top of page
1. SẲN SÀNG ĐẾN RÔ-MA (Rô 1:1-17)
Vào...
...ngày 24 tháng 5 năm 1738, một giáo sĩ chán nản “miễn cưỡng” đến dự một hội đồng tôn giáo tại Luân-đôn. Có một phép lạ xảy ra. Ông ta viết trong nhật ký của mình, “Khoảng trước chín giờ thiếu mười lăm phút, tôi thấy lòng mình ấm áp lạ kỳ. Tôi cảm nhận rằng tôi đã tin cậy vào Đấng Christ, chỉ một mình Ngài, để nhận ơn cứu rỗi và Ngài bảo đảm với tôi rằng Ngài đã cất đi mọi tội lỗi tôi, và cứu tôi thoát khỏi luật pháp của tội lỗi và sự chết”.
Vị giáo sĩ ấy là John Wesley. Sứ điệp ông nghe tối hôm đó là lời mở đầu trong sách giải nghĩa thư Rô-ma của Martin Luther. Trước đó vài tháng, Wesley viết trong nhật ký của mình: “Tôi đến Hoa Kỳ để truyền đạo cho người da đỏ nhưng than ôi! ai sẽ cứu tôi?” Đêm đó tại phố Aldersgate, câu hỏi của ông đã được giải đáp. Và kết quả là cơn Phấn Hưng Wesley vĩ đại đã tràn khắp Anh Quốc và thay đổi đất nước này.
Thư Phao-lô gởi cho người Rô-ma vẫn đang biến đổi đời sống nhiều người, giống như đã thay đổi lòng của Martin Luther và John Wesley vậy. Trên hết thảy các câu Kinh Thánh khác đã đem Luther ra khỏi tôn giáo thuần túy vào trong niềm vui mừng về ơn cứu rỗi do ân điển bởi đức tin đó là Rô 1:17: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin”.
Giáo hội Tin Lành Cải Chánh và Cơn Phấn Hưng của Wesley là kết quả của bức thư kỳ diệu do Phao-lô viết tại Cô-rinh-tô khoảng năm 56 sau Chúa. Bức thư được chuyển đến cho các tín hữu tại Rô-ma do một trong những chấp sự của Hội thánh tại Xen-cơ-rê, Chị Phê-bê (Rô 16:1)
Hãy hình dung đi! Bạn và tôi có thể đọc và nghiên cứu cùng một bức thư được Thánh Linh hà hơi mang lại sự sống và quyền năng cho Luther và Wesley! Và cùng một Đức Thánh Linh đã dạy dỗ họ cũng có thể dạy bảo chúng ta nữa! Bạn và tôi có thể từng trải sự phấn hưng trong tấm lòng mình, trong gia đình mình và Hội thánh nếu sứ điệp của bức thư này thu hút chúng ta như đã thu hút những người có đức tin trong nhiều thế kỷ qua.
Trong những câu mở đầu của bức thư, Phao-lô tự giới thiệu về mình cho các tín hữu tại Rô-ma. Chắc chắn một số trong họ biết rõ về vị sứ đồ, vì ông chào thăm họ trong chương cuối nhưng Phao-lô chưa hề gặp mặt nhiều người trong số ấy. Vì vậy, trong 17 câu mở đầu này, Phao-lô dùng ba cách để cố gắng tự gắn bó mình với độc giả Rô-ma của ông.
1. Ông giới thiệu những quyền hạn của ông (Rô 1:1-7)
Vào thời xưa, người viết thư luôn mở đầu bằng tên của mình. Nhưng thời đó có nhiều người mang tên Phao-lô, vì vậy tác giả phải tự bày tỏ mình và thuyết phục người đọc biết rằng ông có quyền gởi thư này. Phao-lô có những quyền hạn nào?
a. Ông là tôi tớ của Chúa Giê-xu Christ (Rô 1:1a)
- Phao-lô dùng chữ tôi tớ có ý nghĩa đối với người Rô-ma, vì đó là chữ nô lệ. Người ta ước tính có sáu triệu nô lệ trong đế quốc Rô-ma nô lệ được người ta xem như một tài sản, chớ không phải con người. Bằng tấm lòng tận hiến cho Chúa, Phao-lô tự đặt mình làm nô lệ cho Đấng Christ, làm tôi tớ của Ngài và vâng theo ý chỉ của Ngài.
b. Ông là một sứ-đồ (Ro 1:1b)
Chữ này có nghĩa “người được uỷ quyền làm một sứ mạng”. Trong thời đó sứ mạng ấy được áp dụng cho các đại diện của hoàng đế hoặc các sứ thần của nhà vua. Một trong những yêu cầu đòi hỏi người làm chức sứ đồ là phải có kinh nghiệm nhìn thấy Đấng Christ sống lại (ICôr 9:1-2).
Phao-lô nhìn thấy Đấng Christ đang trên đường đến Đa-mách (Công 9:1-9), và lúc ấy chính Đấng Christ đã gọi ông làm sứ đồ cho dân ngoại. Phao-lô nhận lãnh sự bày tỏ thiên thượng từ Đấng Christ và ông có bổn phận phải chia sẻ lại cho các Hội thánh.
c. Ông là người giảng Phúc-Âm (Rô 1:1c-4)
- Khi còn là ra-bi Do-thái, Phao-lô được biệt riêng ra làm người Pha-ri-si cho luật pháp và truyền thống của người Do-thái. Nhưng khi đầu phục Đấng Christ, ông được biệt riêng ra cho chức vụ rao giảng Phúc-Âm.
Phúc-Âm có nghĩa “Tin tức tốt lành”. Đó là sứ điệp Chúa Giê-xu chịu chết thay tội lỗi chúng ta, bị chôn, và sống lại, hiện nay có quyền năng cứu chuộc tất cả mọi người để lòng tin cậy Ngài (ICôr 15:1-4). Đó là “Phúc-Âm của Đức Chúa Trời” (Rô 1:1) vì Phúc-Âm ấy bắt nguồn từ Đức Chúa Trời chớ không phải do con người phát minh ra. Đó là “Phúc-Âm của Chúa Giê-xu Christ” (Rô 1:16) vì Phúc-Âm ấy tập trung vào Đấng Christ, Đấng Cứu Rỗi. Phao-lô cũng gọi Phúc-Âm ấy là “Phúc-Âm của Con Ngài” (Rô 1:9) cho thấy Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời! Trong Rô 16:25-26, Phao-lô gọi Phúc-Âm là “Phúc-Âm của tôi”.
Ở đây ông muốn nói ông coi trọng giáo lý của Hội thánh và địa vị của dân ngoại trong chức vụ của ông theo chương trình của Đức Chúa Trời.
Phúc-Âm không phải là sứ điệp mới nhưng Phúc-Âm đã được Đức Chúa Trời hứa trong Cựu-ước, bắt đầu trong Sa 3:15. Chắc chắn tiên tri Ê-sai đã rao giảng Phúc-Âm trong các phân đoạn như Es 1: 18 và các chương Es 53:1-12; Es 55:1-13. Sự cứu rỗi chúng ta có ngày nay đã được hứa bởi các đấng tiên tri, mặc dầu họ không hiểu hết những gì họ nói và viết (IPhi 1:10-12).
Chúa Giê-xu Christ là trung tâm của sứ điệp Phúc-Âm. Phao-lô nhận biết Ngài là một con người, một người Do-thái, và là Con Đức Chúa Trời. Ngài được sanh ra bởi nữ đồng trinh (Es 7:14; Mat 1:18-25) thuộc dòng dõi Đa-vít, điều này khiến Ngài có quyền trên ngôi Đa-vít. Ngài chết thay cho tội lỗi thế gian, sau đó Ngài từ kẻ chết sống lại. Chính sự chết thay kỳ diệu và sự sống lại vinh hiển của Ngài đã làm nên Phúc-Âm và đây chính là Phúc-Âm Phao-lô rao giảng.
d. Ông là nhà truyền giáo cho dân ngoại (Rô 1:5-7) - Truyền giáo là chữ “sứ-đồ viết theo tiếng La-tinh - người được sai đi”. Có thể có nhiều tập thể con cái Chúa tại Rô-ma nhưng chẳng có nhà thờ nào cả, vì trong Rô-ma chương 16 Phao-lô chào thăm môt số “Hội thánh nhóm tại nhà riêng” (Rô 16:5,10,11,14). Chúng ta không biết chắc các Hội thánh này bắt đầu như thế nào, nhưng rất có thể các tín hữu từ Rô-ma có mặt tại lễ Ngũ Tuần đã thành lập các Hội thánh trong chuyến họ trở về Rô-ma. (Công 2:10).
Cả người Do-thái lẫn ngoại bang cùng tham dự trong mối thông công này, vì trong bức thư Phao-lô gởi cho cả hai. (Cho người Do-thái Rô 2:17-29; Rô 4:1; Rô 7:1. Cho dân ngoại:1:13; Rô 11:13-24; Rô 15:15-21). Các Hội thánh tại Rô-ma không do Phi-e-rơ hoặc bất cứ sứ-đồ nào khác thành lập.
Nếu các Hội thánh ấy đã được thành lập, chắc chắn Phao-lô đã không có chương trình đến thăm Rô-ma, vì chủ trương của ông là chỉ thi hành chức vụ nơi chưa có sứ đồ nào khác đến rao giảng (Rô 15:20-21).
Hãy lưu ý sự lặp lại của chữ được gọi : Phao-lô được gọi làm sứ-đồ con cái Chúa được gọi thuộc về Chúa Giê-xu Christ và họ còn được gọi làm thánh-đồ. (Không phải trở nên thánh đồ vì họ đã là thánh đồ rồi! Thánh-đồ là người được biệt riêng ra, người tin cậy Chúa Giê-xu Christ được biệt riêng ra và là thánh-đồ). Sự cứu rỗi không phải là điều chúng ta làm cho Đức Chúa Trời nhưng chính Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta trong ân điển Ngài (IITês 2:13-14). Khi tin nhận Đấng Christ, bạn được cứu bởi hồng ân của Ngài và kinh nghiệm được sự bình an của Ngài.
Phao-lô được Đức Chúa Trời đặc biệt giao phó đem Phúc-Âm đến cho dân ngoại (chữ các dân tộc có nghĩa là dân ngoại bang), và đây là lý do tại sao ông có kế hoạch đến Rô-ma, thủ đô của toàn đế quốc. Ông là người truyền rao Phúc-Âm, và Phúc-Âm ấy dành cho mọi dân tộc. Thực ra, Phao-lô nóng lòng đi đến Tây-ban-Nha để rao giảng về Đấng Christ tại đó (Rô 15:28).
Giới thiệu xong về các quyền hạn của mình, Phao-lô chuyển sang tạo dựng mối quan hệ thứ hai giữa bản thân ông và con cái Chúa tại Rô-ma.
2. Ông bày tỏ lòng quan tâm (Rô 1:8-15)
Chúng ta có thể hiểu rõ mối quan tâm của Phao-lô đối với các Hội thánh ông đã thành lập, nhưng tại sao ông lại quan tâm đến các con cái Chúa tại Rô-ma? Nhiều người trong số họ không biết ông, tuy nhiên ông muốn bảo đảm với họ ông quan tâm sâu sắc về lợi ích của họ. Hãy lưu ý các bằng chứng nói về lòng quan tâm của Phao-lô.
a. Ông biết ơn Chúa vì họ (Rô 1:8)
- “cả thế gian” - có nghĩa toàn đế quốc Rô-ma - biết về đức tin của con cái Chúa tại Rô-ma. Vào thời ấy việc đi lại tương đối phổ biến và “mọi con đường đều dẫn đến Rô-ma”. Chẳng có gì ngạc nhiên khi tiếng đồn về Hội thánh lan truyền ra nước ngoài, lời chứng này lan nhanh làm cho chức vụ của Phao-lô càng dễ dàng hơn khi ông đi từ nơi này đến nơi khác, và có thể cho thấy lời chứng này phát ra từ trung tâm của Đế Quốc Rô-ma đi các nơi.
b. Ông cầu thay cho họ (Rô 1:9-10)
- Họ không biết Phao-lô ủng hộ họ bằng lời cầu nguyện, nhưng Chúa biết và coi trọng điều đó. (Tôi thắc mắc không biết có bao nhiêu người trong chúng ta biết người khác đang cầu thay cho chúng ta không?) Một trong những điều Phao-lô mong mỏi trong lời cầu thay đó là Đức Chúa Trời sẽ cho phép ông viếng thăm Rô-ma và hầu việc Chúa với các Hội thánh tại đó.
Đáng lẽ ông đã thăm viếng Hội thánh tại Rô-ma sớm hơn, nhưng công việc truyền giáo làm ông luôn bận rộn (Rô 15:15-33). Ông sắp rời Cô-rinh-tô đến Giê-ru-sa-lem để chuyển giao số tiền dâng đặc biệt ông nhận nơi các Hội thánh ngoại bang gởi cho các thánh đồ nghèo người Do-thái. Ông hi vọng có thể từ Giê-ru-sa-lem đi thẳng đến Rô-ma, sau đó tiếp tục đi Tây Ban Nha ông mong ước có một chuyến đi thuận lợi.
Thực ra, Phao-lô đã trải qua một chuyến đi nguy hiểm ông đã đến Rô-ma vừa làm người tù vừa làm người giảng Phúc-Âm. Tại Giê-ru-sa-lem ông bị bắt trong đền thờ, bị các bậc cầm quyền Do-thái vu oan và cuối cùng đày đến Rô-ma làm tù nhân trong nhà ngục của Đế quốc, bị xử án trước mặt hoàng đế Sê-sa.
Khi Phao-lô viết thư này, ông không có ý nói rằng ông sẽ trải qua cảnh tù đày và thậm chí còn bị chìm tàu trước khi đến Rô-ma! Vào cuối bức thư (Rô 15:30-33), ông yêu cầu con cái Chúa tại Rô-ma cầu thay cho ông khi dự tính cho chuyến đi này và thật là tốt lành khi họ đã cầu nguyện cho ông!
c. Ông yêu thương họ (Rô 1:11-12) -
“Tôi mong mỏi đến thăm anh em!” Đây là tấm lòng của người chăn bầy có trong Phao-lô, nhà truyền giáo vĩ đại. Phao-lô rất yêu quí một số thánh đồ tại Rô-ma như A-qui-la và Bê-rít-sin (Rô 16:3-4), những người đã liều mạng sống mình vì ông “Bẹt-si-đơ rất yêu dấu” (Rô 16: 12) và nhiều người khác đã làm việc và chịu khổ với Phao-lô.
Nhưng ông cũng yêu thương các tín hữu ông không biết, và ông mong mỏi chia sẻ ơn phước thuộc linh với họ. Ông đang trông đợi đến dịp được thông công phước hạnh trong tình yêu của Đấng Christ.
d. Ông mắc nợ họ (Rô 1:13-14)
- Là vị sứ-đồ cho dân ngoại, Phao-lô có bổn phận hầu việc Chúa tại Rô-ma. Đáng lẽ ông đã làm trọn bổn phận ấy sớm hơn, nhưng các công việc khác đã ngăn trở ông. Thỉnh thoảng Phao-lô bị ngăn trở vì công việc của Sa-tan (ITês 2:17-20) nhưng trong trường hợp này ông bị ngăn trở vì công việc Chúa.
Có nhiều việc phải làm tại Tiểu Á và Hy-lạp đến nỗi ông không thể rãnh rỗi để đi ngay đến Rô-ma được. Nhưng Phao-lô phải trả xong nợ yêu thương của mình cho nên ông làm theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.
Người Hy-lạp xem mọi người không phải người Hy-lạp là người man rợ. Chìm ngập trong triết lý trải qua nhiều thế kỷ, người Hy-lạp tự cho mình là khôn ngoan và mọi người khác đều ngu dốt. Nhưng Phao-lô cảm thấy có trách nhiệm với tất cả mọi người, giống như chúng ta cần phải cưu mang cả thế giới. Phao-lô không thể thoát khỏi nợ cho đến khi ông nói cho nhiều người nghe về Phúc-Âm Cứu Rỗi trong Đấng Christ càng nhiều càng tốt.
e. Ông sẵn lòng đến thăm họ (Rô 1:15)
- Trong bản Kinh Thánh King James có hai chữ khác nhau trong tiếng Hy-lạp được dịch là “sẵn sàng”. Một chữ có nghĩa là “sẵn lòng” chép trong Công 21:13 “Tôi sẵn lòng vì danh Chúa Giê-xu Christ chịu chết tại Giê-ru-sa-lem.” Chữ còn lại, được dùng trong Rô 1:15 có nghĩa “tha thiết, mong ước”.
Phao-lô không mong chết, mặc dầu ông sắp phải chết. Nhưng ông tha thiết mong ước viếng thăm Rô-ma để có thể hầu việc Chúa giữa vòng con cái Chúa tại đó. Đó không phải là nỗi mong ước gặp mặt, nhưng là nỗi mong đợi của người chinh phục linh hồn tội nhân.
Sau khi đọc năm bằng chứng về mối quan tâm của Phao-lô dành cho con cái Chúa tại Rô-ma, các thánh-đồ không thể không dâng lên lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì sứ đồ Phao-lô và mong mỏi của ông đến hầu việc Chúa giữa vòng họ.
Thực ra, Phao-lô đã giải thích Phúc-Âm ông rao giảng trong thư gởi cho người Rô-ma là bức thư chuẩn bị tinh thần các tín hữu cho chuyến viếng thăm của ông. Chắc chắn các giáo sư giả đã đến Rô-ma tìm cách đầu độc tín hữu chống lại Phao-lô (xem Rô 3:8). Một số cáo buộc Phao-lô đã chống lại luật pháp số khác nói rằng ông là kẻ phản bội dân tộc Do-thái. Còn số khác nữa xuyên tạc lời giảng dạy của ông về ân điển và ra sức chứng minh rằng Phao-lô đã dạy cách sống tự do. Vì vậy không lạ gì khi Phao-lô mong mỏi đến thăm Rô-ma! Ông muốn chia sẻ với họ về sự trọn vẹn của Phúc-Âm Đấng Christ.
Nhưng liệu Phúc-Âm của Đấng Christ có hành động trong thành phố Rô-ma rộng lớn như đã xảy ra tại các nơi khác không? Phao-lô sẽ thành công hay thất bại tại đó? Rất có thể vị sứ đồ cảm nhận những chống đối này và tự hỏi trong suy nghĩ, đó là lý do tại sao ông tạo mối liên hệ thứ ba giữa ông và độc giả của ông.
3. Ông khẳng định sự tin tưởng của mình (Rô 1:16-17)
Thật là một lời chứng: “Tôi mắc nợ! Tôi mong mỏí! Tôi không hổ thẹn!”. Tại sao ngay cả Phao-lô cũng bị cám dỗ hổ thẹn về Phúc-Âm khi ông suy nghĩ về chuyến đi đến Rô-ma của mình? Trước tiên, Phúc-Âm có liên quan đến một người thợ mộc Do-thái nghèo đã bị người ta đóng đinh trên thập tự giá. Người Rô-ma không mặn nồng gì đối với người Do-thái, và hình án đóng đinh là hình thức xử tử thấp hèn nhất dành cho tội phạm. Tại sao bạn đặt lòng tin vào một người Do-thái bị đóng đinh?
Rô-ma là thành phố kiêu căng, và Phúc-Âm đến từ thành Giê-ru-sa-lem là thủ đô của một trong những nước nhược tiểu do Rô-ma thống trị. Con cái Chúa vào thời ấy không thuộc vào số người ưu tú trong xã hội họ là những thường dân thậm chí còn là nô lệ. Thành phố Rô-ma đã biết đến nhiều triết gia vĩ đại và các triết lý hay tại sao lại phải lưu tâm đến một truyền thuyết về một người Do-thái đã từ kẻ chết sống lại? (ICôr 1:18-25).
Cơ-đốc nhân nhìn nhận nhau như anh em chị em, tất cả hiệp một trong Đấng Christ chống lại mầm mống kiêu ngạo và phẩm hạnh của người Rô-ma. Suy nghĩ về một người may trại Do-thái nhỏ bé, đang trên đường đến Rô-ma để rao giảng sứ điệp hầu như là chuyện khôi hài.
Nhưng Phao-lô không xấu hổ về Phúc-Âm. Ông tin tưởng về sứ điệp ông rao giảng, và ông cho chúng ta một số lý do giải thích tại sao ông không hổ thẹn.
a. Căn nguyên của Phúc-Âm: Đó là Phúc-Âm của Đấng Christ (Rô 1:16a)
-Bất kỳ sứ điệp nào do Sê-sa tuyên báo cũng đều được người dân Rô-ma chú ý. Nhưng sứ điệp Phúc-Âm đến từ Con Đức Chúa Trời và về chính Ngài! Trong câu mở đầu, Phao-lô gọi sứ điệp này là “Phúc-Âm của Đức Chúa Trời” (Rô 1:1). Làm thế nào Phao-lô lại có thể xấu hổ về một Phúc-Âm đến từ Đức Chúa Trời và tập trung vào Con Ngài là Chúa Giê-xu Christ được?
Suốt những năm trung học, tôi được bầu làm học sinh phụ trách văn phòng, các học sinh khác phụ trách hội trường ngồi tại các trạm khác nhau chung quanh trường, nhưng tôi được giao nhiệm vụ ngồi ngay cạnh cửa ra vào văn phòng nhà trường. Tôi được uỷ thác phải truyền đạt các thông tin đến cho các thầy cô giáo và đội ngũ nhân viên trong trường, có khi còn đi đến các trường khác nữa.
Tôi bảo đảm với bạn rằng, thật vui mỗi khi bước vào lớp học lại còn cắt ngang giờ học nữa chớ! Chẳng có thầy cô nào rầy la tôi cả, vì tất cả họ đều biết rằng tôi mang thông báo của thầy hiệu trưởng đến. Tôi chưa hề e ngại hoặc xấu hổ, vì tôi biết xuất xứ của các thông điệp tôi đang chuyển đến nơi nhận.
b. Hoạt động của Phúc-Âm: Đó là quyền năng của Đức Chúa Trời (Rô 1:16b)
- Tại sao lại hổ thẹn về quyền phép? Quyền năng là điều người Rô-ma rất hãnh diện. Có thể người Hy-lạp có triết lý, nhưng người Rô-ma có quyền năng. Nỗi sợ hãi người Rô-ma lởn vởn trên đầu trong khắp cả đế quốc như đám mây. Họ không phải là người chiến thắng ư? Không phải các đoàn quân La-mã đồn trú khắp nơi sao? Nhưng có tất cả binh lực trong tay, Rô-ma vẫn là một đất nước yếu.
Triết gia Seneca gọi thành phố Rô-ma là “hang ổ gian ác” nhà văn Juvenal gọi nó là “cống ô uế chảy trong đó chứa đầy những chất cặn bã của trận lụt trong toàn đế quốc”.
Phao-lô không hổ thẹn là điều chẳng gì ngạc nhiên: ông đang đem đến cho thành phố Rô-ma tội lỗi một sứ điệp có quyền năng thay đổi đời sống con người! Ông đã chứng kiến công việc của Phúc-Âm làm ra tại các thành phố gian ác khác như Cô-rinh-tô và Ê-phê-sô và ông tin tưởng rằng Phúc-Âm sẽ hành động tại Rô-ma. Phúc-Âm đã biến đổi cuộc đời riêng tư của ông, và ông biết Phúc-Âm có thể biến cải cuộc đời của người khác. Còn có lý do thứ ba cho biết tại sao Phao-lô không hổ thẹn.
c. Kết quả của Phúc-Âm: đó là quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin (Ro 1:16c)
- Chữ “cứu rỗi” chứa đựng ý nghĩa lớn lao trong thời của Phao-lô. Ý nghĩa cơ bản ấy là “sự giải thoát”, giải thoát cho cá nhân và cho đất nước. Vị hoàng đế trị vì đang được xem như là vị cứu tinh, giống như bác sĩ cứu chữa bạn khỏi tật bệnh. Phúc Âm giải thoát tội nhân ra khỏi sự đoán phạt của sự chết và quyền lực của tội lỗi. “Cứu rỗi” là chủ đề chính trong bức thư này ơn cứu rỗi là nhu cầu lớn lao của con loài ngươì. (Rô 10:1,9-10). Nếu con người được Đức Chúa Trời cứu rỗi linh hồn, chắc chắn họ phải tuyên xưng đức tin vào Chúa Giê-xu Christ như Phúc-Âm rao báo.
d. Sự hoạt động của Phúc-Âm: “mọi kẻ tin” (Rô 1:16d)
- Đây không phải là sứ điệp dành riêng cho người Do-thái hay dân ngoại Phúc-Âm ấy dành cho tất cả mọi người, vì mọi người đều cần phải được cứu rỗi. “Hãy đi khắp thế gian giảng Phúc-Âm cho mọi người” là mạng lệnh Đấng Christ đã truyền (Ro Mac16:15). “Trước là người Do-thái” không có ý nói là người Do-thái tốt hơn dân ngoại bang vì “chẳng có sự khác biệt nào” trong sự đoán phạt hoặc sự cứu rỗi (Rô 2:6-11; Rô 10:9-13). Phúc-Âm đến “ngươì Do-thái trước” trong chức vụ của Chúa Giê-xu Christ (Mat 10:5-7) và các sứ-đồ (Công 3:26). Thật lạ lùng khi có một sứ điệp quyền năng có thể mang đến cho tất cả mọi ngườí!
Đức Chúa Trời không đòi hỏi con người phải cư xử tốt, nhưng phải tin. Chính đức tin nơi Đấng Christ đã cứu rỗi tội nhân. Sự sống đời đời trong Đấng Christ là quà tặng dành cho tất cả mọi người, cho dù nhu cầu của họ hoặc tình trạng của họ trong cuộc sống có là gì đi nữa.
Rô 1:17 là câu chìa khoá của bức thư. Qua câu Kinh Thánh ấy Phao-lô nêu ra chủ đề: “sự công bình của Đức Chúa Trời”. Chữ “công bình” được dùng cách này hay cách khác trên sáu mươi lần trong bức thư (công bình, xưng nghĩa, được kể là công bình).
Sự công bình của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Phúc-Âm vì trong sự chết của Chúa Giê-xu Christ, Đức Chúa Trời đã đoán phạt tội lỗi để bày tỏ đức công bình của Ngài và trong sự sống lại của Đấng Christ, Ngài bày tỏ sự công bình bằng cách sắm sẵn ơn cứu rỗi cho tất cả mọi tội nhân tin Ngài.
Vấn đề: “Làm thế nào Đức Chúa Trời thánh khiết lại có thể tha thứ cho tội nhân mà vẫn là Đấng Thánh Khiết?” được giải đáp trong Phúc-Âm. Bởi sự chết và sống lại của Đấng Christ, chúng ta thấy Đức Chúa Trời là “công bình và Đấng xưng công bình” (Rô 3:26).
Phúc-Âm tỏ bày sự công bình có được bởi đức tin. Trong Cựu-ước, công bình là do việc làm, nhưng chẳng bao lâu tội nhân phát hiện ra họ không thể vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời và thỏa mãn được những đòi hỏi công bình của Đức Chúa Trời.
Ở đây Phao-lô liên hệ đến Ha 2:4: “Người công bình sống bởi đức tin”. Câu Kinh Thánh được trích dẫn ba lần trong Tân-ước: Rô 1:17; Ga 3:11; He 10:38.
Thư Rô-ma giải thích “người công bình” Thư Ga-la-ti giải thích “Sẽ sống” và thư Hê-bơ-rơ giải thích “bởi đức tin”.
Có trên 60 mươi lần đề cập đến đức tin hoặc sự không tin trong thư Rô-ma, vì phương cách duy nhất tội nhân có thể trở nên công bình trước mặt Đức Chúa Trời là “bởi đức tin”.
Nếu vào thời điểm này Phao-lô đưa bố cục vào trong bức thư, ắt hẳn bố cục sẽ như sau:
Chủ đề: Sự công bình của Đức Chúa Trời.
Nội dung: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin”
Giới thiệu- Rô 1:1-17
I. TỘI LỖI - Đức Chúa Trời đòi hỏi sự công bình Rô 1:18-3:20
1.Dân ngoại phạm tội - Rô 1:18-32
2.Dân Do-thái phạm tội - Rô 2:1-3:8
3.Toàn thế giới phạm tội - Rô 3:9-20
II. SỰ CỨU RỖI - Đức Chúa Trời công bố sự công bình - Rô 3:21-5:21
1. Sự công bình được Kinh Thánh làm chứng - Rô 3:21-31
2. Sự công bình được minh hoạ trong Áp-ra-ham - Rô 4:1-25
3. Sự công bình được giải thích trong A-đam - Rô 5:1-21
III. SỰ NÊN THÁNH - Đức Chúa Trời được bảo vệ - Rô 6:1-8:39
1. Chiến thắng - xác thịt - Rô 6:1-23
2. Tự do - Luật pháp - Rô 7:1-25
3. Sự đảm bảo – Thánh Linh - Rô 8:1-39
IV. QUYỀN TỂ TRỊ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI - Sự công bình bị từ chối - Rô 9:1-11:36
1. Sự giàu có của Y-sơ-ra-ên trong quá khứ - Rô 9:1-33
2. Sự loại bỏ Y-sơ-ra-ên trong hiện tại - Rô 10:1-21
3. Sự phục hồi Y-sơ-ra-ên trong tương lai - Rô 11:1-36
V. PHỤC VỤ - Thể hiện sự công bình - Rô 12:1-15:7
1. Trong thân thể Hội thánh - Ro 12:1-21
2. Trong Xã hội - Rô 13:1-14
3. Hướng về tín hữu yếu đuối - Rô 14:1-15:7
Lời kết luận:- Rô 15:8-16:27
Khi nghiên cứu thư Rô-ma, bạn sẽ bước vào toà án. Trước hết, Phao-lô gọi người Do-thái và ngoại bang đến đứng trước mặt Đức Chúa Trời và cả hai nhận biết mình có tội trước mặt Ngài. Sau đó ông giải thích phương cách cứu rỗi lạ lùng của Đức Chúa Trời - xưng công bình bởi đức tin.
Tại đây, ông trả lời cho những kẻ cáo buộc Ngài và bênh vực cho ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Họ kêu lên “Kế hoạch này sẽ khuyến khích người ta phạm tội! Điều đó chống lại chính luật pháp Đức Chúa Trời!” Nhưng Phao-lô bác bỏ điều đó, và trong khi làm như vậy ông giải thích cách nào con cái Chúa có thể kinh nghiệm sự đắc thắng, tự do, và được bảo vệ.
Các chương 9 -11 không phải là những chương thêm vào hoặc đi sang hướng khác. Trong các Hội thánh tại Rô-ma có nhiều tín hữu Do-thái và họ thường thắc mắc, “Thế còn dân Y-sơ-ra-ên thì sao? Sự công bình của Đức Chúa Trời liên quan với họ như thế nào trong thời đại Hội thánh?”. Trong ba chương này, Phao-lô cung cấp cho chúng ta lịch sử đầy đủ về dân Y-sơ-ra-ên trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Sau đó ông rút ra những kết quả thực tiễn của sự công bình Đức Chúa Trời trong nếp sống người tin Chúa. Điều này bắt đầu bằng sự dâng mình cho Đức Chúa Trời (Rô 12:1-2), tiếp đến bằng sự hầu việc trong Hội thánh (Rô 12:3-21), và sự vâng phục bậc cầm quyền (Ro 13:1-14). Ông cũng dạy người Do-thái lẫn ngoại bang, cả mạnh lẫn yếu, cách sống hoà hợp và vui vẻ với nhau. Trong phần kết thúc (Rô 15:14-16: 27), Phao-lô giải thích các chương trình của ông và ông chào thăm các bạn hữu của mình.
Khi tổng kết những gì viết trong thư, thư Rô-ma có ý muốn dạy chúng ta - “Hãy trở nên công bình! ” Công bình với Đức Chúa Trời, công bình với chính mình, và với người khác! Sự công bình của Đức Chúa Trời đến bởi đức tin có thể giúp chúng ta sống nếp sống ngay thẳng. Người Rô-ma cần sứ điệp này, ngày nay chúng ta cũng cần đến: Hãy sống công bình!
2. KHI ĐỨC CHÚA TRỜI BỎ MẶC (Rô 1:18-3:8
“Hỡi anh em hãy nghe! Hỡi anh em hãy nghe! Phiên toà đang nhóm họp!” Có thể lúc này Phao-lô đã dùng những chữ đáng sợ ấy trong bức thư của ông, vì Rô 1:18 là cánh cửa dẫn chúng ta vào phòng xử án của Đức Chúa Trời. Chủ đề thư Rô-ma là sự công bình của Đức Chúa Trời, nhưng Phao-lô phải bắt đầu bằng sự không công bình của con người. Cho đến khi con người biết mình là tội nhân, họ mới cảm biết ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho trong Chúa Giê-xu Christ. Phao-lô theo kiễu mẫu căn bản trong Kinh Thánh: đầu tiên là Luật- pháp và án phạt sau đó là ân điển và cứu rỗi.
Trong phần này, Đức Chúa Trời rao ra ba lời phán dạy chứng tỏ rằng mọi người đều là tội nhân và hết thảy đều cần đến Chúa Giê-xu Christ.
1. Thế giới ngoại bang phạm tội! (Rô 1:18-32)
Ở đây Phao-lô vẽ lên bức tranh thật tồi tệ. Tôi thú nhận rằng tôi không thích lái xe ngang qua một số khu vực tại Chicago, và tránh tiếp xúc nếu tôi có thể. Việc tôi lẩn tránh không làm thay đổi họ hoặc loại bỏ họ. Lời Đức Chúa Trời mô tả về tội nhân không phải là lời tốt đẹp gì, nhưng chúng ta không thể tránh né được.
Phần này không dạy về sự tiến hóa (con người bắt đầu từ thấp và tiến dần lên cao), nhưng dạy về sự thoái hoá: con người bắt đầu cao trọng và vì cớ phạm tội đã lún sâu xuống địa vị thấp hèn hơn thú vật. Bốn giai đoạn đánh dấu sự suy đồi thảm hại của con người.
a. Khôn ngoan (Rô 1:18-20)
- Lịch sử loài người bắt đầu bằng con người biết Đức Chúa Trời. Lịch sử nhân loại không phải là câu chuyện nói về một con vật thờ lạy thần tượng, và rồi tiến hóa thành con người thờ lạy Đức Chúa Trời.
Lịch sử loài người chỉ là sự đối nghịch: con người bắt đầu biết Đức Chúa Trời, nhưng đã lìa xa chân lý và chối bỏ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài cho con người qua sự sáng tạo, những vật Ngài làm nên.
Qua thế giới chung quanh mình, con ngươì biết rằng có một Đức Chúa Trời khôn ngoan và quyền năng tạo dựng nên vũ trụ. Con người cũng nhận biết rằng “Đấng Sáng Tạo còn đời đời... Quyền năng đời đời và bổn tánh Ngài” (Rô 1:20), vì Đức Chúa Trời không thể được tạo nên nếu Ngài là Đấng Sáng Tạo.
Trong sự sáng tạo bày tỏ rõ ràng các sự kiện nói về Đức Chúa Trời chúng “sờ sờ như mắt xem thấy” (Rô 1:20). “Các tầng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi 19:1).
Chữ “bắt hiếp” trong câu 18 cũng có thể dịch là “áp bức, đàn áp”. Con người biết chân lý về Đức Chúa Trời, nhưng họ không để cho những chân lý này hành động trong đời sống của họ. Họ bắt hiếp chân lý để có thể sống theo ý mình và không nghe theo lời của Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên, kết quả họ chối bỏ chân lý (Rô 1:21-22), và rồi đổi chân lý lấy sự dối trá (Rô 1:25). Cuối cùng, con người lìa bỏ chân lý đến nỗi suy nghĩ và sống động giống như con vật.
b. Lòng ngu dốt (Rô 1:21-23)
- Con người biết Đức Chúa Trời điều này thật rõ ràng. Nhưng con người không muốn biết Đức Chúa Trời hoặc không tôn xưng Ngài là Đức Chúa Trời. Thay vì biết ơn Ngài vì tất cả những gì Ngài ban cho, con người lại không tạ ơn Đức Chúa Trời hoặc ngợi khen danh Ngài như đáng phải làm. Con người sẵn lòng dùng ơn phước của Đức Chúa Trời, nhưng không bằng lòng thờ phượng và ngợi khen Ngài vì phước hạnh Ngài ban cho.
Kết quả đem lại cho con người tâm trí trống rỗng và tấm lòng tối tăm. Con người thờ phượng trở thành con người triết lý, nhưng sự khôn ngoan trống rỗng của con người chỉ bày tỏ sự ngu dại của họ mà thôi. Phao-lô tóm tắt tất cả lịch sử Hy-lạp trong một câu nói thật ấn tượng: “các đời ngu muội..” (Công 17:30). Vào thời điểm này thật đáng cho chúng ta đọc ICôr 1:18-31.
Đã bắt hiếp chân lý và từ chối không thừa nhận vinh quang của Đức Chúa Trời, con người lại thờ lạy thần tượng và bản chất con người là phải thờ lạy một điều gì đó. Nếu không thờ lạy Đức Chúa Trời chân thần, con người sẽ thờ lạy tà thần, ngay cả chính con người tạo ra tà thần ấy! Sự kiện nói về con người như thế này giải thích cho khuynh hướng thờ lạy thần tượng của họ. Con người đã đổi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời chân thần để lấy các thần tượng do chính họ làm nên. Họ đổi vinh hiển để lấy sự xấu hổ, đổi sự thánh khiết lấy băng hoại, đổi chân lý để lấy sự dối trá.
Hãy lưu ý đứng đầu trong danh sách các tà thần là con người. Điều này làm ứng nghiệm lời của Sa-tan khi nó nói với Ê-va, “Ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trờí!” (Sa 3:5). Sa-tan khuyến khích con người nói, “Vinh hiển con người ở nơi cao nhất!”. Thay vì con người được làm theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời, con người lại làm nên những thần tượng theo hình ảnh của riêng mình - để rồi hạ thấp xuống đến mức thờ lạy điểu thú côn trùng!
c. Sự mê đắm (Rô 1:24-27)
- Từ chỗ thờ lạy hình tượng đến loạn luân chỉ là một bước ngắn. Nếu con người là hình tượng của riêng mình, con người có thể làm bất cứ điều gì họ ưa thích và thỏa mãn các đòi hỏi mà không sợ đoán phạt. Chúng ta tiến đến cao điểm của trận chiến giữa con người với chân lý của Đức Chúa Trời khi con người hoán đổi chân lý của Đức Chúa Trời để lấy “điều dối trá” và hoàn toàn khướt từ chân lý.
“Điều dối trá” đó là con người là thần tượng của mình, và con người thờ lạy cung phụng cho chính mình chớ không thờ lạy và hầu việc Đấng Tạo Hoá. Chính Sa-tan đã dùng “lời dối trá” để dẫn Ê-va vào vòng tội lỗi tại vườn Ê-đen: “Ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trờí!”. Sa-tan luôn luôn muốn có được sự thờ lạy chỉ dành riêng cho Đức Chúa Trời (Mat 4:8-10) và trong sự thờ hình tượng, nó nhận lấy cách thờ lạy ấy (ICôr 10:19-21).
Kết quả việc tự sùng bái này là tự làm cho mình mê muội và ở đây Phao-lô đề cập một tội gớm ghiếc lan tràn trong ngày ấy và đang chiếm dần ưu thế trong thời đại chúng ta: tội đồng tính luyến ái. Tội này được Kinh Thánh lên án nhiều lần (Sa 18:20; ICôr 6:9-10; Giu 1:7). Phao-lô mô tả nó là “sự đồi bại” và “trái tự nhiên” cũng như “nghịch với tánh tự nhiên”. Không chỉ có đàn ông phạm tội luyến ái với nhau mà thôi, nhưng còn có “cả phụ nữ với nhau nữa”.
Vì tội lỗi của họ “Đức Chúa Trời đã lìa bỏ họ” (Rô 1: 24,26) có nghĩa Ngài cho phép họ tiếp tục trong tội lỗi mình và lãnh lấy hậu quả thảm hại. Họ nhận chịu “báo ứng xứng với điều lầm lỗi của mình” (Rô 1:27). Đây là ý nghĩa của Rô 1:18, “Cơn giận của Đức Chúa Trời từ trên trời tỏ ra...” (dịch theo nghĩa đen).
Đức Chúa Trời tỏ bày cơn giận của Ngài, không chỉ sai lửa từ trời giáng xuống, nhưng Ngài còn phó loài người tội lỗi đi theo con đường xấu xa của họ. Nhưng còn có một giai đoạn khác nữa.
d. Không ăn năn (Rô 1:28-32)
- Khi con người bắt đầu cảm nhận những hậu quả thảm hại của tội lỗi mình, chắc bạn nghĩ họ sẽ ăn năn và tìm kiếm Đức Chúa Trời nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại. Vì họ bị Đức Chúa Trời lìa bỏ, họ chỉ có thể trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Loài người không muốn lưu giữ Đức Chúa Trời trong sự hiểu biết của mình! Vì vậy, “Đức Chúa Trời đã phó họ...” lần này Ngài phó họ cho “lòng hư xấu” (Rô 1:28), nghĩa là tâm trí không thể hình thành những phán đoán đúng đắn được. Bây giờ họ tự phó mặc cho tội lỗi. Phao-lô nêu lên 24 tội lỗi cụ thể, tất cả đều hiện hữu với chúng ta ngày nay. (Để có những bảng liệt kê khác, (Mac 7:20-23; Ga 5:19-21; ITi 1:9-10; IITi 3:2-5).
Nhưng điều tệ hại nhất chưa xảy đến. Con người không chỉ công khai thách thức Đức Chúa Trời khi phạm những tội này, nhưng còn lôi kéo người khác và đồng tình khi họ phạm tội nữa. Con người quả thật đã sa ngã quá xa! Họ bắt đầu ngợi khen Đức Chúa Trời nhưng cuối cùng đổi vinh hiển ấy để lấy hình tượng hư không.
Ban đầu họ biết Đức Chúa Trời nhưng cuối cùng họ không còn giữ sự hiểu biết Đức Chúa Trời trong trí và tấm lòng mình. Ban đầu họ là tạo vật cao trọng nhất của Đức Chúa Trời, được làm nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời nhưng kết cuộc họ thấp hơn thú vật và côn trùng, vì họ thờ lạy chúng như thần tượng của mình. Lời tuyên án nào dành cho họ? “Họ không thể chữa mình được!” (Rô 1:20).
Phần Kinh Thánh này đưa ra bằng chứng súc tích cho thấy người ngoại bang bị hư mất. Giáo sĩ Anh Quốc Dan Crawford, nhà truyền giáo cho Châu Phi nói: “Người ngoại đạo đang phạm tội nghịch lại cơn lũ ánh sáng.” Đối với chúng ta nhu cầu bức thiết là phải mang Phúc-Âm đến cho tất cả mọi người, vì đây là phương cách duy nhất cứu rỗi được họ.
2. Thế giới người Do-thái phạm tội! (Rô 2:1-29; Rô 3:1-8)
(Ro 2:1-29). Các học giả Kinh Thánh không đồng ý về những người Phao-lô nhắc đến trong Rô 2:1-16. Một số cho là ông đang đề cập đến những người ngoại đạo không phạm những tội nêu trong Rô 1:18-32, nhưng họ tìm kiếm nếp sống đạo đức.
Nhưng theo tôi trong phần này Phao-lô đang nói tới các độc giả Do-thái của ông. Đầu tiên, ông bàn về luật pháp trong Rô 2:12-16 chắc chắn có ý nghĩa cho người Do-thái hơn người ngoại bang. Và trong Rô 2:17, ông công khai gởi đến cho người Do-thái. Đây là cách thưa gởi kỳ lạ nếu phần đầu của chương sách ông gởi đến cho người ngoại bang.
Tìm thấy người Do-thái phạm tội không phải là công việc dễ dàng, vì không vâng lời Đức Chúa Trời là một tội họ không muốn thừa nhận. Các đấng tiên tri trong Cựu-ước bị bắt bớ vì đã tố cáo dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, Chúa Giê-xu bị họ đóng đinh trên thập tự giá với cùng lý do tương tự. Phao-lô tập trung bốn nhân chứng để xác nhận tội lỗi của dân tộc Do-thái.
a. Dân ngoại bang (Rô 2: 1-3)
- Chắc chắn người Do-thái sẽ ủng hộ việc Phao-lô lên án dân ngoại bang trong Rô 1:18-32. Thực ra, sự kiêu hãnh về tôn giáo và dân tộc của người Do-thái thúc đẩy họ khinh miệt “loài chó ngoại bang” và không giao thiệp với họ. Phao-lô dùng thái độ phê phán này để chứng minh tội trạng của người Do-thái vì họ đang thực hành chính những điều họ lên án trong vòng dân ngoại bang! Họ nghĩ rằng họ thoát khỏi cơn đoán phạt vì là tuyển dân của Đức Chúa Trời. Nhưng Phao-lô khẳng định rằng việc Đức Chúa Trời tuyển chọn người Do-thái khiến cho họ có trách nhiệmnhiều hơn.
Đức Chúa Trời đoán phạt tuỳ thuộc vào chân lý. Ngài không có tiêu chuẩn này dành cho người Do-thái và tiêu chuẩn khác dành cho người ngoại bang. Người đọc bảng liệt kê tội lỗi trong Rô 1:29-32 không thể thoát khỏi phạm phải một trong những tội ấy.
Có “những tội lỗi về phần xác thịt và về phần thần linh” (IICôr 7:1) có “nhiều con trai hoang đàng” và “những người anh không màng đến em của mình” (Lu 15:11-32). Trong khi lên án tội lỗi người ngoại bang, người Do-thái thực sự đã lên án chính mình. Như lời xưa có nói, “Khi bạn chỉ ngón trỏ vào người khác, ba ngón còn lại sẽ chỉ vào bạn.”
b. Phước hạnh của Đức Chúa Trời (Rô 2:4-11)
-Thay vì đối đãi người Do-thái đặc biệt, Đức Chúa Trời ban cho họ trách nhiệm lớn lao hơn để vâng lời và làm sáng danh Ngài. Trong lòng nhân từ Ngài, Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên của cải vật chất và sự giàu có thuộc linh: đó là đất đượm sữa và mật, luật pháp công bình, đền thờ và thầy tế lễ, sự quan phòng của Đức Chúa Trời và nhiều phước hạnh khác.
Đức Chúa Trời đã nhịn chịu các tội lỗi và những lần dân Y-sơ-ra-ên nổi loạn chống nghịch Ngài, và Ngài còn sai Con Ngài làm Đấng Mê-si-a của họ. Ngay sau khi dân Do-thái đóng đinh Đấng Christ, Đức Chúa Trời còn ban ơn và chậm trễ cơn đoán phạt của Ngài trên dân sự hơn bốn mươi năm. Không phải sự đoán phạt của Đức Chúa Trời dẫn con người đến sự ăn năn, nhưng là do lòng nhân từ của Đức Chúa Trời nhưng dân Y-sơ-ra-ên cũng không ăn năn.
Trong Rô 2:6-11, Phao-lô không dạy sự cứu rỗi là do phẩm hạnh hoặc việc thiện. Ông có ý muốn giải thích một nguyên tắc căn bản khác về sự đoán phạt của Đức Chúa Trời: Đức Chúa Trời phán xét theo việc làm, giống như Ngài phán xét theo chân lý.
Ở đây Phao-lô đề cập đến những hành động không thay đổi trong nếp sống con người, toàn bộ những tác động về tính cách và hành vi của người đó. Chẳng hạn, Vua Đa-vít đã phạm một số tội kinh khiếp nhưng trọn cuộc đời của vua được nhấn mạnh là vâng lời Đức Chúa Trời. Do-thái Ích-ca-ri-ốt thú nhận tội lỗi và cung cấp tiền để mua nghĩa trang dành cho khách lạ tuy nhiên toàn bộ cuộc đời của ông được nhấn mạnh là không vâng lời và vô tín.
Đức tin cứu chuộc thật sanh bông trái vâng lời và nếp sống tin kính, mặc dù đôi khi có yếu đuối sa ngã. Khi Đức Chúa Trời đánh giá việc làm của người Do-thái, Ngài thấy những việc làm ấy gian ác như dân ngoại bang. Việc thỉnh thoảng người Do-thái tổ chức lễ hội hoặc thường xuyên đề cao ngày Sa-bát không làm thay đổi nếp sống cố hữu của họ cũng là một điều bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Phước hạnh của Đức Chúa Trời không dẫn họ đến sự ăn năn.
c. Luật pháp của Đức Chúa Trời (Rô 2:12-24)
- Lời nói của Phao-lô trong câu Rô 2:11, “Vì trước mặt Đức Chúa Trời chẳng vị nể ai đâu” sẽ là cú sốc cho người Do-thái vì người Do-thái tự cho mình xứng đáng nhận sự đối xử đặc biệt do được Đức Chúa Trời lựa chọn. Nhưng Phao-lô giải thích rằng luật pháp Do-thái chỉ làm cho tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên thêm nặng hơn!
Đức Chúa Trời không ban luật pháp cho người ngoại bang, vì vậy họ không bị luật pháp đoán phạt. Thực ra, người ngoại bang có “việc luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ” (Rô 2:15). Bất cứ nơi nào bạn đi đến, bạn cũng tìm thấy con người có bản chất biết đúng sai bên trong và bản chất này phán xét, Kinh Thánh gọi là “lương tâm”. Bạn tìm thấy một ý thức về tội lỗi trong vòng tất cả các nền văn hóa, nỗi sợ hãi bị hình phạt, và nổ lực chuộc lấy tội lỗi cùng xoa dịu các vị thần làm cho họ sợ hãi.
• Người Do-thái tự hào về luật pháp.
Họ khác với những người lân cận thờ hình tượng! Nhưng Phao-lô nói rõ rằng không phải sở hữu luật pháp là có giá trị, nhưng là thực hành luật pháp. Người Do-thái cho rằng dân ngoại là kẻ mù, ở trong tối tăm, ngu dại, ấu trĩ, và dốt nát! Nhưng nếu Đức Chúa Trời thấy dân ngoại “thấp kém” phạm tội, thì người Do-thái” có đặc ân” lại phạm tội nhiều biết bao nhiêu! Đức Chúa Trời không những phán xét theo chân lý (Rô 2:2), và căn cứ trên việc làm của con người (Rô 2:6) nhưng Ngài còn phán xét “những điều sâu kín nhiệm trong lòng” (Rô 2:16). Ngài nhìn thấy trong lòng!
Người Do-thái có một tôn giáo theo lễ nghi bên ngoài, chớ không bằng thái độ bên trong. Có lẽ họ sống đạo đức bên ngoài, nhưng còn tấm lòng thì sao? Lời Chúa quở trách người Pha-ri-si trong Mat 23:1-39 minh họa đầy đủ nguyên tắc này. Đức Chúa Trời không những nhìn thấy việc làm nhưng Ngài còn xem xét “tư tưởng và ý định trong lòng” (Heb 4:12).
Đối với một người Do-thái có thể phạm tội ăn cắp, tà dâm, và thờ hình tượng (Ro 2:21-22) nếu như không có ai bắt quả tang anh ta đang phạm các tội ấy. Trong Bài Giảng Trên Núi, lời Chúa dạy chúng ta biết con người có thể phạm những tội ấy trong lòng.
Thay vì tôn vinh Đức Chúa Trời giữa vòng người ngoại bang, người Do-thái lại sỉ nhục Ngài sứ đồ Phao-lô trong Es 52:5 để chứng minh cho quan điểm của mình. Những người ngoại bang thờ hình tượng hằng ngày tiếp xúc với người Do-thái trong kinh doanh và các hoạt động khác, và lòng trung thành của người Do-thái đối với luật pháp không lừa dối họ. Chính luật pháp mà người Do-thái đòi hỏi phải vâng theo lại buộc tội họ!
d. Phép Cắt Bì (Rô 2:25-29)
- Đây là dấu hiệu lớn lao của giao ước, giao ước này bắt đầu với Áp-ra-ham, tổ phụ dân Do-thái (Sa 17:1-27). Đối với người Do-thái, người ngoại bang là “những con chó không cắt bì”. Bi kịch đó là người Do-thái lệ thuộc vào dấu hiệu cắt bì theo phần xác thay vì căn cứ trên sự thật thiêng liêng được thể hiện qua phép cắt bì (Phuc 10:16; Gie 9:26; Exe 44:9).
Một người Do-thái thật là người từng trải kinh nghiệm thuộc linh trong lòng, chớ không chỉ là sự giải phẫu thân thể bên ngoài.Ngày nay người ta cũng nhầm lẫn tương tự khi đề cập đến phép Báp-têm hoặc lễ Tiệc thánh, hoặc ngay cả làm thuộc viên Hội thánh.
Đức Chúa Trời đoán xét tuỳ theo “những việc kín nhiệm trong lòng” (Rô 2:16), bởi vậy Ngài không có ấn tượng nào đối với những hình thức bên ngoài. Một người ngoại vâng phục không chịu phép cắt bì còn dễ chấp nhận hơn một người Do-thái bắt phục nhưng chịu cắt bì. Thực ra, một người Do-thái không vâng lời biến phép cắt bì của mình trở thành vô nghĩa trong ánh sáng của Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng.
Người Do-thái ca tụng lẫn nhau vì họ vâng theo luật pháp, nhưng điều quan trọng đó là “ngợi khen Đức Chúa Trời” chớ không khen ngợi con người (Rô 2:29). Khi bạn nhớ rằng danh xưng “Do-thái” xuất phát từ chữ “Do-thái” có nghĩa là “ngợi khen”, thì câu nói này mang ý nghĩa mới (Sa 29:35 Sa 49:8).
Tất cả bốn nhân chứng của Phao-lô đều đồng ý: Người Do-thái phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời. Trong Rô 3:1-8, Phao-lô kết luận lời giải luận và phản đối những người Do-thái cố tình tranh cãi với ông.
Họ nêu lên ba câu hỏi:
(1) “Làm người Do-thái có lợi gì?” Trả lời: Có mọi thứ lợi, nhất là sở hữu Lời Đức Chúa Trời.
(2) “Những người Do-thái vô tín sẽ phá bỏ sự thành tín của Đức Chúa Trời sao?”.
Trả lời: Hoàn toàn không phải - ngược lại còn xác lập sự thành tín của Đức Chúa Trời.
(3) “Nếu tội lỗi của chúng ta ca tụng đức công chính của Đức Chúa Trời làm sao Ngài có thể đoán phạt chúng ta?”
Trả lời: Chúng ta không làm điều xấu, để điều tốt có thể phát sinh. Đức Chúa Trời xét đoán thế gian cách công bình.
Rô 3:1-8; Xem chung giải nghĩa Rô 2:1-29
3. TOÀN THẾ GIỚI PHẠM TỘI (Rô 3:9-20)
Lời tuyên bố này thật rõ ràng, vì Phao-lô đã chứng minh cả người Do-thái lẫn ngoại bang đều phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời. Kế đến ông khẳng định rằng tất cả mọi người đều là tội nhân, và ông trích dẫn một số câu Kinh Thánh trong Cựu-ước để chứng minh. Hãy lưu ý các từ lặp lại “không ai” và “tất cả”, tự chúng khẳng định tính phổ quát về tội lỗi con người.
Lời trích dẫn đầu tiên trong Thi 14:1-3. Thi-thiên này bắt đầu bằng, “Kẻ ngu muội nói trong lòng rằng ‘Chẳng có Đức Chúa Trời’”. Vì chữ “có” được các dịch giả thêm vào nên câu này có thể đọc là: “kẻ kiêu ngạo nói trong lòng, “không, Đức Chúa Trời!” Điều này tương ứng với lời mô tả về sự suy đồi của con người chép trong Rô 1:18-32, vì tất cả bắt đầu bằng lời nói. “Không” với Đức Chúa Trời.
Những câu này cho thấy rằng toàn bộ tấm lòng con người bị tội lỗi sai khiến: tâm trí (“không ai hiểu biết”), lòng (“chẳng ai tìm kiếm Đức Chúa Trời”), và ý chí (“chẳng ai làm điều tốt”). Lấy sự công bình trọn vẹn của Đức Chúa Trời để đánh giá, chúng ta thấy chẳng có người nào là vô tội. Chẳng có tội nhân nào tìm kiếm Đức Chúa Trời.
Do đó, Đức Chúa Trời phải tìm đến tội nhân (Sa 3:8-10 Lu 19:10). Loài người đã đi lạc đường, và trở nên không ích lợi gì cho chính mình và cho Đức Chúa Trời. Các thí dụ của Chúa trong Lu 15:1-32 minh hoạ điều này thật rõ ràng.
Trong câu Rô 3:13-18, Phao-lô cung cấp cho chúng ta sự xem xét tỏ tường về tội nhân hư mất từ đầu đến chân. Các lời trích dẫn của ông như sau: Rô 3:13a; Thi 5:9,13b; Thi 140:3,14; Thi 10:7; Rô 3:15-17; Es 59:7-8; Rô 3:18; Thi 36:1.Chúng ta cần đọc những câu Kinh Thánh này trong các mạch văn đầy đủ chi tiết.
Các câu Rô 3:13,14 nhấn mạnh đến hành động nói của con người - cổ họng, lưỡi, môi, và miệng. Chúng ta thấy được sự liên kết giữa các chữ và tính cách trong Mat 12:34: “Bởi sự đầy dẫy trong lòng mà miệng nói ra”. Tội nhân bị chết về mặt thuộc linh theo bản chất lầm lạc của mình (Eph 2:1-3), do đó chỉ sự chết mới có thể ra từ miệng anh ta. Miệng bị xét đoán có thể trở thành miệng được biến đổi và xưng nhận “Chúa Giê-xu Christ là Chúa” (Rô 10:9-10). “Vì bởi lời nói mà ngươi sẽ được xưng là công bình, cũng bởi lời nói mà ngươi sẽ bị phạt” (Mat 12:37).
Trong Rô 3:15,16, Phao-lô mô tả bàn chân của tội nhân. Giống như lời nói của tội nhân là dối trá, đường lối của họ cũng hư hoại. Bàn chân của người tin Chúa được chiếu sáng bằng Phúc-Âm bình an (Eph 6:15) nhưng tội nhân hư mất mang đến chết chóc, tàn hại, và đau đớn mọi nơi nó đi đến. Các thảm kịch này không xảy ra tức thì, nhưng chắc chắn chúng sẽ xảy đến. Tội nhân hư mất đi trên đường rộng khoảng khoát dẫn đến sự chết mất (Mat 7:13-14) họ cần phải ăn năn, tin nhận Chúa Giê-xu Christ, và đi con đường hẹp dẫn đến sự sống đời đời.
Rô 3:17 nói đến tâm trí của tội nhân: Họ không biết đường bình an của Đức Chúa Trời. Đây là nguyên nhân khiến Chúa Giê-xu khóc về thành Giê-ru-sa-lem (Lu 19:41-44). Tội nhân không muốn biết Chân lý của Đức Chúa Trời (Rô 1:21,25,28) họ thích tin vào lời dối trá của Sa-tan hơn. Đường bình an của Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ: “Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin, thì được hoà thuận với Đức Chúa Trời bởi Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta” (Rô 5:1).
Trong c.18, trích dẫn trong Thi 36:1 mô tả sự kiêu ngạo của tội nhân: “Chẳng có sự kính sợ nào ở trước mặt chúng nó”. Chúng ta nên đọc toàn bộ Thi-thiên trong một bức tranh trọn vẹn. Sự ngu dại đề cập trong Rô 3:17 là do sự kiêu ngạo trong c.18 gây nên vì chính “sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự tri thức” (Ch 1:7).
Những lời này được trích dẫn từ luật pháp của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh Cưụ-ước, đưa đến một kết luận: Toàn thế gian đều phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời! Có thể có nhiều người muốn tranh cãi, nhưng mọi miệng sẽ ngậm lại. Chẳng còn có cuộc bàn luận hoặc bênh vực nào. Cả thế gian đều phạm tội, cả người Do-thái lẫn người ngoại bang. Người Do-thái chịu sự lên án bởi luật pháp mà họ hãnh diện, và người ngoại bang chịu sự kết tội trên cơ sở lương tâm.
Chữ “vì vậy” trong Rô 3:20 mang ý nghĩa “bởi vì”, và cho chúng ta biết lý do tại sao toàn thế gian phạm tội. Chẳng có loài xác thịt nào có thể vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời và được xưng công bình theo quan điểm của Ngài. “Người làm theo luật pháp được xưng công bình” là điều đúng (Rô 2:13), nhưng chẳng có ai làm được mọi điều luật pháp đòi hỏi!
Điều bất lực này là cách để con người nhận biết mình là tội nhân. Khi họ cố gắng vâng theo luật pháp, họ thất bại cách đau đớn và cần phải kêu xin lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Cả người Do-thái lẫn ngoại bang đều không thể làm trọn luật pháp Đức Chúa Trời do đó Đức Chúa Trời phải cứu tội nhân bằng phương tiện khác. Phao-lô lý giải phương cách con người nhờ đó được cứu trong phần còn lại của bức thư.
Cách tốt nhất để kết thúc phần này là nêu lên một câu hỏi đơn giản: Có bao giờ bạn phải ngậm miệng lại chưa? Bạn có đang hãnh diện về sự công bình của riêng mình và tự bênh vực mình trước mặt Đức Chúa Trời không? Nếu có như vậy, có thể bạn chẳng bao giờ được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Chỉ khi bạn yên lặng đứng trước mặt Đức Chúa Trời trong địa vị tội nhân thì Ngài mới có thể cứu chúng ta được. Hễ còn tự biện hộ cho mình và tự khen về mình, chúng ta không thể được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Cả thế gian phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời - trong đó có bạn và tôi!
4. TỔ PHỤ ÁP-RA-HAM (Rô 3:21-4:25)
Chủ đề của Phao-lô trong phần hai của thư này là: Sự Cứu Rỗi - Sự Xưng Công Bình Được Công Bố.
Phao-lô đã chứng minh rằng mọi người đều phạm tội kế đến ông giải thích cách nào tội nhân có thể được cứu. Thuật ngữ thần học nói đến sự cứu rỗi này là sự xưng nghĩa bởi đức tin. Xưng nghĩa là công việc Đức Chúa Trời xưng nhận tội nhân ăn năn trở nên công nghĩa trong Đấng Christ trên nền tảng công tác cứu chuộc Đấng Christ đã làm xong trên thập tự giá. Mỗi phần trong lời xác nhận này thật quan trọng, vì vậy chúng ta nên nghiên cứu cẩn thận.
Trước hết, xưng nghĩa là một hành động, chớ không phải là một quá trình. Không có mức độ cao thấp trong sự xưng nghĩa mỗi người tin Chúa đều có quyền đứng trước mặt Đức Chúa Trời như nhau. Hơn nữa, xưng nghĩa là việc Đức Chúa Trời làm chớ không phải do con người. Chẳng có tội nhân nào có thể tự xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Quan trọng hơn cả, xưng nghĩa không có nghĩa Đức Chúa Trời khiến chúng ta công bình, nhưng Ngài kể chúng ta là công bình. Xưng nghĩa là vấn đề thuộc luật pháp. Đức Chúa Trời đặt để sự công bình của Đấng Christ trên bản cáo trạng của chúng ta thay chỗ cho tình trạng tội lỗi của chúng ta. Và chẳng có ai có thể thay đổi được bản cáo trạng của mình.
Đừng nhầm lẫn sự xưng nghĩa với sự nên thánh. Nên thánh là quá trình bởi Đức Chúa Trời biến đổi người tin Ngài ngày càng giống Đấng Christ hơn. Nên thánh có thể thay đổi ngày này qua ngày khác. Xưng nghĩa không hề đổi thay. Khi tội nhân tin nhận Đấng Christ, Đức Chúa Trời xưng người là công bình, và sự xưng nhận ấy không bao giờ lập lại nữa. Đức Chúa Trời tìm kiếm chúng ta và đối xử với chúng ta như thể chúng ta chưa phạm tội gì!
Nhưng, làm thế nào Đức Chúa Trời thánh khiết lại có thể kể tội nhân là công bình được? Có phải sự xưng nghĩa chỉ là một “ý tưởng hoang đường “ không có nền móng thật sự? Trong phần này của thư Rô-ma, Phao-lô trả lời những câu hỏi này bằng hai cách. Thứ nhất, ông giải thích sự xưng nghĩa bởi đức tin (Rô 3: 21-31) sau đó ông minh hoạ sự xưng nghĩa bởi đức tin qua cuộc đời Áp-ra-ham (Rô 4:1-25).
1. Giải thích sự xưng nghĩa (Rô 3:21-31)
“Nhưng hiện bây giờ sự công bình của Đức Chúa Trời....đã được bày tỏ ra” (Rô 3:21). Đức Chúa Trời đã bày tỏ ra sự công bình của Ngài bằng nhiều cách trước sự mạc khải trọn vẹn về Phúc-Âm: luật pháp Ngài, sự đoán phạt nghịch lại tội lỗi, Ngài kêu gọi qua các đấng tiên tri, Ngài ban ơn cho người vâng lời Ngài. Nhưng trong Phúc-Âm, Ngài bày tỏ sự công bình mới của Đức Chúa Trời (Rô 1:16-17) các đặc điểm của công bình này được giải thích tường tận trong phần này.
a. Ngoài luật pháp (Rô 3:21)
- Theo luật pháp Cựu-ước, sự công bình đến bởi hành vi nhưng theo Phúc-Âm, sự công bình đến bởi tin nhận. Luật pháp tự tỏ bày sự công bình của Đức Chúa Trời, vì luật pháp là “thánh, công bình và tốt lành” (Rô 7:12).
Hơn nữa, luật pháp làm chứng cho sự công bình của Phúc-Âm này cho dù luật pháp không thể cung ứng sự công bình. Bắt đầu trong Sa 3:15 và tiếp tục trải suốt trong toàn bộ Cựu-ước, bằng chứng cho sự cứu rỗi ấy là do đức tin nơi Đấng Christ. Của sinh tế trong Cựu-ước, các đấng tiên tri, các hình bóng, và “Chân Lý Phúc-Âm” lớn lao (Es 53:1-12) tất cả đều làm chứng cho chân lý này. Luật pháp có thể làm chứng cho sự công bình của Đức Chúa Trời, nhưng luật pháp không thể cung ứng sự công bình cho loài người tội lỗi. Chỉ có Chúa Giê-xu Christ mới có thể làm điều đó. (Ga 2:21).
b. Bởi sự tin đến Đấng Christ (Rô 3:22a)
- Đức tin chỉ tốt như đối tượng của đức tin. Tất cả mọi người đều tin một điều gì đó nhưng Cơ-đốc nhân tin vào Đấng Christ. Sự công bình của luật pháp là phần thưởng cho việc làm. Sự công bình của Phúc-Âm là quà tặng bởi đức tin. Nhiều người nói, “Tôi tin Đức Chúa Trời!” Nhưng đấy không phải là điều cứu rỗi chúng ta. Chính lòng tin riêng tư trong Đấng Christ đã cứu và xưng công nghĩa cho tội nhân hư mất. Ngay cả ma quỉ nơi địa ngục cũng tin có Đức Chúa Trời và run sợ, tuy nhiên điều này không cứu được chúng (Gia 2:19).
c. Cho tất cả mọi người (Rô 3:22b-23)
-Đức Chúa Trời ban luật pháp của Ngài cho người Do-thái, chớ không ban cho dân ngoại nhưng Phúc-Âm Cứu Rỗi của Chúa Giê-xu Christ được ban cho tất cả mọi người. Mọi người đều cần sự cứu rỗi. Chẳng có sự phân biệt nào giữa người Do-thái với người ngoại bang khi sự đoán phạt xảy đến. “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô 3:23). Đức Chúa Trời tuyên bố mọi người đều có tội để Ngài có thể ban cho mọi người ơn cứu chuộc nhưng không.
d. Bởi ân điển (Rô 3:24)
- Đức Chúa Trời có hai thuộc tính: tuyệt đối (những gì hiện hữu trong chính Ngài), và tương đối (cách Ngài liên hệ đến thế giới và con người). Một trong những thuộc tính tuyệt đối của Ngài là tình yêu thương: “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” (IGi 4:8).
Khi Đức Chúa Trời liên hệ tình yêu ấy cho bạn và tôi, tình yêu ấy trở nên ân điển và sự thương xót. Bởi lòng thương xót Ngài, Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta những gì chúng ta đáng nhận, và bởi ân điển Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những gì chúng ta không đáng nhận. Chữ “nhưng không” trong tiếng Hy-lạp được dịch là “không có nguyên do” trong Gi 15:25. Chúng ta được xưng công bình không có nguyên do! Chúng ta không có nguyên nhân nào xứng đáng nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trờí! Tất cả bởi ân điển!
e. Bởi sự chuộc tội trong Chúa Giê-xu Christ (Rô 3:24b-25)
- Sự cứu rỗi không đòi giá, nhưng không rẻ tiền. Ba chữ diễn tả giá Đức Chúa Trời đã trả thay cho ơn cứu rỗi của chúng ta: Tế lễ vãn hồi, sự cứu chuộc và huyết. Trong ngôn ngữ loài người, “tế lễ vãn hồi” có nghĩa là dùng một món quà làm cho ai nguôi cơn giận.
Nhưng đây không phải là điều nói đến trong Kinh Thánh. “Tế lễ vãn hồi” có nghĩa là thoả mãn luật pháp thánh khiết của Đức Chúa Trời, thoả đáp những đòi hỏi công bình của luật pháp, để Đức Chúa Trời có thể tha thứ dồi dào cho người chạy đến với Đấng Christ. Chữ “huyết” dạy chúng ta biết giá Chúa Giê-xu phải trả khi Ngài phải chịu chết trên thập tự giá để làm trọn luật pháp và xưng công bình cho tội nhân hư mất.
Minh họa có ý nghĩa nhất cho chân lý này là Ngày Đại lễ Chuôc Tội của dân Do-thái mô tả trong Le 16:1-34. Hai con dê được dâng nơi bàn thờ, một trong hai con ấy được chọn làm của lễ. Con dê bị giết và huyết nó được mang vào nơi chí thánh rảy trên nắp thi ân, nắp làm bằng vàng đặt trên hòm giao ước. Huyết rưới trên nắp thi ân bao phủ hai bảng luật pháp bên trong hòm giao ước. Huyết con sinh thoả mãn sự đòi hỏi công bình của Đức Chúa Trời thánh khiết (cách tạm thời).
Sau đó thầy tế lễ đặt tay người trên đầu con dê còn lại và xưng tội lỗi của dân chúng. Rồi người thả con dê vào trong đồng vắng biểu tượng cho tội lỗi được quăng xa khỏi dân chúng. “Phương đông xa cách phương tây bao nhiêu thì Ngài cũng đem các sự vi phạm xa khỏi các ngươi cũng bấy nhiêu” (Thi 103:12).
Trong thời Cựu-ước, huyết con thú không thể cất đi tội lỗi huyết con sinh chỉ có thể che đậy tội lỗi cho đến khi Chúa Giê-xu đến chuộc mua sự cứu rỗi đã hoàn tất.Đức Chúa Trời “đã bỏ qua các tội phạm trước kia” (Rô 3:25), biết rằng Con Ngài sẽ đến làm trọn công tác cứu chuộc. Vì sự chết và sống lại của Ngài, sẽ có “sự cứu chuộc” - tội nhân được chuộc mua và buông tha cho được tự do.
Tiến sĩ G. Campbell Morgan cố tìm cách giải thích “sự cứu rỗi nhưng không” cho một người thợ mỏ, nhưng người thợ này không hiểu được ý nghĩa ấy. Người này cứ lý luận, “Tôi phải trả giá cho sự cứu rỗi”. Một tia sáng Chúa soi tỏ trong lòng, Tiến sĩ Morgan hỏi, “Sáng nay làm thế nào anh xuống được hầm mỏ?”.
Người thợ mỏ đáp, “Ồ, thật đơn giản. Tôi chỉ ngồi vào thang máy và đi xuống, có vậy thôi.”
Sau đó Morgan hỏi, “Việc ấy đơn giản quá vậy sao? Anh không phải trả giá gì à?”
Người thợ mỏ cười. “Ồ không, tôi không phải trả thứ gì cả nhưng công ty đã trả một khoản tiền lớn để lắp đặt chiếc thang máy ấy”. Sau đó người thợ mỏ hiểu được chân lý: “Để được cứu tôi không trả một giá nào cả, nhưng Đức Chúa Trời đã trả xong bằng chính mạng sống Con Ngài.”
f. Trong sự công bình trọn vẹn (Rô 3:25a-26)
- Chắc chắn Đức Chúa Trời phải phù hợp với chính Ngài. Ngài không thể phá bỏ luật pháp của Ngài hoặc làm trái với bản thể của Ngài. “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” (IGi 4: 8), và “Đức Chúa Trời là sự sáng” (IGi 1:5).
Đức Chúa Trời của Tình yêu muốn tha thứ cho tội nhân, nhưng Đức Chúa Trời thánh khiết phải hình phạt tội lỗi và giữ đúng Luật công bình của Ngài. Làm thế nào Đức Chúa Trời vừa là “công bình và đấng xưng công bình” được? Câu trả lời ở trong Chúa Giê-xu Christ.
Khi Chúa Giê-xu gánh chịu sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời trên thập tự giá thay cho tội lỗi thế gian, Ngài làm thoả mãn trọn vẹn mọi đòi hỏi của luật pháp Đức Chúa Trời, và cũng bày tỏ trọn vẹn tình yêu của Đức Chúa Trời. Con sinh tế trong Cựu-ước không bao giờ cất đi tội lỗi nhưng khi Chúa Giê-xu chết, Ngài trở về từ A-đam và gánh lấy mọi tội lỗi ấy. Không ai (kể cả Sa-tan) có thể kiện cáo Đức Chúa Trời là không công bình hoặc bất công vì Ngài tha thứ mọi tội lỗi trong thời Cựu-ước.
g. Thiết lập luật pháp (Ro 3:27-31)
- Vì các độc giả Do-thái, Phao-lô muốn nói nhiều hơn về mối liên hệ của Phúc-Âm với luật pháp. Giáo lý xưng nghĩa bởi đức tin không nghịch lại với luật pháp, vì giáo lý ấy làm vững mạnh luật pháp. Đức Chúa Trời tuân theo luật pháp của Ngài trong việc tiến hành phương pháp cứu rỗi. Chúa Giê-xu sinh ra và chịu chết làm ứng nghiệm trọn vẹn những đòi hỏi của luật pháp. Đức Chúa Trời không có hai phương cách cứu rỗi, một cho người Do-thái và một cho người ngoại bang vì Ngài là một Đức Chúa Trời.
• Ngài nhất quán với bản thể và luật pháp của Ngài.
Nếu cứu rỗi đến bởi luật pháp, lúc ấy con người có thể khoe khoang nhưng nguyên tắc đức tin không thể làm cho con người khoe khoang được. Người bơi lội khi được cứu khỏi chết đuối không khoe khoang được vì anh ta tin cậy vào người cứu mạng. Anh có thể làm gì khác hơn? Khi một tội nhân ăn năn được xưng nghĩa bởi đức tin, anh ta không thể khoe mình về đức tin, nhưng có thể khoe mình về Đấng Cứu Rỗi Lạ Lùng.
Trong Rô 4:1-25 và Rô 8:1-39, Phao-lô giải thích chương trình cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời đã hiệp một trọn vẹn như thế nào với Kinh Thánh Cựu-ước. Ngài bắt đầu với tổ phụ dân Do-thái là Áp-ra-ham.
2. Sự xưng nghĩa được minh họa (Rô 4:1-25)
Các Cơ-đốc nhân người Do-thái tại Rô-ma chắc chắn sẽ hỏi ngay, “Hỡi Phao-lô, Giáo lý xưng nghĩa bởi đức tin có liên quan thế nào với lịch sử của chúng tôi? Ông nói rằng giáo lý này được luật pháp và các đấng tiên tri làm chứng cho. Ồ, thế còn tổ phụ Áp-ra-ham thì sao?”
Phao-lô chấp nhận sự thách thức này và giải thích Áp-ra-ham được cứu cách nào. Áp-ra-ham được gọi là “tổ phụ chúng ta”, ám chỉ đến các con cháu của Áp-ra-ham về phần xác. Nhưng trong Rô 4:11, Áp-ra-ham cũng được gọi là “tổ phụ của tất cả mọi kẻ tin” nghĩa là tất cả những người tin nhận Chúa Giê-xu Christ (Ga 3:1-18). Phao-lô nêu lên ba sự kiện quan trọng về sự cứu rỗi của Áp-ra-ham chứng tỏ rằng kinh nghiệm thuộc linh của tổ phụ giống như kinh nghiệm của tín hữu ngày nay.
a. Người được xưng công bình bởi đức tin, chớ không phải việc làm (Rô 4:1-8)
- Phao-lô gọi hai người làm chứng cho lời nói ấy: Áp-ra-ham (Sa 15:6) và Đa-vít (Thi 32:1-2). Trong các câu 1-3, Phao-lô xem xét kinh nghiệm của Áp-ra-ham được ghi lại trong Sa 15:1-21. Áp-ra-ham đã chiến thắng các vua (Sa 14:1-24) và tự hỏi không biết họ có quay trở lại gây chiến nữa không. Đức Chúa Trời hiện ra với ông và bảo đảm với ông rằng Ngài là nơi ẩn náu của ông và “phần thưởng của ông sẽ rất lớn”. Nhưng điều Áp-ra-ham mong muốn hơn hết đó là một người con trai nối dõi. Đức Chúa Trời đã hứa ban cho ông một con trai, nhưng vào lúc ấy lời hứa chưa được ứng nghiệm.
Sau đó Đức Chúa Trời phán dạy ông nhìn lên các ngôi sao trên trời. Đức Chúa Trời hứa, “Dòng dõi ngươi sẽ đông như sao trên trời!” và Áp-ra-ham tin lời hứa của Đức Chúa Trời. Chữ tin trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa “nói A-men”. Đức Chúa Trời ban cho lời hứa, Áp-ra-ham đáp lại bằng tiếng “A-men!”. Chính đức tin này kể người là công bình.
Chữ kể trong Rô 4:3 là tiếng Hy-lạp có nghĩa “kể vào tài khoản của người nào”. Đó là thuật ngữ thuộc về ngân hàng. Từ này được dùng mười một lần trong chương này, dịch là “được coi là” (Rô 4:4,9-10), “được quy cho” (Rô 4:6,8,11,21-24), cũng như “được kể”. Khi môt người làm việc, người ấy nhận lương và tiền này được gởi vào tài khoản của người ấy. Nhưng Áp-ra-ham không làm việc vì sự cứu rỗi người chỉ tin cậy vào lời Đức Chúa Trời. Chính Chúa Giê-xu Christ thực hiện công tác của Ngài trên thập tự giá và sự công bình của Ngài đã gởi vào tài khoản của Áp-ra-ham.
Rô 4:5 tạo ra một câu nói đáng ngạc nhiên: Đức Chúa Trời xưng công bình cho người không tin kính! Luật pháp dạy, “Ta sẽ không xưng công bình kẻ ác” (Exe 23:7). Sự phán xét trong thời Cựu-ước đòi hỏi “định công bình cho người công bình, và lên án kẻ có tội” (Phuc 25:1). Khi Sa-lô-môn cung hiến đền thờ, ông cầu xin Đức Chúa Trời lên án kẻ ác và xưng công bình cho người công bình (IVua 8:31-32)! Nhưng Đức Chúa Trời xưng công bình cho người không tin kính - vì đối với Ngài chẳng có người công bình để xưng công bình cho họ! Ngài đặt tội lỗi chúng ta trên Đấng Christ để Ngài có thể đặt sự công bình Đấng Christ trên chúng ta.
Trong c.6 đến c.8, Phao-lô dùng Đa-vít làm nhân chứng, trích từ một trong các thi thiên ăn năn của Đa-vít sau khi ông phạm tội trọng với Bát-sê-ba (Thi 32:1-2).
Đa-vít đưa ra hai lời nói gây kinh ngạc: (1) Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi và kể là công bình ngoại trừ công việc, (2) Đức Chúa Trời không kể tội lỗi chúng ta. Nói cách khác, một khi chúng ta được kể là công bình, lý lịch của chúng ta chứa đựng sự công bình trọn vẹn của Đấng Christ và không thể nào mang tội lỗi của chúng ta nữa.
Cơ-đốc nhân phạm tội, những tội này cần phải được tha thứ nếu chúng ta thiết lập mối tương giao với Đức Chúa Trời (IGi 1:5-7) nhưng các tội này không chống lại chúng ta. Đức Chúa Trời ghi nhận các công việc làm của chúng ta để Ngài có thể ban thưởng cho chúng ta khi Chúa Giê-xu đến nhưng Ngài không giữ tội lỗi chúng ta.
b. Người được xưng công bình bởi ân điển, chớ không phải bởi luật pháp (Rô 4: 9-17)
- Như chúng ta đã thấy, người Do-thái hãnh diện về phép cắt bì và luật pháp. Nếu một người Do-thái phải trở nên công bình trước mặt Đức Chúa Trời, người ấy ắt phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật pháp. Phao-lô đã nói rõ trong Rô 2:12-19 rằng phải có sự vâng theo luật pháp trong lòng, và “chịu cắt bì trong lòng”. Chỉ có những sự tuân giữ bên ngoài thì chẳng thể nào cứu được tội nhân hư mất.
Nhưng Áp-ra-ham được xưng công bình khi ông còn trong tình trạng chưa chịu cắt bì.Theo quan điểm của người Do-thái, Áp-ra-ham là một người ngoại bang. Áp-ra-ham chịu cắt bì khi ông được 99 tuổi (Sa 17:23-27). Điều này xảy ra trên 14 năm sau các biến cố trong Sa 15:1-21. Kết luận thật rõ ràng: phép cắt bì không có liên quan gì đến sự xưng nghĩa của ông. “Vậy tại sao người nhận dấu cắt bì?” Đó là dấu và ấn (Ro 4:11).
Là dấu hiệu, rõ ràng ông thuộc về Đức Chúa Trời và tin vào lời hứa của Ngài. Là ấn chứng, điều đó nhắc cho ông nhớ rằng Đức Chúa Trời đã ban lời hứa và Ngài sẽ làm thành lời hứa ấy. Con cái Chúa ngày nay được Thánh Linh của Đức Chúa Trời ấn chứng (Eph 1:13-14). Họ cũng từng trải phép cắt bì thiêng liêng trong lòng (Co 2:10-12), không chỉ là cuộc tiểu phẫu bên ngoài, nhưng là từ bỏ bản chất cũ qua sự chết và sống lại của Đấng Christ. Cắt bì không thêm vào cho sự cứu rỗi của Áp-ra-ham nhưng chỉ chứng thực cho sự cứu rỗi mà thôi.
Nhưng Áp-ra-ham cũng được xưng công bình trước khi có luật pháp, và sự kiện này được Phao-lô bàn đến từ câu 13 đến 17. Chữ chìa khóa ở đây là “lời hứa”. Áp-ra-ham được xưng công bình bởi tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời, chớ không phải do vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời vì luật pháp của Đức Chúa Trời chưa được ban xuống qua Môi se.
Lời hứa ban cho Áp-ra-ham bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham không tìm kiếm hoặc xứng đáng nhận lấy lời hứa ấy. Ngày nay cũng vậy, Đức Chúa Trời xưng công bình cho người không công bình vì họ tin vào lời hứa ân điển của Đức Chúa Trời, chớ không phải vì họ vâng giữ luật pháp của Ngài. Đức Chúa Trời không ban luật pháp để cứu rỗi loài người, nhưng để bày tỏ cho loài người thấy rằng họ cần phải được cứu (Ro 4: 15).
Sự việc Áp-ra-ham được xưng công bình bởi ân điển chớ không do luật pháp chứng minh rằng sự cứu rỗi dành cho tất cả mọi người. Áp-ra-ham là cha của mọi kẻ tin, cả người Do-thái lẫn người ngoại bang (Ro 4:16 Ga 3:7,29). Thay vì người Do-thái phàn nàn vì Áp-ra-ham không được cứu bởi luật pháp, họ phải vui mừng vì ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành sẵn cho tất cả mọi người, và phải hớn hở khi Áp-ra-ham có một gia đình thiêng liêng (tất cả người tin thật) cũng như một gia đình thuộc về phần xác (dân Y-sơ-ra-ên). Phao-lô thấy điều này là sự ưng nghiệm Sa 17:5: “Ta đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc”.
c. Người được xưng công bình bởi quyền năng Phục Sinh, chớ không theo nổ lực của con người (Rô 4:18-25)
- Những câu Kinh Thánh này là phần mở rộng của cụm từ trong câu Rô 17: “là Đấng ban sự sống cho kẻ chết”. Phao-lô nhìn thấy sự trẻ lại trong thân xác của Áp-ra-ham là hình ảnh của sự sống lại từ trong kẻ chết và rồi ông liên hệ đến sự sống lại của Đấng Christ.
Một lý do tại sao Đức Chúa Trời chậm trễ ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai là để cho tất cả sức lực của họ hao mòn và biến mất. Thật không thể nghĩ ra được một người đàn ông 99 tuổi lại có thể có con với vợ của mình đã 89 tuổi! Theo quan điểm tái sản sinh, cả hai ông bà đều đã chết.
Nhưng Áp-ra-ham không bước đi bởi mắt thấy nhưng ông bước đi bởi đức tin. Điều Đức Chúa Trời hứa, Ngài sẽ làm thành. Tất cả những gì chúng ta cần làm là tin Ngài.Đức tin ban đầu Áp-ra-ham đặt vào Đức Chúa Trời được ghi lại trong Sa 15:1-21 không phai nhòa theo năm tháng. Trong Sa 17:1-27 và Sa 18:1-33, Áp-ra-ham “mạnh mẽ trong đức tin”. Chính đức tin này ban cho ông sức mạnh để có con trong tuổi già nua.
Sự áp dụng cho ơn cứu rỗi thật rõ ràng: Đức Chúa Trời chờ đợi cho đến khi tội nhân “chết” và không thể tự giúp mình, lúc ấy Ngài mới có thể bày tỏ quyền năng cứu rỗi của Ngài. Cho đến lúc nào tội nhân hư mất còn nghĩ rằng họ có đủ khả năng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, lúc ấy họ không thể được cứu bởi ân điển. Chính lúc Áp-ra-ham thừa nhận rằng ông đã chết thì quyền năng của Đức Chúa Trời đến hành động trong thân thể ông. Chính khi tội nhân hư mất xưng nhận rằng họ đã chết mất về phần thuộc linh và không thể tự cứu mình thì Đức Chúa Trời mới có thể cứu họ được.
Phúc-Âm là “Quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Rô 1:16) vì Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại. Rô 4:24 và Rô 10:9-10 nhưng hành với nhau. “Chúa Giê-xu Christ đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta và sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta” (Rô 4:25).
Điều này có nghĩa sự sống lại của Đấng Christ là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời chấp nhận sự hi sinh của Con Ngài, và minh chứng rằng hiện nay tội nhân có thể được xưng công bình mà không vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời hay nghịch lại bản thể công bình của Ngài.
Dĩ nhiên, điều cơ bản là “nếu chúng ta tin” (Rô 4:24). Có trên 60 mươi lần đề cập đến đức tin hoặc lòng vô tín trong thư Rô-ma. Quyền năng cứu rỗi của Đức Chúa Trời được kinh nghiệm bởi những người đã tin vào Đấng Christ giải thích (Rô 1:16). Sự công bình của Ngài được ban cho những người tin Ngài (Rô 3:22). Chúng ta được xưng công bình bởi đức tin (Rô 5:1). Đối tượng đức tin của chúng ta là Chúa Giê-xu Christ đã chết thay cho chúng ta và đã sống lại.
Tất cả những điều này làm cho đức tin của Áp-ra-ham càng thêm kỳ diệu. Ông không có Kinh Thánh để đọc ông chỉ nhận lời hứa của Đức Chúa Trời. Hầu như ông là kẻ tin cô đơn, ở chung quanh vô số người thờ tà thần. Ông không thể nhìn ngược lại bảng tường trình về đức tin dài dòng thật ra, người giúp viết nên trang sử đức tin ấy.
Tuy nhiên, Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời. Con người ngày nay có Kinh Thánh trọn bộ để đọc và nghiên cứu. Họ có mối thông công trong Hội thánh, và có thể đọc lại đức tin đã tỏ bày hằng bao thế kỷ được ghi lại trong sử ký Hội thánh và trong Kinh Thánh. Nhưng nhiều người vẫn không tin!
Tiến sĩ Harry Ironside, trải qua 18 năm làm Mục sư tại Hội thánh Moody ở Chicago đã kể về một lần viếng thăm lớp Trường Chúa Nhật trong chuyến nghỉ hè.
Vị giáo viên Trường Chúa Nhật hỏi, “Làm thế nào con người được cứu trong thời Cựu-ước?”.
Sau một lát, một người trả lời, “Bằng cách giữ luật pháp.”
Vị giáo viên nói, “Vâng đúng rồi.”
Nhưng Tiến sĩ Ironside cắt ngang: “Kinh Thánh của tôi dạy rằng bởi việc làm luật pháp chẳng có người nào được xưng công bình cả.”
Vị giáo viên hơi bối rối, vì vậy ông ta nói, “À, ai có ý kiến nào khác không?”
Một học viên khác đáp lại, “Họ được cứu do dâng của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời”.
Vị giáo viên nói, “Vâng, đúng rồi!” và ông ta tìm cách tiếp tục bài học.
Nhưng Tiến sĩ Ironside ngăn lại, “Kinh Thánh của tôi dạy rằng huyết của bò đực và dê không thể cất đi tội lỗi.”
Đến lúc này vị giáo viên không chuẩn bị bài dạy biết chắc vị khách biết về Kinh Thánh rõ hơn mình, nên người nói, “Ồ, xin ông nói cho chúng tôi biết cách nào con người trong thời Cựu-ước được cứu!”
Và Tiến sĩ Ironside giải thích rằng họ được cứu bởi đức tin - giống như cách con người làm ngày nay! Bạn sẽ tìm thấy trong He 11:1-40 có hai mươi mốt lần lập lại “bởi đức tin”.
Nếu bạn là người Do-thái, bạn là con cháu Áp-ra-ham về huyết thống nhưng bạn có phải là con cháu Áp-ra-ham về phần thuộc linh không? Áp-ra-ham là tổ phụ của tất cả mọi người tin vào Chúa Giê-xu Christ và được xưng công bình bởi đức tin.Nếu bạn là người ngoại bang, bạn chẳng thể nào là hậu tự của Áp-ra-ham được, nhưng bạn có thể là con cháu Áp-ra-ham trong đức tin. Áp-ra-ham “tin Đức Chúa Trời và điều đó kể người là công bình.”
5. HÃY SỐNG NHƯ MỘT VỊ VUA (Rô 5:1-21)
Vì Rô-ma là sách trình bày theo lo-gic, nên đó là quyển sách của những chữ “vì vậy”. Chúng ta có chữ “vì vậy” trong việc lên án trong Rô 3:20, xưng công bình trong Rô 5:1, không còn án phạt trong Rô 8:1 và dâng hiến trong Rô 12:1. Trong việc giới thiệu trường hợp của mình, Phao-lô chứng tỏ rằng cả thế giới đều phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời, và chẳng có người nào được cứu do các việc làm tôn giáo như gìn giữ luật pháp.
Ông đã giải thích rằng phương pháp cứu rỗi của Đức Chúa Trời luôn luôn là “nhờ ân điển, bởi đức tin” (Eph 2:8-9), và ông đã dùng Áp-ra-ham làm minh họa. Nếu người đọc thư này dừng lại tại đây, anh ta biết rằng mình cần phải được cứu và có thể được cứu.
Nhưng tội nhân còn phải biết về sự xưng công bình bởi đức tin nữa. Anh ta có thể chắc chắn điều đó sẽ kéo dài không? Làm thế nào Đức Chúa Trời có thể cứu tội nhân qua sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá được? Chương 5 là lời giải thích của Phao-lô về hai chữ cuối trong chương Eph 4: “sự xưng công bình của chúng ta”.
Ông giải thích hai chân lý căn bản: Phước hạnh của sự xưng công bình (Rô 5:1-11), và nền tảng cho sự xưng công bình của chúng ta (Rô 5:12-21).
1. Phước hạnh của sự xưng công bình (Rô 5:1-11)
Trong bảng liệt kê các phước hạnh, Phao-lô hoàn tất hai mục đích. Thứ nhất, ông dạy chúng ta biết rằng làm Cơ-đốc nhân tuyệt diệu như thế nào. Sự xưng nghĩa không chỉ là sự bảo đảm trên thiên đàng thật ly kỳ hi hữu, nhưng còn là nguồn của các phước hạnh lạ lùng chúng ta tận hưởng hiện bây giờ.
Mục đích thứ hai nhằm bảo đảm với các độc giả của ông biết rằng sự xưng nghĩa là một việc lâu dài. Các độc giả Do-thái nói riêng sẽ hỏi, “Kinh nghiệm thuộc linh này có thể kéo dài không nếu như không đòi hỏi phải vâng giữ luật pháp?” Thế còn những thử thách và đau đớn trong cuộc sống thì sao? Còn sự phán xét sắp đến thế nào? Khi Đức Chúa Trời xưng chúng ta là công bình trong Chúa Giê-xu Christ, Ngài ban cho chúng ta bảy phước hạnh bảo đảm rằng chúng ta không thể bị chết mất.
a. Hòa Thuận với Đức Chúa Trời (Rô 5:1)
- Người không được cứu là “nghịch thù với Đức Chúa Trời” (Rô 5:10; Rô 8:7) vì họ không thể vâng giữ luật pháp Đức Chúa Trời hoặc làm trọn ý muốn của Đức Chúa Trời. Hai câu Kinh Thánh trong Ê-sai làm cho vấn đề rõ ràng: “Những người ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ, Đức Giê-hô-va phán vậy.” (Es 48:22)
“Trái của sự công bình sẽ là yên lặng và an ổn mãi mãi“ (Es 32:17).
Sự định án có nghĩa là Đức Chúa Trời tuyên bố chúng ta là tội nhân, là lời tuyên bố chiến tranh. Sự xưng công bình có nghĩa Đức Chúa Trời kể chúng ta là công bình, lời tuyên bố hoà bình, được thực hiện bởi sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá. “Sự thương xót và sự chân thật đã gặp nhau. Sự công bình và sự bình an đã hôn nhau” (Thi 85:10). “Vì luật pháp sanh ra sự giận” (Rô 4:15).
Chẳng ai bị luật pháp lên án lại có thể sống hòa thuận với Đức Chúa Trời. Nhưng khi bạn được xưng công bình bởi đức tin, bạn được kể là công bình, và luật pháp không thể nào lên án bạn hoặc gây chiến với bạn được!
b. Có quyền đến gần Đức Chúa Trời (Rô 5:2a)
- Người Do-thái bị bức màn ngăn cách với sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đền thờ và người ngoại bang bị bức tường trong đền thờ ngăn giữ ở bên ngoài với lời cảnh báo bất kỳ người ngoại bang nào vượt qua sẽ bị chết. Nhưng khi Chúa Giê-xu chết, Ngài xé bức màn (Lu 23:45) và phá bỏ bức tường ngăn cách ấy đi (Eph 2:14). Trong Đấng Christ, Cơ-đốc nhân là người Do-thái và ngoại bang đều có quyền đến gần Đức Chúa Trời (Eph 2:18 He 10:19-25) và họ có thể đến gần sự giàu có vô hạn của ân điển Đức Chúa Trời (Eph 1:7 Eph 2:4 Eph 3:8).
Chúng ta ở “trong ân điển” chớ không phải “trong luật pháp”. Sự xưng nghĩa có liên quan đến địa vị của chúng ta sự nên thánh có liên can đến tình trạng của chúng ta. Con của nhà vua có thể bước vào trong sự hiện diện của cha mình cho dù đứa con trông như thế nào đi nữa. Chữ “quyền đến gần” ở đây có nghĩa “quyền vào với vua qua đặc ân của người khác”
c. Trông cậy vinh hiển (Rô 5:2b)
- “Hòa thuận với Đức Chúa Trời” chịu trách nhiệm về quá khứ: Ngài sẽ không còn kể tội lỗi chúng ta nữa.
- “Đến gần Đức Chúa Trời” chịu trách nhiệm về hiện tại: chúng ta có thể đến với Ngài để nhận ơn cứu giúp bất cứ lúc nào chúng ta cần.
- “Trông cậy về vinh hiển Đức Chúa Trời” chịu trách nhiệm về tương lai: Ngày kia chúng ta sẽ dự phần trong sự vinh hiển với Ngài!
Chữ “vui mừng” có thể dịch là “khoe mình” không chỉ trong câu 2 nhưng còn trong câu 3 và câu 11 (“sự vui mừng”). Khi chúng ta là tội nhân, không có gì để vui mừng cả (Rô 3:27), vì chúng ta thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (Rô 3:23).
Nhưng trong Đấng Christ, chúng ta khoe mình về sự công bình và vinh hiển của Ngài! Phao-lô nói mạnh hơn về điều này trong Rô 8:18-30.
d. Phẩm tính của Cơ-đốc nhân (Rô 5:3-4)
- Sự xưng nghĩa không phải là trốn chạy khỏi thử thách trong cuộc sống. “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian” (Gi 16:33). Nhưng đối với người tin Chúa, những thử thách ích lợi cho họ chớ không nghịch lại họ. Không có đau đớn nào có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi Đức Chúa Trời được (Rô 8:35-39) thay vào đó, thử thách đem chúng ta đến gần với Chúa và khiến chúng ta giống Chúa hơn.
Đau đớn xây nên phẩm hạnh của Cơ-đốc nhân. Chữ “rèn tập” trong câu 4 có nghĩa “phẩm hạnh đã được chứng thực”. Tiến trình đó là: hoạn nạn - nhịn nhục - phẩm hạnh được chứng minh – hy vọng. Trong tiếng Anh chữ “hoạn nạn” xuất xứ từ chữ La-tinh tribulum. Trong thời Phao-lô, tribulum là khối gỗ nặng trên ấy có những đinh nhọn, được dùng để đập ngũ cốc. Người ta kéo tribulum trên ngũ cốc và tách hạt lúa mì ra khỏi vỏ. Khi chúng ta trải qua hoạn nạn, và nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, các cơn thử thách chỉ tinh luyện chúng ta và giúp gạt bỏ đi những bã trấu mà thôi.
e. Có sự yêu thương của Đức Chúa Trời bên trong (Rô 5:5-8)
- “Sự hy vọng trì huỡn khiến lòng bị đau đớn” (Ch 13:12). Nhưng khi chúng ta mong đợi sự hy vọng được thành, thì tình yêu thương của Đức Chúa Trời “chảy khắp trong lòng chúng ta”. Hãy lưu ý về sự từng trải ba “bông trái Thánh Linh” đầu tiên: tình yêu thương (Rô 5:5), sự vui mừng (Rô 5:2), và bình an (Rô 5:1).
Trước khi chúng ta được cứu, Đức Chúa Trời chứng tỏ lòng yêu thương Ngài bằng cách sai Đấng Christ chịu chết thế cho chúng ta. Hiện nay chúng ta là con cái của Ngài, chắc chắn Ngài sẽ yêu thương chúng ta càng hơn. Chính kinh nghiệm của lòng yêu thương này qua Thánh Linh giúp sức chúng ta khi trải qua mọi cơn hoạn nạn.
Trải qua nhiều tháng thăm viếng một thanh niên trong bệnh viện bị bỏng gần chết. Tôi không biết anh ta đã trải qua bao nhiêu lần giải phẫu và ghép da trong mấy tháng ấy, hoặc không biết bao nhiêu lần các bác sĩ chuyên khoa thăm bệnh anh ta. Nhưng điều giúp sức cho anh ta suốt những tháng ngày khổ nhọc ấy không phải là những lời giải thích của các bác sĩ nhưng là những lời họ đã hứa với anh ta rằng anh ta sẽ bình phục. Đó là sự hy vọng của anh ta.
Và điều giúp sức cho sự hy vọng của họ là tình yêu của gia đình và nhiều bạn bè của anh ta khi họ đứng bên cạnh anh ta. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời đã tuôn chảy từ họ đến anh ta. Anh ta đã bình phục và ngày nay anh ta tôn vinh Đức Chúa Trời.
Đức tin (Rô 5:1), hy vọng (Rô 5:2), và tình yêu thương (Rô 5:5) tất cả kết hợp để ban cho người tin Chúa nhịn nhục trong các cơn thử thách trong cuộc đời. Và sự nhịn nhục giúp cho người tin Chúa có thể lớn lên trong phẩm hạnh và trở nên con cái trưởng thành của Đức Chúa Trời (Gia 1:1-4).
f. Sự cứu rỗi thoát khỏi thù nghịch ngày sau (Rô 5:9-10)
- Phao-lô tranh luận từ điều nhỏ đến điều lớn. Nếu Đức Chúa Trời cứu chúng ta khi chúng ta là kẻ thù nghịch, chắc chắn Ngài sẽ tiếp tục cứu chúng ta hiện nay là con cái Đức Chúa Trời.
Có “sự thạnh nộ ngày sau” nhưng chẳng có tín hữu thật nào trải qua điều ấy (ITês 1:9-10; ITês 5:8-10). Phao-lô biện luận thêm rằng nếu sự chết của Đấng Christ đã làm trọn cho chúng ta, Ngài sẽ làm cho chúng ta nhiều hơn trong sự sống của Ngài biết bao khi Ngài cầu thay cho chúng ta trên trời! “Được cứu qua sự sống lại của Ngài” liên quan đến Rô 4:25: “Sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta”. Vì Ngài sống, nên chúng ta được cứu đời đời (Hêb 7:23-25).
Di chúc không có hiệu lực cho đến khi người viết di chúc qua đời. Lúc ấy người thi hành di chúc thay quyền và đoan chắc rằng di chúc được thực hiện và nhận lấy quyền thừa kế. Nhưng nếu người thi hành di chúc không thận trọng và muốn lấy của thừa kế cho bản thân thì sao? Người ấy có thể tính toán nhiều cách lén lút để lừa dối pháp luật và chiếm đoạt của thừa kế.
Chúa Giê-xu Christ ghi tên chúng ta vào trong bản di chúc của Ngài, và Ngài viết di chúc ấy bằng huyết của Ngài. “Chén này là giao-ước mới trong huyết ta, vì các ngươi mà đổ ra” (Lu 22:20). Ngài chết để di chúc có hiệu lực nhưng rồi Ngài từ kẻ chết sống lại và về trời để chính Ngài có thể làm cho di chúc thành tựu và phân phát của thừa kế cho chúng ta. Cho nên, chúng ta “được cứu bởi sự sống của Ngài”.
g. Hòa giải với Đức Chúa Trời (Rô 5:11)
- Chữ “của lễ chuộc tội” có nghĩa là “giải hòa, lập lại mối tương giao với Đức Chúa Trời”. Từ ngữ này cũng được đề cập đến trong câu 10. Trong Rô 1:18-32 Phao-lô giải thích con người đã chống nghịch với Đức Chúa Trời như thế nào và vì điều này, họ đã xứng đáng nhận lấy án phạt đời đời. Nhưng Đức Chúa Trời không thù nghịch với con người. Thay vào đó, Ngài sai Con Ngài làm Sứ Giả Hòa Bình (Eph 2:11-18) để nhờ đó con người có thể giải hòa với Đức Chúa Trời.
Ôn lại bảy phước hạnh về sự xưng công bình cho thấy sự cứu rỗi của chúng ta trong Đấng Christ là chắc chắn như thế nào. Hoàn toàn không bởi luật pháp nhưng do ân điển, chúng ta có được ơn cứu rỗi trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Đấng Christ đã chết thay chúng ta Ngài hiện sống vì chúng ta Và Ngài sắp trở lại vì chúng ta! Halêlugia, Ngài quả thật là Đấng Cứu Rỗi!
2. Nền tảng của sự xưng công bình (Rô 5:12-21)
Làm thế nào Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi tội nhân trong Con Người của Chúa Giê-xu Christ được? Chúng ta hiểu rằng Đấng Christ đã gánh thay chúng ta trên thập tự giá, nhưng làm thế nào có thể thay thế được?
Phao-lô trả lời vấn đề nêu ra trong phần này, và những câu này chính là cốt lõi của bức thư. Để hiểu các câu này, chúng ta cần phải hiểu một vài chân lý chung nhất về phần này.
-Đầu tiên, hay lưu ý chữ một được lặp lại nhiều lần. Nó được dùng đến mười một lần. Ý tưởng chủ yếu ở đây là sự đồng hoá với A-đam và với Đấng Christ.
-Thứ hai, hãy lưu ý sự nhắc lại của chữ cai trị được dùng năm lần. Phao-lô thấy hai người - A-đam và Đấng Christ - mỗi người cai trị trong một vương quốc. Sau hết, hãy lưu ý cụm từ là dường nào được nhắc lại năm lần. Điều này có nghĩa trong Chúa Giê-xu Christ chúng ta có được nhiều hơn chúng ta đã mất trong A-đam!
Tóm lại, phần này là sự tương phản giữa A-đam và Đấng Christ. A-đam được ban quyền quản trị trên tạo vật cũ, ông đã phạm tội và đánh mất đi vương quốc của mình.Vì tội của A-đam, mọi người đều bị định tội và chết. Đấng Christ đến làm Vua trên tạo vật mới (IICôr 5:17).
Bởi sự vâng phục của Ngài trên thập tự giá, Ngài đã mang đến công bình và sự xưng công bình. Đấng Christ không những xoá bỏ tất cả những tệ hại do ảnh hưởng của tội lỗi A-đam gây ra, nhưng Ngài còn hoàn tất việc khiến chúng ta trở nên con cái Đức Chúa Trời. Phao-lô đã giải thích một số “dường nào” trong Rô 5:1-11.
Thỉnh thoảng những người hoài nghi thắc mắc, “Đức Chúa Trời có thật công bằng khi lên án toàn thế gian chỉ vì một điều bất tuân của con người không?”
Dĩ nhiên câu trả lời không những công bằng nhưng còn là việc làm khôn ngoan và ân điển.Trước hết, nếu Đức Chúa Trời thử thách mỗi người cách riêng tư, kết quả sẽ giống nhau: đó là sự bất tuân. Nhưng còn quan trọng hơn nữa, bởi sự lên án loài người qua một người (A-đam), Đức Chúa Trời có thể cứu loài người qua Một Người (Chúa Giê-xu Christ)! Mỗi chúng ta liên hiệp hoàn toàn với A-đam vì vậy việc làm của người tác động đến chúng ta. (Hêb 7:9-10 là ví dụ về vị trí đứng đầu này).
Các thiên sứ sa ngã không thể được cứu vì họ không phải là người. Họ phạm tội và bị đoán phạt. Chẳng có ai có thể đại diện gánh lấy sự đoán phạt thay cho họ và cứu họ. Nhưng vì bạn và tôi bị hư mất trong A-đam, người làm đầu chúng ta, chúng ta có thể được cứu trong Đấng Christ, Đấng Làm Đầu của tạo vật mới.Kế hoạch của Đức Chúa Trời vừa nhân từ vừa khôn ngoan.
Câu hỏi cuối cùng chúng ta phải trả lời: Làm thế nào biết rằng chúng ta hoàn toàn liên hiệp với A-đam? Câu trả lời trong Rô 5:12-14 và lý lẽ sẽ theo chiều hướng như vầy: Chúng ta biết rằng mọi người phải chết. Nhưng sự chết là kết quả của việc không tuân giữ luật pháp. Từ A-đam cho đến Môi-se không có luật pháp, nhưng con người vẫn phải chết.
Kết quả chung chung đòi hỏi một nguyên nhân chung chung. Nguyên nhân ấy là gì? Có thể đó là việc: bất tuân của A-đam. Khi A-đam phạm tội, cuối cùng người phải chết. Tất cả con cháu người phải chết (Sa 5:1-32), tuy nhiên Luật-pháp chưa được ban xuống. Kết luận là: họ chết vì tội lỗi của A-đam. “Vì mọi người đều phạm tội” (Rô 5:12) có nghĩa “tất cả mọi người đã phạm tội trong A-đam tội lỗi”. Loài người không chết vì hành động tội lỗi của họ nếu không thì các em bé sẽ không chết (Rô 9:11). Loài người chết vì họ làm một với A-đam, và “trong A-đam mọi người đều chết” (ICôr 15:22)
Chúng ta đã hiểu các chân lý tổng quát trong phân đoạn, bây giờ có lẽ chúng ta xem xét những điểm tương phản giữa A-đam và Đấng Christ, giữa tội lỗi của A-đam và hành động vâng phục của Đấng Christ trên thập tự giá.
a. Tội lỗi của A-đam trái ngược với sự ban cho nhưng không của Đấng Christ (Rô 5:15)
- Vì tội lỗi của A-đam, nhiều người phải chết vì sự vâng lời của Đấng Christ, ân điển dư dật của Đức Chúa Trời mang đến sự sống cho nhiều người. Chữ “hết thảy” (theo nghĩa đen là “nhiều”) có nghĩa tương tự với “mọi người” trong Rô 5:12 và Rô 5:18.
Hãy lưu ý chữ “là dường nào” vì ân điển của Đấng Christ không chỉ mang lại cho cuộc sống thể xác, nhưng còn mang lại cuộc sống thuộc linh và sự sống dư dật. Chúa Giê-xu Christ đã chiến thắng sự chết và ngày kia Ngài sẽ khiến thân thể của mọi người đã chết “trong Đấng Christ” sống lại. Nếu Ngài dừng lại ở đó, Ngài chỉ có thể đảo ngược hậu quả của tội lỗi trong A-đam nhưng Ngài còn tiếp tục làm “nhiều biết dường nào”. Ngài ban sự sống dư dật cho tất cả mọi người tin Ngài (Gi 10:10).
b. Hậu quả của tội lỗi A-đam tương phản với kết quả của sự vâng lời của Đấng Christ (Rô 5:16)
- Tội lỗi của A-đam mang lại sự đoán xét và án phạt nhưng công tác của Đấng Christ trên thập tự giá mang lại sự xưng công bình. Khi A-đam phạm tội, ông đã bị kể là không công bình và có tội. Khi tội nhân tin nhận Đấng Christ, người ấy được xưng công bình - được kể là công bình trong Đấng Christ.
c. Hai “sự cai trị” đối nghịch nhau (Rô 5:17)
- Vì sự không vâng lời của A-đam, sự chết cai trị con người. Hãy đọc “gia phả của A-đam” trong Sáng thế ký chương 5, và hãy lưu ý sự lặp lại trang trọng của cụm từ “rồi qua đời”. Trong Rô 5:14, Phao-lô lý luận rằng “từ A-đam đến Môi-se” con người không chết cùng một nguyên nhân như A-đam đã chết - vi phạm luật của Đức Chúa Trời - vì lúc ấy luật pháp chưa được ban xuống. “Tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô 6:23a). Vì tội lỗi cai trị trong đời sống con người (Rô 5:21), cho nên sự chết cũng cai trị trong con người (Rô 5:14,17).
Nhưng trong Chúa Giê-xu Christ chúng ta bước vào một vương quốc mới: “Vì Nước Đức Chúa Trời chẳng tại sự ăn uống, nhưng tại sự công bình, và bình an, vui vẻ bởi Đức Thánh Linh vậy” (Rô 14: 17). “Do đó chúng ta được xưng công bình bởi đức tin” chúng ta được kể là công bình, chúng ta có sự hoà thuận với Đức Chúa Trời, và chúng ta mừng rỡ trong sự hy vọng về vinh hiển Đức Chúa Trời. Hãy lưu ý rằng chính chúng ta đang cai trị! “Họ sẽ nhờ một mình Chúa Giê-xu Christ mà cai trị trong sự sống là dường nào!”. Trong A-đam chúng ta mất đi quyền làm vua, nhưng trong Chúa Giê-xu Christ chúng cai trị như những vì vua. Chúng ta cai trị “càng nhiều hơn nữa”! Sự cai trị thiêng liêng của chúng ta càng lớn lao hơn quyền cai trị của A-đam trên đất, vì chúng ta dự phần “ân điển và sự ban cho của sự công bình dư dật” (Rô 5:17).
d. Hai “người hành động” khác nhau (Rô 5:18-19)
- A-đam không phải phạm hàng loạt tội lỗi. Đức Chúa Trời đã thử nghiệm bằng một hành động, và người đã thất bại. Điều đó được gọi là “tội lỗi” và là hành vi “không vâng lời”. Chữ tội lỗi có nghĩa là “sự xâm phạm - vượt khỏi ranh giới”.
Đức Chúa Trời phán với A-đam về khoảng cách ông có thể đi, và A-đam đã quyết định vượt ra ngoài giới hạn cho phép. “Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn nhưng về cây biết điều thiện và đều ác thì chớ hề ăn đến vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết” (Sa 2:16-17).
Tương phản với “tội lỗi của một người” là “sự công bình của một người”, có nghĩa là công tác cứu chuộc của Đấng Christ trên thập tự giá. Trong câu 19 Phao-lô gọi là “sự vâng phục của một người” (Phi 2:5-12).
Sự hy sinh của Đấng Christ trên thập tự giá không chỉ có thể làm nên “sự xưng công bình” nhưng còn là “sự xưng công bình của sự sống” (phần in nghiêng của tôi). Xưng công bình không chỉ là một thuật ngữ pháp luật mô tả địa vị của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời (“y như thể tôi chưa hề phạm tội”) nhưng điều đó đưa đến sự sống chắc chắn.
“Xưng công bình ban sự sống” trong Rô 5:18 tương ứng với “được làm ra công bình” trong Rô 5:19. Nói cách khác, sự xưng công bình của chúng ta là kết quả của sự sống gắn liền với Đấng Christ. Và sự liên hiệp này phải kết quả một đời sống mới, nếp sống công bình vâng phục Đức Chúa Trời. Sự gắn liền với A-đam khiến chúng ta trở thành tội nhân sự kết liên với Đấng Christ giúp chúng ta có thể “cai trị trong sự sống”
e. Luật pháp và ân điển trái ngược nhau (Rô 5:20-21)
- “Rồi thì luật pháp len lỏi vào...” (bản dịch của Charles B.Williams) hoặc, “Rồi luật pháp lan tràn đến gần... “ (dịch theo nghĩa đen). Ân điển không phải là sự thêm vào chương trình của Đức Chúa Trời nhưng ân điển là một phần trong chương trình của Đức Chúa Trời từ buổi ban đầu. Đức Chúa Trời đối xử A-đam và Ê-va trong ân điển Ngài Ngài đối đãi với các tổ phụ bằng ân huệ của Ngài và Ngài dùng ân điển đối cùng dân Y-sơ-ra-ên. Ngài ban luật pháp qua Môi-se, không phải để thay thế cho ân điển, nhưng để tỏ bày nhu cầu của con người cần đến ân điển. Luật pháp là tạm thời, nhưng ân điển thì đời đời.
Nhưng khi luật pháp khiến cho tội lỗi con người gia thêm, ân điển Đức Chúa Trời lại càng dư dật. Ân điển Đức Chúa Trời có dư đầy so với tội lỗi của con người. Cho dù tội lỗi và sự chết còn cai trị trong thế gian này, nhưng ân điển Đức Chúa Trời cũng đang cầm quyền bởi sự công bình của Đấng Christ. Thân thể người theo Chúa lệ thuộc vào sự chết và bản chất cũ lôi kéo con người phạm tội nhưng trong Chúa Giê-xu Christ, họ có thể “cai trị trong sự sống” vì họ là một bộ phận trong nước ân điển của Đấng Christ.
Một câu chuyện trong Cựu-ước giúp chúng ta hiểu được sự mâu thuẫn giữa hai “sự cai trị” này trong thế giới ngày nay. Đức Chúa Trời từ chối không cho Sau-lơ làm vua Y-sơ-ra-ên, và Ngài xức dầu cho Đa-vít làm vua. Những ai tin cậy Vua Đa-vít kết cuộc sẽ cùng hưởng với vua trong nước bình an, vui vẻ. Những người theo Sau-lơ kết thúc trong xấu hổ và thất bại.
Giống như Đa-vít. Chúa Giê-xu Christ là Vua được Đức Chúa Trời xức dầu. Giống như Sau-lơ, Sa-tan vẫn còn tự do hành động trong thế gian này và tìm cách thu hút sự ủng hộ của nhiều người. Tội lỗi và sự chết đang cầm quyền trên “tạo vật cũ”trong đó A-đam đứng đầu hàng, nhưng ân điển và sự công bình đang cai trị trong “tạo vật mới” trong đó Chúa Giê-xu Christ là Đấng Làm Đầu. Và khi vâng phục Ngài, chúng ta “cai trị trong sự sống”.
Trong Rô 5:14, A-đam được gọi là “hình bóng Đấng phải đến”. A-đam là hình bóng, hoặc hình ảnh của Chúa Giê-xu Christ. A-đam ra từ đất, nhưng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời ra từ trời (ICôr 15:47). A-đam được thử luyện trong khu vườn bao quanh bằng vẻ đẹp và yêu thương nhưng Chúa Giê-xu bị thử thách trong đồng vắng, và Ngài chết trên thập tự giá có những kẻ ghen ghét và gian ác bao quanh. A-đam là kẻ hái trộm và bị Đức Chúa Trời đuổi ra ngoài vườn phước hựu nhưng Chúa Giê-xu Christ quay lại với kẻ trộm và phán, “Hôm nay ngươi sẽ ở với Ta trong nơi Ba-ra-đi” (Lu 23:43).
• Cựu-ước là “sách gia phả của A-đam” (Sa 5:1) và kết thúc bằng lời rủa sả (Ma 4: 6).
• Tân-ước là “Sách Gia-phả của Chúa Giê-xu Christ” (Mat 1:1) và kết thúc bằng lời phán “không còn có sự nguyền rủa nữa” (Kh 22:3).
Bạn không thể không tồn tại “trong A-đam”, vì điều này xảy ra do sự sinh ra thứ nhất của bạn mà bạn không kiểm soát được. Nhưng bạn có thể thoát khỏi ở “trong A-đam”, vì bạn có thể kinh nghiệm sự sinh ra thứ hai - sự tái sinh từ trên cao - sẽ đặt bạn vào “trong Đấng Christ”. Đây là lý do tại sao Chúa Giê-xu phán, “Các ngươi phải sanh lại” (Gi 3:7).
6. CHẾT ĐỂ SỐNG (Rô 6:1-23)
Trong một phiên tòa, vị luật sư bào chữa thường đứng lên và nói, “Thưa Ngài, Tôi phản đối!”.
Một số tín hữu Rô-ma chắc chắn cảm thấy dường như họ phản đối khi nghe đọc thư Phao-lô viết, và có lẽ Phao-lô đọc được suy nghĩ của họ. Trong Rô 6:1-8:39 Phao-lô bảo vệ cho giáo lý xưng nghĩa bởi đức tin của ông.
Ông dự kiến ba sự phản kháng: (1) “Nếu ân điển của Đức Chúa Trời có dư khi chúng ta phạm tội, vậy thì chúng ta hãy cứ phạm tội để chúng ta có thể kinh nghiệm ân điển nhiều hơn” (Rô 6:1-14) (2) “Nếu chúng ta không còn ở dưới luật pháp, vậy thì chúng ta được tự do sống tuỳ thích“ (Rô 6:15-7:6) và (3) “Anh em đã làm cho luật pháp của Đức Chúa Trời ra tội lỗi” (Rô 7:7-25).
Những đối kháng này chứng tỏ rằng các độc giả không hiểu luật pháp lẫn ân điển. Họ đang đến những thái cực: một mặt làm theo luật pháp và mặt khác lại tuỳ tiện.Vì vậy khi Phao-lô binh vực cho sự xưng công bình, ông cũng giải thích sự nên thánh. Người cho chúng ta biết chúng ta có thể sống nếp sống đắc thắng (chương 6), tự do (chương 7), bảo đảm (chương 8). Người giải thích mối liên hệ của chúng ta với xác thịt, luật pháp, và Thánh Linh. Trong chương 6, Phao-lô cung cấp ba lời chỉ dẫn để đạt được nếp sống đắc thắng tội lỗi.
1. Biết (Rô 6:1-10)
Chữ “biết” lặp lại trong Rô 6:1,6,9 cho thấy rằng Phao-lô muốn chúng ta hiểu một giáo lý căn bản. Sự sống Cơ-đốc tuỳ thuộc vào sự học biết của Cơ-đốc nhân bổn phận luôn luôn căn cứ vào giáo lý. Nếu Sa-tan có thể giữ một Cơ-đốc nhân trong sự dốt nát, nó có thể giữ người ấy trong tình trạng bất lực.
Chân lý căn bản Phao-lô muốn dạy dỗ là sự đồng chết với Đấng Christ, đồng chôn và đồng sống lại. Giống như chúng ta đã đồng nhất hoá với A-đam trong tội lỗi và sự đoán phạt, cũng vậy bây giờ chúng ta cũng đồng hoá với Đấng Christ trong sự công bình và xưng nghĩa. Trong Rô 5:12, Phao-lô chuyển tiếp từ việc bàn luận “các tội lỗi” đến việc bàn luận “tội lỗi” - từ các hành động đến nguyên tắc, từ bông trái cho đến gốc rễ. Chúa Giê-xu Christ không những chết thay cho tội lỗi chúng ta, nhưng Ngài còn chết đối với tội lỗi, và chúng ta chết với Ngài. Có lẽ biểu đồ sẽ giải thích những điểm tương phản rõ hơn.
• Rô-ma 3:21-5:21 | • Rô-ma 6:1-8:39 |
Thay thế: Ngài đã chết thay tôi | Đồng nhất hoá: Tôi đồng chết với Ngài |
Ngài chết vì tội lỗi tôi | Ngài chết đối với tội lỗi |
Ngài trả án phạt của tội lỗi | Ngài phá bỏ quyền lực của sự chết |
Sự Xưng Nghĩa: Được kể là công bình | Sự Nên Thánh: Được dự phần trong sự công bình |
Được cứu bởi sự chết của Ngài | Được Cứu bởi sự sống của Ngài. |
Nói cách khác, xưng công bình bởi đức tin không chỉ là vấn đề luật pháp giữa tôi và Đức Chúa Trời nhưng đó là mối tương giao sống động. Đó là “sự xưng công bình mang lại sự sống” (Rô 5:18). Tôi ở trong Đấng Christ và đồng nhất hóa với Ngài.
Do đó, bất cứ điều gì xảy ra cho Đấng Christ đã xảy ra cho tôi. Khi Ngài chết, tôi đã chết. Khi Ngài sống lại, tôi sống lại trong Ngài. Hiện nay tôi được ngồi với Ngài trong các nơi trên trời! (Eph 2:1-10; Co 3:1-3). Vì sự liên hiệp sống với Đấng Christ, người tin Chúa có mối tương quan hoàn toàn mới đối với tội lỗi.
a. Ngài đã chết đối với tội lỗi (Rô 6:2-5)
- Phao-lô dùng hình ảnh Báp-têm để minh hoạ. Chữ Báp-têm trong tiếng Hy-lạp có hai nghĩa căn bản: (1) nghĩa đen - dìm xuống hoặc nhận chìm và (2) nghĩa bóng - đồng nhất hóa.
Ví dụ cho ý nghĩa thứ hai chép trong ICôr 10:2: “Chịu Môi-se làm phép báp-têm trong đám mây và dưới biển”. Dân Do-thái nhận Môi-se làm nhà lãnh đạo của họ khi họ vượt qua Biển Đỏ.
Rõ ràng Phao-lô nghĩ đến cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng trong đoạn này, vì ông dùng từng trải báp-têm bằng nước của độc giả để nhắc họ nhớ về sự giống Đấng Christ của họ bởi phép Báp-têm Thánh Linh. Chịu “phép báp-têm trong Chúa Giê-xu Christ” (Rô 6:3) giống như “chịu báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân (ICôr 12:13).
Có sự khác biệt giữa báp-têm bằng nước và báp-têm bằng Thánh Linh (Gi 1:33). Khi tội nhân tin nhận Đấng Christ, tức thì được sinh ra trong gia đình của Đức Chúa Trời và nhận ơn của Đức Thánh Linh. Hình ảnh minh họa cho điều này là người nhà Cọt-nây khi họ nghe Phi-e-rơ rao giảng (Công 10:34-38). Khi những người này tin vào Đấng Christ, tức thì họ nhận lãnh Đức Thánh Linh. Và sau đó họ nhận làm phép báp-têm. Lời của Phi-e-rơ “Bất kỳ ai tin Ngài sẽ nhận lãnh ân xá” cho họ lời hứa họ cần đến. Họ tin - và họ được cứu!
Các sử gia đồng ý rằng phương thức báp-têm trong Hội thánh đầu tiên là dìm mình trong nước. Người tin Chúa được “chôn” trong nước và ra khỏi nước như là bức tranh của sự chết, chôn, và sống lại. Phép báp-têm bằng cách nhúng xuống nước (Phao-lô dùng hình ảnh minh hoạ này trong Rô 6:1-23) hình bóng về người tín đồ đồng chết, đồng chôn và đồng sống lại với Đấng Christ. Đó là biểu tượng bên ngoài nói về kinh nghiệm bên trong.
Phao-lô không có ý nói rằng việc chìm xuống nước đặt họ “vào trong Đấng Christ”, vì Đức Thánh Linh hoàn thành điều đó khi họ tin nhận Chúa. Sự dìm mình trong nước là hình ảnh việc làm của Đức Thánh Linh: Đức Thánh Linh đồng nhất hóa họ với Đấng Christ trong sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài.
Điều này có nghĩa là người tin Chúa có mối liên hệ mới đối với tội lỗi. Người ấy “chết đối với tội lỗi”. “Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ...” (Ga 2:20). Nếu một người say rượu chết, người ấy không còn bị rượu cám dỗ nữa vì thân thể anh ta đã chết với mọi cảm giác thèm muốn. Anh ta không thể nhìn thấy rượu, không ngửi được mùi vị của nó hoặc thèm muốn nó nữa.
Trong Chúa Giê-xu Christ chúng ta đã chết đối với tội lỗi để không còn muốn “tiếp tục sống trong tội lỗi” nữa.Nhưng chúng ta không những chết đối với tội lỗi nhưng cũng sống trong Đấng Christ nữa. Chúng ta đã từ kẻ chết sống lại và hiện nay chúng ta bước đi trong quyền năng của sự sống lại của Ngài. Chúng ta bước đi trong “đời sống mới” vì chúng ta dự phần trong sự sống của Ngài. “Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ, mà tôi sống” (Ga 2:20).
Chân lý thuộc linh lạ lùng này được minh hoạ qua phép lạ La-xa-rơ sống lại (Gi 11:1-46). Khi Chúa Giê-xu đến làng Bê-tha-ni, La-xa-rơ được chôn trong mộ bốn ngày vì vậy chẳng có ai thắc mắc gì về cái chết của ông. Bằng quyền năng của Lời phán (“Hỡi La-xa-rơ, hãy bước ra!”) Chúa Giê-xu đã kêu người bạn của Ngài sống lại. Nhưng khi La-xa-rơ xuất hiện tại cửa mộ, khăn liệm vẫn còn quấn chung quanh ông.
Vì vậy Chúa Giê-xu truyền lệnh, “Hãy mở cho người để người đi!”. Ông đã được sống lại để bước đi “vào sự sống mới”. Trong Gi 12:1-11, La-xa-rơ được ngồi đồng bàn với Chúa Giê-xu, được tương giao với Ngài. Chết - được sống lại -được giải phóng tự do bước vào sự sống mới - được đồng ngồi với Đấng Christ: Tất cả các sự kiện này minh họa những chân lý thuộc linh về việc chúng ta giống Đấng Christ chép trong Eph 2: 1-10.
Có lắm người là “những người sống nửa vời”: họ sống giữa tình cảnh tại Ai-cập và xứ Ca-na-an, họ được cứu nhưng chẳng bao giờ thỏa lòng hoặc họ sống giữa lễ Thương Khó và Phục Sinh, họ tin vào thập tự giá nhưng không bước vào quyền năng và vinh quang của sự sống lại. Câu Rô 6:5 cho chúng ta thấy việc chúng ta hiệp làm một với Đấng Christ bảo đảm rằng sự sống lại của chúng ta trong tương lai là chắc chắn. Nhưng câu Rô 6:4 dạy rằng hôm nay chúng ta dự phần trong quyền năng sự sống lại của Ngài. “Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy để lòng hướng về các sự ở trên trời...Vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời” (Col Rô 3:1,3).
Vậy thì rõ ràng người tin Chúa không thể cứ sống trong tội lỗi vì họ có mối tương quan mới đối với tội lỗi do họ hiệp làm một với Đấng Christ. Người tin Chúa đã chết đối với nếp sống cũ họ đã được sống lại để hưởng đời sống mới. Con cái Chúa không còn muốn trở lại với tội lỗi nữa cũng như La-xa-rơ không muốn quay lại vào phần mộ mang lấy vải liệm trên người! Kế đến Phao-lô giới thiệu sự kiện thứ hai:
b. Họ không nên phục dưới tội lỗi (Rô 6:6-10)
- Tội lỗi là người chủ độc ác, và người chủ ấy phát hiện một tên đầy tớ ngoan ngoãn trong thân thể con người. Thân thể không phải là tội lỗi thân thể là trung tính. Thân thể hoặc có thể thuộc về tội lỗi hoặc thuộc về Đức Chúa Trời. Nhưng bản chất sa ngã của con người không được thay đổi lúc tin nhận Chúa đã tạo điều kiện cho tội lỗi có thể tấn cống và chiếm hữu thân thể. Phao-lô bày tỏ vấn đề: “Vả tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi đâu, nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành nhưng không có quyền làm trọn” (Rô 7:18).
Một việc lạ lùng được giới thiệu ở đây: con người cũ (bản chất cũ, cái tôi) đã bị đóng đinh với Đấng Christ để thân thể không phải bị tội lỗi cai trị. Chữ “bị tiêu diệt” trong Rô 6:6 không có nghĩa là bị huỷ diệt nhưng có nghĩa là “dẫn đến tình trạng thụ động, không bị ảnh hưởng”.
Trong tiếng Hy-lạp cùng chữ này dịch là “được thoát khỏi” trong Rô 7:2. Nếu người chồng chết đi, người vợ được “thoát khỏi” luật pháp đã buộc mình với chồng và người tự do lấy người khác. Có sự thay đổi trong mối quan hệ. Luật pháp vẫn còn đó, nhưng nó không có quyền trên người phụ nữ vì chồng người đã chết.
Tội lỗi muốn làm chủ chúng ta. Nó tìm thấy trong bản chất cũ một nơi trú ẩn chắc chắn, và qua bản chất cũ nó tìm cách cai trị các chi thể trong thân. Nhưng trong Chúa Giê-xu Christ, chúng ta chết đối với tội lỗi bản ngã xác thịt đã bị đóng đinh để nếp sống cũ không còn hành động. Phao-lô không có ý muốn mô tả một kinh nghiệm nhưng ông muốn nêu lên một sự kiện. Kinh nghiệm thực tế phải đến sau. Chúa Giê-xu Christ chịu chết trên thập tự giá là một sự kiện lịch sử, và người tín đồ đồng chết với Ngài cũng là một sự kiện lịch sử “vì ai đã chết thì được tự do khỏi tội lỗi” (Rô 6:7). Không phải “tự do để phạm tội” như mấy người kiện cáo Phao-lô nói sai nhưng “được tự do khỏi tội lỗi”.
Tội lỗi và sự chết không có quyền trên Đấng Christ. Chúng ta “ở trong Đấng Christ” do đó, tội lỗi và sự chết không cai trị chúng ta. Chúa Giê-xu Christ không những chết “vì tội lỗi” nhưng Ngài cũng chết “đối với tội lỗi”. Tức là, Ngài không chỉ trả án phạt của tội lỗi, Ngài còn phá bỏ quyền lực của tội lỗi. Ý tưởng về quyền thống trị dẫn chúng ta trở lại với Rô 5:12-21 nơi Phao-lô đã luận về “quyền cai trị” của tội lỗi, sự chết, và ân điển. Bởi Đấng Christ, chúng ta “cai trị trong sự sống” (Rô 5:17) để tội lỗi không còn chiếm hữu đời sống chúng ta nữa.
Bây giờ câu hỏi trọng đại là, “Tôi tin những sự kiện trong lịch sử nhưng làm thế nào thực hiện công việc này trong kinh nghiệm sống hằng ngày?” Điều này dẫn đến lời chỉ dẫn thứ hai.
2. Kể như (Rô 6:11)
Ở một số vùng tại Hoa-Kỳ, động từ “kể như” có nghĩa “cho là” hoặc “nghĩ rằng”. “Tôi coi là” cũng đồng nghĩa với “Tôi cho rằng”. Nhưng không có ý nghĩa nào ở đây có thể dùng trong câu Kinh Thánh này. Chữ kể như dịch từ tiếng Hy-lạp được dùng 41 lần trong Tân-ước - riêng sách Rô-ma có đến 19 lần. Trong Rô 4:1-25 chữ ấy được dịch là “tính, kể, quy cho”. Có nghĩa là “vào sổ, đánh giá, ước lượng”. Chữ quy cho - “nhập vào tài khoản” - có lẽ là cách dịch hay nhất.
Kể như có nghĩa “nhập vào tài khoản của người nào”. Nó mang nghĩa đơn giản đó là phải tin rằng những gì Đức Chúa Trời phán trong Lời của Ngài là thật và thật sự sống động trong đời sống bạn.
Phao-lô không dạy người đọc phải cảm thấy như thể họ đã chết trong tội lỗi, hoặc thậm chí hiểu tội lỗi cách đầy đủ, nhưng ông dạy họ phải làm theo lời Đức Chúa Trời và để lời Chúa thâm nhập vào chính mình. “kể như” là vấn đề của đức tin kết quả bằng hành động.
Nó giống như việc chứng thực một ngân phiếu: nếu chúng ta thật sự tin rằng khoản tiền nằm trong tài khoản tại ngân hàng chúng ta có thể ký tên vào và rút tiền ra. Việc coi mình không đòi hỏi một lời hứa, nhưng tác động đến một sự kiện. Đức Chúa Trời không đòi hỏi chúng ta trở nên chết đối với tội lỗi.Ngài dạy rằng chúng ta hiện chết với tội lỗi và sống đối với Đức Chúa Trời, và rồi Ngài đòi hỏi chúng ta phải có hành động phù hợp. Cho dù chúng ta không có hành động thì sự kiện vẫn là thật.
Lời chỉ dẫn đầu tiên của Phao-lô (“biết”) tập trung vào tâm trí, và lời chỉ dẫn thứ hai này (“kể như”) tập trung vào tấm lòng. Lời chỉ dẫn thứ ba nói đến ý chí.
3. Quy phục (Rô 6:12-23)
Chữ quy phục tìm thấy năm lần trong phần này (Rô 6:13,16,19), có nghĩa là “để tuỳ ý sử dụng, tặng cho, hiến làm của hi sinh.” Theo Rô 12:1 thân thể người tin Chúa phải dâng cho Chúa làm “của lễ sống” vì vinh hiển của Ngài. Các của lễ trong Cựu-ước là những của lễ chết. Có thể Chúa yêu cầu một số người trong chúng ta phải chết vì cớ Ngài, nhưng Ngài yêu cầu hết thảy chúng ta phải sống vì Ngài.
a. Chúng ta phải qui phục như thế nào (Rô 6:12-13)
- Đây là hành động của ý chí dựa trên nền tảng sự hiểu biết chúng ta có được về những gì Đấng Christ đã làm cho chúng ta. Đó là hành động khôn ngoan - chớ không phải là quyết định nóng vội trong phút chốc dựa trên cảm xúc nhất thời nào đó. Lưu ý đến thì của các động từ trong những câu này thật là quan trọng. Bản dịch theo nghĩa đen đó là: “Đừng bao giờ cho phép tội lỗi cai trị trong thân thể hay chết của bạn để bạn phải vâng theo lòng ham muốn của nó.Cũng đừng nộp các chi thể trong thân thể của bạn làm vũ khí (hoặc công cụ) cho việc làm không công bình của tội lỗi nhưng hãy phó chính mình cho Đức Chúa Trời một lần đủ cả.” Sự vâng phục một-lần-đủ-cả ấy được mô tả trong Rô 12:1.
Trong đời sống người tin Chúa, thân thể phải đầu phục Chúa Giê-xu Christ trọn vẹn và đầy đủ. Điều này không có nghĩa sẽ không có những bước xa hơn trong sự vâng phục, vì sẽ có những bước ấy. Chúng ta càng bước đi với Đấng Christ bao lâu, mối tương giao với Chúa càng thâm sâu bấy nhiêu. Nhưng không thể có những bước kế tiếp nếu không có bước đầu tiên. Thì của động từ trong Rô 12:1 phù hợp với thì trong Rô 6:13 - vâng phục Chúa một-lần-đủ-cả. Đúng là, chúng ta vâng phục Ngài mỗi ngày nhưng ngay cả việc vâng phục ấy cũng đặt nền tảng trên sự vâng phục trọn vẹn và cuối cùng.
Tại sao Chúa cần đến thân thể chúng ta? Trước hết, thân thể tín hữu là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Ngài muốn dùng thân thể làm vinh hiển Ngài (ICôr 6:19-20; Phil 1:20-21) Nhưng Phao-lô viết rằng thân thể còn là đồ dùng của Đức Chúa Trời và là vũ khí của Ngài (Rô 6:13). Đức Chúa Trời muốn các chi thể trong thân thể làm đồ dùng để xây dựng Nước Ngài và là vũ khí để chiến trận cùng kẻ thù Ngài.
Kinh Thánh dạy về những người để Đức Chúa Trời chiếm hữu và dùng thân thể của họ làm ứng nghiệm chương trình của Ngài. Đức Chúa Trời dùng cây gậy trong tay Môi-se chiến thắng dân Ai-cập. Ngài dùng cái trành ném đá trong tay Đa-vít để đánh bại dân Phi-li-tin. Ngài dùng môi miệng của các Đấng Tiên Tri. Phao-lô dâng đôi bàn chân của mình đi từ thành phố này đến thành phố kia rao báo Phúc-Âm. Mắt của sứ đồ Giăng nhìn thấy các mạc khải về tương lai, lỗ tai của ông nghe sứ điệp của Đức Chúa Trời và các ngón tay ông viết ra tất cả vào trong sách để chúng ta có thể đọc được.
Nhưng bạn còn có thể đọc trong các câu chuyện Kinh Thánh kể về các chi thể trong thân thể được dùng cho mục đích tội lỗi. Mắt của Đa-vít dòm xem vợ của người hàng xóm tâm trí của ông âm mưu phạm tội bàn tay của người đã hèn hạ ký lệnh để cho người chồng của phụ nữ ấy phải chết. Khi đọc Thi 51: 1-19 bạn thấy rằng toàn bộ thân thể của ông bị tội lỗi tác động đến: đôi mắt (Rô 6:3), tâm trí (Rô 6:6), lỗ tai (Rô 6:8), tấm lòng (Rô 6:10), môi miệng (cc.14-15). Ông cầu xin Chúa rửa sạch hoàn toàn là điều chẳng có gì ngạc nhiên cả! (Ro 6:2)
b. Tại sao chúng ta phải vâng phục (Rô 6:14-23)
- Ba chữ tóm tắt các lý do để chúng ta phải vâng phục: ân điển (Rô 6:14-15), tự do (Rô 6:16-20), và kết quả (Rô 6:21-23).
(1) Ân điển (Rô 6:14-15).
Chính do ân điển của Đức Chúa Trời chúng ta tự mình vâng phục Ngài. Phao-lô chứng minh rằng chúng ta không được cứu bởi luật pháp và chúng ta không sống dưới luật pháp. Việc chúng ta được cứu bởi ân điển không cho chúng ta lời bào chữa cho tội lỗi nhưng cho chúng ta lý do phải vâng lời.Tội Lỗi và luật pháp đi đôi với nhau. “Cái nọc sự chết là tội lỗi, sức mạnh tội lỗi là luật pháp.” (ICôr 15:56). Vì chúng ta không thuộc dưới luật pháp, nhưng thuộc dưới ân điển, tội lỗi bị mất đi sức mạnh của nó.
(2) Tự do (Rô 6:16-20).
Hình ảnh minh họa về người chủ và tên đầy tớ thật rõ ràng. Bất cứ điều gì bạn vâng phục sẽ trở thành chủ của bạn. Trước khi bạn được cứu, bạn là nô lệ của tội lỗi. Bây giờ bạn thuộc về Chúa Giê-xu Christ, bạn được tự do thoát khỏi tình trạng nô lệ xưa cũ và được khiến trở nên tôi tớ của Đấng Christ.
Rô 6:19 cho thấy rằng Cơ-đốc nhân thành tâm vâng phục Chúa như đã từng vâng phục tội lỗi. Một người bạn có lần nói với tôi: “Tôi muốn làm một thánh nhân giống như tôi đã là tội nhân!”. Tôi biết ý anh ấy muốn nói vì trong những ngày không tin anh ấy gần như là “sếp của các tội nhân”.
Người không tin Chúa được tự do - tự do đối với sự công bình (Rô 6:20). Nhưng xiềng xích tội lỗi chỉ đưa họ dấn sâu vào trong sự nô lệ để ngày càng khó làm điều ngay thẳng. Người con trai hoang đàng là môt thí dụ về điều này (Lu 15:11-24).
Khi còn nhà, anh ta quyết định muốn tự do, vì vậy anh ta bỏ nhà ra đi để tự mình vui chơi thoả thích. Nhưng sự ương ngạnh của anh ta chỉ đưa anh ta lún sâu vào trong sự nô lệ. Anh ta là tên nô lệ cho các ham muốn sai trái, sau đó là nô lệ cho các hành động sai lầm và cuối cùng anh ta trở nên kẻ nô lệ đúng nghĩa của nó khi anh ta chăn heo.
Anh ta muốn tìm thấy chính mình nhưng đã đánh mất chính mình! Những gì anh ta nghĩ là tự do lại sinh ra cảnh nô lệ tồi tệ nhất. Chỉ khi nó trở về nhà và đầu phục cha anh ta mới tìm thấy được tự do thật.
(3) Kết quả (Lu 6:21-23).
Nếu bạn phục vụ người chủ, bạn có thể mong mỏi nhận tiền lương. Tội lỗi trả tiền công cho bạn - đó là sự chết! Đức Chúa Trời cũng trả công - đó là sự thánh khiết và sự sống đời đời. Trong nếp sống cũ, chúng ta đã làm ra những việc khiến chúng ta xấu hổ. Trong nếp sống mới trong Đấng Christ, chúng ta sanh bông trái làm vinh hiển Đức Chúa Trời và đem lại niềm vui cho cuộc đời chúng ta.
Chúng ta thường áp dụng Rô 6:23 đối với những người hư mất, và chắc chắn chúng ta đã làm điều đó nhưng câu Kinh Thánh ấy còn là lời cảnh cáo dành cho người được cứu. (Dẫu sao lời Kinh Thánh ấy đã viết cho Con cái Chúa). “Có tội không đến nỗi chết” (IGi 5:17). “Ấy vì cớ đó mà trong anh em có nhiều kẻ tật nguyền và lắm kẻ ngủ” (ICôr 11:30).
Chẳng hạn, Sam-sôn không chịu đầu phục Đức Chúa Trời, nhưng thích chiều theo sự ham muốn của xác thịt, và kết quả là sự chết (Cac 16:1-31). Nếu người tin Chúa không chịu dâng thân thể mình cho Chúa, nhưng dùng các chi thể mình vào mục đích tội lỗi, lúc ấy họ đang ở trong nguy cơ bị Đức Chúa Cha kỹ luật và điều này có thể là sự chết. (Hêb 12:5-11 lưu ý phần cuối của câu 9).
Đây là ba lời chỉ dẫn cần phải lưu ý mỗi ngày chúng ta sống. HÃY BIẾT rằng bạn đã bị đóng đinh với Đấng Christ và đã chết với tội lỗi. HÃY KỂ NHƯ sự kiện này thật sự xảy ra trong đời sống bạn. HÃY QUY PHỤC thân thể bạn cho Chúa sử dụng làm sáng danh Ngài.
Bây giờ bạn BIẾT các chân lý này, KỂ NHƯ chúng thật xảy ra trong đời sống mình, và HÃY QUY PHỤC chính mình cho Đức Chúa Trời.
7. CƠ-ĐỐC NHÂN VÀ LUẬT PHÁP (Rô 7:1-25)
Trong bản chất con người có điều gì đó khiến chúng ta muốn có những hành động cực đoan, một nhược điểm làm cho con cái Chúa không hoàn toàn tự do. “Vì chúng ta được cứu bởi ân điển”, một số người lý luận, “chúng ta được tự do sống tuỳ thích”, đó là thái độ tuỳ tiện.
Số người khác lập luận, “Nhưng chúng ta không thể làm ngơ với luật pháp Đức Chúa Trời được. Chúng ta được cứu nhờ ân điển là điều chắc chắn nhưng chúng ta phải sống dưới luật pháp nếu chúng ta muốn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời”. Đây là thái độ đề cao luật pháp.
Phao-lô trả lời nhóm người đầu tiên trong chương 6, nhóm thứ hai được trả lời trong chương 7. Chữ luật pháp được dùng 23 lần trong chương này. Ở chương 6, Phao-lô dạy chúng ta cách nào thôi không làm điều xấu ở chương 7 ông dạy thế nào không làm điều lành. Ông lý luận, “Anh em không được xưng công bình bởi việc giữ luật pháp, và bạn không thể được thánh hoá do việc gìn giữ luật pháp.”
Mỗi con cái Chúa lớn lên hiểu được kinh nghiệm trong Rô-ma chương 6 và 7. Một khi chúng ta học biết cách “biết, kể mình như là, và quy phục”, chúng ta bắt đầu chiến thắng được các thói quen của xác thịt, và chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang trở nên thiêng liêng hơn. Chúng ta tự lập cho mình các tiêu chuẩn và lý tưởng cao đẹp và dường như trong khoảnh khắc chúng ta đạt được tất cả những điều đó. Rồi mọi sự đổ sập!
Chúng ta bắt đầu nhìn lại lòng mình và khám phá ra rằng chúng ta không biết rằng tội lỗi vẫn còn ở đó. Luật pháp thánh khiết của Đức Chúa Trời nhận năng quyền mới, và chúng ta tự hỏi liệu chúng ta có làm điều tốt nào chăng! Không nhận ra điều đó, chúng ta đã bước vào “sự giữ luật pháp” và học biết chân lý về tội lỗi, luật pháp, và về chính chúng ta.
“Làm theo luật pháp” thật sự là gì? Đó là lòng tin rằng tôi có thể trở nên thánh khiết và làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bởi việc vâng giữ điều răn. Đó là trình độ thuộc linh được đánh giá qua hàng loạt những việc làm và những việc không làm.Nhược điểm của việc tuân giữ luật pháp đó là thấy tội lỗi (số nhiều) nhưng không thấy tội lỗi (căn nguyên của rắc rối). Xét đoán theo bề ngoài chớ không theo bề trong. Hơn nữa, người làm theo luật pháp không hiểu mục đích thật sự của luật pháp Đức Chúa Trời và mối quan hệ giữa luật pháp và ân điển.
Trong kinh nghiệm chức vụ mục sư, tôi đã tư vấn cho nhiều người trải qua những mất mát nặng nề về thuộc linh lẫn tình cảm vì họ cố sức sống nếp sống thánh khiết trên những tiêu chuẩn cao. Tôi đã thấy hậu quả của những nổ lực này: hoặc người ta trở thành người giả vờ, hoặc họ nếm mùi thất bại và bỏ hết những khát khao sống nếp sống tin kính. Tôi cũng thấy nhiều người tuân giữ luật pháp cực kỳ nghiêm khắc với người khác - họ chỉ trích, không yêu thương và không tha thứ.
Phao-lô muốn cho các độc giả của ông tránh được kinh nghiệm nguy hiểm và khó khăn này. Trong Rô-ma chương 7, ông bàn đến ba chủ đề, nếu hiểu và áp dụng sẽ giải thoát chúng ta khỏi việc tuân giữ luật pháp.
1. Thẩm quyền của luật pháp (Rô 7:1-6)
Các câu Kinh Thánh này thực sự tiếp tục việc bàn luận Phao-lô bắt đầu trong Rô 6:15, trả lời cho câu hỏi, “Chúng ta có phạm tội vì không ở dưới luật pháp nhưng dưới ân điển không?”. Ông dùng minh họa một người chủ và tên đầy tớ để giải thích cách nào con cái Chúa vâng phục Đức Chúa Trời. Trong phân đoạn này ông dùng minh hoạ người chồng và người vợ để cho thấy người tin Chúa có mối quan hệ mới đối với luật pháp vì họ đã liên hiệp với Chúa Giê-xu Christ.
Minh họa này là một hình ảnh đơn giản, nhưng có bài học sâu sắc. Khi một người nam người nữ lập gia đình, họ được kết hiệp để sống với nhau. Hôn nhân là mối liên kết xác thịt (“Cả hai nên một thịt” Sa 2:24) và mối liên kết này chỉ có thể bị phá vỡ do một nguyên nhân thể chất khác.
Nguyên nhân ấy là sự chết (Mat 5:31-34; Mat 19:1-12 cho thấy rằng không chung thuỷ cũng phá vỡ sự ràng buộc hôn nhân, nhưng Phao-lô không đưa ra điểm này. Ông không có ý bàn luận về hôn nhân và li dị nhưng ông muốn dùng hôn nhân để minh họa một quan điểm).
Họ còn sống bao lâu, người chồng người vợ còn ở dưới quyền của luật hôn nhân. Nếu người vợ bỏ chồng và cưới người đàn ông khác, nàng phạm tội ngoại tình. Nhưng nếu người chồng chết, nàng tự do tái giá vì nàng không còn là người vợ nữa. Chính sự chết đã phá vỡ mối liên hệ hôn nhân và để nàng tự do.
Bài học của Phao-lô trong câu 4 đến câu 6 giải quyết xong lập luận. Ông nêu lên hai sự kiện tuyệt diệu để giải thích cho mối quan hệ của con cái Chúa đối với luật pháp
a. Chúng ta chết đối với luật pháp (Rô 7:4)
- Dường như Phao-lô mâu thuẫn với minh họa của ông nhưng không phải vậy. Khi chúng ta chưa được cứu (“trong xác thịt.”, Rô 7:5), chúng ta ở dưới quyền sai khiến của luật pháp Đức Chúa Trời. Chúng ta bị luật pháp ấy lên án Khi chúng ta tin nhận Đấng Christ và làm một cùng Ngài, chúng ta chết đối với luật pháp giống như chúng ta chết đối với xác thịt (Rô 6:1-10). Luật pháp không chết nhưng chúng ta chết.
Nhưng trong hình ảnh Phao-lô minh họa về hôn nhân, chính người chồng chết và người vợ lập gia đình trở lại. Nếu bạn và tôi tiêu biểu cho người vợ và luật pháp tiêu biểu cho người chồng, thế thì bài học áp dụng không theo hình ảnh minh hoạ. Nếu người vợ trong minh hoạ chết, phương cách duy nhất nàng có thể lập gia đình trở lại là sẽ phải trở về từ cõi chết.
Nhưng đó lại chính xác là điều Phao-lô muốn dạy! Khi tin nhận Đấng Christ, chúng ta đã chết đối với luật pháp nhưng trong Đấng Christ, chúng ta sống lại từ cõi chết và hiện nay chúng ta hiệp làm một với Đấng Christ để sống một nếp sống mới!
Luật pháp đã không chết, vì luật pháp Đức Chúa Trời vẫn còn cai trị trên con người. Chúng ta chết đối với luật pháp, và luật pháp không còn sai khiến chúng ta nữa.Nhưng chúng ta không sống “vô luật pháp” nhưng chúng ta liên hiệp làm một với Đấng Christ, dự phần trong sự sống của Ngài, và vì vậy chúng ta bước đi “trong đời mới”. Rô 8:4 đưa lập luận đến cao điểm: “Hầu cho sự công bình mà luật pháp buộc phải làm được trọn trong chúng ta, là kẻ chẳng noi theo xác thịt, nhưng noi theo Thánh Linh.”
Trong nếp sống cũ tội lỗi, chúng ta sanh ra bông trái “sự chết”, nhưng trong nếp sống mới ân điển, chúng ta “sanh bông trái trong Đức Chúa Trời”. “Chết đối với luật pháp” không có nghĩa là chúng ta sống nếp sông vô luật pháp. Điều đó chỉ mang nghĩa là sự thúc đẩy và động lực trong nếp sống chúng ta không xuất phát từ luật pháp: Nó xuất phát từ ân điển của Đức Chúa Trời qua việc hiệp làm một với Đấng Christ.
b. Chúng ta được buông tha khỏi luật pháp (Rô 7:6)
- Đây là lời kết luận lô-gíc: Luật pháp không thể thi hành quyền cai trị trên người đã chết. Bản Kinh Thánh chính thức viết như thể luật pháp đã chết nhưng Phao-lô viết “chúng ta đã chết về luật pháp là đều bắt buộc mình...”. Chết có nghĩa là buông tha (lưu ý Rô 6:9-10). Nhưng chúng ta được buông tha để chúng ta có thể hầu việc.
Nếp sống Cơ-đốc không phải là nếp sống độc lập và nổi loạn. Chúng ta đã chết đối với luật pháp để chúng ta có thể “hiệp làm một với Đấng Christ”. Chúng ta được buông tha khỏi luật pháp để chúng ta có thể phục vụ Đấng Christ. Chân lý này bác bỏ luận điệu xuyên tạc rằng Phao-lô dạy sự vô luật pháp.
Sự hầu việc Cơ-đốc tương phản với nếp sống cũ tội lỗi có gì khác biệt? Trước tiên, Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời ban năng lực cho chúng ta khi chúngta tìm cách vâng phục và hầu việc Chúa. (Chữ Thánh Linh phải được viết hoa trong câu 6 -“cách mới của Thánh Linh”). Dưới luật pháp, chẳng có sự giúp sức nào cả. Mạng lệnh của Đức Chúa Trời được viết trên bảng đá và được đọc cho dân sự nghe.
Nhưng dưới Ân điển, Lời Đức Chúa Trời được chép trong lòng chúng ta (IICôr 3:1-3). Chúng ta “bước đi trong đời mới” (Rô 6:4) và hầu việc “trong cách mới của Thánh Linh”. Vậy thì người tin Chúa không còn ở dưới quyền của luật pháp nữa.
2. Công việc của luật pháp (Rô 7:7-13)
Những người phản đối Phao-lô đã sẵn sàng! “Luật pháp có ích gì khi chúng ta không cần đến nữa? Sao, một lời dạy như của bạn lại làm cho Luật Pháp thành tội lỗi à! ”.Trong câu trả lời cho sự phản đối ấy, Phao-lô giải thích các công việc của luật pháp, các chức năng vẫn còn hợp với ngày nay.
a. Luật pháp bày tỏ tội lỗi (Rô 7:7)
- “Vì luật pháp cho người ta biết tội lỗi” (Rô 3:20). “Đâu không có luật pháp, thì đó cũng không có sự phạm luật pháp” (Ro 4:15). Luật pháp là cái gương phơi bày cho chúng ta thấy con người bên trong và chỉ cho thấy chúng ta ô uế như thế nào (Gia 1:22-25).
Hãy lưu ý Phao-lô không dùng tội giết người, ăn cắp hoặc ngoại tình trong bài sự thảo luận nhưng ông dùng sự tham muốn. Đây là điều cuối cùng trong Mười Điều Răn, và nó khác với chín điều còn lại nó nói đến thái độ bên trong chớ không phải hành động bên ngoài. Sự tham muốn dẫn đến sự vi phạm các điều răn khác! Đó là tội lỗi không thấy được mà hầu hết mọi người chẳng hề nhận ra trong cuộc đời của họ, nhưng luật pháp đã phơi bày điều đó.
- Vị Quan Giàu Có trong Mac 10:17-27 là ví dụ hay về việc sử dụng luật pháp để bày tỏ tội lỗi và chỉ cho con người thấy họ cần đến Đấng Cứu Rỗi. Người trai trẻ có nếp sống đạo đức bên ngoài, nhưng chàng ta chẳng bao giờ đối mặt với tội lỗi bên trong. Chúa Giê-xu không dạy cho chàng ta về luật pháp vì luật pháp sẽ cứu anh ta nhưng Ngài dạy anh ta về luật pháp vì chàng trai không nhận ra tình trạng tội lỗi của mình. Quả thật vậy, chàng trai chưa hề phạm tội ngoại tình, không cướp giựt của ai, không làm chứng dối, hoặc sỉ nhục cha mẹ mình nhưng còn tính tham lam thì sao? Khi Chúa Giê-xu dạy chàng ta phải bán của cải mình và bố thí cho kẻ nghèo, chàng ta buồn bã bỏ đi. Điều răn “Ngươi chớ tham lam” đã bày tỏ cho chàng ta thấy mình thật sự là một tội nhân! Thay vì thừa nhận tội lỗi, chàng ta từ chối Đấng Christ và bỏ đi trong sự vô tín.
b. Luật pháp phát sinh tội lỗi (Rô 7:8-9)
- Vì Phao-lô là một người Pha-ri-si sùng đạo, ra sức vâng giữ luật pháp trước khi trở lại với Chúa, cho nên chúng ta dễ dàng hiểu các câu Kinh Thánh này hơn. (Hãy đọc Phi 3:1-11 và Ga 1:1-24 để có thêm dữ kiện về tiểu sử của Phao-lô trong mối quan hệ của ông đối với luật pháp trong những ngày chưa tin Chúa).
Cũng hãy nhớ rằng “sức mạnh của tội lỗi là luật pháp” (ICôr 15:56). Vì chúng ta có bản chất tội lỗi, nên luật pháp chắc chắn phát sinh ra bản chất ấy giống như cách thỏi nam châm hút sắt vậy.
Trong bản chất con người có điều gì đó muốn phản đối lại bất cứ khi nào một điều luật được ban ra. Tôi đang đứng trong công viên Lincoln tại Chicago, nhìn thấy các băng ghế được sơn mới lại và tôi chú ý đến một dấu hiệu ghi trên mỗi băng ghế: “Đừng sờ vào”.
Khi tôi chăm chú nhìn, tôi thấy có nhiều người cố tình đưa tay sờ vào sơn ướt! Tại sao như vậy? Vì dấu hiệu bảo họ đừng sờ vào! Hãy bảo một đứa bé không đừng lại gần nước, và đó chính là việc nó sẽ làm! Tại sao? “Vì sự chăm về xác thịt nghịch với Đức Chúa Trời, bởi nó không phục dưới luật pháp Đức Chúa Trời, lại không thể phục được.” (Rô 8:7).
Người tin Chúa tìm cách sống theo luật lệ và khuôn phép khám phá ra rằng hệ thống luật lệ của họ chỉ phát sinh thêm tội lỗi và tạo ra thêm nhiều rắc rối. Các Hội thánh tại Ga-la-ti rất chuộng làm theo luật pháp, và họ gánh lấy mọi rối reng. “Nhưng nếu anh em cắn nuốt nhau, thì hãy giữ, kẻo kẻ này bị diệt mất bởi kẻ khác” (Ga 5:15). Việc vâng giữ luật pháp không làm cho họ thêm thiêng liêng hơn nhưng nó làm cho họ thêm tội lỗi! Vì sao? Bởi luật pháp sinh ra tội lỗi trong bản chất chúng ta.
c. Luật pháp giết chết (Rô 7:10-11)
- “Vậy thì luật pháp nghịch cùng lời hứa của Đức Chúa Trời hay sao? Chẳng hề như vậy, vì nếu đã ban cho một luật pháp có thể làm cho sống, thì sự công bình chắc bởi luật pháp mà đến” (Ga 3:21).
Nhưng luật pháp không thể ban sự sống: Luật pháp chỉ phơi bày cho tội nhân thấy rằng họ có tội và bị lên án. Điều này giải thích tại sao Cơ-đốc nhân và Hội thánh không lớn lên và không sanh bông trái thuộc linh. Họ đang sống theo luật pháp, và luật pháp luôn luôn giết hại.
Nhiều điều phải chết hơn là một Hội thánh khuôn mẫu hãnh diện về “những tiêu chuẩn cao” và cố tìm cách sống theo những tiêu chuẩn ấy bằng sức riêng của mình. Thường thì các thành viên trong Hội thánh như vậy bắt đầu xét đoán và lên án lẫn nhau, và kết cuộc là Hội thánh tranh cạnh và rồi chia rẽ để lại sự giận dữ và cay đắng.
Khi người mới tin Chúa lớn lên, họ bước vào mối liên hệ với các triết lý khác nhau của nếp sống Cơ-đốc. Người ấy có thể đọc các sách, tham dự các buổi hội thảo, nghe các băng từ, và thu nhận nhiều thông tin. Nếu họ không cẩn thận, họ sẽ chạy theo người lãnh đạo và chấp nhận các lời dạy của người ấy như là Luật lệ.
Việc thực hành này là hình thức tinh vi của việc làm theo luật pháp, và nó giết chết sự trưởng thành thuộc linh. Chẳng có thầy giáo nào có thể thay thế cho Đấng Christ được chẳng có quyển sách nào có thể thay cho Kinh Thánh được. Con người có thể cung cấp thông tin cho chúng ta, nhưng chỉ có Đức Thánh Linh mới có thể cho chúng ta sự sáng và giúp chúng ta hiểu được các chân lý thuộc linh. Đức Thánh Linh soi sáng cho chúng ta và giúp chúng ta chẳng có người hướng dẫn nào thuộc về con người có thể làm điều đó.
d. Luật pháp chỉ ra tình trạng của tội lỗi (Rô 7:12-13)
- Người không được cứu biết rằng có một tội lỗi như vậy nhưng họ không nhận ra tình trạng của tội lỗi. Nhiều Cơ-đốc nhân không nhận biết bản chất thật của tội lỗi. Chúng ta biện hộ cho tội lỗi chúng ta phạm bằng những chữ như “lầm lỗi” hoặc “yếu đuối” nhưng Đức Chúa Trời lên án tội lỗi chúng ta và Ngài tìm cách cho chúng ta hiểu rằng chúng “cực kỳ là tội lỗi”. Cho đến khi chúng ta nhận biết tội lỗi thật sự gớm ghiếc như thế nào, chúng ta sẽ chẳng bao giờ muốn phản đối và muốn sống trong chiến thắng.
Lập luận của Phao-lô ở đây thật tuyệt vời: (1) Luật pháp không mắc tội - Luật pháp là thánh, công bình và tốt lành (2) nhưng luật pháp bày tỏ tội lỗi, làm thức tỉnh tội lỗi, rồi sau đó dùng tội lỗi để làm chết chúng ta nếu có điều nào đó tốt như luật pháp làm thành những kết quả này, thì điều ấy có chỗ nào đó sai trật sai (3) kết luận: hãy xem tình trạng của tội lỗi như thế nào khi nó dùng một điều tốt nào đó như luật pháp để tạo ra những kết quả bi thảm như vậy.
Quả thật tội lỗi “cực kỳ ác”. Vấn đề không liên quan đến luật pháp nhưng vấn đề liên quan đến bản chất tội lỗi của tôi. Điều này mở đường cho chủ đề thứ ba trong chương này.
3. Sự bất năng của luật pháp (Rô 7:14-25)
Đã giải thích luật pháp cần phải làm gì, bây giờ Phao-lô giải thích những việc luật pháp không thể làm.
a. Luật pháp không thể thay đổi bạn (Rô 7:14)
- Tính chất của luật pháp được mô tả trong bốn chữ: thánh, công bình, tốt lành và thiêng liêng. Không ai có thể phủ nhận luật pháp là thánh và công bình, vì luật pháp đến từ Đức Chúa Trời thánh khiết hoàn toàn chính trực trong mọi lời nói và việc làm của Ngài. Luật pháp là tốt. Nó bày tỏ cho chúng ta sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và giúp chúng ta hiểu chúng ta cần đến Đấng Cứu Rỗi.
Có ý gì khi nói rằng luật pháp là “thiêng liêng”? Có nghĩa là luật pháp nói đến người bề trong, phần thiêng liêng của con người, cũng như các hành động bên ngoài. Trong sự ban cho ban đầu của luật pháp chép trong sách Xuất Ê-díp-tô ký, điểm nhấn mạnh nằm ở các việc làm bên ngoài.
Nhưng khi Môi-se trình bày lại luật pháp trong sách Phục-truyền luật-lệ ký, ông nhấn mạnh chất lượng bên trong của luật pháp khi nó liên quan đến lòng con người. Điểm nhấn mạnh thuộc linh này được nêu rõ trong Phuc 10:12-13. Sự lặp lại của chữ “yêu thương” trong Phục-truyền cũng cho thấy rằng ý nghĩa sâu xa của luật pháp có liên quan đến lòng con người (Phuc 4:37; Phuc 6:4-6; Phuc 10:12; Phuc 11:1; Phuc 30:6,6,20).
Bản chất của chúng ta là xác thịt nhưng bản chất của luật pháp là thiêng liêng. Điều này giải thích tại sao bản chất cũ phản ứng lại với luật pháp như nó đã làm. Người ta nói rõ, “Bản chất cũ không biết luật pháp, bản chất mới không cần đến luật pháp.” Luật pháp không thể biến đổi bản chất cũ nó chỉ có thể cho thấy bản chất tội lỗi con người như thế nào. Người tin Chúa cố tìm cách sống dưới luật pháp sẽ chỉ khơi dậy bản tánh cũ chớ không xoá nó đi.
b. Luật pháp không thể giúp bạn làm điều thiện (Rô 7:15-21)
- Trong phân đoạn này ba lần Phao-lô nói đến tội lỗi ấy ngự trị trong chúng ta (Rô 7:14,18,20). Dĩ nhiên, ông có ý muốn nhắc đến con người cũ.Cũng thật đúng Đức Thánh Linh ngự trong chúng ta và trong Rô 8:1-39 Phao-lô giải thích thế nào Thánh Linh Đức Chúa Trời giúp chúng ta có thể sống trong đắc thắng, một việc luật pháp không thể giúp chúng ta được.
Trong phần này có nhiều đại từ cho thấy tác giả muốn liên hệ vấn đề đến cái tôi. Điều này không nói rằng Cơ-đốc nhân bị chứng tâm thần phân liệt, vì anh ta không phải như vậy. Sự cứu rỗi làm cho con người trở nên trọn vẹn. Nhưng cho thấy rằng tâm trí, ý chí, và thân thể có thể bị bản chất cũ hoặc bản chất mới cai trị, bởi xác thịt hoặc bởi Thánh Linh. Các câu này cho thấy người tin Chúa có hai nan đề nghiêm trọng: (1) họ không thể làm điều thiện mình muốn làm, và (2)họ làm điều xấu mình không muốn làm.
Điều này có nghĩa Phao-lô không thể ngăn chính mình không vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời, có nghĩa là ông ta là kẻ nói dối, trộm cắp và giết người phải không? Dĩ nhiên là không! Phao-lô có ý muốn nói về chính mình ông rằng ông ta không thể vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời và ngay cả khi ông ta đã làm theo luật pháp, điều xấu vẫn hiện hữu với ông.
Cho dù đã làm điều gì chăng nữa, thì các việc làm của Phao-lô cũng bị tội lỗi làm cho ô uế. Ngay sau khi ông làm hết sức mình, ông đã thừa nhận rằng ông là “đầy tớ vô ích” (Lu 17:10). “Vậy tôi thấy có luật này trong tôi: khi tôi muốn làm lành, thì điều dữ dính dấp theo tôi” (Rô 7:21). Dĩ nhiên, đây là vấn đề khác với vấn đề trong Rô 6:1-23. Vấn đề ở đó là “Làm thế nào tôi có thể thôi làm điều xấu?” còn vấn đề ở đây là “Làm thế nào tôi có thể làm điều thiện được?”
Người theo luật pháp nói, “Hãy vâng giữ luật pháp, bạn sẽ làm điều thiện và sống nếp sống đạo đức”. Nhưng luật pháp chỉ bày tỏ và sanh ra tội lỗi, luật pháp chỉ cho thấy tình trạng của tội lỗi! Tôi không thể vâng giữ luật pháp vì tôi mang bản chất tội lỗi chống lại luật pháp. Cho dù tôi cho rằng tôi đã làm điều thiện, tôi cũng biết rằng điều dữ vẫn hiện diện. Luật pháp là thiện, nhưng do bản chất tôi là xấu! Vì vậy, người vâng giữ luật pháp là sai lầm: Luật pháp không thể giúp chúng ta làm điều thiện được.
c. Luật pháp không thể cho bạn tự do (Rô 7:21-24)
- Người tin Chúa có bản chất cũ muốn giữ họ trong xiềng xích “Người tin Chúa nói với chính mình, Tôi sẽ thoát khỏi các tội lỗi cũ này! Bây giờ tôi quyết định tôi sẽ không làm điều này nữa”. Điều gì xảy ra? Anh ta cố hết ý chí và sức lực, và anh ta thành công một thời gian nhưng rồi khi anh ta lơ là, anh ta lại sa ngã trở lại. Tại sao vậy? Vì anh ta ra sức dùng luật pháp chế ngự con người cũ của mình, nhưng luật pháp không thể nào buông tha chúng ta thoát khỏi con người cũ. Khi hành động dưới sự cai trị của luật pháp, bạn chỉ làm cho con người cũ trở nên mạnh mẽ hơn vì “sức mạnh của tội lỗi là luật pháp” (ICôr 15:56).
Thay vì làm máy phát điện cung cấp cho chúng ta năng lượng để chiến thắng, luật pháp lại là thỏi nam châm hút ra từ chúng ta mọi thứ tội lỗi và băng hoại. Con người bên trong có thể thích thú luật pháp Đức Chúa Trời (Thi 119:35), nhưng con người cũ thích phạm luật pháp Đức Chúa Trời. Người tin Chúa sống dưới sự cai trị của luật pháp trở nên mệt mỏi và nản lòng là lẽ bình thường, và cuối cùng sẽ bỏ cuộc giữa đường! Họ là một tù nhân, thân phận của họ thật “khốn khổ” (Trong tiếng Hy-lạp chữ này cho thấy một người kiệt sức sau trận chiến đấu). Thật chẳng có gì khốn khổ hơn một khi tiêu hao hết sức lực để cố gắng sống nếp sống tốt lành, để rồi chỉ khám phá ra rằng điều tốt nhất bạn làm vẫn chưa tốt đủ!
Có lối thoát nào không? Dĩ nhiên là có! “Cảm tạ Đức Chúa Trời nhờ có Chúa Giê-xu Christ, là Chúa chúng ta Đấng giải cứu tôi!”. Vì người tin Chúa hiệp làm một với Đấng Christ, họ chết đối với luật pháp và chẳng còn thuộc dưới quyền cai trị của luật pháp nữa. Nhưng họ sống cho Đức Chúa Trời và có thể nhận được quyền năng Đức Thánh Linh. Lời giải thích chiến thắng này được chép trong Rô 8:1-39.
Câu cuối trong chương không dạy rằng người tin Chúa sống nếp sống hai mặt: sống trong xác thịt tội lỗi nhưng hầu việc Đức Chúa Trời bằng tâm trí. Điều này có nghĩa thân thể của họ được sử dụng hai cách khác nhau cùng một lúc, điều này không thể được. Người tin Chúa nhận ra rằng có sự giằng co xảy ra bên trong anh ta giữa xác thịt và Thánh Linh (Ga 5:16-18), nhưng họ biết rằng hoặc xác thịt hoặc Thánh Linh sẽ làm chủ.
Dùng chữ “trong trí” Phao-lô muốn nói đến “người bên trong” (Rô 7:22) trái với “xác thịt” (Rô 7:18). Ông nói rõ ý nghĩ này trong Rô 8: 5-8. Người cũ không thể làm điều thiện nào cả. Mọi điều Kinh Thánh dạy về con người cũ đều tiêu cực: “chẳng có điều gì tốt” (Rô 7:18) “không để lòng tin cậy trong xác thịt” (Phi 3:3).
Nếu chúng ta nhờ cậy vào năng lực của xác thịt, chúng ta không thể hầu việc Đức Chúa Trời, làm đẹp lòng Ngài, hoặc làm bất cứ điều gì tốt cả. Nhưng nếu chúng ta vâng phục Đức Thánh Linh, chúng ta nhận được năng lực cần có để vâng theo ý muốn Ngài.
Xác thịt chẳng bao giờ phục vụ luật pháp Đức Chúa Trời vì xác thịt nghịch thù với Đức Chúa Trời. Nhưng Thánh Linh chỉ có thể vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời! Do đó, bí quyết của việc làm điều lành là phải vâng phục Đức Thánh Linh.
Phao-lô đưa ra điều này trong những câu đầu tiên của chương này khi ông viết “...hầu cho chúng ta được kết quả cho Đức Chúa Trời” (Rô 7:4). Giống như khi chúng ta chết đối với người cũ, chúng ta cũng chết với luật pháp. Nhưng chúng ta hiệp làm một với Đấng Christ và sống trong Đấng Christ, và vì vậy chúng ta có thể kết quả cho Đức Chúa Trời. Chính việc hiệp một với Đấng Christ giúp chúng ta có thể hầu việc Đức Chúa Trời cách vui lòng. “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.” (Phil 2:13). Điều đó giải quyết nan đề của Phao-lô trong Rô 7:18: ”Bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn.”
Con người cũ không biết điều luật nào và bản chất mới không cần đến luật pháp. Làm theo luật pháp khiến người tin Chúa bị khốn khổ vì nó gây cho con người mới đau buồn và làm cho bản chất cũ thêm tồi tệ! Người tuân giữ luật pháp trở thành người theo phái Biệt Lập có hành động bên ngoài được mọi người chấp nhận, nhưng những thái độ trong lòng bị người đời khinh khi. Chẳng có gì lạ khi Chúa Giê-xu gọi họ là “mồ mã tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy” (Mat 23:27). Quả thật bạn có thể chịu khốn khổ là dường nào!
Điều tốt nhất chưa xảy đến! Chương kế tiếp giải thích công việc của Đức Thánh Linh chiến thắng điều ác và sinh ra điều thiện.
bottom of page