top of page
11. PHÉP LẠ CUỐI CÙNG VÀ KẺ THÙ CUỐI CÙNG (Gi 11:1-57)
Việc...
...khiến La-xa-rơ sống lại từ cõi chết không phải là phép lạ cuối cùng trước khi Chúa bước lên thập giá, nhưng chắc hẳn là một phép lạ kỳ diệu nhất gây chú ý mạnh mẽ cho bạn hữu và kẻ thù Chúa. Giăng chọn phép lạ này trong số 7 phép lạ được ghi lại trong Phúc Âm của ông, vì đó thật là phép lạ tạo nên một đỉnh điểm trong chức vụ của Chúa trên đất. Ngài cũng đã khiến những người chết khác sống lại, nhưng La-xa-rơ là người ở trong mộ 4 ngày. Với phép lạ ấy, các lãnh đạo Do Thái không thể phủ nhận hay tránh né sự thật được.
Nếu Chúa Giê-xu không thể làm được gì đối với sự chết, vậy Ngài cũng không thể làm được điều gì khác. “Nếu chúng ta chỉ có sự trông cậy trong Đấng Christ về đời này mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết” (ICo 15:19). Kẻ thù cuối cùng của con người là sự chết (ICo 15:26) nhưng Chúa Giê-xu đã chiến thắng kẻ thù nguy hiểm này hoàn toàn và mãi mãi.
Trọng tâm của Phúc Âm Giăng 11 là đức tin. Bạn sẽ thấy động từ “tin” trong đoạn này ít nhất là 8 lần. Một chủ đề khác nữa, đó là “sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Gi 11:4,40). Qua điều Chúa phán và làm, Ngài muốn khích lệ đức tin của ba nhóm người
1. Các môn đệ (Gi 11:1-16)
Đôi lúc chúng ta nghĩ về các môn đệ Chúa như những “thánh nhân siêu hạng”, nhưng trong trường hợp này hoàn toàn khác hẳn. Họ thường nghi ngờ Chúa mình nên Ngài luôn tìm cách khích lệ niềm tin họ. Dù sao, sẽ có một ngày Chúa phải xa họ và họ phải tiếp tục nhiệm mạng Ngài giao phó. Nếu đức tin họ yếu đuối, công việc họ sẽ chẳng bao giờ kết quả.
Chúa Giê-xu ở Bê-tha-ba-ra cách làng Bê-tha-ni khoảng 20 dặm (Gi 1:28 Gi 10:10). Ngày kia, Ngài nghe tin buồn rằng La-xa-rơ là người Ngài yêu mến đang bị bệnh. Nếu người đưa tin đi nhanh và không dừng lại nơi đâu cuộc hành trình có thể mất một ngày. Hôm sau, Chúa tiễn người ấy về với lời khích lệ chép ở câu 4. Sau đó Chúa nán lại hai ngày trước khi lên đường đi Bê-tha-ni. Lúc Ngài và các môn đệ đến nơi, La-xa-rơ đã chết được 4 ngày. Như vậy, La-xa-rơ đã chết vào đúng ngày người đưa tin đến gặp Chúa Giê-xu.
Diễn biến của các sự kiện có thể xảy ra trong những ngày như sau:
-Ngày thứ Gi 1: người đưa tin đến gặp Chúa Giê-xu (La-xa-rơ chết)
-Ngày thứ Gi 2: người đưa tin trở về Bê-tha-ni
-Ngày thứ Gi 3: Chúa nán lại một ngày nữa, sau đó Ngài lên đường
-Ngày thứ Gi 4: Chúa đến Bê-tha-ni
Khi người đưa tin về đến nhà đã thấy La-xa-rơ chết rồi, không hiểu sứ điệp của Ngài có làm cho hai chị em đau đớn khi anh họ đã chết và chôn rồi? Chúa Giê-xu đã khích lệ họ tin Lời Ngài cho dù hoàn cảnh có tỏ ra chán nản như thế nào.
Dĩ nhiên môn đệ Chúa bối rối về nhiều vấn đề. Trước hết, nếu Chúa yêu La-xa-rơ dường ấy, sao Ngài để ông ta lâm bệnh” Hơn nữa, sao Ngài trì hoãn thời gian đến với hai chị em? Ngài không thể chữa lành La-xa-rơ từ xa như Ngài đã chữa lành con trai quan thị vệ đó sao? (Gi 4:43-54). Kinh Thánh cho biết Ngài có mối liên hệ rất thân thiết với gia đình này (Gi 11:3,5,36), nhưng hành động Chúa dường như mâu thuẫn với tình yêu Ngài dành cho họ!
Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho người thuộc về Ngài không phải là kiểu tình yêu “nuông chiều”, nhưng là một tình yêu trọn vẹn. Vấn đề Ngài yêu chúng ta và chúng ta yêu Ngài không bảo đảm rằng chúng ta sẽ chẳng gặp nan đề hay đau buồn nào trong cuộc sống. Đức Chúa Trời yêu Con Ngài, nhưng vẫn để Con yêu dấu mình uống chén đắng và nếm trải sự đau đớn nhục nhã trên thập tự giá. Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng tình yêu và sự đau khổ không thể hoà hiệp với nhau. Hai điều ấy thật sự hiệp một trong Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu có thể chặn đứng cơn bệnh của La-xa-rơ, thậm chí chữa lành ông bằng lời phán của Ngài ngay nơi Ngài ở, nhưng Ngài không muốn làm vậy. Qua cơn bệnh của La-xa-rơ, Ngài nhìn thấy cơ hội làm vinh hiển danh Cha trên trời. Là người tin Chúa, việc chúng ta tạo sự tiện lợi cho bản thân không quan trọng bằng việc quy vinh hiển danh Đức Chúa Trời trong hoàn cảnh.
Trong lời cầu xin với Chúa, hai chị em không yêu cầu Chúa làm điều họ muốn. Họ chỉ cho Ngài biết nhu cầu mình và nhắc Ngài nhớ đến tình yêu Ngài đối với La-xa-rơ.Họ biết rằng Chúa sẽ gặp nguy hiểm nếu trở lại xứ Giu-đê vì các lãnh đạo Do Thái muốn giết Ngài. Có lẽ hai chị em mong Ngài chỉ cần phán một lời, hẳn anh họ sẽ bình phục.
Lời Chúa phán với hai chị em (Gi 11:23) không có nghĩa là anh họ sẽ không chết. Lời Ngài phán cho biết sự chết chưa phải là kết quả cuối cùng, vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mới là kết quả cuối cùng. (Hãy để ý rằng một lần nữa Chúa Giê-xu xưng Ngài là “Con Đức Chúa Trời”). Ngài muốn họ tin chắc nơi lời hứa này. Ngài cũng nhắc Ma-thê nhớ lại lời Ngài đã phán trước với bà khi bà có ý cản trở việc mở cửa mồ (Gi 11:39-40).
Khi đối diện với bệnh tật, sự nản lòng, mất kiên nhẫn thậm chí sự chết, nguồn an ủi khích lệ duy nhất của chúng ta là Lời Đức Chúa Trời. Chúng ta phải sống bằng đức tin chớ không phải hoàn cảnh bên ngoài. Tình trạng của La-xa-rơ dường như vô vọng, nhưng hai chị em biết rằng Chúa Giê-xu là Đấng làm chủ mọi hoàn cảnh. Lời hứa ở Thi 50:15 thật tương tự với hoàn cảnh này: “Trong ngày gian truân hãy kêu cầu cùng ta Ta sẽ giải cứu ngươi, và ngươi sẽ ngợi khen ta”.
Vì sao Chúa trì hoãn việc đi đến Bê-tha-ni? Ngài không có ý chờ La-xa-rơ chết, vì ông thật đã chết trước. Ngài sống theo một thời gian biểu mầu nhiệm (Gi 11:9)từ Đức Chúa Trời nên Ngài muốn chờ đợi ý Chúa trên trời về thời điểm Ngài đến Bê-tha-ni. Việc người chết trong mộ 4 ngày khiến phép lạ Chúa trở nên chứng cớ mạnh mẽ và là cơ hội thuận lợi để dân chúng tin theo, trong đó có cả các môn đệ Chúa (Gi 11:15).
Khi Chúa cho biết Ngài sẽ trở lại xứ Giu-đê, các môn đệ tỏ ra lo lắng vì biết điều ấy sẽ nguy hiểm cho Ngài (Bê-tha-ni chỉ cách Giê-ru-sa-lem khoảng hai dặm). Chúa Giê-xu vui lòng phó sự sống Ngài vì bạn hữu (Gi 15:13). Ngài biết việc trở lại Giu-đê và phép lạ Ngài khiến La-xa-rơ sống lại, sẽ khiến sự kiện Ngài bị bắt và chịu chết nhanh chóng xảy đến.
Chúa trấn an sự sợ hãi của các môn đệ, nhắc họ nhớ rằng Ngài sống theo giờ giấc Cha đã định, nên không điều gì có thể làm tổn hại họ. Như chúng ta đã biết, đây cũng là một chủ đề quan trọng trong Phúc Âm Giăng (Gi 2:4 Gi 7:6,8,30 Gi 8:20 Gi 12:23 Gi 13:1 Gi 17:1). Các môn đệ không chỉ mù mờ về chương trình của Chúa, mà còn hiểu sai mục đích của chuyến viếng thăm này. Họ nghĩ nếu La-xa-rơ đang ngủ, vậy ông ta đã bình phục! Đây là một thực tế điển hình chứng tỏ họ không thể hiểu chân lý thuộc linh. “Nếu người ngủ, hẳn đã khá hơn. Vậy chúng ta sao phải bận tâm đến Bê-tha-ni?”
Ngài cho họ biết rõ: La-xa-rơ đã chết. Đối với người tin Chúa, sự chết được ví như giấc ngủ – (Cong 7:60 ICo 15:51 ITe 4:13-18). Ngài không có ý nói rằng Ngài vui mừng khi bạn hữu chết, nhưng vui vì Ngài đã không có mặt nơi đó, hầu cho giờ đây Ngài có thể bày tỏ với các môn đệ về quyền năng Ngài. Mục đích cuối cùng sẽ là vinh hiển của Đức Chúa Trời và sự khích lệ đức tin các môn đệ Chúa.
Thái độ của Thô-ma chẳng nói lên được điều gì. Đức tin các môn đệ cần phải được khích lệ mạnh mẽ hơn! (Tên “Thô-ma” theo ngôn ngữ Aramaic nghĩa là “sinh đôi”theo tiếng Hy Lạp là Đi-đim (Didymus). Chúng ta không rõ Thô-ma có người anh em sinh đôi nào, nhưng lắm lúc chúng ta dường như là “anh em sinh đôi” của Thô-ma khi xét lại thái độ vô tín và sự ngã lòng của mình! Chính Thô-ma là người đòi phải được nhìn thấy chứng cớ trước khi tiếp nhận chân lý về sự sống lại của Chúa (Gi 20:24-28).
Thô-ma quả là người đa nghi, nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng ông có tinh thần sốt sắng: sẵn sàng đi với Chúa Giê-xu trong nguy hiểm và gian nan của đời mình. Dù không thể tán thành với đức tin Thô-ma, nhưng chúng ta hẳn có thể hoan nghênh lòng trung thành và can đảm của ông.
2. Hai chị em (Gi 11:17-40)
Không chỉ quan tâm đến đức tin của các môn đệ, Chúa Giê-xu còn quan tâm đến đức tin cả hai chị em Ma-ri và Ma-thê (c.26,40). Mỗi từng trải về sự đau buồn và thử thách đều khiến đức tin chúng ta tăng trưởng, nhưng sự tăng trưởng thuộc linh ấy không tự nhiên có được. Chúng ta phải tích cực hưởng ứng với lời Đức Chúa Trời và Thánh Linh Ngài. Chúa Giê-xu ban cho hai chị em một lời hứa (Gi 11:4) và giờ đây Ngài muốn biết mức độ tiếp nhận của họ. Câu chuyện chép ở Lu 10:38-42 cho thấy Ma-ri và Ma-thê có cá tính hoàn toàn khác nhau. Ma-thê là người sốt sắng làm việc, còn Ma-ri là người trầm ngâm thích ngồi dưới chân Chúa để nghe Ngài dạy dỗ. Chúa không lên án tinh thần phục vụ của Ma-thê, nhưng trách bà vì đã để nhiều việc chi phối mình. Ma-thê cần có những ưu tiên và mục tiêu đối với những công việc đẹp lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta cần có một cuộc sống quân bình như ý của một vần thơ do Wesley viết:
“Trung tín với lời khuyên của Chúa
tôi chọn phần tốt nhất cho Ngài:
Như Ma-thê: đôi tay khéo léo
Như Ma-ri: tấm lòng mến yêu”
Chúng ta mong đợi Ma-thê sẽ chạy ra đón Chúa Giê-xu, còn Ma-ri ở trong nhà than khóc với bạn hữu. Sau đó, Ma-ri lặp lại lời chào Chúa giống như Ma-thê (Gi 11:32), dường như họ đã nói với nhau lời này khi chờ Chúa đến. Dù trong câu nói của họ lộ một chút thất vọng, nhưng cũng bày tỏ bằng chứng về đức tin, vì chưa có ai chết khi Chúa hiện diện. Chữ “nếu” nghe vĩ đại làm sao? Thật vô ích khi tưởng tượng điều có thể xảy ra, “nếu...! ”
Ma-thê nhanh chóng xưng nhận đức tin nơi Chúa Giê-xu (Gi 11:22). Chúa đáp lại đức tin ấy khi bảo đảm với bà rằng La-xa-rơ anh bà sẽ sống lại. Ngài đang nói đến hoàn cảnh hiện tại, nhưng Ma-thê lại hiểu lời Ngài theo ý nghĩa của sự sống lại trong ngày sau rốt (Gi 5:28-29 Dan 12:2,3). Đây là một điển hình trong Phúc Âm Giăng về những người không hiểu chân lý thuộc linh nên không thể hiểu lời Chúa Giê-xu.
Khi chép lời Ma-thê, đây là lần thứ 5 Ngài phán “TA LÀ...” Đáng chú ý rằng Chúa không phủ nhận điều Ma-thê nói về sự sống lại trong ngày sau rốt. Sự sống lại của thân thể con người là giáo lý quan trọng trong Do Thái giáo chính thống.Nhưng qua lời phán kỳ diệu của Chúa “TA LÀ”, Ngài đã thay đổi hoàn toàn giáo lý này. Khi làm vậy, Ngài đem đến cho Ma-thê nguồn an ủi lớn.
Trước hết, Chúa đem giáo lý về sự sống lại từ bóng tối ra ánh sáng. Sự mạc khải trong Cựu Ước về sự chết và sự sống lại không rõ nghĩa và không trọn vẹn. Giáo lý này còn đang “ở trong bóng tối”. Thật ra có một số đoạn trong Thi Thiên và Truyền Đạo đều khiến người ta nghĩ rằng sự chết là một kết thúc và không có gì hy vọng bên kia phần mộ. Các giáo sư giả rất thích sử dụng những đoạn Kinh Thánh này để bổ sung cho những tà thuyết của họ, nhưng lại bỏ qua (hoặc cắt nghĩa sai) những giáo lý rõ ràng được chép trong Thánh Kinh Tân Ước. Xét cho cùng, ngoài Chúa Giê-xu ra, Đa-vít hay Sa-lô-môn đều không phải là người “phô bày sự sống và sự không hề chết ra cho rõ ràng” (IITi 1:10)!
Qua sự dạy dỗ, các phép lạ và sự sống lại của Chúa, Ngài đã cho chúng ta biết rõ ràng về sự sống lại của thân thể con người. Ngài tuyên bố một lần đủ cả rằng sự chết là điều phải xảy đến, có một sự sống sau khi chết, và thân thể con người sẽ được sống lại ngày sau rốt bởi quyền năng Đức Chúa Trời.
Chúa thay đổi giáo lý về sự sống lại này theo cách thứ hai: Ngài đem giáo lý ấy ra khỏi sách vở và đặt nó vào chính thân vị Ngài: “Ta là sự sống lại và sự sống” (Gi 11:25). Khi cảm tạ Đức Chúa Trời về những điều dạy dỗ trong Kinh Thánh (những điều Ma-thê biết là do Thánh Kinh Cựu Ước), chúng ta nhận biết rằng mình được cứu rỗi là do Đấng Cứu Chuộc – Chúa Giê-xu, chớ không bởi một giáo lý được chép trong sách. Khi biết Ngài qua đức tin, chúng ta sẽ không sợ hãi bóng của sự chết!
Khi đau bệnh, bạn cần một bác sĩ chớ không phải một cuốn sách y học hay một công thức nào. Khi bị kiện cáo, bạn cần một luật sư chớ không phải một cuốn sách luật. Tương tự như vậy, khi đối diện với kẻ thù sau cùng là sự chết, bạn cần có Đấng Christ chớ không phải một giáo lý được chép trong sách: “...anh em ở trong Đức Chúa Giê-xu, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã làm nên sự khôn ngoan, sự công bình, sự nên thánh và sự cứu chuộc cho chúng ta” (ICo 1:30). Khi thuộc về Ngài, bạn sẽ có mọi điều mình cần trong sự sống, sự chết, thời giờ và cả sự vĩnh cửu nữa!
Có lẽ sự thay đổi kỳ diệu nhất mà Chúa Giê-xu đã thực hiện, đó là cách Ngài đem giáo lý về sự sống lại trong ngày sau rốt sang hiện tại. Ma-thê trông đợi về tương lai, biết rằng La-xa-rơ sẽ sống lại và bà sẽ được gặp anh mình. Bạn hữu bà nhớ lại những sự kiện đã qua nên nói rằng: “Người đã mở mắt kẻ mù được, há chẳng có thể cũng làm cho người này không chết sao?” (Gi 11:37). Chúa muốn hướng sự chú ý của họ vào hiện tại: bất cứ nơi đâu Ngài hiện diện, nơi ấy đều có quyền năng phục sinh của Đức Chúa Trời (Ro 6:4 Ga 2:20 Phi 3:10).
Chúa Giê-xu xác nhận rằng những người tin Ngài sẽ sống lại từ cõi chết (Gi 11:25), sau đó Ngài bày tỏ lẽ thật kế tiếp rằng người tin Ngài sẽ “không bao giờ chết! ” (Gi 11:26). Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào? Bạn hãy xem câu trả lời ở ITe 4:13,17.Khi Chúa Giê-xu tái lâm trên không trung để rước người tin Ngài đi, những ai đang sống vào thời điểm Chúa đến sẽ không bao giờ chết. Họ sẽ được biến hoá và được cất lên không trung gặp Ngài!
Ma-thê không lưỡng lự khi xác nhận đức tin mình. Bà gọi Chúa Giê-xu với ba danh hiệu:Chúa, Đấng Christ (Mê-si-a) và Con Đức Chúa Trời. Câu nói “tôi tin” được viết ở thì hiện tại hoàn thành, chỉ rõ một đức tin đã định hình “Tôi đã tin và sẽ còn tiếp tục tin! ”
Chúa đã khiến Ma-thê xưng ra đức tin. Giờ đây Ngài phải giúp Ma-ri. Vì sao Ma-thê lại “lén” kêu Ma-ri? Có lẽ vì sự an toàn của Chúa, bởi họ biết các nhà lãnh đạo đang rình bắt Chúa Giê-xu. Khi Ma-ri đứng dậy đón Chúa, bạn hữu bà nghĩ rằng bà sẽ đến mộ anh để khóc. Họ muốn chia buồn cùng Ma-ri nên đi theo. Bạn hãy hình dung sự ngạc nhiên của họ khi gặp Chúa Giê-xu! Ma-ri là người được nhắc đến ba lần trong Thánh Kinh Tân Ước, mỗi lần bà đều ngồi ở dưới chân Chúa Giê-xu (Lu 10:39 Gi 11:32 Gi 12:3). Ma-ri ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Ngài, sấp mình xuống chân Chúa để bày tỏ sự đau khổ, và dùng dầu quí xức chân Chúa để thờ phượng Ngài. Những lời duy nhất Ma-ri nói ở Gi 11:32 là lời lặp lại điều Ma-thê đã nói ở câu Gi 11:21.
Ma-ri không thể nói gì nhiều hơn vì vừa dằn được cơn đau buồn và bắt đầu khóc. Bạn hữu bà cũng khóc với bà như phong tục người Do Thái vẫn làm. Chúa bày tỏ sự cảm động của mình khi Ngài khóc. Có lẽ Ngài đã thay đổi tâm trạng từ cảm động sang phẫn nộ. Ngài phẫn nộ điều gì? Đó là sự huỷ diệt mà tội lỗi đã đem vào thế gian Ngài tạo dựng. Sự chết là kẻ thù và Sa-tan đã sử dụng nỗi kinh khiếp của sự chết làm vũ khí lợi hại cho nó (He 2:14-18). Dĩ nhiên, điều đó khiến Chúa phẫn nộ!
Việc Chúa khóc cho chúng ta thấy nhân tính của Đấng Christ, Ngài thâm nhập vào một từng trải của đời sống con người hầu biết rõ tâm tư tình cảm chúng ta. Thật ra, khi ở trong thân vị Con Người hoàn thiện, Chúa Giê-xu từng trải những điều này sâu sắc hơn chúng ta. Những giọt nước mắt của Ngài cũng giúp ta hiểu Ngài là Đấng có lòng thương xót Ngài thật sự là “Người từng trải sự buồn bực” (Es 53:3). Hôm nay, Ngài là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm thành tín và có lòng thương xót, nên chúng ta có thể đến trước ngôi ơn phước để tìm ơn giúp đỡ khi cần (He 4:14-16).
Qua những giọt nước mắt của Chúa, chúng ta thấy thảm trạng của tội lỗi và cả sự vinh hiển trên trời. Có lẽ Chúa khóc cho La-xa-rơ vì biết rằng Ngài sẽ gọi bạn hữu Ngài từ thiên đàng trở lại một thế giới gian ác nơi mà một ngày kia La-xa-rơ cũng phải chết một lần nữa. Vốn từ trên trời xuống thế gian, Chúa Giê-xu biết rõ những gì La-xa-rơ sắp bỏ lại phía sau.
Qua những giọt nước mắt của Chúa, người chứng kiến có thể thấy một bằng chứng về tình yêu của Ngài. Nhưng, một số người lý luận: “Nếu Ngài yêu La-xa-rơ dường ấy, há chẳng thể làm cho người ấy không chết sao?” Cũng có thể họ cho rằng:“Chúa Giê-xu khóc vì không thể làm được gì. Đó là những giọt nước mắt đầy nuối tiếc”. Nói cách khác, không ai có mặt ở đó thật sự chờ đợi một phép lạ! Bởi lẽ ấy, không ai có thể tố cáo Chúa về việc “âm mưu” bày ra sự kiện này và thông đồng với hai chị em cùng bạn hữu họ. Cả các môn đệ Chúa cũng không tin rằng Chúa Giê-xu có thể khiến La-xa-rơ sống lại từ cõi chết!
Ma-thê là người tuyên xưng đức tin (Gi 11:27) và cũng là người đánh mất đức tin vào phút cuối: “Mở cửa mộ sao? Bây giờ người chết đã có mùi! ” Chúa ôn tồn nhắc Ma-thê nhớ lại lời Ngài phán trước đó ba ngày (Gi 11:4) và khuyên bà hãy có lòng tin. Khi đức tin thật đặt nền tảng trên lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ khiến quyền năng Đức Chúa Trời hành động. Ma-thê trấn tĩnh lại, và hòn đá được lăn ra.
3. Người Giu-đa (Gi 11:41-57)
Đến đây, nội dung tập trung vào đức tin của những người chứng kiến sự kiện này. Họ là người đã đến an ủi Ma-ri và Ma-thê. Chúa Giê-xu cầu nguyện (Gi 11:41 Gi 6:11)và cảm tạ Đức Chúa Trời về việc lời cầu nguyện của Chúa đã được nhậm. Vậy Ngài cầu xin điều này khi nào? Có lẽ Ngài đã cầu nguyện ngay khi biết tin La-xa-rơ bị đau (Gi 11:4). Đức Chúa Trời đã cho Chúa Giê-xu biết trước chương trình Ngài nên Chúa Giê-xu vâng theo ý Cha. Giờ đây, Ngài cầu nguyện vì những người chứng kiến này không có lòng tin, hầu cho họ biết rằng Đức Chúa Trời đã sai Ngài đến.
Có một tác giả Thanh giáo cho rằng nếu Chúa không gọi tên La-xa-rơ khi Ngài kêu lớn tiếng, có lẽ Ngài sẽ làm cả nghĩa trang biến mất! Vì La-xa-rơ bị buộc chặt bằng vải liệm đáng lẽ ông không thể đi ra cửa mộ được, nhưng quyền năng Đức Chúa Trời đã đưa ông đi ra. Đó là một phép lạ rõ ràng, thậm chí những kẻ có lòng ganh ghét nhất cũng không thể phủ nhận.
Sự sống lại của La-xa-rơ là một điển hình về điều xảy đến đối với một tội nhân khi tin nhận Đấng Christ (Eph 2:1-10). La-xa-rơ đã chết và mọi tội nhân đều là “kẻ chết”. Người chết bị mục rữa vì sự chết và sự hư hoại luôn đồng hành với nhau.Mọi kẻ hư mất đều “chết” về mặt tâm linh. Một số xác chết này có thể “mục rữa”hơn xác chết khác, nhưng không hề có tình trạng xác này “chết hơn” xác kia. Vì tất cả đều chết.
Bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, La-xa-rơ được sống lại. Những ai tin nhận Đấng Christ đều được ban cho sự sống mới thoát khỏi mồ mả của tội lỗi (Gi 5:24). La-xa-rơ được cởi bỏ lớp vải liệm (Co 3:10) và được hưởng sự tự do mới. Bạn sẽ thấy ông ngồi đồng bàn với Chúa Giê-xu (Gi 12:2). Mọi người tin Chúa đều đồng ngồi với Đấng Christ tại các nơi trên trời (Eph 2:6) để dự yến tiệc thuộc linh trong mối tương giao với Chúa.
Bởi sự thay đổi kỳ diệu ở La-xa-rơ, nhiều người muốn được thấy ông, và Đức Chúa Trời đã dùng “bằng chứng sống” này để đem con người đến với sự cứu rỗi (Gi 12:9-11). Các sách Phúc Âm không chép gì thêm về La-xa-rơ, nhưng sự hiện diện của ông trong đời sống hằng ngày đủ để thuyết phục người khác tin rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Vì chứng cớ này gây ảnh hưởng mạnh mẽ, các lãnh đạo Do Thái muốn bắt và giết La-xa-rơ hòng dập tắt chứng cớ ấy.
Qua những phép lạ Chúa làm trước đó, dân sự hưởng ứng bằng cách chia phe ra. Một số người tin Chúa đã làm chứng về phép lạ này vào ngày Chủ nhật trước Lễ Phục Sinh (Gi 12:17-18). Nhưng một số khác đi báo cho các cấp lãnh đạo những điều xảy ra ở Ba-thê-tha-ni. Những kẻ “báo tin” này đã ở rất gần Nước Trời, nhưng chẳng hề có dấu hiệu tin nhận nơi họ. Khi lòng người không muốn đầu phục chân lý, vậy ân điển Đức Chúa Trời không thể đem người ấy đến sự cứu rỗi được. Những người này lẽ ra đã có thể kinh nghiệm được một sự sống lại về thuộc linh trong đời sống họ!
Toà Công Luận nhanh chóng được triệu tập để bàn việc “đối phó” với Chúa Giê-xu. Họ không muốn tìm kiếm chân lý, chỉ kiếm cách bảo vệ những quyền lợi ích kỷ của bản thân. Nếu Chúa tập hợp được nhiều người tin theo, Ngài sẽ gây sự chú ý cho nhà cầm quyền La Mã, và điều này có thể gây tổn hại cho “cơ đồ” của người Giu-đa.
Là thầy cả thượng phẩm đương niên, Cai-phe thuộc dòng Sa-đu-sê chớ không phải dòng Pha-ri-si (Cong 23:6-10), nhưng hai phe này luôn hiệp nhau để chống một kẻ thù.Cai-phe không hề chuẩn bị trước đã thốt ra một lời tiên tri: rằng Chúa Giê-xu sẽ vì dân mà chết để họ không bị hư mất. “Người đã bị dứt khỏi đất người sống, là vì cớ tội lỗi dân ta đáng chịu đánh phạt” (Es 53:8). Cùng với khải tượng này bày tỏ về đại gia đình Đức Chúa Trời, Giăng giải thích thêm rằng: Chúa Giê-xu không những chết vì dân Do Thái mà thôi, nhưng cũng vì mọi con cái Đức Chúa Trời là những người sẽ nhóm nhau trong một gia đình nơi thiên đàng (Gi 4:42 Gi 10:16).
Ngày ấy, các quan chức lập mưu để giết Ngài (Mat 12:14 Lu 19:47 Gi 5:18 Gi 7:1,19-20,25). Họ nghĩ rằng họ đã làm chủ được tình hình, nhưng Đức Chúa Trời mới là Đấng thực hiện kế hoạch tiền định của Ngài (Cong 2:23). Thật ra, họ muốn trì hoãn kế hoạch này đến sau lễ Vượt Qua, nhưng Đức Chúa Trời đã hành động theo cách khác.
Chúa Giê-xu rút về thành Ep-ra-im, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 15 dặm về phía Bắc Ngài ở yên lặng cùng các môn đệ tại đó. Dân chúng tập trung về Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt Qua, họ thắc mắc chẳng biết Chúa sẽ dự kỳ lễ này khi đang gặp nguy hiểm hay không. Giờ đây Ngài đã bị liệt vào danh sách bị “truy nã”, vì toà Công Luận rao rằng ai biết Chúa Giê-xu ở đâu phải báo cho họ.
Đoạn 11 bày tỏ thần tính của Chúa Giê-xu cùng sự bại hoại hoàn toàn của lòng người.Người giàu nơi âm phủ đã lý luận rằng: “Nếu có kẻ chết sống lại đến cùng họ, thì họ sẽ ăn năn” (Lu 16:30). La-xa-rơ đã sống lại từ cõi chết, nhưng các quan trưởng lại muốn giết ông! Phép lạ thật sự bày tỏ quyền năng Đức Chúa Trời, nhưng chính phép lạ không thể truyền đạt ân điển Đức Chúa Trời được.
Đây là giai đoạn đầy kịch tính nhất trong lịch sử khi con người làm điều gian ác nhất và Đức Chúa Trời bày tỏ sự kỳ diệu vô đối của Ngài.
Nào ta hãy đến tôn thờ Ngài – là Christ – là Chúa!
12. ĐẤNG CHRIST VÀ GIAI ĐOẠN KHỦNG HOẢNG (Gi 12:1-50)
Ở đoạn 12, Giăng ghi lại giai đoạn khủng hoảng lớn lần thứ hai trong chức vụ Chúa Giê-xu được chính ông chứng kiến. Khủng hoảng đầu tiên xảy ra khi các môn đệ không muốn đồng hành với Chúa (Gi 6:66) dù Ngài là “đường đi” (Gi 14:6). Trong đoạn này, Giăng cho biết nhiều người không tin Ngài (Gi 12:37) dù Ngài là “chân lý”. Giai đoạn khủng hoảng thứ ba sẽ xảy ra ở đoạn Gi 19: dù Chúa là “Sự sống”, con người vẫn muốn đóng đinh Ngài.
Mở đầu Phúc Âm, Giăng cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu đã “đến trong xứ mình (thế gian) nhưng dân mình (con người) chẳng hề nhận lấy” (Gi 1:11). Trong 12 đoạn đầu, Giăng đưa ra các chứng cớ và nhân chứng nối tiếp nhau, hầu giúp ta tin rằng Chúa Giê-xu thật sự là Đấng Christ Con Đức Chúa Trời. Mọi chứng cớ ấy đều được các quan trưởng trong xứ chứng kiến trực tiếp, nhưng họ vẫn chối bỏ những lẽ thật của Chúa. Bị “dân mình” chối bỏ, Chúa Giê-xu đến với các môn đệ Ngài, họ là những người Ngài “yêu cho đến cuối cùng” (Gi 13:1).
Qua đoạn 12, chúng ta sẽ thấy Chúa Giê-xu đến với bốn nhóm người và học được nhiều điều khi nghiên cứu đoạn này.
1. Chúa Giê-xu và bạn hữu Ngài (Gi 12:1-11)
Chúa Giê-xu biết các lãnh đạo Do Thái tìm bắt và giết Ngài (Gi 11:53,57) nhưng Ngài vẫn trở lại Bê-tha-ni là nơi chỉ cách thành luỹ kẻ thù hai dặm – Vì sao? Ngài trở lại Bê-tha-ni hầu có thể ở yên tĩnh cùng các bạn hữu Ngài là Ma-ri, Ma-thê và La-xa-rơ. Thật đúng với cá tính mỗi người, Ma-thê bận rộn hầu việc Chúa, còn Ma-ri thờ phượng nơi chân Ngài (Lu 10:38-42).
Câu chuyện Ma-ri xức dầu cho Chúa Giê-xu cũng được chép trong Phúc Âm Mat 26:6-13 và Mac 14:3-9. Bạn đừng nhầm lẫn với sự kiện được chép ở Lu 7:36-50 nói về một đàn bà trước đó làm kỵ nữ đã đến xức dầu cho Chúa tại nhà Si-môn người Pha-ri-si. Ma-ri là người nữ đạo đức đã xức dầu cho Chúa trong nhà Si-môn là người trước đây bị phung (Mac 14:3). Sự kiện ở Lu 7:1-50 xảy ra tại Ga-li-lê còn câu chuyện chúng ta xem ở đoạn này xảy ra tại xứ Giu-đê. Chẳng có gì lạ khi hai người đều mang tên “Si-môn”, vì đó là một tên thông dụng thời bấy giờ.
Khi đối chiếu sự kiện này chép ở ba sách Phúc Âm, bạn biết rằng Ma-ri đã xức dầu trên đầu và dưới chân Chúa. Hành động ấy xuất phát từ một tình yêu thánh khiết trong lòng bà, vì bà biết Chúa sắp phải chịu thương khó và chết. Do ngồi nơi chân Chúa và lắng nghe Ngài dạy dỗ, Ma-ri biết điều Chúa sẽ thực hiện. Thật ý nghĩa khi Ma-ri không đi với những người đàn bà đến mộ xức dầu xác Chúa (Mac 16:1).
Theo một ý nghĩa nào đó, Ma-ri muốn bày tỏ sự tận tâm của bà với Chúa trước khi không còn cơ hội. Bà muốn dâng cho Ngài “những bông hồng” khi Ngài còn sống trên đất chớ không muốn đem chúng đến phần mộ! Hành động yêu mến và thờ phượng Chúa của Ma-ri mang tính “công khai, tự nguyện, dâng hiến, rời rộng, cá nhân và không ngượng ngùng”. Chúa Giê-xu gọi đó là “một việc tốt” (Mat 26:10 Mac 14:6). Ngài khen ngợi và bênh vực cho bà trước mọi người.
Một người lao động phải dành dụm tiền lương của một năm mới có thể mua được loại dầu quí giá ấy. Giống như vua Đa-vít, Ma-ri không muốn dâng cho Chúa những gì “không đáng giá” (IISa 24:24). Hành động thờ phượng tuyệt vời này đã khiến hương thơm toả khắp ngôi nhà họ đang dùng bữa, và phước hạnh của việc Ma-ri làm đã được cả thế giới biết đến (Mat 26:13 Mac 14:9). Ma-ri đâu biết rằng sự yêu mến bà dành cho Đấng Christ trong buổi tối ấy sẽ trở thành một phước hạnh cho những người tin Chúa khắp thế giới trong những thể kỷ tiếp nối!
Khi phục nơi chân Chúa, Ma-ri đã chọn vị trí của một tôi tớ. Khi xoã tóc ra (phục nữ Do Thái không làm vậy trước mọi người), bà đã khiêm cung đặt niềm kiêu hãnh của bản thân nơi chân Chúa (ICo 11:15). Dĩ nhiên, Ma-ri đã bị hiểu lầm và chỉ trích, nhưng đó là điều thường xảy đến cho những ai muốn dâng Chúa điều tốt nhất.
Chính Giu-đa là kẻ mở đầu chỉ trích và thật đáng buồn khi các môn đệ khác cũng dự phần vào. Họ đâu biết Giu-đa từng là “tay trộm cắp” (Gi 12:6) nên tán đồng sự “quan tâm” của hắn đối với kẻ nghèo khó. Xét cho cùng, Giu-đa là người “giữ túi bạc”, đặc biệt vào kỳ lễ Vượt Qua hắn muốn dự phần với những kẻ “bạc phước” (Gi 12:21-30). Vào giờ phút cuối, các môn đệ vẫn cho rằng Giu-đa là một môn đệ tận tuỵ của Chúa Giê-xu.
Câu nói đầu tiên của Giu-đa ở Gi 12:5 cũng được chép trong sách Phúc Âm Ma-thi-ơ và Mác. Câu nói sau cùng của Giu-đa được chép trong Mat 27:4. Giu-đa vốn là tay trộm cắp nên quen ăn cắp tiền trong các hộp tiền hắn giữ (tiếng Hy Lạp gọi là “cái túi”, trước đây vốn là một hộp nhỏ giữ những chiếc miệng kèn của những nhạc khí dùng hơi. Sau cùng, nó có nghĩa như một “cái hộp” nhỏ, đặc biệt là hòm đựng tiền. Bản dịch Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp sử dụng từ này ở IISu 24:8-10 nói về “cái hòm” đựng tiền của vua Giô-ách). Dĩ nhiên Giu-đa quyết định phản Chúa và muốn thực hiện những việc hắn có thể làm vì cho rằng bản thân đang ở trong tình trạng xấu. Có lẽ hắn mong Chúa Giê-xu sẽ đánh bại La Mã và lập vương quốc mới để hắn làm “quan coi kho”!
Việc làm của Ma-ri là một sự chúc phước đối với Chúa Giê-xu và là một phước hạnh cho đời sống bà. Bà cũng là một phước hạnh đối với gia đình khi làm toả ra hương thơm (Phi 4:18). Hôm nay, bà cũng là một phước hạnh đối với Hội Thánh Chúa khắp thế giới. Hành động tận tuỵ của bà trong ngôi làng bé nhỏ ở thành Bê-tha-ni khi xưa vẫn luôn làm xao động những “làn sóng phước hạnh”.
Ngày nay, người ta đặt tên con gái mình là “Mari”, nhưng không có cha mẹ nào đặt tên “Giu-đa” cho con trai họ. Tên Giu-đa (Judas) được ghi trong từ điển đồng nghĩa với “kẻ lừa thầy phản bạn”. Ma-ri và Giu-đa được thấy trong Ch 10:7 “kỷ niệm người công bình được khen ngợi, nhưng tên kẻ gian ác rục đi”. Tr 7:1 chép rằng “Danh tiếng hơn dầu quí giá” và Ma-ri là người có được hai điều trên.
Mat 26:14-15 khiến chúng ta có cảm giác rằng ngay sau khi bị Chúa quở trách, Giu-đa đã tìm gặp các thầy tế lễ để mặc cả về việc nộp Chúa Giê-xu. Nhưng dường như những sự kiện ở Mat 21:1-25:46 xảy ra trước. Rất có thể lời Chúa trách Giu-đa đã góp phần vào quyết định phản bội Chúa của hắn. Việc Chúa báo trước về sự chết của Ngài cũng là nhân tố thúc đẩy Giu-đa ra đi khi cơ hội đã đến.
Khi xem sự kiện này, chúng ta cũng thấy những người tiêu biểu làm gương cho chúng ta, Ma-thê đại diện cho “sự hầu việc” khi bà phục vụ bữa ăn đã chuẩn bị từ trước cho Chúa. Đây cũng là một “của lễ có mùi thơm” không khác gì dầu quí giá của Ma-ri (He 13:16). Ma-ri đại diện cho “sự thờ phượng” và La-xa-rơ đại diện cho “sự làm chứng” (Gi 11:9-11). Những người đến Bê-tha-ni cốt để xem La-xa-rơ là người được khiến sống lại từ cõi chết.
Không có câu nói nào của La-xa-rơ được ghi lại trong Thánh Kinh Tân Ước, nhưng sự sống kỳ diệu của ông là một chứng cớ hữu hiệu cho danh Chúa Giê-xu (Ngược lại, Giăng Báp-tít chưa hề làm phép lạ những lời nói của ông đã khiến nhiều người đến với Chúa Giê-xu (Gi 10:40-42). Hôm nay chúng ta phải bước đi “trong đời mới” (Ro 6:4) vì đã “được sống lại với Đấng Christ” (Eph 2:1-10 Co 3:1). Thật vậy đời sống Cơ Đốc nhân phải thể hiện mức quân bình về sự thờ phượng, hầu việc và làm chứng cho Chúa.
Tuy nhiên, việc La-xa-rơ là một phép lạ sống khiến ông bị rơi vào tình trạng nguy hiểm: các nhà lãnh đạo Do Thái muốn giết ông như họ muốn giết Chúa Giê-xu vậy! Chúa chúng ta thật có lý khi gọi họ là con cái của ma quỉ vì họ là kẻ giết người (Gi 8:42-44). Họ đuổi người mù được chữa lành ra khỏi nhà hội chớ không cho phép người ấy làm chứng về Chúa Giê-xu trong ngày Sa-bát. Họ cũng tìm cách đưa La-xa-rơ trở lại phần mộ vì ông đã khiến nhiều người tin nơi Chúa Giê-xu, khi con người không muốn tiếp nhận chứng cớ về chân lý, họ sẽ tìm cách tống khứ điều ấy đi!
Cho dù các môn đệ đã có thái độ tệ bạc đối với Ma-ri nhưng buổi tối thông công yên tịnh này đã đem lại sự khích lệ mạnh mẽ cho Đấng Christ khi Ngài đối diện với những thử thách trong tuần lễ cuối cùng trước khi bước lên thập tự giá. Chúng ta cần xét lại lòng mình và gia đình mình để biết chúng ta có đang làm vui lòng Chúa qua sự thờ phượng, hầu việc và làm chứng của mình hay không.
2. Chúa Giê-Xu và những người đến dự lễ Vượt Qua (Gi 12:12-19)
Từ một bữa ăn tối yên tịnh tại Bê-tha-ni, Giăng chuyển sang quanh cảnh của một đám đông ồn ào ở Giê-ru-sa-lem. Bốn sách Phúc Âm đều chép lại sự kiện này. Đây là cuộc diễu hành công khai duy nhất được Chúa cho phép khi Ngài thi hành chức vụ trên đất. Mục đích của Ngài nhằm làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Cựu Ước (Xa 9:9). Sự kiện này đã gây lòng tức giận đối với các lãnh đạo tôn giáo, cuối cùng dẫn đến việc Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá.
Có ba nhóm người trong đám đông hôm ấy:
1.Những người đến dự lễ Vượt Qua từ bên ngoài (Gi 12:12,18).
2.Dân trong vùng đã chứng kiến và làm chứng sự sống lại của La-xa-rơ (Gi 12:17)
3.Các quan trưởng là những người quan tâm đặc biệt đến việc Chúa Giê-xu làm tại kỳ lễ (Gi 12:19). Ở mỗi kỳ lễ, dân chúng đều nôn nóng chờ đợi, hoang mang về sự hiện diện của Chúa và điều Ngài sẽ làm. Sự chờ đợi của họ như thể Chúa sắp dấy lên một cuộc cách mạng và tự lập mình làm vua nhưng đó không phải là mục đích của Ngài.
Sự kiện này có ý nghĩa gì đối với Chúa Giê-xu? Thứ nhất, nó thể hiện sự vâng lời của Ngài đối với ý Cha trên trời. Tiên tri Xa-cha-ri (Xa 9:9) báo trước rằng Đấng Mê-si-a sẽ vào thành Giê-ru-sa-lem theo cách ấy, và Chúa Giê-xu đã làm trọn lời tiên tri. “Con gái Si-ôn” cũng là danh hiệu dành cho thành Giê-ru-sa-lem (Gie 4:31 Ca 2:4,8,10). Chúa Giê-xu muốn tuyên bố công khai với dân sự rằng Ngài thật là vua Y-sơ-ra-ên (Gi 1:49). Đấng Mê-si của giao ước. Có lẽ, nhiều người đến dự lễ hy vọng đây là thời điểm Chúa sẽ tiêu diệt La Mã và giải phóng dân tộc Y-sơ-ra-ên!
Cuộc diễu hành này có ý nghĩa gì đối với người La Mã? Kinh thánh không ghi lại quan điểm của nhà cầm quyền La Mã, nhưng chắc hẳn họ đã kiểm soát rất chặt chẽ vào ngày đó. Trong kỳ lễ Vượt Qua hằng năm, cũng thường xảy ra việc một số nhà dân tộc chủ nghĩa Do Thái tìm cách xui dân nổi loạn. Có lẽ dân La Mã cho rằng đám đông này cũng có mục đích tương tự. Tôi hình dung rằng một số lính La Mã chắc đã nhạo cười cuộc diễu hành tưng bừng này, vì nó chẳng giống như lễ kỷ niệm “chiến thắng của quân La Mã” tại thành Rô-ma.
Khi một tướng La Mã thắng trận trên xứ người, đã giết ít nhất là 5.000 kẻ thù và dành được một lãnh địa mới, người ấy sẽ được dân La Mã đón mừng khi trở lại thành phố! Kẻ thắng trận được phép phô bày các chiến lợi phẩm và những viên chỉ huy địch mình bắt được. Đám đông sẽ tập trung tại vũ đài nơi những tù binh bị buộc làm trò tiêu khiển cho dân chúng bằng cách thi đấu với dã thú. So với lễ mừng chiến thắng của La Mã, việc tiến vào thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-xu chẳng có ý nghĩa gì!
Cuộc diễu hành này có ý nghĩa gì đối với dân Do Thái? Dân từ mọi nơi đến dự lễ đã đón mừng Chúa Giê-xu, trải áo ra trước mặt Ngài, dùng lá kè vẫy chào Ngài như dấu hiệu của sự hoà bình và chiến thắng (Kh 7:9). Họ trích dẫn Thi 118:26 là câu Kinh Thánh nói về Đấng Mê-si-a và tuyên bố Ngài là “Vua Y-sơ-ra-ên”. Trong khi họ làm điều này, Chúa Giê-xu đã khóc! (Lu 19:37-44).
Tên gọi “Giê-ru-sa-lem” có nghĩa là “thành phố hoà bình” hoặc “nền hoà bình”. Dân chúng hy vọng (Chúa Giê-xu sẽ đem đến sự hoà bình như họ hằng mong đợi. Tuy nhiên, Ngài khóc vì nhìn thấy viễn cảnh của đất nước này: chiến tranh, đau khổ, sự huỷ diệt và tan lạc. Khi Chúa giáng sinh, thiên sứ loan báo “bình an dưới đất” (Lu 2:13-14) nhưng khi thi hành chức vụ, Chúa Giê-xu lại báo trước về “chiến tranh trên đất” (Lu 12:51). Thật ý nghĩa khi dân chúng hô lên rằng “bình an ở trên trời” (Lu 19:38), vì đó là nơi duy nhất có sự bình an hôm nay!
Dân tộc này đã đánh mất biết bao cơ hội, các nhà lãnh đạo của họ cũng không nhận biết thời điểm Đức Chúa Trời viếng thăm. Họ không có sự hiểu biết về Kinh Thánh. Trong tương lai, dân Y-sơ-ra-ên sẽ chứng kiến Vua họ ngự đến theo cách hoàn toàn khác! (Kh 19:11). Ngài sẽ tái lâm trong vinh hiển (chớ không phải trong sự khiêm nhường) cùng với các thiên binh hầu việc Ngài. Đó sẽ là một cảnh tượng đắc thắng khi Ngài đến tiêu diệt kẻ thù và lập vương quốc Ngài.
Một chủ đề tái hiện trong Kinh Thánh, đó là không thể có sự vinh hiển mà trước hết không trải qua sự thương khó. Chúa biết Ngài phải chịu chết trên thập tự giá trước khi có thể bước vào sự vinh hiển (Lu 24:26). Các nhà thần học Do Thái chẳng hề để tâm đến sự thương khó của Đấng Mê-si-a và vương quốc vinh hiển được các tiên tri báo trước. Một số giáo sư khác cho rằng có hai Đấng Mê-si-a: Một Đấng sẽ chịu thương khó và một Đấng sẽ cai trị thế gian. Cả những môn đệ Chúa cũng lờ mờ về những điều sắp xảy đến! (Gi 11:16).
Các lãnh đạo Do Thái phản ứng ra sao trước sự kiện Chúa tiến vào Giê-ru-sa-lem cách khải hoàn? Khi xem thấy đám đông đi theo ngợi khen Chúa Giê-xu, họ biết rằng Ngài đã chiếm trọn tình cảm của dân chúng trong ngày ấy. Họ muốn giải quyết trước một “cuộc nổi loạn” lớn có thể xảy ra trong kỳ lễ Vượt Qua. Có lẽ Chúa Giê-xu sẽ thực hiện một phép lạ lớn để thu phục tư tưởng tình cảm của những kẻ nghèo khổ! Họ chẳng hiểu gì về tấm lòng của Đấng Christ, và cũng chẳng hề biết Chúa muốn “mượn tay họ” để toà Công Luận sẽ hành động trong kỳ lễ này. Chiên Con Đức Chúa Trời phải phó mạng sống Ngài khi các chiên con dùng cho lễ Vượt Qua sắp bị giết.
Câu nói “Kìa! Cả thiên hạ đều chạy theo người! ” (Gi 12:19) vừa là câu “cường điệu”, vừa là một lời tiên tri. Ở phân đoạn kế tiếp, chúng ta sẽ gặp những khách thập phương ngoài địa phận Y-sơ-ra-ên.
3. Chúa Giê-xu và khách thập phương (Gi 12:20-36)
Sau khi vào Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-xu đã dọn dẹp đền thờ lần thứ nhất. Ngài trích dẫn Kinh Thánh Es 56:7 và Gie 7:11 “Há chẳng có lời chép: Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân hay sao? Nhưng các ngươi đã làm thành cái hang trộm cướp?” (Mac 11:17). Có lẽ khi nghe lời này, người Hy Lạp được sự khích lệ lớn.
Một trong những chủ đề lớn trong Phúc Âm Giăng là: Chúa Giê-xu là Đấng Christ của thế gian, chớ không chỉ là Đấng Cứu Chuộc Y-sơ-ra-ên. Ngài là Chiên Con Đức Chúa Trời. Đấng cất tội lỗi thế gian đi (Gi 1:29), bởi vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian” (Gi 3:16). Người Sa-ma-ri nhận Ngài là “Cứu Chúa của thế gian” (Gi 4:42). Ngài phó sự sống mình vì thế gian hầu có thể ban cho thế gian sự sống (Gi 6:33). Ngài là Sự sáng của thế gian (Gi 8:12). Trọng tâm của Phúc Âm Giăng được mọi người biết đến thật rõ ràng và không thể phủ nhận được: Ngài sẽ đem về “bầy chiên khác” không thuộc bầy Do Thái (Gi 10:16 Gi 11:51-52).
Đoạn Kinh thánh này cho thấy những người Gờ-réc có thói quen đến thờ phượng Đức Chúa Trời vào kỳ lễ. Họ không phải là khách thập phương hiếu kỳ hay những kẻ “một lần tìm hiểu cho biết”. Hẳn họ là người kính sợ Đức Chúa Trời, là người ngoại dự lễ trong nhà hội Do Thái và tìm biết chân lý, nhưng vẫn chưa có sự giác ngộ về đạo Đức Chúa Trời. Những người ngoại đã gặp Chúa Giê-xu khi Ngài còn là một con trẻ (Mat 2:1-23), và bây giờ những người ngoại cũng đến gặp Chúa trước khi Ngài chịu chết.
Những người Gờ-réc xin Phi-líp cho họ được tiếp chuyện với Chúa Giê-xu. Phi-líp thuật lại cho Anh-rê (là người thường dẫn kẻ khác đến với Chúa Giê-xu) và Anh-rê trình với Chúa lời cầu xin này. Có lẽ, nhiều người rất muốn tiếp chuyện riêng với Chúa Giê-xu, nhưng họ sợ người Pha-ri-si (Gi 9:22). Dù là người ngoại, nhưng những người Gờ-réc không sợ nguy hiểm và những điều bất lợi xảy đến cho mình.
Chủ đề trọng tâm của bài giảng này nói về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (Gi 12:23,28). Chúng ta tưởng Chúa sẽ nói giờ đã đến, Con Người phải bị đóng đinh.Nhưng Chúa nhìn thấy sự vinh hiển đằng sau thập tự giá (Lu 24:26 He 12:2). Thật vậy, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là một chủ đề chính trong những đoạn còn lại của Phúc Âm Giăng (Gi 13:31-32 Gi 14:13 Gi 17:1,4-5,22,24).
Chúa dùng hình ảnh về hạt giống để minh hoạ chân lý thuộc linh tuyệt vời, rằng không thể có sự vinh hiển mà không có sự thương khó không thể có sự sống kết quả nếu không có sự khải hoàn nếu không có sự hy sinh. Về bản chất, hạt giống vốn yếu ớt và vô dụng, nhưng khi “chết” đi, nó thực hiện trọn mục đích mình. Nếu hạt giống biết “nói”, chắc nó sẽ phàn nàn vì bị chôn trong lớp đất lạnh lẽo tối tăm! Tuy nhiên, chỉ có một cách duy nhất để hạt giống đạt được mục đích, nó phải bị gieo xuống đất.
Con cái Đức Chúa Trời được ví như những hạt giống của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sự sống ấy sẽ chẳng bao giờ kết quả nếu chúng ta không dâng mình cho Đức Chúa Trời và để Ngài “gieo chúng ta” xuống. Chúng ta phải chết về bản ngã mình để sống cho Đức Chúa Trời (Ga 2:20 Ro 6:1-23). Cách duy nhất để đạt được một đời sống kết quả chỉ bởi cách noi theo Chúa Giê-xu qua sự chết, chôn và sống lại.
Khi phán những lời này, Chúa muốn khuyên chúng ta dâng đời sống mình cho Ngài. Bạn hãy chú ý những hình ảnh tương phản: “Ở một mình” hoặc “kết quả được nhiều”, “mất” sự sống hoặc “giữ” được sự sống, “hầu việc” cái tôi hoặc “hầu việc Đấng Christ”, hài lòng với cái tôi hoặc được Đức Chúa Trời tôn quí.
Tôi được biết có một số tín hữu đi thăm một địa điểm truyền giáo ở vùng hẻo lánh để tìm hiểu tình hình truyền giáo ở đó. Khi họ chứng kiến nhóm truyền giáo hoạt động, họ rất cảm kích về tinh thần truyền giáo của những người này. Một tín hữu đã thốt lên: “Chắc hẳn các bạn thật đã chôn mình ở đây! ” Một người truyền giáo trả lời: “Chúng tôi không chôn mình, chúng tôi được “trồng” ở đây!
Chúa biết Ngài sắp đương đầu với sự thương khó và sự chết và nhân tính của Ngài sẽ phản ứng trước những thử thách này. Tâm thần Ngài bối rối, không phải vì nghi ngờ ý muốn Đức Chúa Trời nhưng vì Ngài biết rõ những điều liên quan đến thập tự giá. Bạn hãy để ý, Chúa không nói “ta sẽ làm gì?” vì biết trước nhiệm mạng đã được giao Ngài chỉ nói rằng “ta sẽ nói gì?” Trong giờ phút chịu thương khó và đầu phục (Gi 12:27). bạn chỉ có thể có hai lời cầu nguyện, hoặc “Lạy Cha, xin hãy cứu con”, hoặc “Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển danh Ngài! ”
Trong một bài giảng của tôi ở đài phát thanh, tôi nói: “Đức Chúa Trời không muốn chúng ta ở tình trạng “tiện nghi” nhưng muốn chúng ta được”thích nghi”. Ngay sau khi chương trình chấm dứt, chuông điện thoại trong phòng tôi reo lên. Một thính giả giấu tên muốn tranh luận với tôi về câu nói trên, giọng nói bên kia sừng sộ: “Thích nghi với cái gì chớ? Bộ ông chưa đọc Ro 12:2 sao? Chép rằng: Đừng làm theo đời này”. Tôi đáp: “Vâng, dĩ nhiên tôi đã đọc Ro 12:2. Vậy ông cũng chưa đọc Ro 8:29 sao? Đức Chúa Trời đã định sẵn cho chúng ta “để nên giống như hình bóng Con Ngài”. Sau một chút yên lặng, (tôi mừng vì ông ta chuẩn bị trả tiền điện thoại) ông ậm ừ đáp lời tôi: “Vâng”
Vấn đề đặt ra là: “tiện nghi” hay ‘thích nghi”. Nếu chỉ chăm về cuộc sống tiện nghi, vậy chúng ta sẽ “cố bảo vệ” những kế hoạch và ước muốn của mình, chăm về sự sống của bản thân để chẳng bao giờ được “trồng” xuống. Nhưng nếu chúng ta dâng đời sống mình và để Đức Chúa Trời “trồng” chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ “ở một mình”, nhưng có niềm vui được kết quả cho vinh hiển Đức Chúa Trời.“Nếu ai (người Do Thái hoặc người Gờ-réc) hầu việc ta, thì phải theo ta”, đây là câu nói tương tự với Mat 10:39 và Mac 8:36.
Lời cầu nguyện “Cha ơi, xin làm sáng danh Cha! ” (Gi 12:28) được sự nhậm lời của Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời đáp lời Con Ngài và bảo đảm với Con hai điều: sự sống và chức vụ của Con trên đất đã làm sáng danh Cha, cũng như sự thương khó và sự chết sắp đến vậy. Ý nghĩa thay về việc Đức Chúa Trời phán với Con Ngài lúc Con khởi đầu chức vụ (Mat 3:17) , khi Con chuẩn bị đến Giê-ru-sa-lem (Mat 17:5) và giờ đây khi Con bước vào giai đoạn cuối trước khi chịu chết trên thập tự giá.Đức Chúa Trời cũng luôn đảm bảo điều đó cho những ai sẵn sàng chịu khổ vì danh Ngài.
Những người nghe tiếng sấm nhưng chẳng hiểu sứ điệp trong đó. Nếu tiếng vang kia vì chính họ nhưng họ lại không hiểu được, vậy có ích lợi chi? Tiếng vang ấy khích lệ Chúa Giê-xu, Ngài là Đấng phải chết thay họ. Do vậy, âm thanh ấy vì ích lợi dành cho họ. Họ nghe lời cầu nguyện của Chúa và nghe cả âm thanh từ trời đáp lại lời cầu nguyện. Điều đó đủ để họ tin rằng Chúa Giê-xu có mối giao thông với Đức Chúa Trời.
Chúa phán công khai về thập tự giá. Đó là giờ phút xét đoán thế gian và Sa-tan là vua của thế gian này. Sự chết của Chúa Giê-xu dường như là một “thắng lợi” đối với thế gian tội lỗi này, nhưng sự chết của Ngài sẽ là sự xét đoán dành cho thế gian. Trên thập tự giá, Chúa Giê-xu sẽ đánh bại Sa-tan và những gì thuộc về nó (Ga 6:14). Mặc dù được phép hiện diện trên đất, nhưng Sa-tan vẫn là kẻ thù bị đánh bại. Khi hầu việc Chúa, chúng ta đã thắng được kẻ thù độc ác (Lu 10:17-19). Ngày kia, Sa-tan sẽ bị quăng ra khỏi thiên đàng (Kh 12:10), nó sẽ chịu xét đoán và bị giam cầm đời đời (Kh 20:10).
Trước đó, chúng ta đã gặp động từ “kéo lên” (Gi 3:14 Gi 8:28). Nghĩa thông thường của nó là “hình phạt đóng đinh” (chú ý Gi 12:33), nhưng cũng mang ý nghĩa của “sự vinh hiển”, “Này tôi tớ ta sẽ làm cách khôn ngoan, sẽ được tôn lên, dấy lên và rất cao trọng” (Es 52:13). Con Người đã được vinh hiển khi chịu đóng đinh trên thập tự giá!
Nhóm từ ‘mọi người” không có nghĩa là tất cả đều được cứu. Ý nghĩa của nó nói về “mọi người không phân biệt ai”, người Giu-đa hay người ngoại. Ngài không ép buộc họ, nhưng khiến họ đến với Ngài (Gi 6:44-45). Ngài chịu “treo lên hầu con người có thể nhìn thấy “đường đi” (Gi 12:32), biết chân lý (Gi 8:28) và tiếp nhận sự sống (Gi 3:14). Thập tự giá nhắc nhở chúng ta về sự yêu thương Đức Chúa Trời dành cho cả thế giới và nhiệm vụ của Hội Thánh trong việc rao Phúc Âm ra khắp nơi.
Dân chúng nghe lời Chúa giảng nhưng không hiểu gì. Họ biết “Con Người” là danh hiệu của Đấng Mê-si-a, nhưng không biết lý do vì sao Đấng Mê-si-a phải chịu đóng đinh! Thánh Kinh Cựu Ước há không dạy rằng Đấng Mê-si-a sẽ còn lại đời đời đó sao? (Thi 72:17 Thi 89:36 Thi 110:4 Es 9:6).
Nếu phải bàn luận về những quan điểm “cao siêu” của thần học, sẽ không có đủ thời gian. Đây là giờ của “sự xét đoán” (Gi 12:31) và là giờ của “cơ hội”. Sự sáng đang chiếu ra và con người phải khôn ngoan nắm bắt cơ hội để được cứu! Chúng ta đã xem qua hình ảnh về sự sáng và sự tối tăm (Gi 1:4-9 Gi 3:17-20 Gi 8:20 Gi 9:39-41). Chỉ bởi một bước đơn giản của đức tin, những con người này lẽ ra đã có thể thoát khỏi sự tối tăm thuộc linh để bước vào ánh sáng của sự cứu rỗi!
Theo Phúc Âm Giăng, sự kiện này đánh dấu giai đoạn cuối cùng về chức vụ giảng dạy của Chúa Giê-xu trên đất. Ngài ra đi và ẩn mình nơi vắng vẻ. Đó chính là sự xét đoán dành cho một dân tộc từng chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nghe Ngài dạy dỗ và dò xét chức vụ Ngài, vậy mà vẫn không chịu tin nơi Ngài.
4. Chúa Giê-xu và dân Giu-đa vô tín (Gi 12:37-49)
Động từ quan trọng trong phân đoạn này là “tin”, được nhắc lại 8 lần. Trước hết, Giăng giải thích sự vô tín của dân sự. Họ không muốn tin (Gi 12:37-38 với lời Kinh Thánh trích trong Es 53:1) họ không thể tin (Gi 12:39) và bị khiến cứng lòng để không tin (Gi 12:40-41 với lời trích dẫn từ Es 6:9-10).
Dù được bày tỏ mọi chứng cớ rõ ràng, nhưng dân này vẫn không chịu tin. “Cánh tay Chúa” đã bày tỏ cho họ quyền năng Ngài, nhưng họ bịt mắt trước lẽ thật. Họ đã nghe sứ điệp của Chúa và chứng kiến phép lạ Ngài làm, nhưng vẫn vô tín.
Khi một người muốn chống lại sự sáng, sẽ có sự thay đổi trong lòng người ấy cho đến khi trở thành kẻ vô tín. Đức Chúa Trời cho phép “sự tối tăm về trí tuệ” xảy đến trước mắt những kẻ không muốn nhận lấy chân lý cách nghiêm túc (Lời trích dẫn này cũng được chép nhiều chỗ trong Tân Ước, (Mat 13:14,15 Mac 4:12 Lu 8:10 Cong 28:25-77 Ro 11:8). Thật nguy hiểm nếu xem nhẹ chân lý của Đức Chúa Trời, vì con người dễ đánh mất cơ hội để được cứu. “Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần” (Es 55:6).
Có những con người không muốn tin, và cũng có những người không muốn công khai xưng nhận Đấng Christ dù đã tin (Gi 12:42-43). Trước đây, Ni-cô-đem và Giô-sép ở A-ri-ma-thê đã từng thuộc “nhóm” người này, nhưng sau đó họ đã công khai xưng nhận Đấng Christ (Gi 19:38). Hội Thánh ban đầu cũng có những người Pha-ri-si (Cong 15:5) và cả các thầy tế lễ (Cong 6:7). Đó chính là sự tranh chiến đã qua giữa vinh hiển Đức Chúa Trời và lòng tự tôn của con người (Gi 12:25-26). Bị dứt phép thông công là một cái giá phải chịu (Gi 9:22), vì vậy những người “tin âm thầm” này muốn có cả hai lợi ích. (Hãy xem xét vấn đề này ở Gi 5:44).
Trong câu Gi 12:44-50, chúng ta nhận được bài giảng cuối cùng của Chúa trước khi Ngài ẩn mình khỏi dân sự. Một lần nữa, trọng tâm lại nói về đức tin. Có một số chủ đề cơ bản trong Phúc Âm Giăng được trình bày xuyên suốt ở bài giảng này: Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến nhìn xem Con là nhìn xem Cha đức tin trong Chúa Giê-xu đem đến sự cứu rỗi chối bỏ Chúa là đối diện với sự đoán phạt đời đời.Thật ra, chính lời Chúa phán sẽ xét đoán những ai không tin và chối bỏ Ngài!
Thật khủng khiếp khi kẻ vô tín sẽ đối diện với sự xét đoán ở từng lời Kinh Thánh đã nghe hoặc đọc qua. Chính lời Chúa mà người ấy chối bỏ sẽ trở nên sự xét đoán cho bản thân! Vì sao? Vì Lời được viết ra chỉ về Ngôi Lời sống, là Chúa Giê-xu (Gi 1:14).
Có nhiều người chối bỏ chân lý, đơn giản chỉ vì sợ con người (Gi 12:42-43). Trong số những kẻ bị quăng xuống địa ngục, cũng có “kẻ hèn nhát” (Kh 21:8). Thà kính sợ Đức Chúa Trời để được bước vào thiên đàng, còn hơn phải sợ con người để bị sa vào hoả ngục!
Từ “xét đoán” được lặp lại 4 lần ở cuối thông điệp của Chúa, và cũng là một từ “nghiêm túc”. Chúa Giê-xu đến thế gian không để xét đoán, nhưng để đem đến sự cứu rỗi (Gi 3:18 Gi 8:15). Nhưng nếu tội nhân không muốn tin nhận Ngài là Đấng Christ, Ngài phải trở thành Đấng xét đoán. Tội nhân đang tự chuốc lấy sự đoán xét cho mình!
Khi đọc qua 12 đoạn đầu của Phúc Âm Giăng, bạn đã nhìn thấy Chúa Giê-xu qua đời sống, chức vụ, phép lạ, sứ điệp và lòng khao khát của Ngài muốn cứu tội nhân hư mất.
Sau khi xem xét chứng cớ, bạn có tin rằng Chúa Giê-xu thật sự là Con Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của thế gian không? Bạn có tin nhận Ngài để được hưởng sự sống đời đời không?
“Các ngươi đương có sự sáng, hãy tin sự sáng, hầu cho trở nên con cái của sự sáng” (Gi 12:36).
13. NGƯỜI ĐẦY TỚ CAO TRỌNG (Gi 13:1-35)
Trong cuộc đời chức vụ, đã ba lần tôi phải rao “sứ điệp chia tay” với những hội chúng tôi đã phục vụ, việc này thật không dễ thực hiện. Có thể tôi đã không thành công, nhưng mục đích của tôi luôn nhằm trang bị họ cho tương lai, qua việc khuyên nhủ và chỉ dẫn họ. Họ sẽ mời một vị tân mục sư để bước vào một giai đoạn mới, và tôi muốn họ ở tình trạng khả quan nhất.
Gi 13:1-17:26 là “sứ điệp chia tay” của Chúa Giê-xu với những môn đệ yêu dấu của Ngài, đỉnh điểm là lời Chúa cầu thay cho họ và cho chúng ta hôm nay. Trong Kinh Thánh cũng có những lời chia tay của Môi-se (Phu 31:1-33:29), Giô-suê (Gio 23:1-24:33) và Phao-lô (Cong 20:1-37). Tuy nhiên Chúa Giê-xu hỗ trợ cho sứ điệp của Ngài qua một hành động đầy ý nghĩa khi rửa chân cho các môn đệ. Đây chính là bài học thực tiễn không bao giờ xoá nhoà trong tâm trí họ.
Ở đoạn Kinh Thánh này, chúng ta sẽ thấy Chúa Giê-xu qua bốn mối liên hệ của Ngài:với Cha trên trời (Gi 13:1-5), với Si-môn Phi-e-rơ (Gi 13:6-11), với các môn đệ (Gi 13:12-17) và với Giu-đa (Gi 13:18-35). Qua những phân đoạn này, bạn sẽ khám phá một sứ điệp đặc biệt, một chân lý thuộc linh giúp ích đời sống Cơ Đốc nhân của chính bạn.
1. Sự khiêm nhường - Chúa Giê-xu với Cha Trên Trời (Gi 13:1-5)
Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem vào Chủ nhật và dọn dẹp đền thờ vào ngày thứ hai. Thứ ba là ngày xảy ra sự chống đối khi các lãnh đạo tôn giáo tìm cách bắt bẻ Chúa hầu có cớ bắt Ngài. Những sự kiện này cũng được chép ở Mat 21:1-25:46.Thứ tư có lẽ là ngày nghỉ ngơi, nhưng vào thứ 5, Chúa cùng các môn đệ nhóm tại phòng cao để dự lễ Vượt Qua.
Câu Gi 13:1-3 nhấn mạnh về những điều Chúa biết trước, và câu Gi 13:4-5 nói về việc Chúa làm. Chúa biết “giờ Ngài đã đến”. Khác với các tác giả Phúc Âm khác, Giăng đặc biệt nhấn mạnh vấn đề Chúa Giê-xu luôn sống theo một “thời gian biểu từ trời” khi làm theo ý Cha Ngài. Bạn hãy chú ý đến tiến trình của chủ đề này:
-Gi 2:4 “Giờ ta chưa đến”
-Gi7:30 “Giờ Ngài chưa đến”
-Gi8:20 “Giờ Ngài chưa đến”
-Gi12:23 “Giờ đã đến, khi Con người sẽ được vinh hiển”
-Gi13:1 “Đức Chúa Giê-xu biết giờ mình... đến rồi”
-Gi17:1 “Thưa Cha, giờ đã đến”.
“Giờ”đã được Đức Chúa Trời định trước là “giờ” nào? Đó là thời điểm khi Chúa Giê-xu được vinh hiển bởi sự chết, sống lại và thăng thiên của Ngài. Theo quan điểm con người, đó là giờ “thương khó”, nhưng dưới mắt Đức Chúa Trời, đó là giờ của “sự vinh hiển”. Chúa Giê-xu sẽ lìa thế gian để về cùng Cha Ngài là Đấng đã sai Ngài đến để làm trọn công tác Cha giao trên đất (Gi 17:4). Khi tôi tớ Đức Chúa Trời sống theo ý muốn Ngài, người ấy sẽ chẳng chết trước khi làm trọn công tác được giao, khi thời điểm chưa đến, các lãnh đạo không thể bắt được Chúa Giê-xu hay tự ý giết Ngài!
Chúa Giê-xu cũng biết trước Giu-đa sẽ phản Ngài, Giu-đa được nhắc đến 8 lần trong Phúc Âm Giăng, nhiều hơn các Phúc Âm khác. Sa-tan đã ám vào Giu-đa (Lu 22:3)nên giờ đây nó khiến Giu-đa nghĩ đến việc bắt và đóng đinh Con Đức Chúa Trời.Động từ “để” dùng trong Gi 13:2 có nghĩa gốc là “phóng / ném”, nhắc ta nhớ đến “các tên lửa của kẻ dữ” (Eph 6:16). Giu-đa vốn là kẻ vô tín (Gi 6:64-71) nên không có “thuẫn đức tin” để chống trả sự tấn công của Sa-tan.
Sau cùng, Chúa Giê-xu biết Cha đã giao mọi sự trong tay Ngài (Gi 13:3). Câu Kinh Thánh trên có ý tương tự với Gi 3:35 và cũng nhắc ta nhớ đến Mat 11:27. Trong sự khiêm nhường của Chúa, Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài mọi sự. Sống trong sự nghèo khó, nhưng Ngài vẫn là Đấng giàu có bởi Ngài biết địa vị của mình, nguồn gốc của mình, những điều Ngài có và nơi Ngài đến. Ngài hoàn toàn làm chủ được hoàn cảnh. Bạn và tôi cũng như mọi tín hữu đều biết rằng chúng ta được tái sinh bởi Đức Chúa Trời, ngày kia sẽ trở về cùng Ngài và trong Đấng Christ chúng ta có mọi sự. Vậy, chúng ta phải noi theo gương Chúa và phục vụ tha nhân.
Những điều Chúa biết quyết định cho hành động của Ngài (Mat 13:4,5). Chắc hẳn các môn đệ vô cùng xúc động khi chứng kiến Thầy họ rời khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình, đem chậu nước đến rửa chân cho họ. Đây là công việc của đầy tớ, nhưng Chúa đã làm vậy! Để đánh dấu một tình cảm, chủ nhà có thể rửa chân cho khách, nhưng đa số trong các gia đình, đó không phải là mực thước hành động.
Chúa biết có một tư tưởng cạnh tranh đang len lỏi trong tâm trí các môn đệ. Chỉ trong vài phút, họ đã tranh cãi về việc ai sẽ là người cao trọng nhất (Lu 22:24-30)! Chúa dạy họ một bài học khó quên về sự khiêm nhường, chính những việc làm của Ngài đã lên án sự ích kỷ và kiêu ngạo của họ. Càng suy nghĩ về hình ảnh này, bạn sẽ thấy nó càng trở nên sâu sắc. Đây là một minh hoạ cho điều Phao-lô viết vào những năm sau đó trong thư tín Phi 2:1-16 Phi-e-rơ chắc đã nhớ lại sự kiện này khi ông viết thư tín đầu tiên, kêu gọi, độc giả hãy “trang sức bằng khiêm nhường” (IPhi 5:5).
Chúng ta cũng thường nhầm lẫn “lòng khó khăn” (Mat 5:3) với “sự nghèo nàn thuộc linh”, sự khiêm nhường thật với tính nhút nhát và sự tự ti. Một nhà văn người Anh Samuel Johnson được mời chuẩn bị một điếu văn cho một cô gái vừa mới chết, Johnson cũng hỏi về đức tính đặc biệt của cô gái. Người ta cho biết cô rất tử tế với những người có địa vị thấp hơn mình. Johnson đáp rằng đó là đức tính đáng khen, nhưng chúng ta khó khẳng định những người thấp hơn cô gái là ai!
Đức Chúa Trời đã giao mọi sự vào tay Con Ngài, nhưng Chúa Giê-xu đã chọn lấy chiếc khăn và chậu nước! Sự khiêm nhường của Ngài không phải xuất phát từ sự nghèo khó nhưng vì Ngài vốn giàu có mà tự trở nên nghèo (IICo 8:9). Có một câu châm ngôn Mã-lai nói rằng: “Gié lúa càng nhiều hạt thì càng cong xuống thấp hơn! ”
Đáng chú ý ở cách Phúc Âm Giăng bày tỏ tự khiêm nhường của Chúa dù khi đề cao thần tính Ngài, “Con chẳng tự mình làm việc gì được” (Gi 5:19,30). “Vì ta từ trên trời xuống, chẳng phải để làm theo ý ta” (Gi 6:38) “Đạo lý của ta chẳng phải bởi ta” (Gi 7:16). “Ta chẳng tìm sự vinh hiển ta” (Gi 8:50). “Lời các ngươi nghe đó, chẳng phải bởi ta...” (Gi 14:24). Hành động cuối cùng bày tỏ sự khiêm nhường của Chúa được thể hiện qua sự chết của Ngài trên thập tự giá.
Là Đấng Cao trọng, nhưng Chúa Giê-xu chọn lấy vị trí của một đầy tớ. Có mọi sự trong tay, Ngài vẫn chọn lấy chiếc khăn để phục vụ. Là Chúa, là Thầy, Ngài vẫn hầu việc môn đệ mình. Người ta thường nói rằng sự khiêm nhường không phải là sự suy nghĩ ích kỷ cho bản thân, đơn giản là chẳng nghĩ gì về chính mình cả. Sự khiêm nhường thật khởi phát từ mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta khao khát được hiểu biết và làm theo ý Đức Chúa Trời hầu quy vinh hiển cho danh Ngài, chúng ta sẽ kinh nghiệm được niềm vui khi noi theo gương Chúa Giê-xu và phục vụ tha nhân.
Giống như các môn đệ Chúa trong buổi tối khi xưa, hôm nay chúng ta cũng rất cần biết bài học về sự khiêm nhường này. Hội Thánh Chúa dẫy đầy tư tưởng thế gian: cạnh tranh và chỉ trích nhau để biết ai cao trọng nhất. Chúng ta chỉ muốn có thêm tri thức chớ không muốn tấn tới trong ân điển (IIPhi 3:18). Andrew Murray nói rằng “Sự khiêm nhường là vùng đất duy nhất giúp cho ân điển đâm rễ còn sự vắng mặt của lòng khiêm nhường là lý do giải thích đầy đủ về mọi khiếm khuyết và thất bại.
Chúa Giê-xu hầu việc các môn đệ vì sự khiêm nhường và tình yêu của Ngài dành cho họ.Bạn hãy đối chiếu IIPhi 13:1 với Gi 1:11 và Gi 3:16 “Ngài đã đến trong xứ mình (thế gian), nhưng dân mình (con người) chẳng hề nhận lấy”. “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian...” Ngài yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian “cho đến cuối cùng”. Hiện nay, Ngài vẫn không thay đổi!
2. Sự thánh khiết - Chúa Giê-xu với Phi-e-rơ (Gi 13:6-11)
Khi Phi-e-rơ theo dõi Chúa rửa chân cho đồng bạn mình, ông càng lúc bị xao động và không hiểu ý nghĩa của việc Ngài làm. Nếu đọc về cuộc đời của Chúa Giê-xu qua 4 Phúc Âm, bạn sẽ chú ý ngay cách Phi-e-rơ từng phát biểu bốc đồng vì thiếu hiểu biết và được Chúa sửa chữa lại. Phi-e-rơ từng ngăn trở Chúa bước lên thập tự giá (Mat 16:21-23), “dàn xếp” công việc Ngài tại Núi Hoá Hình (Mat 17:1-8). Ông mạnh mẽ tuyên bố đức tin của các môn đệ (Gi 6:66-71) mà không hề nhận biết có một kẻ phản bội!
Động từ “rửa” được dùng ở câu Gi 13:5,6,8,12,14 (dịch từ nguyên gốc của “niptõ”) nghĩa là rửa một phần nào đó của thân thể. Nhưng từ “tắm (rồi)” ở Gi 13:10 (louõ) có nghĩa là tắm cả thân thể. Cần phải phân biệt hai động từ trên, vì Chúa muốn dạy các môn đệ về tầm quan trọng của việc bước đi trong sự thánh khiết.
Khi tội nhân tin nhận Đấng Christ, người ấy đã được “tắm sạch toàn bộ”, mọi tội lỗi được tẩy sạch và tha thứ (ICo 6:9-11 Tit 3:3-7 Kh 1:5). “Ta sẽ chẳng còn nhớ đến tội lỗi gian ác của chúng nó nữa” (He 10:17). Tuy nhiên, khi bước đi trong thế gian người tin Chúa dễ bị ô uế.Người ấy không cần phải “tắm” lại toàn cơ thể, nhưng chỉ cần tẩy sạch vết ô uế kia. Đức Chúa Trời hứa làm “sạch” chúng ta khi chúng ta xưng tội mình trước mặt Ngài (IGi 1:9).
Nhưng vì sao việc giữ :chân mình cho sạch là rất quan trọng như vậy? Vì nếu bị ô uế, chúng ta không thể có mối liên hệ với Chúa mình được. “Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết” (IGi 13:8). Chữ “phần” được dịch từ “meros” có nghĩa là “sự dự phần” được chia sẻ trong một người hay một điều gì”.Khi Đức Chúa Trời gội rửa chúng ta hoàn toàn trong sự cứu rỗi, Ngài đã đem chúng ta đến với Đấng Christ trong mối dây liên hiệp và là mối liên hệ vững không thể bị đổi dời. (Động từ “tắm” ở IGi 13:10 được viết ở dạng hoàn thành. Đây là hành động được thực hiện một lần đủ cả). Tuy vậy, mối liên lạc của chúng ta với Đấng Christ còn tuỳ thuộc vào việc chúng ta “giữ mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gi 1:27). Nếu không xưng những tội lỗi trong đời sống mình ra, chúng ta sẽ ngăn trở hành trình của mình với Chúa, khi ấy, chúng ta cần phải “rửa sạch” chân mình.
Chân lý cơ bản về đời sống Cơ Đốc nhân được minh hoạ rõ nét trong giới các thầy tế lễ thời Cựu Ước. Khi thầy tế lễ nào được thụ phong người ấy sẽ được tắm rửa toàn thân (Xu 29:4) và hành động này sẽ không bao giờ lặp lại. Tuy nhiên, qua chức vụ thường nhật, thầy tế lễ ấy có thể bị ô uế, nên phải rửa tay và chân trong thùng nước bằng đồng để giữa hội mạc (Xu 30:18-21). Nếu làm vậy, thầy tế lễ mới có thể bước vào nơi thánh, xông hương nơi bàn thờ và ăn bánh thánh.
Chúa tẩy rửa chúng ta bằng chính huyết báu Ngài đã đổ ra trên thập tự giá (IGi 1:5-10) và bởi Lời Ngài được hành động trong đời sống chúng ta (Gi 15:3 Eph 5:25-26 Thi 119:9). Nước của Lời Chúa có thể giữ lòng và trí chúng ta tinh sạch hầu cho không bị nhiễm những ô uế của thế gian. Nếu phạm tội, chúng ta đã có Đấng Cầu Thay vinh hiển đầy lòng yêu thương luôn lắng nghe lời xưng tội và tha thứ cho chúng ta (IGi 2:1-2).
Do không hiểu điều Chúa làm, thay vì chờ một lời giải thích, Phi-e-rơ lại nông nổi bảo Chúa điều phải làm! Ở Gi 13:8 có hai lời phủ định mạnh mẽ. Nhà học giả Hy Lạp Kenneth Wuest đã dịch câu nói của Phi-e-rơ rằng “Dù thế nào Ngài sẽ chẳng rửa chân cho tôi, không, chẳng bao giờ”. Phi-e-rơ thật sự muốn nói vậy! Nhưng khi hiểu rằng chối từ Chúa nghĩa là đánh mất mối giao thông với Chúa, ông đổi ý ngay và xin được tắm toàn bộ!
Qua Phi-e-rơ ta có thể rút ra một bài học ý nghĩa: đừng nghi ngờ ý Chúa và công việc Ngài, cũng đừng cố thay đổi điều ấy. Chúa biết điều Ngài làm. Khó khăn lắm Phi-e-rơ mới hiểu việc Chúa làm cho mình vì ông vẫn chưa sẵn sàng để phục vụ những môn đệ khác. Cần có sự khiêm nhường và ơn để hầu việc người khác, nhưng cũng cần có sự khiêm nhường và ơn để người khác phục vụ mình. Vẻ đẹp của một tinh thần hạ mình được thể hiện qua việc nó có thể vừa ban cho vừa nhận lãnh để quy vinh hiển về Đức Chúa Trời.
Giăng thận trọng chứng minh rằng Phi-e-rơ và Giu-đa có mối liên hệ với Chúa Giê-xu hoàn toàn khác biệt. Vâng, Chúa đã rửa chân cho Giu-đa, nhưng điều đó chẳng ích gì cho anh ta, bởi Giu-đa chưa từng tắm cả thân thể. Một số người cho rằng Giu-đa đã được cứu nhưng do phạm tội nên không được cứu. Đó không phải là điều Chúa phán. Chúa nói rõ rằng Giu-đa chưa hề được tẩy sạch tội lỗi và là kẻ vô tín (Gi 6:64-71).
Khỏi sâu mối giao thông của bạn với Chúa là điều rất kỳ diệu. Cần phải thành thật với Ngài, với chính mình và giữ “chân” bạn luôn tinh sạch!
3. Sự phước hạnh - Chúa Giê-Xu và các môn đệ (Gi 13:12-17)
Câu gốc ở phần này là Gi 13:17 “ví bằng các ngươi biết những sự này thì có phước, miễn là các ngươi làm theo”. Sự khiêm nhường, sự thánh khiết và sau đó là hạnh phước, là chuỗi mắc xích liền nhau. Aristote định nghĩa sự phước hạnh là “vận may kết hợp với phẩm chất đạo đức... một đời sống dễ chịu và yên ổn”. Điều đó có thể làm thoả mãn một nhà triết học, nhưng sẽ chẳng bao giờ làm Cơ Đốc nhân thoả lòng! Hạnh phước thật là kết quả của một đời sống theo ý muốn Đức Chúa Trời. Khi chúng ta khiêm nhường phục vụ người khác, bước đi trong đường lối thánh khiết của Đức Chúa Trời, làm theo điều Ngài bảo, chúng ta sẽ hưởng được phước hạnh.
Chúa Giê-xu hỏi các môn đệ rằng họ có hiểu việc Ngài làm hay không, vì nó không giống như việc họ làm. Vì vậy Chúa giải thích rằng: Ngài muốn dạy họ một bài học về sự phục vụ khiêm nhường, một tấm gương họ phải noi theo. Người đời cho rằng hạnh phước là kết quả người khác phục vụ mình, nhưng niềm vui thật chỉ có được khi chúng ta phục vụ cho tha nhân trong danh Đấng Christ. Thế gian luôn đeo đuổi “hạnh phúc” như đuổi theo một cái bóng luôn xa tầm tay với!
Với danh nghĩa là Thầy, là Chúa các môn đệ, Chúa Giê-xu có quyền ra lệnh họ hầu việc Ngài. Nhưng chính Ngài đã hầu việc họ! Ngài nêu tấm gương cho họ noi theo trong việc thi hành trọng trách của Cơ Đốc nhân. Trong suốt ba năm, nhiều lần Ngài dạy họ những bài học về sự khiêm nhường và tinh thần phục vụ, nhưng giờ là lúc Ngài thể hiện cho họ thấy rõ bài học ấy. Có lẽ các môn đệ nhớ đến bài học Chúa dạy về đứa trẻ (Mat 18:1-6), hay lời Chúa trách Gia-cơ và Giăng khi họ cầu xin được ngồi nơi vinh hiển (Mat 20:20-28). Giờ đây tất cả mọi việc đều ăn khớp với nhau.
Đầy tớ không lớn hơn chủ. Nếu chủ trở nên như đầy tớ, vậy vị trí của đầy tớ ở đâu?Ở mức ngang hàng với chủ! Khi trở nên một tôi tớ, Chúa không đẩy chúng ta xuống thấp hơn, nhưng Ngài “nâng” chúng ta lên! Ngài đánh giá cao lòng hy sinh và sự phục vụ. Bạn nên nhớ, dân La Mã chẳng hơi sức đâu để “khiêm nhường”, còn dân Hy Lạp lại khinh thường kẻ làm công chân lấm tay bùn. Chúa Giê-xu đã kết hợp hai điều đó khi rửa chân cho các môn đệ!
Người thế gian thường đặt câu hỏi “Có bao nhiêu người làm công cho anh?” Nhưng Chúa Giê-xu lại hỏi “Ngươi đã phục vụ cho bao nhiêu người?” Khi tôi giảng luận tại một hội nghị ở Kenya, một tín hữu Châu Phi cho tôi biết một câu châm ngôn của họ: “Người làm đầu sẽ là đầy tớ của mọi người?” Thật thế, chúng ta cần những người lãnh đạo sẽ hầu việc và đầy tớ sẽ làm đầu. G. K. Chesterton nói rằng một người cao trọng thật là người khiến kẻ khác cảm thấy mình được tôn trọng, và đây là điều Chúa Giê-xu đã làm khi dạy các môn đệ về tinh thần phục vụ.
Tuy nhiên, biết lẽ thật này thôi, vẫn chưa đủ! Chúng ta phải áp dụng nó vào thực tiễn. Gia 1:22-27 cho thấy phước hạnh là kết quả từ việc “làm theo” lời Chúa chớ không phải bởi “nghe”. Wuest dịch phần cuối của Gia 1:25 như sau “Người ấy sẽ phát đạt về thuộc linh trong việc mình làm”. Dù nghiên cứu đoạn Phúc Âm này có thể làm khơi dậy trong chúng ta nguồn cảm xúc và soi sáng tâm trí ta, nhưng không thể khiến chúng ta được phước hạnh về tâm linh cho đến khi nào chúng ta làm theo điều Chúa dạy. Đây là con đường duy nhất dẫn đến nguồn hạnh phước bất diệt!
Bạn hãy nắm vững ý nghĩa những bài học trên trong chuỗi liên hợp của nó: khiêm nhường, thánh khiết và phước hạnh. Hãy đầu phục Đức Chúa Trời giữ đời sống bạn tinh sạch và phục vụ tha nhân. Đây là phương thức từ Đức Chúa Trời để có được niềm vui thật trong tâm linh.
4. Sự giả hình: Chúa Giê-xu và Giu-đa (Gi 13:18-35)
Bóng tối như kéo đến phủ xuống quang cảnh hiện tại khi Chúa nói đến kẻ phản bội:Giu-đa. Cần biết rằng Giu-đa không phải là môn đệ thật của Chúa, hắn là kẻ giả hình. Giu-đa chưa bao giờ tin Chúa Giê-xu (Gi 6:64-71), chưa được tắm sạch (Gi 13:10-11) và không thuộc những người được chọn mà Cha đã giao cho Con (Gi 13:18 Gi 17:12). Thật vậy, con người đã đến rất gần sự cứu rỗi, vậy mà vẫn có thể là kẻ hư mất đời đời! Giu-đa vốn là kẻ giữ túi bạc trong nhóm (Gi 12:6) và hẳn được các đồng bạn quan tâm thường xuyên.
Vào lúc này, Chúa Giê-xu có hai mối quan tâm lớn: làm trọn lời Đức Chúa Trời (Gi 13:18-30) và bày tỏ vinh hiển của Đức Chúa Trời (Gi 13:31-35).
Câu Kinh Thánh Chúa trích dẫn được chép ở Thi 41:9 “Đến đỗi người bạn thân tôi, mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi, cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi”. Đa-vít viết Thi-thiên này, có lẽ chỉ về mưu sĩ của ông là A-hi-tô-phe, đã thông đồng với Áp-sa-lôm để phản nghịch (IISa 17:23 Mat 27:3-10 Cong 1:18). Tuy nhiên, Giu-đa đã tự sát không phải để làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh, vì nếu vậy, Đức Chúa Trời sẽ là “tác giả” của tội lỗi Giu-đa! Giu-đa có trách nhiệm với những quyết định của bản thân, những quyết định ấy đã làm ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu biết rằng sự phản bội của Giu-đa sẽ không làm nao núng đức tin các môn đệ Ngài. Ngài liên hệ đức tin ấy với Lời Đức Chúa Trời: khi các môn đệ chứng kiến mọi sự được ứng nghiệm, đức tin họ sẽ vững vàng hơn theo Ngài và làm công việc Ngài giao. Xét cho cùng, Ngài là Đức Chúa Con được Đức Chúa Cha sai đến.Các môn đệ là những người được chọn của Đấng Christ tiếp rước họ đồng nghĩa với tiếp rước Cha và Con Thật là một đặc quyền lớn lao khi được làm sứ giả của Vua!
Đáng lưu ý rằng: những người ngồi đồng bàn với Chúa Giê-xu không hề biết Giu-đa là kẻ vô tín và phản bội. Cho đến giờ phút Giu-đa làm phản, hắn vẫn được sự bảo vệ che chở của Đấng Christ là Đấng bị hắn phản bội! Nếu Chúa Giê-xu công khai bày tỏ những điều Ngài biết về Giu-đa chắc chắn các môn đệ sẽ không để ông ta yên.Hãy nhớ điều Phi-e-rơ đã làm cho Man-chu khi quân lính đến bắt Chúa Giê-xu!
Ngay từ đầu Chúa đã biết Giu-đa sẽ phản Ngài (Gi 6:64), nhưng Ngài không hề thúc ép Giu-đa làm điều đó. Giu-đa được ban cho những đặc quyền thuộc linh như bao môn đệ khác, nhưng những đặc quyền ấy đã khiến hắn ta hư hỏng. Cùng một mặt trời nhưng làm cho băng tan chảy, lại khiến đất sét cứng khô đi. Bất chấp mọi lời khuyên dạy của Chúa về tiền bạc, về sự tham lam, Giu-đa vẫn làm kẻ trộm cắp, lấy tiền trong túi bạc. Mặc cho Chúa cảnh cáo về sự vô tín, Giu-đa vẫn không đổi lòng về sự chống nghịch của mình. Chúa Giê-xu đã rửa chân Giu-đa, vậy mà tấm lòng cứng cỏi của hắn vẫn không chịu đầu phục!
Chúa từng nói trước về kẻ phản bội, nhưng các môn đệ không để tâm đến. Giờ đây, họ vô cùng bối rối khi Ngài phán công khai về điều ấy tại bàn ăn. Phi-e-rơ ra hiệu cho Giăng là người ngồi gần Chúa nhất để hỏi Chúa về kẻ phản bội. Khi Chúa đáp với Giăng, hẳn không phải mọi người đều nghe, vì thực tế họ đang bàn luận với nhau để biết kẻ phản bội (Lu 22:23). Khi Chúa trao bánh cho Giu-đa, đó là hành động của tình yêu và sự tôn trọng. Giu-đa thật đang được ngồi nơi cao trọng, nên những hành động của Chúa được baỳ tỏ trong ánh sáng ấy: Ngài muốn dành cho Giu-đa một sự tôn trọng đặc biệt. Có thể sau khi Giu-đa rời phòng, là lúc các môn đệ bàn cãi về việc ai sẽ là người cao trọng nhất (Lu 22:24-30)!
Giăng hẳn rất sững sờ về sự bày tỏ này, nhưng trước khi ông có thể nói hoặc làm điều gì, Chúa đã sai Giu-đa ra đi. Dù Sa-tan ám vào lòng Giu-đa, Chúa Giê-xu vẫn là Đấng có trách nhiệm với Giu-đa. Ngài sống theo thời gian biểu Cha đã định, và Ngài muốn làm trọn những lời tiên tri đã được chép ra. Bởi Giu-đa là kẻ giữ túi bạc, nên các môn đệ rất có lý khi cho rằng hắn được Chúa giao nhiệm vụ đặc biệt. Giu-đa đã giả dối bày tỏ “mối quan tâm” của mình đối với kẻ nghèo khó (Gi 12:4-6), nên có lẽ các môn đệ nghĩ rằng hắn ra đi để lo việc giúp đỡ người thiếu thốn.
Hãy nhớ rằng Giu-đa biết điều mình làm nên hắn đã thực hiện một cách tự do. Hắn đã đi gặp các lãnh đạo tôn giáo và đồng ý dẫn họ đến bắt Chúa Giê-xu trong hoàn cảnh thuận tiện, không bị dân chúng cản trở (Lu 21:37-22:6). Giu-đa từng nghe Chúa phán “khốn nạn thay cho kẻ phản Con Người! Thà nó chẳng sinh ra thì hơn! ” (Mat 26:24) nhưng hắn vẫn giữ lòng vô tín và sự phản bội.
Câu viết đơn giản của Giăng “khi ấy đã tối” gây tác động mạnh mẽ khi chúng ta nhớ lại rằng sự sáng và sự tối tăm là những hình ảnh thuộc linh đầy ý nghĩa trong Phúc Âm Giăng Chúa Giê-xu là Sự Sáng của thế gian (Gi 8:12), nhưng Giu-đa chối bỏ Chúa để lẩn vào trong tối tăm và đối với Giu-đa, trời vẫn luôn u tối! Kẻ làm ác luôn ghét sự sáng (Gi 3:18-21). Lời Chúa dạy ở Gi 12:25-26 đã bị Giu-đa để ngoài tai – và bị những tội nhân hôm nay không chú tâm đến. Họ sẽ đi đến nơi Giu-đa đã đến, trừ khi họ ăn năn tin nhận Đấng Christ.
Ngay khi Giu-đa ra đi, bầu không khí trở nên trong sáng. Chúa Giê-xu khởi sự dạy dỗ môn đệ, chuẩn bị cho họ tinh thần để chứng kiến việc Ngài bị đóng đinh và trở về thiên đàng. Sau khi Giu-đa rời khỏi Chúa Giê-xu đã thực hiện Lễ Tiệc Thánh điều mà Giu-đa một kẻ vô tín không thể dự phần được. Giờ đây, Giu-đa đang ở bên ngoài giữa đêm tối, bị sự điều khiển của Sa-tan là vua chốn mờ tối. Còn Chúa Giê-xu ở trong ánh sáng, chia xẻ tình yêu và chân lý với các môn đệ yêu dấu của Ngài. Quả là một tương phản!
Đến đây, chủ đề chuyển sang sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (Gi 13:31-35). Theo quan điểm con người, sự chết của Đấng Christ là công việc thấp hèn đem đến nỗi đau đớn nhục nhã khôn tả. Nhưng dưới mắt Đức Chúa Trời, đây là cách bày tỏ vinh hiển Ngài: “Giờ đã đến, khi Con Người sẽ được vinh hiển (Mat 12:23). Danh hiệu “Con Người” xuất hiện 12 lần trong Phúc Âm Giăng và ở câu Gi 13:31 là lần cuối cùng. Dan 7:13 xem danh hiệu này như danh hiệu của Đấng Mê-si-a và đôi khi Chúa Giê-xu cũng sử dụng danh này theo cách ấy (Mat 26:64).
Làm vinh hiển danh Cha có ý nghĩa gì đối với Chúa Giê-xu? Ngài cho chúng ta biết qua lời cầu nguyện. “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4). Đây là cách chúng ta làm vinh hiển Đức Chúa Trời trong việc trung tín làm theo điều Ngài bảo chúng ta. Trong hoàn cảnh của Chúa Giê-xu, ý muốn của Cha phải được thực hiện qua việc Con chịu chết cho tội nhân, sống từ cõi chết và thăng thiên. Con đã làm vinh hiển Cha và Cha cũng làm vinh hiển Con (Gi 17:1,5).
Rồi sẽ đến lúc Đức Chúa Con sẽ được vinh hiển qua các môn đệ Ngài (Gi 17:10), nhưng họ không thể theo Ngài vào thời gian đó. Phi-e-rơ đã từng khoe khoang sẽ theo Ngài cho dù phải chết. Ông đã theo, nhưng thật bất hạnh sự theo Ngài này đã chấm dứt bằng việc chối Chúa ba lần.
Có hai lần Chúa nói với người Giu-đa rằng họ sẽ tìm Ngài nhưng không thể tìm được cũng không đi theo Ngài được (Gi 7:33-36 Gi 8:21-24). Bạn hãy nhớ rằng Chúa không nói với các môn đệ rằng họ sẽ không thể tìm được Ngài, nhưng Ngài muốn nói với dân Giu-đa vô tín. Ngày kia, các môn đệ sẽ đồng đi với Chúa (Gi 14:1-3) và cũng sẽ gặp Ngài sau khi Ngài phục sinh. Tuy nhiên, trong thời gian Ngài chịu thương khó và chết thì điều quan trọng là họ không cố theo Ngài
Tôi từng nghe những bài giảng hùng hồn về tội lỗi của Phi-e-rơ là người “theo Chúa xa xa” (Lu 22:54) và trọng tâm nói về vấn đề ông ta lẽ ra phải nên theo Chúa “gần hơn”. Nhưng thực tế đơn giản là ông ta không thể theo được! Câu Gi 13:33 là một minh chứng cụ thể, nếu bạn kết hợp Mat 26:31 (trích từ Xa 3:17) và lời Chúa ở Gi 18:8 chứng cớ ấy rất rõ ràng. Phi-e-rơ không để tâm đến lời khuyên trên, nên ông gặp phải sự rắc rối.
Trách nhiệm của các môn đệ là yêu thương lẫn nhau như Chúa Giê-xu đã yêu họ. Họ chắc sẽ cần có tình yêu ấy trong những giờ phút sắp tới khi Chúa họ bị bắt đi và “người phát ngôn can đảm” của họ là Phi-e-rơ sẽ chối bỏ Thầy và đồng bạn mình.Thật ra, họ thảy đều sa ngã nên điều duy nhất đem họ đến với nhau là bởi tình yêu của họ đối với Đấng Christ và đối với nhau.
Từ “yêu” được dùng 12 lần trong Gi 1:1-12:50 nhưng ở đoạn Gi 13:1-21:25 được nhắc đến 44 lần. Đây là từ chính được dùng trong bài giảng tạm biệt của Chúa đối với các môn đệ, cũng là một gánh nặng trong lời cầu nguyện của Ngài như thầy tế lễ thượng phẩm (Gi 17:26). Từ “mới” không có nghĩa là “mới theo thời gian” vì tình yêu là điều rất ý nghĩa đối với dân sự của Đức Chúa Trời trải qua các thời đại Cựu Ước (Le 19:18). “Mới” có nghĩa như “mới trong từng trải, tươi mới”. Phản nghĩa với “sờn cũ, mệt mỏi”. Bởi sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá, tình yêu sẽ tạo nên một ý nghĩa và năng lực mới (Gi 15:13). Khi Đức Thánh Linh giáng lâm, tình yêu sẽ tạo năng lực mới trong đời sống các môn đệ.
Đoạn này khởi đầu và kết thúc đều nói về tình yêu: tình yêu Chúa Giê-xu dành cho những kẻ thuộc về Ngài (Gi 13:1), và tình yêu các môn đệ dành cho nhau. Bằng chứng thật của tình yêu thể hiện qua việc chúng ta thuộc về Đấng Christ. Người đứng đầu Hội Thánh Tertullian (năm 155-220 SC) đã lập lại lời những kẻ vô thần khi nói về Cơ Đốc nhân. “Hãy xem họ yêu thương nhau ra sao! ” Còn chúng ta chứng minh cho tình yêu thương ấy ra sao? Hãy làm điều Chúa đã làm: phó sự sống mình vì bạn hữu (IGi 3:16) và điểm xuất phát đó là: cúi xuống rửa chân cho người khác trong tinh thần phục vụ quên mình.
14. LÒNG BỐI RỐI (Gi 13:36-14:31)
Đoạn này mở đầu và kết thúc bằng lời khuyên đầy yêu thương của Chúa “Lòng các ngươi chớ hề bối rối” (Gi 14:1,27). Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các sứ đồ thảy đều bối rối tâm trí! Chúa cho biết trước sẽ có một kẻ phản Ngài, và sau đó Ngài báo cho Phi-e-rơ biết ông sẽ chối Ngài ba lần. Phi-e-rơ đầy tự tin kia không thể đi theo Chúa, đồng chết với Ngài hay chết cho Ngài. Ô! Phi-e-rơ không thể hiểu lòng mình và chúng ta cũng vậy, ngoại trừ một điều duy nhất: lòng chúng ta dễ bị bối rối!
Có lẽ một tin quan trọng nhất đối với mọi người là tin Chúa sắp lìa khỏi họ (Gi 13:39). Ngài sẽ đi đâu? Họ có thể đi cùng Ngài không? Làm sao để họ đến được nơi Ngài đến? Đó là những câu hỏi đầy hoang mang lo lắng cứ lẩn quẩn trong tâm trí các môn đệ và luôn là đề tài thảo luận tại bàn ăn.
Chúa Giê-xu trấn an lòng bối rối của họ ra sao? Ngài phán với họ về 6 lời hứa kỳ diệu, là những điều chúng ta hôm nay có thể khẳng định để có được sự bình an trong lòng. Nếu tin nơi Chúa Giê-xu, bạn có thể xác quyết bất cứ điều gì trong 6 lời hứa ấy dành cho mình.
1. Bạn sẽ đến thiên đàng (Gi 13:36-14:6)
(Gi 13:36-38). Tuy Chúa không trách Phi-e-rơ vì đã hỏi Ngài về nơi Ngài sẽ đến, nhưng câu trả lời của Ngài có phần ẩn ý. Sẽ có một ngày Phi-e-rơ theo bước Chúa Giê-xu đến thập tự giá (Gi 21:18-19 IIPhi 1:12-15) và theo Ngài đến thiên đàng.Lịch sử cho chúng ta biết Phi-e-rơ đã bị đóng đinh trên thập tự giá. Ông đề nghị “được” đóng đinh ở thế đầu chúi xuống đất vì cảm thấy mình không xứng đáng chết như Chúa.
Khi cảm giác của một “anh hùng” bắt đầu len lỏi trong Phi-e-rơ Chúa Giê-xu báo trước rằng Ngài sắp chịu thương khó. Sứ điệp này không chỉ làm Phi-e-rơ bàng hoàng, nhưng cũng khiến các môn đệ khác hoảng hốt. Nếu Phi-e-rơ can đảm kia còn chối bỏ Chúa, vậy sẽ trông mong gì nơi các môn đệ khác? Đó chính là lúc Chúa dạy dỗ để xua tan cảm giác bối rối trong lòng họ.
(Gi 14:1-6). Theo lời Chúa phán, thiên đàng là một chốn thực hữu. Đây không phải là “sản phẩm của trí tưởng tượng” trong niềm tin tôn giáo hay kết quả của một trạng thái tâm lý bất ổn đang mong đợi “một chuyện viễn vông sắp xảy ra! Thiên đàng là nơi Đức Chúa Trời hiện diện và là nơi Chúa Giê-xu hôm nay đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha. Thiên đàng được mô tả như một vương quốc (IIPhi 1:11), một di sản thừa kế (IIPhi 1:4), một quê hương (He 11:16) một thành (He 11:16b) và một nhà (Gi 14:2).
Danh từ “Cha” được sử dụng 50 lần trong Phúc Âm Gi 13:1-17:26 Thiên đàng là “Nhà Cha” theo lời của Con Đức Chúa Trời. Đó là “gia đình của con cái Đức Chúa Trời! ” Vài năm trước, có một tờ báo Luân-đôn tổ chức cuộc thi chọn ra một định nghĩa hay nhất về “gia đình”. Câu định nghĩa được chọn là: “gia đình là nơi bạn được đối xử nồng hậu nhất và than thở nhiều nhất. Nhà thờ Robert Frost nói:“Gia đình là nơi mà khi bạn đến, người ta tiếp bạn vào”. Quả thật một định nghĩa hợp lý!
Trong tiếng Hy Lạp chữ “nonẽ” được dịch là nhà có nhiều chỗ ở” (Gi 14:23) và là nơi cư trú (Gi 14:23). Từ ấy có nghĩa đơn giản là “những phòng” những chỗ ở, vì vậy chúng ta không nên nghĩ nó như là những trang viên! Tiếc thay, một số bài hát phản tinh thần Kinh Thánh cứ phạm sai lầm khi cho rằng những Cơ Đốc nhân trung tín sẽ ở trong những ngôi nhà xinh đẹp nơi vinh hiển, trong lúc các thánh đồ trần gian phải hài lòng ở trong những túp lều tranh, thậm chí là trong những cái lán đơn sơ! Giờ đây Chúa Giê-xu đang chuẩn bị chỗ ở cho mọi người tin Ngài, và mọi chỗ đều xinh đẹp! Khi ở trên đất, Ngài là người thợ mộc (Mac 6:3). Giờ đây, Ngài đã trở lại Nơi Vinh Hiển, đang xây dựng một Hội Thánh trên đất và một gia đình cho Hội Thánh trên thiên đàng.
Gi 14:3 là lời hứa rõ ràng về việc Chúa trở lại tiếp rước người thuộc về Ngài. Một số người sẽ đến thiên đàng sau khi vượt qua trũng bóng chết, nhưng ai còn sống lúc Chúa trở lại sẽ chẳng trải qua sự chết (Gi 11:25-26). Họ sẽ được biến hoá trở nên giống Đấng Christ để đến thiên đàng (ITe 4:13-18).
Vì là Nhà Cha, nên thiên đàng là nơi dành cho tình yêu thương và sự vui mừng. Khi sứ đồ Giăng mô tả về thiên đàng, dường như ông đã dùng mọi biểu tượng và sự so sánh đến tận cùng đỉnh điểm (Kh 21:1-22:21). Sau cùng, ông liệt kê những điều không thể hiện diện nơi thiên đàng: sự chết, sự tối tăm, đau khổ, than vãn...Nơi ấy là một gia đình tuyệt vời và chúng ta sẽ vui sống ở đó đến mãi mãi!
Câu hỏi của Thô-ma bày tỏ lòng khao khát mãnh liệt được ở cùng Chúa Giê-xu (Gi 11:16). Ông muốn biết nơi Chúa mình sắp đến và cách ông có thể đến đó. Chúa giải thích rằng Ngài sẽ đến cùng Cha và Ngài cũng là con đường duy nhất dẫn đến nơi Cha. Thiên đàng là nơi thực hữu, một nơi của sự yêu thương và là một nơi đặc biệt. Không ai có thể đến thiên đàng, ngoại trừ những người tin nhận Chúa Giê-xu (Cong 4:12 ITi 2:4-6).
Chúa Giê-xu không chỉ dạy dỗ về “đạo” (đường đi) hay giới thiệu về đạo, Ngài chính là Đạo. Đạo là một trong những tên gọi trước đây chỉ về niềm tin của Cơ Đốc nhân (Cong 9:2 Cong 19:9,23 Cong 22:4 Cong 24:14,22). Lời Chúa phán “chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha” đánh bạt bất cứ tư tưởng nào định rằng muốn đến thiên đàng phải đi qua cánh cổng “việc thiện”, “lễ nghi thờ phượng”, những “của dâng hiến đắt giá”, v.v… Chỉ có một con đường duy nhất, là Chúa Giê-xu.
Lời hứa được đến thiên đàng này trấn an lòng bối rối của các môn đệ ra sao? Tiến sĩ James M. Gray gởi gắm tư tưởng ấy vào một bài hát ông viết vài năm trước “Ai là người ngại hành trình khi con đường dẫn vể nhà?” Lời hứa về quê hương trên trời ở cuối “đường đời” giúp ta vui mừng đối diện với mọi trở lực và tranh chiến dọc đường. Đó cũng là điều khích lệ Chúa chúng ta, là “Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá” (He 12:2). Phao-lô đã khắc ghi lẽ thật này khi ông viết: “Vả, tôi tưởng rằng những sự đau đớn bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra trong chúng ta” (Ro 8:18).
2. Bạn biết Cha ngay bây giờ (Gi 14:7-11)
Không phải chờ đến lúc bước vào thiên đàng chúng ta mới biết Cha. Ngay hôm nay chúng ta có thể biết Ngài và nhận từ Ngài nguồn tâm linh để vững vàng trong những ngày khó khăn.
Thế nào là “biết Cha”? Chữ “biết” được dùng đến 141 lần trong Phúc Âm Giăng, nhưng không phải luôn có cùng một ý nghĩa. Thật ra, theo tinh thần Phúc Âm Giăng, có 4 mức độ “biết” khác nhau. Mức độ thấp nhất chỉ đơn giản là “biết” một vấn đề.Mức độ thứ hai là hiểu chân lý ẩn sau một vấn đề. Tuy nhiên, bạn có thể vừa biết vấn đề vừa hiểu chân lý của nó, nhưng vẫn “chết trong tội lỗi” mình. Mức độ thứ ba nói về mối liên hệ: “biết” nghĩa là “tin nơi ai đó và có mối liên hệ với người ấy”. Đây là dạng “biết” được đề cập trong Gi 17:3 Thật ra, động từ “biết” trong Kinh Thánh nói về mối liên hệ thân thiết nhất giữa chồng và vợ (Sa 4:1).
Dạng “biết” thứ tư nghĩa là “có một mối liên hệ, một giao thông sâu đậm hơn với một người nào đó”. Đây là mức độ của sự nhận biết được Phao-lô nhắc đến khi ông viết “...cho đến nỗi tôi được biết Ngài, ...” (Phi 3:10). Chúa Giê-xu mô tả mối liên hệ sâu sắc này ở Gi 14:19-23 nên chúng ta sẽ dành phần giải thích kỹ hơn khi đọc đến phân đoạn trên.
Khi Chúa Giê-xu phán rằng biết và thấy Ngài đồng nghĩa với biết và thấy Cha, như vậy Ngài muốn tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời. Từ đây, các môn đệ sẽ hiểu nhiều hơn về Cha, dù Chúa Giê-xu sắp phải xa họ.
Tôi rất cảm kích lòng khao khát muốn biết Cha của Phi-líp. Ông đã có những bước tiến dài kể từ ngày Chúa tìm và kêu gọi ông (Gi 1:43-45). Được biết Đức Chúa Trời nhiều hơn phải là sự khao khát mãnh liệt của mỗi Cơ Đốc nhân. Chúng ta nên đọc và suy ngẫm Lời Đức Chúa Trời hầu có thể biết nhiều hơn về Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh.
Cấu trúc của câu hỏi ở Gi 14:10 theo tiếng Hy Lạp cho biết rằng Chúa Giê-xu mong đợi câu đáp “vâng” của Phi-líp, rằng ông tin Chúa Giê-xu ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Ở hoàn cảnh này, lẽ ra Phi-líp đã phải nhận biết rằng lời Chúa Giê-xu cũng như những việc làm của Ngài đều đến từ Cha và bày tỏ về Cha. Hôm nay, Cơ Đốc nhân dù chưa thấy Chúa Giê-xu bằng xác thịt (IPhi 1:8), nhưng thật đã thấy Ngài và công việc Ngài qua Kinh Thánh. Mục đích của Phúc Âm Giăng giúp bạn không tách rời lời Đấng Christ ra khỏi công việc Ngài, vì cả hai đều từ Cha đến và bày tỏ về Cha.
Động từ “tin” trong (Gi 14:10) theo bản gốc ở dạng số ít vì Chúa Giê-xu nói với một mình Phi-líp, nhưng ở Gi 14:11 động từ ở dạng số nhiều vì Chúa Giê-xu nói với tất cả các môn đệ. Cả hai câu, động từ đều ở thì hiện tại tiếp diễn (“hãy cứ tin”). Hãy để đức tin bạn tăng trưởng!
Bốn trăm năm trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh, nhà triết học Hy Lạp Plato đã viết:“Tìm biết Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ này là một việc khó, nhưng khi chúng ta đã tìm được Ngài thì việc nói về Ngài cho mọi người lại càng khó thực hiện! ”Nhưng Plato đã lầm! Chúng ta có thể biết Cha là Đấng tạo dựng vũ trụ này vì Chúa Giê-xu đã bày tỏ về Cha cho chúng ta. Lẽ nào lòng chúng ta lại bối rối khi Đấng tạo dựng và cai trị vũ trụ này chính là Cha chúng ta?
Cha chúng ta chính là Chúa của trời đất (Lu 10:21). Chúng ta không có lý do gì để bối rối vì Ngài đang tể trị mọi sự. Dĩ nhiên người tin Chúa không tự mình làm được những “việc lớn hơn nữa”, nhưng do Đức Chúa Trời hành động trong và qua người ấy: “Chúa cùng làm với môn đệ” (Mac 16:20). “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em” (Phi 2:13). Đức tin và việc làm phải luôn đi đôi với nhau, bởi chính đức tin làm lay động quyền năng Đức Chúa Trời qua đời sống chúng ta.
Chúng ta phải cầu nguyện trong danh Đấng Christ (Gi 14:13). Đây không phải là “câu thần chú” được chúng ta “lắp vào” một cách máy móc sau những lời cầu xin nhằm “bảo đảm” cho việc nhậm lời của Đức Chúa Trời. Cầu xin Đức Chúa Trời điều gì trong danh Chúa Giê-xu nghĩa là chúng ta cầu xin điều Chúa Giê-xu muốn, điều khiến Ngài đẹp lòng và điều quy vinh hiển danh Ngài qua sự quan tâm đến công việc Ngài. Khi một người bạn nói với bạn rằng: “Bạn có thể sử dụng tên tôi”, người ấy muốn dành cho bạn một đặc quyền lớn cũng như giao cho bạn một trách nhiệm nặng nề.
Từ “điều chi” ở Gi 14:13 chỉ về tất cả mọi điều Đức Chúa Trời đã bày tỏ qua lời Ngài về sự cầu nguyện: “điều chi” ở Gi 14:14 cũng tương tự như vậy. Đức Chúa Trời không cho chúng ta “toàn quyền hành động” “nhân danh ta” là yếu tố mang tính “kiểm soát”. Biết danh Đức Chúa Trời nghĩa là biết bản chất Ngài: Ngài là ai và Ngài muốn làm gì. Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện để quy vinh hiển danh Ngài, vì vậy lời cầu nguyện phải hợp ý Chúa (IGi 5:14-15). Trong Bài cầu nguyện chung, câu đầu tiên là “Danh Cha được thánh” (Mat 6:9). Bất cứ lời cầu xin nào không quy vinh hiển danh Đức Chúa Trời đều không xứng đáng được cầu nguyện trong danh Ngài.
Chúng ta cần phải cầu nguyện trong tinh thần vâng phục đầy lòng yêu mến Chúa (Gi 14:15). Khi yêu mến ai, bạn trân trọng tên tuổi người ấy, và chẳng bao giờ dùng tên ấy với thái độ bất nhã. Tình yêu là chủ đề chính trong Phúc Âm Giăng, được sử dụng ở dạng động từ hoặc danh từ 56 lần.
3. Bạn có đặc quyền cầu nguyện (Gi 14:12-15)
Một trong những phương thuốc chữa trị lòng bối rối, đó là sự cầu nguyện như tinh thần của một bài Thánh ca viết rằng:
“Bao lần ta bối rối gặp sầu tư
Lắm lúc tâm hồn bỗng bồi hồi
Nguyên do chúng ta chẳng đem tâm sự
Trình ra trước Giê-xu mà thôi”
Tuy nhiên, nếu Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện và ban cho chúng ta lòng bình an, hẳn chúng ta phải đáp ứng những điều kiện nào đó. Thật ra, việc đáp ứng những điều kiện ấy tự nó đã trở thành một phước hạnh!
Chúng ta phải cầu nguyện bằng đức tin (Gi 14:12). Chúng ta có thể tuyên bố lời hứa ấy và sự tuyên bố này đòi hỏi một đức tin. Điệp ngữ “quả thật” bảo đảm với chúng ta rằng đây là một lời tuyên bố nghiêm túc của Chúa. Sự kiện Ngài đi về cùng Cha là điều khích lệ chúng ta vì nơi ấy Ngài đang cầu thay cho chúng ta. Ngài sẽ còn phán về sự cầu thay này trong bài giảng tiếp theo.
“Những việc lớn hơn nữa” sẽ xảy đến trước trên với các sứ đồ là những người được ban cho quyền phép thực hiện những phép lạ đặc biệt như những “uỷ nhiệm thư” của “cơ quan chủ quản” (He 2:3-4 Ro 15:18-19). Những phép lạ này không “lớn hơn”về bản chất vì “đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình” (Gi 13:16) nhưng “lớn hơn” về phạm vi và số lượng. Phi-e-rơ trong một ngày giảng đạo đã khiến 3.000 người tin Chúa. Những con người bình thường nhưng làm được những phép lạ khiến người ta ngạc nhiên và danh Đức Chúa Trời được vinh hiển (Cong 5:13-16).
Cả sự yêu mến và lòng vâng phục đều góp phần cho lời cầu nguyện được hiệu nghiệm.“Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi 66:18). Chúng ta vâng phục Chúa không phải vì muốn lời cầu nguyện mình được nhậm, giống như thái độ của một đứa trẻ trước lễ Giáng sinh! Chúng ta vâng lời Ngài vì yêu mến Ngài, và càng yêu mến Ngài chúng ta càng kinh nghiệm nhiều hơn về tình yêu của Ngài.“Giữ” những điều răn của Chúa nghĩa là trân trọng, giữ gìn và làm theo những điều răn ấy. “Tôi chẳng hề lìa bỏ các điều răn của môi Ngài, vẫn vâng theo lời của miệng Ngài hơn là ý muốn lòng tôi” (Giop 23:12).
Lời cầu nguyện bằng đức tin chính là phương thuốc kỳ diệu rịt lành tấm lòng bối rối. Bạn hãy suy ngẫm Phi 4:6-7 và áp dụng vào thực tiễn!
4. Chúng ta có Đức Thánh Linh ngự cùng (Gi 14:16-18)
Chúa Giê-xu đã dạy dỗ rất nhiều về Đức Thánh Linh tại phòng cao. Nếu không có sự giúp sức của Thánh Linh Đức Chúa Trời, chúng ta không thể sống một đời sống Cơ Đốc nhân như Đức Chúa Trời mong muốn. Chúng ta phải biết rõ về Đức Thánh Linh, công việc Đức Thánh Linh và cách Đức Thánh Linh hành động.
Chúa Giê-xu gọi Đức Thánh Linh bằng hai danh hiệu đặc biệt: “Đấng Yên Ủi” và “Thần Lẽ Thật”. Theo tiếng Hy Lạp, “Đấng Yên Ui” được gọi là “paraklêtos” và chỉ được Giăng sử dụng (Gi 14:16,26 Gi 15:26 Gi 16:7 IGi 2:1), nghĩa là Đấng được kêu cầu, khi cần Đức Thánh Linh không hành động thay chúng ta hay chẳng quan tâm gì đến chúng ta, nhưng hành động trong chúng ta và qua chúng ta. Nguồn yên ủi thật sẽ thêm sức cho chúng ta hầu có thể vững vàng đối đầu với cuộc sống hiện tại. Sự yên ủi không tước khỏi chúng ta trách nhiệm hay khiến ta dễ dàng nản lòng. Có một số bản dịch gọi Đức Thánh Linh là Đấng Khích Lệ (The Encourager), đó cũng là cách chọn từ thích hợp. Từ “paraklẽtos” cũng được dịch là “Đấng Cầu Thay” ở IGi 2:1 là người đứng bên bạn nơi tòa phán xét để biện hộ cho bạn.
Là Thần Lẽ Thật, Đức Thánh Linh có mối liên hệ với Chúa Giê-xu. Chân lý và Lời Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời tức là chân lý (Gi 14:6 Gi 17:17). Đức Thánh Linh hà hơi và soi sáng Lời Đức Chúa Trời, giúp chúng ta có thể hiểu được Lời Ngài.Chúa sẽ giải thích về sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh ở phần sau. Là Thần Chân Lý, Đức Thánh Linh không thể thất tín, cũng không hiệp với sự giả dối, Ngài không bao giờ khiến chúng ta làm điều gì mâu thuẫn với Lời Đức Chúa Trời vì Lời Đức Chúa Trời là chân lý.
Nếu muốn Đức Thánh Linh hành động qua đời sống mình, chúng ta phải tìm sự vinh hiển cho Đấng Christ và quý trọng Lời Đức Chúa Trời. Khi bạn so sánh Eph 5:18-6:9 với Co 3:16-4:1 bạn sẽ thấy cả hai đoạn đều mô tả một nếp sống Cơ Đốc nhân: vui mừng, tạ ơn và vâng phục. Được đầy dẫy Đức Thánh Linh cũng đồng nghĩa với việc được Lời Đức Chúa Trời dẫn dắt, Thần chân lý sẽ dùng Lời của chân lý để dẫn chúng ta vào ý muốn và công việc Đức Chúa Trời.
Đức Thánh Linh sống trong người tin Chúa. Ngài là sự ban cho của Cha trên trời khi nhậm lời cầu nguyện của Con. Khi thi hành chức vụ trên đất, Chúa Giê-xu đã hướng dẫn, chăm sóc và dạy dỗ môn đệ Ngài. Nhưng giờ là lúc Ngài sắp phải xa họ. Thánh Linh Đức Chúa Trời sẽ đến ngự trong họ thay chỗ cho Chúa Giê-xu. Chúa gọi Thánh Linh là “Đấng Yên Ủi khác”. Chữ “khác” theo tiếng Hy Lạp nghĩa là “một dạng khác của cùng một bản chất”. Thánh Linh Đức Chúa Trời không khác với Con Đức Chúa Trời, vì cả hai đều chính là Đức Chúa Trời. Thánh Linh Đức Chúa Trời đã ở cùng các môn đệ trong thân vị Chúa Giê-xu Christ. Giờ đây, Đức Thánh Linh sẽ ngự trong lòng họ.
Dĩ nhiên Thánh Linh Đức Chúa Trời đã hiện hữu trên đất từ trước, Ngài ban quyền năng cho một số người (nam và nữ) thời Cựu Ước để thực hiện công việc Đức Chúa Trời. Tuy nhiên trong thời ấy, Đức Thánh Linh chỉ ngự đến rồi lìa khỏi con người. Thánh Linh Đức Chúa Trời đã lìa khỏi vua Sau-lơ (ISa 16:14 ISa 18:12), và khi Đa-vít xưng tội mình, ông cầu xin Thánh Linh Đức Chúa Trời đừng lìa khỏi ông (Thi 51:11). Vào lễ Ngũ Tuần đầu nhất, Đức Thánh Linh đã giáng xuống, ngự trên con cái Đức Chúa Trời và ở trong họ mãi mãi. Dù chúng ta làm buồn lòng Đức Thánh Linh, Ngài vẫn không lìa bỏ chúng ta.
Thái độ của chúng ta đối với Đức Thánh Linh chính là thái độ của chúng ta đối với Chúa Giê-xu. Thân thể của người tin Chúa là đền thờ của Đức Thánh Linh (ICo 6:19-20), vì vậy những điều chúng ta làm cho thân thể mình ảnh hưởng đến sự ngự trị của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh bày tỏ ra lời Đức Chúa Trời nên thái độ chúng ta đối với Kinh Thánh phản ánh thái độ chúng ta đối với Thánh Linh Đức Chúa Trời và Con Đức Chúa Trời.
Thế gian không thể nhận lãnh Đức Thánh Linh vì thế gian chỉ sống bởi ảo ảnh bên ngoài chớ không bởi đức tin. Hơn nữa, thế gian không nhìn biết Chúa Giê-xu, vì vậy sự hiểu biết của bạn về Đức Thánh Linh không thể tách rời khỏi Chúa Giê-xu.Sự hiện diện của Đức Thánh Linh ở thế gian này thật sự là sự phán xét thế gian, bởi thế gian đã chối bỏ Chúa Giê-xu.
Chúa phán “Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu” (Gi 14:18). Chúng ta sẽ không đơn độc, bơ vơ, cô thế hay vô vọng! Dù đến nơi đâu, chúng ta vẫn được Đức Thánh Linh ở cùng, vậy lẽ nào chúng ta lại cảm thấy mình “mồ côi” Chẳng có gì đáng bối rối khi bạn luôn có Thánh Linh Đức Chúa Trời ngự trong lòng!
5. Chúng ta được ở trong tình yêu của Cha (Gi 14:19-24)
“Sự yêu thương của Đức Chúa Trời rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Ro 5:5). Những kẻ mồ côi cảm thấy mình bị bỏ rơi và hất hủi, nhưng Cha trên trời luôn bày tỏ tình yêu Ngài đối với chúng ta. Chúa Giê-xu giải thích sự bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời ở ba góc độ.
-Thứ nhất, tình yêu Đức Chúa Trời được bày tỏ cho các môn đệ khi xưa (Gi 14:19-20). Câu 19 tập trung vào sự sống lại và hiện ra của Chúa Gê-xu cho các môn đệ và nhiều kẻ tin theo. Lần sau cùng khi thế gian nhìn thấy Chúa Giê-xu là lúc Giô-sép và Ni-cô-đem đem xác Ngài xuống thập tự để tẩm liệm. Trong tương lai, thế gian sẽ thấy Ngài ngự đến trong quyền phép và vinh hiển rực rỡ để xét đoán tội nhân.
Câu 20 đặc biệt nói đến sự giáng lâm của Đức Thánh Linh trong lễ Ngũ Tuần và sự hiệp nhất của các tín hữu trong Chúa. Chúa Giê-xu đã trở về trời để làm Đầu Hội Thánh (Eph 1:19-23). Sau đó Ngài ban Đức Thánh Linh xuống để các “chi thể”trong “thân” được liên kết với “Đầu” trong một thực thể sống. Dĩ nhiên Cơ Đốc nhân hôm nay không được nhìn thấy Chúa Giê-xu khi Ngài phục sinh hoặc thăng thiên, nhưng chúng ta được liên kết với Ngài trong sự ngự trị của Đức Thánh Linh.
-Thứ hai, Chúa bày tỏ về chính Ngài trong hiện tại cho những người tin để bạn và tôi có thể nhận được tình yêu Đức Chúa Trời ngay hôm nay (Gi 14:21,23-24). Bạn hãy chú ý đến động từ “yêu” được lặp đi lặp lại. Nếu chúng ta gìn giữ và vâng theo Lời Chúa, Cha và Con sẽ yêu chúng ta và ngự trong chúng ta. Động từ “ở trong” (Gi 14:23) theo nguyên gốc nghĩa là “xây nhà cho mình” có liên hệ với “nhà” ở câu hai.
Khi một tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu, người ấy được tái sinh, lời Đức Chúa Trời sẽ ngự vào thân thể người ấy hầu minh chứng rằng người ấy là con cái Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh ngự trị trong lòng Cơ Đốc nhân và sẽ không hề lìa xa họ.Nhưng khi người tin Chúa đầu phục Cha trên trời, yêu mến Lời Ngài, cầu nguyện và vâng lời, người ấy sẽ có một mối liên hệ sâu đậm với Cha, Con, và Đức Thánh Linh. Sự cứu rỗi đồng nghĩa với việc chúng ta đến thiên đàng, nhưng sự đầu phục nghĩa là thiên đàng đến với chúng ta!
Chân lý trên được minh hoạ qua từng trải của Áp-ra-ham và Lót ở Sa 18:1-19:38 Chúa Giê-xu cùng hai thiên sứ đã viếng thăm trại Áp-ra-ham và cảm giác như ở trong gia đình. Tất cả cùng dùng bữa với nhau. Chúa Giê-xu đã nói chuyện riêng với Áp-ra-ham. Tuy nhiên, Chúa chúng ta không đến Sô-đôm thăm Lót vì Ngài không xem nơi ấy như gia đình, nên đã sai hai thiên sứ ra đi.
Kinh nghiệm của chúng ta với Chúa phải trở nên sâu sắc hơn. Điều ấy sẽ xảy ra khi chúng ta đầu phục Thần Chân lý và để Ngài dạy dỗ, hướng dẫn mình. Nếu chúng ta yêu mến và vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài sẽ bày tỏ tình yêu Ngài cho chúng ta mỗi ngày càng sâu sắc hơn.
-Thứ ba tình yêu Đức Chúa Trời cũng được bày tỏ trong tương lai khi Chúa Giê-xu tái lâm (Gi 14:19). Giu-đa (không phải Ích-ca-ri-ốt nhớ lại lời Chúa phán rằng Ngài sẽ không tỏ mình cho thế gian (Gi 14:22). Nhưng điều đó dường như mâu thuẫn với những lời Ngài phán, chẳng hạn như ở Mat 24:30 Giu-đa muốn hỏi rằng: “Điều gì đã xảy ra khiến Ngài không tỏ mình cho thế gian?” Phải chăng đã có sự thay đổi trong kế hoạch Đức Chúa Trời?
Chúa Giê-xu đã bị dân Ngài chối bỏ, nên Ngài không thể tỏ mình cho họ được. Đây thật là hành động thương xót của Ngài, vì nếu Ngài tỏ mình cho thế gian, cũng đồng nghĩa với sự đoán xét, Ngài tỏ mình cho Hội Thánh và đặt để Hội Thánh Ngài trên đất làm chứng về tình yêu Đức Chúa Trời. Ngài kiên nhẫn chờ đợi, luôn tạo cơ hội cho tội nhân ăn năn để được cứu rỗi (IIPhi 3:1-10). Sẽ có một ngày trong tương lai Ngài tái lâm (Kh 1:7) và thế gian sẽ xem thấy Ngài.
Một trong những phương cách hữu hiệu nhất để xua tan lòng bối rối, đó là bạn hãy để lòng bối rối ấy được “dầm mình” trong tình yêu Đức Chúa Trời. Khi bạn cảm thấy mình như một đứa trẻ “mồ côi”, hãy để Thánh Linh Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu Ngài cho bạn một cách sâu sắc. Charles Spurgeon nói rằng: “Một đức tin bé nhỏ có thể đưa linh hồn bạn đến thiên đàng, nhưng đức tin mạnh mẽ sẽ đem cả thiên đàng đến với linh hồn bạn! ” Lòng bạn có thể trở thành một “thiên đàng trên đất”khi bạn giữ mối giao thông với Chúa và thờ phượng Ngài.
6. Bạn nhận được sự bình an từ nơi Ngài (Gi 14:25-31)
Đối với dân Do Thái, “Shalom” (sự bình an) là từ ngữ rất đáng quý. Ý nghĩa của nó rất phong phú, chớ không giới hạn ở mức độ “không có chiến tranh, tai hoạ”.“Shalom” có nghĩa như sự nguyên vẹn, hoàn hảo, khoẻ mạnh, an ninh, và cả sự thịnh vượng ở nghĩa tuyệt vời nhất.
-Thật vậy, sự bình an của Đức Chúa Trời không giống với “sự bình an” của thế gian. Khi bạn hưởng sự bình an của Đức Chúa Trời, bạn sẽ có sự vui mừng và thoả lòng.
Thế gian đặt sự bình an trên nền tảng của nguồn vật chất, nhưng sự bình an của Đức Chúa Trời tuỳ thuộc nơi mối tương giao. Biết Đức Chúa Trời đồng nghĩa với sự bình an của Ngài. Thế gian cậy nơi khả năng của con người, nhưng Cơ Đốc nhân cậy nơi sự thoả lòng của tâm linh trong Đấng Christ. Đối với thế gian, sự bình an là điều gì đó mà người ta khao khát muốn có hoặc làm mọi cách để đạt được, nhưng đối với Cơ Đốc nhân, sự bình an là món quà tuyệt vời Đức Chúa Trời ban cho và được đón nhận bằng đức tin. Kẻ không tin Chúa chỉ nếm trải sự bình an khi khó khăn tạm thời qua đi nhưng Cơ Đốc nhân hưởng sự bình an dù ở trong thử thách khó khăn bởi sự hiện hữu của quyền năng Đức Thánh Linh.
Người thế gian bước đi trong tầm nhìn hạn hẹp và bị lệ thuộc vào bối cảnh bên ngoài, nhưng Cơ Đốc nhân bước đi bằng đức tin và trông cậy vào những điều vĩnh cửu.Thánh Linh Đức Chúa Trời dạy chúng ta Lời Ngài và dẫn ta vào chân lý. Ngài cũng nhắc nhở ta về những điều chúng ta đã học hầu có thể nhờ Lời Ngài đương đầu với những lúc khó khăn trong cuộc sống. Thánh Linh dùng lời Đức Chúa Trời để ban cho chúng ta sự bình an (Gi 14:27), tình yêu Ngài (Gi 15:9-10) và sự vui mừng từ nơi Ngài (Gi 15:11). Nếu lời Đức Chúa Trời không làm cho lòng bối rối được bình an, vậy sẽ không có giải pháp nào hữu hiệu!
Chúa Giê-xu lại bảo đảm với các môn đệ rằng họ sẽ gặp lại Ngài (Gi 14:28). Vì sao phải vui mừng khi Ngài trở về cùng Cha? Bởi sự trở về cùng Cha khiến Ngài có thể thực hiện việc cầu thay chúng ta và làm Thầy tế lễ thượng phẩm cao trọng nơi thiên đàng (He 2:17-18 He 4:14-16). Chúng ta có Thánh Linh ngự trong lòng, có Đấng Christ cầu thay nơi thiên đàng và Lời Đức Chúa Trời ở trước mặt! Quả là nguồn bình an kỳ diệu!
Trong Gi 14:30,31 Chúa nêu ra hai kẻ thù thuộc linh lớn: thế gian và ma quỉ. Chúa Giê-xu đã thắng thế gian và ma quỉ (Gi 12:31), vì vậy ma quỉ phải ngậm miệng trước mặt Ngài. Trong Chúa Giê-xu, ma quỉ không có chỗ đứng của nó. Vì chúng ta ở trong Đấng Christ, nên Sa-tan chẳng có chỗ đặt chân trong đời sống chúng ta, trừ khi chúng ta “cho phép” nó! Nếu đời sống chúng ta dành chỗ cho “sự bình an của Đức Chúa Trời” qua Đức Thánh Linh, Sa-tan và thế gian không thể làm cho lòng ta bối rối được.
Khi Chúa nói rằng “Cha tôn trọng hơn ta” (Gi 14:28), Ngài không phủ nhận Thần tính Ngài hay sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời vì nếu vậy Ngài đã mâu thuẫn với chính mình (Gi 10:30). Khi sống trên đất, Chúa bị giới hạn trong thân thể con người. Ngài vui lòng từ bỏ những thuộc tính thiêng liêng của mình để đầu phục Cha trên trời. Theo ý nghĩa đó, Cha tôn trọng hơn Con. Dĩ nhiên khi Con trở về trời, mọi sự Con đã từ bỏ được phục hồi trở lại (Gi 17:1,5).
Chúa Giê-xu bày tỏ tình yêu Ngài đối với Cha và đối với thế gian khi vui lòng bước lên thập tự giá. Ngài không lẩn tránh hay chạy trốn. Ngài sẵn sàng phó sự sống mình. Lúc này, có lẽ Chúa và các môn đệ rời khỏi Phòng Cao (Gi 14:31) và Chúa tiếp tục giảng dạy trên đường đến vườn. Cũng có thể các môn đệ đã đứng dậy và ra khỏi bàn ăn nhưng còn nấn ná khi Chúa dạy dỗ họ. Chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra ví dụ về cây nho được Chúa mô tả khi các môn đệ đi ngang qua vườn nho trong đêm ấy.
Sự bình an trọn vẹn của Chúa bảo đảm với chúng ta rằng chỉ có Ngài là Đấng duy nhất có thể ban cho con người sự bình an thật. Chúa luôn là Đấng tể trị mọi hoàn cảnh, giúp chúng ta làm chủ đời sống mình khi chúng ta đầu phục Ngài và tiếp nhận nơi Ngài di sản của sự bình an.
15. MỐI LIÊN HỆ VÀ TRÁCH NHIỆM (Gi 15:1-17)
Đây là lời phán thứ 7 và cuối cùng với mở đầu “TA LÀ...” của Chúa Giê-xu được chép trong Phúc Âm Giăng. Tuy nhiên, Chúa không dừng lại ở hình ảnh này, nhưng Ngài lại sử dụng bức tranh về người người “bạn hữu”. Hai hình ảnh nói về người tin Chúa là: “nhánh” và “bạn hữu”, bày tỏ những đặc quyền và trách nhiệm của chúng ta. Là nhánh nho, chúng ta có đặc quyền và trách nhiệm của chúng ta. Là nhánh nho, chúng ta có đặc quyền hưởng sự sống của Chúa và có trách nhiệm sống trong sự sống ấy. Là bạn hữu, chúng ta có đặc ân được biết ý muốn Ngài và trách nhiệm vâng theo ý muốn ấy.
1. Là nhánh nho - Chúng ta phải ở trong Ngài (Gi 15:1-11)
Công việc tỉa sủa vườn nho rất ý nghĩa cho đời sống và kinh tế của dân Y-sơ-ra-ên.Có một dây nho bằng vàng đã được trang trí cho đền vua Hê-rốt. Khi dùng hình ảnh cây nho, Chúa không nói điều gì mới mẻ, bởi nó rất quen thuộc đối với người Do Thái. Nếu muốn được gây dựng từ sự dạy dỗ này, chúng ta cần phải hiểu 4 yếu tố trong hình ảnh minh hoạ Chúa sử dụng:
a)Cây nho: Thật ra có ba cây nho khác nhau được mô tả trong Kinh Thánh. Cây nho trong quá khứ là dân Y-sơ-ra-ên (Thi 80:8-19 Es 5:1-7 Gie 2:21 Exe 19:10-14 Os 10:1). Bởi hành động kỳ diệu của ân điển, Đức Chúa Trời “dời” Y-sơ-ra-ên vào vùng đất Ca-na-an và ban cho dân sự mọi nguồn lợi trong tầm tay – Đức Chúa Trời phán: “Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm cho nó chăng?” (Es 5:4). Y-sơ-ra-ên là dân tộc từng hưởng mọi điều thịnh vượng như họ mong muốn.
Tuy nhiên, cây nho này đã sinh trái nho hoang (thay vì làm theo lẽ phải, nó lại hành động bạo ngược. Thay vì kết quả trong sự công bình, nó sinh ra điều bất nghĩa cùng tiếng kêu la của kẻ khốn khổ. Đức Chúa Trời phải “tỉa sửa” dân Y-sơ-ra-ên mặc dù nó không đem lại kết quả cuối cùng. Khi con Đức Chúa Trời đến vườn nho, dân sự xua đuổi và giết Ngài (Mat 21:33-46)!
Có một cây nho trong tương lai, đó là Cây nho “dưới đất” được mô tả trong Kh 14:14-20 Đó là kỳ mọi kẻ vô tín ở thế gian phải chịu sự xét đoán của Đức Chúa Trời. Những người tin Chúa là nhánh của cây nho “trên trời”, nhưng kẻ vô tín là nhánh của cây nho “dưới đất”. Kẻ vô tín cậy nơi thế gian để hưởng thụ và thoả mãn, nhưng Cơ Đốc nhân nương nhờ nơi Chúa Giê-xu. Cây nho dưới đất sẽ bị đốn bỏ và huỷ diệt khi Chúa Giê-xu tái lâm.
Cây nho trong hiện tại chính là Chúa Giê-xu của chúng ta, và tất nhiên bao gồm cả nhánh nữa. Ngài là “gốc nho thật” mà từ đó, mọi cây nho khác đều là “bản sao”.Là Cơ Đốc nhân, chúng ta không sống bằng sự thay thế của người khác. Biểu tượng về gốc nho và nhánh cũng giống với biểu tượng về Đầu và thân: chúng ta có mối liên hệ sống động với Đấng Christ và thuộc về Ngài.
Khi sống ở Chicago, chúng tôi có trồng một cây nho nhỏ sau vườn nhà. Nhưng cách chúng tôi chăm sóc chẳng giống với cách người ta chăm sóc cây nho ở vùng đất thánh hôm nay. Cây nho chúng tôi quá yếu ớt nên dễ dàng khiến nó bị gãy cành.Những cây nho tôi thấy ở vùng đất thánh rất lớn và chắc chắn. Không thể có chuyện tách nhánh nho lớn mà không làm tổn thương chính cây nho. Mối liên kết của chúng ta với Đấng Christ là mối liên kết sống, nên chúng ta có thể sinh quả. Đó cũng là mối liên kết yêu thương nên chúng ta được thoả mãn trong Ngài và đây là mối liên kết bền vững nên chúng ta không có gì đáng sợ hãi.
b)Nhánh nho: Nhánh nho vốn rất yếu ớt và vô dụng. Nó chỉ đang được dùng để khiêng hoặc làm chất đốt, chớ không thể dùng trong xây dựng (Exe 15:1-8). Nhánh nho tự nó không có sự sống, phải hút nhựa sống từ gốc nho. Nhờ mối giao thông với Đấng Christ trong Đức Thánh Linh khiến chúng ta có thể kết quả cho Ngài.
Có nhiều hình ảnh nói về Đấng Christ và những người tin Ngài được đề cập trong Kinh Thánh, tập trung vào khái niệm đầy ý nghĩa về mối liên hệ này: thân và chi thể (ICo 12:1-30), chồng và vợ (Eph 5:25-33), Người Chăn Chiên và bầy chiên (Gi 10:1-42). Chi thể nào không liên hệ với thân sẽ chết. Hôn nhân tạo nên mối liên kết, nhưng để duy trì mối liên kết ấy, cần phải có tình yêu và sự hy sinh mỗi ngày, Người chăn chiên dẫn chiên về chuồng, nhưng chiên phải đi theo người chăn để được bảo vệ và chăm sóc.
Là Cơ Đốc nhân, bao lâu chúng ta nhận ra mình chỉ là “nhánh” chúng ta sẽ càng có mối liên hệ mật thiết hơn với Chúa vì chúng ta biết sự yếu đuối của mình và thừa nhận nhu cầu mình nơi sức mạnh của Ngài. Động từ “ (cứ) ở trong” được lặp lại 11 lần trong câu 1-11. “”Ở trong” nghĩa là gì? Nghĩa là giữ mối liên hệ với Đấng Christ hầu sự sống Ngài có thể hành động trong chúng ta và qua chúng ta để kết quả cho Chúa. Hẳn sự “ở trong” này có liên quan đến Lời Đức Chúa Trời và sự xưng tội hầu cho không điều gì cản trở mối liên hệ của chúng ta với Ngài (Gi 15:3). Sự “ở trong” ấy cũng liên quan với sự vâng lời của chúng ta vì chúng ta yêu mến Ngài (Gi 15:9-10).
Chúng ta sẽ nói gì khi “ở trong Đấng Christ”? Có một cảm giác đặc biệt? Không phải vậy, nhưng có những chứng cớ đặc biệt không thể lầm lẫn được. Khi chúng ta ở trong Đấng Christ, chúng ta sẽ kết quả (Gi 15:2). “Quả “ ấy là gì? Vấn đề này sẽ được bình luận sau. Bạn sẽ kinh nghiệm sự “tỉa sửa” của Đức Chúa Trời để sinh trái nhiều hơn (Gi 15:2). Nhưng ai cứ trong Ngài, lời cầu nguyện của người ấy sẽ được nhậm (Gi 15:7). Người ấy kinh nghiệm được một tình yêu sâu đậm đối với Đấng Christ và những tín hữu khác (Gi 15:9,12,13) cũng như kinh nghiệm sự vui mừng (Gi 15:11).
Mối liên hệ “ở trong” này là mối liên hệ tự nhiên đối với nhánh và cây nho, nhưng phải được tỉa sửa trong đời sống Cơ Đốc nhân. Mối liên hệ này không tự nhiên có được. Ở trong Đấng Christ đòi hỏi tinh thần thờ phượng, học hỏi lời Chúa, cầu nguyện, dâng mình và hầu việc – nhưng đây thật là một kinh nghiệm vui mừng! Một khi bạn tỉa sửa vun đầy cho mối giao thông mật thiết với Đấng Christ, bạn sẽ không mong trở lại cuộc sống hời hợt của một Cơ Đốc nhân vô tâm.
c)Người chăm sóc vườn nho: Người làm vườn nho có nhiệm vụ gìn giữ chăm sóc các cây nho, và Chúa phán rằng đây là công việc của Cha trên trời, Ngài là Đấng tỉa sửa các “nhánh” để chúng kết quả. Bạn hãy để ý tiến trình ở đây: không kết quả (Gi 15:2), kết quả, sinh ra lắm trái và được kết nhiều quả (Gi 15:5,8). Nhiều Cơ Đốc nhân cầu xin Đức Chúa Trời cho họ được kết quả nhiều hơn, nhưng lại không muốn được “tỉa sửa” theo tiến trình ấy!
Người làm vườn tỉa sửa cái nhánh nho theo hai phương cách: cắt bỏ nhánh khô bị hư hoặc bị sâu bọ cắn, và cắt bỏ mô sống thừa để sự sống của cây nho không bị uổng phí cũng như mùa màng không bị thất thu. Thật ra, người làm vườn thậm chí sẽ cắt đi cả những chùm nho để phần còn lại của mùa thu hoạch sẽ có chất lượng cao hơn. Đức Chúa Trời yêu cầu cả số lượng lẫn chất lượng.
Tiến trình tỉa sửa này là giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ công việc làm vườn.Người làm việc này phải được huấn luyện kỹ lưỡng để không làm hư hại mùa thu hoạch. Một số vườn nho đầu tư hai đến ba năm để huấn luyện người tỉa sửa, sao cho họ biết phải cắt ở đâu, cắt như thế nào hoặc ở góc độ nào.
Sự xét đoán gay gắt nhất Đức Chúa Trời thực hành trên một người tin nhận là bỏ mặc người ấy để người ấy làm theo ý riêng. Vì yêu chúng ta, Đức Chúa Trời “tỉa sửa”và khích lệ chúng ta kết quả nhiều hơn cho vinh hiển Ngài. Nếu các nhánh nho kia biết nói, chắc chúng sẽ thừa nhận rằng tiến trình tỉa sửa tuy làm chúng đau nhưng cũng khiến chúng vui mừng vì có thể sinh ra lắm trái hơn.
Cha trên trời sẽ gần bạn hơn bao giờ hết khi Ngài muốn tỉa sửa bạn. Đôi khi Ngài cắt bỏ nhánh khô gãy cản trở, nhưng cũng cắt đi mô sống nào làm giảm sức mạnh thuộc linh bạn. Công việc tỉa sửa không chỉ đơn giả có nghĩa như cuộc “giải phẫu thuộc linh” nhằm loại bỏ cái xấu. Nó cũng có nghĩa là cắt đi phần tốt hoặc tốt hơn để chúng ta được kết quả “tốt nhất”. Vâng, tỉa sửa làm “đau” nhưng cũng làm ích lợi. Chúng ta không muốn bị “đau”, nhưng cần phải như vậy.
Cha trên trời tỉa sửa chúng ta ra sao? Đôi lúc Ngài chỉ dùng lời Kinh Thánh để cáo trách và khiến ta được tinh sạch (Eph 5:26-27 Gi 13:10). Cũng có khi Ngài phải trách phạt chúng ta (He 12:1-11), là lúc Ngài cất khỏi chúng ta những điều dường như quý giá nhưng khi mùa thu hoạch thuộc linh được trọn, chúng ta sẽ hiểu rằng Cha trên trời biết điều Ngài phải thực hiện.
Càng ở trong Đấng Christ, chúng ta càng kết quả. Và khi ta kết quả, Đức Chúa Trời càng tỉa sửa chúng ta để chất lượng luôn đi đôi với số lượng. Nếu không nhánh có thể sinh ra nhiều nhánh nhỏ khác nhưng thấp kém hơn về chất lượng. Đức Chúa Trời được vinh hiển qua một vụ mùa lớn hơn, cũng là vụ mùa có chất lượng cao hơn.
d)Trái nho: Thuật ngữ “kết quả” thường được nhắc đến giữa vòng những người hầu việc Chúa. Cái máy có thể tạo ra thành phẩm và một rô-bô cũng làm được như vậy, nhưng cần phải có một thực thể sống mới sinh “trái” được. Cần có thời gian và sự chăm sóc tỉa sửa mới kết trái.
Ta phải biết rằng nhánh không “ăn” trái, nhưng người khác sẽ ăn. Chúng ta kết quả không phải để hài lòng với chính mình nhưng để phục vụ người khác. Chúng ta phải là mẫu người “nuôi” nấng người khác qua lời nói và việc làm mình. “Môi miệng người công bình nuôi dạy nhiều người” (Ch 10:21).
Có nhiều dạng trái thuộc linh khác nhau được nhắc đến trong Kinh Thánh. Chúng ta kết quả khi đem ngưới khác đến với Đấng Christ (Ro 1:13). Chúng ta là một phần của mùa gặt (Gi 4:35-38). Khi tăng trưởng trong sự nên thánh và vâng phục, là lúc chúng ta đang kết quả (Ro 6:22). Với Phao-lô, Cơ Đốc nhân được kết quả trong đời sống hầu việc (Ro 15:28). “Trái của Thánh Linh” (Ga 5:22-23) là phẩm chất mà Cơ Đốc nhân làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời và cho người khác nhận biết Đấng Christ. Cả việc lành và sự phục vụ của chúng ta cũng xuất phát từ sự sống “ở trong Chúa” (Col Ga 1:10). Sự ngợi khen Đức Chúa Trời từ môi miệng và tấm lòng chúng ta thật sự là bông trái cho vinh hiển danh Ngài (He 13:15).
Có nhiều hành động được thực hiện bởi sự giả dối của xác thịt, nhưng sự giả dối ấy cuối cùng sẽ bị phát hiện, vì trái thuộc linh thật tiềm ẩn trong chính nó những hạt giống tốt. Những kết quả do con người tự tạo là “quả chết”, không thể tự nó tái tạo nhưng quả của Thánh Linh sẽ tiếp tục tái tạo từ sự sống này sang sự sống khác, trái này sang nhiều trái khác.
Nhánh thật khi liên kết với cây nho sẽ luôn sinh trái. Không phải mọi nhánh đều sinh nhiều trái, cũng như không phải mọi cánh đồng đều đem đến một vụ mùa bội thu (Mat 13:8,23). Nhưng nơi nào có sự sống, nơi ấy luôn kết trái. Nếu không có trái, nhánh trở nên vô dụng, phải bị cắt bỏ hoặc làm củi đốt. Tôi không cho rằng điều Chúa muốn dạy ở đây là Cơ Đốc nhân thật có thể đánh mất sự cứu rỗi.Nếu vậy, điều này sẽ mâu thuẫn lời Ngài dạy ở Gi 6:37 Gi 10:27-30.
Thật dại dột nếu lập một triết lý thần học dựa trên một truyện ngụ ngôn hay một ví dụ minh hoạ. Chúa Giê-xu muốn dạy một lẽ thật cơ bản, đó là: sự sống kết quả của Cơ Đốc nhân, nên chúng ta không nên đề cập đến quá nhiều chi tiết. Như một nhánh cây không kết trái trở nên vô dụng, vậy một Cơ Đốc nhân không kết quả cũng là kẻ vô dụng. Cả hai đều bị xử lý. Thật đáng buồn khi một Cơ Đốc nhân từng kết quả lại sa ngã, đánh mất đặc quyền được ở trong Chúa và hầu việc Ngài! Dù sao, câu Gi 15:6 mô tả quy luật của Đức Chúa Trời chớ không phải nói về số phận đời đời. “Cũng có tội đến nỗi chết” (IGi 5:16).
Chúa đã nói về sự bình an (Gi 14:27) giờ đây, Ngài đề cập đến sự yêu thương và vui mừng (Gi 15:9-11). Lòng “yêu thương, vui mừng, bình an” là ba trái Thánh Linh đầu tiên được đề cập ở Ga 5:22-23 Sự sống trong Đấng Christ của chúng ta sẽ khiến lòng chúng ta đầy dẫy sự vui mừng và tình yêu của Chúa. Vì yêu mến Chúa, chúng ta phải giữ điều răn Ngài. Khi làm theo điều răn Ngài, chúng ta được “ở trong” tình yêu Ngài và kinh nghiệm tình yêu ấy sâu sắc hơn.
Có nhiều chỗ trong Phúc Âm Giăng, bạn sẽ thấy Chúa Giê-xu nói về tình yêu của Cha đối với Ngài. Chúng ta luôn tập trung vào tình yêu Đức Chúa Trời đối với thế gian và Hội Thánh, nhưng quên nghĩ về tình yêu Đức Chúa Trời dành cho Con Ngài.Vì Cha yêu Con, nên giao mọi sự vào tay Con (Gi 3:35) và bày tỏ mọi điều cho Con biết (Gi 5:20). Cha đã yêu Con từ trước buổi sáng thế (Gi 17:24). Ngài cũng yêu Con khi Con chết trên thập tự giá (Gi 10:17). Thật kỳ diệu thay, tín hữu hôm nay có thể kinh nghiệm tình yêu ấy”! Chúa Giê-xu đã cầu nguyện “để cho tình yêu thương của Cha dùng yêu thương Con ở trong họ (các môn đệ và những người tin nhận hôm nay)” (Gi 17:26).
Là nhánh của Gốc nho, chúng ta được đặc quyền ở trong Chúa và có trách nhiệm kết quả. Đến đây, chúng ta sẽ xem xét hình ảnh thứ hai: bạn hữu.
2. Bạn hữu - Chúng ta phải vâng lời (Gi 15:12-17)
Chúng ta thường quen biết nhiều người nhưng có rất ít bạn hữu, đôi khi một số người bạn lại trở nên xa lạ thậm chí bất nghĩa nữa. Còn Giu-đa thì sao? “Đến đỗi người bạn thân tôi, mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi, cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi (Thi 4:9). Bạn tâm phúc của chúng ta có thể quay lưng đi khi ta cần họ nhất. Phi-e-rơ, Gia-cơ Giăng ngủ say giữa vườn trong lúc họ cần phải cầu nguyện hơn hết. Phi-e-rơ đã chối Chúa ba lần. Tình bạn của chúng ta đối với nhau và đối với Chúa không thể toàn hảo, nhưng tình bạn hữu của Chúa đối với chúng ta rất trọn vẹn.
Tuy nhiên, ta không nên giải nghĩa từ “bạn” trong quan điểm hạn hẹp, bởi vì theo tiếng Hy Lạp từ ấy có nghĩa là “luật sư tại toà án”. Nó còn nói về những người tâm phúc hầu việc Vua (ở Gi 3:29 chỉ về bạn thân nhất tại tiệc cưới). Bạn hữu của Vua luôn kề cận vua nên biết mọi việc riêng tư của vua, nhưng họ cũng đầu phục vua và vâng theo lệnh người. Vì vậy, không hề có mâu thuẫn giữa địa vị tôi tớ và bạn hữu. Trong Kinh Thánh, Áp-ra-ham là một điển hình về người “bạn Đức Chúa Trời” (IISu 20:7 Es 41:8 Gia 2:23), cũng là tôi tớ Đức Chúa Trời (Sa 26:24). Ở Sa 18:1-33 Chúa cùng hai thiên sứ viếng thăm, thu xếp nơi nghỉ ngơi và dọn bàn cho các vị ấy một cách chu đáo. Trong 15 câu đầu của Sa 18:1-5 Áp-ra-ham luôn trong tư thế hành động và hai lần ông xem mình là đầy tớ (c.3,5). Hãy để ý rằng người cao tuổi này đã “chạy”, “lật đật” và giục giã người khác làm việc tích cực. Đây thật là một gương về đầy tớ thật sự, ông đứng cạnh để sẵn sàng làm theo mệnh lệnh các đấng ấy. Ở phần cuối đoạn, Áp-ra-ham vẫn đứng yên để tiếp chuyện với Chúa. Ông là tôi tớ và cũng là bạn Chúa. “Lẽ nào ta giấu Áp-ra-ham điều chi ta sẽ làm sao?” (Sa 18:17). Là bạn Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham được chia sẻ những công việc của Chúa.
Đây là mối liên hệ Chúa muốn nói đến khi Ngài gọi các môn đệ là “bạn hữu”. Đây cũng thật là mối liên hệ của tình yêu thương đối với Chúa và mỗi người. “Bạn của Vua” không thể ganh đua với nhau về danh vọng hay địa vị. Họ đều là “quần thần”của Vua nên không thể tự cất nhắc mình mà chỉ hầu việc vua mà thôi. Các môn đệ thật đáng trách vì đã ích kỷ khi tranh luận ai là kẻ cao trọng nhất!
Bằng cách nào Chúa có thể truyền cho chúng ta mệnh lệnh phải yêu kẻ khác? Tình yêu thật có thể nào chịu sự sai khiến? Bạn phải nhớ rằng tình yêu thương của Cơ Đốc nhân không phải chỉ là “cảm xúc”, nhưng đó là một hành động của ý chí. Bằng chứng tình yêu trong chúng ta không thể hiện ở cảm xúc nhưng thể hiện qua hành động, thậm chí có thể phó sự sống mình vì Đấng Christ và vì người khác (IGi 3:16). Chúa Giê-xu đã phó sự sống mình vì bạn hữu và cả kẻ thù! (Ro 5:10). Cảm xúc hẳn phải có, nhưng tình yêu thương chân thật của Cơ Đốc nhân là hành động của ý chí. Điều này có nghĩa là chúng ta phải đối xử với tha nhân theo cách Chúa đối xử chúng ta.
Vì lẽ ấy, tình bằng hữu giữa chúng ta với Đấng Christ hàm chứa sự yêu mến và lòng vâng phục, nhưng cũng có sự hiểu biết rằng Ngài đã đặt để chúng ta trong chương trình Ngài.
Thật vậy, dù là Chúa chúng ta (Gi 13:13,16) nhưng Ngài không đối xử với chúng ta như kẻ tôi tớ, Ngài xem chúng ta là bạn hữu nếu chúng ta vâng theo mệnh lệnh Ngài.Áp-ra-ham là bạn Đức Chúa Trời ông đã vâng lời Đức Chúa Trời (Sa 18:19). Nếu làm bạn với thế gian, hẳn chúng ta sẽ trở nên thù nghịch cùng Đức Chúa Trời (Gia 4:1-4). Ở Sô-đôm dù được giải cứu nhưng Lót vẫn không được gọi là bạn Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cho Áp-ra-ham biết chương trình hành động của Ngài đối với các thành ở vùng đồng bằng, vì vậy Áp-ra-ham đã có thể cầu thay cho Lót và gia đình Lót.
Đáng chú ý là trong Phúc Âm Giăng, các đầy tớ là những người biết rõ mọi điều xảy ra. Các đầy tớ phục vụ đám cưới tại Ca-na biết xuất xứ của rượu (Gi 2:9), còn các đầy tớ quan thị vệ biết rõ thời gian đứa con trai được chữa lành (Gi 4:51-53).
Là bạn hữu của Chúa, một trong những đặc quyền lớn lao nhất của chúng ta là được biết Đức Chúa Trời nhiều hơn và dự phần vào chương trình của Ngài. Tôi không bao giờ quên ấn tượng trong lòng khi nghe Tấn sĩ Oswall Sanders nói với chúng tôi rằng: “Mỗi chúng ta phải gần Chúa như lòng mình đã quyết định”. Là bạn hữu Chúa, ta phải đến gần Ngôi Ngài, lắng nghe lời Ngài, ở trong sự yêu thương Ngài và vâng theo mệnh lệnh Ngài.
Trong thời gian lẩn trốn kẻ thù, có một ngày kia Đa-vít ở gần thành Bết-lê-hem là nơi ông sinh ra, ông ao ước được uống nước bên giếng gần cửa thành. Ba vị tướng gan dạ của Đa-vít ở gần ông nên nghe được tiếng thở than ấy và đã liều mình đem nước về cho vua họ (IISa 23:15-17). Hành động đó thể hiện tinh thần của bạn hữu vua.
Trong Gi 15:16 Chúa Giê-xu nhắc nhở các môn đệ rằng họ được ở địa vị cao quý này chỉ bởi ân điển Ngài. Không phải họ đã chọn Ngài, nhưng chính Ngài đã chỉ chọn họ! Ngài biệt riêng họ ra giữa thế gian (Gi 15:19) để họ làm theo ý muốn Ngài. Một lần nữa, chúng ta gặp lại từ ý nghĩa “kết quả”. Là nhánh nho, chúng ta hưởng sự sống Ngài nên kết quả. Là bạn hữu, chúng ta dự phần trong tình yêu Ngài nên sinh lắm trái. Là nhánh nho, ta được Đức Chúa Trời tỉa sửa. Là bạn hữu, ta được sự dẫn dắt của Con Ngài và được Lời Ngài điều khiển đời sống mình.
Từ “lập” có nghĩa như “chỉ định”, biệt riêng một người nào đó để làm công việc đặc biệt. Thật phước hạnh khi chúng ta được Chúa chọn và biệt riêng ra giữa thế gian để kết quả cho Ngài. Ngài sai chúng ta làm khâm sai cho Ngài giữa thế gian (Gi 17:18) để rao cho kẻ khác biết về Vua Chí Cao và sự cứu rỗi vĩ đại của Ngài. Khi làm chứng cho kẻ khác và đưa họ đến với Đấng Christ, nghĩa là chúng ta đã kết quả cho vinh hiển Đức Chúa Trời.
Như đã đề cập ở trên, “quả” chính là bằng chứng về địa vị làm con cái, môn đệ (c.8)và bạn hữu (Gi 15:15). “Ấy vậy, các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được” (Mat 7:20). Nơi đâu có trái thật, nó sẽ tồn tại, nhưng “kết quả” do con người tạo ra cuối cùng rồi sẽ tan biến. “Quả” tự nó đã chứa hạt giống kết trái, vì vậy tiến trình vẫn cứ diễn ra. Bất cứ điều gì sinh bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời đều mang dấu hiệu của sự vĩnh cửu trên đó và sẽ tồn tại mãi mãi.
Một lần nữa, Chúa nêu lên đặc quyền của sự cầu nguyện. Bạn hữu vua có thể nói chuyện với vua mình, chia sẻ cùng vua mọi gánh nặng và nhu cầu. Trong thời quân chủ, được mời nói chuyện với vua hoặc nữ hoàng là một vinh dự đặc biệt. Nhưng bạn hữu của Chúa Giê-xu có thể nói chuyện với Ngài bất cứ lúc nào. Ngôi ơn phước luôn ở gần họ!
Câu 16 tóm tắt cho ta biết ý nghĩa của địa vị làm bạn hữu. Vị Vua muôn vua. Từng trải này khiến chúng ta phải hạ mình, vì Ngài chọn chúng ta chớ không phải chúng ta chọn Ngài. Chúng ta phải ghi nhớ điều này, nếu không sẽ dễ dàng trở nên kiêu ngạo va tự mãn. Điều này có nghĩa là chúng ta hãy lắng nghe lời Ngài phán với chính mình. “Chớ chi ông có nghe điều bàn định trong ý niệm của Đức Chúa Trời sao?” (Giop 15:8). “Đức Giê-hô-va kết bạn thiết cùng người kính sợ Ngài, tỏ cho người ấy biết giao ước của Ngài” (Thi 25:14). Chúng ta hãy chú tâm và tỉnh thức!
Trên hết mọi sự, mục đích của chúng ta là vâng lời Chúa và để công việc Ngài được thực hiện. Vua có những công tác phải được hoàn thành. Vì vậy, nếu thật sự yêu mến Ngài, chúng ta sẽ vâng theo mệnh lệnh Ngài, kết quả để làm đẹp lòng Chúa và quy vinh hiển Đức Chúa Trời. Làm Chúa hài lòng phải là niềm vui của chúng ta!
Chúa Giê-xu kết thúc phần sứ điệp này bằng lời nhắc nhở các môn đệ (và cả chúng ta)về mệnh lệnh quan trọng nhất: “Yêu mến lẫn nhau”. Có rất nhiều câu Kinh Thánh trong Tân Ước nói đến chữ “lẫn nhau”, nhưng ý nghĩa vẫn gồm tóm trong “yêu mến lẫn nhau”. Chúa đã phán điều răn này cho 11 sứ đồ (Gi 13:34-35) và giờ đây Ngài lập lại một lần nữa (Gi 15:12-17). Điều răn này được nhắc đến nhiều lần trong các thư tín, đặc biệt ở thư Giăng thứ nhất. Bạn hữu của Vua không những phải yêu mến vua nhưng cũng phải yêu mến lẫn nhau. Vua sẽ vui mừng biết bao khi thấy bạn hữu mình yêu thương lẫn nhau và đồng công trong việc thực hiện những mệnh lệnh Ngài.
Bài học này được Chúa dạy trong vườn nho và bài học kế tiếp sẽ đưa chúng ta vào trận chiến nơi chúng ta từng trải sự thù địch của thế gian hư mất. Nếu không ở trong Chúa như những nhánh nho và vâng lời Ngài như bạn hữu, chúng ta sẽ chẳng bao giờ có thể đương đầu nổi với sự chống đối của thế gian. Nếu không yêu mến lẫn nhau, làm sao chúng ta yêu được những kẻ hư mất trong thế gian? Nếu không đồng hành như những bạn hữu của Vua, chúng ta sẽ không thể cho kẻ thù thấy sự hợp nhất của mình được.
“...ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Gi 15:5)
Chúng ta không chỉ là kẻ “tật nguyền” mà còn là kẻ “bại liệt” vô phương cứu chữa.Chúng ta “chẳng làm chi được”!
Nhưng, nếu chúng ta “ở trong” Ngài, đến gần ngôi Ngài, chúng ta sẽ làm được bất cứ điều gì Ngài sai khiến (cho) mình!
Đây quả là một đặc ân, cũng là một trách nhiệm!
16. THÁNH LINH ĐANG LÀM GÌ GIỮA THẾ GIAN (Gi 15:18-16:16)
Đoạn Kinh Thánh này (Gi 15:18-16:16) liên kết nhau với hai chủ đề chính: sự bắt bớ của thế gian đối với Hội Thánh và công tác của Đức Thánh Linh qua Hội Thánh. Chúa đã dạy về sự yêu thương (Gi 15:9-13,17) và giờ đây Ngài nói về sự ghen ghét và Ngài sử dụng từ này 7 lần. Dường như khó tin rằng người đời sẽ ghét Chúa Giê-xu và các môn đệ, nhưng đây chính là hoàn cảnh của hôm nay, một số ghen ghét này phát sinh từ những con người tôn giáo. Chỉ còn vài giờ nữa, các lãnh đạo Do Thái sẽ bắt Đấng Mê-si-a của họ và vui mừng khi huyết Ngài đổ ra!
Chúa công khai cho các môn đệ biết rằng sự bắt bớ sẽ xảy đến. Ngài nói điều này ở Bài Giảng Trên Núi (Mat 5:10-12,44) và lời dặn dò các môn đệ khi sai họ đi (Mat 10:16-23). Trong bài giảng lên án người Pha-ri-si, Chúa Giê-xu báo trước rằng họ sẽ bắt bớ các tôi tớ Đức Chúa Trời (Mat 23:34-35) và Ngài cũng phán về điều này trong bài giảng trên núi Ô-li-ve (Mac 13:9-13).
Suốt Phúc Âm Giăng, rõ ràng là hội đồng các lãnh đạo không chỉ chống đối Chúa Giê-cu mà còn tìm phương giết Ngài (Gi 5:16 Gi 7:19-25 Gi 8:37,59 Gi 9:22 Gi 11:8). Khi Chúa tiếp tục thi hành chức vụ, có một xu thế phẫn nộ, thù địch và công khai chống lại Chúa. Vì vậy. Các môn đệ lẽ ra không nên ngạc nhiên khi Chúa là đối tượng của sự bắt bớ, vì họ từng nghe Ngài phán trước về điều này, cũng như chứng kiến Ngài phải đối đầu với sự ghen ghét của loài người trong thời gian thi hành chức vụ.
Chúng ta phải sống giữa thế giới thù địch này và đối diện với sự chống đối thường nhật cho đến khi Chúa tái lâm hoặc chúng ta qua đời. Vậy, làm sao chúng ta chịu đựng nổi? Đâu là bí quyết đắc thắng? Đó chính là sự hiện hữu và Quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta. Đây là phần quan trọng trong sứ điệp của Chúa về Đức Thánh Linh và nhiệm vụ Ngài.
Trước khi suy ngẫm đoạn Kinh Thánh này để hiểu về ba nhiệm vụ của Đức Thánh Linh đối với Hội Thánh trên đất, chúng ta phải lắng lòng nhắc nhở chính mình và tự hỏi Đức Thánh Linh là ai. Thánh Linh Đức Chúa Trời là một thân vị có tư duy (Ro 8:27), ý chí (ICo 12:11) và cảm xúc (Ga 5:22-23).
Ở Gi 15:26 nhắc đến ba ngôi Đức Chúa Trời: Chúa Giê-xu là Con, sẽ sai Đức Thánh Linh đến từ Cha. Vì Đức Thánh Linh là một ngôi vị và là Đức Chúa Trời, nên Cơ Đốc nhân có Đức Chúa Trời ngự trong lòng mình. Nếu chúng ta không có Đức Thánh Linh hiện diện trong mình, chúng ta không thể hầu việc Chúa giữa thế giới gian ác này, chúng ta phải bước đi theo Thánh Linh (Ga 5:16), thờ phượng Đức Chúa Trời trong Thánh Linh (Phi 3:3) và chứng đạo bởi Thánh Linh (Cong 1:8).
Cơ Đốc nhân có thể vững vàng và không rúng động giữa sự thù địch của thế gian vì những nhiệm vụ đặc biệt của Đức Thánh Linh.
1. Thánh Linh là Đấng Yên Ủi khích lệ Hội Thánh (Gi 15:18-16:4)
(Gi 15:18-27). Chúng ta hãy bắt đầu từ điều Chúa muốn nói khi dùng từ “thế gian”, vì thuật ngữ này được sử dụng trong Kinh Thánh ít nhất theo ba phương diện khác nhau. Nó có nghĩa như thế giới được tạo dựng này (“thế gian đã làm nên bởi Ngài” Gi 1:10), thế giới loài người (“vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian”Gi 3:16) hoặc là cộng đồng xa cách với Đức Chúa Trời và nghịch cùng Ngài. Đôi khi chúng ta cũng dùng từ “người đời” để xác định ý nghĩa đặc biệt này.
Chẳng hạn, khi nghe radio, chúng ta có thể nghe phát thanh viên nói rằng “và bây giờ là điểm tin từ thế giới thể thao”. Rõ ràng đây không phải là một quốc gia hay một hành tinh nào nơi tất cả mọi người trong một phương diện nào đó có liên hệ đến thế giới thể thao. “Thế giới thể thao” ám chỉ tất cả mọi tổ chức, con người, kế hoạch, hoạt động, triết lý v.v.. có liên hệ đến thể thao. Đối với quan điểm của Cơ Đốc nhân, “thế giới bao gồm con người, kế hoạch, tổ chức, hoạt động, triết học, những giá trị, v.v... một xã hội không có Đức Chúa Trời. Một số điều có thể rất “văn hoá”, một số khác rất “sa đoạ”, nhưng tất cả đều xuất phát từ tâm trí của con người tội lỗi, đề cao những gì con người tội lỗi hài lòng, và muốn thực hiện. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta chớ yêu thế gian (IGi 2:15-17) hoặc làm theo đời này (Ro 2:1-2).
Chúa Giê-xu không phải không có dụng ý khi cho các môn đệ biết rằng họ sẽ gặp khó khăn hoạn nạn trong thế gian. Hãy chú ý tiến trình của sự chống đối ở thế gian, ghen ghét (Gi 15:18-19), bắt bớ (Gi 15:20), xua đuổi, thậm chí giết hại (Gi 16:2). Bạn có thể theo dõi những giai đoạn chống đối này ở sách Công vụ.
Vì sao thế gian và cả những người trong giáo hội ghen ghét Cơ Đốc nhân là người tin nơi Chúa Giê-xu và bước đi theo Ngài? Chúa Giê-xu đưa ra nhiều lý do.
Thứ nhất, chúng ta giống như Đấng Christ (Gi 15:18,20). Nếu người đời ghét Ngài, họ cũng sẽ ghét những ai giống Ngài. Trong câu 20, Chúa lập lại lời Ngài đã phán từ trước (Gi 13:16) và đó là điều hợp lý. Ngài là Chủ, chúng ta là tôi tớ, Ngài cao trọng hơn chúng ta nên Ngài đáng nhận được sự ngợi khen và tôn vinh. Còn thế gian sẽ không ngợi khen và tôn vinh Ngài, ngược lại, họ ghét Ngài nên cũng ghét chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu cao trọng và toàn vẹn như thế mà không thể tránh được sự bắt bớ, huống chi bất toàn như chúng ta liệu có hy vọng gì?
Nguyên tắc này cũng được bày tỏ ở một số hình ảnh nói về mối liên hệ giữa Đấng Christ và những người thuộc về Ngài. Ngài là Đấng Chăn chiên và chúng ta là bầy chiên, nên khi Người chăn bị tấn công, bầy chiên cũng chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh ấy (Mat 26:31). Ngài là Chúa (là Thầy), còn chúng ta là môn đệ (người học việc). Tuy nhiên, thật là điều yên ủi khích lệ khi biết rằng người thuộc về Đức Chúa Trời nếu bị bắt bớ thì đó cũng là lúc Chúa dự phần trong sự hoạn nạn của người ấy, bởi Ngài là Đầu thân thể và chúng ta là các chi thể. “Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ ta?” (Cong 9:4). Bất cứ điều gì kẻ thù làm cho chúng ta cũng có nghĩa là đã làm cho Chúa Giê-xu và Ngài đồng công với chúng ta trong sự hoạn nạn.
Thứ hai, chúng ta không thuộc về thế gian (Gi 15:19). Khi tin nhận Đấng Christ, chúng ta đã bước qua một vị trí thuộc linh mới: từ nay được “ở trong” Đấng Christ và “không thuộc về thế gian”. Dĩ nhiên, chúng ta đang ở giữa thế giới vật chất, chớ không phải thế giới tâm linh. Nhưng giờ đây chúng ta là những “kẻ dự phần ơn trên trời gọi” (He 3:1), không còn quan tâm về vật chất lẫn thú vui tội lỗi ở thế gian nữa. Điều đó không có nghĩa là chúng ta xa rời thực tế và cách ly với những nhu cầu ở thế gian, nhưng chúng ta phải nhìn những điều thuộc về đất theo quan điểm trên trời!
Thế gian hành động trên cơ sở của sự “rập khuôn”. Bao lâu con người còn chiều theo những ham muốn nhất thời và coi trọng những giá trị ở thế gian, người ấy sẽ đi theo thế gian. Nhưng Cơ Đốc nhân thật không “làm theo đời này” (Ro 12:2). Người tin Chúa là “người được dựng nên mới” (IICo 5:17), không còn thiết tha với cuộc sống “ngày trước” (IPhi 4:1-4). Chúng ta là sự sáng của thế gian và muối của đất (Mat 5:13-16), nhưng thế gian tăm tối không cần sự sáng và một thế giới hư hoại không cần muối! Nói cách khác, người tin Chúa không chỉ là người “lạc điệu”với thế gian mà còn là người không thuộc về nơi ấy (Gi 17:14,16 IGi 4:5).
Lý do thứ ba, thế gian ghét người tin Chúa: vì thế gian dốt nát và mù loà về tâm linh (c.21). Nếu bạn hỏi các lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem rằng họ có biết Đức Chúa Trời Đấng họ tôn thờ không, họ sẽ đáp: “Dĩ nhiên chúng tôi biết Ngài! Dân Y-sơ-ra-ên đã biết Đức Chúa Trời thật từ bao thế kỷ qua! ” Nhưng Chúa Giê-xu phán rằng họ không biết Cha, cũng không biết Con (IGi 16:3). Các lãnh đạo Do Thái biết nhiều về Giê-hô-va Đức Chúa Trời, thậm chí có thể dẫn chứng đoạn Kinh Thánh hoặc câu Kinh Thánh để bảo vệ những lý thuyết của họ, nhưng cá nhân họ không hề biết Đức Chúa Trời!
Đây không phải là một chủ đề bàn luận mới đối với Chúa Giê-xu, vì Ngài đã đề cập điều này với các quan trưởng. “Các ngươi chẳng biết ta và cũng chẳng biết Cha ta. Nếu các ngươi biết ta, thì cũng biết Cha ta nữa” (IGi 8:19). “Các ngươi chưa biết Ngài đâu, còn ta thì biết” (IGi 8:55). Chúa Giê-xu từng dạy họ về Lời Đức Chúa Trời, bày tỏ thần tính Ngài qua các phép lạ kỳ diệu và Đạo Đức Chúa Trời, nhưng các lãnh đạo tôn giáo này mù loà đến nỗi không nhận biết Ngài: “Thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài” (IGi 1:10).
Những người đứng đầu giáo hội hôm nay cũng tự xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng không muốn hạ mình trước Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, Đấng Christ duy nhất của thế gian. Sa-tan đã làm mù lòng họ (IICo 4:3-4) và tội lỗi đã khiến trí khôn họ tăm tối (Eph 4:17-19). Giống như Sau-lơ ở Tạt-sơ họ cho rằng “niềm tin tôn giáo” và “sự công bình” của họ là tiêu chuẩn mẫu mực, đến nỗi dùng uy quyền giáo hội để bắt bớ người thuộc về Đức Chúa Trời!
Lý do thứ tư: thế gian không muốn nhìn nhận tội lỗi mình (Gi 15:22-24). Một lần nữa, Chúa Giê-xu nhắc lại lời Ngài và công việc Ngài. Chúng ta đã xem vấn đề này ở Phúc Âm Giăng (Gi 3:2 Gi 5:36-38 Gi 10:24-27 Gi 14:10-11). Dân sự không có cớ gì bào chữa tội lỗi mình. Họ đã từng chứng kiến việc Chúa làm, nghe lời Ngài phán, nhưng không muốn tiếp nhận chân lý. Mọi chứng cớ đã được bày tỏ, nhưng họ không có lòng thành thật để tiếp nhận và làm theo.
Gi 15:22 đồng nghĩa với điều Chúa nói cùng người Pha-ri-si sau khi Ngài chữa lành người mù (Gi 9:39-41). Họ đã phải thừa nhận phép lạ chữa lành người mù bẩm sinh, nhưng không muốn tin nơi Ngài. Chúa phán rằng họ là kẻ mù loà! Vì họ công nhận mình đã thấy phép lạ nên tình trạng tội lỗi họ càng trở nên tệ hại hơn. Họ không phạm tội về sự dốt nát, nhưng phạm tội nghịch cùng sự sáng. Vì sao? Vì sự sáng bày tỏ tội lỗi họ nên họ không muốn thành tâm đối diện với tội lỗi mình.Thái độ của họ giống với điều được mô tả ở IIPhi 3:5 “Chúng có ý quên lửng...”
Đức Thánh Linh khích lệ và yên ủi người tin Chúa ra sao khi họ nếm trải sự ghen ghét và chống đối của thế gian? Đơn giản là bởi lời Đức Chúa Trời. Trước hết, Đức Chúa Trời nhắc ta biết rằng sự chống đối này được các nhà viết Kinh Thánh đề cập cách rõ ràng. Ở Gi 15:25, Chúa Giê-xu trích dẫn Thi 35:19 và Thi 69:4 Lời Đức Chúa Trời yên ủi Chúa Giê-xu rằng sự ghen ghét của thế gian không do bất cứ việc làm nào của Ngài hầu gây nên sự chống đối này. Hôm nay, chúng ta có thể xem lại những câu Kinh Thánh như Phi 1:28-30 IITi 2:9-12 He 12:3-4 IPhi 4:12 Chúng ta cũng có những lời yên ủi của Chúa trong các sách Phúc Âm.
Đức Thánh Linh cũng làm chứng cho chúng ta và qua chúng ta trong kỳ bắt bớ (Gi 15:26-27). Ngài nhắc nhở chúng ta rằng những điều chúng ta trải qua là “sự thông công thương khó của Ngài (Đấng Christ)” (Phi 3:10) và đó là một đặc ân được “chịu khổ” vì danh Chúa (đọc kỹ IPhi 4:12-19).
Thời kỳ bắt bớ đối với Hội Thánh luôn là cơ hội để rao truyền về Chúa và làm chứng cho Ngài. Chúng ta phải “sẵn sàng trả lời” khi bị kẻ vô tín tấn công (IPhi 3:15). Đức Thánh Linh sẽ làm chứng cho chúng ta hầu chúng ta có thể bày tỏ chứng cớ cho thế gian (Mac 13:11). Không bởi quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời, chúng ta không thể làm chứng mạnh mẽ cho Đấng Christ (Cong 1:8).
(Gi 16:1-4). Người tin Chúa không có lý do gì để vấp phạm (Gi 16:1) khi thế gian chuẩn bị sẵn một lò bắt bớ. Cơ Đốc nhân phải lường trước về sự bắt bớ, nếu Chúa đã cho người ấy biết trước “nó sẽ xảy đến” (Gi 13:19 Gi 14:29). Hơn nữa, người tin Chúa không nên vấp ngã khi sự bắt bớ ấy xảy đến do những người trong giáo hội, là những kẻ cho rằng mình đang hầu việc Đức Chúa Trời. Từ “hầu việc” ở Gi 16:2 nghĩa là hầu việc Chúa trong cương vị thầy tế lễ. Câu này hẳn mô tả về tình trạng của Sau-lơ ở Tạt-sơ là người nghĩ rằng phá hoại Hội Thánh đồng nghĩa với hầu việc Đức Chúa Trời! (Cong 7:57-8:3 22:3-4 Cong 26:9-12).
Thật thê thảm thay khi những kẻ đội lốt tôn giáo bắt bớ và giết người, lại còn mượn danh Đức Chúa Trời! Thật hữu lý khi nói rằng “máu của những người tử đạo là hạt giống của Hội Thánh” (Tertullian). Nhưng máu của họ cũng là một vết nhơ trên các trang lịch sử của giáo hội.
2. Đức Thánh Linh là Đấng Xét Đoán (Gi 16:5-11)
Trong suốt ba năm, Chúa Giê-xu đã ở cùng các môn đệ để bảo vệ họ nhưng giờ là lúc Ngài sắp xa họ. Ngài đã cho họ biết trước điều này vào phần đầu của buổi tối (Gi 13:33) và Phi-e-rơ hỏi Ngài đi đâu (Gi 13:36). Tuy nhiên, câu hỏi của Phi-e-rơ bày tỏ sự lo lắng cho bản thân nhiều hơn là nghĩ đến Chúa Giê-xu! Câu hỏi ấy cũng tập trung vào những sự việc nhất thời chớ không phải những điều bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa Chúa phải giải thích lý do vì sao Ngài trở về cùng Cha là điều ích lợi cho các môn đệ.
Dĩ nhiên, lý do chính là vì Đức Thánh Linh có thể ngự đến ban quyền năng cho Hội Thánh để làm chứng cho Đức Chúa Trời. Đấng Christ thăng thiên để cầu thay cho dân sự Ngài tại ngôi ơn phước trên trời. Các môn đệ rất yêu Chúa nhưng không hiểu những lẽ thật Ngài muốn nói.
Cần biết rằng Đức Thánh Linh ngự đến với Hội Thánh, chớ không đến với thế gian.Điều này có nghĩa là Ngài hành động qua Hội Thánh. Đức Thánh Linh không hành động giữa “khoảng không”. Như Con Đức Chúa Trời cần có một thân thể để thi hành chức vụ Ngài trên đất, vậy Thánh Linh Đức Chúa Trời cũng cần một thân thể để thực hiện những công tác Ngài, thân thể ấy chính là Hội Thánh. Thân thể chúng ta là những dụng cụ và đền thờ của Chúa Thánh Linh Ngài sử dụng chúng ta để quy vinh hiển cho Đấng Christ và để làm chứng cho thế gian hư mất.
Đôi lúc chúng ta nghe người khác cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, xin hãy sai Thánh Linh Ngài nói với những kẻ hư mất! Nguyện Thánh Linh đến với từng tấm lòng! ” Lời cầu nguyện như vậy dĩ nhiên rất thành tâm, nhưng có hợp với tinh thần Kinh Thánh không? Thánh linh không “bềnh bồng” như bóng ma lên xuống giữa các hàng ghế nhà thờ để tìm kẻ hư mất. Thánh Linh hành động qua những con người Ngài ngự vào đời sống. Khi Thánh Linh ngự đến trong Lễ Ngũ Tuần, Ngài ban quyền năng rao giảng cho Phi-e-rơ và lời rao giảng ấy kết án, cáo trách những kẻ lắng nghe.
Từ chính được đề cập ở đây là “tự cáo” (Gi 16:8). Đây là từ mang tính luật pháp, có nghĩa như đem đến sự sáng, phơi bày, quở trách, kết án và thuyết phục. Từ này cũng có thể được hiểu là “tuyên án”. Người đời nghĩ rằng mình đang “kết tội”. Cơ Đốc nhân nhưng chính Cơ Đốc nhân mới là những người công bố bản án đối với thế gian khi họ làm chứng cho Chúa Giê-xu Christ. Cơ Đốc nhân là chứng nhân, Đức Thánh Linh là uỷ viên công bố, còn những người chưa được cứu là phạm nhân. Tuy nhiên, mục đích của bản cáo trạng này không phải để kết án nhưng đem đến sự cứu rỗi.
Đức Thánh Linh kết án thế gian về một tội lỗi đặc biệt: đó là tội vô tín. Luật pháp Đức Chúa Trời và lương tâm con người sẽ kết án tội nhân về tội lỗi họ. Qua sự làm chứng của Cơ Đốc nhân, công việc của Đức Thánh Linh là phơi bày sự vô tín của thế gian hư mất. Sau cùng, chinh sự vô tín kết án tội nhân (Gi 3:18-21) chớ không phải hành động tội lỗi của cá nhân. Một người có thể làm lại cuộc đời, bỏ đi những thói quen xấu, nhưng vẫn là tội nhân hư mất nơi hoả ngục.
Thánh Linh cũng kết án tội nhân về sự công bình, chớ không phải sự bất công. Sự công bình của ai? Đó là sự công bình của Chúa Giê-xu, Chiên Con toàn vẹn của Đức Chúa Trời. Thế gian không nhìn biết Con Đức Chúa Trời (Gi 1:10) nên Ngài phải trở về cùng Cha trên trời. Khi sống trên đất, Chúa bị con người kết tội lộng ngôn, phạm luật, lừa dối, thậm chí bị quỉ ám. Thánh Linh Đức Chúa Trời bày tỏ Đấng Christ qua Lời Kinh Thánh và qua cách làm sáng sanh Ngài (Gi 16:13-14). Thánh Linh cũng bày tỏ Đấng Christ qua đời sống của các Cơ Đốc nhân. Thế gian không tiếp nhận hoặc biết về Thánh Linh Đức Chúa Trời, nhưng thế gian có thể biết những việc Ngài làm khi nhìn xem đời sống của những Cơ Đốc nhân tin kính.
Đức Thánh Linh kết án tội nhân về sự xét đoán. Đừng lầm lẫn điều này với Cong 24:25) (“về sự công bình sự tiết độ và sự phán xét ngày sau”). Chúa muốn nói đến sự xét đoán của Ngài dành cho Sa-tan đã có hiệu lực bởi sự chết của Ngài trên thập tự (Gi 12:31). Sa-tan là vua chúa thế gian này nhưng là vua bại trận.Nó đã bị xét đoán và kết tội. Mọi sự phải xảy đến khi Chúa tái lâm.
Khi tội nhân bị kết án, người ấy sẽ hiểu được sự ngu xuẩn và sai trái của lòng vô tín. Người ấy sẽ thừa nhận mình không đạt đến sự công bình của Đấng Christ, biết mình bị kết án vì thuộc về thế gian và ma quỉ (Eph 2:1-3). Đấng duy nhất có thể cứu người ấy khỏi tình trạng kinh khiếp này không ai ngoài Chúa Giê-xu Con Đức Chúa Trời. Không thể có sự đổi mới mà không có sự kết tội và không thể có sự kết tội nào mà trong đó Thánh Linh Đức Chúa Trời lại không dùng lời Ngài qua sự làm chứng của một con cái trung tín của Đức Chúa Trời.
Làm chứng cho Đấng Christ là một đặc ân to lớn, cũng là một trách nhiệm quan trọng.Đó là vấn đề về sự sống hoặc sự chết! Thật vậy, chúng ta cần nhờ cậy sức Đức Thánh Linh hướng dẫn mình đến với đúng đối tượng, giúp chúng ta biết nói những lời cần thiết hầu chúng ta có thể quy vinh hiển cho danh Chúa Giê-xu.
3. Đức Thánh Linh là Giáo Sư dẫn dắt Hội Thánh (Gi 16:12-15)
Chúa chúng ta luôn thận trọng dạy các môn đệ những chân lý phù hợp với hoàn cảnh để họ có thể tiếp nhận được. Điều này luôn là đặc điểm của một giáo sư xuất sắc.Ngày nay Đức Thánh Linh là giáo sư của chúng ta, Ngài hành động theo nguyên tắc trên: dạy chúng ta những chân lý cần thiết khi chúng ta có nhu cầu và lúc chúng ta có thể sẵn sàng tiếp nhận.
Khi bạn đối chiếu Gi 14:26 với Gi 16:13, bạn sẽ hiểu phương cách kỳ diệu khi Đức Chúa Trời sắp đặt để viết ra Kinh Thánh Tân Ước. Đức Thánh Linh nhắc nhở các môn đệ về điều Chúa Giê-xu đã dạy họ, nên chúng ta có bốn sách Phúc Âm. Thánh Linh cũng dắt họ vào mọi chân lý, kết quả được thể hiện qua các thư tín. “Ngài sẽ tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến” câu này nói về những lời tiên tri, đặc biệt ở sách Khải huyền.
Chúng ta cần phải hiểu rằng công việc của Thánh Linh Đức Chúa Trời không bao giờ tách biệt với Chúa Giê-xu hoặc Lời Đức Chúa Trời. “Ngài sẽ làm chứng về ta” (Gi 15:26)“Ngài sẽ làm sáng danh ta” (Gi 16:11). Những ai tuyên bố rằng Thánh Linh Đức Chúa Trời đã hướng dẫn mình làm những việc trái ngược với mẫu mực của Chúa Giê-xu, hoặc sự dạy dỗ của Lời Đức Chúa Trời, những kẻ ấy đã sai lầm và bị Sa-tan dẫn dụ. Chúa Giê-xu là chân lý (Gi 14:6) và lời Đức Chúa Trời cũng là chân lý (Gi 17:17), và Đức Thánh Linh là “Thần chân lý”. Nơi đâu Đức Thánh Linh hành động, nơi ấy phải có sự hiện diện của chân lý!
Câu “Ngài không nói tự mình” không có nghĩa là Đức Thánh Linh chẳng bao giờ đề cập đến chính Ngài, vì khi viết Kinh Thánh, Đức Thánh Linh đã chú ý đến chính Ngài.Nhưng câu ấy nghĩa là Ngài không nói điều gì tách biệt với Cha và Con. Ngài cũng không “tạo ra” một sứ điệp nào khác. Bạn có một Đức Chúa Trời toàn vẹn ở câu Gi 16:13, vì Thánh Linh Đức Chúa Trời không tách biệt với Cha và Con. Cả ba ngôi hành động hiệp nhất.
Sự dạy dỗ của Thánh Linh qua các sứ đồ không khác với sự dạy dỗ của Thánh Linh qua Chúa Giê-xu. Có một số nhà thần học thích so sánh “đạo Cơ Đốc của Đấng Christ”với”Đạo Cơ Đốc của Phao-lô”. Họ tuyên bố rằng Phao-lô đã “phá hỏng” Đạo Cơ Đốc của Chúa khi làm cho Đạo ấy trở nên quá “thần học” và biến “sứ điệp giản đơn”của Chúa Giê-xu Christ ra phức tạp. Thật là lời giải thích đáng buồn! Những điều Chúa phán ở Gi 14:26 và Gi 16:13 bác bỏ hoàn toàn lời giải thích sai lệch trên.Thánh Linh đã bày tỏ những chân lý được chép trong bốn sách Phúc Âm, các thư tín và sách Khải huyền. Ngài cũng ghi lại lịch sử Hội Thánh và giáo lý Ngài qua sách Công vụ.
Công việc của Thánh Linh là khiến chúng ta giàu có bởi của cải chân lý của Đức Chúa Trời. Ngài soi sáng chúng ta bằng chân lý của Đức Chúa Trời và cho chúng ta được giàu có về của cải nơi Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời như một mỏ vàng, bạc, châu báu quý hiếm (Ch 3:13-15 Ch 8:10-21). Thật vui mừng thay khi chúng ta để Thánh Linh soi sáng Lời Đức Chúa Trời và bày tỏ Chúa Giê-xu cho chúng ta!
Chúng ta đừng học Lời Đức Chúa Trời với mục đích “tranh cãi về tôn giáo” với kẻ khác hay để “phô trương” sự hiểu biết thuộc linh của mình. Chúng ta hãy học Lời Đức Chúa Trời để thấy Chúa Giê-xu, biết nhiều hơn về Đức Chúa Trời và làm sáng danh Ngài trong đời sống mình. Khi chúng ta chứng đạo giữa thế gian thù dịch này, Đức Thánh Linh sẽ dùng lời Kinh Thánh Ngài từng dạy chúng ta, hầu cho chúng ta có thể nói về Chúa Giê-xu cho tội nhân hư mất. Chứng đạo là công việc của chúng ta và cáo trách tội lỗi là công việc của Thánh Linh. Có lẽ một vài người trong chúng ta cần từ bỏ hành động như một uỷ viên công tố để Thánh Linh có thể dùng chúng ta như những chứng nhân trung tín.
17. HÃY VUI MỪNG (Gi 16:16-33)
Đoạn Gi 16:16-33 là phần kết thúc bài giảng của Chúa tại Phòng Cao liên hệ chủ yếu đến những cảm xúc của các môn đệ. Họ đều buồn rầu, bối rối, về lời dạy của Chúa và sợ hãi. Thật là một sự khích lệ khi biết rằng các môn đệ là những con người thật với những nan đề thật, nhưng Chúa vẫn có thể sử dụng họ. Đôi lúc, chúng ta thường có ý nghĩ lầm lẫn khi cho rằng các môn đệ Chúa là những con người khác biệt với chúng ta, được phú cho sự hiểu biết thuộc linh và lòng can đảm phi thường! Nhưng sự thật khác hẳn, họ chỉ là con người bình thường!
Một trong những chủ đề tái hiện ở đoạn này là sự vui mừng (c.20-22,24,33). Mười một sứ đồ hẳn chẳng vui vẻ gì trong đêm ấy! Dầu vậy, Lời Chúa phán với họ đã thay đổi cuộc đời họ sau đó, cũng như lời Ngài đã thay đổi đời sống bạn hôm nay vậy.Bằng sự dịu dàng và ôn tồn, Chúa Giê-xu giải thích cho các sứ đồ phương cách để có sự vui mừng trong đời sống.
1. Một nguyên tắc cần biết (Gi 16:16-22)
Nguyên tắc này đơn giản là: Đức Chúa Trời đem sự vui mừng đến cho đời sống chúng ta, không bởi sự thay thế hay đổi mới nào. Ngài đưa ra ví dụ về người đàn bà sinh con rất rõ ràng. Đứa bé ra đời là nguyên nhân gây đau đớn, cũng là cớ để vui mừng. Qua sự sinh con, Đức Chúa Trời không thay thế điều gì khác để giảm đi cơn đau của người mẹ, nhưng Ngài sử dụng những gì hoàn cảnh đã sẵn có để khiến người mẹ vui mừng.
Cha mẹ nào cũng biết rằng con mình buồn bã khi có một món đồ chơi bị gãy vỡ hoặc bạn của nó bỏ về nhà. Cha mẹ có thể hành động một trong hai cách: thay thế một món đồ khác lấp vào chỗ món đồ chơi bị gãy hay đứa bạn vắng mặt hoặc biến đổi hoàn cảnh ấy thành một kinh nghiệm mới cho đứa con buồn bã của mình. Nếu người mẹ luôn mua một món đồ chơi mới cho đứa trẻ khi đồ chơi cũ của nó bị gãy, đứa trẻ sẽ muốn mọi nan đề của nó phải được giải quyết bằng “sự thay thế”. Nếu người mẹ kêu một đứa trẻ khác đến chơi với con mình, đứa bé sẽ mong muốn người khác phải đến với nó những khi nó gặp khủng hoảng. Cả hai hành động trên đều làm hư đứa bé, khiến nó không thể thích ứng với thực tế.
Phương cách “thay thế” để giải quyết vấn đề là cách hành động thiếu chính chắn. Cách biến đổi là phương cách của đức tin và sự trưởng thành. Chúng ta không thể trưởng thành về tâm linh hoặc cảm xúc mình nếu có ai đó cứ luôn thay thế “những món đồ chơi gãy vỡ” của chúng ta!
Chúa Giê-xu không nói rằng sự đau đớn của người mẹ được thay thế “bằng sự vui mừng, nhưng Ngài muốn nói rằng sự đau đớn ấy được “biến đổi” thành sự vui mừng. Đứa bé ra đời là nguyên nhân gây đau đớn, cũng là cớ để vui mừng! Đây là điều xảy đến trong đời sống Cơ Đốc nhân: Đức Chúa Trời sử dụng những hoàn cảnh dường như bế tắc để ban sự mầu nhiệm và ơn phước Ngài, hầu biến đổi thử thách ra đắc thắng, buồn rầu thành vui mừng. “Giê-hô-va Đức Chúa Trời... đổi sự rủa sả ra sự chúc phước cho ngươi” (Phu 23:5 Ne 13:2).
Giô-sép bị các anh bán làm nô lệ, bị quan thị vệ Phô-ti-pha cầm tù như kẻ phạm tội, nhưng Đức Chúa Trời đã biến đổi hoàn cảnh vô vọng của sự thất bại ấy ra sự thành công. Sự bắt bớ dân Y-sơ-ra-ên của người Ai Cập càng khiến dân Y-sơ-ra-ên sinh sản nhiều và thịnh vượng hơn. Mưu giết hại Đa-vít của Sau-lơ khiến Đa-vít càng gần Đức Chúa Trời hơn, giúp cho những vần thơ trong Thi-thiên được viết ra, khích lệ biết bao tấm lòng hôm nay. Thậm chí khi Chúa Giê-xu mang lấy thập tự giá một dấu hiệu của sự thất bại và nhục nhã, Ngài đã đổi hình ảnh thập tự thành một biểu tượng của sự đắc thắng và vinh hiển.
Giờ đây, khi đã hiểu nguyên tắc nêu trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn những nan đề và thắc mắc của các môn đệ Chúa.
Trong Gi 16:16, Chúa Giê-xu cho các môn đệ biết rằng ít lâu nữa họ sẽ không thấy Ngài và ít lâu nữa họ sẽ gặp lại Ngài. Đây là câu nói khiến các môn đệ bối rối và không sao hiểu được. Điều này khích lệ tôi những khi tôi học Kinh Thánh mà không hiểu một số câu. Ngay cả môn đệ Chúa cũng đã trải qua những ngày tháng không có sự hiểu biết về thuộc linh!
Chúa Giê-xu muốn nói gì? Có lẽ Ngài nói về những sự kiện sắp xảy ra có liên quan đến sự chết và sống lại của Ngài. Sau khi Ngài chết, các môn đệ sẽ không thấy Ngài ít lâu và sau khi Ngài từ cõi chết sống lại, họ sẽ gặp Ngài. Với những cơ hội quý báu này, Ngài cho họ biết trước rằng Ngài sẽ sống lại từ cõi chết sau ba ngày, nhưng lời Ngài phán chẳng đi vào tâm trí họ!
Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng Chúa trước tiên nói về việc Ngài sẽ trở về cùng Cha (“vì ta đi về cùng Cha” – Gi 16:16). Điều này được nói ở Gi 16:10, “vì ta đi đến cùng Cha, và các ngươi chẳng thấy ta nữa”). Các môn đệ không thể sống cho đến ngày Chúa tái lâm, nhưng họ đã chết và gặp Ngài khi bước vào sự vinh hiển. So với sự vĩnh cửu thời gian Hội Thánh chờ đợi Chúa tái lâm thật sự chỉ là “ít lâu” (IICo 4:16-18). Thật vậy, nhóm từ “ít lâu” được sử dụng theo đúng nghĩa này ở He 10:37 “Còn ít lâu, thật ít lâu nữa, thì Đấng đến sẽ đến, Ngài không chậm trễ đâu”.
Thay vì xin Chúa giải thích lời Ngài, các môn đệ lại bắt đầu bàn luận với nhau, như thể họ không muốn thừa nhận sự thiếu hiểu biết của mình. Còn bạn cũng đừng mất thời gian tranh luận về sự thiếu hiểu biết của mình! Ngay khi chúng ta đến với Chúa và xin Ngài giúp đỡ, đó là lúc ta học được những bài học ý nghĩa cho đời sống mình.
Ai Cập rất “vui mừng” khi dân Y-sơ-ra-ên ra đi (Thi 105:38) và thế gian cũng “đắc ý” khi Chúa Giê-xu không còn hiện diện trên đất. Cả các nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ rất muốn những tín hữu đầu tiên phải chết, hầu phong trào Cơ Đốc giáo” sẽ bị dập tắt. Nhưng tình hình không như họ muốn. Chúa Giê-xu đã sai Thánh Linh Ngài đến với Hội Thánh, và Hội Thánh đã rao lời Ngài khắp đất. Các tín hữu ban đầu rất vui mừng dù bị bắt bớ (Cong 5:41).
Đối với sự đau đớn của người mẹ khi sinh con, một phút “dài” như một giờ! Ý niệm của chúng ta về thời gian cũng hay đổi theo cảm xúc của bản thân. 30 phút ngồi trên ghế nha sĩ khác nào như “mấy tiếng đồng hồ”, nhưng vài giờ đi câu hoặc dự tiệc với bạn bè dường như chỉ là “giây lát”. Người mẹ cảm thấy thời gian sinh con thật dài, nhưng thật sự đó chỉ là “ít lâu”. Lúc đứa bé ra đời, nỗi đau đớn kia tan biến khi niềm vui tràn ngập lòng mẹ.
Hôm nay thế gian không cần đến Chúa Giê-xu hoặc Hội Thánh Ngài. Họ vui mừng khi chúng ta chịu khổ để chờ Chúa tái lâm. Thật vậy, muôn vật đều “thở than” vì tội lỗi và trông mong sự trở lại của Chúa (Ro 8:22). Khi chàng rể ra đi, nàng dâu vô cùng buồn bã (Mat 9:15). Nhưng chỉ “ít lâu nữa” Chúa sẽ trở lại và chúng ta sẽ đồng đi với Ngài đến thiên quốc để vui sống trong nhà Cha.
Trong lúc áp dụng tức thời có thể được dành cho các môn đệ đang đau buồn thì áp dụng cơ bản được dành cho tất cả con dân Chúa trong lúc chờ đợi sự hồi lai của Chúa Giê-xu Christ. Đối với chúng ta, sự chờ đợi dường như quá dài, nhưng Đức Chúa Trời không tính thời gian theo cách chúng ta (IIPhi 3:1-22). Trong khi chờ đợi, chúng ta phải xem những thử thách đau đớn trên nền tảng của sự “biến đổi” chớ không phải “thay thế” nếu chúng ta thật sự mong muốn được trưởng thành trong đời sống Cơ Đốc nhân.
2. Một lời hứa đáng tin (Gi 16:23-28)
Chủ đề trọng tâm ở đoạn này là sự cầu nguyện: “Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được, hầu cho sự vui mừng các ngươi được trọn vẹn” (Gi 16:24)
Trong Gi 16:23 thời điểm Chúa muốn nói “trong ngày đó” là khi nào tôi cho rằng Ngài nói đến thời điểm sau khi Đức Thánh Linh giáng lâm. Trong Gi 16:22, Ngài hứa với các môn đệ rằng Ngài sẽ gặp lại họ và Ngài đã thành tín với Lời phán ấy. Lúc ở cùng môn đệ suốt 40 ngày sau khi phục sinh, Chúa dạy họ tường tận những lẽ thật quan trọng để họ có thể thay Ngài thi hành chức vụ trên đất (Cong 1:3). “Trong ngày đó” không thể là ngày Chúa tái lâm tiếp rước Hội Thánh, vì không có chứng cớ nào trong Kinh Thánh cho thấy chúng ta cầu nguyện với Chúa sau khi đến thiên đàng.
Chúa biết các môn đệ muốn hỏi Ngài một vấn đề (Gi 16:19). Ngài yên ủi họ rằng chẳng bao lâu họ sẽ chẳng hỏi Ngài điều chi. Nhưng họ sẽ cầu nguyện với Cha trên trời và Ngài đáp ứng mọi nhu cầu cho họ. Đây là lời hứa họ phải hết lòng tin cậy:Cha yêu họ, nên lắng nghe mọi lời họ cầu xin và thoả đáp nhu cầu họ. Khi sống trên đất, Chúa Giê-xu đã đáp ứng mọi nhu cầu của các môn đệ. Giờ đây, dù Ngài trở về cùng Cha, nhưng Cha sẽ đáp ứng nhu cầu họ. Đây là lời hứa kỳ diệu và một đặc ân lớn lao của sự cầu nguyện.
Chúa chúng ta đề cập nhiều lần về sự cầu nguyện trong lời giảng dạy của Ngài. Ngài đã làm gương về tinh thần cầu nguyện qua đời sống của chính Ngài. Ngài thật sự là Con người chuyên tâm cầu nguyện. Trong bài giảng tại Phòng Cao, Ngài đặc biệt nhấn mạnh về sự cầu nguyện (Gi 14:12-14 Gi 15:7,16 Gi 16:23-26). Ngài giải thích rằng sự cầu nguyện với lòng tin cậy là một trong những bí quyết của đời sống Cơ Đốc nhân kết quả.
Trong Gi 16:25-27, Chúa cho biết do sự phục sinh và thăng thiên của Ngài cũng như sự giáng lâm của Đức Thánh Linh, một hoàn cảnh mới sẽ xảy đến. Ngài sẽ không còn nói với các môn đệ rằng những thuật ngữ đòi hỏi sự khôn ngoan về tâm linh mới có thể hiểu. Nhưng Ngài sẽ phán trực tiếp với họ để bày tỏ về Cha cho họ. Tại Phòng Cao, Ngài sử dụng một số hình ảnh tượng trưng để gởi gắm sứ điệp Ngài trong đó: hành động rửa chân các môn đệ, Nhà Cha, gốc nho và nhánh, sự sinh con. Trong những ngày kế tiếp, những hình ảnh ấy sẽ rõ ràng hơn đối với họ khi được Thánh Linh Đức Chúa Trời dạy dỗ.
Mục đích của việc học Kinh Thánh không chỉ đơn giản là hiểu biết những chân lý thêm sâu, nhưng nhằm biết rõ hơn về Cha trên trời. “Ta sẽ nói rõ ràng về Cha cho các ngươi” (Gi 16:25). Nếu việc đọc và học Kinh Thánh của chúng ta không có mục đích này, việc học ấy chẳng đem lại ích lợi gì.
Không những sẽ có một hoàn cảnh mới trong sự dạy dỗ, nhưng cũng có hoàn cảnh mới trong sự cầu nguyện của các các môn đệ. Chúa đã bày tỏ điều này ở Gi 16:23.Ngài sẽ trở về cùng Cha trên trời, ở đó Ngài thi hành chức vụ như thầy tế lễ Thượng phẩm của chúng ta để cầu thay cho chúng ta (Ro 8:34 He 7:25), vì Ngài cũng là Đấng Cầu Thay (IGi 2:1). Là Thầy Tế lễ Thượng phẩm, Chúa Giê-xu ban ơn cho chúng ta và giúp chúng ta lánh xa tội lỗi. Là Đấng Cầu Thay, Ngài phục hồi địa vị chúng ta khi chúng ta xưng nhận tội lỗi mình. Công việc Ngài nơi thiên đàng giúp ta có thể làm chứng cho Đức Chúa Trời trên đất này bởi quyền năng Đức Thánh Linh.
Khi đọc sách Công vụ, bạn sẽ khám phá rằng Hội Thánh ban đầu đã sống bằng sự cầu nguyện. Họ tin nơi mọi lời hứa Đức Chúa Trời nên cầu xin Ngài những điều họ cần. Nếu đều đặn tra xem lại những lời Chúa Giê-xu dạy dỗ về sự cầu nguyện qua bài giảng tại Phòng Cao này, hẳn sẽ rất ích lợi cho mọi con cái Đức Chúa Trời.Niềm vui mừng thật sự được bày tỏ qua sự cầu nguyện và sự nhậm lời của Chúa.Niềm vui mừng cũng hiện diện trong việc đáp ứng những yêu cầu Chúa đặt ra cho lời cầu nguyện có hiệu lực. Tôi nhớ George Muller đã nói “Lời cầu nguyện chân thật không thắng được sự miễn cưỡng của Đức Chúa Trời, nhưng khiến Đức Chúa Trời hài lòng”.
Sự vui mừng hiện diện trong sự cầu nguyện và trong việc nhận biết nguyên tắc về “sự biến đổi”. Chúa Giê-xu cũng nói về một dạng vui mừng thứ ba, đó là niềm vui được dự phần trong sự đắc thắng của Chúa Giê-xu đối với thế gian.
3. Một địa vị cần tuyên bố (Gi 16:29-33)
Trong câu Gi 16:29-30 các môn đệ bất ngờ thoát ra khỏi sự “ngớ ngẩn” thuộc linh và tuyên bố một lời mạnh mẽ về đức tin. Trước hết họ khẳng định rằng họ hiểu những điều Chúa đã dạy, mặc dù lời tuyên bố của họ dường như “táo bạo” cũng như những hành động kế tiếp của họ vậy. Dường như họ không hiểu ý nghĩa về sự sống lại Chúa đã báo trước. Họ cũng bối rối về tương lai của Y-sơ-ra-ên sau khi Chúa phục sinh (Cong 1:6). Tôi không có ý chỉ trích họ, vì hôm nay chúng ta cũng có nhiều khiếm khuyết khi hiểu Lời Chúa. Tôi chỉ muốn nêu lên rằng sự tuyên bố của các môn đệ có phần hơi táo bạo.
Họ không chỉ khẳng định sự hiểu biết của mình mà còn tuyên bố về đức tin và sự biết chắc của họ. “Chúng tôi biết... chúng tôi tin...” Đây hoàn toàn là câu nói của đức tin, và tôi tin rằng Chúa cũng hài lòng với câu nói ấy. Trong lời cầu nguyện của Chúa được chép ở đoạn kế tiếp, Chúa trình với Cha về các môn đệ Ngài và về tình trạng thuộc linh của họ (Gi 17:6-8). Chúa hẳn biết rõ sự yếu đuối của họ, nhưng Ngài cũng thừa nhận ngay những bằng cớ về sự tăng trưởng của họ trong đức tin và sự hiểu biết. Nhưng con người có thể có đức tin, sự thông hiểu, sự trông cậy nhưng vẫn làm Chúa buồn lòng. Nếu chúng ta không đem đức tin vào thực tiễn, ứng dụng sự hiểu biết và yên nghỉ nơi sự trông cậy, chúng ta sẽ thất bại khi gặp thử thách. Đó là điều đã xảy đến với các môn đệ, và Chúa cho họ biết rằng hoàn cảnh ấy sẽ đến với họ.
Trước đó, Chúa cho Phi-e-rơ biết ông sẽ chối Ngài, nhưng giờ đây Ngài cho tất cả các môn đệ biết họ sẽ lìa bỏ Ngài. Ở đây Giăng không trích dẫn lời tiên tri trong Kinh Thánh Cựu Ước (Xa 13:7) được chép laị ở Mat 26:31 Câu nói này của Chúa có lẽ là lời khuyên Phi-e-rơ đừng đi theo Ngài khi Ngài bị bắt. “Hãy để cho những kẻ này đi” là lời Chúa nói trong vườn (Gi 18:8), khi Ngài biết việc các môn đệ nấn ná lại sẽ không an toàn cho họ.
Chúa hứa Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa bỏ chúng ta (Mat 28:20 He 13:5), vậy mà các môn đệ lại lìa bỏ Ngài. Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng cùng Chúa đi vào vườn nhưng sau đó họ ngủ say. Chúa biết Ngài được Cha ở cùng. “Ta không ở một mình, nhưng Cha là Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta” (Gi 8:16). “Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta chẳng để ta ở một mình” (Gi 8:29). Con được yên ủi biết bao khi biết mình đang làm theo ý muốn Cha và có thể cậy nơi sự giúp sức của Cha.
Tuy nhiên, đã có lúc, Chúa thật sự cảm nhận sự thiếu vắng của Cha: “Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Mat 27:46 Thi 22:1). Khi Chúa gánh tội thay chúng ta, Ngài bị phân cách với Đức Chúa Trời. Ngài chịu sự cô đơn hầu chúng ta chẳng bao giờ ở một mình. Ngài bị lìa bỏ để chúng ta chẳng bao giờ bị bỏ ra ngoài.
Câu 33 là lời tóm tắt, cũng là đỉnh điểm của bài giảng tại Phòng Cao. Vì sao Chúa rao sứ điệp này? Hầu cho các môn đệ có sự bình an giữa thế gian đầy khốn khổ này. Bạn hãy so sánh giữa “ở trong ta” với “ở trong thế gian”. Ở trong Đấng Christ, có sự bình an nhưng ở trong thế gian có sự hoạn nạn. Đây là vị trí ta cần tuyên bố ra: Chúng ta là người ở trong Đấng Christ nên có thể thắng thế gian và mọi sự thù địch của nó.
George Morrison định nghĩa sự bình an là “chủ hữu nguồn tài nguyên thoả đáng”. Trong Chúa Giê-xu, chúng ta có mọi sự mình cần. Nhưng sự bình an cũng phụ thuộc nơi mối liên hệ đúng đắn, vì của cải thuộc linh tuỳ thuộc vào mối liên hệ thuộc linh. Chìa khoá chính là “ở trong ta”. Trong chính bản thân, chúng ta chẳng có gì, nhưng “trong Đấng Christ”, chúng ta có mọi sự mình cần.
Mỗi Cơ Đốc nhân đều là người đắc thắng: “sự thắng hơn thế gian ấy là đức tin của chúng ta” (IGi 5:4). Thế gian muốn thắng hơn chúng ta và đó là lý do Sa-tan “mượn tay” thế gian để bắt bớ và đàn áp Cơ Đốc nhân. Thế gian chỉ muốn chúng ta “rập khuôn” theo nó, chớ không muốn chúng ta khác biệt. Khi chúng ta đầu phục Đấng Christ và tin cậy nơi Ngài, Ngài sẽ giúp chúng ta đắc thắng. Chúng ta phải xác nhận địa vị thuộc linh của mình trong Đấng Christ và tin Ngài để được đắc thắng.
“Hãy vững lòng” là lời yên ủi của Chúa được lập lại nhiều lần, nghĩa là “hãy vui mừng! ”. Cũng có câu “hãy vững lòng” nói về sự tha tội của Chúa (Mat 9:1-8), về quyền năng Ngài (Mat 9:18-22) và về sự hiện diện của Ngài (Mat 14:22-27). Trong Gi 16:33 này Chúa rao ra niềm vui về sự đắc thắng của Ngài đối với thế gian.Chúng ta cũng là kẻ đắc thắng vì Chúa trước hết đã chiến thắng thay chúng ta.
Khi xem lại đoạn Kinh Thánh này, chúng ta có thể thấy rằng ba cách giải thích của Chúa hợp nhất với nhau. Ngài bày tỏ một nguyên tắc kỳ diệu: Đức Chúa Trời biến đổi sự buồn rầu ra vui mừng. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ hành động trên đời sống chúng ta khi chúng ta cầu nguyện và tin nơi lời hứa Ngài. Đức Chúa Trời đã định rằng công việc Ngài phải được thực hiện qua sự cầu nguyện với lòng tin cậy. Chúng ta sẽ không thể cầu nguyện có hiệu quả nếu không xác nhận ra địa vị đắc thắng của mình trong Đấng Christ.
Câu 33 cũng là câu mở đầu cho lời cầu nguyện của Chúa như Thầy tế lễ thượng phẩm cao trọng. Ngài từng dạy dỗ về Lời Đức Chúa Trời cho các môn đệ và giờ đây Ngài cầu nguyện cho họ. Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện phải luôn đi đôi với nhau (Cong 6:4). Chúa dùng từ “thế gian” 17 lần trong lời cầu nguyện này, vì qua đó Ngài bày tỏ cho chúng ta biết cách đắc thắng thế gian. Chính Ngài đã đương đầu với sự ghen ghét của thế gian và ma quỉ, nhưng Ngài có thể chịu đựng sự thương khó ấy và đắc thắng.
Có sự vui mừng khi chúng ta bằng lòng để Đức Chúa Trời biến đổi sự buồn rầu thành vui mừng. Có sự vui mừng khi chúng ta được Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện.Và cũng có sự vui mừng khi chúng ta đắc thắng thế gian.
Hãy vui mừng!
18. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA ĐẤNG ĐẮC THẮNG (Gi 17:1-26)
Hầu hết các học giả Kinh Thánh đều muốn bốn sách Phúc Âm được hài hoà với lời cầu nguyện của Chúa (được chép trong Gi 17:1-26) tại Phòng Cao sau khi chấm dứt lời giảng dạy cho các môn đệ. Sau đó, Ngài cùng môn đệ hát thánh thơ về lễ Vượt Qua của dân Y-sơ-ra-ên, rời phòng cao, đến vườn Ghết-sê-ma-nê nơi Chúa thường gặp các môn đệ, và Ngài cầu nguyện (Mat 26:30-46 Mac 14:26-42).
Dù Chúa cầu nguyện nơi Phòng Cao hay trong vườn Ghết-sê-ma-nê, đó vẫn là lời cầu nguyện vĩ đại nhất trên đất và cũng là lời cầu nguyện vĩ đại nhất được chép trong Kinh Thánh. Giăng 17 hẳn là đoạn thiêng liêng nhất trong cả Phúc Âm.Chúng ta phải xem đoạn Kinh Thánh này trong tinh thần khiêm cung và thờ phượng.Chúng ta được đặc ân lắng nghe Con Đức Chúa Trời thưa chuyện cùng Cha Ngài trước khi Ngài sắp phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc tội nhân.
Cho dù hoàn cảnh nào đã xảy đến vào đêm ấy, lời cầu nguyện của Chúa chứng tỏ Ngài đã và đang là Đấng chiến thắng, Ngài không phải là một “nạn nhân, Ngài là Đấng đắc thắng! Ngài khích lệ các môn đệ rằng: “Hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi! ” (Gi 16:33). Từ thế gian được sử dụng 17 lần trong lời cầu nguyện này, vì vậy rất dễ thấy sự liên hệ giữa lời cầu nguyện của Chúa với Gi 16:33. Nếu bạn với tôi hiểu và áp dụng những chân lý bày tỏ qua lời cầu nguyện sâu sắc này, chúng ta cũng sẽ đắc thắng mọi sự.
Tiến trình của tư tưởng trong lời cầu nguyện này không khó hiểu lắm. Chúa Giê-xu trước hết đã cầu nguyện cho chính Ngài và trình cho Cha biết công việc trên đất của Ngài đã hoàn tất (Gi 17:1-5). Sau đó Ngài cầu thay cho các môn đệ, cầu xin Cha gìn giữ và thánh hóa họ (Gi 17:6-19). Ngài kết thúc lời cầu nguyện khi cầu thay cho bạn, cho tôi và cả Hội Thánh, hầu cho chúng ta có thể hiệp một trong Ngài và dự phần vinh hiển của Ngài trong tương lai (Gi 17:20-26).
Vì sao Chúa cầu nguyện những lời này? Chắc hẳn Ngài muốn chuẩn bị cho chính mình để chịu sự thương khó sắp đến. Khi Ngài nghĩ đến sự vinh hiển Cha đã hứa, Ngài nhận được sức mới để chịu sự thương khó (He 12:1-3). Ngài cũng nhớ đến các môn đệ (Gi 17:13). Lời cầu nguyện này yên ủi các môn đệ biết bao! Ngài cầu xin cho các môn đệ để họ được bình an, vui mừng, hiệp một và được vinh hiển trong tương lai. Ngài cũng cầu nguyện cho chúng ta hôm nay, hầu cho chúng ta có thể biết mọi điều Ngài làm cho chúng ta và ban cho chúng ta, cũng như mọi điều Ngài sẽ làm cho chúng ta khi chúng ta đến thiên đàng.
Trong lời cầu nguyện này, Chúa bày tỏ bốn đặc ân kỳ diệu chúng ta có trong địa vị con cái Ngài, những đặc ân giúp chúng ta đắc thắng.
1. Chúng ta dự phần sự sống của Chúa (Gi 17:1-5)
Mở đầu bài cầu nguyện Chúa cầu xin cho chính Ngài, nhưng trong sự cầu xin cho bản thân, Chúa cũng cầu thay cho chúng ta. Tiến sĩ R. A. Torrey nói rằng: “Một lời cầu nguyện cho bản thân chưa hẳn là lời cầu nguyện ích kỷ”. Khi xem xét những lời cầu nguyện trong Kinh Thánh, ta sẽ thấy rằng câu nói trên rất hợp lý. Gánh nặng của Chúa là sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và sự vinh hiển ấy được bày tỏ qua công việc Chúa hoàn tất trên cây thập tự. Vì đầy tớ của Đức Chúa Trời có toàn quyền cầu xin Cha Ngài giúp đỡ để làm vinh hiển danh Cha. “Danh Cha được nên thánh” là lời đầu tiên trong bài cầu nguyện chung (Mat 6:9) và đó cũng là vấn đề Chúa trình bày đầu tiên trong lời cầu nguyện của Ngài.
Câu “Thưa Cha, giờ đã đến” nhắc ta nhớ rằng nhiều lần trong Phúc Âm Giăng đề cập đến từ “giờ” bắt đầu ở Gi 2:4 (xem đoạn 1 của Phúc Âm Giăng) Chúa Giê-xu đã sống theo một thời gian biểu từ trời khi Ngài hiện diện trên đất và Ngài biết Ngài đang làm theo ý Cha. “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa” (Thi 31:15).
Từ quan trọng “vinh hiển” được sử dụng bốn lần trong phân đoạn này, nên chúng ta phải phân biệt cẩn thận những lần Chúa đề cập đến từ “vinh hiển” với ý khác nhau. Trong Thi 17:5 Ngài nhắc đến sự vinh hiển Ngài vốn có từ trước nơi Cha, là sự vinh hiển Ngài vui lòng từ bỏ khi giáng sinh nơi thế gian để hầu việc, chịu thương khó và chết. Trong Gi 17:4, Ngài thưa với Cha rằng đời sống và chức vụ trên đất của Ngài đã làm vinh hiển danh Cha, vì Ngài đã hoàn thành công việc Cha giao cho. Trong Gi 17:1,5, Chúa cầu xin Cha ban lại cho Ngài sự vinh hiển vốn có của Ngài, hầu cho Con Đức Chúa Trời có thể làm vinh hiển Cha khi trở về thiên đàng.
Từ “vinh hiển” được sử dụng 7 lần trong lời cầu nguyện này, vì vậy sự vinh hiển là chủ đề chính. Chúa đã làm vinh hiển Cha qua những phép lạ Ngài làm (Gi 2:11 Gi 11:40)nhưng chắc hẳn sự vinh hiển vĩ đại nhất Ngài dành cho Cha được thể hiện qua sự thương khó và sự chết của Ngài (Gi 12:23-25 Gi 13:31-32). Theo quan điểm con người, Gô-gô-tha là nơi phô bày tội lỗi kinh khiếp của loài người, nhưng đối với Đức Chúa Trời, thập tự giá đã bày tỏ và tôn cao ân phước cũng như sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu biết trước về việc Ngài sẽ trở về trời khi nói rằng “Con... làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4). “Công việc” này bao gồm những sứ điệp và phép lạ Ngài thực hiện trên đất (Gi 5:17-19), việc huấn luyện dạy dỗ các môn đệ để chuẩn bị cho chức vụ của họ trong tương lai, và quan trọng nhất là sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá (He 9:24-28 He 10:11-18).
Trên nền tảng của “công việc” đã được hoàn tất này, tín hữu chúng ta được ban cho sự sống đời đời (He 17:2-3). Từ “ban cho” được sử dụng nhiều lần trong lời cầu nguyện của Chúa. Có 6 lần Ngài nói rằng những người tin nhận là tặng phẩm của Cha cho Con (Gi 17:2,6,9,11,12,24). Chúng ta thường nghĩ về Chúa Giê-xu như tặng phẩm của Đức Chúa Trời cho chúng ta (Gi 3:16), còn Chúa lại xác định rằng những kẻ tin nhận là món quà tình yêu Cha ban cho Con yêu dấu của mình!
“Sự sống đời đời” là một chủ đề quan trọng trong Phúc Âm Giăng được nhắc đến ít nhất 17 lần. Sự sống ấy là “món quà vô điều kiện” Đức Chúa Trời ban cho những ai tin nơi Con Ngài (Gi 3:15-16 Gi 6:47 Gi 10:28). Cha cũng cho Con quyền ban sự sống đời đời trên những kẻ Cha giao cho Con. Đối với con người, chúng ta nhận được món quà của sự sống đời đời khi tin nhận Chúa Giê-xu. Nhưng theo quan điểm Đức Chúa Trời, chúng ta là những người được Đức Chúa Trời chọn lựa và giao cho Con Ngài (Chúa Giê-xu). Đây là một sự mầu nhiệm mà trí tuệ con người không thể hiểu đầy đủ hoặc giải thích được. Chúng ta phải tiếp nhận điều ấy bằng đức tin!
Nhưng “sự sống đời đời” là gì? Đó là việc nhìn biết Đức Chúa Trời của mỗi cá nhân.Không chỉ biết Ngài, con người còn phải có mối liên hệ mật thiết với Ngài bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu. Chúng ta không thể biết Cha mà không biết Con (Gi 14:6-11). “Tin Đức Chúa Trời” chưa đủ, vì điều đó không bao giờ cứu được tội nhân hư mất khỏi hoả ngục đời đời. “Ma quỉ cũng tin như vậy và run sợ” (Gia 2:19). Lời bàn luận của Chúa Giê-xu trước các quan Do Thái cho thấy rõ con người có thể rất mộ đạo nhưng vẫn không biết Đức Chúa Trời. Sự sống đời đời không phải là điều chúng ta tạo ra được bởi phẩm cách hay đạo đức của riêng mình. Đó là món quà chúng ta đón nhận khi nhìn biết mình là tội nhân, ăn năn và tin cậy nơi một mình Chúa Giê-xu mà thôi.
Cha nhậm lời cầu xin của Con và ban sự vinh hiển cho Con. Hôm nay, nơi thiên đàng có sự hiện diện của một Con người vinh hiển, Con người ra từ Đức Chúa Trời, đó là Chúa Giê-xu! Bởi Ngài được vinh hiển nơi thiên đàng, nên tội nhân trên đất có thể được cứu rỗi. Bất cứ ai tin cậy Chúa Giê-xu sẽ đón nhận món quà của sự sống đời đời.
Vì chúng ta có sự sống của Chúa, nên luôn đắc thắng. Chúng ta cũng sự phần sự đắc thắng của Ngài! “Hễ sự gì sinh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (IGi 5:4). Khi được sinh ra lần đầu tiên, bạn thuộc dòng dõi “A-đam” và là kẻ hư mất. Khi bạn được tái sinh bởi đức tin nơi Đấng Christ, bạn là người đắc thắng! Sa-tan luôn tìm cách che khuất chân lý quý báu về công việc được làm trọn của Đấng Christ, vì nó biết rằng đây là nền tảng cho sự đắc thắng thuộc linh. “Chúng đã thắng nó (Sa-tan) bởi huyết Chiên Con” (Kh 12:11). Đừng để Sa-tan tước mất nơi bạn quyền năng đắc thắng bởi công việc Chúa Giê-xu đã làm trọn!
2. Chúng ta biết danh Ngài (Gi 17:6-12)
Chúa Giê-xu được ban cho sự sống đời đời của chính Ngài (Gi 17:2). Nhưng Ngài cũng bày tỏ cho các môn đệ về danh Cha Ngài (Gi 17:6). Dân Do Thái thời Cựu Ước từng biết danh Đức Chúa Trời của họ là “Giê-hô-va”, (Exe 3:11-14). Chúa Giê-xu từng phán về Ngài khi sử dụng những chữ “TA LÀ...”để các môn đệ hiểu ý nghĩa của Lời Ngài: “Ta là bánh của sự sống” (Gi 6:35) “Ta là sự sáng của thế gian” (Gi 8:12) “Ta là người chăn chiên hiền lành” (Gi 10:11) v.v.. Nói cách khác, Chúa đã bày tỏ danh vinh hiển của Cha Ngài khi cho các môn đệ biết Ngài là tất cả những gì họ cần.
Nhưng danh Cha không chỉ bao hàm có thể, vì Chúa Giê-xu cũng cho môn đệ biết Đức Chúa Trời là Cha trên trời của họ. Từ “Cha” được sử dụng 53 lần trong Gi 13:1-17:26 và 122 lần trong toàn sách Phúc Âm Giăng. Qua những sứ điệp Chúa rao cho dân Do Thái, Ngài giải thích rằng Cha đã sai Ngài đến, Ngài là một với Cha, Lời Ngài từ Cha mà đến. Đó là lời tuyên bố rõ ràng về thần tính Chúa, nhưng dân sự không muốn tin Ngài.
Trong Kinh Thánh, “danh” thường chỉ về “bản tính”, vì đa số các tên gọi đều được dùng để bày tỏ, bản tính đặc biệt của người mang tên ấy. Gia-cốp là người “mưu mô”nên tên của ông theo tên gốc Do Thái nghĩa là “chiếm vị”, gài bẫy” hoặc “lừa dối” (Sa 25:26). Tên của Y-sác nghĩa là “vui cười” (Sa 21:6) vì ông đã khiến cho Áp-ra-ham và Sa-ra vui mừng. Tên của Chúa Giê-xu cũng bày tỏ rằng Ngài là Đấng Christ (Mat 1:21).
“Con đã tỏ danh Cha ra” có nghĩa là “Con đã bày tỏ bản tính của Cha”. Giãi bày “về Cha là một trong những công việc của Con (Gi 1:18). Theo tiếng Hy Lạp “giãi bày” có nghĩa như “bộc lộ, dẫn dắt, chỉ đường. Chúa Giê-xu không bày tỏ Cha một cách bất ngờ trong ánh sáng rực rỡ của sự vinh hiển, vì các môn đệ không thể “chịu nổi” kinh nghiệm này. Dần dần, qua lời Ngài và việc Ngài làm, Ngài bày tỏ cho họ biết bản tính Đức Chúa Trời khi họ có thể tiếp nhận được (Gi 16:12).
Trọng tâm của phân đoạn này nói về sự bình an của người tin Chúa Đức Chúa Trời luôn gìn giữ những người thuộc về Ngài (Gi 17:11-12). Sự bình an chúng ta có không tuỳ thuộc nơi phẩm cách hay đạo đức của bản thân chúng ta, nhưng do nơi bản tính Đức Chúa Trời. Khi sống trên đất, Chúa Giê-xu đã gìn giữ các môn đệ để họ có thể nhờ cậy nơi Ngài. “Con gìn giữ họ trong danh Cha” (Gi 17:12). Nếu Đấng Christ bị hạn chế trong thân vị con người, còn có thể gìn giữ các môn đệ khi Ngài sống trên đất, vậy Ngài há không thể giữ họ ngay hôm nay khi Ngài được vinh hiển nơi thiên đàng hay sao? Cha, Con và Đức Thánh Linh hẳn có thể bảo vệ và ban sự bình an cho mọi kẻ thuộc về Đức Chúa Trời!
Hơn thế, những người thuộc về Đức Chúa Trời là tặng phẩm của Cha cho Con. Lẽ nào Cha lại ban cho Con món quà không có giá trị bền lâu? Các môn đệ đã thuộc về Cha qua sự thọ tạo và giao ước Ngài (vì họ là người Do Thái), nhưng giờ đây họ cũng thuộc về Con. Trước mặt Chúa, chúng ta có giá trị biết bao! Ngài không những gìn giữ chúng ta mà còn cầu thay chúng ta nữa! Khi nào bạn cảm thấy Chúa “quên” bạn, hay tình yêu Ngài dường như “quá xa”, hãy đọc Ro 8:28-29 để có sự vui mừng!
Sự bình an của chúng ta cũng thể hiện ở phương diện khác: chúng ta phải tôn vinh Chúa (Gi 17:10). Qua mọi thất bại và lầm lỗi, các môn đệ vẫn được đề cao: “Con nhân họ được tôn vinh”. Liệu Đức Chúa Trời có được vinh hiển khi một người nào đó thuộc về Ngài, tin nơi Chúa Giê-xu, nhưng không thể đến được thiên đàng? Hẳn là không! Khi dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, Môi-se luận rằng: “Sao để cho người Ê-díp-tô nói rằng: Ngài đưa chúng nó ra khỏi xứ đặng làm hại cho, giết đi tại trong núi, cùng diệt chúng nó khỏi mặt đất?” (Xu 32:12). Đức Chúa Trời dĩ nhiên biết rõ mọi sự, vậy sao Ngài cứu họ khi biết họ sẽ sa ngã trên đường? Điều gì Đức Chúa Trời đã bắt đầu thực hiện, Ngài sẽ làm cho trọn (Phi 1:6).
Đức Chúa Trời chu cấp cho chúng ta mọi nguồn tài nguyên thiêng liêng để tôn vinh Ngài và giữ lòng trung tín. Chúng ta có Lời Ngài (Gi 17:7-8) và Lời ấy bày tỏ cho chúng ta mọi điều mình có trong Chúa Giê-xu, giúp ta được trung tín và vững lòng. Chúng ta cũng có Con Đức Chúa Trời là Đấng cầu thay cho mình (Gi 17:9 Ro 8:34 He 4:14-16). Vì Cha luôn nhậm lời Con (Gi 11:41-42) nên sự cầu thay này giúp chúng ta có sự bình an và lòng vững vàng.
Chúng ta cũng có mối thông công với Hội Thánh “để họ cũng hiệp làm một như chúng ta vậy” (Gi 17:11). Kinh Thánh Tân Ước không nói đến những tín đồ sống biệt lập! Bất cứ nơi đâu bạn thấy có sự hiện diện của các thánh đồ, họ đều ở trong mối thông công với nhau. Vì sao? Vì con cái Đức Chúa Trời luôn cần đến nhau. Mở đầu bài giảng tại Phòng Cao, Chúa Giê-xu đã rửa chân các môn đệ dạy họ tinh thần phục vụ lẫn nhau. Trong những giờ phút sắp tới, họ (trong đó có cả Phi-e-rơ “đầy tự tin”) sẽ khám phá sự yếu đuối của mình và cần đến sự yên ủi của nhau.
Vậy, người tin Chúa được vững lòng trong Đấng Christ vì nhiều lý do: bản chất Đức Chúa Trời, bản chất sự cứu rỗi, vinh hiển Đức Chúa Trời, sự cầu thay của Chúa Giê-xu. Vậy còn Giu-đa thì sao? Anh ta có vững lòng chăng? Anh ta vấp ngã ra sao? Vì sao Chúa Giê-xu không giữ Giu-đa trong sự bình an? Vì một lý do đơn giản: Giu-đa chưa từng thuộc về Đấng Christ. Chúa Giê-xu luôn trung tín gìn giữ mọi kẻ Cha giao cho Ngài, nhưng Giu-đa không phải là kẻ Cha đã ban cho Con (Gi 18:8-9). Giu-đa không phải là người tin Chúa (Gi 6:64-71), chưa từng được tinh sạch (Gi 13:11), không thuộc trong số người được chọn (Gi 13:18).
Giu-đa không phải là điển hình về một tín đồ đã “đánh mất sự cứu rỗi” dành cho mình.Anh ta là mẫu người vô tín, khoe khoang sự cứu rỗi nhưng cuối cùng để lộ ra bộ mặt của kẻ giả dối. Chúa Giê-xu luôn gìn giữ mọi kẻ Cha giao cho Ngài (Gi 10:26-30)!
Chúng ta đắc thắng vì có sự sống của Chúa. Chúng ta cũng có một đặc quyền thứ ba để đắc thắng:
3. Chúng ta có Lời Chúa (Gi 17:13-19)
“Con đã truyền lời Cha cho họ” (Gi 17:14 Gi 17:8). Lời Chúa là tặng phẩm của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Cha đã truyền cho Con Lời Ngài (Gi 17:8) để Con phán với các môn đệ sau đó các môn đệ loan báo cho chúng ta khi được sự hà hơi của Đức Thánh Linh (IIPhi 1:20-22 IITi 3:16). Chúng ta đừng xem nhẹ Lời Đức Chúa Trời, vì những ai đắc thắng đều có Lời Đức Chúa Trời và biết cách sử dụng nó trong đời sống hằng ngày.
Lời Đức Chúa Trời giúp chúng ta đắc thắng thế gian ra sao? Trước hết, Lời Ngài ban cho chúng ta sự vui mừng (Gi 17:13) và sự vui mừng đầy dẫy trong lòng sẽ giúp ta có sức mạnh để đắc thắng (Ne 8:10). Chúng ta thường nghĩ về Chúa Giê-xu ở phương diện là “người từng trải sự buồn bực” (Es 53:3), và đúng như vậy. Nhưng Ngài cũng là con người nếm biết sự vui mừng sâu sắc, sự vui mừng vĩnh cửu. Gi 17:13 chính là trọng tâm của lời cầu nguyện này và chủ đề của nó là sự vui mừng!
Chúa Giê-xu đã nói đến sự vui mừng của Ngài trước đó (Gi 15:11) và giải thích rằng sự vui mừng xuất phát từ sự biến đổi chớ không phải sự thay thế (Gi 16:20-22). Sự vui mừng cũng đến từ lời cầu nguyện được nhậm (Gi 16:23-24). Giờ đây Ngài bày tỏ rằng niềm vui cũng đến từ Lời Đức Chúa Trời. Người tin Chúa sẽ không tìm thấy sự vui mừng trong thế gian nhưng nơi Lời Đức Chúa Trời. Giống như Giăng Báp-tít, chúng ta hãy vui mừng hân hoan khi nghe tiếng của Chàng Rể (Gi 3:29)!
Chúng ta đừng phác hoạ một Chúa Giê-xu đi tới lui với vẻ mặt buồn bã! Ngài là Con người đầy dẫy sự vui mừng nên Ngài bày tỏ sự vui mừng cho kẻ khác. Niềm vui của Ngài không phải là sự khinh suất thoáng qua đối với một thế giới tội lỗi nhưng là sự vui mừng bất tận nơi Cha trên trời và Lời Ngài. Chúa Giê-xu không bị lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài nhưng cậy nơi những nguồn tâm linh ẩn chứa trong Lời Đức Chúa Trời. Đây là sự vui mừng Ngài muốn chúng ta có, nên chúng ta có thể tìm được sự vui mừng ấy qua Lời Ngài “Lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy” (Gie 15:16). “Tôi vui mừng về đường chứng cớ Chúa, như thể vui mừng về của cải hiếm hiệm” (Thi 119:11). “Tôi vui vẻ về lời Chúa, khác nào kẻ tìm được mồi lớn” (Thi 119:162).
Lời Đức Chúa Trời không chỉ truyền đạt niềm vui của Chúa Giê-xu, nhưng cũng đảm bảo cho chúng ta về tình yêu của Ngài (Gi 17:14). Thế gian ghen ghét chúng ta, nhưng chúng ta có thể đối diện với sự ghen ghét ấy bằng chính tình yêu của Đức Chúa Trời, một tình yêu được truyền đạt cho chúng ta bởi Đức Thánh Linh qua Lời Đức Chúa Trời. Thế gian ghen ghét chúng ta vì chúng ta không thuộc về thế gian (Gi 15:18-19), không rập khuôn theo những việc làm và tiêu chuẩn của nó (Ro 12:2). Lời Đức Chúa Trời cho chúng ta hiểu rõ về thế gian, phơi trần những dối trá và mưu kế hiểm độc của nó.
Thế gian luôn tranh chiến với tình yêu của Đức Chúa Trời (IGi 2:15-17) nhưng Lời Đức Chúa Trời giúp ta nhận được tình yêu của Ngài. Bước đi đầu tiên khiến con người hướng về lối sống thế gian, đó là xao lãng Lời Đức Chúa Trời. Moody đã viết ở bìa trước cuốn Kinh Thánh của ông: “Quyển sách này sẽ giữ bạn cách xa tội lỗi, nếu không, tội lỗi sẽ giữ bạn xa cách với sách này”. Đối với dân Ai Cập trụ lửa giống như bóng tối nhưng đó lại là ánh sáng soi đường dân Do Thái.Vì vậy, lời Đức Chúa Trời là sự sáng cho chúng ta giữa thế giới tối tăm này nhưng thế gian không hiểu gì về những điều thuộc về Đức Chúa Trời (Xu 14:20 ICo 2:12-16).
Lời Đức Chúa Trời không chỉ đem đến tình yêu và sự vui mừng cho chúng ta, nhưng lời Ngài cũng truyền đạt quyền năng Đức Chúa Trời để chúng ta có một đời sống thánh khiết (Gi 17:15-17). Những gánh nặng Chúa dâng lên Cha trong lời cầu nguyện của Ngài (Gi 17:6-12) là sự yên ủi, cũng là sự thánh khiết được ứng dụng qua đời sống tin kính để làm sáng danh Đức Chúa Trời. Chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nên chúng ta đừng rập khuôn theo thế gian. Đôi khi chúng ta cho rằng “sống cách biệt với thế gian” dễ chịu hơn sống ở thế gian, nhưng sự thật không phải thế. Dù đi đâu, bản ngã tội lỗi vẫn “đồng hành” với chúng ta, và quyền của sự tối tăm cứ bén gót theo chúng ta. Tôi từng chứng kiến một số người sống trong sự “cách biệt” để trở nên thánh khiết hơn, nhưng chỉ khám phá ra rằng điều ấy chẳng có tác dụng gì.
Sự thánh hoá thật (nghĩa là được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời) là kết quả của việc rao truyền lời Đức Chúa Trời. “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho” (Gi 15:3). Khi được cứu, đó là lúc bạn được Đức Chúa Trời biệt riêng ra.Khi trưởng thành trong đức tin, bạn sẽ càng kinh nghiệm nhiều hơn về sự thánh hoá. Bạn sẽ yêu mến Đức Chúa Trời nhiều hơn tội lỗi, muốn hầu việc Ngài để đem phước hạnh đến cho tha nhân. Mọi sự đều đến từ Lời Đức Chúa Trời.
Chân lý của Đức Chúa Trời được bày tỏ cho chúng ta qua ba hình thức: Lời Ngài là chân lý (Gi 17:17) Con Ngài là chân lý (Gi 14:6) và Thánh Linh Ngài là chân lý (IGi 5:6). Chúng ta cần cả ba trên để kinh nghiệm được sự thánh hoá thật, một sự thánh hoá tác động đến cả con người bên trong chúng ta. Bằng trí tuệ chúng ta học biết lẽ thật của Đức Chúa Trời qua lời Kinh Thánh. Bằng tấm lòng, chúng ta yêu mến chân lý của Đức Chúa Trời, tức là Con Ngài. Bằng ý chí, chúng ta đầu phục Thánh Linh và sống theo chân lý của Đức Chúa Trời mỗi ngày. Cần có tất cả ba để kinh nghiệm sự thánh hoá một cách trọn vẹn.
Nếu chỉ học Kinh Thánh để biết “một mớ” giáo lý vẫn chưa đủ. Chúng ta phải yêu mến Chúa Giê-xu nhiều hơn khi biết về Ngài và những điều Ngài làm cho chúng ta.Việc hiểu biết và yêu mến Chúa phải dẫn đến cách sống, để Thánh Linh Đức Chúa Trời giúp chúng ta vâng theo lời Ngài. Đây là cách chúng ta làm vinh hiển danh Chúa giữa thế giới tội lỗi hôm nay.
Lời Đức Chúa Trời ban cho chúng ta niềm vui, tình yêu và quyền năng sống một đời sống thánh khiết. Lời Ngài cũng chu cấp cho chúng ta mọi sự cần thiết để chúng ta có thể hầu việc và làm chứng về Ngài giữa thế gian này (Gi 17:18-19). Sự thánh hoá không nhằm mục đích hưởng thụ hay khoe khoang về chính mình, nhưng để chúng ta có thể bày tỏ về Đấng Christ giữa thế gian và dẫn dắt kẻ khác đến với Ngài. Chúa Giê-xu đã biệt riêng chính Ngài cho chúng ta, giờ đây Ngài biệt riêng chúng ta cho Ngài. Cha trên trời đã sai Ngài đến thế gian, giờ đây Ngài cũng sai chúng ta giữa thế gian vậy. Chúng ta là những người “nhận chỉ thị” nên phải vâng lời! Chúa Giê-xu “được biệt riêng” nơi thiên đàng để cầu thay cho chúng ta, hầu sự chứng đạo của chúng ta đem lại kết quả tốt đẹp khi nhiều người ăn năn tội và trở về cùng Chúa.
Làm sao thế gian có thể thắng hơn chúng ta khi chúng ta có Lời Đức Chúa Trời soi sáng, giúp sức và khích lệ mình?
4. Chúng ta được dự phần sự vinh hiển của Ngài (Gi 17:20-26)
Ở đây, Chúa hướng sự quan tâm của Ngài về tương lai, Ngài bắt đầu cầu nguyện cho chúng ta hôm nay, cho cả Hội Thánh trải qua các thời đại. Ngài đã cầu thay về sự vững lòng và thánh hoá, giờ đây mối ưu tư của Ngài là sự hiệp một. Ngài mong những kẻ thuộc về Ngài kinh nghiệm sự hiệp một thuộc linh, giống như sự hiệp một của Cha và con. Các Cơ Đốc nhân có thể có những mối thông công khác nhau, nhưng đều thuộc về Chúa và hiệp một với nhau.
Các môn đệ thường có tinh thần ích kỷ, cạnh tranh và chia rẽ. Điều này đã làm buồn lòng Đấng Christ. Tôi tự hỏi Chúa sẽ nghĩ gì khi chứng kiến tình trạng của Hội Thánh hôm nay. Nhà truyền giáo Thomas Brooks viết: “Sự bất hoà và chia rẽ không khiến người ta trở thành Cơ Đốc nhân. Chó sói quan tâm đến chiên con là điều dĩ nhiên, nhưng chiên con quan tâm lẫn nhau mới là điều kỳ diệu! ”
Nền tảng cho sự hiệp một của Cơ Đốc nhân thật là gì? Đó là con người Chúa Giê-xu, công việc và sự vinh hiển của Ngài (Gi 17:2-5). Ngài đã ban cho chúng ta sự vinh hiển của Ngài, Ngài hứa rằng chúng ta sẽ kinh nghiệm nhiều hơn về sự vinh hiển ấy khi chúng ta đến được thiên đàng! Mọi Cơ Đốc nhân thật đều có sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong đời sống mình. Sự hài hoà của Cơ Đốc nhân không dựa trên những điều thuộc bên ngoài nhưng thuộc về những điều bên trong, những điều thuộc về sự vĩnh cửu của Thánh Linh trong con người. Chúng ta phải nhìn xa hơn những yếu tố về sự ra đời đầu tiên của mình (như chủng tộc, màu da, tài năng...) để xây dựng mối thông công của chúng ta dựa trên những yếu tố thiết thực cho sự tái sinh của mình.
Chúng ta đang có sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong mình (Gi 17:22 Ro 8:29) và ngày kia chúng ta sẽ “ngắm xem sự vinh hiển” ấy tại thiên đàng (Gi 17:24). Khi chúng ta tăng trưởng trong Chúa, sự vinh hiển cũng bắt đầu lớn dần và bày tỏ chính nó qua những điều chúng ta nói và làm, cũng thể hiện qua cách chúng ta nói và làm nữa. Người đời sẽ không thấy và ngợi khen chúng ta, nhưng họ sẽ thấy Chúa và ngợi khen Ngài (Mat 5:16 ICo 6:19-20).
Một trong những điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho thế gian, đó là cách các Cơ Đốc nhân yêu mến nhau và sống hoà thuận với nhau. Đây là chứng cớ Chúa chúng ta muốn được bày tỏ trong thế gian, “đặng thế gian tin rằng chính Cha đã sai Con đến” (ICo 17:21). Thế gian hư mất không thể nhìn biết Đức Chúa Trời, nhưng họ có thể nhìn thấy Cơ Đốc nhân, và những gì họ thấy nơi chúng ta sẽ quyết định mức độ niềm tin của họ về Đức Chúa Trời. Nếu nhìn thấy tình yêu thương và sự hiệp một, họ sẽ tin rằng Đức Chúa Trời là tình yêu. Nhưng nếu chứng kiến sự ghen ghét và chia rẽ, họ sẽ khước từ sứ điệp của Phúc Âm.
Chúa Giê-xu yên ủi chúng ta rằng một số người sẽ tin nhận bởi sự làm chứng của chúng ta (Gi 17:20), tuy nhiên chúng ta phải biết chắc rằng sự làm chứng của mình có mang tính chân thật và xuất phát từ lòng yêu thương hay không. Nếu không phải như vậy, chúng ta chỉ càng làm cho tội nhân hư mất cách xa với Đấng Christ hơn nữa!
Có mọi lý do cho thấy tại sao Cơ Đốc nhân phải yêu mến và hiệp một với nhau. Chúng ta cùng tin nơi một Đấng Christ và cùng dự phần một sự vinh hiển. Ngày kia, chúng ta cũng sẽ chung hưởng một thiên đàng! Chúng ta thuộc về một Cha, muốn thực hiện cùng một công việc làm chứng cho thế giới hư mất rằng chỉ có Chúa Giê-xu mới có thể cứu họ khỏi tội lỗi. Chúng ta tin nơi một chân lý dù có thể nhìn theo những quan điểm khác nhau về một số vấn đề giáo lý thứ yếu, nhưng chúng ta có nhiều quan điểm chung và điều này đáng phải khích lệ chúng ta yêu mến nhau để gây dựng sự hiệp một thuộc linh chân thật.
Tôi thường sử dụng Gi 17:24 cho bài giảng luận trong tang lễ. Bạn có biết Cơ Đốc nhân đến thiên đàng bằng cách nào không? Chính bởi cái giá Chúa Giê-xu đã trả (Gi 3:14-16), lời hứa Ngài đã phán (Gi 14:1-6) và lời cầu nguyện Ngài đã trình dâng Cha (Gi 17:24). Cha luôn nhậm lời cầu xin của Con Ngài để chúng ta biết rằng những Cơ Đốc nhân qua đời sẽ đi đến thiên đàng và ngắm xem sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Trong Gi 17:24,25, Chúa Giê-xu không cầu xin Cha điều gì nữa. Ngài chỉ trình cho Cha biết về công việc của Ngài nơi thế gian và đưa ra những lời tuyên bố quan trọng đối với chúng ta. Ngài cho biết rằng thế gian không nhìn biết Đức Chúa Trời nhưng chúng ta biết Ngài qua sự bày tỏ của Con đối với chúng ta. Thế gian chắc hẳn đã có nhiều cơ hội để biết Cha, nhưng thế gian vẫn cứ chọn con đường tối tăm để đi trong sự mù loà và cứng lòng. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta có nhiệm vụ làm chứng cho thế gian hư mất này và rao truyên sứ điệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu cũng rao ra tầm quan trọng của chân lý và tình yêu thương trong Hội Thánh. Cơ Đốc nhân được biết danh Đức Chúa Trời (bản tính Ngài) và cũng được dự phần vào bản tính thiêng liêng ấy. Chúa Giê-xu nói rõ rằng chân lý và tình yêu thương phải đồng hành với nhau (Eph 4:15). Thật hữu lý khi người ta có câu “chân lý không có tình yêu thương sẽ là sự tàn bạo, nhưng tình yêu thương không có chân lý sẽ là sự giả hình”. Trí tuệ con người tăng trưởng khi tiếp nhận lẽ thật, nhưng tấm lòng con người sẽ rộng mở khi ban phát tình yêu. Chỉ có sự hiểu biết thôi sẽ dẫn đến lòng kiêu ngạo (ICo 8:1) và nếu chỉ có tình yêu thương, con người sẽ đi đến những quyết định sai lầm (Phi 1:9-10). Tình yêu của Cơ Đốc nhân không nên là một thứ tình yêu mù quáng!
Khi xem lại bài cầu nguyện này, bạn sẽ thấy có những ưu tiên thuộc linh trong lòng Đấng Christ: sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sự thánh hoá của những người thuộc về Đức Chúa Trời, sự hiệp một của Hội Thánh, công tác rao truyền Phúc Âm cho thế gian hư mất. Ngày nay, chúng ta hãy có sự khôn ngoan để tập trung vào những ưu tiên kể trên.
Sẽ có một ngaỳ, mỗi người trong chúng ta đều phải báo cáo lại công tác của mình.Chúng ta sẽ đứng trước ngai phán xét của Đấng Christ và trình dâng “bản báo cáo tổng kết” của chính mình.
Tôi mong rằng chúng ta sẽ có thể thưa với Chúa: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4).
bottom of page