:23-24 Co 4:10 IITi 4:11). Những con người tốt lành và tin kính trong Hội Thánh có bất đồng đây là một trong những thực tế đau buồn của cuộc sống chúng ta phải chấp nhận. Phao-lô nhìn người khác và hỏi: “Họ có thể làm được gì cho công việc của Đức Chúa Trời?” trong khi Ba-na-ba nhìn người khác và hỏi: “Công việc của Đức Chúa Trời có thể làm gì cho họ?” Cả hai câu hỏi đều quan trọng đối với công việc của Đức Chúa Trời, và đôi khi khó mà giữ cho mọi sự được quân bình.
Phao-lô đã chọn một đồng bạn mới, Si-la, một người đứng đầu trong Hội Thánh, một tiên tri (Cong 15:22,32) và là một người được chọn đem các sắc luật của hội nghị Giê-ru-sa-lem đến các Hội Thánh (Cong 15:27). “Si-la” có thể là một từ dịch tiếng Hy Lạp của tên Sau-lơ. Ông là đồng tác giả với Phao-lô về hai thư tín Tê-sa-lô-ni-ca, và ông là thư ký cho thư tín thứ nhất của Phi-e-rơ (Cong 5:12). Như Phao-lô ông là một công dân Rô-ma.
Đức Chúa Trời thay đổi những người giúp việc của Ngài, nhưng công việc Ngài tiến hành tốt đẹp. Giờ đây đã có hai nhóm truyền giáo thay vì một! Nếu Đức Chúa Trời phải nhờ vào những con người toàn hảo để hoàn thành công việc Ngài, Ngài sẽ không bao giờ nhận được bất cứ điều gì được thực hiện. Những hạn chế và bất toàn của chúng ta là những lý do đích đáng để chúng ta cậy nơi ân điển Đức Chúa Trời, vì khả năng của chúng ta chỉ có từ Ngài (IICo 3:5).
2. Một người giúp việc mới (Cong 16:1-5)
Phao-lô và Si-la tiến đến nơi họ định đi từ hướng đông, nên họ đến thành Đẹt-bơ trước và sau đó đến thành Lít-trơ, chỉ là ngược lại so với hành trình thứ nhất (Cong 14:6-20). Những người truyền đạo này đã đi từ Hội Thánh này đến Hội Thánh khác, trình bày các sắc lệnh và giúp gây dựng các tín đồ trong đức tin. Kết quả là những quả phát sinh từ sự làm chứng của các tín đồ vì vậy các Hội Thánh đã gia tăng số lượng hằng ngày (Cong 2:47). Đó chắc chắn là một cuộc hành trình thành công nhất, nhưng tôi chẳng biết liệu có ai trong các tín đồ hỏi về Ba-na-ba hay không? Và Phao-lô đã cho họ biết điều gì?
Có lẽ điều tốt nhất đã xảy ra tại thành Lít-trơ là việc chọn Ti-mô-thê để thế cho Giăng Mác như phụ tá đặc biệt của Phao-lô. Ti-mô-thê có lẽ đã qui đạo qua chức vụ của Phao-lô khi vị sứ đồ này viếng thăm Lít-trơ đầu tiên, vì Phao-lô đã gọi ông là “con yêu dấu của tôi” (ICo 4:17) và “con của ta trong đức tin” (ITi 1:2). Mẹ và bà nội của Ti-mô-thê đã dọn đường cho quyết định của ông bằng cách làm những người đầu tiên trong gia đình tin nhận Đấng Christ (IITi 1:5). Ti-mô-thê trẻ tuổi chắc chắn đã chứng kiến những hoạn nạn của Phao-lô trong thành Lít-trơ (Cong 14:19-20 IITe 3:10-11) và đã được Chúa kéo đến gần vị sứ đồ này. Ti-mô-thê là bạn đồng hành và người cùng làm việc tâm đắc của Phao-lô (Phi 2:19-23), có lẽ là đứa con Phao-lô chưa bao giờ có nhưng luôn luôn cần đến.
Vì có một sự tường thuật tốt đẹp từ các Hội Thánh (ITi 3:7), Ti-mô-thê được Phao-lô phong chức và thêm vào “nhóm” của ông (ITi 4:12 IITi 1:6). Bước kế tiếp của Phao-lô là để cho Ti-mô-thê chịu cắt bì, một hành động dường như mâu thuẫn với quyết định của hội nghị Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, có một nguyên tắc thuộc linh quan trọng đằng sau quyết định của Phao-lô.
Quyết định tại hội đồng Giê-ru-sa-lem là không cần phải chịu cắt bì để được cứu.Phao-lô đã không để cho Tít chịu cắt bì hầu tránh cho kẻ thù không nghĩ rằng ông đang đề xướng mục đích của họ (Ga 2:1-5). Chiến trận ở Giê-ru-sa-lem là về chân lý của Phúc Âm, không phải về sự thích hợp của một người để hầu việc. Mối quan tâm của Phao-lô về Ti-mô-thê không phải sự cứu rỗi của ông nhưng là sự thích hợp để ông hầu việc.
Ti-mô-thê sẽ làm việc với cả người Do Thái và người ngoại trong các Hội Thánh, và thật cần thiết để ông không làm họ bực mình. Đó là lý do Phao-lô để Ti-mô-thê chịu cắt bì (ICo 9:19-23). Một lần nữa, đó không phải là vấn đề về sự cứu rỗi hay cá tính của Ti-mô-thê, nhưng đúng hơn là vấn đề về việc tránh những nan đề nghiêm trọng chắc chắn sẽ trở thành những chướng ngại vật gây vấp ngã khi những con người này tìm cách hầu việc Chúa (Ro 14:13-15). Chính lãnh đạo thuộc linh khôn ngoan là người biết cách nào và khi nào để áp dụng những nguyên tắc của Lời Đức Chúa Trời, khi nào để đứng vững và khi nào để đầu phục.
Trong những năm sau, Ti-mô-thê đã đóng một phần quan trọng trong sự phát triển và củng cố các Hội Thánh. Ông đã đồng ra đi với Phao-lô và thường làm đặc sứ của người cho “những nơi rắc rối” trong công tác, chẳng hạn như thành Cô-rinh-tô.Ông đã trở thành người chăn Hội Thánh tại Ê-phê-sô (ITi 1:3) và có thể đã gặp lại Phao-lô tại Rô-ma thời gian ngắn trước khi vị sứ đồ này tử đạo (IITi 4:21).
3. Một khải tượng mới (Cong 16:6-40)
Trong phân đoạn này chúng ta thấy ba “sự mở cửa” kỳ diệu
- Đức Chúa Trời mở đường (Cong 16:6-12). Sau khi thăm viếng các Hội Thánh mình đã thành lập, Phao-lô tìm cách đi vào địa hạt mới cho Chúa bằng cách đi về hướng đông vào cõi A-si và Bi-thi-ni, nhưng Chúa đã đóng cửa. Chúng ta không biết Đức Chúa Trời đã bày tỏ ý chỉ Ngài về vấn đề này ra sao, nhưng chúng ta có thể dễ dàng hình dung được rằng Phao-lô đã thất vọng và có lẽ hơi nản lòng. Mọi sự đã tiếp diễn quá trôi chảy ở hành trình thứ hai này nên những cánh cửa bị đóng này hẳn đã như một ngạc nhiên lớn. Tuy nhiên, thật yên ủi để biết rằng ngay cả các sứ đồ không phải lúc nào cũng biết rõ ý muốn của Đức Chúa Trời cho chức vụ mình! Đức Chúa Trời đã trù tính để sứ điệp được đem đến đó vào lúc khác (Cong 18:19-19:41 IPhi 1:1).
Trong ơn tể trị của Ngài, Đức Chúa Trời đã dẫn Phao-lô đi hướng tây vào Châu âu, không phải hướng đông vào cõi A-si. Thật thú vị để suy đoán lịch sử thế giới có thể đã bị thay đổi ra sao nếu Phao-lô được sai đến cõi A-si thay vì đến Âu châu. Tại thành Trô-ách, Phao-lô đã được yêu cầu đến xứ Ma-xê-đoan bởi một người ông thấy trong một khải tượng ban đêm. George Mac Donald đã viết: “không điều gì khiến một người mạnh mẽ như một sự kêu gọi giúp đỡ” và Phao-lô đã nhanh chóng đáp ứng khải tượng (so sánh Cong 26:19).
Hãy chú ý đại từ “chúng ta” ở Cong 16:10, vì bác sĩ Lu-ca người viết sách Công vụ, đã gia nhập với Phao-lô và nhóm người cùng đi của ông tại thành Trô-ách. Có ba “phân đoạn ‘chúng ta’” trong Cong 16:10-17 Cong 20:5-15 Cong 27:1-28:16. Lu-ca đã thay đổi từ “chúng ta” sang “họ” ở Cong 17:1 ý nói rằng ông có thể đã ở lại trong thành Phi-líp để chăm sóc Hội Thánh sau khi Phao-lô đã ra đi. “Phân đoạn chúng ta” kế tiếp bắt đầu ở Cong 20:5 đề cập đến chuyến đi biển của Phao-lô từ thành Ma-xê-đoan.Lu-ca đã dành nhiều chỗ cho chức vụ của Phao-lô ở thành Phi-líp, vì vậy có lẽ ông là cư dân của thành ấy. Một số học giả Kinh Thánh nghĩ rằng Lu-ca có thể là người Phao-lô thấy trong khải tượng.
Từ thành Trô-ách đến thành Nê-a-bô-li, bến cảng của thành Phi-líp, có khoảng cách chừng 150 dặm, và họ đã mất hai ngày để thực hiện hành trình. Sau đó, chuyến đi biển ngược hướng mất 5 ngày, rõ ràng vì những cơn gió ngược (Cong 20:6). Thành Phi-líp nằm ở cùng nội địa cách thành Nê-ô-bô-li 10 dặm, và cách Lu-ca mô tả thành này cho thấy ông thật sự là một trong những công dân đáng tự hào nhất của thành.
Thành Phi-líp là một thuộc địa của La Mã, có nghĩa nó là “Rô-ma ở xa Rô-ma”. Hoàng đế đã sắp xếp “các thuộc địa” bằng cách ra lệnh các công dân Rô-ma, đặc biệt là những quân nhân về hưu phải sống trong những nơi được chọn, vì vậy sẽ có những thành phố thân Rô-ma trong những vùng chiến lược này. Dù sống trên đất lạ, các công dân vẫn bị đòi hỏi phải trung thành với Rô-ma, vâng phục luật pháp Rô-ma, và dành vinh dự cho hoàng đế Rô-ma. Bù lại, họ được ban cho những đặc quyền chính trị nào đó, và việc quan trọng không kém là được miễn thuế. Đây là phần thưởng của họ cho sự xa quê hương ở Y-ta-ly và định cư ở nơi khác.
- Đức Chúa Trời đã mở lòng Ly-đi (Cong 16:13-15). Phao-lô và các bạn ông đã không lao ngay vào việc giảng Phúc Âm cho thành này, dù họ biết Đức Chúa Trời đã gọi họ đến đó. Chắc chắn họ cần nghỉ ngơi, cầu nguyện và cùng nhau lập kế hoạch. Biết nơi Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm việc thì chưa đủ, chúng ta còn phải biết khi nào và cách Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm việc.
Dân số Do Thái trong thành Phi-líp chắc rất ít vì ở đó không có nhà hội, chỉ có một nơi cầu nguyện gần con sông bên ngoài thành. (Phải có 10 người cho việc lập một nhà hội). Phao-lô đã thấy một người đàn ông trong khải tượng tại thành Trô-ách, nhưng ở đây ông đang giảng dạy cho một nhóm phụ nữ! Các ra-bi đã nói: “Lời của luật pháp bị đốt cháy còn tốt hơn là được rao cho một đàn bà! ”, nhưng đó không còn là triết lý của Phao-lô. Ông đã đầu phục và Chúa đã đi trước để dọn đường.
Ly-đi là một nữ thương gia thành công từ thành Thi-a-ti-rơ, một thành phố có tiếng về thuốc nhuộm màu tiá. Có thể bà đã đảm nhận một chức vụ chi nhánh thuộc phường hội của bà trong thành Phi-líp. Đức Chúa Trời đã đưa bà suốt đường đến Hy Lạp để bà có thể nghe Phúc Âm và được thay đổi. Bà là một “người thờ phượng Đức Chúa Trời”, một người ngoại không phải là người theo đạo Do Thái. Bà đang tìm kiếm chân lý.
Phao-lô đã chia sẻ đạo (“nói” trong Cong 16:14 nghĩa là cuộc nói chuyện riêng, không phải rao giảng), Đức Chúa Trời đã mở lòng bà trước lẽ thật, chân lý bà đã tin và được cứu. Bà dạn dĩ đồng nhất hoá mình với Đấng Christ bằng cách chịu báp-tem, và bà đã cố nài để những nhà truyền giáo ở lại nhà bà. Tất cả người nhà của bà đã được biến đổi, vì vậy đây là một dịp tiện tốt để Phao-lô cùng các bạn ông dạy đạo cho họ và thành lập một Hội Thánh địa phương (chúng ta sẽ đề cập về “sự cứu rỗi người nhà” khi chúng ta đến câu Cong 16:31).
Chúng ta đừng kết luận rằng vì Đức Chúa Trời đã mở lòng Ly-đi, nên phần của Ly-đi trong sự qui đạo là hoàn toàn thụ động. Bà đã chăm chú nghe Đạo, và chính Đạo ấy đã đem tội nhân đến với Đấng Christ (Gi 5:24). Chính Đức Chúa Trời Đấng đã định cứu cánh, sự cứu rỗi Ly-đi, cũng đã định phương tiện cho cứu cánh, sự làm chứng của Phao-lô về Chúa Giê-xu. Đây là một minh hoạ đẹp đẽ của IITe 2:13-14.
- Đức Chúa Trời đã mở các cửa ngục (Cong 16:16-40). Những người hư mất được cứu chẳng bao lâu thì Sa-tan bắt đầu ngăn trở công việc. Trong trường hợp này, nó sử dụng một cô gái bị quỷ ám là người đã làm cho các chủ mình được giàu có bằng cách bói khoa. Khi Phao-lô và “nhóm”của ông theo thường lệ đến nơi cầu nguyện, vẫn làm chứng cho người hư mất, cô gái này cứ liên tục la hét đằng sau họ, “những người này là đầy tớ của Đức Chúa Trời tối cao, Đấng bày tỏ cho chúng ta con đường cứu rỗi! ” Phao-lô không muốn Phúc Âm hoặc danh Đức Chúa Trời được “đề cao” bởi một trong số tôi mọi của Sa-tan, vì vậy ông đuổi quỉ ra. Suy cho cùng, Sa-tan có thể nói lẽ thật phút trước, phút sau đã nói dối rồi, và những người không được cứu sẽ không biết sự khác biệt.
Các chủ đã không có sự quan tâm đối với cô gái, họ chỉ quan tâm về lợi nhuận cô đem lại, và giờ đây lợi nhuận ấy đã hết (sự xung đột giữa tiền bạc và chức vụ thường xuất hiện trong Cong 5:1-11 Cong 8:18-24 Cong 19:23 Cong 20:33-34). Sự trông cậy duy nhất của họ là luật pháp Rô-ma, và họ nghĩ họ có một vụ kiện khá tốt vì các nhà truyền giáo là người Do Thái và đang truyền bá một tôn giáo không được Rô-ma chấp thuận. Bị lay động bởi những thành kiến tôn giáo và chủng tộc, các quan toà đã hành động hấp tấp và không điều tra vấn đề đầy đủ. Sự xao lãng nhiệm vụ của họ sau đó đã đem đến cho họ sự bẽ bàng.
Tại sao Phao-lô và Si-la đã không biện hộ cho quyền công dân Rô-ma của mình? (Cong 22:25-29 Cong 25:11-12). Có lẽ đã không có thời gian hoặc có lẽ Phao-lô đang để dành vũ khí đó cho sự sử dụng tốt hơn sau này. Ông với Si-la đều bị lột trần và bị đánh (IICo 11:23,25) và bị giam vào tù trong thành. Đó có vẻ như việc làm chứng trong thành Phi-líp đã kết thúc, nhưng Đức Chúa Trời đã có những kế hoạch khác.
Thay vì phàn nàn hoặc cầu xin Đức Chúa Trời đoán phạt kẻ thù mình, hai người đã cầu nguyện và ngợi khen Đức Chúa Trời. Khi bạn ở trong sự đau đớn, giờ ban đêm không phải là giờ dễ dàng nhất cho một buổi hoà nhạc thiêng liêng, nhưng Đức Chúa Trời ban “những bài ca giữa ban đêm” (Giop 35:10 Thi 42:8). Charles Hađson Spurgeon đã nói: “Bất kỳ kẻ dại dột nào cũng có thể hát giữa ban ngày.Thật dễ dàng khi chúng ta có thể đọc các nốt nhạc nhờ ánh sáng ban ngày nhưng ca sĩ tài ba là người có thể hát khi không có một tia sáng để đọc… Những bài ca giữa ban đêm chỉ đến từ Đức Chúa Trời chúng không ở trong quyền năng của loài người”.
Sự cầu nguyện và ngợi khen là những vũ khí mạnh mẽ (IISu 20:1-22 Cong 4:23-27). Đức Chúa Trời đã đáp ứng bằng cách làm rúng động các nền ngục, mở mọi cửa, và tháo các xiềng của những tù nhân. Lẽ ra họ đã có thể chạy trốn để được tự do, nhưng ngược lại họ đã ở lại ngay nơi mình đang ở. Phao-lô đã lập tức kiềm chế và chắc chắn sự kính sợ Đức Chúa Trời đã ở trên những người ngoại đạo này. Các tù nhân hẳn đã nhận ra rằng có điều gì đó rât đặc biệt về hai người truyền đạo Do Thái đó!
Sự chú ý của Phao-lô tập trung vào người quản lý nhà lao, người mà ông thật sự muốn thu phục cho Đấng Christ. Một luật của Rô-ma cho biết nếu một lính gác làm mất một tù nhân, người đó bị chịu cùng hình phạt mà tù nhân lẽ ra sẽ nhận, vì vậy hẳn phải có một số người trong ngục đã phạm những trọng tội. Người quản lý nhà lao thà tự sát còn hơn là đối diện với sự nhục nhã và sự hành hình. Một người có lòng sắt đá tìm cách báo thù sẽ để cho người quản lý nhà lao tàn bạo tự tử, nhưng Phao-lô không phải là loại người đó (Mat 5:10-12,43-48). Chính người quản lý nhà lao là tù phạm chớ không phải Phao-lô và Phao-lô không những đã cứu mạng sống người này, mà còn chỉ cho ông ta sự sống đời đời trong Đấng Christ.
“Tôi phải làm chi cho được cứu rỗi?” là tiếng kêu khóc của những người hư mất khắp thế giới, và tốt hơn chúng ta nên cho họ câu trả lời đúng đắn. Những người sống theo luật pháp trong Hội Thánh có lẽ sẽ đáp. “Nếu bạn không chịu cắt bì theo phong tục của Môi-se, bạn không thể được cứu” (Cong 15:1). Nhưng Phao-lô đã biết câu trả lời đúng. Đức tin trong Chúa Giê-xu Christ. Trong sách công vụ, sự nhấn mạnh là về đức tin trong Chúa Giê-xu Christ mà thôi (Cong 2:38-39 Cong 4:12 Cong 8:12,37 Cong 10:10-43 Cong 13:38-39).
Nhóm từ “và cả nhà ngươi” không có nghĩa là đức tin của người quản lý nhà lao sẽ tự động đem sự cứu rỗi đến cho gia đình ông. Mỗi tội nhân phải tin nhận Đấng Christ cách cá nhân để được tái sinh, vì chúng ta không thể được cứu “bởi sự uỷ quyền”. Nhóm từ này có nghĩa là “và người nhà ngươi sẽ được cứu nếu họ cũng tin”. Chúng ta đừng tưởng tượng câu nói này ra sự cứu rỗi những trẻ vị thành niên (bởi hoặc không bởi phép báp-tem) vì rõ ràng là Phao-lô nói đến những người đủ lớn để nghe đạo (Cong 16:32) để tin và để vui mừng (Cong 16:34).
Điều gọi là “sự cứu rỗi người nhà” không có cơ sở gì trong Lời Đức Chúa Trời. Đó là quyết định của người chủ gia đình đem đến sự cứu rỗi cho những thành viên của gia đình. Những người trong gia đình của Cọt-nây đủ lớn để đáp ứng sự kêu gọi của ông (Cong 10:24) và tin nhận (Cong 10:44 Cong 11:15-17 Cong 15:7-9). Người nhà của Cơ-rít-bu gồm những người đủ lớn để nghe và tin Lời Đức Chúa Trời (Cong 18:8). Không có gợi ý nào ở đây cho thấy những người lớn đã quyết định cho những trẻ vị thành niên hay trẻ con.
Thật cảm động để thấy sự thay đổi trong thái độ của người đề lao khi ông rửa vết thương của hai tù nhân mà giờ đây là anh em của ông trong Đấng Christ. Một trong những chứng cớ của sự ăn năn thật là một sự khao khát đầy yêu thương muốn đền bù và chuộc lỗi mỗi khi ta làm tổn thương người khác Chúng ta không chỉ nên rửa chân người khác (Gi 13:14-15), nhưng chúng ta còn phải rửa sạch những vết thương mình đã gây cho người khác nữa. Còn những tù nhân khác thì sao? Lu-ca không cho chúng ta chi tiết, nhưng có thể một số người cũng đã được tái sinh qua sự làm chứng của Phao-lô, Si-la và người quản lý nhà lao. Một số trong những tù nhân này có thể đang chờ đợi sự hành quyết, vì vậy hãy hình dung sự vui mừng của họ khi nghe một sứ điệp về sự cứu rỗi! Phao-lô và Si-la đã không nghĩ gì đến những đau dớn của họ khi họ vui mừng về điều Đức Chúa Trời đã làm trong người quản lý nhà lao thành Phi-líp kia! Chắc hẳn người quản lý nhà lao sau đó đã gia nhập với Si-la trong hội chúng.
Các quan chức trong thành biết rằng họ không có vụ kiện nào đáng thuyết phục chống lại Phao-lô và Si-la, nên họ đã nhắn người quản lý nhà lao thả hai người ra.Tuy nhiên, Phao-lô không bằng lòng “lẻn ra ngoài thành” vì kiểu ra đi đó sẽ để lại cho Hội Thánh mới một đám mây ngờ vực. Người ta sẽ hỏi:”những người này là ai?”, “Tại sao họ ra đi nhanh như vậy? Những người theo họ tin điều gì?”Phao-lô và các cộng sự của ông muốn để lại đằng sau một chứng cứ mạnh mẽ về tính chính trực của họ cũng như một lời chứng tốt cho Hội Thánh sơ khai trong thành Phi-líp.
Chính lúc đó Phao-lô đã lợi dụng quyền công dân Rô-ma của mình và dạn dĩ thách thức những quan chức về tính hợp pháp của cách họ đối xử. Đây không phải là sự trả thù cá nhân nhưng là khao khát dành sự bảo vệ và tôn trọng cho Hội Thánh. Mặc dù sự ghi chép không nói rằng các quan toà đã xin lỗi chính thức và công khai, nhưng nó nhận định rằng họ đã đến với Phao-lô và Si-la cách tôn trọng, hộ tống họ ra khỏi ngục, và lịch sử yêu cầu họ lìa khỏi thành. Phao-lô và Si-la đã ở lại trong thành Phi-líp đủ lâu để thăm viếng các tân tín hữu và khích lệ họ trong Chúa.
Khi bạn ôn lại chương này, bạn có thể thấy rằng công việc của Chúa tiến triển qua những khó khăn và thử thách. Đôi khi những người cộng sự có vấn đề với nhau, và đôi lúc những vấn đề đến từ bên ngoài. Cũng đáng chú ý là, không phải mọi tội nhân đều đến với Đấng Christ theo cùng một cách y như nhau. Ti-mô-thê đã được cứu phần nào nhờ ảnh hưởng của một người mẹ và người bà tin kính. Ly-đi đã được biến đổi nhờ một cuộc nói chuyện yên lặng với Phao-lô tại một buổi nhóm cầu nguyện của người Do Thái, trong khi sự qui đạo của người đề lao đầy kịch tính.Một phút trước ông là một người có khả năng tự sát, và phút sau ông là con cái Đức Chúa Trời!
Những con người khác nhau với những từng trải khác nhau, nhưng tất cả họ đều được thay đổi bởi ân điển Đức Chúa Trời.
Những người khác cũng như họ đang chờ đợi để được cho biết kế hoạch cứu rỗi giản đơn của Đức Chúa Trời.
Bạn sẽ giúp họ nghe chớ?
Trong sự làm chứng của riêng bạn cho Đấng Christ, bạn sẽ bạo dạn chăng?
14. ĐÁP ỨNG LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI (Cong 17:1-33)
Chương này mô tả chức vụ của Phao-lô ở 3 thành phố và cách một số dân chúng trong những thành ấy đã đáp ứng với Lời Đức Chúa Trời. Những bức tranh này là những bức ảnh chụp nhanh, không phải những bức tranh tường, vì bác sĩ Lu-ca đã không cho chúng ta nhiều chi tiết. Tuy nhiên, khi chúng ta nghiên cứu ba đáp ứng khác nhau này, chúng ta hẳn có thể thấy thế giới hiện đại của chúng ta và hiểu rõ hơn điều gì để trông mong khi chúng ta tìm cách làm chứng cho Đấng Christ hôm nay.
1. Thành Tê-sa-lô-ni-ca: Chống lại đạo (Cong 17:1-9)
Theo con đường Egnatian nổi tiếng, Phao-lô và Si-la đã đi 100 dặm từ thành Phi-líp đến thành Tê-sa-lô-ni-ca (Ti-mô-thê không được đề cập lại cho đến Cong 17:14 nên ông có thể đã ở lại trong thành Phi-líp). Ở chừng mực chúng ta có thể nói, họ đã không dừng lại để thi hành chức vụ trong thành Am-phi-bô-lít hay thành A-bô-lô-ni. Có lẽ đã không có nhà hội nào trong các thành đó, và Phao-lô chắc chắn mong muốn những tân tín hữu trong thành Phi-líp mang sứ điệp đến những người lân cận của họ. Đó là chủ trương của Phao-lô để thi hành chức vụ trong những thành phố lớn hơn và khiến chúng trở thành những trung tâm để rao Phúc Âm cho cả một khu vực (Cong 19:10,26 ITe 1:8).
Phao-lô biết rằng Tê-sa-lô-ni-ca (Sa-lô-ni-ca ngày nay của chúng ta) là một thành chiến lược cho công việc của Chúa. Nó không chỉ là thủ phủ của xứ Ma-xê-đoan, nó còn là một trung tâm mua bán, chỉ bị cạnh tranh với thành Cô-rinh-tô. Nó nằm trên nhiều tuyến đường mậu dịch, và lấy làm hãnh diện về một bến cảng nổi tiếng.Thành phố mang nặng sắc thái Hy Lạp, mặc dù nó được Rô-ma điều khiển.Tê-sa-lô-ni-ca là một “thành phố tự do”, nghĩa là nó có một hội đồng lập pháp của những công dân được chọn, nó có thể phát hành những đồng tiền của riêng mình, và nó không có một đơn vị đồn trú nào của La Mã phía trong những bức tường thành.
Phao-lô đã lao động với nghề may trại của mình (Cong 18:3 ITe 2:9 IITe 3:7-10), nhưng vào ngày Sa-bát đã thi hành chức vụ trong nhà hội Do Thái nơi ông biết mình sẽ tìm thấy cả người Do Thái lẫn dân ngoại mộ đạo, “những người tìm kiếm Đức Chúa Trời” và những người mới theo đạo Do Thái. Sự làm chứng này đã tiếp diễn chỉ được ba kỳ lễ Sa-bát sau đó ông phải thi hành chức vụ bên ngoài nhà hội. Chúng ta không biết chính xác Phao-lô đã ở lại trong thành Tê-sa-lô-ni-ca bao lâu, nhưng thời gian đó đủ để nhận sự giúp đỡ tài chính hai lần từ Hội Thánh tại thành Phi-líp (Phi 4:15-16). Hãy đọc ITe 1:1-10 để biết cách Đức Chúa Trời đã chúc phước cho chức vụ của Phao-lô và cách sứ điệp đã lan ra từ thành Tê-sa-lô-ni-ca đến những nơi khác. Đó không phải là một chức vụ kéo dài, nhưng là một chức vụ hiệu quả.
Bốn từ chính trong Cong 17:2-3 mô tả cách tiếp cận của Phao-lô đối với hội chúng nhà hội Trước hết, ông biện luận nghĩa là ông đối thoại với họ qua những câu hỏi và câu trả lời. Ông giải thích (“mở”) Kinh Thánh của họ và chứng minh (“dẫn chứng”) rằng Chúa Giê-xu thật sự là Đấng Mê-si-a. Từ được dịch là “dẫn chứng”có nghĩa “đồng thời xác nhận, chứng minh bằng cách đưa ra chứng cớ. “Vị sứ đồ đã đặt trước họ bằng chứng này đến bằng chứng khác trong Cựu Ước rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét là Đức Chúa Trời Đấng Mê-si-a.
Phao-lô thận trọng tuyên bố (“rao giảng”) sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-xu, đó là sứ điệp của Phúc Âm (ICo 15:1). Trong những bài giảng ở Công vụ, bạn sẽ thấy một sự nhấn mạnh về sự phục sinh, vì các tín đồ đã được kêu gọi để làm những chứng nhân về sự phục sinh của Ngài (Cong 1:21-22 Cong 2:32 Cong 3:15 Cong 5:32). Tấn sĩ John R.W.Stott nói rằng: “Cơ Đốc giáo trong chính thực chất của nó là một tôn giáo về sự phục sinh, khái niệm về sự phục sinh nằm ở trung tâm của nó. Nếu bạn bỏ khái niệm ấy đi, Cơ Đốc giáo bị tiêu diệt”.
Như kết quả của chức vụ trong ba tuần, Phao-lô đã thấy số đông người tin, đặc biệt là những người Hy Lạp mới theo đạo và những phụ nữ có uy thế Trong số những người đàn ông có A-ri-tạc và Sê-cun, những người sau đó đã ra đi với Phao-lô (Cong 20:4). Nhóm từ của Lu-ca “không ít” (Cong 17:4,12) là một cách nói “Đó là một đám đông lớn”.
Nhưng những kết quả này đã không đem lại sự vui mừng cho mọi người. Những người Do Thái không tin đã ghen ghét sự thành công của Phao-lô và không hài lòng thấy người ngoại và những phụ nữ có uy thế rời khỏi nhà hội. Phao-lô hy vọng rằng sự cứu rỗi người ngoại sẽ “khích” dân Do Thái trong sự nghiên cứu Kinh Thánh và khám phá Đấng Mê-si-a đã hứa của họ (Ro 11:13-14), nhưng trong trường hợp này, nó chỉ khích họ trong sự bắt bớ Hội Thánh sơ khai.
Dân Do Thái muốn kéo những nhà truyền giáo đến trước hội đồng thành phố của họ (“dân chúng” (Cong 17:5 Cong 19:30), vì vậy họ tạo ra một cuộc nổi loạn để gây sự chú ý của các quan toà. Không thể tìm thấy các nhà truyền giáo, đám đông kéo Gia-sôn, chủ nhà của Phao-lô và các bạn ông, và bắt người ấy cùng một số tín đồ thay vào đó. Những lời kiện cáo của dân Do Thái giống như những lời kiện cáo đã được sử dụng ở cuộc xét xử Chúa Giê-xu: làm náo động sự hoà bình và đề xướng sự phản nghịch (Lu 23:2). Tội lỗi của họ là tội “nói rằng có một vua khác, một Giê-xu”.
Từ Hy Lạp được dịch là “khác” có nghĩa “khác về một loại khác” đó là một vua không giống như Sê-sa. Khi bạn đọc hai bức thư Tê-sa-lô-ni-ca, bạn thấy sự nhấn mạnh ông trình bày trong Tê-sa-lô-ni-ca về vương quyền của Đấng Christ và lời hứa về sự tái lâm của Ngài. Dĩ nhiên, vương quốc của Chúa không mang tính chất chính trị, cũng không “thuộc thế gian này” (Gi 18:36-37), nhưng chúng ta không thể mong những kẻ ngoại đạo không được cứu hiểu điều này.
Vương quyền của Chúa Giê-xu không giống vương quyền của những người thống trị thế gian này. Ngài chinh phục bằng những đại sứ, không phải những quân đội, và vũ khí Ngài là chân lý và tình yêu. Ngài đem đến cho con người sự hoà bình bằng cách làm xáo trộn sự hoà bình và đảo ngược mọi sự! Ngài chiến thắng nhờ thập tự giá nơi Ngài đã chết cho một thế giới tội nhân hư mất. Ngài thậm chí đã chết thay kẻ thù Ngài! (Ro 5:6-10).
Đám đông đã bị khích động vì họ không thể tìm thấy Phao-lô và Si-la, nên họ đành phải bằng lòng với biện pháp thứ 2 và đạt đến một giao kèo hoà giải chống lại những người đó. Gia-sôn phải nộp tiền và bảo đảm rằng Phao-lô với Si-la rời thành và không trở lại. Có thể Gia-sôn là một người bà con của Phao-lô, điều này làm cho sự thực hiện này thậm chí có ý nghĩa hơn (Ro 16:21). Phao-lô nhìn thấy sự cấm đoán này là một phương kế của Sa-tan để ngăn trở công việc (ITe 2:18) nhưng nó chắc chắn không ngăn trở Hội Thánh Tê-sa-lô-ni-ca “vang khắp thế giới” và chinh phục kẻ hư mất (ITe 1:6-9).
2. Thành Bê-rê: Tiếp nhận đạo (Cong 17:10-15)
Dưới màn đêm, Phao-lô và Si-la đã rời thành và thẳng đến thành Bê-rê, cách xa khoảng 40 dặm. Dường như Ti-mô-thê ở cùng họ, vì ông có thể đang làm việc trong thành Phi-líp. Sau đó, ông sẽ gặp Phao-lô ở thành A-thên (Cong 17:15) và được sai đến thành Tê-sa-lô-ni-ca để khích lệ Hội Thánh trong bất kỳ bắt bớ (ITe 3:1). Vì Ti-mô-thê là người ngoại, và đã không hiện diện khi sự khó khăn khởi phát, ông đã có thể thi hành chức vụ trong thành cách tự do. Sợi dây hoà bình đã có thể ngăn giữ Phao-lô, nhưng nó sẽ không ứng dụng cho người phụ tá trẻ tuổi của Phao-lô.
Phao-lô đã vào trong nhà hội và ở đó phát hiện một nhóm người thiết tha quan tâm đến việc nghiên cứu Kinh Thánh Cựu Ước. Thật ra, họ đã nhóm lại hằng ngày để nghiên cứu Kinh Thánh nhằm xác định điều Phao-lô nói có đúng hay không. Phao-lô vui mừng về cách dân sự trong thành Tê-sa-lô-ni-ca tiếp nhận Lời Chúa (ITe 2:13), vì vậy “những người Bê-rê cao quý này hẳn đã thật sự khích lệ lòng ông. Tất cả chúng ta nên bắt chước những người Bê-rê này bằng cách trung tín học Lời Đức Chúa Trời hằng ngày, thảo luận, và kiểm tra những sứ điệp mình nghe.
Đức Chúa Trời đã dùng Lời Ngài nên nhiều người đã tin nhận Đấng Christ. Một trong những người qui đạo là Sô-ba-tê, người sau đó đã giúp đỡ Phao-lô (Cong 20:4). Ông có thể chính là người (Sô-xi-ba-tê) sau đó đã gởi lời chào thăm đến các Cơ Đốc nhân trong thành Rô-ma (Ro 16:21).
Một lần nữa, Sa-tan đã đem kẻ thù đến nơi và những người Do Thái không tin từ thành Tê-sa-lô-ni-ca đến thành Bê-rê và khuấy động dân chúng (ITe 2:13-20). Những người này bằng cách nào đã nghe rằng Phao-lô và Si-la đang thi hành chức vụ trong thành Bê-rê? Có lẽ sự làm chứng đang phát triển của các tín đồ Bê-rê đã lan đến Tê-sa-lô-ni-ca, hoặc có thể kẻ gây rối nào đó đã đem sứ điệp đến các bạn hắn trong thành Tê-sa-lô-ni-ca. Sa-tan cũng có những “nhà truyền giáo” của nó và họ thật bận rộn (ICo 11:13-15).
Các tín đồ thành Bê-rê đã thắng hơn Sa-tan bằng cách đem Phao-lô đến biển và đưa ông lên một con tàu hướng đến thành A-thên. Một lần nữa, Phao-lô phải rời khỏi một nơi rất tốt cho chức vụ và bỏ lại những người thân yêu ông thương mến.Si-la và Ti-mô-thê sau đó đã gặp lại Phao-lô ở A-thên, và lúc đó Ti-mô-thê được cử đến thành Tê-sa-lô-ni-ca để giúp các thánh đồ ở đó (ITe 3:1-6). Si-la cũng được cử đi với nhiệm vụ đặc biệt ở nơi nào đó trong xứ Ma-xê-đoan (thành Phi-líp?) và sau đó cả hai người đã gặp Phao-lô ở thành Cô-rinh-tô (Cong 18:1-5).
3. Thành A-thên: nhạo báng đạo (Cong 17:16-34)
Phao-lô đã đến thành phố lớn A-thên, không như một khách tham quan, nhưng như một người chinh phục linh hồn. Ông Noel O.Lyons quá cố, nhiều năm là hội trưởng của hội Greater Europe Mission, thường nói, “Châu Âu được hằng triệu khách tham quan xem xét và bị hằng triệu Cơ Đốc nhân bỏ qua”. Ngày nay Châu Âu cần Phúc Âm cũng như đã cần trong thời Phao-lô, và chúng ta không dám bỏ lỡ những cơ hội. Như Phao-lô chúng ta phải có những đôi mắt mở to và những tấm lòng tan vỡ.
-Thành phố: A-thên đã ở trong thời kỳ xuống dốc vào lúc này dù vẫn được nhận biết là một trung tâm văn hoá và giáo dục. Vinh quang về chính trị và thương mại của thành đã biến mất dần kể từ đó. Thành có một trường đại học nổi tiếng và nhiều toà nhà lộng lẫy, nhưng nó đã không phải là một thành phố có ảnh hưởng như trước đó. Thành được cống hiến cho “văn hoá đa thần” được nuôi dưỡng bởi sự thờ thần tượng, việc mới lạ (Cong 17:21) và triết học.
Conybeare và Howson đã viết trong tác phẩm kinh điển “Đời sống và những thư tín của Phao-lô” rằng: “Tôn giáo Hy Lạp chỉ là một sự thần hoá những biểu trương của con người và những sức mạnh của thiên nhiên. Đó là một tôn giáo phục vụ nghệ thuật và sự giải trí, và hoàn toàn thiếu sức mạnh đạo đức”. Những chuyện thần thoại nói về các thần và các nữ thần mà trong sự tranh đua tham vọng của họ, đã hành động giống con người hơn là các thần và có nhiều vị thần để chọn lựa. Một người dí dỏm đã nói đùa rằng trong thành A-thên tìm thấy một vị thần dễ hơn tìm thấy một người. Phao-lô đã thấy rằng thành này “hoàn toàn được dành cho sự thờ thần tượng”, và nó làm tan vỡ lòng ông.
Chúng ta ngày nay khâm phục điêu khắc và kiến trúc Hy Lạp như những tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ, nhưng trong thời Phao-lô, nhiều thứ đã trực tiếp kết hợp với tôn giáo của họ. Phao-lô biết rằng sự thờ thần tượng thuộc ma quỉ (ICo 10:14-23) và nhiều thần của người Hy Lạp chỉ là những nhân vật duy nhất trong các câu chuyện, không thể thay đổi đời sống con người (ICo 8:1-6). Với tất cả văn hoá và sự khôn ngoan của mình, dân Hy Lạp đã không biết Đức Chúa Trời chân thật (ICo 1:18-25).
Đối với sự mới lạ, đó là sự đeo đuổi chính của cả dân thành thị lẫn khách tham quan (Cong 17:21). Giờ nhàn rỗi của họ được dành để nói hoặc nghe “điều mới nào đó”.Eric Hoffer đã viết rằng “việc sợ trở nên ‘lỗi thời’ làm cho một số người chẳng trở nên gì cả”. Người săn đuổi những cái mới và phớt lờ những cái cũ chẳng bao lâu khám phá rằng mình không có những rễ sâu để nuôi dưỡng đời sống. Người đó cũng khám phá rằng không có điều gì thật sự mới chỉ vì những ký ức của chúng ta nghèo nàn (Tr 1:8-11).
Thành này cũng được dành cho triết học. Khi bạn nghĩ đến Hy Lạp tự nhiên bạn nghĩ đến Socrates và Aristotle cùng vô số những nhà tư tưởng khác có những tác phẩm vẫn được người ta đọc và nghiên cứu ngày nay. Bình luận viên báo chí Franklin P.Adams có lần đã định nghĩa triết học là những sự trả lời khó hiểu đối với những vấn đề không thể giải quyết được” nhưng người Hy Lạp có lẽ sẽ không đồng ý với ông. Họ sẽ đi theo Aristotle người đã gọi triết học là “khoa học xem xét chân lý”.
Phao-lô phải đối đầu với hai triết lý đối lập khi ông làm chứng trong thành A-thên, những triết lý của phái Epicureans” với sự theo duổi lạc thú và sự yêu thích “cuộc sống tuyệt vời” đặc biệt là thức ăn tuyệt vời. Nhưng triết học phái Epicurean có liên quan nhiều hơn thế. Theo một ý nghĩa, người sáng lập Epicurus là một “người theo thuyết hiện sinh” trong đó ông tìm kiếm chân lý bằng phương tiện kinh nghiệm riêng chớ không qua lý luận. Những người theo phái Epicurean là những người duy vật và vô thần, và mục tiêu của họ trong đời sống là lạc thú. Đối với một số người, “lạc thú” nghĩa là điều hết sức thuộc thể, nhưng đối với những người khác, nó có nghĩa là một đời sống thanh bình tao nhã, thoát khỏi đau khổ và lo âu. Người theo phái Epicurean thật thường tránh những thái cực và tìm cách hưởng cuộc đời bằng việc giữ cho mọi sự được quân bình, nhưng lạc thú vẫn là mục tiêu số một của người ấy.
Những người phái Stoics loại bỏ sự sùng bái thờ phượng của người tà giáo và dạy rằng có một “Đức Chúa Trời của thế giới”. Họ là những người theo thuyết phiếm thần, và sự nhấn mạnh của họ là về kỷ luật cá nhân và tự chủ. Lạc thú không tốt và đau khổ không phải là xấu. Điều quan trọng nhất trong đời sống là đi theo lý trí của mình và tự lo liệu, không bị lay động bởi những cảm xúc bên trong hay những hoàn cảnh bên ngoài. Dĩ nhiên, một triết lý như vậy chỉ thổi bùng những ngọn lửa kiêu ngạo và dạy con người rằng họ không cần sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. Thật thú vị là hai lãnh đạo đầu tiên của trường phái Stoic đã tự sát.
Những người phái Epicurean đã nói “Hãy hưởng cuộc sống! ” và những người phái Stoics nói: “hãy chịu đựng cuộc sống! ” nhưng nó vẫn để Phao-lô giải thích cách họ có thể bước vào sự sống nhờ đức tin nơi Con Đức Chúa Trời đã sống lại.
-Sự làm chứng. “Ở lại một mình tại A-thên” (ITe 3:1) Phao-lô nhìn thấy thành phố đầy thần tượng và tâm trí ông “bị khuấy động” (cùng từ như “sự cãi vã” trong Cong 15:39 - “cơn bộc phát”). Vì vậy, ông đã lợi dụng những cơ hội sẵn có để chia sẻ tin tức tốt lành về Phúc Âm. Theo như thông lệ, ông đã “đối thoại” trong nhà hội với người Do Thái, nhưng ông cũng đã làm chứng trong nơi họp chợ cho người Hy Lạp. Bất cứ ai sẵn sàng nói chuyện đều được Phao-lô tiếp đón vào “các lớp học” hằng ngày của ông.
Không mất thời gian lâu để những nhà triết học nghe về “điều mới” này đang diễn ra trong nơi họp chợ, và họ đã đến và lắng nghe Phao-lô và có lẽ đã tranh luận với ông. Khi lắng nghe, họ đã bày tỏ hai đáp ứng khác nhau. Một nhóm người chế nhạo Phao-lô với những sự dạy dỗ của ông và gọi ông là “kẻ nói nhảm”. Từ này có nghĩa đen là “những con chim nhặt hạt”, và nó chỉ về một người nào đó thu thập những ý niệm khác nhau và dạy như của chính mình những tư tưởng vay mượn từ những người khác. Đó không phải là một mô tả rất tâng bốc về nhà truyền giáo và nhà thần học vĩ đại nhất của Hội Thánh.
Nhóm thứ hai mơ hồ nhưng có quan tâm. Họ nghĩ Phao-lô tin như chính họ đã tin nơi nhiều thần, vì ông đang rao giảng “Chúa Giê-xu và Anatasis” (từ Hy Lạp về “sự phục sinh”). Từ được dịch là “rao giảng” trong Cong 17:18 nghĩa là “rao giảng Phúc Âm”. Những người nói rằng Phao-lô đã thay đổi những chiến thuật giảng Phúc Âm ở A-thên hy vọng lôi cuốn những người trí thức, đã không hiểu vấn đề. Ông đã rao giảng Phúc Âm ở A-thên dạn dĩ cũng như ông đã làm ở thành Bê-rê và sẽ làm vậy trong thành Cô-rinh-tô.
-Sự bảo vệ. Hội đồng ở A-rê-ô-pa chịu trách nhiệm giám sát tôn giáo và giáo dục trong thành, vì vậy điều tra: “học thuyết mới” Phao-lô đang dạy là điều tự nhiên đối với họ. Họ lịch sự mời Phao-lô trình bày học thuyết của ông tại một buổi họp không chính thức của hội đồng trên đồi Mars. Phao-lô không bị xét xử, các thành viên hội đồng chỉ muốn ông giải thích điều ông đã nói cho dân chúng trong nơi họp chợ. Xét cho cùng, cuộc sống ở thành A-thên bao gồm nghe và nói những điều mới, và Phao-lô đã có điều mới gì đó!
Sứ điệp của Phao-lô là một kiệt tác về sự truyền thông. Ông đã bắt đầu ngay tại chỗ dân chúng bằng cách chỉ bàn thờ của họ được dâng cho một Chúa không biết.Khơi dậy được sự chú ý của họ, Phao-lô bắt đầu giải thích Đức Chúa Trời là ai và Ngài thế nào. Ông kết thúc bằng một ứng dụng cá nhân và để mỗi thành viên của hội đồng đối diện với một quyết định hợp đạo đức, và một số người đã quyết định chọn Chúa Giê-xu Christ.
Phao-lô đã mở lời bằng một lời khen: “Ta thấy rằng trong mọi phương diện quí vị rất mộ đạo. Thật ra, mộ đạo đến nỗi họ có cả một bàn thờ cho “Chúa không biết”, để tránh có vị phúc thần nào đó bị bỏ quên. Nếu họ không biết vị thần này, làm sao họ có thể thờ phượng Ngài? Hoăc làm sao người có thể giúp họ? Đó là Đức Chúa Trời này mà Phao-lô công bố.
Trong sứ điệp này, tương tự như bài giảng của ông tại thành Lít-trơ (Cong 14:15-17), Phao-lô đã chia sẻ bốn chân lý cơ bản về Đức Chúa Trời.
(1). Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời: Ngài là Đấng tạo hoá (Cong 17:24). Mọi người có suy nghĩ đều hỏi: “Tôi từ đâu đến? Tại sao tôi có mặt ở đây? Tôi sẽ đi đâu?”Khoa học cố gắng trả lời câu hỏi thứ nhất, và triết học vật lộn với câu hỏi thứ hai, nhưng chỉ có Cơ Đốc giáo có một sự trả lời thoả đáng cho cả ba câu hỏi.Những người phái Epicureans, là những người vô thần, đã nói rằng tất cả là vật chất và vật chất luôn như vậy. Những người phái Stoics tất cả mọi sự là Đức Chúa Trời, thần linh của vũ trụ. Đức Chúa Trời chẳng tạo ra bất cứ điều gì Ngài chỉ xếp đặt vật chất và đóng dấu trên nó “luật và trật tự” nào đó.
Nhưng Phao-lô đã dạn dĩ khẳng định: “Từ ban đầu, Đức Chúa Trời! ” Đức Chúa Trời đã tạo nên thế giới và mọi vật trong đó, và Ngài là Chúa của tất cả những gì Ngài dựng nên. Ngài không phải là một Đức Chúa Trời ở xa, tách rời khỏi tạo vật của Ngài, Ngài cũng không phải là một Đức Chúa Trời bị giam cầm, bị bao bọc giữa sự sáng tạo. Ngài quá vĩ đại nên không thể bị chứa trong những đền thờ do con người tạo ra (IVua 8:27 Es 66:1-2 Cong 7:48-50), nhưng Ngài không phải quá vĩ đại mà không quan tâm đến những nhu cầu của con người (Cong 17:25). Chúng ta không biết các thành viên hội đồng phản ứng ra sao đối với nhận định của Phao-lô về các đền thờ, vì ngay Acropolis có nhiều điện thờ dành cho thần Athena.
(2). Sự nhân lành của Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng chu cấp (Cong 17:25). Con người có thể tự hào trong sự hầu việc Đức Chúa Trời, nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng hầu việc con người. Nếu Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, vậy Ngài tự lo liệu và không cần điều gì con người có thể cung cấp. Những đền thờ không những không chứa được Đức Chúa Trời, mà những lễ nghi trong các đền thờ đã không thêm gì cho Đức Chúa Trời! Trong hai nhận định ngắn gọn, Phao-lô đã hoàn toàn xoá sạch cả hệ thống tôn giáo của Hy Lạp!
Chính Đức Chúa Trời là Đấng ban cho chúng ta điều chúng ta cần, “…sự sống, hơi thở và mọi sự”. Đức Chúa Trời là nguồn của mọi sự ban cho tốt lành và trọn vẹn (Gia 1:17). Ngài ban cho chúng ta sự sống và Ngài duy trì sự sống đó bằng sự nhân lành của Ngài (Mat 5:45). Chính sự nhân lành của Đức Chúa Trời phải dẫn con người đến sự ăn năn (Ro 2:4). Nhưng thay vì thờ phượng Đấng Tạo Hoá và làm vinh hiển Ngài, con người lại thờ phượng tạo vật của Ngài và làm vinh hiển chính mình (Ro 1:18-25).
(3). Sự cai trị của Đức Chúa Trời: Ngài là Đấng thống trị (Cong 17:26-29). Các thần của người Hy Lạp là những con người ở xa không hề quan tâm đến những vấn đề và nhu cầu của con người. Nhưng Đức Chúa Trời của sự sáng tạo cũng là Đức Chúa Trời của lịch sử và địa lý! Ngài đã tạo nên loài người “từ một người” (Cong 17:26) để mọi dân tộc được tạo ra từ cùng một chất và cùng một huyết. Những người Hy Lạp cảm thấy rằng họ là một chủng tộc đặc biệt, khác với các dân tộc khác. Nhưng Phao-lô đã khẳng định ngược lại.Ngay cả xứ sở quý báu mà họ tôn kính đã đến như một sự ban cho từ Đức Chúa Trời. Đó không phải là quyền của con người, nhưng là sự tể trị của Đức Chúa Trời, quyết định sự hưng vong của các dân tộc (Da 4:35).
Đức Chúa Trời không phải là một vị thần ở xa “Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta” (Cong 17:27). Vì vậy con người phải tìm kiếm Đức Chúa Trời và nhận biết Ngài trong chân lý. Ở đây Phao-lô đã trích dẫn thi sĩ Epimendes “vì trong Ngài, chúng ta được sống, động và có”. Rồi ông thêm vào một trích dẫn của hai thi sĩ “vì chúng ta cũng là dòng dõi của Ngài”. Phao-lô không nói rằng mọi người trên đất đều là con cái thuộc linh của Đức Chúa Trời, vì tội nhân trở nên con cái Đức Chúa Trời chỉ bởi đức tin trong Chúa Giê-xu (Gi 1:11-13). Đúng hơn, ông đang khẳng định “quyền làm Cha của Đức Chúa Trời” theo ý niệm tự nhiên, vì con người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sa 1:26). Trong ý nghĩa này, A-đam là “con của Đức Chúa Trời” (Lu 3:38).
Điều này dẫn đến kết luận hợp lý của Phao-lô: Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài, nên thật dại dột cho chúng ta khi tạo ra các thần theo hình ảnh của chính mình! Tôn giáo Hy Lạp chỉ là sự chế tạo và thờ phượng các thần, những vị đã được lấy mẫu theo con người và hành động giống con người. Phao-lô không chỉ chứng minh sự điên rồ của những đền thờ và những lễ nghi trong đền thờ, mà còn chứng minh sự ngu xuẩn của cả sự thờ thần tượng.
4). Ân điển của Đức Chúa Trời: Ngài là Đấng Christ (Cong 17:30-31). Khi kết thúc sứ điệp, Phao-lô tóm tắt những chứng cớ rõ ràng về ân điển của Đức Chúa Trời. Trải bao thế kỷ, Đức Chúa Trời đã kiên nhẫn với tội lỗi và sự ngu dốt của loài người (Cong 14:16 Ro 3:25). Điều này không có nghĩa là con người đã không phạm tội (Ro 1:19-20), nhưng chỉ có nghĩa là Đức Chúa Trời đã kìm nén cơn thạnh nộ thiêng liêng của Ngài. Vào thời điểm thích hợp, Đức Chúa Trời đã ban một Đấng Christ, và giờ đây Ngài ra lệnh mọi người phải ăn năn về những lối sống dại dột của mình. Đấng Christ này đã bị giết và rồi được khiến sống lại từ cõi chết, và một ngày nào đó, Ngài sẽ tái lâm để xét đoán thế gian. Bằng chứng Ngài sẽ xét đoán là Ngài đã được khiến sống lại từ cõi chết.
Đó là giáo lý về sự sống lại mà hầu hết các thành viên Hội đồng không thể chấp nhận. Đối với một người Hy Lạp, thân thể chỉ là một nhà tù và một người lìa bỏ thân xác mình càng sớm, người ấy sẽ càng sung sướng hơn. Tại sao khiến một thân thể chết sống lại và sống trong đó lần nữa? Sự dạy dỗ loại này hoàn toàn không hợp với triết học Hy Lạp. Họ tin nơi sự bất tử, nhưng không tin nơi sự sống lại.
Có ba đáp ứng khác nhau đối với sứ điệp. Một số người đã cười cợt, chế nhạo và không nhận sứ điệp của Phao-lô cách nghiêm túc. Những người khác đã quan tâm nhưng muốn nghe nhiều hơn. Một nhóm nhỏ đã chấp nhận điều Phao-lô rao giảng, tin nơi Chúa Giê-xu và được cứu. Chúng ta không biết những người khác đả trì hoãn quyết định cuối cùng có tin nhận Đấng Christ hay không Chúng ta hy vọng họ đã tin.
Khi bạn đối chiếu những kết quả dường như sơ sài ở thành A-thên với những mùa gặt lớn ở thành Tê-sa-lô-ni-ca và Bê-rê, bạn bị thuyết phục để kết luận rằng chức vụ của Phao-lô ở đó là một thất bại thảm thương. Nếu bạn làm vậy, bạn có thể thấy mình đang đến gần một kết luận hấp tấp và sai lầm. Phao-lô đã không bị ra lịnh phải rời nơi này nên chúng tôi cho rằng ông đã nấn ná trong thành A-thên và tiếp tục dạy dỗ cho cả tín đồ lẫn người không tin. Những người A-thên kiêu ngạo, thạo đời, khôn ngoan sẽ không dễ dàng nhận sứ điệp Phúc Âm khiêm nhường của Phao-lô, đặc biệt là khi ông tóm tắt toàn bộ lịch sử Hy Lạp bằng nhóm từ “các đời ngu muội này”. Đất ở đây không sâu và nó chứa nhiều cỏ dại, nhưng đã có một mùa gặt nhỏ.
Và xét cho cùng, một linh hồn đáng giá cả thế gian!
Chúng ta vẫn cần những chứng nhân là những người sẽ xâm nhập vào “những hội trường của học viện” và trình bày Đấng Christ cho những người khôn ngoan trong thế gian này nhưng ngu dốt về sự khôn ngoan thật của thế giới hầu đến. “Không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng được gọi” (ICo 1:26), nhưng một số người được gọi, và Đức Chúa Trời có thể sử dụng bạn để gọi họ.
Hãy đem Phúc Âm đến “A-thên” của bạn. Hãy bạo dạn!
15. LUÔN QUÁ SỚM CHỚ BỎ CUỘC (Cong 18:1-22)
Một người đàn ông kia đang xúc tuyết khỏi đường lái xe của ông thì hai cậu bé mang những xuổng đến gần ông.
Một đứa hỏi: “Thưa ông, có xúc tuyết không? Chỉ hai đô-la thôi”
Bối rối, người đàn ông đáp: “Cậu không thấy rằng tôi đang tự làm đó sao?”
Cậu bé mạnh dạn nói: “Chắc chắn rồi, đó là lý do chúng tôi hỏi. Chúng tôi nhận hầu hết công việc của những người làm nửa chừng và cảm thấy muốn bỏ cuộc! ”
Tấn sĩ V.Raymond Edman thường nói với các sinh viên tại Đại học Wheaton (Illinois), “luôn quá sớm để bỏ cuộc! ” Và Charles Spurgeon đã nhắc nhở hội chúng Luân-đôn của ông, “Bởi sự kiên trì, con ốc sên đã đến được chiếc tàu (Nô-ê)”.
Thành Cô-rinh-tô với 200.000 dân, sẽ không phải là thành dễ dàng nhất để khởi đầu một Hội Thánh ở đó, nhưng đó là nơi Phao-lô đã đi sau khi rời A-thên. Và ông đã đi một mình! Sự ra đi khó khăn, nhưng vị sứ đồ đã không bỏ cuộc.
Tiếng tăm của Cô-rinh-tô về điều ác đã được biết đến khắp đế quốc La Mã (Ro 1:18-32 đã được viết tại thành Cô-rinh-tô! ). Nhờ vào vị trí của nó, thành là một trung tâm về thương mại lẫn du lịch. Tiền bạc và sự truỵ lạc, cùng với những triết lý lạ và những tôn giáo mới, đã đến Cô-rinh-tô và lập cư ở đó. Cô-rinh-tô là thủ phủ của xứ A-chai và là một trong những thành phố quan trọng nhất Phao-lô đã thăm viếng Thành kia là Ê-phê-sô.
Khi Đức Chúa Trời mở các cửa, kẻ thù tìm cách đóng chúng, và có những lúc khi chúng ta đóng cửa trên chính mình vì chúng ta trở nên ngã lòng và bỏ cuộc. Khi Phao-lô thi hành chức vụ ở Cô-rinh-tô, Chúa chỉ ban cho ông những sự khích lệ ông cần để giúp ông tiếp tục, và chính những sự khích lệ này sẵn có cho chúng ta hôm nay.
1. Những người giúp việc tận tuỵ (Cong 18:1-5).
Phao-lô đã đến thành Cô-rinh-tô sau chức vụ của ông dành cho các triết gia ở Hy Lạp, và ông quyết định ngợi khen Chúa Giê-xu và thập tự giá, nhờ cậy Thánh Linh, và trình bày Phúc Âm cách đơn giản (ICo 2:1-5). Có nhiều triết gia và các thầy giáo lưu hành ở thành Cô-rinh-tô, vơ vét trên số dân ngu dốt và mê tín, còn sứ điệp và chức vụ của Phao-lô có thể dễ bị hiểu sai. Một cách Phao-lô đã biệt mình khỏi “những kẻ buôn bán tôn giáo” là bằng việc tự chu cấp với tư cách một thợ may trại. Nhờ sự tiên liệu của Đức Chúa Trời, ông đã gặp một cặp vợ chồng Do Thái, A-qui-la và Bê-rít-sin (Bơ-rít-ca, IITi 4:19), là những người thợ làm da như Phao-lô. Các ra-bi Do Thái đã không nhận tiền từ những học viên nhưng kiếm sống bằng cách làm một nghề. Mọi con trai Do Thái đều được trông mong học một nghề, cho dù họ có thể bước vào nghề chuyên môn nào. Các Ra-bi đã nói: “Ai không dạy con trai mình làm việc là dạy nó ăn cắp! ” Vì vậy Sau-lơ ở Tạt-sơ đã học may lều da và tự hổ trợ mình trong chức vụ (Cong 18:3 ICo 9:6-15 IICo 11:6-10).
A-qui-la và Bê-rít-sin có phải là những tín đồ Cơ Đốc lúc bấy giờ? Chúng ta không biết chắc chắn, nhưng có thể họ là tín đồ Cơ-đốc. Có lẽ họ thậm chí là những thành viên sáng lập Hội Thánh ở Rô-ma. Chúng ta biết rằng đôi vợ chồng tận tuỵ này đã hầu việc trung tín nhất và ngay cả liều mạng sống vì Phao-lô (Ro 16:3-4). Họ đã giúp đỡ ông trong thành Ê-phê-sô (Cong 18:18-28) nơi họ thậm chí đã tiếp một Hội Thánh trong nhà mình (ICo 16:19). A-qui-la và Bê-rít-sin là một phần quan trọng của “nhóm” Phao-lô và ông cảm tạ Đức Chúa Trời về họ. Họ là một tấm gương tốt về cách “những người thi hành chức vụ không chuyên” có thể giúp đẩy mạnh công việc của Chúa. Mọi mục sư và truyền đạo hãy cảm tạ Đức Chúa Trời về những người như A-qui-la và Bê-rít-sin, những người có đôi tay, tấm lòng và nhà ở được dâng cho công việc của Chúa. Phao-lô đã sống và làm việc với A-qui-la cùng Bê-rít-sin, nhưng vào những ngày Sa-bát thì dạn dĩ làm chứng trong nhà hội. Xét cho cùng, đó là lý do ông đã đến thành Cô-rinh-tô. Khi Si-la và Ti-mô-thê từ xứ Ma-xê-đoan đến (Cong 17:14-15 Cong 18:5), họ đã đem viện trợ về tài chính (IICo 11:9), và điều này giúp Phao-lô có thể dành trọn thời gian cho việc rao giảng Phúc Âm. Hẳn là một sự vui mừng cho Phao-lô để nhìn thấy các bạn ông và nghe nơi họ những tin tức tốt lành về sự kiên định của Cơ Đốc nhân trong các Hội Thánh họ đã cùng gieo trồng (ITe 3:1-13).
Mọi người đồng ý rằng Phao-lô là một Cơ Đốc nhân vĩ đại và là một nhà truyền giảng Phúc Âm vĩ đại, nhưng một mình Phao-lô sẽ hoàn thành được bao nhiêu? Những người bạn như A-qui-la và Bê-rít-sin, Si-la và Ti-mô-thê, cùng những tín đồ rời rộng xứ Ma-xê-đoan, đã khiến Phao-lô có thể hầu việc Chúa cách hiệu quả. Các bạn Cơ Đốc của ông, mới và cũ, đã khích lệ ông vào thời điểm ông cần nhất.
Dĩ nhiên, điều này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta nên khích lệ bạn bè mình trong công việc của Chúa. Ralph Waldo Emerson đã viết, “Đức Chúa Trời hiển nhiên không định cho chúng ta đều là bạn hữu”. “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Đấng Christ” (Ga 6:2). Nói theo cách con người, sẽ không có Hội Thánh nào ở Cô-rinh-tô nếu không có sự tận tuỵ và sự hầu việc của nhiều người khác nhau.
2. Sự chống đối (Cong 18:6-8)
Mỗi khi Đức Chúa Trời đang chúc phước một chức vụ, bạn có thể chờ đợi những sự chống đối gia tăng cũng như những dịp tiện gia tăng. “Vì một cái cửa lớn và có hiệu quả đã mở cho tôi, lại có nhiều kẻ đối địch” (ICo 16:9). Xét cho cùng, kẻ thù nổi giận khi chúng ta xâm nhập lãnh địa của nó và giải phóng những nô lệ của nó. Như ở thành Tê-sa-lô-ni-ca và Bê-rê (Cong 17:5-13), những người Do Thái không tin, chối bỏ đạo, đã gây rắc rối cho Phao-lô và các bạn ông (ITe 2:14-16). Sự chống đối như vậy thường là bằng chứng Đức Chúa Trời đang hành động, và điều này phải khích lệ chúng ta. Spurgeon thường nói rằng ma quỉ không bao giờ đá một con ngựa chết!
Sự chống đối của người Do Thái đã buộc Phao-lô rời Tê-sa-lô-ni-ca và Bê-rê, nhưng trong thành Cô-rinh-tô, sự chống đối chỉ khiến ông quyết định ở lại đó và thực hiện công việc. Luôn quá sớm để bỏ cuộc! Giống như Christopher Columbus dũng cảm, Phao-lô đã có thể viết trong nhật ký mình, “Hôm nay, chúng tôi đã nhổ neo! ”
Hai hình ảnh thú vị trong Cựu Ước được tìm thấy ở câu ITe 6: Giũ áo là một hành động xét đoán rằng: “Các ngươi đã có một dịp tiện, nhưng giờ đây dịp tiện qua rồi! ”Hôm nay chúng ta đã có thể nói rằng chúng ta đang phủi tay trước một hoàn cảnh (xem Ne 5:13 và so sánh Cong 13:51 với Ma 10:14). Mặc dù Phao-lô chưa bao giờ ngừng làm chứng cho dân Do Thái, nhưng sự kêu gọi chủ yếu của ông là truyền giảng Phúc Âm cho dân ngoại (Ma 13:46-48 Ma 28:28).
Có máu trên tay mình nghĩa là bạn mang trách nhiệm về sự chết của người khác vì bạn đã không trung tín cảnh cáo người đó. Hình ảnh này đến từ người canh giữ những bức tường thành có nhiệm vụ cảnh giác (báo cho biết nguy hiểm sắp đến. (Exe 3:17-21 Exe 33:1-9). Nhưng có máu trên đầu mình nghĩa là bạn đáng trách về sự xét đoán của chính mình. Bạn đã có cơ hội được cứu, nhưng bạn đã gạt bỏ (Gios 2:19). Tay Phao-lô tinh sạch (Cong 20:26), vì ông đã trung tín rao sứ điệp Phúc Âm. Dân Do Thái đã có máu họ trên đầu họ vì họ đã chối bỏ chân lý của Đức Chúa Trời.
Vào đúng lúc, Đức Chúa Trời đã đem người bạn khác vào đời sống của Phao-lô – người ngoại, Ti-ti-u Giút-tu kính sợ Đức Chúa Trời Một số nhà nghiên cứu nghĩ tên đầy đủ của ông là Gai-út Ti-ti-u Giú-tu và cho rằng ông là “Gai-út người tiếp đãi tôi” được đề cập trong Ro 16:23. Quan hệ giữa Gai-út và Cơ-rít-bu trong Cong 18:7 và ICo 114 chắc chắn có ý nghĩa.
Phao-lô đã ra đi từ nhà hội và bắt đầu sử dụng nhà của Ti-ti-u Giút-tu làm trạm rao giảng, ngay kế bên nhà hội! Đây chắc chắn là một quyết định khôn ngoan của Phao-lô, vì nó cho ông sự tiếp xúc liên tục với dân Do Thái và dân ngoại mới theo đạo. Và như một kết quả, ngay cả chủ nhà hội cũng qui đạo! Công việc của chủ nhà hội là bảo đảm rằng ngôi nhà hội được coi sóc và những lễ thờ phượng được duy trì đều đặn và trật tự. Chúng ta có ở đây một ví dụ khác về cả một gia đình trở lại cùng Chúa (Cong 10:24,44 Cong 16:15,34). Điều đó chắc đã khuấy động dân cư Do Thái trong thành Cô-rinh-tô dường nào!
Khi bạn xem xét chức vụ của Phao-lô trong thành Cô-rinh-tô, bạn sẽ thấy rằng ông đang thực hiện nhiệm mạng của Chúa được trình bày trong Mat 28:19-20 Phao-lô đã đến Cô-rinh-tô (“đi”), ông đã thu phục tội nhân cho Đấng Christ (“tạo ra những môn đệ”), ông làm phép báp-tem, và ông dạy dỗ họ (chú ý Cong 18:11). Ông còn kinh nghiệm sự chắc chắn của Lời Chúa “Này, ta ở cùng ngươi luôn! ” (Cong 18:9-10).
Các cộng sự của Phao-lô đã làm báp-tem cho hầu hết những người mới qui đạo (ICo 1:11-17), giống như các môn đệ Chúa đã làm khi Ngài thi hành chức vụ trên đất (Gi 4:1-2 và chú ý Cong 10:46-48). Điều quan trọng là sự vâng lời Chúa của tín đồ chớ không phải tên của tôi tớ Chúa, người làm báp-tem. Khi tôi trở thành mục sư thâm niên ở Hội Thánh Moody tại Chicago, một thuộc viên lớn tuổi hơn đã kiêu hãnh nói với tôi: “Tôi đã được Tấn sĩ Ironside làm phép báp-tem! ”. Ông ta ngạc nhiên là tôi đã không cảm kích. Tôi chắc rằng tấn sĩ Ironside sẽ quở trách ông cách yêu thương về việc nói như vậy, vì tấn sĩ Ironside là một người khiêm nhường muốn danh Đấng Christ được tôn cao, không phải danh của ông.
Bước đi bằng đức tin nghĩa là thấy những dịp tiện ngay cả giữa sự chống đối. Người bi quan chỉ thấy những vấn đề, người lạc quan chỉ thấy tiềm lực, nhưng người thực tế thấy tiềm lực trong những vấn đề. Phao-lô đã không nhắm mắt trước nhiều nguy hiểm và khó khăn trong hoàn cảnh ở Cô-rinh-tô, nhưng ông đã nhìn chúng từ quan điểm thiêng liêng.
Đức tin đơn giản nghĩa là vâng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời bất chấp những xúc cảm, hoàn cảnh hay hậu quả. Chẳng bao giờ có một nơi dễ chịu để hầu việc Đức Chúa Trời, và nếu có một nơi dễ chịu, có thể là có gì sai trật. Phao-lô đã nhắc nhở Ti-mô-thê. “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Giê-xu, thì sẽ bị bắt bớ” (IITi 3:12).
Francis Bacon đã viết: “Sự thịnh vương là phước hạnh của Cựu Ước, nghịch cảnh là phước hạnh của Tân Ước”. Phao-lô đã không để cho nghịch cảnh cản trở ông hầu việc Đức Chúa Trời.
3. Lời bảo đảm (Cong 18:9-17)
Sự qui đạo của Cơ-rít-bu , một chức sắc Do Thái quan trọng, đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho sự rao giảng Phúc Âm và đem đến nhiều sự chống đối hơn của kẻ thù! Cộng đồng Do Thái ở Cô-rinh-tô chắc hẳn đã giận dữ về sự thành công của Phao-lô và làm mọi việc có thể để khiến ông nín lặng và đuổi ông. Bác sĩ Lu-ca không cho chúng ta chi tiết, nhưng tôi có ấn tượng rằng giữa Cong 18:8,9, tình thế đặc biệt trở nên khó khăn và nguy hiểm. Phao-lô có thể đang nghĩ đến việc rời thành thì Chúa đến với ông và ban cho ông sự bảo đảm ông cần.
Sự bảo đảm đó cũng giống như Chúa phán với chúng ta khi chúng ta cần Ngài hơn hết.Lời dịu dàng “đừng sợ chi! ” của Ngài có thể làm lặng cơn bão tố trong lòng chúng ta bất kể mọi hoàn cảnh quanh ta. Đây là cách Ngài đã đảm bảo với Áp-ra-ham (Sa 15:1), Y-sác (Sa 26:24) và Gia-cốp (Sa 46:3), cũng như Giô-sa-phát (IISu 20:15-17), Đa-ni-ên (Da 10:12,19), Ma-ri (Lu 1:30), và Phi-e-rơ (Lu 5:10). Khi bạn cảm thấy cô đơn và chiến bại, hãy suy gẫm He 13:5 và Es 41:10 Es 43:1-7 và bằng đức tin hãy tuyên bố sự hiện diện của Chúa Ngài ở cùng bạn!
Khi còn là một thanh niên, mục sư Anh quốc nổi tiếng G.Campbell Morgan thường đọc Kinh Thánh mỗi tuần cho hai phụ nữ lớn tuổi. Một buổi tối nọ, khi đã đọc xong những lời cuối trong Mat 28:1-28) Morgan đã nói với các phụ nữ: “Đó không phải là một lời hứa kỳ diệu sao! ” và một người trong họ đáp: “Chàng trai trẻ ơi đó không phải là một lời hứa – đó là một sự chắc chắn! ”
Chúa Giê-xu đã hiện ra cho Phao-lô trên đường Đa-mách (Cong 9:1-6 Cong 26:12-18) và cũng ở trong đền thờ (Cong 22:17-18). Phao-lô sẽ được Ngài khích lệ lần nữa khi ông bị cầm tù ở Giê-ru-sa-lem (Cong 23:11) và sau đó ở Rô-ma (IITi 4:16-17). Thiên sứ của Chúa cũng hiện ra cho Phao-lô giữa cơn bão và cho ông một lời bảo đảm về những hành khách và thuỷ thủ đoàn (Cong 27:23-25). Một trong những danh của Chúa chúng ta là “Em-ma-nu-ên – Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Mat 1:23), và Ngài đã sống đúng với danh của Ngài.
Phao-lô đã được khích lệ không chỉ bởi sự hiện diện của Chúa, mà còn bởi những lời hứa của Ngài. Chúa Giê-xu đã bảo đảm với Phao-lô rằng không ai sẽ làm hại ông và ông sẽ đem nhiều tội nhân đến với Cứu Chúa. Lời tuyên bố “Ta có nhiều người trong thành này “hàm ý giáo lý về sự lựa chọn thiên thượng, vì “Chúa biết kẻ thuộc về Ngài” (IITi 2:19). Hội Thánh của Đức Chúa Trời được lập nên từ những con người “đã được chọn… trong Ngài (Đấng Christ) trước khi sáng thế” (Eph 1:4 Cong 13:48).
Xin hãy chú ý rằng quyền tể trị thiên thượng trong sự lựa chọn không phải là điều cản trở trách nhiệm của con người trong sự rao giảng Phúc Âm. Hoàn toàn ngược lại mới đúng! Sự chọn lựa thiêng liêng là một trong những sự khích lệ lớn nhất cho sự rao giảng Phúc Âm. Vì Phao-lô biết rằng Đức Chúa Trời đã có những người được biệt riêng cho sự cứu rỗi, nên trách nhiệm của Đức Chúa Trời là cứu tội nhân. Nếu sự cứu rỗi tuỳ thuộc vào con người tội lỗi, vậy nỗ lực của chúng ta là vô ích, nhưng nếu “sự cứu rỗi thuộc về Chúa” (Gion 2:10), vậy chúng ta có thể trông mong Ngài chúc phước cho Lời Ngài và cứu các linh hồn.
John Stott trong cuốn sách God’s New Society (Xã Hội Mới của Đức Chúa Trời) viết rằng: “Kinh Thánh không chỗ nào xua tan sự mầu nhiệm về sự lựa chọn, và chúng ta nên đề phòng bất cứ ai tìm cách hệ thống hoá nó quá chính xác và kiên quyết.Không chắc rằng chúng ta sẽ khám phá được một giải pháp đơn giản cho một vấn đề đã làm hỏng những bộ não tốt nhất của các Cơ Đốc nhân trải bao thế kỷ” (Intervarsity trang 48).
Điều quan trọng là chúng ta tiếp nhận chân lý của Đức Chúa Trời và hành động theo chân lý. Phao-lô đã không mất thời gian suy đoán về sự tể trị thiên thượng và trách nhiệm của con người theo cách mà một số Cơ Đốc nhân sống trong tháp ngà làm hôm nay. Ông đã bận rộn và tìm cách chinh phục các linh hồn cho Đấng Christ! Bạn và tôi không biết những người được chọn của Đức Chúa Trời là ai, vì vậy chúng ta đem Phúc Âm đến cho mọi người và để Đức Chúa Trời làm phần còn lại. Và chúng ta chắc chắn không bàn luận sự chọn lựa với những người hư mất! D.L.Moody có lần bảo với một số người không qui đạo rằng: “Quí vị không thể làm được gì hơn với giáo lý về sự chọn cũng như quý vị không có liên quan gì với chính quyền của Trung quốc! ”
Trước khi rời khỏi chủ đề này, chúng ta nên chú ý rằng trách nhiệm riêng của chúng ta là biết chắc chắn rằng mình ở trong số những kẻ được chọn của Đức Chúa Trời.“Vậy, hỡi anh em hãy chú ý cho chắc chắn về sự Chúa kêu gọi và chọn lựa mình” (IIPhi 1:10). Với kẻ lý luận tò mò đã hỏi về số người được chọn, Chúa Giê-xu đã đáp: “Hãy gắng sức vào cửa hẹp! ” (Lu 13:23-24). Nói cách khác, “Điều ngươi cần là sự cứu rỗi cho chính ngươi, không phải sự suy đoán về người khác! Hãy biết chắc chính ngươi được cứu hay chưa, rồi chúng ta có thể nói về những chân lý kỳ diệu này”.
Phao-lô đã tiếp tục ở Cô-rinh-tô, biết rằng Đức Chúa Trời ở cùng ông và dân sự sẽ được cứu. Suốt 18 tháng làm chứng, Phao-lô đã nhìn thấy nhiều thắng lợi bất chấp sự chống đối của Sa-tan. Hội Thánh được hình thành không phải từ nhiều người mạnh mẽ và cao quý (ICo 1:26-31), nhưng từ những tội nhân có đời sống đã được biến đổi nhờ ân điển Đức Chúa Trời (ICo 6:9-11).
Bác sĩ Lu-ca chỉ chia sẻ một điển hình về sự bảo vệ thiên thượng suốt chức vụ của Phao-lô trong thành Cô-rinh-tô (Cong 18:12-17), nhưng đó là một sự bảo vệ đầy ý nghĩa. Sự đến của một thống đốc mới đã cho những người Do Thái không tin hy vọng rằng Rô-ma có thể tuyên bố “giáo phái Cơ-đốc” mới này là bất hợp pháp. Họ đã phạm luật bằng cách tấn công Phao-lô và buộc ông đến toà án. Đây không phải là lần đầu tiên những người Do Thái cuồng tín tìm cách chứng minh rằng Phao-lô đang vi phạm luật pháp Rô-ma (Cong 16:19-24 Cong 17:6-7).
Là một công dân Rô-ma, Phao-lô được chuẩn bị để tự bảo vệ mình nhưng điều này đã trở nên không cần thiết vì Ga-li-ôn đã bảo vệ Phao-lô! Vị thống đốc thấy ngay rằng vấn đề thật không phải là sự ứng dụng luật pháp Rô-ma nhưng là sự lý giải về Do Thái giáo, nên ông từ chối xử kiện!
Nhưng đó không phải là kết thúc của vấn đề. Những người Hy Lạp chứng kiến sự việc đã giữ Sốt-then, là người thay thế Cơ-rít-bu làm chủ nhà hội và đánh ông ngay trước mắt vị thống đốc! Đó chắc chắn là một sự phô bày trắng trợn về chủ nghĩa bài Do Thái, nhưng Ga-li-ôn đã lờ đi. Nếu đây chính là Sốt-then được Phao-lô đề cập trong ICo 1:1 vậy ông cũng đã được biến đổi, và dân Do Thái đã tìm chức sắc khác cho nhà hội của họ! Sẽ thú vị để biết chính xác điều đó đã xảy ra thế nào.Phải chăng Phao-lô và một số tín đồ đã thăm viếng Sốt-then và giảng dạy cho ông? Có lẽ người đi trước ông là Cơ-rít-bu đã giúp “rửa các thương tích” (Cong 16:33) và sử dụng việc này làm cơ hội chia sẻ tình yêu của Đấng Christ.
Những tiên liệu của Đức Chúa Trời lạ lùng và kỳ diệu biết bao! Dân Do Thái đã tìm cách buộc thống đốc Rô-ma tuyên bố Cơ Đốc giáo là bất hợp pháp, nhưng Ga-li-ôn đã cho biết rõ rằng Rô-ma sẽ không liên can vào những vụ kiện về những tranh cãi thuộc Do Thái giáo. Về phần mình, Phao-lô và các môn đệ ông đã có quyền như dân Do Thái để thực hành tôn giáo mình và chia sẻ với người khác.
Trong sách Công vụ, Lu-ca nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa chính quyền Rô-ma và Hội Thánh Cơ-đốc. Mặc dù đúng là hội đồng Do Thái đã cấm các sứ đồ rao giảng (Cong 4:17-21 Cong 5:40), nhưng không có bằng chứng nào trong sách công vụ rằng Rô-ma từng làm vậy. Thật ra, tại thành Phi-líp (Cong 16:35-40), Cô-rinh-tô và Ê-phê-sô (Cong 19:31), các quan chức Rô-ma đã không những khoan dung mà còn hầu như sẵn sàng cộng tác. Phao-lô biết cách sử dụng quyền công dân Rô-ma của mình một cách khôn ngoan cho nên chính quyền đã hành động giúp ông chớ không nghịch ông, và ông đã cẩn thận không tố cáo chính quyền hoặc tìm cách thoát khỏi quyền hạn của họ (Cong 25:10-12).
4. Ý chí của Đức Chúa Trời (Cong 18:18-22).
“Ví Đức Chúa Trời khứng” (Cong 18:21) hơn hẳn một khẩu hiệu tôn giáo đối với Phao-lô đó là một trong những sức mạnh và sự khích lệ đời sống cùng chức vụ ông. Biết và làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời là một trong những phước hạnh của đời sống Cơ Đốc (Cong 22:14). Trong một số bức thư, Phao-lô đã đồng hoá mình là “sứ đồ của Chúa Giê-xu theo ý muốn Đức Chúa Trời” (ICo 1:1 IICo 1:1 Eph 1:1 Co 1:1 IITi 1:1). Vào một thời điểm quyết định nhất trong đời sống và chức vụ mình, Phao-lô đã tìm thấy can đảm khi khẳng định: “Xin cho ý muốn của Chúa được nên! ” (Cong 21:14).
Sau 18 tháng chức vụ, Phao-lô đã xác định rằng rời khỏi Cô-rinh-tô và trở về Hội Thánh nhà của ông tại An-ti-ốt là ý muốn Đức Chúa Trời dành cho ông. Các bạn ông Bê-rít-sin và A-qui-la (hãy chú ý cách Lu-ca thay đổi thứ tự tên của họ)cùng đi với ông đến thành Ê-phê-sô và ở đó khi ông đi đến thành Sê-sa-rê. Trong Cong 18:24, chúng ta sẽ thu thập câu chuyện về Hội Thánh ở Ê-phê-sô và vai trò quan trọng do A-qui-la và Bê-rít-sin thực hiện.
Xen-cơ-rê là cảng biển của thành Cô-rinh-tô, và ở đó đã có một hội chúng Cơ Đốc (Ro 16:1). Ở đây Phao-lô đã chịu cạo đầu “vì ông đã có một hứa nguyện”. Điều này có thể chỉ về sự hứa nguyện Na-xi-rê được mô tả trong Dan 6:1-27. Vì sự hứa nguyện Na-xi-rê hoàn toàn mang tính tự nguyện, nên Phao-lô đã không từ bỏ ân điển để làm theo luật pháp khi ông thực hiện lời hứa nguyện. Sự hứa nguyện không phải là một vấn đề về sự cứu rỗi nhưng về sự hiến dâng cá nhân cho Chúa. Ông đã để tóc mọc một khoảng thời gian cụ thể và sau đó cắt đi khi lời hứa nguyện được trọn. Ông cũng kiêng dùng trái nho ở bất cứ hình thức nào.
Chúng ta không được cho biết vì sao Phao-lô thực hiện hứa nguyện này. Có lẽ đó là một phần sự dâng mình đặc biệt của ông cho Đức Chúa Trời suốt những ngày khó khăn của chức vụ ban đầu tại thành Cô-rinh-tô. Hoặc có lẽ sự hứa nguyện là một sự bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Chúa Trời về mọi điều Ngài đã làm cho ông và các cộng sự của ông. Theo luật Do Thái, sự hứa nguyện Na-xi-rê phải được làm trọn trong thành Giê-ru-sa-lem với việc dâng của lễ thích hợp. Khi lời thề đã hoàn tất thì mới cạo đầu chớ không cạo ngay từ đầu, vì vậy người phát lời thề không cần thiết phải ở Giê-ru-sa-lem.
Lu-ca không cho chúng ta biết Phao-lô đã ở trong thành Ê-phêsô bao lâu, nhưng thời gian rõ ràng rất ngắn. Dân Do Thái ở đó rất dễ tiếp thu Phúc Âm và muốn Phao-lô ở lại, nhưng ông muốn đến Giê-ru-sa-lem để làm trọn hứa nguyện mình, và sau đó đến An-ti-ốt để báo cáo với Hội Thánh. Tuy nhiên, ông đã hứa trở lại và ông đã giữ lời hứa đó (Dan 19:1).
Lời tuyên bố “bằng mọi cách tôi phải giữ lễ này nên đến Giê-ru-sa-lem” (Cong 18:21)không nên được giải thích để có nghĩa rằng Phao-lô và các Cơ Đốc nhân đầu tiên đã cảm thấy bị buộc phải tuân theo những kỳ lễ Do Thái (Cong 20:16). Việc ở trong thành Giê-ru-sa-lem suốt những kỳ lễ quan trọng, (trong trường hợp này, lễ Vượt Qua) đã cho Phao-lô cơ hội gặp gỡ và làm chứng cho các lãnh đạo Do Thái chủ chốt từ khắp đế quốc La Mã. Ông cũng có thể dạy dỗ cho các Cơ Đốc nhân Do Thái những người đã trở về quê hương họ.
Phao-lô đã dạy rõ ràng rằng việc tuân theo những kỳ lễ tôn giáo không phải là một phương tiện của sự cứu rỗi, cũng không phải là một yếu tố cần thiết cho sự thánh hoá (Ga 4:1-11). Cơ Đốc nhân được tự do để đi theo lương tâm mình bao lâu họ không xét đoán người khác hoặc gây cho người khác vấp phạm (Ro 14:1-15:7). Cũng vậy hãy nhớ chủ trương riêng của Phao-lô trong mối quan hệ với những vấn đề những thực hành Do Thái này (ICo 9:19-23).
Đến thành Sê-sa-rê rồi, Phao-lô đi lên thành Giê-ru-sa-lem và chào thăm những tín đồ ở đó. Đoạn ông đến thành An-ti-ốt và thuật cho Hội Thánh nhà mọi điều Đức Chúa Trời đã làm trong hành trình truyền giáo thứ hai của ông. Ông đã ra đi từ thành An-ti-ốt có lẽ hai năm hoặc lâu hơn, và các thánh đồ chắc hẳn đã vui mừng khôn xiết khi thấy ông và nghe về công việc của Đức Chúa Trời giữa vòng dân ngoại.
Không có bằng chứng nào, nhưng có thể Phao-lô đã cứ nhắc nhở các tín dồ ở thành An-ti-ốt: “Luôn quá sớm để bỏ cuộc! ”
Đó là một lời nhắc nhở hữu ích để chúng ta lưu ý hôm nay.
16. SỰ KÍCH ĐỘNG TRONG THÀNH Ê-PHÊ-SÔ (Cong 18:23-19:41)
Chúng ta không biết Phao-lô đã ở lại thành An-ti-ốt bao lâu trước khi ra đi trong hành trình truyền giáo thứ ba của ông, nhưng có lẽ nó kéo dài một năm. Như trong hành trình thứ hai của mình, Phao-lô đã viếng thăm các Hội Thánh và làm mạnh mẽ các tín đồ. Lu-ca không mô tả chi tiết hành trình này vì mục đích chính của ông là đưa Phao-lô đến thành Ê-phê-sô. Ông muốn chia sẻ với độc giả mình chức vụ tuyệt vời Đức Chúa Trời đã giao cho Phao-lô trong thành chiến lược ấy là thành quá đắm mình trong sự thờ thần tượng và điều huyền hoặc.
Thành Ê-phê-sô với 300.000 cư dân, là thủ phủ của tỉnh Rô-ma xứ A-si và là trung tâm thương mại quan trọng nhất tỉnh. Nhờ có một bến cảng lớn, thành Ê-phê-sô trở nên giàu có về mậu dịch. Và nhờ đền thờ thần Đi-anh, thành đã thu hút đông đảo khách tham quan muốn xem toà nhà này, là một trong 7 kỳ quan thế giới.
Đền thờ có lẽ đã tồn tại bốn thế kỷ trong thời Phao-lô. Đền thờ đo được 418 feet với chiều rộng 239 feet, và kiêu hãnh với 100 cột sừng sững cao trên 50 feet.Trong phần đất thánh của đền thờ sừng sững “thánh tượng” của Artemis (Đi-anh)được cho rằng đã từ trên trời rơi xuống (Cong 19:35). Nó có thể là thiên thạch. Vì Artemis là một nữ thần sinh sản, nên sự dâm dục trong thờ cúng là một phần quan trọng của sự thờ phượng thần này và hằng trăm “nữ tế lễ” đã sẵn có trong đền thờ.
Ba năm Phao-lô ở trong thành Ê-phê-sô (Cong 20:31) – thời gian lâu nhất ông đã ở trong bất cứ thành nào – chắc chắn đầy hứng thú và có kết quả. Chúng ta hãy gặp gỡ một số người có liên quan.
1. Một người có sứ điệp chưa trọn vẹn (Cong 18:23-28)
Khi Phao-lô rời Ê-phê-sô đến Giê-ru-sa-lem, ông đã để lại các bạn mình A-qui-la và Bê-rít-sin để làm chứng trong nhà hội. Hãy hình dung sự ngạc nhiên của họ vào ngày Sa-bát khi nghe một thầy giáo Do Thái ở xa đến tên là A-bô-lô giảng dạy nhiều chân lý mà chính họ đã tin và dạy dỗ!
A-bô-lô chắc chắn là một người đặc biệt trong nhiều phương diện. Ông đến từ A-léc-xan-tri, thành phố quan trọng thứ 2 trong đế quốc La Mã. Là một trung tâm giáo dục và triết học, thành đã được sáng lập do A-léc-xan-đơ đại đế (và được đặt theo tên ông) và nó hãnh diện có một trường đại học với một thư viện chứa gần 700.000 sách Dân số thành A-léc-xan-tri (khoảng 600.000) hoàn toàn có tính chất quốc tế, bao gồm dân Ai Cập, Rô-ma, Hy Lạp và Do Thái. Ít nhất ¼ dân số là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái rất có ảnh hưởng.
A-bô-lô đã biết Kinh Thánh Cựu Ước và có thể dạy họ bằng tài hùng biện và sự mạnh mẽ, Ông nhiệt thành (“sôi sục”) trong tinh thần mình và chuyên tâm trong sự trình bày sứ điệp. Ông dạn dĩ đủ để bước vào nhà hội và rao giảng cho dân Do Thái.Vấn đề duy nhất là người nhiệt tình này đang công bố một Phúc Âm chưa trọn vẹn.Sứ điệp của ông cũng như Giăng Báp-tít và rồi dừng lại! Ông không biêt gì về đồi Gô-gô-tha, sự phục sinh của Đấng Christ, hay sự giáng lâm của Thánh Linh vào lễ Ngũ Tuần. Ông có lòng sốt sắng, nhưng thiếu tri thức thuộc linh (Ro 10:1-4).
Chức vụ Giăng Báp-tít là một phần quan trọng thuộc kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã sai Giăng sửa soạn cho dân tộc Y-sơ-ra-ên đón tiếp Đấng Mê-si-a của họ (Gi 1:15-34). Phép báp-tem của Giăng là phép báp-tem về sự ăn năn những ai đã chịu báp-tem đều trông đợi Đấng Mê-si-a hầu đến (Cong 19:4). Giăng cũng đã rao một phép báp-tem trong tương lai của Đức Thánh Linh (Mat 3:11 Mac 1:8) xảy ra vào lễ Ngũ Tuần (Cong 1:5). A-bô-lô biết về những lời hứa, nhưng ông không biết về sự ứng nghiệm của chúng.
A-bô-lô đã đem sứ điệp đến đâu trước hết? Vì A-léc-xan-tri là một trung tâm nổi tiếng về sự học hỏi, nên có khả năng một số môn đệ của Giăng Báp-tít (Mat 14:12 Lu 11:1) đã đến đó trong khi Chúa Giê-xu vẫn thi hành chức vụ trên đất, và chia sẻ với dân Do Thái theo mức độ họ biết. Từ “chỉ dẫn” trong Cong 18:25 nghĩa là “dạy bằng sách giáo lý” và ý nói rằng A-bô-lô đã có sự đào tạo chính thức của cá nhân về Kinh Thánh. Tuy nhiên, sự đào tạo đó bị hạn chế ở những sự kiện về chức vụ của Giăng Báp-tít. Sứ điệp của A-bô-lô không phải là không chính xác hoặc thiếu chân thật nó chỉ chưa trọn vẹn.
Khi tôi di chuyển trong công tác hầu việc Chúa tại các hội nghị, tôi tuỳ thuộc vào nhà tôi trong việc sắp xếp đường đi và hướng lối (Tôi có thể lạc trong một bãi đậu! ). Ở một chuyến đi đặc biệt nọ, chúng tôi đã bối rối vì chúng tôi không thể tìm thấy một con đường muốn đi. Lúc đó chúng tôi nhận ra rằng bản đồ chúng tôi đã lỗi thời! Chúng tôi nhanh chóng mua được một bản đồ mới và mọi sự đã tốt đẹp.A-bô-lô đã có một bản đồ cũ chính xác vào thời của nó, nhưng ông hết sức cần có một bản đồ mới. Bản đồ mới đó đã được cung cấp do A-qui-la và Bê-rít-sin.
A-qui-la và Bê-rít-sin đã không chỉ dẫn ông giữa mọi người vì điều đó chỉ làm bối rối dân Do Thái, họ đưa ông về nhà dùng bữa tối trong lễ Sa-bát và cho ông biết về Chúa Giê-xu cùng sự giáng lâm của Đức Thánh Linh. Họ đã dẫn ông vào sự hiểu biết sâu sắc hơn về Đấng Christ, và ngày Sa-bát kế tiếp, A-bô-lô đã trở lại nhà hội và trình bày cho dân Do Thái phần cònlại của câu chuyện! Thật ra, chức vụ của ông hiệu quả đến đỗi các tín đồ thành Ê-phê-sô đã giới thiệu tốt về ông với các Hội Thánh trong xứ A-chai. Ở đây A-bô-lô không chỉ làm mạnh mẽ các thánh đồ, ông còn tranh luận với những người Do Thái không tin và thuyết phục nhiều người trong số họ tin rằng Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a.
A-bô-lô đã giảng dạy một thời gian cho Hội Thánh ở Cô-rinh-tô (Cong 19:1), nơi sự hiểu biết và tài hùng biện của ông đã thu hút sự chú ý (ICo 1:12 ICo 3:4-6,22 ICo 4:6). Đáng tiếc rằng có một bọn người tụ tập quanh ông và khiến đem sự chia rẽ đến Hội Thánh vì ông rõ ràng là một trong số những người bạn của Phao-lô và là một người giúp việc được tin cậy (ICo 16:12 Tit 3:13).
2. Mười hai người với một sự làm chứng không nhất quán (Cong 19:1-10)
Khi Phao-lô trở lại thành Ê-phê-sô, ông gặp 12 người xưng là những “môn đệ” Cơ Đốc nhưng đời sống họ bày tỏ bằng chứng là có điều gì đó thiếu sót. Phao-lô hỏi họ:“Anh em có lãnh được Đức Thánh Linh khi anh em tin chăng?” (Cong 19:2). Câu hỏi này quan trọng vì sự làm chứng của Thánh Linh là một chứng cớ không thể thiếu cho thấy một người thật sự được tái sinh (Ro 8:9,16 IGi 5:9-13), và bạn nhận được Thánh Linh khi bạn tin nơi Chúa Giê-xu (Eph 1:13).
Sự trả lời của họ bày tỏ sự mơ hồ và tính không chắc chắn về đức tin của họ, vì họ thậm chí đã không biết rằng Đức Thánh Linh đã được ban ra! Là những môn đệ của Giăng Báp-tít, họ biết rằng có một Đức Thánh Linh, và Đức Thánh Linh ngày nào đó sẽ làm báp-tem cho dân sự Đức Chúa Trời (Mat 3:11 Lu 3:16 Gi 1:32-33). Có thể những người này là những “người qui đạo” đầu tiên của A-bô-lô và do đó đã không hiểu đầy đủ điều Đấng Christ đã làm.
Vì sao Phao-lô lại hỏi về phép báp-tem của họ? Vì trong sách Công vụ, kinh nghiệm báp-tem của một người là một biểu hiện về kinh nghiệm thuộc linh của người ấy.Cong 1:1-10:48 ghi lại một thời kỳ chuyển tiếp trong lịch sử của Hội Thánh, từ chức vụ của các sứ đồ đối với dân Do Thái cho đến chức vụ của họ đối với dân ngoại. Suốt thời kỳ chuyển tiếp này, Phi-e-rơ sử dụng “những chìa khoá Nước Trời” (Mat 16:19) và mở của đức tin cho dân Do Thái (Cong 2:1-47) dân Sa-ma-ri (Cong 8:14) và cuối cùng cho dân ngoại (Cong 10:1-48).
Điều quan trọng cần chú ý là kiểu mẫu của Đức Chúa Trời cho ngày nay được trình bày trong Cong 10:43-48 tội nhân nghe đạo, tin nơi Chúa Giê-xu, họ lập tức nhận lãnh Thánh Linh, và sau đó họ chịu phép báp-tem. Dân ngoại trong Cong 10:1-48 đã không nhận Thánh Linh bởi phương tiện phép báp-tem bằng nước hoặc bởi phép đặt tay của các sứ đồ (Cong 8:14-17).
Sự kiện 12 người này đã không có Thánh Linh ngự ở trong là bằng chứng họ chưa bao giờ thật sự được tái sinh. Nhưng họ đã chịu báp-tem bởi phép báp-tem của Giăng, chính phép báp-tem các sứ đồ đã nhận lãnh! (Cong 1:21-22). Có gì đã sai trật với họ?
Một số người nói rằng những người này đã được cứu, nhưng họ thiếu sự đầy dẫy của Thánh Linh trong đời sống. Vì vậy Phao-lô đã giải thích cách để “được báp-tem trong Thánh Linh”, và điều này dẫn đến một đời sống mới đắc thắng. Nhưng đó không phải là điều sự ghi chép diễn đạt. Phao-lô nhận thấy rằng những người này không có bằng chứng của Thánh Linh trong đời sống họ, và vì vậy họ không phải là những người đã được biến đổi. Ông hẳn sẽ không bàn luận sự đầy dẫy Thánh Linh với những người không được cứu! Không, 12 người này đã được báp-tem và đang tìm cách trở nên ngoan đạo, nhưng có điều gì đó thiếu sót. Ôi chúng ta có những người giống như họ trong các Hội Thánh chúng ta ngày nay!
Phao-lô đã giải thích với họ rằng phép báp-tem của Giăng là phép báp-tem về sự ăn năn trông đợi sự đến của Đấng Mê-si-a đã được hứa, trong khi phép báp-tem Cơ Đốc là một phép báp-tem nhìn lại công tác đã hoàn tất của Đấng Christ trên thập tự giá và sự phục sinh đắc thắng của Ngài. Phép báp-tem của Giăng ở “phía bên kia” của đồi Gô-gô-tha và lễ Ngũ Tuần. Nó đúng đối với thời của nó, nhưng giờ đây thời ấy đã kết thúc.
Hãy nhớ rằng Giăng Báp-tít là một tiên tri thi hành chức vụ dưới một hệ thống tôn giáo cũ (Mat 11:7-14). Giao ước cũ đã được chấm dứt, không phải bởi Giăng tại sông Giô-đanh, nhưng bởi Chúa Giê-xu tại đồi Gô-gô-tha (He 10:1-18). Phép báp-tem, của Giăng quan trọng đối với dân Do Thái thời đó (Mat 21:23-32) nhưng nó không còn hiệu lực đối với Hội Thánh ngày nay. Theo một ý nghĩa thật, 12 người này giống như “những tín đồ Cựu Ước” chờ đợi sự đến của Đấng Mê-si-a.Chắc chắn Phao-lô đã giải thích với họ nhiều chân lý cơ bản mà Lu-ca đã không ghi lại. Sau đó ông đã làm báp-tem cho họ, vì phép “báp-tem” đầu tiên của họ không thật sự là phép báp-tem Cơ-đốc.
Tại sao cần thiết để Phao-lô đặt tay trên những người này trước khi họ có thể nhận lãnh Thánh Linh? Điều này không mâu thuẫn với kinh nghiệm của Phi-e-rơ được chép trong Cong 10:44-48 sao? Không mâu thuẫn nếu bạn nhớ rằng đây là nhóm người đặc biệt sẽ giúp hình thành những hạt nhân của một Hội Thánh lớn ở Ê-phê-sô. Bằng cách sử dụng Phao-lô để truyền đạt sự ban cho của Thánh Linh, Đức Chúa Trời đã xác nhận quyền sứ đồ của Phao-lô và hiệp Hội Thánh Ê-phê-sô với những Hội Thánh khác cũng như Hội Thánh “mẹ” ở Giê-ru-sa-lem. Khi Phi-e-rơ và Giăng đặt tay trên những người Sa-ma-ri tin nhận, điều đó đã hiệp họ với Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và chữa lành một mối bất hoà giữa dân Do Thái và dân Sa-ma-ri đã tồn tại bao thế kỷ.
Điều Đức Chúa Trời đã làm qua Phao-lô cho 12 người này đã không được xem như tiêu chuẩn cho Hội Thánh ngày nay. Làm sao chúng ta biết? Vì nó không được lập lại.Những người đã được biến đổi dưới chức vụ của Phao-lô đều nhận lãnh sự ban cho của Thánh Linh khi họ tin nhận Đấng Christ. Phao-lô làm rõ điều này trong Eph 1:13-14 và đây là một kiểu mẫu cho chúng ta ngày nay.
Trong Cong 19:6, chúng ta có trường hợp cuối cùng về ân tứ tiếng lạ trong sách Công vụ, các tín đồ đã nói tiếng lạ vào lễ Ngũ Tuần và ngợi khen Đức Chúa Trời, và những người nghe họ đã nhận ra những thứ tiếng này là những ngôn ngữ được biết đến (Cong 2:4-11) chớ không phải “ngôn ngữ trên trời”. Những tín đồ người ngoại trong nhà Cọt-nây cũng nói tiếng lạ (Cong 10:44-46) và kinh nghiệm của họ giống với kinh nghiệm của những người Do Thái trong Cong 2:1-47 (Cong 11:15). Sự kiện này có ý nghĩa lịch sử vì Thánh Linh đang làm báp-tem cho dân Do Thái (Cong 2:1-47)và dân ngoại (Cong 10:1-48) vào trong thân Đấng Christ (ICo 12:13).
Ngày nay, ân tứ tiếng lạ không phải là một bằng chứng về phép báp-tem của Thánh Linh hay sự đầy dẫy Thánh Linh. Phao-lô đã hỏi: “Cả thảy đều nói tiếng lạ sao?” (ICo 12:30) và cấu trúc câu tiếng Hy Lạp đòi hỏi “không” như một câu trả lời. Khi Phao-lô viết cho những người bạn Ê-phê-sô về sự đầy dẫy Thánh Linh, ông đã không nói gì về tiếng lạ (Eph 5:18). Không chỗ nào trong Kinh Thánh chúng ta được khuyên tìm kiếm một phép báp-tem của Thánh Linh. Hãy đọc thư Phao-lô gửi cho Hội Thánh Ê-phê-sô và chú ý nhiều chi tiết đề cập Thánh Linh của Đức Chúa Trời và công việc Ngài trong tín đồ.
3. Bảy người với quyền năng không thoả đáng (Cong 19:11-20)
Đáng chú ý rằng Phao-lô có thể làm chứng trong nhà hội ba tháng trước khi ông phải ra đi. Chắc hẳn chức vụ trung tín của A-qui-la và Bê-rít-sin đã đóng một phần quan trọng trong sự thành công này. Tuy nhiên, sự cứng lòng bắt đầu (He 3:7), vì vậy Phao-lô đã rời nhà hội và dời chức vụ đến một phòng học, mang theo các môn đệ. Ông có lẽ đã sử dụng phòng này suốt “những giờ nghỉ” mỗi ngày (11 giờ sáng – 4 giờ chiều) khi nhiều người sẽ nghỉ ngơi. Phao-lô đã dạy dỗ cách này khoảng hai năm và ”mọi người ở trong cõi A-si, cả người Giu-đa lẫn người Gờ-réc đều nghe đạo của Chúa Giê-xu” (Cong 19:10).
Quả là một chức vụ thắng lợi! Dường như mọi người đều đã biết điều Phao-lô nói và làm! (Cong 19:17 Cong 19:20). Thậm chí kẻ thù của Phao-lô đã phải thừa nhận rằng đạo đang lan ra và dân chúng được cứu (Cong 19:26). Hai yếu tố khiến điều này có thể xảy ra: sự làm chứng của các tín đồ khi họ đi từ nơi này sang nơi khác và “những phép lạ đặc biệt” Đức Chúa Trời đã giúp Phao-lô có thể thực hiện trong thành Ê-phê-sô (Cong 19:11).
Trong lịch sử Kinh Thánh, bạn sẽ tìm thấy ba thời kỳ đặc biệt của phép lạ (1) thời Môi-se, (2) thời Ê-li và Ê-li-sê, và (3) thời Chúa Giê-xu với các sứ đồ của Ngài. Mỗi thời kỳ chưa đến 100 năm. Tuỳ vào cách một số những sự kiện này được phân loại, tổng số những phép lạ đối với cả ba thời kỳ chưa đến 100. Dĩ nhiên, không phải mọi phép lạ đều được ghi chép (Gi 20:30-31).
Khi Chúa chúng ta làm phép lạ, Ngài thường nghĩ đến ba mục đích: 1) bày tỏ lòng thương xót của Ngài và đáp ứng những nhu cầu của con người 2) dạy dỗ một chân lý thuộc linh, và 3) trình ra những uỷ nhiệm thư của Ngài với tư cách Đấng Mê-si-a. Các sứ đồ đã noi theo cùng kiểu mẫu này trong những phép lạ của họ.Thật ra, khả năng làm phép lạ là một trong những bằng chứng về quyền sứ đồ (He 2:1-4 IICo 12:12 Mac 16:20 Ro 15:18-19). Những phép lạ của chính họ không cứu được tội nhân hư mất (Gi 2:23-25 Lu 16:27-35). Những phép lạ phải được gắn với sứ điệp của Lời Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đã giúp Phao-lô có thể làm “những phép lạ đặc biệt” vì Ê-phê-sô là một trung tâm cho những điều huyền bí (Cong 19:18-19) và Phao-lô đã bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời ngay trong lãnh địa của Sa-tan. Nhưng hãy nhớ rằng nơi đâu dân sự Đức Chúa Trời phục vụ chân lý, Sa-tan gởi đến một kẻ giả mạo để chống đối công việc.Chúa Giê-xu đã dạy chân lý này trong ví dụ về những hạt giống của Ngài (Mat 13:24-30,36-43). Phi-e-rơ đã kinh nghiệm ví dụ đó ở Sa-ma-ri (Cong 8:9), và Phao-lô đã kinh nghiệm tại Ba-phô (Cong 13:4-12). Sa-tan bắt chước bất cứ điều gì dân Đức Chúa Trời đang làm, vì nó biết rằng thế gian không được cứu không thể phân biệt sự khác nhau (IICo 11:13-15).
Đối với các thầy tế lễ Do Thái, tìm cách đuổi quỉ khôngphải là điều lạ (Lu 11:19), nhưng sử dụng danh Chúa Giê-xu Christ là bất thường đối với họ. Do những người này không có mối liên hệ cá nhân với Đấng Christ, nên họ đã phải viện đến danh của Phao-lô, nhưng ý đồ họ đã không thành. Quỷ nói: “Chúa Giê-xu thì ta nhận biêt, và Phao-lô thì ta rõ nhưng các ngươi là kẻ nào?” (nguyên văn). Người bị quỷ ám khi đó đã tấn công 7 thầy tế lễ và đuổi họ ra khỏi nhà.
Nếu câu thần chú này thành công, nó sẽ làm mất uy tín danh Chúa Giê-xu và chức vụ của Hội Thánh ở Ê-phê-sô (Phao-lô đã đối diện với một hoàn cảnh tương tự ở thành Phi-líp. (Cong 16:16). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã sử dụng ý đồ này để đánh bại Sa-tan và đem sự kết tội đến cho các tín đồ vẫn còn liên hệ với ma thuật. Thay vì làm sỉ nhục danh Chúa Giê-xu, sự kiện này đã tôn cao danh Ngài và khiến đạo Đức Chúa Trời lan ra thậm chí nhanh chóng hơn.
Thì của những động từ trong Cong 19:18 cho thấy rằng dân chúng “vẫn đến… vẫn xưng tội… vẫn tỏ ra”. Những tín đồ này rõ ràng đã không cắt đứt hẳn với tội lỗi và vẫn thực hành ma thuật của họ, nhưng Chúa đã đối phó với họ. Tổng trị giá của những sách ma thuật và sách thần chú mà họ đã đốt tương đương với tổng tiền lương của 150 người lao động trong một năm! Những người này đã không tính đến giá phải trả nhưng đã ăn năn và từ bỏ tội lỗi mình.
4. Một đám đông những công dân phẫn nộ (Cong 19:21-41)
Trong Cong 19:21, chúng ta có sự đề cập đầu tiên về kế hoạch Phao-lô đến Rô-ma. Sự thực hiện kế hoạch này sẽ được mô tả trong phần thứ ba cuối cùng của sách Công vụ. Phao-lô chẳng bao lâu sẽ viết thư cho các thánh đồ ở Rô-ma và bày tỏ ước muốn này với họ (Ro 1:13-15 Ro 15:22-29). Nhưng trước tiên ông phải thăm viếng các Hội Thánh ở xứ ma-xê-đoan và A-chai để hoàn tất “sự quyên góp yêu thương”mà ông đang nhận cho các thánh đồ nghèo ở Giê-ru-sa-lem (ICo 16:3-7 Ro 15:25-33 Cong 24:17). Trong khi ở lại thành Ê-phê-sô (ICo 16:9-9), ông đã cử Ti-mô-thê giúp ông hoàn tất công việc (ICo 4:17 ICo 16:10-11).
Chính tại thời điểm này Sa-tan đã tấn công trở lại, không như kẻ lừa dối (IICo 11:3-4) nhưng như kẻ huỷ diệt (IPhi 5:8), và kẻ giết người (Gi 8:44). Sa-tan đã kích động phường thợ bạc để tiến hành một cuộc phản kháng công khai chống lại Phao-lô và Phúc Âm. Phao-lô có thể đã liên hệ đến cuộc nổi loạn này khi ông viết “Tôi đã đánh cùng các loài thú ở thành Ê-phê-sô” (ICo 15:32). Kẻ thù đã nhiều lần bị đánh bại qua suốt 3 năm chức vụ của Phao-lô ở thành Ê-phê-sô. Đó sẽ là chủ bài của Sa-tan để đưa chức vụ ấy đến đỉnh điểm bằng một cuộc tấn công toàn thành phố mà có thể dẫn đến sự kiện Phao-lô bị bắt, hoặc thậm chí sự chết của ông.
Nơi đâu Phúc Âm được rao giảng bằng quyền năng, nó sẽ bị chống đối bởi nhữngkẻ kiếm tiền từ sự mê tín và tội lỗi. Phao-lô đã không khơi dậy sự chống đối của các thợ bạc bằng cách nói động đến đền thờ thần Đi-anh hoặc thực hiện những cuộc mít-tinh chống lại sự thờ thần tượng. Mọi điều ông đã làm là dạy chân lý hằng ngày và cử những người qui đạo của ông làm chứng cho những kẻ hư mất trong thành. Càng có nhiều người được biến đổi, càng ít khách hàng sẵn có.
“Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác” (ITi 6:10). Đê-mê-triu và các thợ bạc của ông đề cao sự thờ thần tượng và sự đồi bại để kiếm sống, trong khi Phao-lô công bố Đức Chúa Trời chân thật và chỉ cho dân chúng sự tinh sạch và thánh khiết nhờ ân điển vô điều kiện của Đức Chúa Trời. Các thợ bạc thật sự quan tâm nhiều về việc làm và thu nhập của họ hơn là quan tâm về thần Đi-anh và đền thờ của thần này, nhưng họ đã khôn khéo đủ để không cho người ta biết điều này.
Benjamin Franklin đã nói rằng một đám đông là “một quái vật có đủ các đầu, nhưng không có não”. Buồn biết bao khi dân chúng để cho mình bị dẫn dắt bởi một số lãnh đạo ích kỷ là những người biết nghệ thuật điều khiển. Đê-mê-triu đã lợi dụng hai điều dân Ê-phê-sô yêu mến nhất: danh dự của thành họ, và sự vĩ đại của nữ thần họ và đền thờ bà. Không có sự giúp đỡ của ra-di-ô, truyền hình hoặc báo chí, ông đã cho hoạt động bộ máy tuyên truyền và chẳng bao lâu đã khiến cho cả thành náo động.
Max Lerner đã viết trong cuốn “The Unfinished Country” (Đất nước không hoàn chỉnh), “mỗi đám đông, trong sự ngu dốt và sự mù loà cùng sự hoang mang của nó, là một hội của những kẻ sợ hãi tìm kiếm sự bảo đảm trong hành động tập thể”. Đó là một “đám đông sùng đạo” đã la lên “hãy đóng đinh hắn! Hãy đóng đinh hắn” trước mặt Phi-lát, và cuối cùng đã đạt được ý định của họ. Nếu đám đông dân Ê-phê-sô này đã thành công trong những kế hoạch của họ, Phao-lô có lẽ sẽ bị bắt và bị xử tử trước khi luật pháp có thể bước vào bảo vệ ông.
Đám đông bối rối, khoảng 25.000 người la hét, chen chật kịch trường, đa số họ không biết điều gì đang xảy ra và tại sao họ có mặt ở đó. Do đám đông không thể tìm thấy Phao-lô, họ đã bắt giữ hai người giúp việc của ông, Gai-út (không phải Gai-út của Cong 20:4 Ro 16:23 ICo 1:14) và A-ri-tạc (Cong 20:4). Phao-lô muốn đi vào rạp hát – thật là một cơ hội để rao giảng Phúc Âm! Nhưng các tín đồ và một số chức sắc trong thành đã khôn khéo khuyên ông lánh đi (Cong 19:30-31).
Trước đó, thành kiến chủng tộc đã xuất hiện, khi một người Do Thái tên A-léc-xan-đơ tìm cách nói với đám đông (c.33-34). Hẳn ông muốn giải thích với họ rằng dân Do Thái sống trong thành Ê-phê-sô đã không tán thành sứ điệp hoặc chức vụ của Phao-lô, và vì vậy, không nên trở thành vật hi sinh chỉ để thoả mãn đám đông.Nhưng chính sự hiện diện của ông chỉ kích động đám đông hơn nữa, và họ đã la hét hai giờ đồng hồ nữa, “lớn thay là nữ thần Đi-anh của người Ê-phê-sô! ” Đám đông biết rằng dân Do Thái không chấp nhận hình tượng và không tôn trọng thần Đi-anh. Điều duy nhất bảo vệ dân Do Thái là luật pháp Rô-ma cho họ sự tự do tôn giáo.
Chính viên thư ký thành cuối cùng đã kiểm soát được các vấn đề, và ông làm điều đó chủ yếu vì những lý do chính trị. Ê-phê-sô được Rô-ma cho phép tồn tại như một “thành tự do” có hội đồng được chọn riêng của họ, nhưng dân Rô-ma sẽ vui mừng để tìm ra một cớ truất bỏ những đặc quyền này (Cong 19:40). Cùng những chiến thuật mà các thợ bạc đã sử dụng để kích động đám đông, thư ký đã sử dụng để trấn tĩnh và làm họ yên tâm – sự vĩ đại của thành và của nữ thần họ.
Lu-ca ghi lại nhận định công khai rằng các tín đồ vô tội về bất cứ sự vi phạm nào, công khai (Cong 19:37) hoặc riêng tư (Cong 19:38). Phao-lô đã có cùng loại “tán thành công khai” này trong thành Phi-líp (Cong 16:35-40) và trong thành Cô-rinh-tô (Cong 18:12-17), và ông sẽ nhận điều đó lần nữa sau khi bị bắt ở Giê-ru-sa-lem. Suốt sách Công vụ, Lu-ca cho biết rằng sự bắt bớ Hội Thánh Cơ Đốc đã được khích động bởi những người Do Thái không tin chớ không phải bởi dân Rô-ma. Có thể Phao-lô đã sử dụng quyền công dân Rô-ma để bảo vệ mình, các bạn và các hội chúng địa phương.
Đám đông đã được giải tán, và chắc hẳn dân chúng đã về nhà chúc mừng cho chính họ rằng họ đã thành công trong việc bảo vệ thành vĩ đại và nữ thần nổi tiếng của họ. Đáng ngờ rằng có nhiều người trong số họ đã nghi vấn sự chân thật của tôn giáo họ hoặc quyết định điều tra những điều Phao-lô đã rao giảng trong ba năm.Tin một sự giả dối và chạy theo đám đông thật dễ hơn nhiều.
Nhưng Ê-phê-sô đã qua đi, và sự thờ phượng thần Đi-anh của người Ê-phê-sô khắp thế giới cũng vậy. Thành phố và đền thờ đã không còn, và phường thợ bạc không còn.Ê-phê-sô là một nơi được thăm viếng chủ yếu bởi các nhà khảo cổ và những người trong những cuộc du lịch Đất thánh. Nhưng Phúc Âm về ân điển Đức Chúa Trời và Hội Thánh Chúa Giê-xu Christ vẫn còn đây! Chúng ta có bốn bức thư thần cảm đã được gởi đến các thánh đồ ở thành Ê-phê-sô – Ê-phê-sô, I và II Ti-mô-thê, và Kh 2:1-7. Tên của Phao-lô được tôn trọng, nhưng tên của Đê-mê-triu bị lãng quên (nếu không vì Phao-lô, chúng ta sẽ không gặp Đê-mê-triu ở nơi đầu tiên! )
Hội Thánh thi hành chức vụ bằng sức thuyết phục, không phải sự tuyên truyền. Chúng ta chia sẻ chân lý của Đức Chúa Trời, không phải những sự giả dối về tôn giáo của loài người. Động cơ của chúng ta là tình yêu, không phải sự giận dữ, và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, không phải sự tán dương của con người. Đây là lý do Hội Thánh tiến triển, và chúng ta phải giữ Hội Thánh như vậy.
17. LỜI TẠM BIỆT CỦA NGƯỜI THI HÀNH CHỨC VỤ (Cong 20:1-38)
Trong phần thứ ba sau cùng của sách Công vụ, Bác sĩ Lu-ca ghi lại hành trình của Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem, sự kiện ông bị bắt ở đó, và chuyến đi biển đến Rô-ma. Phúc Âm Lu-ca đi theo một kiểu mẫu tương đương như Lu-ca mô tả hành trình của Đấng Christ đến Giê-ru-sa-lem để chịu chết (Cong 9:53 Cong 13:18,31 Cong 19:11,28). Như Chúa Giê-xu đã để mặt Ngài “như đá” để làm theo ý muốn của Cha (Lu 9:51 Es 50:7), vì vậy Phao-lô đã quyết định hoàn thành việc chạy đua của ông với sự vui mừng, dù cái giá có thể là gì (Es 20:24).
Chương này mô tả ba “sự kiện tạm biệt” khi Phao-lô kết thúc chức vụ ông ở xứ Ma-xê-đoan, A-chai và A-si.
1. Hành trình tạm biệt (Cong 20:1-5)
“Tôi không muốn thăm viếng quốc gia này lần nữa! ” D.L.Moody đã nói những lời ấy vào năm 1867 khi ông thực hiện chuyến đi biển đầu tiên đến Anh quốc. Ông say sóng suốt chuyến đi đến nỗi ông đã quyết định sẽ không bao giờ đi biển nữa, nhưng ông đã thực hiện năm cuộc thăm viếng nữa đến Anh quốc, dù bị say sóng.
Phao-lô sẵn sàng cho cuộc hành trình khác. Ông muốn thực hiện ít nhất một cuộc viếng thăm nữa đến các Hội Thánh mà Chúa đã giúp ông thành lập, vì Phao-lô là người có lòng quan tâm. “Lo lắng về hết thảy các Hội Thánh” là niềm vui lớn nhất của ông cũng như gánh nặng nề nhất của ông (IICo 11:23-28).
Sau cuộc nổi loạn, Phao-lô rời thành Ê-phê-sô và đi đến xứ Ma-xê-đoan và xứ A-chai (IICo 19:21). Ông mong gặp Tít tại thành Trô-ách và nhận báo cáo về những vấn đề ở thành Cô-rinh-tô, nhưng Tít đã không đến (IICo 2:12-13). hai người sau cùng đã gặp nhau tại Ma-xê-đoan và Phao-lô vui mừng về tin tốt lành Tít đem đến (IICo 7:5-7). Phao-lô từ đầu đã có chương trình thực hiện hai cuộc viếng thăm thành Cô-rinh-tô (IICo 1:15-16), nhưng thay vào đó ông thực hiện một cuộc viếng thăm kéo dài ba tháng (ICo 16:5-6 Cong 20:3). Suốt cuộc viếng thăm đó, ông đã viết thư tín Rô-ma.
Phao-lô có hai mục tiêu khi thăm viếng các Hội Thánh khác nhau. Mục đích chính của ông là khích lệ và làm mạnh mẽ các thánh đồ để họ có thể giữ trung tín với Chúa và là những nhân chứng hiệu quả. Mục đích thứ hai của ông là hoàn thành việc nhận sự quyên góp cho các tín đồ nghèo khó ở Giê-ru-sa-lem (Ro 15:25-27 ICo 16:1-9 IICo 8:1-9:14). Những người cùng đi với ông (IICo 20:4) là những người đại diện của các Hội Thánh, được chọn đi với Phao-lô và giúp xử lý tiền quỹ (IICo 8:18-24).
Một lần nữa, Phao-lô phải thay đổi những kế hoạch của ông lần này bởi có một âm mưu của người Do Thái để giết ông ở biển. Thay vì đi biển từ thành Cô-rinh-tô, ông đã đi trên đất liền qua xứ A-chai và Ma-xê-đoan, đi biển từ thành Phi-líp đến thành Trô-ách, nơi “nhóm” ông đã đồng ý hẹn gặp. Là người không thích ra đi và thay đổi những kế hoạch tôi thán phục Phao-lô về sự can đảm, khả năng chịu đựng và tính thích nghi của ông. Mặc dù có những phức tạp và trì hoãn trong sự đi lại ngày nay, chúng ta có một thời kỳ dễ dàng hơn Phao-lô nhiều – nhưng chúng ta kêu ca! Ông đã tiếp tục đi!
2. Buổi nhóm tạm biệt (Cong 20:6-12)
Phao-lô đã không thể đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua hằng năm, nên giờ đây mục tiêu của ông là đến đó ít nhất vào lễ Ngũ Tuần (Cong 20:16). Hãy chú ý sự thay đổi đại từ sang “chúng ta”, và Bác sĩ Lu-ca giờ đây đã gia nhập vào nhóm người cùng đi (Cong 16:17). Ông có thể đã thi hành chức vụ tại thành Phi-líp nơi ông gặp lại Phao-lô để thực hiện chặng cuối của hành trình. Phao-lô chắc đã vui mừng khi có Lu-ca, Tít và Ti-mô-thê lại ở bên cạnh ông. Những người này đã ở lại thành Trô-ách một tuần hầu họ có thể thông công với các tín đồ ở đó.
Lu-ca cho chúng ta một tường thuật ngắn gọn về một lễ thờ phượng của Hội Thánh địa phương tại thành trô-ách, và từ đó chúng ta học được điều gì đó về cách họ nhóm lại và thờ phượng Chúa. Hãy xem xét những sự kiện có liên quan.
-Ngày của Chúa: Trước hết, họ nhóm lại vào ngày đầu tiên chớ không phải ngày thứ bảy là ngày Sa-bát (ICo 16:1-2). Ngày thứ nhất đến được gọi là “Ngày của Chúa”vì vào ngày đó Đức Chúa Giê-xu Christ đã sống lại từ cõi chết (Kh 1:10). Chúng ta cũng nên nhớ rằng Hội Thánh ra đời vào ngày đầu tuần khi Thánh Linh giáng lâm vào lễ Ngũ Tuần. Suốt những năm đầu tiên của Hội Thánh, các tín đồ đã duy trì một số truyền thống Do Thái, chẳng hạn như những giờ cầu nguyện (Cong 3:1). Nhưng theo thời gian, họ đã thay đổi từ lịch Môi-se và phát triển kiểu mẫu thờ phượng của họ khi Thánh Linh dạy dỗ họ.
-Dân của Chúa: Hội Thánh đã nhóm vào buổi tối vì Chủ nhật không phải là một ngày nghỉ mà người ta được rỗi rảnh khỏi việc làm thường nhật suốt ngày. Một số tín đồ có thể là đầy tớ, không có khả năng đến với hội chúng cho đến khi công việc họ làm xong. Các tín đồ đã nhóm trong một phòng cao vì họ không có những ngôi nhà thờ để nhóm lại. Phòng này có thể ở trong nhà riêng của một trong số các tín đồ. Hội chúng có thể là một nhóm quốc tế, nhưng những nét đặc biệt về xã hội và quốc gia đã không tạo nên sự khác nhau: họ “đều là một trong Chúa Giê-xu Christ“ (Ga 3:28).
-Bữa ăn tối của Chúa: Hội Thánh đầu tiên đã chia sẻ một “bữa ăn” gọi là “bữa ăn thân ái” (agape), sau bữa ăn họ sẽ dự Bữa ăn tối của Chúa (Cong 2:42 ICo 11:17-34). Việc “bẻ bánh” trong Cong 20:7 chỉ về bữa ăn tối của Chúa, trong khi ở Cong 20:11 nó mô tả một bữa ăn bình thường. bằng cách chia sẻ và ăn cùng nhau, Hội Thánh đã hưởng sự thông công và cũng bày tỏ chứng cớ về sự hiệp một trong Đấng Christ.Các tôi tớ sẽ thật sự ăn cùng bàn với chủ mình, điều không được nghe thấy vào thời đó.
Có thể là Hội Thánh đã dự Bữa ăn tối của Chúa mỗi Ngày của Chúa khi họ nhóm thông công và thờ phượng. Thật ra, một số tín đồ có thể kết thúc nhiều bữa ăn bình thường của họ ở nhà bằng cách dùng bánh với rượu và nhớ sự chết của Chúa. Mặc dù Kinh Thánh không cho chúng ta những chỉ dẫn cụ thể trong vấn đề này (“như thường lệ”, ICo 11:26), gương của Hội Thánh đầu tiên sẽ khích lệ chúng ta thường xuyên nhóm tại bàn của Chúa. Tuy nhiên, Tiệc Thánh không được trở thành thông lệ, khiến cho chúng ta không nhận được những phước hạnh có liên quan.
-Sứ điệp của Chúa: Lời Đức Chúa Trời luôn được công bố trong các hội chúng Cơ Đốc và điều này bao gồm việc đọc Kinh Thánh Cựu Ước trước mọi người (ITi 4:13)cũng như bất cứ bức thư sứ đồ nào được nhận (Co 4:16). Thật buồn khi thấy thế nào Lời Chúa bị sao lãng trong các lễ thờ phượng của Hội Thánh ngày nay. Biết rằng đây có thể sẽ là buổi nhóm cuối cùng của mình với các thánh đồ ở thành Trô-ách, Phao-lô đã giảng một bài giảng dài, sau bài giảng ông đã ăn và nói chuyện với mọi người đến sáng. Đáng ngờ rằng có ai đó đã phàn nàn. Chúng ta ngày nay thật ước mong mình có thể ở đó để nghe sứ đồ Phao-lô rao giảng!
Lời Đức Chúa Trời quan trọng đối với dân sự Đức Chúa Trời, và sự rao giảng cùng sự dạy dỗ Lời Chúa phải được nhấn mạnh. Hội Thánh nhóm lại để được sự soi sáng cũng như để ngợi khen, và sự soi sáng đó đến bởi Lời Chúa. “Hãy giảng đạo! ”.Theo Tấn sĩ D.Martyn LLoyd-Jones, “những giai đoạn và kỷ nguyên suy thoái trong lịch sử Hội Thánh luôn là những giai đoạn khi sự rao giảng đã xuống dốc” (Preachers and Preaching, Zondervan, trang 24, )
-Quyền năng của Chúa: Chẳng biết đó là sự trễ giờ hay sự ngột ngạt của căn phòng (chắc chắn không phải sự khô khan trong bài giảng của Phao-lô! ), Ơ-tích (“may mắn” đã ngủ mê và rồi rơi ra ngoài cửa sổ và chết cạnh tường. Tuy nhiên, Phao-lô đã khiến anh ta sống lại từ cõi chết và làm cho anh cùng Hội Thánh được yên ủi. Quyền năng của Đức Chúa Trời đã hiện diện để hành động vì dân Ngài.
Ơ-tích bao nhiêu tuổi? Từ Hy Lạp “neanias” trong Cong 20:9 nghĩa là người từ 24-40 tuổi. Từ “pais” trong Cong 20:12 nghĩa là là thiếu niên hoặc thanh niên. Tấn sĩ Howard Marshall, một học giả Hy Lạp nổi tiếng, nói anh ta là “một cậu bé 8-14 tuổi”. Vì từ “pais” có thể nghĩa là “một đầy tớ”, Ơ-tích có thể là người trẻ tuổi mà cũng là một đầy tớ. Anh ta có thể đã làm việc nặng nhọc ngày đó và mệt mỏi. Chẳng ngạc nhiên gì khi anh đã ngủ mê suốt bài giảng dài!
Chúng ta đừng quá nghiêm khắc đối với Phao-lô. Xét cho cùng, ông đang giảng bài giảng tạm biệt cho hội chúng này, và ông có nhiều điều để cho họ biết vì sự tốt lành của họ. Những người ngồi gần lẽ ra phải coi chừng Ơ-tích, nhưng dĩ nhiên họ đã mê mải trong điều Phao-lô đang nói. Phao-lô đã cắt ngang bài giảng của ông để vội vã xuống lầu đem người thanh niên trở lại với sự sống. Cách tiếp cận của ông nhắc chúng ta về Ê-li (IVua 17:21-22) và Ê-li-sê (IIVua 4:34-35).
Có lẽ mỗi chúng ta nên tự hỏi: “Điều gì thật sự giữ tôi thức” Những Cơ Đốc nhân thiu thiu ngủ suốt một giờ đồng hồ trong nhà thờ bằng cách nào đó tìm cách tỉnh ngủ suốt những chuyến đi câu từ sáng sớm, những sự kiện thể thao hoặc những buổi hoà nhạc dài, hay những chương trình truyền hình đặc biệt về khuya. Cũng vậy, chúng ta cần chuẩn bị chính mình về thể chất cho sự thờ phượng chung để bảo đảm chúng ta ở tình trạng tốt nhất. Spurgeon đã nói: “Hãy nhớ, nếu chúng ta ngủ suốt bài giảng và chết, không có sứ đồ nào để hồi phục chúng ta! ”.
3. Một sứ điệp tạm biệt (Cong 20:13-38)
Phao-lô quyết định đi bộ từ thành Trô-ách đến thành A-sốt, quãng đường khoảng 20 dặm.Tại sao? Trước hết, điều đó có thể giúp ông ở lâu hơn với các thánh đồ trong thành Trô-ách trong khi ông sai Lu-ca và nhóm người đi trước (Cong 20:13). Thuyền sẽ mất ít nhất một ngày để đi từ thành Trô-ách đến thành A-sốt, và Phao-lô có thể đã đi bộ đến đó trong 10 giờ đồng hồ hoặc ngắn hơn. Cũng vậy, Phao-lô có thể muốn có thời gian một mình để giao thông với Chúa về chuyến đi của ông đến Giê-ru-sa-lem. Vị sứ đồ chắc đã cảm giác rằng những ngày khó khăn ở trước mặt ông. Ông có thể cũng suy gẫm sứ điệp ông sẽ trình bày cho các trưởng lão người Ê-phê-sô. Sau cùng, thể dục chắc chắn đã có ích! Cả những sứ đồ được thần cảm cũng cần chăm sóc thân thể mình. Cá nhân tôi thích đi bộ hơn đi thuyền!
Có 50 ngày giữa lễ Vượt Qua (Cong 20:6) và lễ Ngũ Tuần (Cong 20:16) và chuyến đi của Phao-lô từ thành Phi-líp đến thành Trô-ách đã mất 12 ngày (Cong 20:6). Mất 4 ngày nữa để đến thành Mi-lê, vì vậy Phao-lô quyết định không đi đến thành Ê-phê-sô để ông không mất thêm thời gian quý giá. Thay vào đó, ông đã mời các lãnh đạo Hội Thánh Ê-phê-sô đi khoảng 30 dặm và gặp ông tại thành Mi-lê, nơi con tàu đang chờ dỡ hàng và đi tiếp. Phao-lô không phải là người lãng phí thời gian hoặc đánh mất những cơ hội.
Trong sách Công vụ, Lu-ca tường thuật 8 sứ điệp do Phao-lô trình bày cho những người khác nhau: Một hội chúng nhà hội Do Thái (Cong 13:14-43), những người ngoại (Cong 14:14-18 Cong 17:22-34) các lãnh đạo Hội Thánh (Cong 20:17-38), một đám đông người Do Thái (Cong 22:1-21). Hội đồng Do Thái (Cong 23:1-20). và các quan chức chính quyền khác (Cong 24:10-21 Cong 26:1-32). Bài nói chuyện của ông với các trưởng lão Ê-phê-sô là duy nhất trong đó nó bày tỏ Phao-lô mục sư hơn là Phao-lô người giảng Phúc Âm hoặc Phao-lô người bảo vệ đức tin. Sứ điệp này giúp chúng có một cái nhìn lướt qua về cách Phao-lô đã thi hành chức vụ ở thành Ê-phê-sô trong ba năm.
Từ “trưởng lão” là “presbutos” trong tiếng Hy Lạp (“presbyler”) và nó chỉ về người trưởng thành được chọn để hầu việc trong chức vụ (Cong 14:23). Chính những người này được gọi là “những người coi sóc” trong Cong 20:28 là “episkopos” hoặc giám mục. Họ được chọn để “chăn Hội Thánh” (Cong 20:28) nghĩa là “dẫn dắt”. Phao-lô đã gọi Hội Thánh địa phương là “bầy” (Cong 20:28-29), vì vậy những người này cũng là mục sư (Từ “mục sư” nghĩa là “người chăn chiên”). Do đó trong các Hội Thánh thời Tân Ước có ba danh hiệu: Trưởng lão, Giám mục và Mục sư đồng nghĩa nhau. những phẩm chất cho chức vụ này được trình bày trong ITi 3:1-7 và Tit 1:5-9.
Có ba phần cho sứ điệp tạm biệt của Phao-lô. Trước tiên ông ôn lại quá khứ (Cong 20:18-21). Sau đó ông bàn luận hiện tại (Cong 20:22-27) và cuối cùng, ông nói về tương lai (Cong 20:28-35). Trong phần đầu tiên, ông nhấn mạnh sự trung tín của mình đối với Chúa và với Hội Thánh khi ông thi hành chức vụ trong ba năm ở thành Ê-phê-sô. Phân đoạn thứ 2 bày tỏ những cảm xúc riêng của Phao-lô xét về cả quá khứ lẫn tương lai. Trong phần thứ 3, ông cảnh cáo họ về những hiểm hoạ mà các Hội Thánh đã đối diện.
- Điểm lại quá khứ (Cong 20:18-21). Phao-lô không phải là người làm việc từ từ, thận trọng như một nhà ngoại giao thăm dò đường đi nước bước. “Từ ngày đầu” ông đã dâng mình cách trọn vẹn cho công việc của Chúa ở thành Ê-phê-sô, vì Phao-lô là một đại sứ chớ không phải một nhà ngoại giao.
Động cơ cho chức vụ của Phao-lô được tìm thấy trong nhóm từ “hầu việc Chúa” (Cong 20:19). Ông không quan tâm đến việc kiếm tiền (Cong 20:33) hoặc hưởng một đời sống dễ chịu (Cong 20:34-35), vì ông là tôi tớ của Đức Chúa Giê-xu (Cong 20:24 Ro 1:1). Phao-lô thận trọng cho mọi người biết rằng những động cơ cho chức vụ của ông mang tính thuộc linh chớ không ích kỷ (ITe 2:1-13).
Tính cách chức vụ của ông là mẫu mực (Cong 20:18-19). Ông đã sống một đời sống kiên định mà bất cứ ai cũng có thể xem xét, vì ông chẳng có gì giấu giếm. Ông đã hầu việc trong sự khiêm nhường chớ không như một “người nổi tiếng trong tôn giáo”đòi hỏi người khác phục vụ mình. Nhưng sự khiêm nhường của ông không phải là một dấu hiệu của sự yếu đuối, vì ông đã có can đảm để đối diện những thử thách và nguy hiểm mà không bỏ cuộc. Phao-lô không xấu hổ để thừa nhận với các bạn ông rằng ông cũng đã có những lúc rơi lệ (cũng xem Cong 20:31 và Ro 9:1-2 IICo 2:4 Phi 3:18).
- Sứ điệp của chức vụ ông (Cong 20:20-21) cũng được biết rộng rãi, vì ông đã rao ra và dạy nó tại những nơi công cộng (Cong 19:9)cũng như trong các buổi thông công của các Hội Thánh tư gia. Ông bảo tội nhân ăn năn tội lỗi họ và tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Sứ điệp này là “Phúc Âm của ân điển Đức Chúa Trời” (Cong 20:24) và đó là sứ điệp duy nhất có thể cứu tội nhân (ICo 15:1-8 Ga 1:6-12).
Hơn nữa, Phao-lô nhắc nhở họ rằng, trong chức vụ của ông, ông đã không giữ lại bất kỳ điều gì có lợi cho họ. Ông tuyên bố với họ “mọi ý định của Đức Chúa Trời” (Cong 20:27). Sứ điệp của ông là một sứ điệp quân bình bao gồm những giáo lý và những bổn phận, cũng như những đặc quyền với những trách nhiệm thuộc về đời sống Cơ-đốc. Trong sự rao giảng của mình, ông đã không thoả hiệp hoặc đi đến những thái cực, nhưng giữ mọi sự quân bình Phao-lô cũng giữ cho quan điểm về hội chúng được quân bình, làm chứng cho người Do Thái lẫn người ngoại.
-Lời chứng về hiện tại (Cong 20:22-27). Nhóm từ “và giờ dây, hãy xem” thay đổi sự nhấn mạnh từ quá khứ sang hiện tại khi Phao-lô mở lòng và cho các bạn ông biết ông cảm nghĩ ra sao. Ông không giấu họ sự thật rằng ông đã bị trói buộc trong tinh thần (Cong 19:21), để đi đến Giê-ru-sa-lem dù ông biết rằng nguy hiểm và sự chết có thể xảy ra đã đợi ông ở đó. Đức Thánh Linh đã làm chứng sứ điệp này cho ông từ thành này đến thành khác. Một người bình thường hơn có lẽ sẽ tìm ra một cách nào đó để thoát ra, nhưng Phao-lô thì không. Ông đã bị thu hút bởi sự kêu gọi và sự dấn thân cho Chúa Giê-xu Christ nên không thể tìm lối thoát nào đó an toàn và dễ dàng. Trong lời chứng của mình, Phao-lô sử dụng 6 bức tranh sinh động về chức vụ ông để giải thích lý do ông sẽ không bỏ cuộc nhưng sẽ đến Giê-ru-sa-lem để chịu chết vì Chúa Giê-xu nếu cần. Phao-lô đã có thể nói: “Không gì trong những điều này lay chuyển tôi! ” vì ông biết mình là một công sứ của Chúa Giê-xu.
Phao-lô thấy mình như một kế toán viên (Cong 20:24) xem xét tài sản với khoản nợ của mình và quyết định đặt Chúa Giê-xu trên hết mọi sự. Ông đã đối diện với kiểu tính toán này trước tiên trong chức vụ mình và sẵn sàng khiến những điều thuộc linh trở nên ưu tiên số một trong đời sống ông (Phi 3:1-11).
Ông cũng thấy mình như một người chạy đua muốn kết thúc cuộc đua của mình trong chiến thắng hoan hỉ (Phi 3:12-14 IITi 4:8). Ba nhóm từ “sự sống tôi, cuộc đua của tôi, chức vụ tôi” là chìa khoá. Phao-lô nhận ra rằng sự sống của ông là món quà của Đức Chúa Trời dành cho ông, và Đức Chúa Trời có một kế hoạch đặc biệt cho đời sống ông mà sẽ được thực hiện trong chức vụ ông. Phao-lô đã được dâng cho một Đấng vĩ đại (“hầu việc Chúa”) và được thôi thúc bởi một mục đích vĩ đại, gây dựng Hội Thánh.
Bức tranh thứ ba của Phao-lô là bức tranh về người quản gia, vì chức vụ của ông là điều gì đó ông đã “nhận nơi Chúa”. Quản gia làm chủ rất ít hoặc không có gì cả, nhưng người ấy có mọi thứ. Mục đích duy nhất của người ấy là hầu việc chủ mình và làm đẹp lòng người “Vả lại, cái điều người ta đòi hỏi nơi quản gia là phải trung thành” (ICo 4:2). Người quản gia ngày nào đó phải báo cáo về chức vụ mình, và Phao-lô đã sẵn sàng cho ngày ấy.
Bức tranh kế tiếp là bức tranh về sự làm chứng, “Làm chứng về Phúc Âm của ân điển Đức Chúa Trời” (Cong 20:24 và chú ý Cong 20:21). Từ này có nghĩa là “long trọng đưa ra chứng cớ”, và nó nhắc chúng ta về sự nghiêm túc của sứ điệp và của chức vụ.Khi chúng ta chia sẻ Phúc Âm với người khác, đó là một vấn đề về sự sống và sự chết (IICo 2:15-16). Phao-lô là một chứng nhân trung thành cả trong đời sống ông đã sống (Cong 20:18) và sứ điệp ông đã rao giảng.
Bức tranh số năm là sứ giả (Cong 20:25). Từ “rao giảng” nghĩa là “công bố một sứ điệp với tư cách sứ giả của vua”. Chứng nhân cho biết điều đã xảy ra với người đó, nhưng sứ giả cho biết điều mà vua bảo người ấy công bố. Người ấy là một người được uỷ nhiệm và được sai đi với một sứ điệp, và người ấy không được thay đổi sứ điệp đó bất cứ cách nào. Và vì người ấy do vua sai đi, dân sự lắng nghe nên cẩn thận cách họ đối xử với sứ giả lẫn sứ điệp.
Bức tranh cuối cùng, và có lẽ kịch tính nhất, là bức tranh về người canh giữ (Cong 20:26). Như trong Cong 18:6 đây là một ám chỉ về “người canh giữ trên những tường thành” trong Exe 3:17-21 Exe 33:1-9. Thật là một sự kêu gọi nghiêm túc để trở nên người canh giữ! Người đó phải thức giấc và cảnh giác sẵn sàng báo động nếu thấy nguy hiểm đến gần, Người đó phải trung thành, không sợ hãi, vì sự an toàn của nhiều người tuỳ thuộc vào người ấy. Phao-lô là một người canh giữ trung thành (Cong 20:31), vì ông đã tuyên bố với tội nhân và các thánh đồ mọi ý định của Đức Chúa Trời. Tiếc thay, chúng ta ngày nay có nhiều người canh giữ bất trung chỉ nghĩ đến bản thân (Es 56:10-13).
Một nhóm người hầu việc đã hỏi giáo sĩ mới của họ rằng ông có tin về một địa ngục thật dành cho tội nhân hư mất hay không, và ông đã cười bảo họ rằng ông không tin. Những người này đáp: “Nếu không có địa ngục nào cả, chúng tôi không cần ông, và nếu có một địa ngục, ông đang dẫn họ lạc lối. Ở cả hai phương diện, chúng tôi thấy tốt hơn là không có ông.
-Lời cảnh cáo về tương lai (Cong 20:28-35). Phao-lô kết thúc sứ điệp tạm biệt bằng cách cảnh cáo các lãnh đạo về những nguy hiểm họ phải nhận biết và đối phó nếu họ muốn bảo vệ và dẫn dắt Hội Thánh. Đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng lớn lao của Hội Thánh. Hội Thánh quan trọng đối với Đức Chúa Cha vì danh Ngài ở trên đó. “Hội Thánh của Đức Chúa Trời”. Hội Thánh quan trọng đối với Đức Chúa Con vì Ngài đã đổ huyết vì Hội Thánh. Và Hội Thánh quan trọng đối với Đức Thánh Linh vì Ngài đang kêu gọi và trang bị người để dạy dỗ cho Hội Thánh. Làm một lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời hằng sống là một điều nghiêm túc.
Trước hết có những nguy hiểm quanh ta, “Muông sói” muốn cướp bầy (Cong 20:19). Phao-lô ám chỉ về những thầy giáo giả, những kẻ giả mạo lợi dụng Hội Thánh vì tư lợi (Mat 7:15-23 Mat 10:16 Lu 10:3 IIPhi 2:1-3). Quan trọng biết bao khi tín đồ biết Lời Đức Chúa Trời và khám phá cùng đánh bại những kẻ làm tiền đội lốt tôn giáo này.
Nhưng cũng có những nguy hiểm giữa vòng chúng ta (Cong 20:30), vì có những người trong Hội Thánh là kẻ ham địa vị và quyền thế. Lịch sử Hội Thánh, xưa và nay, đầy dẫy những câu chuyện về những Đi-ô-trép là kẻ ưng đứng đầu (IIIGi 1:9-10). Đáng sửng sốt để nhận ra rằng có hơn một tiên tri giả khởi đầu hoạt động trong gia đình Hôị thánh Cơ-đốc! Hãy đọc IGi 2:18-19 và lưu ý.
Cũng có những nguy hiểm ở trong chúng ta (Cong 20:31-35) và đây dường như là điểm Phao-lô nhấn mạnh nhất. “Vì vậy, anh em hãy giữ lấy mình” (Cong 20:28). Ông kể tên 5 tội lỗi đặc biệt huỷ hoại đời sống và chức vụ của các lãnh đạo thuộc linh trong Hội Thánh.
Tội thứ nhất là bất cẩn (Cong 20:31), không tỉnh thức và quên cái giá những người khác đã trả để chúng ta có thể nhận được chân lý của Đức Chúa Trời. “Hãy thức canh và ghi nhớ! ” Là những lời chúng ta nên lưu ý. Chúng ta hôm nay thật dễ để quên sự khó nhọc và nước mắt của những người đã nỗ lực trước chúng ta (He 13:7). Lời cảnh cáo và sự rơi lệ của Phao-lô phải là những điều nhắc nhở chúng ta không thôi để nghiêm túc nhận những trách nhiệm thuộc linh của mình.
Tội thứ hai là sự hời hợt (Cong 20:32). Chúng ta không thể gây dựng Hội Thánh nếu Đức Chúa Trời không gây dựng đời sống chúng ta hằng ngày. Ở đây có một sự quân bình giữa sự cầu nguyện (“Tôi gởi gắm anh em cho Đức Chúa Trơi”) và Lời Đức Chúa Trời (“đạo của ân điển Ngài”), vì hai điều này phải luôn đồng công nhau (Cong 6:4 ISa 12:23 Gi 15:7). Chỉ Lời Đức Chúa Trời có thể soi sáng và khiến chúng ta phong phú, và lãnh đạo thuộc linh phải dành thời gian hằng ngày trong Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện.
Tham lam là tội thứ ba chúng ta phải tránh (Cong 20:33). Nó có nghĩa là một ước muốn sử dụng và kiểm soát những gì người khác có và muốn nhiều hơn những gì chúng ta đã có. “Ngươi chớ tham lam” là điều răn cuối cùng trong 10 điều răn, nhưng nếu chúng ta tham lam chúng ta sẽ phạm cả 9 điều răn kia! Những ai tham lam sẽ ăn cắp, nói dối, giết người để đạt điều gì mình muốn, thậm chí bất kính cha mẹ mình. Tham lam là sự thờ thần tượng, (Eph 5:5 Co 3:5). Trong những phẩm chất dành cho một trưởng lão, có lời được nhận định rõ rằng người ấy không được phạm tội tham lam (ITi 3:3).
Phao-lô cũng đề cập sự biếng nhác (Cong 20:34). Phao-lô đã kiếm sống với tư cách một thợ may trại, dù ông có thể sử dụng quyền sứ đồ của mình để yêu cầu sự hỗ trợ và bởi đó có một đời sống dễ chịu hơn. Người giúp việc Cơ Đốc nhận lương thì không có gì sai trái, vì “người làm công đáng được tiền lương mình” (Lu 10:7 ITi 5:18). Nhưng họ phải chắc chắn rằng họ đang thật sự kiếm được số lương ấy! (Ch 24:30-34).
Sau cùng, Phao-lô cảnh cáo về sự tự kỷ (Cong 20:35). Chức vụ thật nghĩa là ban cho, không phải nhận lãnh nó có nghĩa là noi theo gương Chúa Giê-xu Christ. Tấn sĩ Earl V.Pierce thường gọi đây là “phúc lớn nhất”, bởi vì không như những phúc lành khác, nó cho chúng ta biết cách được chúc phước nhiều hơn! Những lời này của Chúa Giê-xu không được tìm thấy ở đâu trong các sách Phúc Âm, nhưng chúng là một phần của sự truyền miệng, và Phao-lô đã ghi nhớ.
Phúc lành này không có ý cho rằng những người nhận “được chúc phước ít hơn” những người cho (Người ăn mày trong Cong 3:1-26 đã chứng tỏ về điều đó! ). Nó có thể được diễn giải: “Chia sẻ với người khác tốt hơn là giữ lại những gì bạn có và thu gom thêm”. Nói cách khác phước hạnh này không đến trong sự tích luỹ của cải, nhưng trong sự chia sẻ nó. Xét cho cùng, Chúa Giê-xu đã trở nên nghèo khó để chúng ta có thể trở nên giàu có (IICo 8:9). Một trong những bài bình luận hay nhất về nhận định này là Lu 12:16-31.
Phao-lô kết thúc sự kiện đáng nhớ này bằng cách quỳ xuống và cầu nguyện cho các bạn ông, và sau đó họ đều khóc với nhau. Nói lời tạm biệt là một việc khó, đặc biệt khi bạn biết mình sẽ không gặp lại các bạn hữu của mình trong đời này. Nhưng chúng ta có sự đảm bảo phứơc hạnh rằng ngày kia chúng ta sẽ gặp những bạn hữu Cơ Đốc và người thân của mình trên trời, khi Chúa Giê-xu tái lâm (ITe 4:13-18).
Trong lúc chờ đợi, có một việc để làm. Vậy chúng ta hãy làm việc ấy!
18. NHÀ TRUYỀN ĐẠO BỊ HIỂU LẦM (Cong 21:1-22:29)
Ralph Waldo Emerson đã hỏi: “Vậy thì, thật tệ để bị hiểu lầm phải không? Pythagoras đã bị hiểu lầm, và Socrates, Chúa Giê-xu, Luther, Copernicus, Galileo và Newton. Trở nên vĩ đại là bị hiểu lầm”.
Emerson có thể đã nói thêm rằng sứ đồ Phao-lô đã bị hiểu lầm, bởi bạn hữu cũng như kẻ thù ông. Ba điều trong những hiểu lầm này và những hậu quả của chúng – được ghi lại trong những chương này.
1. Các bạn hữu của Phao-lô hiểu lầm những kế hoạch của ông (Cong 21:1-17)
Phao-lô đã phải dứt mình khỏi các trưởng lão Ê-phê-sô, tuyệt vời thay tình yêu ông dành cho họ. Ông cùng nhóm người đồng hành đi thuyền từ thành Mi-lê đến thành Cốt, rồi đến thành Rô-đơ, và sau đó đến thành Ba-ta-ra, một hành trình mất ba ngày.Nhưng Phao-lô không thoải mái với một chiếc tàu “địa phương ven biển” dừng lại ở mỗi cảng, vì vậy khi ông tìm thấy một chiếc thuyền đi thẳng đến xứ Phê-ni-xi, ông và các bạn ông đã lên thuyền ấy. Đó sẽ là một chuyến đi khoảng 400 dặm.
Thành Ty-rơ (Cong 21:3-6). Đây sẽ là sự tiếp xúc đầu tiên của Phao-lô với các tín đồ ở thành Ty-rơ, mặc dù có thể sự kiện ông bắt bớ các tín đồ ở Giê-ru-sa-lem đã giúp khởi đầu Hội Thánh này (Cong 11:19). Họ đã phải tìm các tín đồ, vì vậy đó chắc không phải là một hội chúng lớn và rõ ràng không có nhà hội trong thị trấn. Họ ở lại một tuần với các thánh đồ trong khi thuyền của họ dỡ hàng và chất lên hàng mới.
Phao-lô đã dành một phần hữu ích của hành trình truyền giáo thứ ba của ông cho việc nhận quà tặng thân ái cho những người Do Thái ở xứ Giu-đê. Đó là một cách thực tiễn để người ngoại bày tỏ sự hiệp nhất của họ với anh chị em Do Thái của họ, và để đền đáp lại cho họ về việc chia sẻ Phúc Âm với người ngoại (Ro 15:25-27). Trong Hội Thánh đã có một mối đe doạ thường trực về sự chia rẽ, vì những người Do Thái cực đoan (những Giáo sư Do Thái) muốn dân ngoại sống giống như dân Do Thái và noi theo luật Môi-se (Cong 15:1). Bất cứ nơi đâu Phao-lô đã thi hành chức vụ, những người cực đoan này tìm cách ngăn trở công việc ông và đánh cắp những người qui đạo của ông. Phao-lô hy vọng rằng cuộc thăm viếng Giê-ru-sa-lem của ông với quà tặng sẽ giúp củng cố mối thông công giữa người Do Thái và người ngoại.
Giờ đây, Phao-lô bắt đầu nhận các thông tin từ các bạn của ông rằng cuộc thăm viếng của ông đến Giê-ru-sa-lem sẽ khó khăn và nguy hiểm. Dĩ nhiên, ông đã nghi ngờ điều này rồi biết các thầy giáo giả đã hoạt động ra sao (Ro 15:30-31) nhưng những thông tin này rất cá nhân và mạnh mẽ. Ở Ty-rơ, các tín đồ “đã tiếp tục nói với ông” (nghĩa đen tiếng Hy Lạp) rằng ông không nên đặt chân đến Giê-ru-sa-lem.
Sau một tuần ở thành Ty-rơ, Phao-lô và nhóm người đồng hành đã ra đi. Thật cảm động khi thấy cách các tín đồ đã trở nên yêu mến Phao-lô, dầu họ đã biết ông chỉ một tuần. Trạm dừng đầu tiên là Bê-tô-lê-mai, nơi họ đã thăm viếng các tín đồ một ngày, và rồi họ đi thuyền đến thành Sê-sa-rê, nơi đến sau cùng của họ.
Thành Sê-sa-rê (Cong 21:7-14). họ ở lại với Phi-líp, một trong những chấp sự đầu tiên (Cong 6:1-6) là người cũng hầu việc như một người rao giảng Phúc Âm (Cong 8:5). Giờ đây đã 20 năm kể từ khi ông đã đến thành Sê-sa-rê và lập trụ sở ở đó. Vì Phi-líp là người từng là một cộng sự với Ê-tiên và Phao-lô đã dự phần trong sự chết của Ê-tiên, đây chắc là một cuộc gặp gỡ thú vị.
Trong khi Phao-lô nghỉ lại trong thành Sê-sa-rê, tiên tri A-ga-bút đến tỏ cho ông một sứ điệp cảnh cáo thứ hai của Chúa. Khoảng 15 năm trước đó, Phao-lô và A-ga-bút đã đồng công với nhau trong một chương trình cứu đói cho xứ Giu-đê (Cong 11:27-30), vì vậy họ không phải là những người xa lạ. A-ga-bút rao sứ điệp mình một cách kịch tính khi ông trói tay chân mình bằng dây lưng của Phao-lô và cho vị sứ đồ biết rằng người sẽ bị trói trong thành Giê-ru-sa-lem.
Giống như các thánh đồ trong thành Ty-rơ, các tín đồ ở Sê-sa-rê cũng nài xin Phao-lô đừng đi đến Giê-ru-sa-lem. Chắc chắn những người được các Hội Thánh chọn lựa đã có thể chuyển giao quà tặng thân ái cho Gia-cơ và các trưởng lão Giê-ru-sa-lem, và sẽ không cần thiết để Phao-lô đích thân đi. Nhưng Phao-lô đã khiến họ yên lặng và họ biết rằng ông đã được chuẩn bị (“sẵn sàng”) không chỉ để bị trói, nhưng cũng để chịu chết nếu cần vì danh của Đức Chúa Giê-xu Christ.
Giờ đây, chúng ta phải tạm dừng lại để xem xét Phao-lô đã đúng hay sai trong việc thực hiện chuyến đi đó đến Giê-ru-sa-lem. Nếu xem xét những hành động của vị sứ đồ chúng ta thấy dường như chúng có vẻ chẳng thích hợp ngay cả mang tính chất xúc phạm, hãy nhớ rằng ông cũng là một con người như bất kỳ người nào khác.Những thư tín của ông đã được hà hơi, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là mọi việc ông làm đều toàn hảo. Dù ông đúng hay sai, chúng ta chắc chắn có thể học được từ từng trải của ông.
Về phía nghịch, những sứ điệp lập đi lập lại này thật sự nghe như những lời cảnh cáo Phao-lô hãy ra khỏi Giê-ru-sa-lem, . Về vấn đề ấy, hơn 20 năm trước đó, Chúa đã ra lệnh Phao-lô ra khỏi Giê-ru-sa-lem vì dân Do Thái sẽ không chấp nhận lời chứng của ông (Cong 22:18). Phao-lô đã viết thư cho những người Rô-ma về các nguy hiểm trong xứ Giu-đê (Cong 15:30-31), và ông đã chia sẻ cùng những cảm xúc này với các trưởng lão Ê-phê-sô (Cong 20:22-23). Vì vậy ông đã nhận thức đầy đủ những vấn đề có liên quan.
Về phía thuận, những lời nói tiên tri có thể được tiếp nhận như những lời cảnh cáo (“Hãy sẵn sàng! ”) hơn là như những sự cấm đoán (“Ngươi không được đi! ”). Lời tuyên bố trong Cong 21:4 không sử dụng, từ phủ định Hy-văn “ou”, là từ có nghĩa sự ngăn cấm tuyệt đối, nhưng “me”, đã sử dụng “ở chỗ một người nghĩ một điều không phải vậy” (Manual Greek Lexican of The New Testament, của G.Abbott – Smith trang 289). A-ga-bút đã không cấm Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem ông chỉ cho Phao-lô biết những điều để chờ đợi nếu người đi. Như đối với mệnh lệnh của Chúa trong Cong 22:18 nó áp dụng cho lúc đặc biệt đó và không cần thiết phải được giải nghĩa như một sự ngăn cấm điều khiển cuộc đời còn lại của Phao-lô. Mặc dù đúng là Phao-lô đã tránh Giê-ru-sa-lem, cũng đúng là ông đã trở lại đó vào những dịp khác với sự cứu đói (Cong 11:27-30), dự hội nghị Giê-ru-sa-lem (Cong 15:1), và sau hành trình truyền giáo thứ hai của ông (Cong 18:22 “đi lên chào mừng Hội Thánh” chỉ về Giê-ru-sa-lem).
Xét về lời tuyên bố của Phao-lô trong Cong 23:1 và những lời khích lệ của Chúa trong Cong 23:11 khó tin rằng vị sứ đồ này đã cố tình bất tuân ý chỉ của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ. Lời tiên tri của Đức Chúa Trời với A-na-nia (Cong 9:15) chắc chắn đã thành sự thật nhiều tháng sau đó khi Phao-lô có cơ hội làm chứng cho Đấng Christ.
Thay vì kiện cáo Phao-lô về sự thoả hiệp, chúng ta phải hoan nghênh ông vì sự can đảm của ông. Vì sao? Vì trong việc đến Giê-ru-sa-lem, ông có nguy cơ bị giết khi tìm cách giải quyết vấn đề cấp bách nhất trong Hội Thánh: sự chia rẽ đang nổi lên giữa những người Do Thái theo luật pháp “rất hữu khuynh” và tin hữu dân ngoại. Kể từ hội nghị Giê-ru-sa-lem (Cong 15:1-41), sự rắc rối đã âm ỉ, và những người Do Thái theo luật pháp đã đi theo Phao-lô và tìm cách dành lấy những người qui đạo của ông. Đó là một tình cảnh nghiêm trọng và Phao-lô biết rằng ông là một phần của câu trả lời cũng như một phần của vấn đề. Nhưng ông đã không thể giải quyết được vấn đề bằng sự điều khiển từ xa qua những người đại diện, ông đã phải đích thân đi đến Giê-ru-sa-lem.
Thành Giê-ru-sa-lem (Cong 21:15-17). Một nhóm tín hữu đã rời thành Sê-sa-rê và đi với Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem, có thể là để dự lễ. Đó là một hành trình 65 dặm mất ít nhất ba ngày đi bộ – mất hai ngày nếu họ có những con vật. Quả là sự thông công mà họ chắc đã vui hưởng khi họ tường thuật điều Đức Chúa Trời đã làm trong họ và qua họ! Thật là một sự khích lệ lớn cho Phao-lô để có những người bạn ở cạnh ông khi ông đối diện với thách thức ở Giê-ru-sa-lem.
Thành sẽ chật ních những người đến dự lễ, nhưng Phao-lô và những người cùng đi đã vạch kế hoạch sống với Ma-na-sôn, “một môn đệ lâu nay sống ở Giê-ru-sa-lem và từng thăm viếng thành Sê-sa-rê. Có lẽ ông đã quy đạo nhờ sự rao giảng của Phi-e-rơ vào lễ Ngũ Tuần chăng? Hay người đồng hương của ông là Cypriot Ba-na-ba đã chinh phục ông cho Đấng Christ? (Cong 4:36). Chúng ta không được cho biết nhưng chúng ta biết rằng Ma-na-sôn là một người được dành cho lòng mến khách, và chức vụ ông đã giúp Phao-lô vào một thời điểm chiến lược trong chức vụ sứ đồ.
Chúng ta có thể đã ước mong rằng Bác sĩ Lu-ca cho chúng ta biết nhiều hơn về cuộc gặp gỡ đầu tiên đó với các lãnh đạo Hội Thánh ở Giê-ru-sa-lem. Gia-cơ và những lãnh đạo khác đã vui mừng tiếp họ, nhưng họ đã đáp ứng ra sao trước quà tặng từ dân ngoại? Không điều gì được nói về vấn đề đó. Có lẽ một số người hơi nghi ngờ chăng? Một vài năm sau đó, nhà văn người Rô-ma Martal đã nói “Những món quà giống như những lưỡi câu! ” và có lẽ một số trưởng lão Giê-ru-sa-lem đã cảm nhận về quà tặng này cách đó. Chắc chắn cánh luật pháp của Hội Thánh đã nghi vấn bất cứ điều gì Phao-lô nói hoặc làm.
2. Hội Thánh Giê-ru-sa-lem hiểu lầm sứ điệp của ông (Cong 21:18-26)
Rõ ràng buổi nhóm đầu tiên đó chủ yếu được dành cho sự thông công và những vấn đề riêng, vì buổi nhóm thứ hai được dành cho sự báo cáo riêng của Phao-lô về chức vụ của ông đối với dân ngoại. Những lãnh đạo Giê-ru-sa-lem những năm trước đó đã nhất trí rằng Phao-lô nên thi hành chức vụ cho dân ngoại (Ga 2:7-10), và các trưởng lão đã vui mừng về điều họ nghe. Nhóm từ “công bố tường tận” nghĩa là “tường thuật chi tiết, từng điều”. Phao-lô trình bày một sự tường thuật đầy đủ và chính xác, không phải về điều ông đã làm, nhưng về điều Chúa đã làm qua chức vụ của ông (ICo 15:10).
Bạn có ấn tượng rằng những người sống theo pháp luật đã hành động đằng sau hiện trường. Phao-lô vừa báo cáo xong thì những trưởng lão đã nêu lên những tin đồn khi ấy được lưu truyền về Phao-lô giữa vòng các Cơ Đốc nhân Do Thái. Có thể nói rằng, dù một tin đồn không có chân để đứng, nó đi cực kỳ nhanh!
Kẻ thù nói gì về Phao-lô? Hầu như cùng những điều họ đã nói về Chúa Giê-xu và Ê-tiên: ông đang dạy cho dân Do Thái từ bỏ luật pháp và tục lệ ban ra bởi Môi-se và các tổ phụ. Họ không lo lắng về điều Phao-lô đã dạy dỗ các tín đồ người ngoại, vì mối liên hệ của dân ngoại với luật pháp đã được giải quyết tại hội nghị Giê-ru-sa-lem (Cong 15:1-41). Thật ra, các trưởng lão đã cẩn thận nghe lại vấn đề (Cong 21:25) có thể vì cớ những bạn người ngoại của Phao-lô. Những lãnh đạo đặc biệt quan tâm để sự hiện diện của Phao-lô trong thành không gây sự chia rẽ hoặc sự lộn xộn giữa vòng “mấy vạn người Do Thái… sốt sắng về luật pháp” (Cong 21:20).
Nhưng, tại sao quá nhiều người Do Thái đã tin vẫn bám vào luật Môi-se? họ há không đọc thư tín Rô-ma và Ga-la-ti sao? Có thể không và dù họ có đọc, những tục lệ cũ thật khó thay đổi. Thật ra, ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ phải gởi một bức thư đặc biệt cho dân Do Thái, thư tín Hê-bơ-rơ, để giải thích mối liên hệ giữa Cựu và Tân Ước. Như Tiến sĩ Donald Grey Barnhouse thường nói: “Sách Hê-bơ-rơ đã được viết cho người Hê-bơ-rơ để bảo họ thôi làm người Hê-bơ-rơ! ” . Mãi đến khi thành và đền thờ bị phá huỷ năm 70 SC thì sự thờ phượng theo truyền thống của dân Do Thái mới chấm dứt.
Phao-lô đã cảnh cáo dân ngoại đừng tham gia vào Do Thái giáo cũ (Ga 4:1-11), nhưng không có chỗ nào ông bảo dân Do Thái rằng họ thực hành những tục lệ của mình là sai trật, miễn là họ không cậy nơi nghi lễ hoặc biến những tục lệ của họ thành một thử nghiệm về sự thông công (Ro 14:1-15:7). Có sự tự do để giữ những ngày đặc biệt và những chế độ ăn kiêng, và các tín đồ không được xét đoán hay lên án nhau. Cùng ân điển đã ban cho dân ngoại sự tự do để kiêng cử cũng ban cho dân Do Thái sự tự do để tuân giữ. Mọi điều Đức Chúa Trời yêu cầu là họ phải tiếp nhận nhau và không tạo ra những vấn đề hay những chia rẽ.
Dường như không thể tin được rằng kẻ thù của Phao-lô sẽ tố cáo ông về những điều này, vì mọi chứng cớ đều nghịch lại họ. Phao-lô đã để Ti-mô-thê chịu cắt bì trước khi đem ông theo ở hành trình truyền giáo thứ hai ấy (Ro 16:1-3). Phao-lô đã có một thề nguyện Do Thái trong thành Cô-rinh-tô (Ro 18:18), và thói quen của ông là không xúc phạm người Do Thái bất cứ phương diện nào bằng cách cố tình xúc phạm những tục lệ hay luật Môi-se của họ (ICo 9:19-23). Tuy nhiên, những tin đồn thường không dựa trên sự thật nhưng phát triển dựa trên nửa sự thật, những định kiến, và những điều hoàn toàn giả dối.
Các lãnh đạo có ý nói rằng Phao-lô bày tỏ công khai sự tôn trọng của ông đối với luật pháp Do Thái. Mọi điều họ yêu cầu ta là ông đồng nhất hoá với bốn người mắc một lời thề nguyện Na-xi-rê (Dan 6:1- 27), trả tiền cho của lễ của họ, và ở cùng họ trong đền thờ chuẩn bị cho kỳ tinh sạch của họ. Ông đã đồng ý thực hiện việc ấy. Nếu đó là một vấn đề liên quan đến sự cứu rỗi cá nhân người nào, bạn có thể chắc rằng Phao-lô sẽ chẳng bao giờ hợp tác vì điều đó sẽ làm hại sứ điệp của ông về sự cứu rỗi bởi ân điển, nhờ đức tin. Nhưng đây là một vấn đề về nhận thức riêng của các tín đồ Do Thái những người được ban cho sự tự do để chấp nhận hoặc từ chối những tục lệ.
Hôm sau Phao-lô đã thuật lại cho thầy tế lễ và dự phần trong lễ tinh sạch, nhưng chính ông không thề nguyện gì. Ông và những người này phải chờ 7 ngày và sau đó dâng của lễ được truyền dạy. Toàn bộ kế hoạch có vẻ an toàn và khôn ngoan, nhưng nó đã không có tác động gì. Thay vì đem đến sự bình an, nó gây ra sự náo động, và Phao-lô cuối cùng là một tù nhân.
3. Dân Do Thái hiểu lầm chức vụ của Phao-lô (Cong 21:27-40 Cong 22:1-29).
(Cong 21:27-40). Trong đền thờ, ngăn cách sân của dân ngoại với những sân khác, sừng sững một bức tường và không người ngoại nào được phép đi xa hơn nơi này (chú ý Eph 2:14). Trên bức tường là câu viết long trọng: “không người ngoại quốc nào có thể bước vào hàng rào bao quanh nơi thánh và khu vực được rào. Bất cứ ai bị bắt gặp làm như vậy sẽ tự mình chuốc lấy cái chết chắc chắn? Người Rô-ma đã ban cho các lãnh đạo Do Thái quyền hạn để xử lý bất cứ ai phạm luật này, và điều này bao gồm quyền thi hành án. Luật này đóng một vai trò quan trọng trong việc đã xảy ra cho Phao-lô một tuần sau khi ông và bốn người Na-xi-rê bắt đầu lễ tinh sạch của họ.
Một số người Do Thái từ xứ A-si đã thấy Phao-lô trong đền thờ thì vội kết luận rằng ông đã làm ô uế nơi thánh của họ bằng cách đem những người ngoại vượt qua hàng rào. Có thể những người Do Thái này đã đến từ thành Ê-phê-sô, vì họ nhận ra bạn của Phao-lô Trô-phim, người đến từ thành Ê-phê-sô. Với những cảm xúc vận hành hết tốc lực, và những bộ não ở số không của họ, những người này đã lý luận: 1.Nơi đâu Phao-lô đến, các bạn người ngoại của ông đã đến 2. Phao-lô được thấy trong đền thờ, vì vậy những người bạn ngoại quốc của ông cũng đã ở trong đền thờ! Đó là lô-gic về thành kiến.
Họ kéo Phao-lô và có lẽ sẽ giết ông nếu những lính canh Rô-ma không can thiệp đúng lúc. (Có ít nhất 1.000 lính Rô-ma đã đóng quân trong pháo đài Antonia ở góc đông bắc của khu vực đền thờ). Đám đông ở đền thờ trong sự náo động, hoàn toàn không biết gì về việc đang xảy ra. Cảnh tượng này nhắc bạn về cuộc nổi loạn ở thành Ê-phê-sô. Hãy so sánh câu 30 với Eph 19:29 và c.34 với Eph 19:32. Cần có quản cơ (Cơ-lốt Ly-sia, Eph 23:26), hai thầy đội và có lẽ 200 quân lính để khống chế đám đông và cứu nguy Phao-lô. Quản cơ thật sự nghĩ rằng Phao-lô là một người Ai Cập gây loạn, đã bị người Rô-ma truy nã vì kích động một cuộc nổi dậy (Cong 21:38). Điều này giải thích lý do ông ra lệnh trói Phao-lô bằng hai xích (Cong 21:33).
Khi Cơ-lốt dò hỏi dân chúng họ không thể giải thích điều gì gây ra cuộc nổi loạn vì họ thật sự không biết. Những kẻ gây rối từ đầu chắc đã chạy thoát trong lúc có cuộc kích động lớn, biết rằng họ thật sự không thể chứng minh cho những lời buộc tội. Vì Cơ-lốt không thể nhận được sự giúp đỡ nào từ dân chúng ở đền thờ, ông quyết định thẩm vấn Phao-lô vì vậy quân lính của ông đã đem Phao-lô từ Toà án của dân ngoại lên tầng trên vào đồn lính. Khi Phao-lô được đem đi, đám đông giận dữ la hét “hãy khử hắn đi! ”. Điều này nhắc chúng ta nhớ đến sự kiện Chúa chúng ta bị bắt và xét xử (Lu 23:18,21 Gi 19:15).
Tại thời điểm này, Phao-lô quyết định đã đến lúc để nói lên, và vị quản cơ kinh ngạc khi tù nhân nguy hiểm của ông có thể nói tiếng Hy Lạp. Khi Phao-lô xin phép được nói với dân Do Thái, Cơ-lốt đồng hy vọng rằng mình sẽ có đủ thông tin cho một báo cáo chính thức. Ông chưa bao giờ có đủ thông tin (Gi 23:23-30). Phao-lô đã nói với dân Do Thái bằng tiếng A-ram bổn xứ của họ, và điều này giúp họ lắng đọng. Ông chưa bao giờ có thể hoàn tất bài nói chuyện của mình, nhưng ông đã giải thích được ba phương diện quan trọng của đời sống và chức vụ ông.
- Hạnh kiểm ban đầu của ông (Cong 21:3-5). Phao-lô từng là một ra-bi chủ đạo trong thời ông (Ga 1:13-14), vì vậy ông chắc chắn được một số người trong đám đông biết đến. Hãy chú ý cách Phao-lô xếp đống những uỷ nhiệm thư của mình: ông là một người Do Thái, bổn dân thành Tạt-sơ được nuôi dưỡng trong thành Giê-ru-sa-lem, được Ga-ma-li-ên dạy dỗ, một người sống theo luật pháp, một kẻ sốt sắng bắt bớ Hội Thánh, và là một nghị viên của Toà Công Luận. Làm sao đồng bào ông lại không thể tôn trọng lắng nghe một người có lý lịch như thế cho được!
Thay vì tố cáo về việc tham gia vào cuộc nổi loạn, ông đã khen ngợi họ về việc “sốt sắng vì Đức Chúa Trời” (Ông đã sử dụng một cách tiếp cận tương tự với dân A-thên Cong 17:22). Ông thừa nhận mình cũng đã phạm tội bắt giữ, trói và thậm chí giết người. Niềm tin Cơ Đốc đã được biết như “đạo” (Cong 9:2 Cong 19:9,23 Cong 24:14,22), có thể là một sự ám chỉ về lời tuyên bố của Chúa chúng ta, “Ta là đường đi” (Gi 14:6).
-Sự qui đạo kỳ diệu của ông (Cong 21:6-16). Lu-ca đã ghi lại kinh nghiệm qui đạo của Phao-lô trong chương 9 và Phao-lô sẽ nhắc lại câu chuyện này cho Phê-lít và Ạc-ríp-ba (Cong 26:1-32). Thật khó hình dung một đám đông như vậy ngày nay có thể yên lặng lắng nghe một lời chứng như thế.Tuy nhiên, người dân thời đó đã chờ đợi những điều huyền diệu xảy ra và hẳn đã bị mê hoặc bởi câu chuyện của Phao-lô (Cong 23:9). Cũng vậy Phao-lô đang làm công việc chính thức của toà Công Luận khi những sự kiện này xảy ra, ít nhất đã cho thấy thoáng thẩm quyền nào đó.
Trong lời chứng của mình, Phao-lô khẳng định rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét vẫn sống.Phao-lô đã thấy sự vinh hiển của Ngài và nghe tiếng Ngài. Dân chúng lắng nghe trong sân đền thờ đã biết địa vị Do Thái chính thức của Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét đó là một người mạo danh đã bị đóng đinh trên thập tự và thân thể Ngài đã bị đánh cắp khỏi phần mộ bởi những môn đệ Ngài là những người sau đó khởi đầu tin đồn rằng Chúa Giê-xu đã được khiến sống lại từ cõi chết. Dĩ nhiên, chính Phao-lô đã tin câu chuyện này khi ông đang bắt bớ Hội Thánh.
Những người đi với Phao-lô đã thấy ánh sáng chói lói, nhưng không mù loà như ông, và họ đã nghe một âm thanh, nhưng không thể hiểu lời gì đang được phán ra (Cong 9:7). Hãy hình dung sự kinh ngạc của Phao-lô khi khám phá rằng Chúa Giê-xu vẫn sống! Lập tức, ông đã phải thay đổi toàn bộ cách suy nghĩ của mình (ăn năn) và để Chúa phục sinh nắm quyền điều khiển.
Hãy để ý sự khôn ngoan của Phao-lô khi ông đồng nhất hoá mình với A-na-nia, một người Do Thái mộ đạo giữ luật pháp và là người đã gọi ông là “anh”. Cũng hãy để ý rằng A-na-nia đã quy kinh nghiệm tuyệt vời của Phao-lô cho “Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta”. Khi trích dẫn lời A-na-nia, Phao-lô đã đưa ra lý do để những người lắng nghe ông chấp nhận kinh nghiệm cứu rỗi của ông và sự kêu gọi để hầu việc của ông. Phao-lô đã thấy “Đấng Công Bình” đó là một danh hiệu dành cho Đấng Mê-si-a (Cong 3:14 Cong 7:52). Phao-lô giờ đây đã được Đức Chúa Trời uỷ nhiệm để đem sứ điệp Ngài cho “mọi người”. Điều này sẽ gồm cả dân ngoại, nhưng Phao-lô đã không nói vậy cho đến mãi sau đó.
Câu Cong 21:16 trong Bản dịch King James dường như gợi ý rằng phép báp-tem được đòi hỏi để rửa sạch tội lỗi chúng ta, nhưng đây không phải trường hợp đó. Trong Bản dịch Tân Ước mở rộng, học giả Hy Lạp Kenneth Wuest diễn tả, “Hãy chờ dậy, chịu phép báp-tem và làm sạch tội lỗi mình đi, sau khi đã cầu khẩn danh Chúa trước”.Chúng ta được cứu bởi cầu khẩn Chúa bằng đức tin (Cong 2:21 Cong 9:14), và chúng ta bày tỏ chứng cớ về đức tin bằng cách chịu báp-tem. Theo Cong 9:17 Phao-lô đã đầy dẫy Thánh Linh trước khi ông chịu báp-tem, và điều này cho thấy rằng ông đã được tái sinh. Chính sự “cầu khẩn” không phải việc báp-tem, đem lại sự làm sạch.
Chắc chắn nhiều người trong số những thính giả của Phao-lô đã biết về “giáo phái Cơ-đốc” đã nổi lên, những phép báp-tem đã xảy ra, việc ném đá Ê-tiên, và những phép lạ mà “những người của đạo” này đã thực hiện. Phao-lô không nói với những người dốt nát, vì những điều này đã không “được thực hiện trong nơi kín đáo” (Cong 26:26).
- Sự kêu gọi đặc biệt của ông (Cong 21:17-21). Sau khi qui đạo Phao-lô đã thi hành chức vụ trong thành Đa-mách và sau đó đến xứ A-ra-bi, có lẽ để giảng Phúc Âm và để suy gẫm Lời Đức Chúa Trời (Cong 9:19-25 Ga 1:16-17) Khi Phao-lô trở về Giê-ru-sa-lem các lãnh đạo Hội Thánh đã không tiếp nhận cho đến khi Ba-na-ba can thiệp và đưa ông vào (Ga 9:26-29). Hãy chú ý cách Phao-lô nhấn mạnh lại môi trường Do Thái trong kinh nghiệm của ông, vì dân Do Thái đã có ấn tượng với một người cầu nguyện trong đền thờ và có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời.
Chúa bảo Phao-lô nhanh chóng rời Giê-ru-sa-lem, vì dân chúng sẽ không chấp nhận lời làm chứng của ông. Bằng cách vâng theo mệnh lệnh này, Phao-lô đã cứu mạng mình, vì dân Do Thái Hê-lê-nít đã lập mưu giết ông (Ga 9:29-30). Nhưng lúc đầu, Phao-lô đã tranh luận với Chúa! Ông muốn tỏ cho dân Do Thái rằng ông là một con người mới và cho họ biết Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, và Ngài vẫn sống! Nếu Phao-lô chinh phục được một số người cho Chúa, có lẽ điều đó sẽ giúp đền bù mọi thiệt hại ông đã làm, đặc biệt trong việc giết Ê-tiên.
Mệnh lệnh của Chúa là: “Hãy đi, vì ta sẽ sai ngươi đến cùng dân ngoại ở xa! ” (Cong 21:21) Phao-lô định giải thích lý do ông có liên quan với dân ngoại, nhưng dân Do Thái trong sân đền thờ không cho ông nói tiếp, không người Do Thái mộ đạo nào có liên hệ với dân ngoại! Nếu Phao-lô không thốt ra một từ đó, ông có thể được tha sau đó và có lẽ ông biết điều này. Tuy nhiên, ông phải trung tín trong sự làm chứng của mình, dù ông trả giá nào. Phao-lô thà làm một tù nhân hơn là từ bỏ gánh nặng của ông về những linh hồn hư mất và về những sứ mệnh! Chúng ta đã có thể sử dụng nhiều hơn những Cơ Đốc nhân như vậy ngày nay.
Khi Cơ-lốt thấy rằng cuộc nổi loạn bắt đầu trở lại, ông đem Phao-lô vào đồn để “xem xét bằng cách tra tấn”. Vị sứ đồ đã đề cập rằng ông sinh ra ở Tạt-sơ, nhưng ông đã không cho họ biết rằng quyền công dân của ông là người Rô-ma. Một công dân Rô-ma bị đánh là bất hợp pháp. Chúng ta không biết người ta chứng minh quyền công dân của họ trong thời ấy ra sao Có lẽ vào thế kỷ thứ nhất họ mang vật tương đương với chứng minh thư ngày nay.
Cơ-lốt chắc đã sửng sốt khi kẻ gây rối người Do Thái bé nhỏ nào đã nói tiếng A-ram và tiếng Hy Lạp thật sự là một công dân Rô-ma. Cơ-lốt đã khoe khoang “Ta đã mua được quyền lợi này với giá cao lắm”, cho thấy rằng ông đã có được dân quyền của mình bằng cách hối lộ các quan chức Rô-ma, vì nó thật sự không thể mua được.Nhưng Phao-lô hơn hẳn quản cơ Rô-ma, vì ông đã sinh ra trong quyền lợi và dân quyền Rô-ma nhờ cha ông. Làm sao cha của Phao-lô có được quyền lợi này, chúng ta không biết. Chúng ta biết rằng Phao-lô đã biết cách lợi dụng dân quyền Rô-ma của ông vì sự nghiệp của Đấng Christ.
Quân lính đã phạm hai lỗi lầm, và họ đã nhanh chóng huỷ bỏ: họ đã trói Phao-lô và định đánh đòn ông. Chắc hẳn Cơ-lốt và các thuộc hạ ông giờ đây đặc biệt tử tế với Phao-lô khi họ biết ông là công dân Rô-ma. Đức Chúa Trời đã sử dụng thế lực lớn của Đế Chế để bảo vệ tôi tớ Ngài và cuối cùng đưa ông đến Rô-ma.
Toàn bộ thời gian Phao-lô ở Giê-ru-sa-lem là thời gian đầy dẫy những hiểu lầm nghiêm trọng, nhưng ông đã tiếp tục tiến tới. Có lẽ vào thời điểm này một số bạn ông đã nói: “Chúng tôi đã bảo với anh ấy như vậy rồi! Chúng tôi đã cảnh cáo anh ấy! ”.Đối với Phao-lô và các cộng sự của ông, đó có thể xem như cuối con đường, nhưng Đức Chúa Trời đã có những kế hoạch khác cho họ. Phao-lô sẽ làm chứng nhiều lần nữa cho những người ông không bao giờ có thể gặp nếu ông không phải là một tù nhân Rô-ma. Nhà truyền giáo của Đức Chúa Trời đã đến Rô-ma –và dân Rô-ma đã thanh toán hoá đơn!
Đó là điều xảy ra khi dân sự Đức Chúa Trời sẵn sàng bạo dạn!
Cong 22:1-29 Xem giải nghĩa Cong 21:27-40
Cong 22:30 Xem giải nghĩa Cong 23:1-10
19. PHAO LÔ TÙ NHÂN (Cong 22:30-23:35)
Tôi có lần được yêu cầu làm nhân chứng về tính cách trong một vụ kiện về quyền coi sóc trẻ con có liên quan đến một người đàn ông đã trải qua thời gian ở tù. Đây là một kinh nghiệm mới đối với tôi, và tôi hoàn toàn chưa được chuẩn bị cho câu hỏi đầu tiên luật sư hỏi tôi: “Thưa mục sư, ông có nghĩ rằng một người đàn ông từng là tù nhân có thích hợp để nuôi một đứa trẻ không?”
Tôi mạnh dạn đáp: “Điều đó tuỳ thuộc vào người ấy. Một số đàn ông vĩ đại nhất trong lịch sử từng là những tù nhân – Giăng Báp-tít, Giăng Buyan, và cả sứ đồ Phao-lô”.
Quan toà cộc lốc nói: “Hãy đơn giản trả lời có hay không! ” và đó là kết thúc bài giảng của tôi.
“Tên tù Phao-lô” (Cong 22:18) là danh mà quân lính Rô-ma sử dụng cho vị sứ đồ, một danh mà chính ông đã thường sử dụng (Eph 3:1 Eph 4:1 IITi 1:8 Phi 1:9). Phao-lô ở dưới “sự canh giữ của quân đội” nghĩa là ông bị trói với một lính Rô-ma là người chịu trách nhiệm về ông. Các tù nhân ở dưới “sự canh giữ công khai” bị bỏ vào công khám một nơi khủng khiếp đối với bất cứ con người nào phải chịu (Cong 16:19-24). Các bạn Phao-lô có thể thăm viếng ông và giúp đáp ứng những nhu cầu riêng của ông. Đáng buồn là chúng ta không đọc thấy câu “Hội Thánh cứ cầu nguyện cho người luôn” (Cong 12:5). Không có ghi chép nào cho biết Hội Thánh Giê-ru-sa-lem đã tiến hành những bước giúp đỡ ông trong lúc ở Giê-ru-sa-lem hay suốt hai năm ở thành Sê-sa-rê.
Đây là một chương lý thú, và trong đó chúng ta đọc về ba sự đối đầu Phao-lô đã trải qua.
1. Phao-lô và Hội đồng Do Thái (Cong 23:1-10).
Khám phá ra Phao-lô là một công dân Rô-ma, quản cơ Rô-ma giờ đây có hai vấn đề nghiêm trọng để giải quyết. Thứ nhất, ông cần cho tù nhân biết những lời buộc tội chính thức nào nghịch lại người, vì đó là quyền lợi của Phao-lô với tư cách một công dân Rô-ma. Thứ hai, ông cũng cần có một số lời buộc tội chính thức cho những biên bản của mình và báo với cấp trên của ông. Ông chắc rằng Phao-lô đã làm điều gì đó tai tiếng, nếu không thì tại sao quá nhiều người muốn giết ông?Nhưng không ai có vẻ biết những tội của Phao-lô là gì. Thật là một cảnh ngộ khốn khó cho một quan chức Rô-ma vướng vào!
Điều hợp lý là để cho chính dân của Phao-lô xét xử ông, vì vậy vị quản cơ chuẩn bị một cuộc họp đặc biệt của hội đồng Do Thái (Toà Công Luận). Nhóm người này gồm 70 (hoặc 71) thầy giáo Do Thái hàng đầu với thầy tế lễ cả chủ trì. Trách nhiệm của họ là giải thích và áp dụng Thánh Luật Do Thái vào công việc quốc gia, và xét xử những ai vi phạm luật pháp đó. Người Rô-ma đã cho phép hội đồng áp đặt sự hành hình nếu sự vi phạm xứng đáng nhận nó.
Quản cơ và lính canh của ông (Cong 22:10) đã đem Phao-lô vào trong phòng hội đồng và tránh sang một bên để theo dõi vụ kiện. Biết những người Do Thái trong đền thờ đã đối xử ra sao với Phao-lô, Cơ-lốt đã ở lại đó canh giữ để tù nhân của ông không bị đem đi và bị giết. Không quân nhân Rô-ma nào có thể đủ khả năng để làm mất một tù nhân, vì điều đó có thể là mất mạng mình. Việc đánh mất một tù nhân, mà những lời buộc tội nghịch với người ấy không rõ ràng, đặc biệt sẽ là sự lúng túng cho bất cứ quan chức Rô-ma nào.
Khi Phao-lô đối diện với hội đồng và xem xét cẩn thận, ông quyết định mở đầu bằng một cách tiếp cận cá nhân. “Thưa quí ông và anh em” lập tức nhận biết ông là người Do Thái và chắc chắn đã giúp dành sự chú ý của đồng bào ông.
Từ Hy Lạp được dịch là “sống” nghĩa là “sống như một công dân”. Nó cho ta từ tiếng Anh “politics” (chính trị). Phao-lô khẳng định rằng ông là một người Do Thái trung thành đã sống như một công dân Do Thái tốt và không phạm luật pháp. Lương tâm ông không lên án ông dù dân Do Thái lên án ông.
“Lương tâm” là một trong những từ ưa chuộng của Phao-lô, ông đã sử dụng nó hai lần trong Công vụ (Cong 23:1 Cong 24:16) và 21 lần trong các bức thư của ông. Từ này nghĩa là “biết với, cùng biết”. Lương tâm là “vị quan toà” hoặc “nhân chứng” bên trong chấp thuận khi chúng ta làm đúng và phản đối khi chúng ta làm sai (Ro 2:15). Lương tâm không đặt ra tiêu chuẩn, nó chỉ ứng dụng tiêu chuẩn. Lương tâm của một kẻ cắp sẽ quấy rầy hắn cho biết sự thật về đồng bạn lừa đảo của hắn giống như lương tâm của một Cơ Đốc nhân sẽ lên án người nếu người nói dối về các bạn mình. Lương tâm không tạo nên những tiêu chuẩn. Nó chỉ áp dụng những tiêu chuẩn của con người, dù họ tốt hay xấu, đúng hay sai.
Lương tâm có thể được ví sánh với một cửa sổ để ánh sáng lọt vào. Và cửa sổ càng sạch sẽ, ánh sáng chiếu vào càng nhiều. Khi cửa sổ bị dơ bẩn, áng sáng trở nên mờ hơn, và cuối cùng ánh sáng trở thành sự tối tăm. Một lương tâm tốt, hay lương tâm thanh sạch (ITi 3:9), là lương tâm tiếp nhận sự sáng của Đức Chúa Trời hầu cho chúng ta bị lên án đích đáng nếu chúng ta làm sai và khích lệ nếu chúng ta làm đúng. Một lương tâm ô uế (ICo 8:7) là lương tâm đã bị phạm tội nghịch quá nhiều đến nỗi nó không thể tin cậy được nữa. Nếu một người tiếp tục phạm tội nghịch với lương tâm mình, người ấy cuối cùng có một lương tâm xấu (He 10:22)hoặc một lương tâm chai lì (ITi 4:2). Khi ấy người đó sẽ cảm thấy bị lên án nếu người đó làm điều gì đúng hơn là điều gì sai!
Phao-lô đã bắt bớ Hội Thánh và thậm chí khiến cho những người vô tội chịu chết, vì vậy làm sao ông đã có thể tuyên bố có một lương tâm tốt? Ông đã sống đúng với sự sáng ông có, và đó là tất cả những gì một lương tâm tốt đòi hỏi. Sau khi ông trở thành Cơ Đốc nhân và ánh sáng rực rỡ của vinh hiển Đức Chúa Trời đã chiếu vào lòng ông (IICo 4:6), Phao-lô khi ấy đã thấy mọi sự việc khác đi và nhận ra rằng ông là “đầu những tội nhân” (ITi 1:15).
Thầy tế lễ cả A-na-nia (đừng nhầm với An-ne trong ITi 4:6) đã quá căm giận vì lời Phao-lô nói rằng ông “đã sống bằng trọn lương tâm tốt” đến nỗi ra lệnh cho những nghị viên hội đồng Do Thái ở gần nhất vả miệng Phao-lô (Chúa Giê-xu đã bị đối xử cách tương tự – Gi 18:22). Dĩ nhiên, điều này bất hợp pháp và vô nhân đạo Vì, xét cho cùng, Phao-lô thậm chí đã không tỏ ra phạm tội gì. Chắc chắn thầy tế lễ cả được chờ đợi để bày tỏ sự trung thực và công bằng, nếu không phải là sự thương xót và quan tâm (Le 19:15 He 5:2).
Phao-lô đã đáp lại bằng điều mà đối với tôi dường như để được biện hộ cho sự giận dữ, dù nhiều người bất đồng về điều này. Khi được yêu cầu giải thích điều ông đã nói, Phao-lô đã không xin lỗi. Đúng hơn, ông bày tỏ sự tôn trọng đối với chức vụ nhưng không phải đối với con người này. A-na-nia thật sự là một trong những người đồi bại nhất từng được mệnh danh là thầy tế lễ cả. Ông đã ăn cắp những phần mười từ các thầy tế lễ khác và làm mọi điều có thể để tăng cường quyền hạn mình. Ông được biết như một kẻ tàn bạo quan tâm nhiều về đặc ân của Rô-ma hơn là phúc lợi của Y-sơ-ra-ên.
Khi gọi thầy tế lễ cả là một “bức tường tô trắng, Phao-lô đơn giản nói rằng người này là một kẻ giả hình (Mat 23:27 Exe 13:10-12). Phao-lô đã nói tiên tri, vì Đức Chúa Trời thật sự đã trừng phạt kẻ ác này. Khi dân Do Thái nổi dậy chống lại Rô-ma năm 66, A-na-nia đã phải chạy trốn để toàn mạng vì những cảm tình của ông đối với Rô-ma. Những du khách Do Thái tìm thấy ông ẩn núp trong cống nước ở cung điện Hê-rốt, và họ giết ông. Đó là một cái chết nhục nhã dành cho một kẻ đáng khinh.
Lời đáp của Phao-lô trong Cong 22:5 đã được giải thích khác nhau. Một số người nói rằng Phao-lô đã không biết thầy tế lễ cả là ai. Hoặc có lẽ Phao-lô đang nói trong sự mỉa mai thánh: “Một người như thế thật có thể là thầy tế lễ cả sao?”Vì đây là một cuộc họp không chính thức của hội đồng, nên có lẽ thầy tế lễ cả đã không mặc đồ truyền thống và ngồi nơi thông thường của mình. Về vấn đề đó, Phao-lô đã vắng mặt khỏi hiện trường Do Thái giáo nhiều năm và có thể đã không biết nhiều người trong hội đồng.
Lời trích dẫn Xu 22:28 cho thấy rằng Phao-lô có thể đã không biết chính thầy tế lễ cả là người ra lệnh đánh ông. Một lần nữa, hãy chú ý rằng Phao-lô đã bày tỏ sự tôn trọng đối với chức vụ, nhưng không phải đối với người giữ chức vụ. Có một sự khác nhau.
Thất bại trong cách tiếp cận riêng của mình, sau đó Phao-lô sử dụng một cách tiếp cận về giáo lý. Ông tuyên bố rằng vấn đề chính yếu của ông là niềm tin nơi giáo lý về sự Phục sinh, một giáo lý mà người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê bất đồng dữ dội. Phao-lô biết rằng bằng cách bảo vệ giáo lý quan trọng này, ông sẽ chia rẽ hội đồng và sớm có những thành viên tranh cãi giữa vòng họ, đó chính xác là điều đã xảy ra. Sự phản ứng quá kịch liệt đến nỗi Cơ-lốt và thuộc hạ ông đã phải lao xuống chỗ phòng họp hội dồng và cứu tù nhân của họ lần thứ hai!
Có phải Phao-lô đang “hoạt động chính trị” khi ông sử dụng cách tiếp cận này? Tôi không nghĩ vậy. Sau cuộc xung đột đáng tiếc của ông với thầy tế lễ cả, Phao-lô nhận ra rằng ông không bao giờ có thể nhận được một cuộc xét xử công bằng trước Toà Công luận. Nếu cuộc xét xử tiếp tục, ông có thể bị kết án, bị đem ra ngoài và bị ném đá như một kẻ lộng ngôn. Nếu được cho cơ hội để chứng thực, dân Do Thái Châu Á có thể đã thêm dầu vào lửa với sự làm chứng giả dối của họ – không, việc khôn ngoan nhất để làm là chấm dứt phiên xử càng sớm càng tốt và tin cậy Đức Chúa Trời sử dụng quân đoàn Rô-ma để bảo vệ ông khỏi dân Do Thái.
Có một sự xem xét thứ hai: Phao-lô đã tuyệt đối đúng khi ông nói rằng vấn đề chính yếu là sự sống lại, không phải sự sống lại tổng quát mà là sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ (Xu 24:21 Xu 26:6-8 Xu 28:20). Nếu được cho cơ hội, Phao-lô có lẽ sẽ công bố Phúc Âm của “Chúa Giê-xu Christ và sự phục sinh” giống như ông đã công bố trước các hội chúng Do Thái ở nhiều vùng của Đế quốc. Lời chứng trong Công vụ tập trung vào sự phục sinh (Xu 1:22 Xu 2:32 Xu 3:15).
Chúa Giê-xu đã chịu xét xử trước Toà Công luận, và các sứ đồ của Ngài cũng vậy, và giờ đây Phao-lô đã làm chứng với họ. Thật hội đồng đã có những dịp tiện lớn nhưng họ không chịu tin!
2. Phao-lô và Chúa Giê-xu (Cong 23:11)
Vài năm sau sự qui đạo của Phao-lô, khi mạng sống Phao-lô gặp nguy hiểm trong thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-xu đã hiện ra cho ông trong đền thờ và bảo ông điều phải làm (Cong 22:17-21). Khi Phao-lô nản lòng trong thành Cô-rinh-tô và định đi nơi khác, Chúa Giê-xu đã hiện ra cho ông và khích lệ ông ở lại (Cong 18:9-10). Giờ đây, khi Phao-lô chắc chắn ở “tình trạng sa sút” trong chức vụ, Chúa Giê-xu hiện ra lần nữa để khích lệ và chỉ bảo ông. Phao-lô sau đó sẽ được sự khích lệ suốt cơn bão (Cong 27:22-25) và suốt cuộc xét xử ông tại Rô-ma (IITi 4:16-17). Và này, ta thường ở cùng các ngươi luôn” là một bảo đảm tuyệt vời cho mọi hoàn cảnh (Mat 28:20).
Sứ điệp của Chúa cho Phao-lô là sứ điệp về sự can đảm. “Hãy vững lòng” đơn giản nghĩa là “Hãy can đảm! ”. Chúa Giê-xu thường phán những lời này suốt chức vụ Ngài trên đất. Ngài phán những lời ấy với người bại (Mat 9:2) và với người đàn bà bị bệnh mất huyết (Mat 9:22). Ngài đã phán lớn những lời ấy với các môn đệ trong cơn bão (Mat 14:27) và lặp lại chúng trong Phòng Cao (Gi 16:33). Là dân Đức Chúa Trời, chúng ta luôn có thể can đảm trong những lúc khó khăn vì Chúa ở cùng chúng ta và hiểu rõ chúng ta.
Đó cũng là một sứ điệp về sự khen ngợi. Chúa đã không quở trách Phao-lô vì đến Giê-ru-sa-lem. Đúng hơn, Ngài khen ngợi ông về sự làm chứng ông đã bày tỏ, cho dù sự làm chứng ấy đã không được chấp nhận. Khi bạn đọc câu chuyện về những ngày Phao-lô ở Giê-ru-sa-lem, bạn có cảm giác mọi điều Phao-lô làm đều thất bại thảm hại. Cố gắng của ông để thuyết phục dân Do Thái theo luật pháp chỉ giúp gây ra một cuộc nổi loạn trong đền thờ, và sự làm chứng của ông trước toà Công Luận khiến hội đồng ở trong tình trạng lộn xộn. Nhưng Chúa đã đẹp lòng với lời chứng của Phao-lô, và đó là điều thật sự có giá trị.
Cuối cùng, đó là một sứ điệp về sự tin quyết: Phao-lô sẽ đi đến Rô-ma! Đây là mong ước của Phao-lô bao tháng qua (Gi 19:21 Ro 15:22-29), nhưng những sự kiện ở Giê-ru-sa-lem khiến ước mong đó dường như sẽ không được thực hiện. Thật là sự khích lệ mà lời hứa này đã ban cho Phao-lô trong những tuần kế tiếp, những tuần lễ khi các chức sắc nói dối về ông. Khi những kẻ cuồng tín tìm cách giết ông, và khi các quan chức chính quyền bác bỏ ông. Trong mọi điều này, Chúa ở cùng ông và thực hiện kế hoạch toàn hảo của Ngài để đưa vị đầy tớ trung tín của Ngài đến Rô-ma.
3. Phao-lô và những người Do Thái âm mưu (Cong 23:12-35).
Mạng sống Phao-lô đã ở trong nguy hiểm ngay từ đầu chức vụ ông, khi ông làm chứng cho Đấng Christ trong thành Đa-mách (Cong 9:22-25). Trong cuộc thăm viếng Giê-ru-sa-lem đầu tiên của ông sau khi qui đạo, những người Do Thái Hê-lê-nít đã tìm cách giết ông (Cong 9:29). Dân Do Thái đã đuổi ông ra khỏi thành An-ti-ốt ở xứ Bi-si-đi (Cong 13:50-51) và doạ ném đá ông ở thành I-cô-ni (Cong 14:5). Phao-lô đã bị ném đá ở thành Lít-trơ (Cong 14:19-20) và thành Cô-rinh-tô, dân Do Thái tìm cách bắt ông (Cong 18:12-17). Ở Ê-phê-sô, dân Do Thái đã âm mưu giết ông (Cong 20:19), và họ thậm chí lập kế hoạch giết ông ở biển (Cong 20:3). Những lời của Phao-lô trong ITe 2:14-16 mang ý nghĩa đặc biệt khi bạn xem xét mọi điều Phao-lô đã chịu khổ bởi bàn tay của chính đồng bào mình.
Có lẽ chính những người Do Thái Châu Á là những kẻ lập mưu giết Phao-lô (Cong 21:27-29). Hẳn các thầy tế lễ cả và những trưởng lão đã đồng ý hợp tác với họ và tìm cách tác động đến Cơ-lốt. Hội đồng muốn có thêm thông tin từ Phao-lô là điều tự nhiên, và có lẽ đó sẽ là điều dễ dàng để phục kích nhóm người cùng đi của Phao-lô và giết vị sứ đồ. Nếu điều này khiến quản cơ gặp khó khăn với cấp trên, thầy tế lễ cả có thể bảo vệ ông. Người Rô-ma và người Do Thái đã hợp tác cách này trước đó (Mat 28:11-15).
Nhưng 40 người kiêng ăn và các chức sắc giáo hội đầy mưu kế đã quên rằng Phao-lô là một môn đệ của Chúa Giê-xu Christ, và Chúa tôn quý đang theo dõi từ trời. Lúc Phao-lô qui đạo, Chúa đã cho ông biết rằng ông sẽ chịu khổ, nhưng Ngài cũng hứa rằng Ngài sẽ giải cứu ông khỏi kẻ thù (Cong 9:15-16 Cong 26:16-17). Phao-lô đã nắm giữ lời hứa ấy cả đời ông, và Đức Chúa Trời đã thành tín.
Chúng ta không biết gì về người chị và người cháu trai của Phao-lô, ngoài điều được chép ở đây. Phi 3:8 gợi ý rằng Phao-lô đã mất gia đình khi ông trở thành Cơ Đốc nhân, nhưng chúng ta không biết liệu có ai trong vòng bà con ông đã qui đạo sau đó hay không. (Từ “bà con” trong Ro 16:7,11 nghĩa là “người bạn Do Thái”, như trong Ro 9:3). Vì gia đình Phao-lô từ lâu đã có quan hệ với người Pha-ri-si (Cong 23:6), nên chị của Phao-lô hẳn đã tiếp xúc với “người có thực quyền” và có thể thu thập tin tức được truyền đi. Những bà vợ chuyện gẫu với nhau, và một bí mật là điều gì đó bạn kể cho một người vào một thời điểm!
Dường như không phải người chị hay đứa cháu trai là những tín đồ, vì chắc chắn điều đó sẽ gạt họ ra khỏi nhóm giáo hội chính thức ở Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ là những người Do Thái tin kính và biết rằng âm mưu này xấu xa (Xu 23:2). Chính trong sự định liệu của Đức Chúa Trời mà họ đã có thể nghe tin tức và đem nó đến riêng với Cơ-lốt. Thánh Augustine đã nói: “Hãy phó thác quá khứ cho sự thương xót của Đức Chúa Trời, hiện tại cho tình yêu của Ngài và tương lai cho sự định liệu của Ngài”.
Chúng ta chắc phải khâm phục tính chính trực và sự can đảm của Cơ-lốt Ly-sia, vị quản cơ. Làm sao ông biết cậu bé nói đúng sự thật? Phao-lô đã gây cho Cơ-lốt quá nhiều khó khăn đến nỗi đó có thể là một sự nhẹ nhõm để tống khứ ông! Dân Do Thái không biết rằng Cơ-lốt đã biết âm mưu của họ, vì vậy ông có thể sử dụng “hiểu biết bên trong” của mình để tư lợi. Không quân nhân Rô-ma nào dám để mất một tù nhân, nhưng luôn có những cách để giải quyết những sự việc.
Suốt sách Công vụ, Bác sĩ Lu-ca nói tốt về các quan chức quân đội Rô-ma, bắt đầu với Cọt-nây trong chương 10 và kết thúc với Giu-lơ (Cong 27:1,3,43). Không có ghi chép nào trong Công vụ về sự bắt bớ công khai của Rô-ma chống lại Hội Thánh, sự chống đối được xúi giục bởi những người Do Thái không tin. Mặc dù Đế quốc có những kẻ cơ hội chính trị đồi bại, nhưng phần lớn các chỉ huy quân đội là những người có phẩm chất va tôn trọng luật pháp Rô-ma.
Kế hoạch của Cơ-lốt đơn giản và khôn khéo. Ông biết rằng ông phải đưa Phao-lô ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nếu không sẽ có một vụ mưu sát nữa đến sau và một trong các vụ có thể thành công. Ông cũng biết rằng ông nên khẳng định những lời buộc tội nghịch với Phao-lô, nếu không thì ông có thể bị tố cáo về việc giữ một công dân Rô-ma bất hợp pháp. Ông đã có thể giải quyết cả hai vấn đề bằng cách gởi Phao-lô đến thành Sê-sa-rê và đặt ông dưới quyền của Phê-lít, quan tổng đốc Rô-ma.
Nếu Phao-lô từng là một công dân thường, tìm cách đi từ Giê-ru-sa-lem đến Sê-sa-rê (khoảng 65 dặm), ông có lẽ sẽ là mục tiêu cho những kẻ âm mưu. Nhưng Đức Chúa Trời đã xếp đặt 470 lính Rô-ma để bảo vệ ông, gần nửa số người trong đơn vị đồn trú của đền thờ! Một lần nữa trong sự nghiệp của mình, Phao-lô đã bị đưa lén ra ngoài một thành phố dưới màn đêm (Cong 9:25 Cong 17:10).
Bức thư chính thức của vị quản cơ thú vị nhất. Dĩ nhiên, Cơ-lốt đã đặt mình và thuộc hạ ông trong ánh sáng tốt nhất, đáng được mong đợi. Mặc dù đúng là họ đã ngăn ngừa Phao-lô khỏi bị giết, nhưng đó không phải vì họ biết ông là một người Rô-ma. Cơ-lốt nghĩ Phao-lô là người Ai Cập và hầu như đã đánh ông!
Câu Cong 23:29 là một câu nữa Lu-ca ghi lại “những lời nói chính thức” từ những quan chức Rô-ma, chứng tỏ rằng các Cơ Đốc nhân đã không bị xem là những tội phạm. Các quan chức ở Phi-líp hầu như đã xin lỗi Phao-lô (Cong 16:35-40) và Ga-li-ôn ở thành Cô-rinh-tô đã từ chối xét xử ông (Cong 18:14-15). Ở Ê-phê-sô, người thư ký thành đã nói với 25.000 người rằng các Cơ Đốc nhân vô tội về bất cứ sự vi phạm nào (Cong 19:40), và giờ đây, quản cơ Rô-ma từ pháo đài đền thờ đang viết cùng một cách như vậy. Sau đó, Phê-tu (Cong 25:24-25) và Hê-rốt Ạc-ríp-ba (Cong 26:31-32) cũng sẽ khẳng định rằng Phao-lô phải được trả tự do. Ngay cả các chức sắc Do Thái ở Rô-ma cũng phải thú nhận rằng họ không có tin tức chính thức nào chống lại Phao-lô (Cong 28:21).
Ra đi lúc 9 giờ tối hôm ấy, Phao-lô và đội hộ tống ông đã đi từ Giê-ru-sa-lem đến thành An-ti-ba-tri, khoảng 37 dặm. Đây chắc là một cuộc hành quân suốt vì với nhiều người trong một thời gian ngắn có thể đi được một đoạn đường như vậy. Kỵ binh khi ấy tiếp tục đi với Phao-lô trong khi 200 binh lính trở về đồn, vì phần nguy hiểm của chuyến đi giờ đây đã qua. Họ đi 27 dặm nữa đến thành Sê-sa-rê nơi Phao-lô chính thức được giao cho Phê-lít. Phao-lô đã an toàn khỏi những người Do Thái âm mưu, nhưng ông có an toàn khỏi Phê-lít chăng?
Antonius Phê-lít là quan tổng đốc (người đại diện) xứ Giu-đê. Ông đã cưới Đơ-ru-si, một người nữ Do Thái là con gái của Hê-rốt Ạc-ríp-ba I (Cong 12:1) và là người đã bỏ chồng để trở thành vợ thứ ba của Phê-lit. Bà là em của Hê-rốt Ạc-ríp-ba II (Cong 25:13). Sử gia người Rô-ma Tacitus đã nói rằng Phê-lít “đã thực hành quyền của một vị vua trong tinh thần của một tôi mọi”. Phê-lít đã được gọi là “một tên vô lại thô bỉ” và đã sống đúng với danh hiệu này.
Phao-lô không chỉ đã được bảo vệ bởi một đội hộ tống thích hợp cho một vị vua, nhưng ông đã được đặt, không phải trong công khám, mà trong cung điện được xây bởi vua Hê-rốt Đại đế, nơi vị tổng đốc đóng tổng hành dinh của mình. Chúng ta không biết liệu có ai trong số các tín đồ ở thành Sê-sa-rê biết về sự hiện diện của Phao-lô và tìm cách đem đến cho ông sự giúp đỡ và khích lệ cá nhân. Họ chắc chắn sẽ nhớ cuộc thăm viếng của A-ga-bút và nhận ra rằng lời tiên tri thảm khốc của ông đã ứng nghiệm (Cong 21:10-14).
Khi bạn ôn lại những sự kiện được chép trong chương này, bạn không khỏi có ấn tượng với lời cam kết của sứ đồ Phao-lô đối với sự kêu gọi của ông. “Không gì trong những điều này lay động tôi” (Cong 20:24). Nếu có một người dám theo Đấng Christ, hành động những gì có thể, thì ông là người đó. Phao-lô không tìm kiếm con đường dễ dàng nhưng tìm kiếm con đường kính trọng Chúa trước nhất và chinh phục những kẻ hư mất. Ông thậm chí sẵn sàng trở nên một tù nhân nếu điều đó sẽ đẩy mạnh công việc của Phúc Âm.
Bạn cũng có ấn tượng với sự định liệu kỳ lạ của Đức Chúa Trời trong sự chăm sóc tôi tớ Ngài. “Thiên sứ của Chúa đóng lại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, và giải cứu họ” (Thi 34:7). Charles Spurgeon đã viết: “Chúng ta hãy tin cậy nơi Đức Chúa Trời, và hãy vô cùng can đảm vì Phúc Âm, thì chính Chúa sẽ che chở chúng ta khỏi mọi tổn hại”.
Dân sự Đức Chúa Trời có đủ khả năng để bạo dạn, trong ý muốn của Đức Chúa Trời vì họ biết Cứu Chúa mình đáng tin cậy và thực hiện ý muốn toàn hảo của Ngài.Phao-lô ở một mình – nhưng không cô đơn! Chúa của ông đã ở cùng ông và ông không có gì để sợ hãi. Giống như Phao-lô, chúng ta hãy bạo dạn!
20. CHỨNG NHÂN PHAO-LÔ (Cong 24:1-27)
Sử gia Will Durant đã viết trong cuốn sách “Sê-sa và Đấng Christ” (Caesar and Christ): “Luật pháp là sự bày tỏ đặc tính và sự bền vững rõ nhất về tinh thần của người Rô-ma. Người đương đầu trong luật pháp Rô-ma là công dân”. Nói cách khác, đó là trách nhiệm của toà án để bảo vệ công dân khỏi Nhà nước, nhưng cũng thường có những kiểu đồi bại khác nhau đã làm nhiễm độc hệ thống và khiến công lý trở nên khó khăn đối với người bình thường. Phao-lô chẳng bao lâu sẽ khám phá một tổng đốc Rô-ma có thể đồi bại ra sao.
Arnold Toynbee đã viết: “Bí quyết của chính quyền Rô-ma là nguyên tắc cai trị gián tiếp”. Điều này có nghĩa là gánh nặng thật về sự quản lý được đặt khá nhiều trên vai nhà cầm quyền địa phương. Triều đình Rô-ma chỉ tham gia nếu có nguy hiểm hoặc nếu các đơn vị cầm quyền địa phương xung đột nhau.
Trong chương này, chúng ta thấy hệ thống luật pháp Rô-ma hoạt động và ba người thực hiện sự góp phần của mình.
1. Tẹt-tu-lu: những lời cáo giả dối (Cong 24:1-9)
Trong ghi chép của Kinh Thánh, khi người ta đi đến Giê-ru-sa-lem, họ luôn đi lên nhưng khi đi từ Giê-ru-sa-lem, họ luôn đi xuống. Điều này giải thích lý do tại sao nhóm quan chức Do Thái đi xuống khi họ đến Sê-sa-rê. Với A-na-nia thầy tế lễ cả là một số trưởng lão Do Thái cũng như một luật gia để trình đơn kiện và bảo vệ những lời buộc tội của họ. Luật pháp Rô-ma phức tạp cũng như luật pháp hiện đại của cúng ta, và cần phải có một chuyên gia để hiểu luật và biết cách áp dụng thành công cho vụ kiện của khách hàng mình.
Tẹt-tu-lu đã bắt đầu bằng lời xu nịnh theo thông lệ, một phần bình thường của thủ tục toà án. Xét cho cùng, trước khi bạn có thể thắng kiện, bạn phải thuyết phục được quan toà của mình. Tacitus, nhà hùng biện kiêm chính trị gia người Rô-ma, đã gọi những kẻ xu nịnh là “những kẻ thù tệ hại nhất, và Sa-lô-môn đã viết rằng “miệng dua nịnh gây điều bại hoại” (Ch 26:28).
Luật gia đã ca tụng Phê-lit về nhiều cải cách của quan tổng đốc đã đem lại sự yên ổn cho xứ. (câu hỏi: Tại sao phải có gần 500 binh lính để bảo vệ một người ra đi từ Giê-ru-sa-lem đến Sê-sa-rê?) Đúng là Phê-lít đã dập tắt một số cuộc nổi dậy, nhưng chắc chắn đã không đem lại hoà bình cho xứ. Thật ra, suốt thời gian Phê-lit trấn áp những kẻ cướp trong địa hạt của ông, ông cũng đã thuê bọn cướp giết thầy tế lễ cả Giô-na-than! Quá nhiều cho những cải cách của ông. Nhưng những lời tố cáo của kẻ bắt bớ nghịch cùng Phao-lô không trung thực cũng như lời xu nịnh ông. Ông đưa ra ba lời buộc tội: một lời buộc tội về cá nhân (“Hắn là một kẻ ôn dịch”), một lời buộc tội về chính trị (gây loạn và cầm đầu một tôn giáo bất hợp pháp), và một lời buộc tội về giáo lý (làm ô uế đền thờ).
Về việc Phao-lô, là “đồ ôn dịch”, thì hoàn toàn tuỳ thuộc quan điểm của mỗi người.Dân Do Thái muốn duy trì những truyền thống xưa của họ, và Phao-lô đã đề xướng điều gì đó mới mẻ. Người Rô-ma sợ bất cứ điều gì làm xáo trộn “hoà bình” tốt đẹp của họ trong Đế quốc và hồ sơ Phao-lô về việc gây rối đã dài và trước sau như một. Như Vance Havner thường nói: “Bất cứ nơi đâu Phao-lô đi, đều có một cuộc nổi loạn hoặc một cuộc phục hưng! ”
Lời buộc tội cá nhân này dựa trên những xung đột của dân Do Thái với Phao-lô trong những vùng khác nhau của thế giới Rô-ma. Tôi đã chỉ ra rằng chính đồng bào của ông, không phải nhà cầm quyền Rô-ma, là những người đã gây khó khăn cho Phao-lô từ thành này sang thành khác. Dân Do Thái từ A-sia (Cong 21:17) chắc chắn sẽ có những câu chuyện để kể về thành Lít-trơ, Cô-rinh-tô và Ê-phê-sô! Lời tố cáo thứ nhất này nhắc ta nhớ về những lời buộc tội đã đưa ra nghịch với Chúa Giê-xu tại cuộc xét xử Ngài (Lu 23:1-2,5).
Lời buộc tội về chính trị nghiêm trọng hơn, vì không quan chức Rô-ma nào muốn phạm tội cho phép những hoạt động bất hợp pháp làm xáo trộn “Pax Romana” (nền hoà bình Rô-ma). Rô-ma đã ban cho dân Do Thái sự tự do để thực hành tôn giáo mình, nhưng các quan chức Rô-ma để mắt trên họ để họ không sử dụng những đặc quyền của họ làm suy yếu Đế quốc. Khi Tẹt-tu-lu gọi Phao-lô là “kẻ xúi giục những cuộc nổi dậy giữa vòng mọi dân Do Thái suốt Đế quốc La Mã” (WUEST) ông lập tức được sự chú ý của quan tổng đốc. Dĩ nhiên, lời tuyên bố của ông là một sự thổi phồng, nhưng có bao nhiêu vụ kiện đã được thắng do ai đó phóng đại sự thật?
Tẹt-tu-lu biết rằng có cơ sở nào đó cho lời buộc tội này, vì Phao-lô đã rao giảng cho dân Do Thái rằng Chúa Giê-xu Christ là Vua và Chúa họ. Đối với người Rô-ma và người Do Thái không tin, sứ điệp này nghe như sự phản nghịch với Sê-sa (Cong 16:20-21 Cong 17:5-9). Hơn nữa, lập một tôn giáo mới ở Rô-ma mà không có sự phê chuẩn của chính quyền là bất hợp pháp. Nếu Phao-lô thật sự là một “đầu sỏ của phe người Na-xa-rét”, vậy kẻ thù ông có thể dễ dàng lập một vụ kiện nghịch ông.
Vào thời ấy, Cơ Đốc giáo vẫn được đồng nhất hoá với dân Do Thái và họ được người Rô-ma cho phép thực hành tôn giáo họ. Đã có những người ngoại tìm kiếm và những người kính sợ Đức Chúa Trời trong các nhà hội, vì vậy sự hiện diện của những người ngoại trong các Hội Thánh đã không gây ra những vấn đề về luật pháp. Sau đó, khi số tín đồ người ngoại gia tăng và nhiều hội chúng tách khỏi các nhà hội Do Thái, lúc ấy Rô-ma đã thấy sự khác biệt giữa dân Do Thái với các Cơ Đốc nhân và sự rắc rối bắt đầu. Rô-ma không muốn một tôn giáo đối địch phát triển mạnh trong Đế quốc và tạo ra những vấn đề.
Lời tố cáo thứ ba của Tẹt-tu-lu đã phải được xử lý cẩn thận vì nó ám chỉ một quan chức Rô-ma đã cứu mạng một người. Hầu hết, các quan chức Rô-ma như Phê-lít không muốn bất cứ chuyện gì liên quan đến những vụ kiện về luật pháp Do Thái (Gi 18:28-31 Cong 16:35-40 Cong 18:12-17). Càng ít người Do Thái đến toà án Rô-ma, sẽ càng tốt hơn cho Đế quốc. Tẹt-tu-lu đã phải trình bày lời buộc tội thứ ba này theo một cách khiến người Do Thái có vẻ tốt lành mà không làm cho người Rô-ma có vẻ quá tệ, và ông đã làm tốt công việc.
Trước hết, ông làm dịu đi sự buộc tội. Lời tố cáo được trình bày bởi những người Do Thái Châu Á đó là Phao-lô đã làm ô uế đền thờ (Cong 21:28), nhưng Tẹt-tu-lu đã nói:“Hắn thậm chí đã tìm cách phỉ báng đền thờ” (Cong 24:6). Vì sao thay đổi? Vì ít nhất 2 lý do Trước tiên những kẻ tố cáo Phao-lô nhận ra rằng sự buộc tội đầu tiên không bao giờ có thể được chứng minh nếu những sự thật được điều tra.Nhưng hơn thế nữa, những người Do Thái Châu Á là những người đã mở đầu câu chuyện dường như đã biến mất khỏi hiện trường! Nếu không có nhân chứng nào, không thể có bằng chứng hay sự kết tội nào.
Khi bạn so sánh câu chuyện của Lu-ca về sự kiện Phao-lô bị bắt (Cong 21:27-40) với câu chuyện của vị quản cơ (Cong 23:25-50) và câu chuyện của luật gia (Cong 24:6-8), bạn có thể hiểu rõ vì sao các quan toà và các hội thẩm đoàn có thể trở nên bối rối.Tẹt-tu-lu đã gây ấn tượng rằng Phao-lô thật sự phạm tội phỉ báng đền thờ, rằng dân Do Thái có quyền bắt giữ ông, và rằng quản cơ đã vi phạm bằng cách can thiệp. Chính Cơ-lốt, không phải dân Do Thái, là người phạm tội đối xử một công dân Rô-ma bằng bạo lưc! Nhưng Phê-lit đã có bức thư chính thức trước mặt và dường như tin quản cơ của ông hơn một luật sư Do Thái Hê-lê-nít đã được trả công.
Tẹt-tu-lu biết rằng dân Do Thái được quyền của Rô-ma để bắt giữ và bắt bớ những ai vi phạm luật pháp Do Thái. Đúng, người Rô-ma nghĩ rằng sự tận tâm của dân Do Thái đối với những truyền thống của họ là quá đáng và mê tín. Nhưng Rô-ma khôn khéo để cho họ theo ý họ. Người Do Thái thậm chí đã được phép xử tử hình những kẻ phạm tội trong một vài trường hợp, chẳng hạn như “sự vi phạm” của Phao-lô về việc cho phép dân ngoại vượt qua hàng rào bảo vệ trong đền thờ (Cong 21:28-29). Tẹt-tu-lu lý luận rằng nếu Cơ-lốt không can thiệp, dân Do Thái có lẽ sẽ đã tự xét xử Phao-lô, và điều này sẽ tiết kiệm cho Phê-lít và Rô-ma rất nhiều rắc rối và phí tổn.
Khi kết thúc lý lẽ, Tẹt-tu-lu nói bóng gió rằng Cơ-lốt Ly-sia lẽ ra phải đích thân có mặt ở đó chớ không chỉ cử những chức sắc Do Thái trình vụ việc. Vì sao ông vắng mặt? Ông không thể bảo vệ vụ việc của mình sao? Phải chăng ông đang tìm cách “đùn trách nhiệm” cho người khác? Theo như chúng ta biết, suốt hai năm Phao-lô bị cầm giữ trong thành Sê-sa-rê, Cơ-lốt chưa bao giờ tỏ ra cho biết lập trường của ông về câu chuyện này. Chúng ta không biết lý do.
Nhưng Phao-lô có mặt ở đó và Phê-lít có thể nhận sự thật từ ông! Luật gia khôn khéo đã nói: “Nếu quan xét hỏi Phao-lô, quan sẽ thấy rằng những điều tôi nói là đúng”. Các thành viên khác của đoàn đại biểu Do Thái đã hiệp nhất trong việc đồng tình với Luật gia của họ, điều này không có gì ngạc nhiên đối với bất cứ ai.
2. Phao-lô: những câu trả lời trung thực (Cong 24:10-21)
Nhưng quan tổng đốc đã không xét hỏi Phao-lô.Ông chỉ gật đầu làm dấu hiệu cho biết đã đến lượt Phao-lô nói. Phao-lô đã không xu nịnh Phê-lít (xem ITe 21:1-6), ông chỉ công nhận rằng quan tổng đốc là một người kinh nghiệm và vì vậy là một người hiểu biết. Phê-lít đã biết về “phe người Na-xa-rét” (Cong 24:22) mà điều dân Do Thái đang làm cho phe đó. Sau lời mở đầu ngắn gọn nhưng trung thực này, Phao-lô tiếp tục trả lời những buộc tội của Tẹt-tu-lu (Cong 24:10-16), dân Do Thái Châu Á (Cong 24:17-19) và Hội đồng Do Thái (Cong 24:20-21).
Nói về lời buộc tội liên quan đến đền thờ, Phao-lô đã ở trong đền thờ để thờ phượng chớ không phải để cầm đầu một cuộc náo loạn. Thật ra, những ghi chép về đền thờ cho thấy rằng Phao-lô đã đăng ký để trả chi phí cho bốn người Do Thái giữ lời thề nguyện Na-xi-rê, Phao-lô đã không rao giảng trong đền thờ hoặc các nhà hội, ông cũng không rao giảng bất cứ nơi nào trong thành (những năm trước đó, Phao-lô đã thoả thuận với Phi-e-rơ và các trưởng lão Giê-ru-sa-lem rằng ông sẽ không giảng Phúc Âm cho dân Do Thái ở Giê-ru-sa-lem (Ga 2:7-10). Không ai có thể chứng minh rằng ông phạm tội cầm đầu bất kỳ kiểu nổi loạn nào chống lại người Do Thái hoặc người Rô-ma.
Hơn nữa, vì ông đã ở Giê-ru-sa-lem chỉ một tuần (12 ngày ở (Cong 24:11, trừ đi 5 ngày ở (Cong 24:1), hầu như đã không có thời gian để tổ chức và cầm đầu một cuộc tấn công vào đền thờ! Mặc dù những nhà nghiên cứu về cuộc đời Phao-lô không đồng ý mọi chi tiết, thứ tự của các sự kiện có thể như vầy:
Ngày 1 – Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem (Cong 21:17)
Ngày 2 – Gặp Gia-cơ và các trưởng lão (Cong 21:18)
Ngày 3 – Ở trong đền thờ với những người Na-xi-rê (Cong 21:26)
Ngày 4 – Trong đền thờ
Ngày 5 – Trong đền thờ
Ngày 6 – Bị bắt trong đền thờ (Cong 21:27)
Ngày 7 – Gặp Hội đồng Do Thái (Cong 23:1-10)
Ngày 8 – Bị đe doạ được đưa đến thành Sê-sa-rê (Cong 23:12,23)
Ngày 9 – Đến thành Sê-sa-rê (Cong 23:33)
Ngày 10 – Chờ đợi (Phê-lít triệu tập những chức sắc Do Thái)
Ngày 11 – Chờ các chức sắc Do Thái đến
Ngày 12 - Chờ đợi – họ đến – vụ xử kiện được lên chương trình
Ngày 13 – Vụ xử kiện được tiến hành
Bốn người thực hiện lời thề nguyện Na-xi-rê rõ ràng đã có liên quan trong những nhiệm vụ ở đền thờ khi Gia-cơ đề nghị rằng Phao-lô trả chi phí của họ (Cong 21:24). Nếu họ bắt đầu ngày trước khi Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem, thì ngày Phao-lô bị bắt sẽ là ngày thứ bảy của bổn phận họ (Cong 21:27). Bản New American Standard Bible (Cong 21:27) “và khi bảy ngày gần trọn”. Điều này hàm ý rằng những sự kiện xảy ra vào ngày thứ bảy của thời biểu của họ, là ngày thứ sáu Phao-lô ở trong thành.
Có thể sẽ mất hai ngày để sứ giả chính thức của Rô-ma đi từ Sê-sa-rê đến Giê-ru-sa-lem, và hai ngày nữa để A-na-nia và các cộng sự ông đến Sê-sa-rê. Họ dường như không được chậm trễ, vì vụ kiện quá quan trọng.
Đã đánh bại những lời buộc tội về đền thờ, tiếp đến Phao-lô đối phó với những lời buộc tội về sự nổi loạn và dị giáo. Cho dù thầy tế lễ cả là người Sa-đu-sê, chắc chắn có những người Pha-ri-si trong đoàn đại diện quan chức Do Thái, vì vậy Phao-lô một lần nữa đã viện dẫn những căn nguyên về tôn giáo của họ trong Kinh Thánh. Vấn đề Phao-lô là một Cơ Đốc nhân không có nghĩa là ông đã thờ phượng Đức Chúa trời khác với Đức Chúa Trời của tổ phụ ông. Nó chỉ có nghĩa là ông đã thờ phượng Đức Chúa Trời của tổ phụ ông trong một cách mới mẻ và sinh động, vì cách duy nhất có thể chấp nhận để thờ phượng Đức Chúa Cha là qua Chúa Giê-xu Christ (Gi 5:23). Đức tin của ông vẫn được lập trên lời Kinh Thánh Cựu Ước, và những lời Kinh Thánh làm chứng cho Chúa Giê-xu.
Người Sa-đu-sê chấp nhận năm sách của Môi-se (luật pháp), nhưng không chấp nhận những sách còn lại của Cựu Ước. Họ bác bỏ giáo lý về sự sống lại vì họ nói nó không thể được tìm thấy ở đâu trong những điều Môi-se đã viết. (Chúa Giê-xu đã bẻ bác lý luận ấy, nhưng họ cứ phớt lờ. (Mat 22:23-33). Bằng cách tuyên bố niềm tin cá nhân mình nơi sự sống lại, Phao-lô đã khẳng định những nhận thức chính thống của ông và đồng nhất hoá mình với người Pha-ri-si. Một lần nữa, người Pha-ri-si đã rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, vì nếu niềm tin của Phao-lô là niềm tin của một kẻ dị giáo, vậy họ cũng là những kẻ dị giáo!
Phao-lô và các Cơ Đốc nhân đầu tiên đã không thấy chính họ như “những người Do Thái xưa” nhưng như “những người Do Thái được ứng nghiệm”. Cựu Ước là một cuốn sách mới đối với họ vì họ đã tìm thấy Đấng Mê-si-a-a của mình. Họ biết rằng họ không còn cần những lễ nghi của luật pháp Do Thái để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, nhưng họ nhìn thấy trong những nghi thức và những quy định này một sự mạc khải về Đấng Christ, vừa là một người Pha-ri-si vừa là một Cơ Đốc nhân, Phao-lô đã luôn “chịu những nỗi đau” để có một lương tâm tốt và để tìm cách là đẹp lòng Chúa.
Sau khi đáp lại những lời buộc tội của Tẹt-tu-lu, Phao-lô tiếp tục trả lời sự tố cáo giả dối của những người Do Thái Châu Á rằng ông đã làm ô uế đền thờ (Cong 24:17-19). Ông đã không đến Giê-ru-sa-lem để làm ô uế đền thờ nhưng để đem đến sự giúp đỡ cần thiết cho dân Do Thái và dâng những của lễ của ông cho Chúa. (Đây là sự đề cập duy nhất trong Công vụ về của lễ đặc biệt). Khi những người Châu Á thấy ông trong đền thờ, ông ở cùng bốn người là những người đang hoàn thành lời hứa nguyện Na-xi-rê của họ. Làm sao Phao-lô có thể thờ phượng Đức Chúa Trời và làm ô uế nhà Đức Chúa Trời cùng một lúc? Một thầy tế lễ Do Thái có trách nhiệm về những hoạt động đền thờ của Phao-lô, vì vậy nếu đền thánh bị ô uế, thầy tế lễ chịu trách nhiệm. Phao-lô chỉ đang tuân theo luật pháp.
Giờ đây Phao-lô đã đi đến điểm chính của lời ông biện hộ Luật pháp Rô-ma đòi hỏi rằng những nguyên cáo phải đối diện với các bị cáo tại buổi xét xử, nếu không thì những lời buộc tội sẽ bị bỏ qua. A-na-nia khôn khéo đã không đem theo với ông bất cứ người Do Thái Hê-lê-nít nào, vì ông chắc rằng sự làm chứng của họ sẽ thất bại dưới sự xét hỏi công khai. Những người này giỏi về việc cổ vũ những cuộc nổi loạn đầy kích động họ không giỏi về việc tạo ra những sự kiện.
Phao-lô kết thúc lời biện hộ của mình bằng cách đáp lại các nghị viên của hội đồng Do Thái (Cong 24:20-21). Thay vì nghe ông nói với thái độ vô tư, thầy tế lễ cả và Toà Công Luận đã ngược đãi ông và không chịu nghe ông. A-na-nia rất có thể đã biết ơn là Phao-lô không nói gì về cái vả mặt của ông, vì một công dân Rô-ma bị đối xử cách ấy là bất hợp pháp.
Chúng ta có nhận ra một chút mỉa mai thánh trong lời tuyên bố sau cùng của Phao-lô?Chúng ta có thể diễn giải nó, “Nếu tôi đã làm gì xấu, có thể vầy: Tôi đã nhắc nhở Hội đồng Do Thái về giáo lý Do Thái vĩ đại của chúng tôi về sự sống lại”.Hãy nhớ, sách Công vụ là một ghi chép về sự làm chứng của Hội Thánh đầu tiên cho sự phục sinh của Chúa Giê-xu Christ (Cong 1:22). Người Sa-đu-sê từ lâu đã bỏ đi giáo lý này, và người Pha-ri-si không dành cho nó sự quan trọng thực tiễn như nó xứng đáng. Dĩ nhiên, Phao-lô đã liên giáo lý này với sự phục sinh của Chúa Giê-xu Christ, và Toà Công luận không cần điều đó.
Họ đã tố cáo Phao-lô chống đối Do Thái và chống đối Rô-ma, nhưng họ không thể chứng minh những lời buộc tội của mình. Nếu các chức sắc Do Thái theo đuổi bất cứ điều nào trong những lời buộc tội này hơn nữa, vụ kiện của họ sẽ thất bại.Nhưng đã có đủ chứng cớ gián tiếp để gieo những nghi ngờ trong tâm trí của các quan chức Rô-ma, và có lẽ đã có đủ định kiến chủng tộc trong họ để tưới hạt giống ấy và kích thích nó lớn lên. Xét cho cùng, Hoàng đế Cơ-lốt đã không trục xuất dân Do Thái khỏi Rô-ma sao? Ro 18:2). Có lẽ Phao-lô đã bị theo dõi.
3. Phê-lít: những thái độ dại dột (Cong 24:22-27)
Nếu có một người từng thất bại về cá nhân lẫn công khai, người đó là Phê-lít, quan tổng trấn xứ Giu-đê. Ông chắc chắn không thể viện cớ không hiểu biết những sự kiện, vì ông đã “biết rõ đạo đó” (Cong 24:22). Vợ ông, Đơ-ru-si, là người Do Thái và có lẽ đã thông báo cho ông về những hoạt động giữa vòng dân bà, và với tư cách một quan chức Rô-ma, ông sẽ cẩn thận (nếu kín đáo) điều tra những sự việc này. Ông đã thấy sự sáng, nhưng ông thích sống trong sự tối tăm hơn.
Phê-lít đảm bảo rằng Phao-lô được chăm sóc một cách dễ chịu trong khi đồng thời được canh giữ an toàn.”Tự do” trong Cong 24:23 có nghĩa là ông không bị để trong công khám hay bị giữ trong sự giam cầm chật chội. Ông có sự tự do hạn chế trong cung điện, bị xích vào một tên lính (các lính gác được thay đổi từng 6 giờ đồng hồ, một hội chúng bị giam cầm toàn hảo! ). Các bạn của Phao-lô được phép giúp đỡ ông (tiếng Hy Lạp: “Hãy phục vụ người như những đầy tớ riêng”), vì vậy người ta có thể đến và đáp ứng những nhu cầu của ông. Chức vụ của Phao-lô suốt hai năm ấy ở Sê-sa-rê là gì, chúng ta không biết, nhưng chúng ta có thể chắc rằng ông đã dành sự làm chứng trung tín cho Chúa.
Sự ghi chép về một sự làm chứng như vậy được Lu-ca trình bày, và nó khiến tội của Phê-lít thậm chí trở nên lớn hơn. Tâm trí Phê-lít không chỉ được cung cấp tin tức, nhưng tấm lòng ông cũng được lay động bởi sự sợ hãi, vậy mà ông không làm theo chân lý. Thật không đủ để một người biết những sự kiện về Đấng Christ, hay có một đáp ứng cảm xúc đối với một sứ điệp. Người ấy phải sẵn sàng ăn năn tội và tin nhận Đấng Christ. “Nhưng các ngươi không muốn đến cùng ta để được sự sống” (Gi 5:40).
Chắc hẳn chính sự hiếu kỳ của người vợ, Đơ-ru-si đã thúc đẩy Phê-lít chịu nghe Phao-lô nói thêm. Bà muốn nghe Phao-lô vì xét cho cùng, gia đình bà đã có liên quan với “đạo” vì nhiều lý do. Người ông của bà đã tìm cách giết Chúa Giê-xu ở Bết-lê-hem (Mat 2:1-23), người bác của bà đã tìm cách giết Giăng Báp-tít và chế nhạo Chúa Giê-xu (Lu 23:6-12), và Cong 12:1-2 cho biết việc cha của bà giết sứ đồ Gia-cơ.
Bác sĩ Lu-ca chỉ trình bày cho chúng ta ba điểm về bài giảng của Phao-lô cho cặp vợ chồng khét tiếng xấu này: sự công bình, sự tiết độ, và sự phán xét hầu đến.Nhưng quả là một nét phát hoạ quan trọng! Phao-lô đã trình bày cho họ ba lý do đanh thép vì sao họ phải ăn năn và tin nơi Chúa Giê-xu Christ.
Trước hết, họ phải làm gì đó khắc phục tội lỗi của hôm qua (“sự công bình”). Năm 1973, Tiến sĩ Karl Menninger một trong những Bác sĩ tâm thần hàng đầu thế giới, đã xuất bản một cuốn sách gây sửng sốt, “Cái gì Xảy ra với Tội lỗi?” (Whatever Become of Sin?). Ông chỉ ra rằng chính từ tội lỗi đã dần dần biến khỏi từ vựng của chúng ta cả “từ lẫn khái niệm”. Chúng ta nói về những sai lầm, sự yếu đuối, những khuynh hướng vốn có, những lỗi lầm, và cả những thiếu sót, nhưng chúng ta không đối mặt với vấn đề tội lỗi.
Phyllis Mc Ginley, nhà văn kiêm thi sĩ người Mỹ đã ghi chú: “Con người không còn tội lỗi nữa Họ chỉ không trưởng thành hoặc chịu thiệt thòi hoặc hoảng sợ, hay đặc biệt hơn, bệnh hoạn”. Nhưng một Đức Chúa Trời thánh khiết đòi hỏi sự công bình.Đó là tin xấu. Nhưng tin tốt lành là chính Đức Chúa Trời thánh khiết này chu cấp sự công bình của Ngài cho những ai tin cậy Chúa Giê-xu Christ (Ro 3:21-26). Chúng ta không bao giờ được cứu bởi công bình riêng về những việc thiện của chúng ta. Chúng ta có thể được cứu chỉ nhờ sự công bình của Đấng Christ được cung ứng bởi công tác cứu rỗi của Ngài đã được hoàn tất trên thập tự giá.
Điểm thứ hai trong bài giảng của Phao-lô nói về sự tiết độ: chúng ta phải làm gì đó khắc phục những cám dỗ của hôm nay. Con người có thể điều khiển hầu hết mọi sự trừ bản thân. Đây là Phê-lít và Đơ-ru-si, những minh hoạ chủ yếu về sự thiếu tiết độ. bà đã li dị chồng để làm vợ thứ ba của Phê-lít, và dù là người Do Thái, bà đã sống như thể Đức Chúa Trời chưa bao giờ ban 10 điều răn tại núi Si-nai. Phê-lít là một vị quan vô lương tâm, không ngần ngại nói dối, hoặc thậm chí giết người để trừ khử kẻ thù và đề cao bản thân. Sự tiết độ là điều gì đó mà không ai trong hai người biết nhiều.
Điểm thứ ba của Phao-lô là lý lẽ đanh thép: “Sự phán xét hầu đến”. Chúng ta phải làm gì đó về sự phán xét ngày sau. Có lẽ Phao-lô cho Phê-lít và Đơ-ru-si biết những điều ông đã nói với các triết gia Hy Lạp: Đức Chúa Trời đã “chỉ định một ngày, trong ngày đó Ngài sẽ đoán xét thế gian bằng sự công bình” bởi Chúa Giê-xu Christ (Cong 17:31). Chúa Giê-xu hoặc là Đấng Christ của bạn hoặc là Đấng phán xét bạn. Làm sao chúng ta biết Chúa Giê-xu Christ là Đấng phán xét? “Ngài đã bảo đảm điều này cho mọi người bằng cách khiến Ngài sống lại từ cõi chết” (Cong 17:31). Một lần nữa, sự sống lại!
“Phê-lít run sợ” (Cong 24:25) theo nghĩa đen là “Phê-lít trở nên kinh hãi”. Các chức sắc Rô-ma đã tự hào về khả năng chịu đựng và kiềm chế cảm xúc của mình ở mọi hoàn cảnh, nhưng một sự kết tội từ Đức Chúa Trời đã làm lòng Phê-lít sững sờ, và ông đã không thể che giấu điều đó. Phao-lô đã chuẩn đoán căn bệnh và đưa ra cách điều trị. Phê-lít có nhiệm vụ phải tiếp nhận cách điều trị ấy.
Phê-lít đã làm gì? Ông đã trì hoãn! Ông nói với vị sứ đồ: “Khi ta rảnh ta sẽ gọi ngươi”. Edward Young đã viết: “sự trì hoãn là kẻ cắp của thời gian”. Có lẽ ông đang nghĩ về câu châm ngôn tiếng Anh “One of these days is none of these days” (Một ngày nào đó nghĩa là không ngày nào cả). Sự trì hoãn cũng là kẻ cắp của linh hồn. “Thì thuận tiện” nhất cho một tội nhân hư mất được cứu là ngay bây giờ. “Kìa hiện nay là thì được nhậm kìa hiện nay là ngày cứu rỗi” (IICo 6:2).
Có một người lý luận với người đang làm chứng “Tôi nghĩ có một thời gian đặc biệt cho mỗi người được cứu. Tôi không thể được cứu cho đến khi thời gian ấy tới”.
Tôi hỏi “Những dấu hiệu nào cho thấy thời gian đặc biệt của anh đã đến?”
Anh ta lè nhè: “À, đúng ra tôi không biết”.
Tôi hỏi: “Vậy thì làm thế nào anh biết khi nào anh cho là mình sẽ được cứu?”. Nhưng sự ngu dại về địa vị của mình chưa bao giờ làm bận tâm anh. Tôi hy vọng anh được cứu trước khi anh chết.
Hãy xem xét những thái độ dại dột của Phê-lít. Ông có một thái độ dại dột đối với Lời Đức Chúa Trời, nghĩ rằng mình có thể “nhận hoặc bỏ nó”. Nhưng Đức Chúa Trời “biểu hết thảy mọi người trong mọi nơi đều phải ăn năn ngay bây giờ” (Cong 17:30). Khi Đức Chúa Trời phán, cả nam lẫn nữ đều phải lắng nghe và vâng lời.
Phê-lít có một thái độ dại dột đối với tội lỗi mình. Ông biết mình là một tội nhân nhưng ông chối từ đoạn tuyệt với tội lỗi và vâng phục Chúa. Ông có một thái độ dại dột đối với ân điển của Đức Chúa Trời. Chúa đã kiên nhẫn với Phê-lít, nhưng vị tổng đốc không chịu đầu phục. Phê-lit không biết chắc về sự sống của ngày sau, nhưng ông đã dại dột trì hoãn. “Chớ khoe khoang về ngày mai, vì con chẳng biết một ngày có thể đem lại điều gì” (Ch 27:1).
Thay vì lắng nghe Phao-lô, Phê-lít đã tìm cách sử dụng Phao-lô như một con tốt chính trị, để lấy tiền từ Hội Thánh hoặc để dành được sự đồng tình của người Do Thái.Sự kiện Phê-lít có những buổi thảo luận thêm với Phao-lô không phải là biểu hiện cho thấy lòng ông quan tâm đến những điều thuộc linh. Các bạn Phao-lô đã đến rồi đi, và có lẽ một số người trong họ đã có quyền sử dụng quà tặng hào phóng của các Hội Thánh người ngoại. Chắc chắn Phao-lô đã làm chứng thêm cho quan tổng đốc nhưng không có kết quả gì. Khi Phê-lít bị thay thế, ông bỏ mặc Phao-lô làm một tù nhân, nhưng chính Phê-lít thật sự là tù nhân.
Tâm trí quan tổng đốc đã được khai sáng (Cong 24:22), những cảm xúc được khuấy động (Cong 24:25), nhưng ý chí ông không đầu phục. Ông tìm cách dành lấy thế gian, nhưng như chúng ta biết, ông đã đánh mất linh hồn mình, ông đã trì hoãn bản thân để vào địa ngục.
Tấn sĩ Clarence Macartney kể câu chuyện nói về một buổi họp trong địa ngục. Sa-tan đã triệu tập bốn con quĩ lãnh đạo và ra lệnh chúng phải suy nghĩ ra một lời nói dối mới có thể bẫy được nhiều linh hồn hơn.
Một con quỉ nói: “Tôi có cách.Tôi sẽ đến thế gian và nói cho con người biết không có Đức Chúa Trời nào cả”.
Sa-tan nói: “Sẽ không bao giờ có hiệu quả. Con Người có thể nhìn quanh mình và thấy rằng có một Đức Chúa Trời”.
Một con quỉ đề nghị “tôi sẽ đi và nói cho họ biết không có thiên đàng nào cả! ”nhưng Sa-tan phản đối ý kiến đó. “Mọi người đều biết có một sự sống sau cái chết và họ muốn đến thiên đàng”.
Con quỉ thứ ba nói “chúng ta hãy cho họ biết không có địa ngục nào cả! ”
Quỉ Sa-tan nói “không, lương tâm bảo họ biết tội lỗi họ sẽ bị phán xét”. Chúng ta cần một lời nói dối hay hơn thế”.
Bình thản, con quỉ thứ tư nói: “Tôi nghĩ tôi đã có cách giải quyết vấn đề của Ngài”, nó nói “Tôi sẽ đến thế gian và nói cho mọi người rằng chẳng cần vội vã gì”.
Thời điểm tốt nhất để tin nhận Chúa Giê-xu là – bây giờ! Và thời điểm tốt nhất để cho người khác biết tin tốt lành về Phúc Âm là – bây giờ!
21. PHAO-LÔ NGƯỜI BIỆN HỘ (Cong 25:1-26:75)
Quan tổng đốc mới, Bốt-tiu Phê-tu, là người tốt hơn người tiền nhiệm và đã tiếp quản những nhiệm vụ của ông ta với ý định làm điều gì đúng đắn. Tuy nhiên, ông sớm phát hiện rằng quan điểm chính trị Do Thái không dễ xử lý, đặc biệt là vụ kiện hai năm của sứ đồ Phao-lô, một tù nhân không có lời buộc tội chính thức nào nghịch với mình. Phao-lô là một người Do Thái mà đồng bào ông muốn giết ông, và ông là một người Rô-ma mà chính quyền ông không biết gì về ông.
Thật là một tình thế khó xử! Nếu Phê-tu tha Phao-lô, dân Do Thái sẽ gây rối, và đó là điều mà quan tổng đốc mới không dám liều lĩnh. Tuy nhiên, nếu giữ Phao-lô làm tù nhân, Phê-tu sẽ phải giải thích lý do vì sao một công dân Rô-ma đang bị cầm giữ mà không có những lời buộc tội rõ ràng chính thức. Phê-tu biết rằng thật khéo léo để ông hành động nhanh chóng và lợi dụng sự kiện ông là người mới đến. Trì hoãn chỉ sẽ làm vấn đề tệ hại hơn, và nó đã đủ tệ rồi.
Hai chương này giới thiệu Phê-tu trong ba hoàn cảnh khác nhau, mỗi hoàn cảnh đều có liên hệ đến sứ đồ Phao-lô.
1. Sự hoà giải: Phê-tu và các chức sắc Do Thái (Cong 25:1-12)
Biết rằng hoà thuận với các chức sắc Do Thái quan trọng ra sao đối với mình, Phê-tu đã không mất thời gian trong việc viếng thăm thành thánh và tỏ lòng kính trọng.Và các chức sắc đã không mất thời gian trong việc đưa vụ kiện Phao-lô ra toà.Thầy tế lễ cả mới là Ích-ma-ên ông đã thay thế Giô-na-than là người bị Phê-lít giết chết. Ích-ma-ên muốn làm sống lại âm mưu hai năm trước đó và loại bỏ Phao-lô một lần đủ cả (Cong 23:12-15).
Dường như quan tổng đốc mới không biết bất cứ điều gì về âm mưu từ trước hay thậm chí nghi ngờ rằng các chức sắc tôn giáo Do Thái đang tìm kiếm huyết. Vì một toà án của người Rô-ma có thể họp ở Giê-ru-sa-lem cũng như ở Sê-sa-rê, nên việc chuyển giao Phao-lô sẽ là môt thủ tục bình thường. Phê-tu có thể sẽ không đòi hỏi một đoàn tuỳ tùng đông đảo đi với ông, vì vậy một cuộc phục kích sẽ dễ dàng. Sau cùng, vì đó là một vấn đề có liên quan đến một tù nhân Do Thái và luật pháp Do Thái, nên nơi hợp lý để họp lại sẽ là Giê-ru-sa-lem.
“Hãy giết Phao-lô! ” là tiếng kêu la của người Do Thái không tin kể từ khi Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem (Cong 21:27-31 Cong 22:22 Cong 23:10-15 Cong 25:3). Tuy nhiên, Phê-tu đã không biết gì về điều này. Phao-lô đã được cảnh cáo về hiểm hoạ này, nhưng ông cũng được đảm bảo rằng Chúa sẽ bảo vệ ông, sử dụng sự làm chứng của ông và rồi đưa ông đến Rô-ma an toàn (Cong 23:11 Cong 26:17). Tình thế trở nên nghiêm trọng hơn, vì giờ đây chính hội đồng, chớ không phải một nhóm người ngoại cuộc, đang âm mưu giết chết Phao-lô. Bạn sẽ nghĩ rằng sự nguy hiểm của họ đã lắng xuống sau hai năm, nhưng không phải. Sa-tan kẻ giết người đang chăm chỉ hoạt động (Gi 8:44).
Phê-tu đã khôn ngoan không hợp tác với âm mưu của họ, nhưng ông đã mời các chức sắc cùng đi với ông đến Sê-sa-rê và đối mặt với Phao-lô lần nữa. Điều này sẽ cho Phê-tu cơ hội nhìn lại vụ kiện và nắm được nhiều sự kiện hơn. Những người Do Thái đồng ý, nhưng việc xử kiện đã không đem lại điều gì mới. Đoàn đại diện Do Thái (lúc này không có luật sư của họ) chỉ lặp lại cũng những lời buộc tội vô căn cứ và không được chứng minh, hy vọng rằng quan tổng đốc sẽ đồng tình với họ và xử tử Phao-lô (Cong 25:15-16).
Phao-lô đã làm gì? Một lần nữa ông khẳng định rằng ông vô tội về bất cứ sự phạm tội nào chống nghịch luật pháp Do Thái, đền thờ hoặc chính quyền Rô-ma. Phê-tu thấy rằng chẳng có tiến triển gì được thực hiện, nên ông hỏi Phao-lô xem người có muốn được xét xử tại Giê-ru-sa-lem hay không. Ông làm điều này để làm đẹp lòng dân Do Thái và có thể đã không nhận ra rằng ông đang gây nguy hiểm cho sinh mạng của tù nhân nổi tiếng của mình. Nhưng một quan toà Rô-ma không thể chuyển một vụ kiện đến một toà án khác mà không có sự đồng ý của bị cáo, và Phao-lô đã từ chối đi! Thay vào đó, ông tuyên bố quyền của mọi công dân Rô-ma được kêu nài đến Sê-sa-rê.
Điều gì đã hướng dẫn Phao-lô thực hiện quyết định khôn ngoan này? Trước hết, ông biết rằng nơi ông đến là Rô-ma, không phải Giê-ru-sa-lem, và cách nhanh nhất để đến đó là kêu nài lên Sê-sa. Phao-lô cũng biết rằng dân Do Thái không từ bỏ âm mưu giết ông, nên ông đã khôn ngoan ở dưới sự bảo vệ của Rô-ma. Bằng cách kêu nài Sê-sa, Phao-lô đã buộc người Rô-ma bảo vệ và đưa ông đến Rô-ma. Cuối cùng, Phao-lô nhận ra rằng dù sao ông cũng không bao giờ có thể có một cuộc xét xử công bằng ở Giê-ru-sa-lem, vậy tại sao đi lên đó.
Điều đó chắc đã làm các chức sắc Do Thái tức giận khi Phao-lô, bằng một lời tuyên bố, đã rút vụ kiện khỏi tay họ. Ông cho biết rõ rằng ông sẵn sàng chết nếu họ có thể chứng minh được rằng ông đã phạm tội đáng chết, nhưng trước hết họ phải tìm ra tội ông. Phê-tu đã gặp hội đồng nghị viên của ông và họ đồng ý gởi Phao-lô đến Ne-ro để xét xử. Chắc hẳn quan tổng đốc mới hơi bẽ bàng khi ông đã giải quyết một trong những vụ kiện đầu tiên của mình quá tệ đến nỗi tù nhân bị buộc kêu nài đến Sê-sa và ông phải đến Sê-sa!
2. Cuộc hội ý: Phê-tu và Ạc-ríp-ba (Cong 25:13-22)
Nhưng những vấn đề của quan tổng đốc mới chưa hết. Ông đã tìm cách không xúc phạm dân Do Thái, nhưng ông đã không xác định được những lời buộc tội hợp pháp nghịch với tù nhân của ông. Làm sao ông có thể gởi một tù nhân có tiếng như vậy đến hoàng đế mà không cho liệt kê những tội lỗi của người ấy nghịch với chính người?
Khoảng thời gian đó, Phê-tu có một cuộc thăm viếng chính thức của Hê-rốt Ạc-ríp-ba II và em gái của Hê-rốt, Bê-rê-nít. Vị vua trẻ tuổi này, người cai trị cuối cùng trong số các Hê-rốt, là chắt trai của Hê-rốt đã giết sứ đồ Gia-cơ (Cong 12:1-25). Sự kiện em gái của ông sống với ông đã gây nhiều nghi ngờ cho dân Do Thái, vì luật pháp của họ rõ ràng lên án tội loạn luân (Le 18:1-18 Le 20:11-21). Rô-ma đã ban cho Hê-rốt Ạc-ríp-ba II pháp quyền đối với đền thờ ở Giê-ru-sa-lem, nên hợp lý để Phê-tu chia sẻ vụ kiện với ông.
Phê-tu đủ lanh lợi để hiểu rằng vụ kiện của dân Do Thái nghịch cùng Phao-lô không liên quan gì với dân luật. Nó chỉ là một vấn đề về “những vấn đề tôn giáo” (Cong 18:14-15 Cong 23:29) mà người Rô-ma không sẵn sàng để giải quyết, đặc biệt là giáo lý về sự sống lại. Câu Cong 25:19 chứng minh rằng Phao-lô không nhằm vào việc bảo vệ nhiều hơn sự sống lại chung chung. Ông tuyên bố và bảo vệ sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ. Như chúng ta đã ghi nhận trong các bài học của mình, đây là sự nhấn mạnh chính của sự làm chứng của Hội Thánh trong sách Công vụ.
Phê-tu đã gây ấn tượng rằng ông muốn dời vụ xét xử đến Giê-ru-sa-lem vì “những vấn đề của dân Do Thái” chỉ có thể được giải quyết bởi dân Do Thái trong lãnh địa Do Thái (Cong 25:20). Dĩ nhiên, đó là một sự bịa đặt hoàn toàn, vì lý do thật của ông là làm hài lòng các chức sắc Do Thái, mà đa số họ được vua Hê-rốt biết.Phê-tu cần điều gì đó rõ ràng để gởi đến Hoàng đế Nero, và có lẽ Ạc-ríp-ba có thể cung cấp nó. (“Augustus” trong Cong 25:21 và Cong 25:25 là một danh hiệu chớ không phải là một cái tên đích thực).
Vua là một chuyên gia về những vấn đề của Do Thái (Cong 26:2-3) và chắc chắn sẽ rất quan tâm đến việc biết thêm về người này là người đã gây một cuộc nổi loạn trong đền thờ. Có lẽ Hê-rốt có thể giúp Phê-tu trong việc tìm ra những lời buộc tội thật sự chống lại Phao-lô và cũng có lẽ Phê-tu có thể trợ giúp Hê-rốt trong việc hiểu thêm về vấn đề người Do Thái tại thành thánh
3. Cuộc đối chất: Phê-tu, Ạc-ríp-ba và Phao-lô (Cong 25:23-27 Cong 26:1-32)
(Cong 25:23-27). Dường như không thể tin rằng mọi sự phô trương long trọng và nghi lễ này là vì một người Do Thái bé nhỏ đã rao giảng Phúc Âm của Chúa Giê-xu Christ! Nhưng Chúa đã hứa với Phao-lô rằng ông sẽ làm chứng trước mặt “các dân ngoại và các vua” (Cong 9:15) và lời hứa đó đang được ứng nghiệm lần nữa. Một khi Phao-lô đã chấm dứt sự làm chứng của ông, mọi thính giả của ông sẽ biết làm sao để được cứu và sẽ không có lý do biện hộ nào.
Họ họp trong một “thính phòng” trong cung điện, và những quân nhân cùng những quan chức chủ chốt của chính quyền Rô-ma đã có mặt ở đó. Vụ kiện của Phao-lô có thể đã được các quan chức khác nhau thảo luận nhiều lần suốt hai năm qua, vì vậy rất ít người trong số những người có mặt đó không biết về sự việc.
Phê-tu chắc chắn đang phóng đại khi ông nói rằng “thay thảy dân chúng Do Thái” đã nhấn mạnh những lời buộc tội Phao-lô, nhưng lời tuyên bố kiểu ấy sẽ khiến cho những người Do Thái có mặt cảm thấy dễ chịu hơn. Câu Cong 25:25 cho chúng ta “những nhận định chính thức” lần thứ hai của Lu-ca tuyên bố sự vô tội của Phao-lô (Cong 23:29)và sẽ có thêm những lời khác trước khi sách của ông được hoàn thành.
Trong những lời hoa mỹ trước mặt Ạc-ríp-ba, Phê-tu biểu lộ rằng ông muốn vua xét hỏi Phao-lô (Cong 25:26) nhưng không có ghi chép nào cho biết vua đã thực hiện. Thật ra, trước khi buổi xử kiện chấm dứt, Phao-lô đã trở thành quan toà, còn phê-tu, vua Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít đã trở thành những bị cáo! Phao-lô thật sự đang bênh vực chính mình (Cong 26:24) nhưng đồng thời, ông đang trình bày chân lý của Phúc Âm và làm chứng cho sự khác biệt mà Chúa Giê-xu có thể làm trong cuộc đời một người.Đây là một trong những bài nói chuyện dài nhất của Phao-lô được tìm thấy trong Công vụ.
Vua Ạc-ríp-ba đảm nhiệm và bảo Phao-lô rằng ông được tự do nói. Trong lời mở đầu ngắn gọn, Phao-lô đã thành thật cảm ơn Ạc-ríp-ba đã nghe vụ kiện của ông, vì ông biết vua là một chuyên gia về những vấn đề tôn giáo. Phao-lô đã không đề cập điều ấy lúc đó, nhưng ông cũng biết rằng vua tin những tiên tri Cựu Ước (Cong 25:27). Phao-lô cũng ngụ ý rằng bài nói chuyện của ông có thể là một bài nói chuyện dài và ông sẽ cảm kích sự kiên nhẫn của vua trong việc nghe ông nói hết.
Năm lời tuyên bố chính tóm tắt sự bênh vực của Phao-lô.
a.“Tôi là người Pha-ri-si” (Cong 26:4-11).
Cuộc sống trước đây của Phao-lô ở Giê-ru-sa-lem được dân Do Thái biết đến, vì vậy không cần phải đi vào chi tiết lớn. Ông là một người Pha-ri-si mộ đạo (Phi 3:5), con của một người Pha-ri-si (Cong 23:6), và những người cùng địa vị với ông có thể đã nhận ra ông đã thực hiện những việc lớn như một ra-bi (Ga 1:13-14). Chính vì những nhận thức của ông về sự sống lại và “hy vọng của Y-sơ-ra-ên” mà giờ đây ông là tù nhân (Ga 23:6 Ga 24:15). Một lần nữa, Phao-lô nêu lên tính chất chính thống và lòng trung thành đối với truyền thống Hê-bơ-rơ.
Đáng chú ý là Phao-lô đã đề cập “12 chi phái chúng tôi” (Cong 26:7). Mặc dù đúng là 10 chi phái phương Bắc (Y-sơ-ra-ên) đã bị A-sy-ri chinh phục năm 722 TC và đã bị đồng hoá ở phạm vi nào đó, nhưng không phải 10 chi phái này đã “bị hư mất”hay bị huỷ diệt. Chúa Giê-xu đã phán về cả 12 chi phái (Mat 19:28) và Gia-cơ cùng sứ đồ Giăng cũng nói vậy (Gia 1:1 Kh 7:4-8 Kh 21:12). Đức Chúa Trời biết tuyển dân của Ngài ở đâu, và Ngài sẽ làm trọn những lời hứa Ngài đã lập cùng họ.
Đại từ “các ông” trong Cong 26:8 ở số nhiều, vì vậy Phao-lô chắc đã nhìn khắp thính giả khi ông nói. Dĩ nhiên, người Hy Lạp và người Rô-ma sẽ không tin giáo lý về sự sống lại (Cong 17:31-32), những người Sa-đu-sê có mặt cũng vậy (Cong 23:8). Đối với Phao-lô, đây là một giáo lý chủ yếu, vì nếu không có sự sống lại, vậy Chúa Giê-xu Christ đã không được khiến sống lại và Phao-lô đã không có Phúc Âm nào để rao giảng (để có lý lẽ của Phao-lô về sự sống lại và Phúc Âm, hãy xem ICo 15:1-58).
Phao-lô không chỉ là người Pha-ri-si, ông còn là một người sốt sắng bắt bớ Hội Thánh.Ông đã hành hạ các tín đồ và tìm cách buộc họ chối bỏ Chúa Giê-xu Christ, và một số người ông đã giúp đưa họ đến cái chết. Nhóm từ “lên tiếng” (Cong 26:10)nghĩa đen là đăng ký “bỏ phiếu”. Điều này cho thấy Phao-lô từng là một nghị viên chính thức của toà Công Luận, nhưng nếu chắc chắn điều đó đúng, dường như ông sẽ đề cập điều ấy ở một trong số những bài nói chuyện của ông. Nhóm từ này có thể không có nghĩa gì hơn là ông “đã bỏ phiếu nghịch với họ“ như một đại diện đặc biệt của thầy tế lễ cả (Cong 9:2-14).
Trong những ngày đầu của Hội Thánh, các tín dồ Do Thái đã tiếp tục nhóm lại trong các nhà hội, và đó là nơi Phao-lô tìm thấy họ và hành hạ họ (Mat 10:17 Mat 23:34). Điều mà trong những năm đầu tiên Phao-lô xem là “sự sốt sắng tôn giáo” (Ga 1:13-14), trong những năm sau ông đã coi như “sự điên rồ” (Cong 26:11). Giống như một dã thú, ông đã “tàn hại Hội Thánh” (Cong 8:3), “ngăm đe và chém giết” (Cong 9:1).
b.“Tôi thấy một ánh sáng” (Cong 26:12-13).
Không hài lòng giới hạn công việc mình ở Giê-ru-sa-lem, Phao-lô đã xin được quyền để thăm viếng các nhà hội ở các thành xa. Sự sốt sắng của ông đã đuổi nhiều tín đồ đi và họ đã đem sứ điệp đến với dân Do Thái ở những cộng đồng khác (Cong 8:4).
Phao-lô đã xem mình là một người được khai sáng vì xét cho cùng, ông là người Do Thái (Ro 9:4-5), một học giả (Ro 12:13), và là người Pha-ri-si. Sự thật, Phao-lô đã sống trong sự tăm tối rành rành về thuộc linh. Ông biết luật pháp trong những ngày trước khi qui đạo, nhưng ông đã không nhận ra rằng mục đích của luật pháp là đem ông đến với Đấng Christ (Ga 3:24). Ông từng là một người Pha-ri-si cậy công bình riêng cần phải khám phá rằng những việc thiện và tính cách đáng trọng của mình không bao giờ có thể cứu ông và đem ông đến thiên đàng (Phi 3:1-11).
Ánh sáng Phao-lô đã nhìn thấy là siêu nhiên, vì đó là vinh hiển của Đức Chúa Trời được bày tỏ từ trời (hãy so sánh Phi 7:2 và Phi 7:55-56). Nó thật sự đã làm Phao-lô mù loà trong ba ngày (Phi 9:8-9), nhưng đôi mắt thuộc linh của ông đã được mở ra để nhìn xem Đấng Christ hằng sống (IICo 4:3-6). Nhưng nhìn thấy một ánh sáng thì chưa đủ ông cũng phải nghe Lời Đức Chúa Trời.
c.“Tôi nghe tiếng phán” (Cong 26:14-18).
Những người đồng đi với Phao-lô đã thấy ánh sáng, nhưng không thấy Chúa, và họ đã nghe một âm thanh, nhưng họ không thể hiểu những lời phán. Họ đều té xuống đất, nhưng chỉ có Phao-lô ở đó (Cong 9:7). Chúa Giê-xu Christ phán với Phao-lô bằng tiếng A-ram quen thuộc của dân Do Thái, gọi ông bằng tên, và cho ông biết thật vô ích để ông tiếp tục chiến đấu với Chúa. Trong lúc ấy, Phao-lô đã thực hiện hai khám phá đáng ngạc nhiên: Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét vẫn sống, và Ngài hiệp nhất với dân Ngài đến nỗi hoạn nạn của họ là hoạn nạn của Ngài! Phao-lô đang bắt bớ không chỉ Hội Thánh, mà còn Đấng Mê-si-a của ông!
Đáng khích lệ biết bao khi biết rằng Đức Chúa Trời bằng ân điển Ngài phán với những người là kẻ thù Ngài. Đức Chúa Trời đã đối phó với Phao-lô, nhưng Phao-lô đã kháng cự với Ngài, đá lại “những gậy nhọn”. “Những gậy nhọn” này là gì? Chắc chắn là lời chứng và sự chết của Ê-tiên, cộng với sự làm chứng trung tín của các thánh đồ những người đã chịu khổ bởi Phao-lô. Có lẽ Phao-lô cũng đã vật lộn với sự rỗng tuếch và yếu đuối của luật pháp. Dù giờ đây ông có thể nói mình “không chỗ trách được” trong hạnh kiểm và lương tâm (Phi 3:6 Cong 23:1), nhưng trong chính lòng ông, ông chắc chắn biết mình trở nên thiếu kém ra sao về việc đáp ứng những tiêu chuẩn thánh khiết của Đức Chúa Trời (Ro 7:7-16).
Từ “chức việc” trong c.16 nghĩa là “một người chèo bên dưới” và chỉ về một đầy tớ thấp hèn trên một con thuyền lao dịch. Phao-lô đã quen làm một lãnh đạo được tôn trọng, nhưng sau khi qui đạo ông đã trở thành một người làm việc cấp dưới, và Chúa Giê-xu Christ trở thành chủ nhân của ông. Chúa đã hứa sẽ ở với Phao-lô và bảo vệ ông. Ngài cũng hứa sẽ bày tỏ Ngài cho ông. Phao-lô thấy Chúa trên đường Đa-mách, và ba năm sau ông gặp Ngài lần nữa trong lúc ở đền thờ (Ro 22:17-21). Sau đó, Chúa đã hiện ra cho ông ở thành Cô-rinh-tô (Ro 18:9) và ở thành Giê-ru-sa-lem (Ro 23:11) và Ngài sẽ hiện ra cho ông lần nữa.
Chắc chắn đó là một ngạc nhiên cho Phao-lô sau sự qui đạo của ông khi nghe rằng Chúa sẽ sai ông đến dân ngoại. Ông đã có một tình yêu lớn đối với dân mình và sẽ sung sướng sống chết để thu phục họ cho Đấng Christ (Ro 9:1-3), nhưng đó không phải là kế hoạch của Đức Chúa Trời.
Câu 18 mô tả tình trạng thuộc linh của kẻ hư mất lẫn sự chu cấp nhân từ của Đấng Christ cho những ai sẽ tin. Bạn sẽ tìm thấy những câu tương tự trong Es 35:5 Es 42:6 và Es 61:1. Tội nhân hư mất giống như một tù nhân mù loà trong tù ngục tăm tốt, và chỉ có Đấng Christ mới có thể mở mắt người ấy và ban cho người ánh sáng cùng sự tự do (IICo 4:3-6). Nhưng ngay cả sau khi người ấy được trả tự do, hồ sơ toà án và tội lỗi của người ấy thì sao? Chúa tha thứ tội lỗi ông và xoá sạch hồ sơ ông! Rồi Ngài đưa ông vào gia đình Ngài như chính con Ngài và chia cho ông gia tài!
Tội nhân phải làm gì? Người ấy phải tin nhận Chúa Giê-xu Christ (“đức tin ở trong ta” – Cong 26:18). Phao-lô phải đánh mất tôn giáo mình để được sự cứu rỗi! Trong chốc lát ông đã khám phá rằng tất cả sự công bình của ông chỉ là chiếc áo nhớp trước mặt Đức Chúa Trời, và ông cần sự công bình của Đấng Christ (Es 64:6).
d.“Tôi đã không bất tuân” (Cong 26:19-21).
Khi Phao-lô hỏi: “Lạy Chúa, Ngài bảo tôi làm gì?” (Cong 9:6), ông muốn nói điều đó thật lòng, và khi Chúa bảo ông, ông vâng lệnh tức thì. Ông bắt đầu ngay tại Đa-mách và điều đó gần như phải trả giá bằng mạng sống của ông (Cong 9:20-25). Tương tự như vậy, khi ông làm chứng cho dân Do Thái ở Giê-ru-sa-lem, họ đã tìm cách giết ông (Cong 9:29-30). Mặc cho những sự nản lòng và nguy hiểm liên tục, Phao-lô cứ vâng theo sự kêu gọi và khải tượng mà Chúa Giê-xu Christ đã bày tỏ cho ông. Không điều gì lay chuyển ông! (Cong 20:24). Trong Cong 26:21, Phao-lô giải thích rõ cho Ạc-ríp-ba và Phê-tu điều gì thật sự đã xảy ra trong đền thờ và tại sao nó xảy ra. Đó là vì những việc này” mà Phao-lô đã bị tấn công và chút nữa bị giết chết. Lời tuyên bố của ông rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét vẫn sống và là Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên, chức vụ của ông cho dân ngoại, và sự mời gọi của ông về những phước hạnh của giao ước Đức Chúa Trời đối với dân Do Thái lẫn dân ngoại dựa trên cùng những điều kiện về sự ăn năn và đức tin (Cong 20:21). Sự hãnh diện của những người Y-sơ-ra-ên theo chủ nghĩa dân tộc không liên quan gì đến một người Do Thái là người đối xử dân ngoại như dân Do Thái!
e.“Tôi tiếp tục cho đến ngày nay” (Cong 26:22-32).
Có một khởi đầu tuyệt vời, với những khải tượng và những tiếng phán là một chuyện, nhưng cứ tiếp tục tiến, đặc biệt khi đường đi gồ ghề lại là một chuyện khác. Sự kiện Phao-lô đã tiếp tục là chứng cớ về sự qui đạo của ông và là bằng chứng về sự thành tín của Đức Chúa Trời. Ông đã được cứu bởi ân điển Đức Chúa Trời và được ban năng lực để hầu việc bởi ân điển Đức Chúa Trời (ICo 15:10).
Một từ tóm tắt tốt nhất đời sống và chức vụ của Phao-lô là “làm chứng” (Cong 26:16). Đơn giản là ông đã chia sẻ với người khác điều ông đã học và kinh nghiệm trong tư cách một người theo Chúa Giê-xu Christ. Sứ điệp của ông không phải là điều ông tạo ra, vì nó dựa cách vững chắc trên Kinh Cựu Ước. Chúng ta phải tự nhắc chính mình rằng Phao-lô và các sứ đồ khác chưa có Kinh Thánh Tân Ước nhưng đã sử dụng Kinh Thánh Cựu Ước đễ dẫn dắt tội nhân đến Đấng Christ và nuôi dưỡng những tân tín hữu.
Câu Cong 26:23 là một tóm tắt về Phúc Âm (ICo 15:3-4) và mỗi phần có thể được xác nhận từ kinh Thánh Cựu Ước. Ví dụ, hãy xem Es 52:13-53:12 và Thi 16:8-11.Phao-lô thậm chí đã có thể bênh vực cho sự kêu gọi của ông đến với dân ngoại từ Es 49:6 (Cong 13:47). Chúa Giê-xu không phải là người đầu tiên được khiến sống lại từ cõi chết, nhưng Ngài là người đầu tiên được khiến sống lại từ cõi chết và không bao giờ chết nữa. Ngài là “trái đầu mùa của những kẻ ngủ” (ICo 15:20).
Trong sứ điệp ở đền thờ, khi Phao-lô nói đến từ dân ngoại, đám đông vùng dậy (Cong 22:21-22). Đó là từ Phao-lô đã nói khi Phê-tu phản ứng và lớn tiếng tố cáo Phao-lô bị lãng trí. Kỳ lạ làm sao khi Phê-tu không nghĩ rằng Phao-lô thật lãng trí khi ông bắt bớ Hội Thánh! (Cong 26:11). Không ai gọi D.L.Moody là điên khi ông năng nổ bán giầy và kiếm tiền, nhưng khi ông bắt đầu thu phục linh hồn, người ta đã cho ông biệt danh “Moody điên khùng”. Đây không phải là lần đầu tiên Phao-lô bị gọi là “điên kùng” (IICo 5:13), và ông chỉ đang đi theo những bước chân của Chủ mình (Mac 3:20-21 Gi 10:20).
Phao-lô đang nói với vua Ạc-ríp-ba, nhưng sự ngắt lời đầy xúc động của quan tổng đốc buộc ông phải đáp lại. Ông nhắc cho Phê-tu rằng những sự kiện về chức vụ của Chúa Giê-xu Christ, bao gồm sự chết và sự sống lại của Ngài, đã được người ta biết công khai và “đã không được thực hiện ở một nơi bí mật”. Toà Công luận Do Thái có liên quan và quan tổng đốc Rô-ma, Phi-lát cũng vậy. Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét từng là một nhân vật nổi tiếng giữa công chúng ít nhất là ba năm, và đông đảo quần chúng đã theo Ngài. Vậy làm sao quan tổng đốc có thể nói rằng không biết gì?
Phê-tu đã không cắt lời vì ông thật sự nghĩ Phao-lô bị lãng trí. Nếu trường hợp là vậy, ông sẽ đối xử Phao-lô nhẹ nhàng và ra lệnh một số lính canh của ông hộ tống người đến một nơi tạm trú và an toàn. Hơn nữa, có quan chức nào lại gởi đi một người lãng trí điên dại để chịu xét xử trước hoàng đế? Không, quan tổng đốc chỉ đang đưa ra bằng chứng về sự kết tội trong lòng ông. Những lời nói của Phao-lô đã bắt được biểu hiện của họ, và Phê-tu tìm cách thoát ra.
Nhưng Phao-lô không quên vua Ạc-ríp-ba, một người Do Thái là chuyên gia về nhiều vấn đề. Khi Phao-lô hỏi Ạc-ríp-ba có tin các tiên tri không, ông đã buộc vua giữ một lập trường., Chắc chắn vua sẽ không chối bỏ điều mà mọi người Do Thái đã tin! Nhưng Ạc-ríp-ba biết rằng nếu ông khẳng định niềm tin mình nơi các tiên tri, vậy ông phải đối diện với câu hỏi: “Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét có phải là người mà các tiên tri đã viết về Ngài không?”
Phê-tu né tránh quyết định bằng cách cáo Phao-lô bị lãng trí. Vua Ạc-ríp-ba lẩn tránh câu hỏi của Phao-lô (và tình thế nan giải được trình bày) bằng cách áp dụng một thái độ cấp trên và xem thường sự làm chứng của Phao-lô. Sự trả lời của ông trong c.28 có thể được nói: “Phải chăng ngươi nghĩ rằng trong một thời gian ngắn như thế với ít lời như thế, người có thể thuyết phục ta trở thành một Cơ Đốc nhân sao?”. Có lẽ ông đã nói với một nụ cười tự mãn trên gương mặt và cái cười khẩy trong giọng nói. Nhưng ông đã phán lệnh chết của chính mình (Gi 3:18-21,36).
Phao-lô đã lịch sự trong lời đáp của ông. “Cầu xin Đức Chúa Trời, chẳng kíp thì chầy, không những một mình vua, nhưng hết thảy mọi người nghe tôi hôm nay đều trở nên như tôi, chỉ trừ bỏ xiềng này thôi” (Cong 26:29). Phê-tu và Ạc-ríp-ba biết rằng tù nhân của họ có một sự quan tâm đầy thương xót đối với họ, và họ không thể dễ dàng thoát khỏi sự thách thức của ông. Việc tốt nhất để làm là chấm dứt việc nghe, vì vậy đứng dậy, và điều này cho mọi người biết rằng cuộc yết kiến đã kết thúc.
Cả Ạc-ríp-ba lẫn Phê-tu đã tuyên bố rằng Phao-lô vô tội về bất cứ tội lỗi đáng chết nào. Lu-ca tiếp tục thu thập những lời tuyên bố chính thức này để độc giả của ông sẽ hiểu rằng Phao-lô là người vô tội (Cong 16:35-40 Cong 18:12-17 Cong 23:29 Cong 25:25). Thật ra, Phao-lô có thể đã được trả tự do, nếu ông không kêu nài lên Sê-sa.Phải chăng ông dại dột trong việc thực hiện sự kêu nài của mình? Không, ông không dại dột vì chính sự kêu nài Sê-sa cuối cùng đã chấm dứt những lời tố cáo liên tục của các chức sắc Do Thái. Họ biết mình không thể thành công trong việc chống lại Rô-ma.
Điều mà Ạc-ríp-ba và Phê-tu đã không hiểu đó là Phao-lô đã làm quan án và họ là những tù nhân trong cuộc xét xử. họ đã được chỉ cho ánh sáng và con đường đến sự tự do, nhưng họ cố tình nhắm mắt lại và quay về với tội lỗi mình. Có lẽ họ đã cảm thấy nhẹ nhõm rằng Phao-lô sẽ đến Rô-ma và không làm phiền họ nữa. Cuộc xét xử đã xong, nhưng sự tuyên án của họ vẫn phải đến, và nó sẽ đến.
Một điều thật kỳ diệu đó là dịp tiện để tin nhận Chúa Giê-xu và được cứu! Một điều thật khủng khiếp đó là việc lãng phí dịp tiện đó và có lẽ không bao giờ có dịp tiện khác.
Cong 26:1-32; Xem phần giải nghĩa chung với Cong 25:23-27
22. PHAO-LÔ ĐẾN RÔ-MA (Cong 27:1-28:31)
“Tôi cũng phải thăm thành Rô-ma nữa! ”. Đó là những lời của Phao-lô trong chức vụ ông ở thành Ê-phê-sô (Cong 19:21), và ông đã không nhận biết mọi điều sẽ xảy đến cho mình trước khi ông sẽ đến kinh thành: sự bắt giữ bất hợp pháp, những cuộc xét xử của người Rô-ma và người Do Thái, sự giam giữ và thậm chí sự đắm tàu. Từ lâu ông muốn giảng Phúc Âm ở Rô-ma (Ro 1:14-16) và sau đó tiếp tục ở Tây-ban-nha (Ro 15:28), nhưng ông đã không đặt kế hoạch để ra đi như một tù nhân. Qua mọi việc đó, Phao-lô đã tin cậy lời hứa của Đức Chúa Trời rằng ông sẽ làm chứng ở Rô-ma (Ro 23:11) và Chúa đã hiểu rõ ông.
Tại sao Lu-ca dành một phân đoạn dài như thế trong sách ông cho việc mô tả về một chuyến đi biển và sự đắm tàu? Chắc chắn ông đã có thể tóm tắt câu chuyện cho chúng ta! Nhưng Lu-ca là một nhà văn lành nghề, được Thánh Linh Đức Chúa Trời thần cảm, và ông biết mình đang làm gì. Trước hết, sự tường thuật lý thú này quân bình những bài nói chuyện mà chúng ta đã đọc và đem đến kịch tính hơn trong sự tường thuật. Cũng vậy, Lu-ca là một sử gia xác thực trình bày những sự kiện quan trọng về người anh hùng của ông và chuyến đi biển đến Rô-ma của người.
Nhưng có lẽ mục đích chính được Lu-ca ghi nhớ là việc giới thiệu Phao-lô với tư cách là nhà lãnh đạo can đảm ông đã có thể nắm quyền điều khiển một tình thế khó khăn trong một thời điểm khủng hoảng lớn. Những thế hệ tương lai sẽ yêu mến và cảm kích Phao-lô hơn nữa về những việc ông đã làm trên đường đến Rô-ma.
Từ thời xa xưa, các nhà văn đã phác hoạ đời người như một hành trình hay một chuyến đi biển. tác phẩm “Pilgrim’s Progress” (Thiên lộ lịch trình) của John Bunyan được dựa trên chủ đề này, và tác phẩm “Hormer’s Odyssey” cũng vậy. Đôi khi chúng ta dùng phép ẩn dụ “chuyến đi biển” trong giao tiếp hằng ngày: “thuận buồn xuôi gió! ” hay “coi chừng chìm xuống! ” hoặc “chìm hoặc bơi! ”. Khi một Cơ Đốc nhân chết, chúng ta có thể đã nói, “bà ấy đã đến bờ bên kia”. Bác sĩ Lu-ca chắc chắn không viết một lời bóng gió, nhưng ông đã sử dụng sự kiện này để cho thấy cách đức tin một người có thể tạo ra một khác biệt lớn cho người ấy và những người khác ra sao?” trong những cơn bão tố của cuộc đời”. Thật là một sự khích lệ cho đức tin của chúng ta!
Trong hành trình đến Rô-ma của Phao-lô, chúng ta thấy vị sứ đồ cao trọng này qua 4 vai trò quan trọng.
1. Phao-lô người cố vấn (Cong 27:1-20).
Lu-ca đã không kể chính ông từ Cong 21:18 nhưng giờ đây ông đã hiệp với Phao-lô và A-ri-tạc (Cong 19:29 Cong 20:2,4) trong chuyến đi đến Rô-ma có thể Lu-ca cho phép theo Phao-lô như vị bác sĩ riêng... và A-ri-tạc được đi với tư cách người hầu riêng của Phao-lô.Chắc Phao-lô đã cảm tạ Đức Chúa Trời biết bao về những người bạn trung tín của ông, những người đã hy sinh sự tự do của mình, và thậm chí đã liều mạng để ông có thể được sự giúp đỡ ông cần. Không có bằng chứng nào cho thấy cả hai người này đã bị bắt, nhưng Phao-lô đã nhắc đến A-ri-tạc như một “bạn tù” (Co 4:10). Điều này có thể chỉ về một sự giam cầm tự nguyện của người ấy để giúp đỡ Phao-lô.
Phao-lô không phải là tù nhân duy nhất bị Giu-lơ và thuộc hạ đưa đến Rô-ma, vì đã có “những tù nhân khác” cùng với họ. Từ Hy Lạp nghĩa là “những người khác thuộc loại khác” và có thể gợi ý rằng không như Phao-lô, những người này sẽ đến Rô-ma để chết chớ không hầu toà. Quả là sự may mắn khi họ gặp Phao-lô người có thể nói cho họ biết cách đến Thiên đàng khi họ chết!
Thầy đội tìm thấy một chiếc tàu ven biển rời Sê-sa-rê, nên họ lên tàu và đi suốt 80 dặm từ Sê-sa-rê đến Si-đôn trong một ngày. Ở Si-đôn, Phao-lô được phép viếng thăm bạn hữu và sắp xếp những thứ cần thiết cho chuyến đi dài. Lu-ca ghi lại sự tử tế của một quan chức Rô-ma đối với Phao-lô (Cong 24:23), cũng như sự khích lệ của những tín đồ vô danh ở Si-đôn. Tên họ ở trong sách của Đức Chúa Trời và ngày nào đó họ sẽ được phần thưởng (Phi 4:3).
Từ Si-đôn đến Myra, hành trình trở nên khó khăn vì có gió tây. Tại Myra, Giu-lơ một quan chức Rô-ma, thấy một chiếc tàu sẽ đi I-ta-li, vì vậy ông bỏ chiếc tàu chạy chậm hơn và đưa Phao-lô cùng những người khác lên chiếc tàu lớn chở lúa thóc này đến từ Ai Cập chứa 276 hành khách (Cong 27:37-38). Rô-ma nhờ nơi Ai Cập để được sự cung cấp lúa gạo, và chính quyền Rô-ma đã quan tâm đặc biệt những người đi những chiếc tàu này.
Những cơn gió mạnh lại ngăn trở cuộc hành trình của họ nên cần “nhiều ngày” để đi 130 dặm từ My-ra đến Cơ-nít. Bấy giờ hoa tiêu lái đi hướng nam-tây nam đến đảo Cơ-rết, đi qua Sa-môn và cuối cùng cố gắng vào Mỹ cảng. Đó là một hành trình đi biển khó khăn nhất, một điềm báo những điều không lành sắp đến.
Thầy đội giờ đây phải quyết định hoặc trú đông tại Mỹ cảng hoặc giương buồm và cố gắng đến cảng Phê-nít (Phê-ni-si-a, Cong 27:12) ở bờ biển phía nam đảo Cơ-rết, cách khoảng 40 dặm. Cách thăm dò của ông để thực hiện quyết định này là một minh hoạ Kinh điển về cách không xác định ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Phao-lô khuyên họ ở lại Mỹ cảng. Họ đã chạm trán những cơn gió ngược, và giờ đây nó là khởi đầu mùa bão. “Kỳ kiêng ăn” chỉ về Ngày chuộc tội, rơi vào tháng 9/10 và mọi thuỷ thủ đều biết rằng sự đi biển rất khó khăn từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 11, và không thể thực hiện được từ giữa tháng 11 đến tháng 2.
Câu Cong 27:10 nghe rất giống một lời tiên tri mà chúng ta có khuynh hướng tin Đức Chúa Trời đã ban cho Phao-lô một linh cảm về sự nguy hiểm. Phao-lô đã từng trải qua ba nạn đắm tàu (IICo 11:25), vì vậy ông chắc chắn đang nói từ kinh nghiệm. (Từ Hy Lạp được dịch là “cảm thấy” trong Cong 27:10 có nghĩa “cảm thấy từ kinh nghiệm trong quá khứ). Tuy nhiên, những người hữu trách đã đánh giá thấp lời cảnh cáo của Phao-lô, một thái độ mà họ đã sống để hối hận.
Những yếu tố nào đã điều khiển quyết định của Giu-lơ? Trước hết, Mỹ cảng không phải là nơi tiện lợi để cập bến vì nó quá trống trải để đón nhận những cơn bão mùa đông. Phê-lít có một bến cảng kín gió hơn. Giu-lơ cũng lắng nghe “lời khuyên chuyên môn” của hoa tiêu và thuyền trưởng (“người lái tàu và chủ tàu”) chiếc tàu. Họ khuyên rằng tàu tiến thẳng đến Phê-lít càng nhanh càng tốt. Chắc chắn họ có thể đi 40 dặm an toàn, và đã mất quá nhiều thời gian (Cong 27:9). Khi Giu-lơ tính tổng số phiếu, ba phiếu chống một đề nghị tàu giương buồm. Xét cho cùng, đa số không thể sai, đặc biệt khi nó bao gồm những chuyên gia!
Nhưng cuộc tranh luận dứt điểm đã đến bằng sự thay đổi đáng khích lệ về thời tiết, vì gió nam bắt đầu thổi nhẹ, và đó chính là điều họ cần. Khi tàu rời bến, có lẽ Giu-lơ, hoa tiêu và thuyền trưởng đã mỉm cười vẻ khoan dung đối với Phao-lô và hai người bạn của ông như thể nói rằng “hãy xem, các anh sai rồi! ”
Tuy nhiên, không lâu trước khi Phao-lô được chứng minh là đúng, vì “gió nhẹ” đã trở nên gió bão tố. Từ được dịch là dữ tợn cho chúng ta từ tiếng Anh Typhoon (bão). Các thuỷ thủ đã gọi cơn gió đặc biệt này là gió “Ơ-ra-qui-lôn”, một từ ghép tiếng Hy Lạp và La-tinh có nghĩa là “gió đông bắc”. Thuỷ thủ đoàn đã phải để tàu trôi giạt vì họ không thể lái tàu, và cơn gió làm tàu bạt đi 23 dậm về hướng nam, đến hòn đảo Cơ-lô đa. Ở đây các thuỷ thủ đã kéo vào chiếc thuyền nhỏ đã được lôi phía sau các tàu lớn, để không bị mất thuyền hoặc thuyền bị xô ngược vào tàu và gây thiệt hại.
Khi cơn bão trở nên dữ dội hơn, thuỷ thủ đoàn đã làm hết khả năng để giữ con tàu nổi. Họ ràng dây thừng (hoặc dây xích) quanh thân tàu để tàu không bị vỡ ra và họ đã hạ một số buồm. Ngày thứ hai, họ bắt đầu quăng lúa thóc xuống biển, và ngày thứ ba họ vứt đồ đạc xuống biển (chú ý cách Lu-ca sử dụng “chúng ta” trong Cong 27:19). Vì cơn bão, họ không thể nhìn thấy mặt trời hay ngôi sao, nên không thể xác định vị trí mình. Tình cảnh dường như vô vọng, và tất cả đã xảy ra vì một người không lắng nghe sứ giả của Đức Chúa Trời.
Đôi khi chúng ta tự đưa mình vào những cơn bão vì những lý do tương tự: sự thiếu kiên nhẫn (Cong 27:9) chấp nhận lời khuyên chuyên môn nghịch với ý muốn Đức Chúa Trời, theo đa số, và tin tưởng những điều kiện “lý tưởng” (Cong 27:13). “Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Es 28:6). Cần phải lắng nghe Lời Đức Chúa Trời.
2. Phao-lô người khích lệ (Cong 27:21-44)
Joseph Parker đã nói: “Phao-lô đã khởi đầu như một tù nhân, ông kết thúc như thuyền trưởng”. Phao-lô đã “điều khiển” tình thế khi rõ ràng không ai khác biết phải làm gì. Một cơn khủng hoảng không tạo nên một con người môt cơn khủng hoảng bày tỏ một người được dựng nên từ cái gì, và nó đem đến sự lãnh đạo thật nổi bật Phao-lô nhẹ nhàng quở trách thầy đội, hoa tiêu và thuyền trưởng về việc phớt lờ lời cảnh cáo của ông. Chẳng bao lâu họ sẽ khám phá rằng Đức Chúa Trời đã tha thứ tất cả họ chỉ vì Phao-lô.
Hãy xem xét bốn chức vụ của Phao-lô về sự khích lệ hành khách và thuỷ thủ đoàn.
- Ông chia sẻ Lời Đức Chúa Trời với họ (Cong 27:22-26). Một sứ giả của Chúa đã viếng thăm Phao-lô và cho ông biết rằng tàu và hàng hoá sẽ bị mất, nhưng tất cả hành khách sẽ được sống và tấp lên một hòn đảo. Một lần nữa, Chúa đã ban cho ông một lời khích lệ đặc biệt đúng lúc (Cong 18:9-10 Cong 23:11). Ngày nay dường như chúng ta không có những khải tượng, nhưng chúng ta có những lời hứa trong Lời Ngài để khích lệ chúng ta (Ro 15:4 Es 41:10 Es 43:1-5). Chính vì cớ Phao-lô mà Đức Chúa Trời đã làm điều này, chính đức tin của Phao-lô mà Đức Chúa Trời đã tôn trọng. Ông quả là một lời chứng đối với mọi người trên con tàu bị sóng gió vùi dập này!
- Ông cảnh cáo họ (Cong 27:27-32). Suốt hai tuần họ ở trên biển, con tàu đã bị trôi dạt 500 dặm lạc hướng và giờ đây lênh đênh ở biển Adrian (hiện nay nó được gọi là biển Ionian và đừng nhầm lẫn với biển A-đờ-ra-tích). Khi thuỷ thủ đoàn tiến hành thăm dò, họ phát hiện mực nước đã trở nên cạn hơn (từ 120 bộ đến 90 bộ), cho thấy đất liền ở gần. Từ tiếng gầm của sóng biển, có vẻ như con tàu hướng về những tảng đá.
Để giữ cho mũi tàu hướng về phía bờ, một số người của thuỷ thủ đoàn đã thả bốn neo từ phía đuôi tàu. Nhưng những người khác trong thuỷ thủ đoàn đã tìm cách thoát khỏi tàu vào chiếc tam bản đã được mang theo trên tàu (Cong 27:16). Đây không chỉ là một hành động ích kỷ và là cuộc nổi loạn của họ, mà còn là một hành động vô tín. Phao-lô đã cho mọi người biết lời hứa của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ giữ an toàn tất cả những ai đi biển với ông trong hành trình này (Cong 27:24). Đối với những người này, bỏ con tàu là cầm mạng sống họ trong chính tay họ và đe doạ mạng sống của người khác. Liệu quân lính có hành động khôn ngoan hay không trong việc thả trôi chiếc tam bản thật khó xác định, nhưng trong trường hợp khẩn cấp, bạn tiến hành biện pháp khẩn cấp.
- Ông nêu một gương tốt trước mặt họ (Cong 27:33-38). Thật là một khác biệt khi một người có đức tin nơi Đức Chúa Trời! Thay vì ao ước hão huyền về một thay đổi (Cong 27:29) hoặc tìm phương trốn thoát một cách ích kỷ (Cong 27:30), Phao-lô sẵn sàng cho những đòi hỏi lúc rạng đông. Không khó để hiểu vì sao mọi người đã nhịn ăn hai tuần lễ ấy, nhưng giờ đây là lúc để ăn. Chăm sóc sức khoẻ là một phần quan trọng của đời sống Cơ-đốc, và ngay cả một sứ đồ cũng không được ngược đãi thân thể mình.
Phao-lô cầm bánh và công khai cầu nguyện cùng dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời (Đây là một gương tốt cho chúng ta noi theo khi chúng ta ăn ở những nơi công cộng). Tấm gương của ông đã khích lệ người khác tham gia với ông, và chẳng bao lâu mọi người cảm thấy dễ chịu hơn. Có những lúc khi một tín đồ tận tuỵ có thể thay đổi toàn bộ không khí của một tình thế, đơn giản bằng cách tin cậy Đức Chúa Trời và khiến đức tin đó rõ ràng cho người ta thấy được.
-Ông đã cứu họ (Cong 27:39-44). Đến sáng, viên hoa tiêu xem xét vị trí của họ và cố gắng hết sức để đưa tàu vào bờ. Nhưng tất cả đều vô hiệu con tàu bị mắc cạn và sóng biển bắt đầu đánh tan nát đuôi tàu.Việc duy nhất mà các hành khách có thể làm là nhảy xuống nước và lội vào đất liền.
Dĩ nhiên, quân lính quan tâm về các tù nhân của họ, vì nếu một tù nhân trốn thoát, người lính bị xem là phải chịu trách nhiệm và có thể bị giết. Một lần nữa, chính Phao-lô là người mà sự hiện diện của ông đã cứu mạng họ. Như Chúa đã hứa, tất cả họ được bình an vào bờ, và không một ai mất mạng. Tôi có cảm giác rằng Phao-lô đã chia sẻ Phúc Âm với các bạn tàu của ông và một số người đã tin nơi Chúa như một kết quả của kinh nghiệm này. Lu-ca không trình bày chi tiết cho chúng ta, nhưng bạn nghĩ Phao-lô sẽ làm khác đi sao?
Trước khi rời khỏi phân đoạn lý thú này của Công vụ, chúng ta nên chú ý một số bài học thực tiễn mà nó dạy chúng ta. Trước hết, những cơn bão tố thường đến khi chúng ta bất tuân ý muốn Đức Chúa Trời – (Giô-na là một gương đích đáng về lẽ thật này). Tuy nhiên, không phải Phao-lô là người thiếu sót, nhưng là thầy đội có trách nhiệm về con tàu. Đôi lúc chúng ta chịu khổ vì sự vô tín của kẻ khác.
Thứ hai, những cơn bão tố thể hiện một lối bày tỏ tính cách. Một số thuỷ thủ đã ích kỷ tìm cách trốn thoát, những người khác chỉ có thể hy vọng điều tốt đẹp nhất, nhưng Phao-lô tin cậy Đức Chúa Trời và vâng theo ý muốn Ngài.
Thứ ba, cả những cơn bão dữ dội nhất cũng không thể che khuất được gương mặt Đức Chúa Trời hay ngăn trở những mục đích của Đức Chúa Trời Phao-lô đã nhận được lời bảo đảm họ cần, và Đức Chúa Trời đã tể trị để tôi tớ Ngài đến Rô-ma an toàn.
Cuối cùng, những cơn bão có thể cho chúng ta những dịp tiện phục vụ người khác và làm chứng cho Chúa Giê-xu. Phao-lô đã là người có giá trị nhất trên con tàu đó! Ông biết cách cầu nguyện, ông có đức tin nơi Đức Chúa Trời, và ông ở trong sự tương giao với Đấng toàn năng.
3. Phao-lô người giúp đỡ (Cong 28:1-10)
Đức Chúa Trời đã đưa họ đến cù lao Man-tơ (có nghĩa là “nơi ẩn náu”), nơi mà thổ dân đã tiếp đón tất cả 276 người và cố gắng hết khả năng để làm cho họ được tiện nghi. Đối với người Hy Lạp, bất cứ ai không nói tiếng Hy Lạp đều là một “người dã man”. Những người này đã tỏ ra tử tế và đầy thông cảm. Cơn bão đã dịu đi, nhưng thời tiết lạnh, nên thổ dân nhóm một đống lửa.
Sau tất cả mọi điều đã làm cho các hành khách, Phao-lô lẽ ra đã có thể đề nghị một chiếc ngai và nhất định rằng mọi người phải hầu việc ông! Trái lại, ông đã dự phần mình vào công việc và giúp thu lượm nhiên liệu nhóm lửa. Không có nhiệm vụ nào quá nhỏ bé đối với vị đầy tớ của Đức Chúa Trời là người có “tâm tình của Đấng Christ” (Phi 2:1-13).
Một ngày đổ mưa nọ, hai phụ nữ cùng đi với một người đàn ông đã đến Northfield, hy vọng ghi tên con gái ông vào trường của D.L.Moody dành cho thiếu nữ. Ba người cần được giúp đỡ trong việc đem hành lý của họ từ ga xe lửa đến khách sạn vì vậy người khách “gọi” một người đàn ông có vẻ khá bình thường với một con ngựa và xe ngựa, cho rằng ông là người đánh xe ngựa ở địa phương. “Người đánh xe ngựa” nói ông đang đợi các sinh viên, nhưng người khách ra lệnh cho ông đưa họ đến khách sạn. Người khách ngạc nhiên khi người đánh xe không lấy tiền và ông ta càng sửng sốt hơn khi khám phá rằng “người đánh xe ngựa” chính là D.L.Moody! Moody là một lãnh đạo bởi vì ông biết cách làm một đầy tớ.
Tình tiết về con rắn nhắc chúng ta nhớ đến kinh nghiệm của Phao-lô ở thành Lít-trơ (Phi 14:6-18). Trước tiên, dân chúng nghĩ rằng công lý, một trong những nữ thần của họ, đã đuổi kịp tù nhân nổi tiếng này là người bị xem là chết đuối ở biển nhưng bằng cách nào đó đã thoát được. (Giá mà họ biết! ). Khi Phao-lô không bị sưng lên và chết, họ xác định rằng ông phải là một vị thần! Đó là những lý luận của những người xét đoán bởi bề ngoài.
Con rắn có phải là vũ khí của Sa-tan để tiêu diệt Phao-lô? Cơn bão đã không nhấn chìm ông, nhưng một cái bẫy kín đáo có thể bẫy được ông. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta phải luôn cảnh giác, vì con rắn hoặc sư tử sẽ tấn công chúng ta (IICo 11:3 IPhi 5:8). Chúng ta cũng phải nhớ rằng mình đang được quan sát, và chúng ta phải sử dụng mọi dịp tiện để ngợi khen Đấng Christ.
Phao-lô và những người cùng đi ở lại cù lao Man-tơ ba tháng, và nhờ Phao-lô, họ được đối đãi cách nhân từ và được gởi những món quà rời rộng lúc họ ra đi. Vì họ đã mất mọi thứ trong nạn đắm tàu, các hành khách biết ơn khi có những nhu cầu được đáp ứng. Lu-ca không nói gì về sự rao giảng Phúc Âm trên đảo, nhưng chúng ta phải tin rằng Phao-lô đã chia sẻ Phúc Âm với bất cứ ai lắng nghe. Sự kiện ông được giải cứu kỳ diệu khỏi biển cả và khỏi con rắn, cùng quyền năng chữa bệnh của ông, chắc chắn sẽ khuấy động sự quan tâm của dân chúng, và Phao-lô sẽ muốn dành sự vinh hiển cho Chúa (Mat 5:16).
4. Phao-lô người rao giảng (Cong 28:11-31)
Có phải tất cả 276 người đã lên con tàu ở A-léc-xan-tri, hay chỉ Giu-lơ cùng lính canh của ông và các tù nhân, chúng ta không biết. Chúng ta cũng không biết vì sao Lu-ca thận trọng như vậy để nhận diện con tàu. Trong thần thoại Hy Lạp, “Castor và Pollux” là tên của hai con trai song sinh của Thần Dớt và được tôn kính như những thần bảo hộ của những người trên biển. Nhiều chiếc tàu Rô-ma đã mang hình ảnh của họ như một sự nài xin sự an toàn. Mất 80 dặm đến thành Sy-ra-cu-sơ, . 70 dặm nữa đến thành Rê-ghi-um, và khoảng 180 dặm đến thành Bu-xô-lơ, cảng của thành phố Naples (Nam Y-ta-li). Thời gian này “gió nam”chính xác là điều họ cần để khiến hành trình nhanh chóng và an toàn.
Ở Bu-xô-lơ Phao-lô và các bạn ông, đi theo Giu-lơ và các tù nhân khác cùng với lính canh, được các tín đồ nài nỉ ở lại và nghỉ ngơi một tuần, và Giu-lơ đã đồng ý. Thầy đội biết rằng Phao-lô đã cứu mạng họ, và có lẽ ông thậm chí trở nên quan tâm về điều mà những Cơ Đốc nhân này đã đề nghị.
Có lời báo tin đến Rô-ma Phao-lô sẽ đến, thế nào chúng ta không biết, Có lẽ A-ri-tạc đã không đi với Phao-lô và Lu-ca trên chiếc tàu chở lúa thóc, nhưng thay vào đó đi đường bộ đến Rô-ma nơi ông gặp các bạn của Phao-lô (ít nhất 26 người được kể tên trong Ro 16:1-27). Nếu không có lẽ một đoàn đại diện từ Sê-sa-rê đã đi thẳng đến Rô-ma ngay khi Phao-lô kêu nài lên Sê-sa.
Giu-lơ và những người cùng đi đã theo con đường Appian nổi tiếng và đi 125 dặm từ Bu-xô-lơ đến Rô-ma. Nhóm Cơ Đốc nhân thứ nhất đã gặp Phao-lô tại Phô-rum Áp-bi-u, cách Rô-ma khoảng 43 dặm, và nhóm thứ hai đã gặp ông tại Ba Quán gần thành 10 dặm. (Một số thánh đồ sẽ đi xa hơn những người khác! ). Phao-lô được khích lệ vô cùng khi ông gặp họ cũng như ông có thể. Giờ đây ông có thể thông công với các thánh đồ và họ có thể là một phước hạnh đối với nhau.
Mối quan tâm lớn nhất của Phao-lô là sự làm chứng của ông cho dân Do Thái ở Rô-ma.Họ đã không nhận tin tức đặc biệt nào về Phao-lô, nhưng họ đã biết rằng “giáo phái Cơ-đốc” đang bị nói nghịch ở nhiều nơi (Cong 28:21-22). Khi bạn đọc thư Phao-lô gởi cho người Rô-ma, bạn có cảm tưởng rằng dân Do Thái ở Rô-ma không hiểu một số điều dạy đỗ của ông (Ro 3:8 Ro 14:1). Vị sứ đồ đã cho biết rõ rằng sự kêu nài lên Sê-sa của ông không nên bị giải thích như một cáo trạng nghịch lại quốc gia của ông. Thật ra, ông là một tù nhân nhân danh quốc gia mình và “sự hy vọng của Y-sơ-ra-ên”.
Vào ngày đã hẹn, Phao-lô dành thời gian “từ buổi sáng đến chiều” giải thích Kinh Thánh và bày tỏ Đấng Christ qua luật pháp và các tiên tri. Ông đã “đối thoại”cách này với dân Do Thái trong nhà hội này đến nhà hội khác, và giờ đây ông đang chia sẻ Lời Chúa với các lãnh đạo của nhiều nhà hội ở Rô-ma.
Kết quả? Một số người tin và một số không tin. Khi các lãnh đạo Do Thái rời khỏi nhà Phao-lô, họ vẫn tranh cãi nhau! Nhưng Phao-lô đã trung tín làm chứng cho dân Do Thái ở Rô-ma, và giờ đây ông sẽ quay sang dân ngoại.
Phao-lô đã trích dẫn lời của Ê-sai cho những người này (Es 6:9-10), những lời mô tả tình trạng thuộc linh bi thảm của họ. Chúa Giê-xu đã sử dụng đoạn Kinh Thánh này nối tiếp với những ví dụ của Ngài về vương quốc (Mat 13:13-15 Mac 4:12 Lu 8:10). Sứ đồ Giăng trong sách Phúc Âm của ông đã áp dụng những lời ấy cho Y-sơ-ra-ên (Gi 12:39-40), và Phao-lô đã trích dẫn những lời ấy trong thư tín Rô-ma của ông (Ro 11:7-8). Lắng nghe là một chuyện và nghe là chuyện hoàn toàn khác. Và có một sự khác nhau giữa hiểu và lĩnh hội. Nếu có ai lẽ ra đã có sự hiểu biết thuộc linh, đó là các lãnh đạo Do Thái, nhưng lòng họ chậm hiểu và cứng cỏi. Rất thường những ai hưởng các đặc quyền thuộc linh nhất đều không sẵn sàng khi họ phải thực hiện những quyết định thuộc linh.
Nhưng sự vô tín của họ đã kết thúc chức vụ về Phúc Âm của Phao-lô! Ông đã tuyên bố rằng Phúc Âm mà một số người Do Thái đã chối bỏ sẽ được rao cho dân ngoại, “và họ sẽ nghe Phúc Âm! ” Đây là một trong những chủ đề chính của Công vụ, cách Phúc Âm đã đi từ dân Do Thái đến dân ngoại và từ Giê-ru-sa-lem đến Rô-ma. nếu không có sách Công vụ chúng ta sẽ lật Kinh Thánh Tân Ước từ Phúc Âm Giăng đến thư Rô-ma và hỏi “Phúc Âm từ dân Do Thái ở Giê-ru-sa-lem đã từng đến với dân ngoại ở Rô-ma ra sao?”
Phao-lô đã để ”nhà mở cửa” và tiếp bất cứ ai muốn thảo luận những điều về Vương quốc của Đức Chúa Trời. Ông đã bị xích với một lính canh là người được giải thoát mỗi 6 giờ đồng hồ, nhưng là người bị buộc phải lắng nghe khi Phao-lô rao giảng, dạy dỗ và cầu nguyện. Đương nhiên một số người đã được cứu! (Phi 1:12-14 Phi 4:22).
Suốt hai năm ở Rô-ma, Phao-lô đã viết thư tín Phi-líp, Ê-phê-sô, Cô-lô-se và Phi-lê-môn.Ông mong được tha ra (Phi 1:22 Phi 1:23-27 Phi 2:24) và đa số các học giả Kinh Thánh đồng ý rằng ông đã được tha. Suốt thời gian này, ông có Ti-mô-thê ở cùng (Phi 1:1 Phi 2:19 Co 1:1) cũng như Giăng mác, Lu-ca, A-ri-tạc, Ê-pháp-ra, Giúc-tu và Đê-ma (Co 4:10-14 Phi 1:24). Ông cũng đã gặp người đầy tớ bỏ trốn của Phi-lê-môn là Ô-nê-sim và dẫn dắt người ấy đến đức tin trong Đấng Christ (Phi 1:10-21). Ép-ba-phô-đích đã đem đến cho ông một món quà từ Hội Thánh Phi-líp và suýt chết khi đang giúp đỡ Phao-lô (Phi 2:25-30 Phi 4:18). Ti-chi-cơ là “người đưa thư” của Phao-lô đã chuyển thư Ê-phê-sô (Phi 6:21), Cô-lô-se, và Phi-lê-môn (Co 4:7-9).
Bác sĩ Lu-ca đã kết thúc sách trước khi vụ kiện của Phao-lô được xử, nên ông không thể trình bày cho chúng ta những kết quả của cuộc xét xử. Chúng ta có mọi lý do để tin rằng Phao-lô thật đã được tha và ông đã tiếp tục chức vụ trở lại, có thể đi đến Tây-ban-nha (Ro 15:24,28). Suốt giai đoạn này (năm 63-66/67 SC), ông đã viết thư cho Ti-mô-thê và Tít. Ông đã để Tít ở lại Cơ-rết (Tit 1:5), Trô-phim đang ốm ở thành Mi-lê (IITi 4:20) và Ti-mô-thê ở Ê-phê-sô (ITi 1:3). Ông có kế hoạch thăm viếng một số người giúp đỡ ông ở thành Ni-cô-bô-li (Tit 3:12-13) sau khi ông đã thăm viếng một số Hội Thánh do ông thành lập. Bất cứ nơi đâu ông đi, ông tìm cách đem dân Do Thái và dân ngoại đến với đức tin trong Đấng Christ.
Ông đã bị bắt lần nữa, có thể khoảng năm 67, và lần này hoàn cảnh của ông đã thay đổi cách nghiêm trọng. Ông không sống trong nhà, nhưng bị xiềng trong ngục và bị đối xử như một tội phạm (IITi 1:16 IITi 2:9). Mùa đông sắp đến, ông yêu cầu Ti-mô-thê đem cho ông áo choàng (IITi 4:13). Nhưng điều buồn nhất về sự giam cầm lần thứ hai này là việc ông bị các tín đồ ở Rô-ma bỏ rơi (IITi 4:16-17). Vị sứ đồ cao trọng đối với dân ngoại đã bị bỏ bởi chính dân mà ông đã đến giúp đỡ.
Cả Đê-ma cũng bỏ rơi ông, và chỉ có Lu-ca ở cùng ông (IITi 4:1011). Gia đình của Ô-nê-si-phô-rơ đã giúp cho những nhu cầu của ông (IITi 1:16-18), nhưng ông mong mỏi Ti-mô-thê và Mác đến ở với ông (IITi 1:4 IITi 4:9,21). Phao-lô biết rằng sự cuối cùng sắp đến (IITi 4:6-8). Truyền thống cho chúng ta biết rằng ông đã bị xử chém tại Rô-ma vào năm 67/68 SC.
Lu-ca đã không viết sách chỉ để ghi lại lịch sử cổ đại. Ông viết để khích lệ Hội Thánh ở mỗi thời đại trung tín với chúa và đem Phúc Âm đến đầu cùng trái đất.Charles Spurgeon đã nói: “Điều đã được bắt đầu bằng quá nhiều chủ nghĩa anh hùng phải được tiếp tục bằng sự sốt sắng nóng cháy, vì chúng ta tin chắc rằng chính Chúa toàn năng vẫn thực hiện những dự định trên trời của Ngài”.
“Này ta ở cùng các ngươi luôn”
Vậy, hãy bạo dạn!
bottom of page