top of page

GIĂNG (3)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Phúc-Âm



Họ...

...không chỉ khẳng định sự hiểu biết của mình mà còn tuyên bố về đức tin và sự biết chắc của họ. “Chúng tôi biết... chúng tôi tin...” Đây hoàn toàn là câu nói của đức tin, và tôi tin rằng Chúa cũng hài lòng với câu nói ấy. Trong lời cầu nguyện của Chúa được chép ở đoạn kế tiếp, Chúa trình với Cha về các môn-đệ Ngài và về tình trạng thuộc linh của họ (Gi 17:6-8).

Chúa hẳn biết rõ sự yếu đuối của họ, nhưng Ngài cũng thừa nhận ngay những bằng cớ về sự tăng trưởng của họ trong đức tin và sự hiểu biết. Nhưng con người có thể có đức tin, sự thông hiểu, sự trông cậy nhưng vẫn làm Chúa buồn lòng. Nếu chúng ta không đem đức tin vào thực tiễn, ứng dụng sự hiểu biết và yên nghỉ nơi sự trông cậy, chúng ta sẽ thất bại khi gặp thử thách. Đó là điều đã xảy đến với các môn-đệ, và Chúa cho họ biết rằng hoàn cảnh ấy sẽ đến với họ.


Trước đó, Chúa cho Phi-e-rơ biết ông sẽ chối Ngài, nhưng giờ đây Ngài cho tất cả các môn đệ biết họ sẽ lìa bỏ Ngài. Ở đây Giăng không trích dẫn lời tiên tri trong Kinh Thánh Cựu-ước (Xa 13:7) được chép laị ở Mat 26:31 Câu nói này của Chúa có lẽ là lời khuyên Phi-e-rơ đừng đi theo Ngài khi Ngài bị bắt. “Hãy để cho những kẻ này đi” là lời Chúa nói trong vườn (Gi 18:8), khi Ngài biết việc các môn-đệ nấn ná lại sẽ không an toàn cho họ.


Chúa hứa Ngài sẽ chẳng bao giờ lìa bỏ chúng ta (Mat 28:20 He 13:5), vậy mà các môn-đệ lại lìa bỏ Ngài. Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng cùng Chúa đi vào vườn nhưng sau đó họ ngủ say. Chúa biết Ngài được Cha ở cùng. “Ta không ở một mình, nhưng Cha là Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta” (Gi 8:16). “Đấng đã sai ta đến vẫn ở cùng ta chẳng để ta ở một mình” (Gi 8:29). Con được yên ủi biết bao khi biết mình đang làm theo ý muốn Cha và có thể cậy nơi sự giúp sức của Cha.


Tuy nhiên, đã có lúc, Chúa thật sự cảm nhận sự thiếu vắng của Cha: “Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Mat 27:46; Thi 22:1). Khi Chúa gánh tội thay chúng ta, Ngài bị phân cách với Đức Chúa Trời. Ngài chịu sự cô đơn hầu chúng ta chẳng bao giờ ở một mình. Ngài bị lìa bỏ để chúng ta chẳng bao giờ bị bỏ ra ngoài.


Câu 33 là lời tóm tắt, cũng là đỉnh điểm của bài giảng tại Phòng Cao. Vì sao Chúa rao sứ điệp này? Hầu cho các môn đệ có sự bình an giữa thế gian đầy khốn khổ này. Bạn hãy so sánh giữa “ở trong ta” với “ở trong thế gian”. Ở trong Đấng Christ, có sự bình an nhưng ở trong thế gian có sự hoạn nạn. Đây là vị trí ta cần tuyên bố ra: Chúng ta là người ở trong Đấng Christ nên có thể thắng thế gian và mọi sự thù địch của nó.


George Morrison định nghĩa sự bình an là “chủ hữu nguồn tài nguyên thoả đáng”. Trong Chúa Giê-xu, chúng ta có mọi sự mình cần. Nhưng sự bình an cũng phụ thuộc nơi mối liên hệ đúng đắn, vì của cải thuộc linh tuỳ thuộc vào mối liên hệ thuộc linh. Chìa khoá chính là “ở trong ta”. Trong chính bản thân, chúng ta chẳng có gì, nhưng “trong Đấng Christ”, chúng ta có mọi sự mình cần.


Mỗi Cơ-đốc nhân đều là người đắc thắng: “sự thắng hơn thế gian ấy là đức tin của chúng ta” (IGi 5:4). Thế gian muốn thắng hơn chúng ta và đó là lý do Sa-tan “mượn tay” thế gian để bắt bớ và đàn áp Cơ-đốc nhân. Thế gian chỉ muốn chúng ta “rập khuôn” theo nó, chớ không muốn chúng ta khác biệt. Khi chúng ta đầu phục Đấng Christ và tin cậy nơi Ngài, Ngài sẽ giúp chúng ta đắc thắng. Chúng ta phải xác nhận địa vị thuộc linh của mình trong Đấng Christ và tin Ngài để được đắc thắng.


“Hãy vững lòng” là lời yên ủi của Chúa được lập lại nhiều lần, nghĩa là “hãy vui mừng! ”. Cũng có câu “hãy vững lòng” nói về sự tha tội của Chúa (Mat 9:1-8), về quyền năng Ngài (Mat 9:18-22) và về sự hiện diện của Ngài (Mat 14:22-27). Trong Gi 16:33 này Chúa rao ra niềm vui về sự đắc thắng của Ngài đối với thế gian. Chúng ta cũng là kẻ đắc thắng vì Chúa trước hết đã chiến thắng thay chúng ta.


Khi xem lại đoạn Kinh Thánh này, chúng ta có thể thấy rằng ba cách giải thích của Chúa hợp nhất với nhau. Ngài bày tỏ một nguyên tắc kỳ diệu: Đức Chúa Trời biến đổi sự buồn rầu ra vui mừng. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ hành động trên đời sống chúng ta khi chúng ta cầu nguyện và tin nơi lời hứa Ngài. Đức Chúa Trời đã định rằng công việc Ngài phải được thực hiện qua sự cầu nguyện với lòng tin cậy. Chúng ta sẽ không thể cầu nguyện có hiệu quả nếu không xác nhận ra địa vị đắc thắng của mình trong Đấng Christ.


Câu 33 cũng là câu mở đầu cho lời cầu nguyện của Chúa như Thầy tế lễ thượng phẩm cao trọng. Ngài từng dạy dỗ về Lời Đức Chúa Trời cho các môn đệ và giờ đây Ngài cầu nguyện cho họ. Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện phải luôn đi đôi với nhau (Công 6:4). Chúa dùng từ “thế gian” 17 lần trong lời cầu nguyện này, vì qua đó Ngài bày tỏ cho chúng ta biết cách đắc thắng thế gian. Chính Ngài đã đương đầu với sự ghen ghét của thế gian và ma quỉ, nhưng Ngài có thể chịu đựng sự thương khó ấy và đắc thắng.


Có sự vui mừng khi chúng ta bằng lòng để Đức Chúa Trời biến đổi sự buồn rầu thành vui mừng. Có sự vui mừng khi chúng ta được Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện. Và cũng có sự vui mừng khi chúng ta đắc thắng thế gian.


Hãy vui mừng!



 


18. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA ĐẤNG ĐẮC THẮNG (Gi 17:1-26)


Hầu hết các học giả Kinh Thánh đều muốn bốn sách Phúc-Âm được hài hoà với lời cầu nguyện của Chúa (được chép trong Gi 17:1-26) tại Phòng Cao sau khi chấm dứt lời giảng dạy cho các môn-đệ. Sau đó, Ngài cùng môn-đệ hát thánh thơ về lễ Vượt Qua của dân Y-sơ-ra-ên, rời phòng cao, đến vườn Ghết-sê-ma-nê nơi Chúa thường gặp các môn-đệ, và Ngài cầu nguyện (Mat 26:30-46; Mac 14:26-42).


Dù Chúa cầu nguyện nơi Phòng Cao hay trong vườn Ghết-sê-ma-nê, đó vẫn là lời cầu nguyện vĩ đại nhất trên đất và cũng là lời cầu nguyện vĩ đại nhất được chép trong Kinh Thánh. Giăng 17 hẳn là đoạn thiêng liêng nhất trong cả Phúc-Âm. Chúng ta phải xem đoạn Kinh Thánh này trong tinh thần khiêm cung và thờ phượng.Chúng ta được đặc ân lắng nghe Con Đức Chúa Trời thưa chuyện cùng Cha Ngài trước khi Ngài sắp phó mạng sống mình làm giá cứu chuộc tội nhân.


Cho dù hoàn cảnh nào đã xảy đến vào đêm ấy, lời cầu nguyện của Chúa chứng tỏ Ngài đã và đang là Đấng chiến thắng, Ngài không phải là một “nạn nhân, Ngài là Đấng đắc thắng!” Ngài khích lệ các môn-đệ rằng: “Hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!” (Gi 16:33). Từ thế gian được sử dụng 17 lần trong lời cầu nguyện này, vì vậy rất dễ thấy sự liên hệ giữa lời cầu nguyện của Chúa với Gi 16:33. Nếu bạn với tôi hiểu và áp dụng những chân lý bày tỏ qua lời cầu nguyện sâu sắc này, chúng ta cũng sẽ đắc thắng mọi sự.


Tiến trình của tư tưởng trong lời cầu nguyện này không khó hiểu lắm. Chúa Giê-xu trước hết đã cầu nguyện cho chính Ngài và trình cho Cha biết công việc trên đất của Ngài đã hoàn tất (Gi 17:1-5). Sau đó Ngài cầu thay cho các môn đệ, cầu xin Cha gìn giữ và thánh hóa họ (Gi 17:6-19). Ngài kết thúc lời cầu nguyện khi cầu thay cho bạn, cho tôi và cả Hội thánh, hầu cho chúng ta có thể hiệp một trong Ngài và dự phần vinh hiển của Ngài trong tương lai (Gi 17:20-26).


Vì sao Chúa cầu nguyện những lời này? Chắc hẳn Ngài muốn chuẩn bị cho chính mình để chịu sự thương khó sắp đến. Khi Ngài nghĩ đến sự vinh hiển Cha đã hứa, Ngài nhận được sức mới để chịu sự thương khó (He 12:1-3). Ngài cũng nhớ đến các môn-đệ (Gi 17:13). Lời cầu nguyện này yên ủi các môn đệ biết bao! Ngài cầu xin cho các môn-đệ để họ được bình an, vui mừng, hiệp một và được vinh hiển trong tương lai. Ngài cũng cầu nguyện cho chúng ta hôm nay, hầu cho chúng ta có thể biết mọi điều Ngài làm cho chúng ta và ban cho chúng ta, cũng như mọi điều Ngài sẽ làm cho chúng ta khi chúng ta đến thiên đàng.


Trong lời cầu nguyện này, Chúa bày tỏ 4 đặc ân kỳ diệu chúng ta có trong địa vị con cái Ngài, những đặc ân giúp chúng ta đắc thắng.


1. Chúng ta dự phần sự sống của Chúa (Gi 17:1-5)

Mở đầu bài cầu nguyện Chúa cầu xin cho chính Ngài, nhưng trong sự cầu xin cho bản thân, Chúa cũng cầu thay cho chúng ta.

Tiến sĩ R. A. Torrey nói rằng: “Một lời cầu nguyện cho bản thân chưa hẳn là lời cầu nguyện ích kỷ”.

Khi xem xét những lời cầu nguyện trong Kinh Thánh, ta sẽ thấy rằng câu nói trên rất hợp lý. Gánh nặng của Chúa là sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và sự vinh hiển ấy được bày tỏ qua công việc Chúa hoàn tất trên cây thập tự. Vì đầy tớ của Đức Chúa Trời có toàn quyền cầu xin Cha Ngài giúp đỡ để làm vinh hiển danh Cha.

“Danh Cha được nên thánh” là lời đầu tiên trong bài cầu nguyện chung (Mat 6:9) và đó cũng là vấn đề Chúa trình bày đầu tiên trong lời cầu nguyện của Ngài.


Câu “Thưa Cha, giờ đã đến” nhắc ta nhớ rằng nhiều lần trong Phúc-âm Giăng đề cập đến từ “giờ” bắt đầu ở Gi 2:4 (xem đoạn 1 của Phúc-âm Giăng) Chúa Giê-xu đã sống theo một thời gian biểu từ trời khi Ngài hiện diện trên đất và Ngài biết Ngài đang làm theo ý Cha. “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa” (Thi 31:15).


Từ quan trọng “vinh hiển” được sử dụng bốn lần trong phân đoạn này, nên chúng ta phải phân biệt cẩn thận những lần Chúa đề cập đến từ “vinh hiển” với ý khác nhau. Trong Thi 17:5 Ngài nhắc đến sự vinh hiển Ngài vốn có từ trước nơi Cha, là sự vinh hiển Ngài vui lòng từ bỏ khi giáng sinh nơi thế gian để hầu việc, chịu thương khó và chết.

Trong Gi 17:4, Ngài thưa với Cha rằng đời sống và chức vụ trên đất của Ngài đã làm vinh hiển danh Cha, vì Ngài đã hoàn thành công việc Cha giao cho. Trong Gi 17:1,5, Chúa cầu xin Cha ban lại cho Ngài sự vinh hiển vốn có của Ngài, hầu cho Con Đức Chúa Trời có thể làm vinh hiển Cha khi trở về thiên đàng.


Từ “vinh hiển” được sử dụng 7 lần trong lời cầu nguyện này, vì vậy sự vinh hiển là chủ đề chính. Chúa đã làm vinh hiển Cha qua những phép lạ Ngài làm (Gi 2:11; Gi 11:40) nhưng chắc hẳn sự vinh hiển vĩ đại nhất Ngài dành cho Cha được thể hiện qua sự thương khó và sự chết của Ngài (Gi 12:23-25; Gi 13:31-32).

Theo quan điểm con người, Gô-gô-tha là nơi phô bày tội lỗi kinh khiếp của loài người, nhưng đối với Đức Chúa Trời, thập tự giá đã bày tỏ và tôn cao ân phước cũng như sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu biết trước về việc Ngài sẽ trở về trời khi nói rằng “Con... làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4). “Công việc” này bao gồm những sứ điệp và phép lạ Ngài thực hiện trên đất (Gi 5:17-19), việc huấn luyện dạy dỗ các môn đệ để chuẩn bị cho chức vụ của họ trong tương lai, và quan trọng nhất là sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá (Hêb 9:24-28; Hêb 10:11-18).


Trên nền tảng của “công việc” đã được hoàn tất này, tín hữu chúng ta được ban cho sự sống đời đời (Hêb 17:2-3). Từ “ban cho” được sử dụng nhiều lần trong lời cầu nguyện của Chúa. Có 6 lần Ngài nói rằng những người tin nhận là tặng phẩm của Cha cho Con (Gi 17:2,6,9,11,12,24). Chúng ta thường nghĩ về Chúa Giê-xu như tặng phẩm của Đức Chúa Trời cho chúng ta (Gi 3:16), còn Chúa lại xác định rằng những kẻ tin nhận là món quà tình yêu Cha ban cho Con yêu dấu của mình!


“Sự sống đời đời” là một chủ đề quan trọng trong Phúc-âm Giăng được nhắc đến ít nhất 17 lần. Sự sống ấy là “món quà vô điều kiện” Đức Chúa Trời ban cho những ai tin nơi Con Ngài (Gi 3:15-16; Gi 6:47; Gi 10:28). Cha cũng cho Con quyền ban sự sống đời đời trên những kẻ Cha giao cho Con.

Đối với con người, chúng ta nhận được món quà của sự sống đời đời khi tin nhận Chúa Giê-xu. Nhưng theo quan điểm Đức Chúa Trời, chúng ta là những người được Đức Chúa Trời chọn lựa và giao cho Con Ngài (Chúa Giê-xu). Đây là một sự mầu nhiệm mà trí tuệ con người không thể hiểu đầy đủ hoặc giải thích được. Chúng ta phải tiếp nhận điều ấy bằng đức tin!


Nhưng “sự sống đời đời” là gì? Đó là việc nhìn biết Đức Chúa Trời của mỗi cá nhân.Không chỉ biết Ngài, con người còn phải có mối liên hệ mật thiết với Ngài bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu. Chúng ta không thể biết Cha mà không biết Con (Gi 14:6-11). “Tin Đức Chúa Trời” chưa đủ, vì điều đó không bao giờ cứu được tội nhân hư mất khỏi hoả ngục đời đời.

“Ma quỷ cũng tin như vậy và run sợ” (Gia 2:19). Lời bàn luận của Chúa Giê-xu trước các quan Do-thái cho thấy rõ con người có thể rất mộ đạo nhưng vẫn không biết Đức Chúa Trời. Sự sống đời đời không phải là điều chúng ta tạo ra được bởi phẩm cách hay đạo đức của riêng mình. Đó là món quà chúng ta đón nhận khi nhìn biết mình là tội nhân, ăn năn và tin cậy nơi một mình Chúa Giê-xu mà thôi.


Cha nhậm lời cầu xin của Con và ban sự vinh hiển cho Con. Hôm nay, nơi thiên đàng có sự hiện diện của một Con người vinh hiển, Con người ra từ Đức Chúa Trời, đó là Chúa Giê-xu! Bởi Ngài được vinh hiển nơi thiên đàng, nên tội nhân trên đất có thể được cứu rỗi. Bất cứ ai tin cậy Chúa Giê-xu sẽ đón nhận món quà của sự sống đời đời.


Vì chúng ta có sự sống của Chúa, nên luôn đắc thắng. Chúng ta cũng sự phần sự đắc thắng của Ngài!

“Hễ sự gì sinh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian và sự thắng hơn thế gian, ấy là đức tin của chúng ta” (IGi 5:4).

Khi được sinh ra lần đầu tiên, bạn thuộc dòng dõi “A-đam” và là kẻ hư mất.

Khi bạn được tái sinh bởi đức tin nơi Đấng Christ, bạn là người đắc thắng! Sa-tan luôn tìm cách che khuất chân lý quý báu về công việc được làm trọn của Đấng Christ, vì nó biết rằng đây là nền tảng cho sự đắc thắng thuộc linh. “Chúng đã thắng nó (Sa-tan) bởi huyết Chiên Con” (Kh 12:11). Đừng để Sa-tan tước mất nơi bạn quyền năng đắc thắng bởi công việc Chúa Giê-xu đã làm trọn!


2. Chúng ta biết danh Ngài (Gi 17:6-12)

Chúa Giê-xu được ban cho sự sống đời đời của chính Ngài (Gi 17:2). Nhưng Ngài cũng bày tỏ cho các môn-đệ về danh Cha Ngài (Gi 17:6). Dân Do-thái thời Cựu-ước từng biết danh Đức Chúa Trời của họ là “Giê-hô-va”, (Exe 3:11-14).

Chúa Giê-xu từng phán về Ngài khi sử dụng những chữ “TA LÀ...” để các môn-đệ hiểu ý nghĩa của Lời Ngài: “Ta là bánh của sự sống” (Gi 6:35) “Ta là sự sáng của thế gian” (Gi 8:12) “Ta là người chăn chiên hiền lành” (Gi 10:11) v.v.. Nói cách khác, Chúa đã bày tỏ danh vinh hiển của Cha Ngài khi cho các môn-đệ biết Ngài là tất cả những gì họ cần.


Nhưng danh Cha không chỉ bao hàm có thể, vì Chúa Giê-xu cũng cho môn đệ biết Đức Chúa Trời là Cha trên trời của họ. Từ “Cha” được sử dụng 53 lần trong Gi 13:1-17:26 và 122 lần trong toàn sách Phúc-âm Giăng. Qua những sứ điệp Chúa rao cho dân Do-thái, Ngài giải thích rằng Cha đã sai Ngài đến, Ngài là một với Cha, Lời Ngài từ Cha mà đến. Đó là lời tuyên bố rõ ràng về thần tính Chúa, nhưng dân sự không muốn tin Ngài.


Trong Kinh Thánh, “danh” thường chỉ về “bản tính”, vì đa số các tên gọi đều được dùng để bày tỏ, bản tính đặc biệt của người mang tên ấy. Gia-cốp là người “mưu mô”nên tên của ông theo tên gốc Do-thái nghĩa là “chiếm vị”, gài bẫy” hoặc “lừa dối” (Sa 25:26). Tên của Y-sác nghĩa là “vui cười” (Sa 21:6) vì ông đã khiến cho Áp-ra-ham và Sa-ra vui mừng. Tên của Chúa Giê-xu cũng bày tỏ rằng Ngài là Đấng Christ (Mat 1:21).


“Con đã tỏ danh Cha ra” có nghĩa là “Con đã bày tỏ bản tính của Cha”. Giãi bày “về Cha là một trong những công việc của Con (Gi 1:18). Theo tiếng Hy-lạp “giãi bày” có nghĩa như “bộc lộ, dẫn dắt, chỉ đường. Chúa Giê-xu không bày tỏ Cha một cách bất ngờ trong ánh sáng rực rỡ của sự vinh hiển, vì các môn-đệ không thể “chịu nổi” kinh nghiệm này. Dần dần, qua lời Ngài và việc Ngài làm, Ngài bày tỏ cho họ biết bản tính Đức Chúa Trời khi họ có thể tiếp nhận được (Gi 16:12).


Trọng tâm của phân đoạn này nói về sự bình an của người tin Chúa Đức Chúa Trời luôn gìn giữ những người thuộc về Ngài (Gi 17:11-12). Sự bình an chúng ta có không tuỳ thuộc nơi phẩm cách hay đạo đức của bản thân chúng ta, nhưng do nơi bản tính Đức Chúa Trời. Khi sống trên đất, Chúa Giê-xu đã gìn giữ các môn đệ để họ có thể nhờ cậy nơi Ngài.

“Con gìn giữ họ trong danh Cha” (Gi 17:12).

Nếu Đấng Christ bị hạn chế trong thân vị con người, còn có thể gìn giữ các môn-đệ khi Ngài sống trên đất, vậy Ngài há không thể giữ họ ngay hôm nay khi Ngài được vinh hiển nơi thiên đàng hay sao? Cha, Con và Đức Thánh Linh hẳn có thể bảo vệ và ban sự bình an cho mọi kẻ thuộc về Đức Chúa Trời!


Hơn thế, những người thuộc về Đức Chúa Trời là tặng phẩm của Cha cho Con. Lẽ nào Cha lại ban cho Con món quà không có giá trị bền lâu? Các môn-đệ đã thuộc về Cha qua sự thọ tạo và giao-ước Ngài (vì họ là người Do-thái), nhưng giờ đây họ cũng thuộc về Con. Trước mặt Chúa, chúng ta có giá trị biết bao! Ngài không những gìn giữ chúng ta mà còn cầu thay chúng ta nữa! Khi nào bạn cảm thấy Chúa “quên” bạn, hay tình yêu Ngài dường như “quá xa”, hãy đọc Rô 8:28-29 để có sự vui mừng!


Sự bình an của chúng ta cũng thể hiện ở phương diện khác: chúng ta phải tôn vinh Chúa (Gi 17:10). Qua mọi thất bại và lầm lỗi, các môn đệ vẫn được đề cao: “Con nhân họ được tôn vinh”.

Liệu Đức Chúa Trời có được vinh hiển khi một người nào đó thuộc về Ngài, tin nơi Chúa Giê-xu, nhưng không thể đến được thiên đàng? Hẳn là không! Khi dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, Môi-se luận rằng: “Sao để cho người Ê-díp-tô nói rằng: Ngài đưa chúng nó ra khỏi xứ đặng làm hại cho, giết đi tại trong núi, cùng diệt chúng nó khỏi mặt đất?” (Xu 32:12). Đức Chúa Trời dĩ nhiên biết rõ mọi sự, vậy sao Ngài cứu họ khi biết họ sẽ sa ngã trên đường? Điều gì Đức Chúa Trời đã bắt đầu thực hiện, Ngài sẽ làm cho trọn (Phi 1:6).


Đức Chúa Trời chu cấp cho chúng ta mọi nguồn tài nguyên thiêng liêng để tôn vinh Ngài và giữ lòng trung tín. Chúng ta có Lời Ngài (Gi 17:7-8) và Lời ấy bày tỏ cho chúng ta mọi điều mình có trong Chúa Giê-xu, giúp ta được trung tín và vững lòng. Chúng ta cũng có Con Đức Chúa Trời là Đấng cầu thay cho mình (Gi 17:9; Rô 8:34; He 4:14-16). Vì Cha luôn nhậm lời Con (Gi 11:41-42) nên sự cầu thay này giúp chúng ta có sự bình an và lòng vững vàng.


Chúng ta cũng có mối thông công với Hội thánh “để họ cũng hiệp làm một như chúng ta vậy” (Gi 17:11). Kinh Thánh Tân Ước không nói đến những tín đồ sống biệt lập! Bất cứ nơi đâu bạn thấy có sự hiện diện của các thánh đồ, họ đều ở trong mối thông công với nhau.

Vì sao? Vì con cái Đức Chúa Trời luôn cần đến nhau. Mở đầu bài giảng tại Phòng Cao, Chúa Giê-xu đã rửa chân các môn-đệ dạy họ tinh thần phục vụ lẫn nhau. Trong những giờ phút sắp tới, họ (trong đó có cả Phi-e-rơ “đầy tự tin”) sẽ khám phá sự yếu đuối của mình và cần đến sự yên ủi của nhau.


Vậy, người tin Chúa được vững lòng trong Đấng Christ vì nhiều lý do: bản chất Đức Chúa Trời, bản chất sự cứu rỗi, vinh hiển Đức Chúa Trời, sự cầu thay của Chúa Giê-xu. Vậy còn Giu-đa thì sao? Anh ta có vững lòng chăng? Anh ta vấp ngã ra sao? Vì sao Chúa Giê-xu không giữ Giu-đa trong sự bình an? Vì một lý do đơn giản: Giu-đa chưa từng thuộc về Đấng Christ. Chúa Giê-xu luôn trung tín gìn giữ mọi kẻ Cha giao cho Ngài, nhưng Giu-đa không phải là kẻ Cha đã ban cho Con (Gi 18:8-9). Giu-đa không phải là người tin Chúa (Gi 6:64-71), chưa từng được tinh sạch (Gi 13:11), không thuộc trong số người được chọn (Gi 13:18).


Giu-đa không phải là điển hình về một tín đồ đã “đánh mất sự cứu rỗi” dành cho mình. Anh ta là mẫu người vô tín, khoe khoang sự cứu rỗi nhưng cuối cùng để lộ ra bộ mặt của kẻ giả dối. Chúa Giê-xu luôn gìn giữ mọi kẻ Cha giao cho Ngài (Gi 10:26-30)!


Chúng ta đắc thắng vì có sự sống của Chúa. Chúng ta cũng có một đặc quyền thứ ba để đắc thắng:


3. Chúng ta có Lời Chúa (Gi 17:13-19)

“Con đã truyền lời Cha cho họ” (Gi 17:14; Gi 17:8). Lời Chúa là tặng phẩm của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Cha đã truyền cho Con Lời Ngài (Gi 17:8) để Con phán với các môn-đệ sau đó các môn-đệ loan báo cho chúng ta khi được sự hà hơi của Đức Thánh Linh (IIPhi 1:20-22; IITi 3:16).

Chúng ta đừng xem nhẹ Lời Đức Chúa Trời, vì những ai đắc thắng đều có Lời Đức Chúa Trời và biết cách sử dụng nó trong đời sống hằng ngày.


Lời Đức Chúa Trời giúp chúng ta đắc thắng thế gian ra sao? Trước hết, Lời Ngài ban cho chúng ta sự vui mừng (Gi 17:13) và sự vui mừng đầy dẫy trong lòng sẽ giúp ta có sức mạnh để đắc thắng (Ne 8:10). Chúng ta thường nghĩ về Chúa Giê-xu ở phương diện là “người từng trải sự buồn bực” (Es 53:3), và đúng như vậy. Nhưng Ngài cũng là con người nếm biết sự vui mừng sâu sắc, sự vui mừng vĩnh cửu. Gi 17:13 chính là trọng tâm của lời cầu nguyện này và chủ đề của nó là sự vui mừng!


Chúa Giê-xu đã nói đến sự vui mừng của Ngài trước đó (Gi 15:11) và giải thích rằng sự vui mừng xuất phát từ sự biến đổi chớ không phải sự thay thế (Gi 16:20-22). Sự vui mừng cũng đến từ lời cầu nguyện được nhậm (Gi 16:23-24). Giờ đây Ngài bày tỏ rằng niềm vui cũng đến từ Lời Đức Chúa Trời. Người tin Chúa sẽ không tìm thấy sự vui mừng trong thế gian nhưng nơi Lời Đức Chúa Trời. Giống như Giăng Báp-tít, chúng ta hãy vui mừng hân hoan khi nghe tiếng của Chàng Rể (Gi 3:29)!


Chúng ta đừng phác hoạ một Chúa Giê-xu đi tới lui với vẻ mặt buồn bã! Ngài là Con người đầy dẫy sự vui mừng nên Ngài bày tỏ sự vui mừng cho kẻ khác. Niềm vui của Ngài không phải là sự khinh suất thoáng qua đối với một thế giới tội lỗi nhưng là sự vui mừng bất tận nơi Cha trên trời và Lời Ngài. Chúa Giê-xu không bị lệ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài nhưng cậy nơi những nguồn tâm linh ẩn chứa trong Lời Đức Chúa Trời. Đây là sự vui mừng Ngài muốn chúng ta có, nên chúng ta có thể tìm được sự vui mừng ấy qua Lời Ngài “Lời Ngài là sự vui mừng hớn hở của lòng tôi vậy” (Gie 15:16).

Tôi vui mừng về đường chứng cớ Chúa, như thể vui mừng về của cải hiếm hiệm” (Thi 119:11).

“Tôi vui vẻ về lời Chúa, khác nào kẻ tìm được mồi lớn” (Thi 119:162).


Lời Đức Chúa Trời không chỉ truyền đạt niềm vui của Chúa Giê-xu, nhưng cũng đảm bảo cho chúng ta về tình yêu của Ngài (Gi 17:14). Thế gian ghen ghét chúng ta, nhưng chúng ta có thể đối diện với sự ghen ghét ấy bằng chính tình yêu của Đức Chúa Trời, một tình yêu được truyền đạt cho chúng ta bởi Đức Thánh Linh qua Lời Đức Chúa Trời. Thế gian ghen ghét chúng ta vì chúng ta không thuộc về thế gian (Gi 15:18-19), không rập khuôn theo những việc làm và tiêu chuẩn của nó (Rô 12:2). Lời Đức Chúa Trời cho chúng ta hiểu rõ về thế gian, phơi trần những dối trá và mưu kế hiểm độc của nó.


Thế gian luôn tranh chiến với tình yêu của Đức Chúa Trời (IGi 2:15-17) nhưng Lời Đức Chúa Trời giúp ta nhận được tình yêu của Ngài. Bước đi đầu tiên khiến con người hướng về lối sống thế gian, đó là xao lãng Lời Đức Chúa Trời.

Moody đã viết ở bìa trước cuốn Kinh Thánh của ông: “Quyển sách này sẽ giữ bạn cách xa tội lỗi, nếu không, tội lỗi sẽ giữ bạn xa cách với sách này”. Đối với dân Ai-cập trụ lửa giống như bóng tối nhưng đó lại là ánh sáng soi đường dân Do-thái.Vì vậy, lời Đức Chúa Trời là sự sáng cho chúng ta giữa thế giới tối tăm này nhưng thế gian không hiểu gì về những điều thuộc về Đức Chúa Trời (Xu 14:20; ICôr 2:12-16).


Lời Đức Chúa Trời không chỉ đem đến tình yêu và sự vui mừng cho chúng ta, nhưng lời Ngài cũng truyền đạt quyền năng Đức Chúa Trời để chúng ta có một đời sống thánh khiết (Gi 17:15-17). Những gánh nặng Chúa dâng lên Cha trong lời cầu nguyện của Ngài (Gi 17:6-12) là sự yên ủi, cũng là sự thánh khiết được ứng dụng qua đời sống tin kính để làm sáng danh Đức Chúa Trời.

Chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nên chúng ta đừng rập khuôn theo thế gian. Đôi khi chúng ta cho rằng “sống cách biệt với thế gian” dễ chịu hơn sống ở thế gian, nhưng sự thật không phải thế. Dù đi đâu, bản ngã tội lỗi vẫn “đồng hành” với chúng ta, và quyền của sự tối tăm cứ bén gót theo chúng ta. Tôi từng chứng kiến một số người sống trong sự “cách biệt” để trở nên thánh khiết hơn, nhưng chỉ khám phá ra rằng điều ấy chẳng có tác dụng gì.


Sự thánh hoá thật (nghĩa là được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời) là kết quả của việc rao truyền lời Đức Chúa Trời. “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho” (Gi 15:3). Khi được cứu, đó là lúc bạn được Đức Chúa Trời biệt riêng ra.Khi trưởng thành trong đức tin, bạn sẽ càng kinh nghiệm nhiều hơn về sự thánh hoá. Bạn sẽ yêu mến Đức Chúa Trời nhiều hơn tội lỗi, muốn hầu việc Ngài để đem phước hạnh đến cho tha nhân. Mọi sự đều đến từ Lời Đức Chúa Trời.


Chân lý của Đức Chúa Trời được bày tỏ cho chúng ta qua ba hình thức: Lời Ngài là chân lý (Gi 17:17) Con Ngài là chân lý (Gi 14:6) và Thánh Linh Ngài là chân lý (IGi 5:6). Chúng ta cần cả ba trên để kinh nghiệm được sự thánh hoá thật, một sự thánh hóa tác động đến cả con người bên trong chúng ta. Bằng trí tuệ chúng ta học biết lẽ thật của Đức Chúa Trời qua lời Kinh Thánh. Bằng tấm lòng, chúng ta yêu mến chân lý của Đức Chúa Trời, tức là Con Ngài. Bằng ý chí, chúng ta đầu phục Thánh Linh và sống theo chân lý của Đức Chúa Trời mỗi ngày. Cần có tất cả ba để kinh nghiệm sự thánh hoá một cách trọn vẹn.


Nếu chỉ học Kinh Thánh để biết “một mớ” giáo lý vẫn chưa đủ. Chúng ta phải yêu mến Chúa Giê-xu nhiều hơn khi biết về Ngài và những điều Ngài làm cho chúng ta.Việc hiểu biết và yêu mến Chúa phải dẫn đến cách sống, để Thánh Linh Đức Chúa Trời giúp chúng ta vâng theo lời Ngài. Đây là cách chúng ta làm vinh hiển danh Chúa giữa thế giới tội lỗi hôm nay.


Lời Đức Chúa Trời ban cho chúng ta niềm vui, tình yêu và quyền năng sống một đời sống thánh khiết. Lời Ngài cũng chu cấp cho chúng ta mọi sự cần thiết để chúng ta có thể hầu việc và làm chứng về Ngài giữa thế gian này (Gi 17:18-19).

Sự thánh hóa không nhằm mục đích hưởng thụ hay khoe khoang về chính mình, nhưng để chúng ta có thể bày tỏ về Đấng Christ giữa thế gian và dẫn dắt kẻ khác đến với Ngài. Chúa Giê-xu đã biệt riêng chính Ngài cho chúng ta, giờ đây Ngài biệt riêng chúng ta cho Ngài. Cha trên trời đã sai Ngài đến thế gian, giờ đây Ngài cũng sai chúng ta giữa thế gian vậy.

Chúng ta là những người “nhận chỉ thị” nên phải vâng lời! Chúa Giê-xu “được biệt riêng” nơi thiên đàng để cầu thay cho chúng ta, hầu sự chứng đạo của chúng ta đem lại kết quả tốt đẹp khi nhiều người ăn năn tội và trở về cùng Chúa.


Làm sao thế gian có thể thắng hơn chúng ta khi chúng ta có Lời Đức Chúa Trời soi sáng, giúp sức và khích lệ mình?


4. Chúng ta được dự phần sự vinh hiển của Ngài (Gi 17:20-26)

Ở đây, Chúa hướng sự quan tâm của Ngài về tương lai, Ngài bắt đầu cầu nguyện cho chúng ta hôm nay, cho cả Hội thánh trải qua các thời đại. Ngài đã cầu thay về sự vững lòng và thánh hoá, giờ đây mối ưu tư của Ngài là sự hiệp một. Ngài mong những kẻ thuộc về Ngài kinh nghiệm sự hiệp một thuộc linh, giống như sự hiệp một của Cha và con. Các Cơ-đốc nhân có thể có những mối thông công khác nhau, nhưng đều thuộc về Chúa và hiệp một với nhau.


Các môn-đệ thường có tinh thần ích kỷ, cạnh tranh và chia rẽ. Điều này đã làm buồn lòng Đấng Christ. Tôi tự hỏi Chúa sẽ nghĩ gì khi chứng kiến tình trạng của Hội thánh hôm nay. Nhà truyền giáo Thomas Brooks viết: “Sự bất hòa và chia rẽ không khiến người ta trở thành Cơ-đốc nhân. Chó sói quan tâm đến chiên con là điều dĩ nhiên, nhưng chiên con quan tâm lẫn nhau mới là điều kỳ diệu!”


Nền tảng cho sự hiệp một của Cơ-đốc nhân thật là gì? Đó là con người Chúa Giê-xu, công việc và sự vinh hiển của Ngài (Gi 17:2-5). Ngài đã ban cho chúng ta sự vinh hiển của Ngài, Ngài hứa rằng chúng ta sẽ kinh nghiệm nhiều hơn về sự vinh hiển ấy khi chúng ta đến được thiên đàng!

Mọi Cơ-đốc nhân thật đều có sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong đời sống mình. Sự hài hoà của Cơ-đốc nhân không dựa trên những điều thuộc bên ngoài nhưng thuộc về những điều bên trong, những điều thuộc về sự vĩnh cửu của Thánh Linh trong con người. Chúng ta phải nhìn xa hơn những yếu tố về sự ra đời đầu tiên của mình (như chủng tộc, màu da, tài năng...) để xây dựng mối thông công của chúng ta dựa trên những yếu tố thiết thực cho sự tái sinh của mình.


Chúng ta đang có sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong mình (Gi 17:22; Rô 8:29) và ngày kia chúng ta sẽ “ngắm xem sự vinh hiển” ấy tại thiên đàng (Gi 17:24). Khi chúng ta tăng trưởng trong Chúa, sự vinh hiển cũng bắt đầu lớn dần và bày tỏ chính nó qua những điều chúng ta nói và làm, cũng thể hiện qua cách chúng ta nói và làm nữa. Người đời sẽ không thấy và ngợi khen chúng ta, nhưng họ sẽ thấy Chúa và ngợi khen Ngài (Mat 5:16; ICôr 6:19-20).


Một trong những điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho thế gian, đó là cách các Cơ-đốc nhân yêu mến nhau và sống hòa thuận với nhau. Đây là chứng cớ Chúa chúng ta muốn được bày tỏ trong thế gian, “đặng thế gian tin rằng chính Cha đã sai Con đến” (ICôr 17:21). Thế gian hư mất không thể nhìn biết Đức Chúa Trời, nhưng họ có thể nhìn thấy Cơ-đốc nhân, và những gì họ thấy nơi chúng ta sẽ quyết định mức độ niềm tin của họ về Đức Chúa Trời. Nếu nhìn thấy tình yêu thương và sự hiệp một, họ sẽ tin rằng Đức Chúa Trời là tình yêu. Nhưng nếu chứng kiến sự ghen ghét và chia rẽ, họ sẽ khước từ sứ điệp của Phúc-Âm.


Chúa Giê-xu yên ủi chúng ta rằng một số người sẽ tin nhận bởi sự làm chứng của chúng ta (Gi 17:20), tuy nhiên chúng ta phải biết chắc rằng sự làm chứng của mình có mang tính chân thật và xuất phát từ lòng yêu thương hay không. Nếu không phải như vậy, chúng ta chỉ càng làm cho tội nhân hư mất cách xa với Đấng Christ hơn nữa!


Có mọi lý do cho thấy tại sao Cơ-đốc nhân phải yêu mến và hiệp một với nhau. Chúng ta cùng tin nơi một Đấng Christ và cùng dự phần một sự vinh hiển. Ngày kia, chúng ta cũng sẽ chung hưởng một thiên đàng! Chúng ta thuộc về một Cha, muốn thực hiện cùng một công việc làm chứng cho thế giới hư mất rằng chỉ có Chúa Giê-xu mới có thể cứu họ khỏi tội lỗi. Chúng ta tin nơi một chân lý dù có thể nhìn theo những quan điểm khác nhau về một số vấn đề giáo lý thứ yếu, nhưng chúng ta có nhiều quan điểm chung và điều này đáng phải khích lệ chúng ta yêu mến nhau để gây dựng sự hiệp một thuộc linh chân thật.


Tôi thường sử dụng Gi 17:24 cho bài giảng luận trong tang lễ. Bạn có biết Cơ-đốc nhân đến thiên đàng bằng cách nào không? Chính bởi cái giá Chúa Giê-xu đã trả (Gi 3:14-16), lời hứa Ngài đã phán (Gi 14:1-6) và lời cầu nguyện Ngài đã trình dâng Cha (Gi 17:24). Cha luôn nhậm lời cầu xin của Con Ngài để chúng ta biết rằng những Cơ-đốc nhân qua đời sẽ đi đến thiên đàng và ngắm xem sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.


Trong Gi 17:24,25, Chúa Giê-xu không cầu xin Cha điều gì nữa. Ngài chỉ trình cho Cha biết về công việc của Ngài nơi thế gian và đưa ra những lời tuyên bố quan trọng đối với chúng ta. Ngài cho biết rằng thế gian không nhìn biết Đức Chúa Trời nhưng chúng ta biết Ngài qua sự bày tỏ của Con đối với chúng ta. Thế gian chắc hẳn đã có nhiều cơ hội để biết Cha, nhưng thế gian vẫn cứ chọn con đường tối tăm để đi trong sự mù loà và cứng lòng. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta có nhiệm vụ làm chứng cho thế gian hư mất này và rao truyên sứ điệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời.


Chúa Giê-xu cũng rao ra tầm quan trọng của chân lý và tình yêu thương trong Hội thánh. Cơ-đốc nhân được biết danh Đức Chúa Trời (bản tính Ngài) và cũng được dự phần vào bản tính thiêng liêng ấy. Chúa Giê-xu nói rõ rằng chân lý và tình yêu thương phải đồng hành với nhau (Eph 4:15).

Thật hữu lý khi người ta có câu “chân lý không có tình yêu thương sẽ là sự tàn bạo, nhưng tình yêu thương không có chân lý sẽ là sự giả hình”. 

Trí tuệ con người tăng trưởng khi tiếp nhận lẽ thật, nhưng tấm lòng con người sẽ rộng mở khi ban phát tình yêu. Chỉ có sự hiểu biết thôi sẽ dẫn đến lòng kiêu ngạo (ICôr 8:1) và nếu chỉ có tình yêu thương, con người sẽ đi đến những quyết định sai lầm (Phi 1:9-10). Tình yêu của C-đốc nhân không nên là một thứ tình yêu mù quáng!


Khi xem lại bài cầu nguyện này, bạn sẽ thấy có những ưu tiên thuộc linh trong lòng Đấng Christ: sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sự thánh hóa của những người thuộc về Đức Chúa Trời, sự hiệp một của Hội thánh, công tác rao truyền Phúc-Âm cho thế gian hư mất. Ngày nay, chúng ta hãy có sự khôn ngoan để tập trung vào những ưu tiên kể trên.


Sẽ có một ngaỳ, mỗi người trong chúng ta đều phải báo cáo lại công tác của mình. Chúng ta sẽ đứng trước ngai phán xét của Đấng Christ và trình dâng “bản báo cáo tổng kết” của chính mình.


Tôi mong rằng chúng ta sẽ có thể thưa với Chúa: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4).



 


19. TỘI LỖI VÀ ÂN ĐIỂN NƠI VƯỜN GHẾT-SÊ-MA-NÊ (Gi 18:1-27)


Chức vụ đặc biệt của Chúa đối với các môn-đệ giờ đây đã chấm dứt, và công tác cứu chuộc nhân loại sắp bắt đầu. Con người đã làm điều xấu xa nhất, nhưng Đức Chúa Trời sẽ đáp lại bằng điều tốt đẹp nhất.

“... Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Rô 5:20).


Để hiểu những chân lý trong Gi 18:1-27 và nắm vững những bài học ẩn chứa trong đó, cách tốt nhất là chúng ta hãy chú ý đến những biểu tượng có liên quan trong đoạn Kinh Thánh này. Phúc-âm Giăng đầy dẫy các biểu tượng, trong đó có một số biểu tượng rất rõ nét. Những biểu tượng ấy mang những lẽ thật thuộc linh quan trọng. Qua phân đoạn này, có năm biểu tượng đầy ý nghĩa:


1. Vườn Ghết-sê-ma-nê - Sự vâng phục (Gi 18:1)

Khe Xết-rôn nằm ở phía đông Giê-ru-sa-lem, giữa bức tường thành và núi Ô-li-ve, còn vườn Ghết-sê-ma-nê trên sườn phía tây núi Ô-li-ve. Chúa Giê-xu thường đến vườn này cùng với các môn đệ để nghỉ ngơi và cầu nguyện (Lu 22:39). Thành Giê-ru-sa-lem tập trung khách thập phương đến dự lễ Vượt Qua, nên Chúa Giê-xu muốn lánh xa chốn nhộn nhịp kia để tìm một nơi yên tịnh. Ngài biết Giu-đa sẽ đến tìm Ngài và Ngài đã sẵn sàng.


Lịch sử loài người khởi điểm tại một khu vườn (Sa 2:8) và tại đó lần đầu tiên con người đã phạm tội. A-đam đầu tiên bất tuân mạng lịnh Đức Chúa Trời bị đuổi khỏi vườn. Nhưng “A-đam sau hết” (ICôr 15:45) vâng phục khi bước vào vườn Ghết-sê-ma-nê. A-đam đầu tiên đã đem tội lỗi và sự chết đến cho nhân loại tại khu vườn, nhưng bởi sự vâng phục, Chúa Giê-xu đã đem sự công bình và sự sống đến cho mọi kẻ tin nhận Ngài. Ngài là Con người “vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi 2:8).


Tên gọi “Ghết-sê-ma-nê” có nghĩa là “máy ép dầu”. Hôm nay vẫn có nững cây ô-liu già nơi vườn Ghết-sê-ma-nê, dù đó không phải là những cây ô-li-ve trong thời Chúa Giê-xu. Người ta sẽ hái trái ô-liu để ép lấy dầu. Thật là một hình ảnh của sự thương khó! Vì vậy, Chúa Giê-xu sẽ đi qua cái “máy ép dầu” và “bàn ép rượu – Es 63:3) để nếm sự xét đoán thay chúng ta.


Khe Xết-rôn cũng là hình ảnh có ý nghĩa. Xết-rôn nghĩa là “mờ tối”, nói đến dòng nước sẫm bị nhuộm bởi huyết của con sinh tế trong đền thờ. Chúa cùng các môn đệ sắp vượt qua dòng nước sẫm ấy. Chúa sẽ nếm trải “các lượn sóng và nước lớn” do cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (Thi 42:7; Gion 2:3).


Khe Xết-rôn mang ý nghĩa lịch sử đặc biệt. Đây là nơi vua Đa-vít đã vượt qua khi bị dân tộc mình chối từ và bị con trai là Áp-sa-lôn mưu phản (IISa 15:1-37; Gi 18:23). Chúa Giê-xu cũng bị dân sự Ngài khước từ và bị một môn-đệ phản bội! Đáng chú ý là A-hi-tô-phe mưu sĩ phản bội Đa-vít đã treo cổ (IISa 17:23), còn Áp-sa-lôn con trai bất hiếu của Đa-vít bị vướng vào nhành cây và bị giết trong tình trạng lơ lửng ấy (IISa 18:9-17). Dĩ nhiên, Giu-đa đã ra ngoài và treo cổ (Mat 27:3-10).


Chúa Giê-xu biết rõ mọi điều sẽ xảy đến cho Ngài, nhưng Ngài vẫn đi đến vườn Ghết-sê-ma-nê trong tinh thần vâng phục ý Cha. Ngài để 8 môn đệ ở lại gần cổng vườn, rồi cùng Phi-e-rơ, Gia-cơ với Giăng đến một nơi trong vườn để cầu nguyện (Mat 26:36-46; Mac 14:32-42). Trong giờ khủng hoảng này, tâm thần Ngài ao ước được sự khích lệ và đồng công của các môn đệ, thế mà họ lại đi ngủ! Con người thật dễ dàng khoe khoang sự tận tuỵ của mình đối với Đấng Christ, nhưng khi sự thử nghiệm xảy đến, họ lại thất bại thảm hại. Tuy nhiên, trước khi xét đoán họ gay gắt, chúng ta nên xét lại lòng mình.


2. Cái hôn - Sự phản bội (Gi 18:2-9)

Giu-đa đã sống với Chúa có lẽ gần 3 năm, được nghe Ngài dạy dỗ rất nhiều nhưng vẫn không biết nhiều về Ngài. Kẻ phản bội này thật sự đã dẫn những quân lính canh đền thờ với gươm giáo và gậy gộc trang bị đầy đủ! (Mat 26:55). Giu-đa đã khinh thường những đặc ân Chúa ban cho và đánh mất những cơ hội quý báu.

Từ “cơ binh” ở Mat 18:3 có nghĩa là một đội lính La-mã khoảng 600 người! Dường như không phải Giu-đa đã đem một đám đông như thế đến vườn, nhưng chắc hẳn đám lính này đã được tập hợp sẵn cho Giu-đa theo yêu cầu của hắn. Lẽ nào Giu-đa không biết rằng Chúa Con Đức Chúa Trời sẽ vui lòng phó mình mà chẳng cần có xô xát nào?


Chúa Giê-xu ở tình trạng hoàn toàn tự chủ, Ngài biết mọi điều sắp xảy đến (Gi 13:1,3,11; Gi 16:19). Giu-đa sợ có sự nhầm lẫn, nên tìm cách nhận diện Chúa bằng một cái hôn (Mat 26:48-49). Chúa Giê-xu khiến Giu-đa và những kẻ bắt Ngài đều sửng sốt bởi sự bày tỏ đầy can đảm của Ngài trước mặt họ. Ngài chẳng có lý do gì để sợ hãi hay lẩn trốn, nhưng vui lòng phó sự sống mình vì bầy chiên. Hơn thế, khi phó mình vào tay kẻ thù, Chúa đã bảo vệ được các môn đệ. Ngài giữ họ trong sự bình an không chỉ về phương diện tâm linh (Gi 17:11-12) mà còn về mặt thể xác nữa.


Vì sao quân lính bắt Chúa đều thối lui và té xuống đất khi nghe Ngài phán “Chính ta đây”? Những người Do-thái hiện diện ở đó đến giật mình vì lời phán “Ta là” của Ngài, đó là lời xác nhận thần tính Chúa. Lính La-mã giật mình vì thái độ của Ngài, cho thấy rõ ràng Ngài là Đấng đang nắm quyền điều khiển. Đây thật là một tình huống căng thẳng và chúng ta không biết Giu-đa đã nói gì với họ về Chúa Giê-xu hầu giúp họ đối phó với tình huống này.

Các lãnh đạo Do-thái đã bao lần tìm phương bắt Chúa Giê-xu, nhưng đều thất bại. Họ trang bị cả một cơ binh cho sự chống nghịch này, nhưng đã bị áp đảo tinh thần khi chứng kiến sự phó mình và sự bình tĩnh của Chúa. Có lẽ đây là biểu hiện về quyền năng hoặc sự oai nghiêm của Chúa Giê-xu. “Khi kẻ làm ác, kẻ cừu địch và thù nghịch tôi, xông vào tôi, đặng ăn nuối thịt tôi, thì chúng nó đều vấp ngã” (Thi 27:2).


Nụ hôn Giu-đa dành cho Chúa chắc hẳn là một trong những hành động lừa dối bất nghĩa nhất trong lịch sử con người hoặc lịch sử Hội thánh. Thời đó, nụ hôn biểu hiện cho tình cảm và lòng tận tuỵ. Những thành viên trong gia đình thường hôn nhau khi họp mặt hoặc lúc chia tay, nhưng Giu-đa không phải là người trong gia đình Đức Chúa Trời. Các môn đệ chào thầy họ bằng cái hôn bày tỏ sự tận tụy và vâng lời. Nhưng Giu-đa thật sự không phải là môn-đệ Chúa Giê-xu dù hắn thuộc nhóm môn-đệ Ngài. Tại vườn Ghết-sê-ma-nê, Giu-đa đã đứng về phía kẻ thù, chớ không thuộc về những bạn hữu của Chúa Giê-xu!


Ngày nay khi con người “giả vờ” hiểu biết và yêu mến Chúa Giê-xu họ cũng phạm tội giống như Giu-đa vậy. Phản bội Đấng Christ cũng đủ là một hành động tồi tệ, nhưng thực hiện điều này bằng cái hôn (một dấu hiệu tình cảm) là sự lừa dối hèn hạ nhất, sinh ra từ ma quỷ.


3. Thanh gươm - Sự chống nghịch (Gi 18:10)

Tất cả các môn-đệ trước đây từng xác quyết mạnh mẽ về lòng trung tín của họ đối với Đấng Christ (Mat 26:35). Phi-e-rơ muốn bày tỏ điều đó nên đã nhanh nhẹn rút gươm khiêu chiến! Rõ ràng, ông hiểu sai điều Chúa muốn nói về những thanh gươm trong buổi tối hôm đó (Lu 22:35-38).

Ngài cho các môn-đệ biết trước rằng hoàn cảnh sẽ thay đổi và họ sẽ bị đối xử như kẻ có tội. Ngài không có ý nói rằng họ phải dùng gươm hữu hình chống trả trong trận chiến thuộc linh này. Ngài muốn họ sẵn sàng đương đầu với sự chống đối và hoạn nạn. Ngài lo lắng và bảo vệ họ suốt những năm tháng trên đất, nhưng giờ là lúc Ngài sẽ trở về cùng Cha. Họ sẽ sống nhờ Đức Thánh Linh để có sự khôn ngoan. Phi-e-rơ chỉ tiếp nhận Lời Chúa theo nghĩa đen nên cho rằng mình có nhiệm vụ phải tuyên chiến!


Thanh gươm của Phi-e-rơ tượng trưng cho sự chống nghịch ý muốn Đức Chúa Trời. Phi-e-rơ lẽ ra nên biết rằng Chúa Giê-xu sẽ bị bắt và Ngài vui lòng phó mình trong tay kẻ thù địch (Mat 16:21; Mat 17:22-23; Mat 20:17-19). Phi-e-rơ dễ dàng sai phạm biết bao! Ông đã chiến đấu không đúng kẻ thù, sử dụng vũ khí bất hợp lý với động cơ sai lầm và gặt kết quả thất bại! Phi-e-rơ công khai chống lại ý muốn Đức Chúa Trời và ngăn trở công tác Chúa Giê-xu sắp hoàn tất! Dù chúng ta thừa nhận rằng Phi-e-rơ can đảm và thành thật, nhưng đây là sự bày tỏ lòng sốt sắng thiếu hiểu biết.


Tại sao Phi-e-rơ thất bại thảm hại như vậy? Vì ông đã tranh luận với Chúa khi Ngài cho ông biết rằng ông sẽ chối Ngài vào đêm đó. Phi-e-rơ đã ngủ thay vì phải cầu nguyện, đã lý luận thay vì phải lắng nghe. Ông bắt chước kẻ thù khi trang bị gươm đao! Phi-e-rơ phải khám phá ra rằng gươm Thánh Linh chính là vũ khí tôi tớ Đức Chúa Trời sử dụng trong trận chiến thuộc linh (He 4:12; Eph 6:17). Phi-e-rơ sẽ dùng đến gươm ấy trong lễ Ngũ Tuần và thu phục được 3.000 linh hồn!


Chúa Giê-xu không cần sự bảo vệ của Phi-e-rơ. Ngài có thể triệu tập một đoàn thiên binh nếu Ngài muốn được giải cứu (Mat 26:52-54). Lu-ca cho chúng ta biết Chúa đã chữa lành tai của Man-chu (Lu 22:51), một hành động bày tỏ sự nhân từ Ngài.

Đối với Phi-e-rơ, nếu Chúa không chữa lành tai Man-chu, có lẽ Phi-e-rơ đã bị bắt và bị đóng đinh! Phi-e-rơ hành động như một người Do-thái cực đoan, chớ không giống một môn-đệ của Chúa Giê-xu.


Đây cũng là một hành động nhân từ đối với Man-chu. Xét cho cùng, Man-chu chỉ là một đầy tớ, vậy tại sao phải quan tâm những gì xảy đến với một kẻ tôi tớ. Anh ta cũng là một kẻ thù, đứng chung với bọn bắt Chúa, vậy anh ta phải trả giá! Cũng có thể Man-chu đã thật sự bắt Chúa? Chúng ta không rõ nhưng nếu vậy, anh ta đã tra tay trên Con thánh của Đức Chúa Trời. Dầu vậy, Chúa không xét đoán Man-chu dù anh ta là tội nhân đáng chịu sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời. Ngược lại, Ngài đã chữa lành cho anh ta! Đó là phép lạ sau cùng của Chúa trước mọi người trước khi Ngài bước lên thập giá.


Bạn hãy nhớ rằng phép lạ này cũng bày tỏ sự nhân từ của Chúa đối với chúng ta. Nếu Chúa Giê-xu có quyền năng khiến đám người kia sửng sốt và chữa lành tai Man-chu, vậy Ngài đã có thể tự cứu mình khỏi sự bắt bớ, thương khó và chết. Nhưng Ngài đã vui lòng phó mình! Ngài làm điều ấy vì chúng ta!


Thật đáng buồn cho những tín hữu có thiện ý nhưng thiếu hiểu biết, chỉ muốn dùng gươm để bảo vệ Chúa Giê-xu. Phi-e-rơ đả thương Man-chu, đó là hành động người tin Chúa thật không nên làm. Phi-e-rơ đã gây tác hại cho chứng cớ về Đấng Christ cũng như suy nghĩ lệch lạc rằng môn-đệ Chúa phải ghét kẻ thù và tiêu diệt chúng (xem lời Chúa nói trước Phi-lát trong Gi 18:36).


4. Chén - Sự đầu phục (Gi 18:11-14).

Phi-e-rơ mang trong tay thanh gươm, nhưng Chúa chúng ta có trong tay một chén đắng.Phi-e-rơ chống lại ý muốn Đức Chúa Trời nhưng Đấng Christ làm theo ý Cha Ngài.Trước đó, Chúa cầu nguyện rằng: “Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho chén này lìa khỏi con! Nhưng không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha” (Mat 26:39).

“Chén” bày tỏ sự thương khó Chúa sẽ chịu và sự phân cách với Cha mà Ngài sẽ nếm trải trên thập tự giá. Ngài cầu nguyện điều này ba lần, chứng tỏ Ngài cảm nhận được cái giá Ngài sẽ trả cho sự cứu rỗi chúng ta. Tâm thần Ngài hẳn bối rối đến cao độ khi nghĩ đến việc thế tội cho con người.


Việc uống chén thường được sử dụng trong Kinh Thánh để minh họa sự từng trải thương khó và khốn khổ? Khi dân Ba-by-lôn chiếm thành Giê-ru-sa-lem, thành này đã bị “uống cạn chén thạnh nộ” (Es 51:17). Giê-rê-mi bày tỏ sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời nghịch cùng các nước khi nói về chén rượu được đổ ra (Gie 25:15-28). Cũng có một “chén chia buồn” (Gie 16:7) và “chén đầy tràn” về sự vui mừng (Thi 23:5). Chúa so sánh sự thương khó của Ngài với việc uống chén và làm phép báp-tem (Mat 20:22-23).

Khi lập Tiệc Thánh, Ngài so sánh “chén” với huyết Ngài, là huyết đã đổ ra để chuộc tội con người (Mat 26:27-28). Hình ảnh này rất quen thuộc đối với các môn đệ khi xưa và hôm nay cũng vậy. “Uống chén” có nghĩa là vượt qua một từng trải đầy thử thách. Thật ra một vài giải thưởng được tạo dáng như một chiếu cố cho thấy rằng người thắng cuộc đã trải qua những thử nghiệm khắt khe và đã chịu đựng được tất cả.


Chúa Giê-xu chấp nhận uống chén này vì nó được chính Cha trên trời chuẩn bị sẵn và ban cho Ngài. Chúa không chống lại muốn của Cha, bởi Ngài đã đến thế gian để làm trọn ý Cha và hoàn thành công tác Cha giao cho. “Hỡi Đức Chúa Trời, tôi lấy làm vui mừng làm theo ý muốn Chúa” (Thi 40:8). “Chén” này đã được Cha chuẩn bị và kiểm tra “hàm lượng” chứa trong đó, nên Chúa Giê-xu không có gì để sợ hãi cả!


Đây là một bài học bổ ích cho chúng ta: đừng bao giờ sợ hãi khi nhận “chén” Cha ban cho chúng ta. Đấng Christ đã uống chén trước chúng ta nên chúng ta chỉ việc noi dấu chân Ngài. Chúng ta cũng đừng sợ những gì chứa đựng trong “chén” vì Cha đã chuẩn bị chén ấy cho chúng ta bằng tình yêu. Nếu chúng ta xin “bánh”, Ngài chẳng bao giờ cho chúng ta “đá”. “Chén” mà Ngài dành sẵn sẽ không chứa đựng điều gì bất lợi cho chúng ta cả. Chúng ta có thể chịu khổ và ngã lòng, nhưng Ngài sẽ biến đổi nghịch cảnh ấy thành sự vinh hiển!


Chúa Giê-xu sẵn sàng phó mình vào tay kẻ thù.

Họ trói Ngài và điệu Ngài đến nhà An-ne gần đó. An-ne vốn là thầy tế lễ thượng phẩm đương niên (cho đến khi bị người La-mã truất phế). Giờ đây Cai-phe con rễ ông cũng là thầy tế lễ thượng phẩm. Đức Chúa Trời đã định rằng thầy tế lễ phải hầu việc Đức Chúa Trời trọn đời mình, vì vậy có thể thấy rằng Do-thái giáo bấy giờ đang ở trong tình trạng đáng buồn. Người ta đều biết rằng gia đình thầy tế lễ thượng phẩm này từng “hầu việc” trong đền thờ. Vì vậy, việc Chúa Giê-xu dọn dẹp đền thờ hai lần có lẽ đã khơi dậy lòng ghen ghét của gia đình họ đối với Ngài.


Cuộc thẩm tra trước mặt An-ne chẳng khác nào một cuộc xét không chính thức. Đây là một cuộc xét xử bất hợp pháp và đầy tính hung bạo. Bạn hãy hình dung xem, một tên lính được phép đánh bị cáo! Một kẻ không còn đương nhiệm lại có quyền thẩm tra bị cáo!


Dĩ nhiên, An-ne cố “moi” chứng cớ buộc tội Chúa, nhằm đi đến một sự tuyên án có lợi cho bản thân ông ta Chúa Giê-xu đã dạy dỗ diều gì? Điều đó có mang tính chất phá hoại không? Chúa Giê-xu bảo ông ta hãy hỏi những người đã nghe Ngài giảng dạy vì Ngài không nói điều gì bí mật cả. An-ne cũng có thể đã đích thân đến nghe Chúa giảng dạy rồi!


Còn các môn đệ Chúa thì sao? Phải chăng họ muốn lật đổ nhà cầm quyền? Một người trong số họ chẳng phải đã dùng đến gươm giáo giữa vườn Ghết-sê-ma-nê đó sao? Chúa Giê-xu cẩn trọng không nói điều gì về các môn đệ. Bạn hãy nghĩ xem: Khi Phi-e-rơ ở trong sân thầy tế lễ thượng phẩm đang chối Chúa, đó cũng là lúc Chúa bị tra hỏi nhưng vẫn bảo vệ Phi-e-rơ!


Theo luật pháp Do-thái, những nhân chứng phải được gọi đến trước bị cáo bị hỏi cung. An-ne đã coi thường luật pháp, và sau đó hội đồng các thầy tế lễ đã mướn những nhân chứng giả. Chúa Giê-xu biết quyền lợi của Ngài (đưa ra bằng chứng sai trái của chúng – Gi 18:23) nhưng Ngài không chống lại. Ngài đã nêu một tấm gương hầu chúng ta có thể chịu đựng sự oan ức xảy đến cho mình (IPhi 2:19-24; IPhi 4:12-19).


5. Đống lửa - Sự chối bỏ (Gi 18:15-27)

Chúa Giê-xu đã bảo trước cho Phi-e-rơ rằng ông sẽ chối Ngài ba lần (Gi 13:38; Mat 26:34) nhưng Ngài sẽ phục hồi ông trong mối giao thông và hầu việc Ngài (Lu 22:32). Phi-e-rơ đi theo đám đông chớ không lánh đi (Gi 18:8; Mat 26:30-32).

Nếu Phi-e-rơ lánh khỏi nơi đó, có lẽ ông đã không rơi vào tình trạng chối Chúa. Mặc dù khâm phục tình yêu và lòng can đảm của Phi-e-rơ, chúng ta cũng không thể đồng tình với hành động của ông bởi ông đã bước ngay vào chỗ đầy sự cám dỗ. Đây là điều Chúa đã cho ông biết trong vườn (Mat 26:41).


Chúng ta không biết “một môn-đệ khác” đi với Phi-e-rơ vào sân thầy tế lễ thượng phẩm là ai. Người đó có thể là Giăng, mặc dù thật khó hiểu vì sao một người đánh cá lại quen biết một thầy tế lễ thượng phẩm cùng gia đình người. Người đó có thể là Ni-cô-đem hay Giô-sép ở A-ri-ma-thê? Chắc hẳn họ có quyền đến đây.


Khi theo dõi Phi-e-rơ, bạn sẽ thấy ông dần dần đi vào chỗ bị cám dỗ và phạm tội. Hành động của Phi-e-rơ giống với lời mô tả ở Thi 1:1. Trước hết, Phi-e-rơ đã đứng chung với những kẻ vô tín khi theo Chúa vào trong sân thầy tế lễ thượng phẩm. Lẽ ra, ông phải vâng theo lời Chúa khuyên và lánh khỏi nơi này. Kế đó Phi-e-rơ đứng chung với kẻ thù gần đống lửa (Thi 18:16,18) và trước đó rất lâu ông cũng đã ngồi chung với họ (Lu 22:55). Lúc này đã quá trễ, và chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi ông đã chối Chúa đến ba lần!


Lần thứ nhất, một đầy tớ gái hỏi Phi-e-rơ: “Còn ngươi, cũng là môn-đệ của người đó, phải chăng?” Theo ngôn ngữ Hy-lạp, câu hỏi này cho biết đầy tớ gái đó chờ đợi một câu trả lời phủ định và đó là điều cô ta đã nhận được! Phi-e-rơ chối Chúa khi không thừa nhận mình là môn-đệ Ngài.


Phi-e-rơ luôn ở gần đống lửa, nên dĩ nhiên bị tiếp cận một lần nữa. Một đầy tớ gái khác cũng hỏi một câu tương tự và chờ đợi câu trả lời phủ nhận (Gi 18:25).


Câu hỏi thứ ba do một người bà con của Man-chu đặt ra! . Theo ngôn ngữ Hy-lạp, cấu trúc của câu hỏi này cho biết anh ta chờ đợi một lời đáp khẳng định: “Ta há chẳng từng thấy ngươi ở trong vườn với người sao?” (Gi 18:26). Người này chăm chú nhìn Phi-e-rơ có lẽ vì anh ta đứng gần Man-chu trong lúc Chúa Giê-xu bị bắt. Một số người chứng kiến cũng bàn luận về điều này (Mat 26:73; Mac 14:70), vì vậy Phi-e-rơ bị vây chặt bởi những kẻ thách đố kia!


Lúc này, sự kháng cự của Phi-e-rơ hoàn toàn bị khống chế. Ông bắt đầu “rủa sả mà thề” (Mat 26:74). Điều này không có nghĩa là ông lộng ngôn, nhưng có nghĩa là ông đặt mình dưới sự rủa sả để khẳng định lời nói mình. Trong cuộc thử nghiệm này, Phi-e-rơ dùng bản thân để thề nhằm mục đích thuyết phục những kẻ tố cáo ông tin rằng ông đã nói “thật”.


Chính vào giờ đó: gà bắt đầu gáy (Mat 18:27) đúng như lời Chúa đã báo trước (Mat 26:34).

Có bốn canh: chiều tối (6-9 giờ tối) giữa đêm (9-12 giờ khuya), gà gáy (12-3 giờ sáng) và sáng (3-6 giờ sáng) (Mac 13:35). Tiếng gà gáy nhắc Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa, nên ông đi ra ngoài khóc lóc đắng cay.


Tiếng gà gáy là một đảm bảo cho Phi-e-rơ biết rằng Chúa Giê-xu hoàn toàn làm chủ hoàn cảnh dù Ngài bị trói và bị các chức sắc quấy rối. Bởi kiểm soát một con gà Chúa cho thấy quyền tể trị của Ngài. Trong Sa 1:26 Đức Chúa Trời đã ban cho con người quyền quản trị loài cá biển, chim trời, súc vật và mọi loài khắp đất.

Phi-e-rơ đã chứng kiến Chúa Giê-xu bày tỏ quyền năng Ngài trên loài cá biển (Lu 5:1-11; Mat 17:24-27) và loài súc vật (Mat 21:1-11). Nhưng giờ đây ông nhận biết quyền tể trị của Ngài trên loài chim nữa.


Tiếng gà gáy cũng là lời kêu gọi sự ăn năn.

“Đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình” (Lu 22:32) Lu-ca cho chúng ta biết rằng Chúa đã quay lại nhìn Phi-e-rơ (Lu 22:61), cái nhìn đầy yêu thương làm tan vỡ lòng Phi-e-rơ. Phi-e-rơ là người chứng kiến sự thương khó của Chúa Giê-xu (IPhi 5:1) và chính ông đã góp phần vào sự thương khó của Ngài bằng những lời chối Chúa của mình.


Bạn hãy nhớ rằng tiếng gà gáy là âm thanh báo hiệu buổi bình minh của một ngày mới! “Sự khóc lóc đến trọ ban đêm nhưng buổi sáng bèn có sự vui mừng” (Thi 30:5). Thật đáng để so sánh Phi-e-rơ với Giu-đa. Phi-e-rơ khóc than về tội lỗi mình và ăn năn, còn Giu-đa thừa nhận tội lỗi mình nhưng chẳng bao giờ thật sự ăn năn.

Giu-đa chỉ “hối hận” chớ không hề ăn năn.

Khi Giu-đa bước ra ngoài, trời đã tối (Gi 13:30), nhưng lúc Phi-e-rơ đi ra khóc lóc đắng cay, bình minh của một ngày mới mở ra. Có một sự khác biệt rõ rệt giữa sự buồn rầu dẫn đến sự ăn năn thật và sự buồn rầu theo thế gian (tiếc nuối và hối hận) dẫn đến sự chết (IICôr 7:9-10). Chúng ta sẽ thấy Chúa Giê-xu phục hồi lại địa vị của Phi-e-rơ (Gi 21:1-25), giúp ông hầu việc Ngài bằng quyền năng và ơn phước lớn lao.


Giữa vườn Ghết-sê-ma-nê đêm ấy, bạn sẽ thấy sự hiện diện của tội lỗi và ân điển. Phi-e-rơ phạm tội nghịch cùng ý muốn Đức Chúa Trời. Giu-đa phạm tội lừa dối tệ hại nhất. Đám đông phạm tội khước từ Con Đức Chúa Trời và đối xử với Ngài như loại tội phạm thấp hèn nhất.


Dầu vậy, Chúa thật nhân từ biết bao! Giống như vua Đa-vít, Ngài đã đi qua khe Xết-rôn, biết rõ Giu-đa sẽ phản bội Ngài. Ngài bước vào vườn Ghết-sê-ma-nê trong sự vâng phục ý muốn Cha trên trời. Ngài còn chữa lành tai Man-chu cũng như bảo vệ cho các môn-đệ. Ngài phó mình vào tay những kẻ tội lỗi hầu có thể chịu thương khó và chết thay chúng ta.

“Kỳ diệu thay ái tình Chúa thắm tươi

Xui tôi vui dâng hồn, thân, cả rày...” (TC 95)


Hôm nay, trong tay bạn có gì? Thanh gươm hay chén đắng?



 


20. CHỊU THƯƠNG KHÓ DƯỚI TAY BÔN-XƠ-PHI-LÁT (Gi 18:28-19:16)


Trước khi cho người bắt Chúa Giê-xu các lãnh đạo Do-thái đã có ý định giết Ngài (Gi 11:47-54). Tuy nhiên, hội đồng lãnh đạo Do-thái không có quyền thi hành án đối với phạm nhân, vì vậy họ cần có sự “hợp tác” và chấp thuận của Rô-ma, nghĩa là họ phải tìm đến quan tổng đốc Rô-ma: Bôn-xơ Phi-lát.


“Cuộc xét xử” của người Do-thái và của người Rô-ma đều trải qua ba giai đoạn. Sau khi bị bắt Chúa Giê-xu bị giải đến nhà An-ne và ở đó Ngài bị xét hỏi một cách vô luật pháp (Gi 18:12-14,19-23). An-ne mong “moi” được chi tiết chứng minh Chúa Giê-xu là kẻ thù của dân Do-thái. Ông ta muốn công bố rằng Đạo lý của Chúa và các môn-đệ Ngài đã chống lại Rô-ma, như vậy Ngài “đáng” bị xử chết!


Giai đoạn hai của cuộc xét xử được chuyển giao cho Cai-phe và trong đêm ấy các thành viên trong toà Công Luận tìm mọi cách làm chứng dối về Ngài (Mat 26:57-68; Mac 14:53-65). Khi Chúa Giê-xu thẳng thắn thừa nhận Ngài là Đấng Christ, cả hội đồng buộc tội lộng ngôn cho Ngài.

Với tội ấy, theo luật pháp của họ thì Ngài phải bị xử tử. Tuy nhiên, hội đồng các lãnh đạo phải họp lại vào sáng hôm sau để đưa ra lời tuyên án vì xử kiện giữa ban đêm là trái luật. Giai đoạn xét xử lần thứ ba phải được thực hiện “càng sớm càng tốt” để họ có thể xử tội chết cho Chúa Giê-xu! (Mat 27:1; Lu 22:66-71) và họ đã làm như vậy!


Cuộc xét xử của người Rô-ma cũng trải qua ba giai đoạn: trước mặt quan tổng đốc Phi-lát (Gi 18:28-38), trước mặt vua Hê-rốt (Lu 23:6-12) và một lần nữa việc xét xử được giao lại cho Phi-lát (Lu 18:39-19:16; Mat 27:15-26; Mac 15:6-15; Lu 23:13-25).

Phúc-âm Giăng chỉ ghi lại những câu hỏi của An-ne và Phi-lát Cai-phe được đề cập thoáng qua. Giăng chủ yếu tập trung vào cuộc xét xử của người Rô-ma. Giăng viết Phúc-Âm trong hoàn cảnh dân tộc Do-thái bị người Rô-ma chia cắt, Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, quyền lực Rô-ma bao trùm khắp nơi.


Bôn-xơ Phi-lát nhậm chức từ năm 26-36 SC và chẳng lấy được lòng dân Do-thái cho lắm. Ông ta sẵn sàng tàn bạo khi cần (Lu 13:1-2), nhưng cũng hiểu quyền hạn của người Do-thái và biết cách lợi dụng nó.

Cách ông ta xét xử Chúa cho thấy ông là con người không dứt khoát, yếu mềm và dễ thỏa hiệp.

Người Rô-ma có câu châm ngôn: “Hãy để sự công bình được hành động cho dù các tầng trời sập xuống!” Phi-lát chẳng quan tâm gì đến sự công bình, chỉ nghĩ đến bản thân, địa vị mình và lợi ích của Rô-ma. Tuy nhiên, ông ta đã không đạt được ba điều trên!


Khi đọc Phúc-âm Giăng, bạn sẽ thấy Phi-lát cố tìm “cách thoái thác” để làm vừa lòng hai phía. Ông ta sợ đoàn dân, nhưng cũng sợ “phạm nhân”! Có ít nhất ba lần Phi-lát tuyên bố Chúa Giê-xu không phạm tội lỗi nào (Lu 23:14; Gi 19:4; Lu 23:22; Gi 19:6), thế nhưng ông lại không phóng thích Ngài!


Cuộc xét xử của người Rô-ma do Phi-lát chủ trì xoay quanh bốn câu hỏi chính:


1. Các ngươi kiện người này về khoản gì? (Gi 18:28-32)

Ngay khi toà Công Luận biểu quyết xử án Chúa Giê-xu, Ngài bị điệu đến dinh thự nơi quan tổng đốc Phi-lát ở trong mùa lễ Vượt Qua.

Nhà cầm quyền La-mã thường cho người đến Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ Vượt Qua để ngăn chặn những cuộc bạo động và nổi dậy của những người nhóm chủ nghĩa dân tộc Do-thái. Các lãnh đạo tôn giáo chẳng ngần ngại chi khi vu cáo người vô tội, nhưng rất “thận trọng” giữ mình khỏi sự ô uế khi bước trên đất người ngoại! Thật là thảm hoạ nếu bị ô uế về mặt nghi thức trong bảy ngày lễ Vượt Qua!


Phi-lát đã đặt một câu hỏi hợp lý về sự vu cáo. Thay vì xác định tội một cách rõ ràng, các quan trưởng Do-thái chỉ nói lòng vòng. Ở Lu 23:2 họ vu cáo Chúa ba tội:

1. Xui dân làm loạn.

2. Chống lại việc nộp thuế cho Sê-sa và

3. Xưng mình là Đấng Christ là Vua.


Phi-lát chẳng thiết tha quan tâm đến một vụ kiện nào của người Do-thái, đặc biệt là vào kỳ lễ Vượt Qua, nên ông muốn né tránh vấn đề. Xét cho cùng, nếu phạm nhân kia gây rối cho dân Do-thái vậy hãy để dân Do-thái xử theo luật pháp họ. Rô-ma đã chấp thuận cho dân Do-thái sử dụng pháp quyền của mình đặc biệt trong những vấn đề có liên quan đến tập quán và luật lệ tôn giáo Do-thái (Cong 18:12-16).


Khi xem xét ba lời tố cáo nghịch cùng Chúa Giê-xu, bạn sẽ thấy rằng những lời tố cáo ấy không thể chấp nhận được. Bởi vì, Ngài không hề “lật đổ” nhà cầm quyền, hay giáo hội. Dĩ nhiên Ngài từng lên án người Pha-ri-si và sự giả hình của họ, nhưng Ngài không phải là người đầu tiên hay duy nhất làm điều đó. Chúa đã chúc phước cho dân tộc Do-thái và đem đến cho họ sự trông cậy. Việc một số người Do-thái bạo động muốn tôn Ngài làm vua (Gi 6:15), đó không phải là lỗi của Ngài.Bởi Ngài đã lánh đi khỏi những cuộc ủng hộ về mặt chính trị này.


Nói về việc chống đối nộp thuế cho Sê-sa, Chúa Giê-xu đã dạy điều ngược lại! Ngài phán: “Hãy trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời” (Mat 22:21).


Ngài tuyên bố mình là Vua nhưng không theo ý nghĩa chính trị. Ngay cả môn-đệ Chúa cũng không hiểu hoàn toàn những chân lý thuộc linh cho đến lúc Chúa Phục sinh (Công 1:1-8). Dân chúng đôi lúc cũng không hiểu Ngài (Lu 19:11). Dĩ nhiên, các lãnh đạo Do-thái muốn tìm bất cứ chứng cớ nào có thể được để tố cáo Chúa và bảo vệ lời chứng dối đó!


2. Chính ngươi là Vua dân Giu-đa, phải chăng?” (Gi 18:33-38)

Câu hỏi Chúa Giê-xu có phải là Vua dân Giu-đa (Do-thái) hay không, đều được chép trong bốn sách Phúc-âm. Là một quan chức La-mã, Phi-lát hẳn sẽ quan tâm nhiều về những lời tuyên bố của bất cứ vua nào. Sự trông mong về Đấng Mê-si-a luôn bùng dậy cao độ trong mùa lễ Vượt Qua, cũng là cơ hội thuận lợi cho những người Do-thái cực đoan xui giục dân chúng làm loạn hoặc chống lại Rô-ma. Dĩ nhiên, Phi-lát thấy mình có cơ sở khi đặt câu hỏi về vương quyền của Đấng Christ.


Tuy nhiên, Phi-lát không lường trước câu trả lời của Chúa: “Thật như lời” (Mat 27:11). Nhưng khi Chúa đặt lại một câu hỏi. “Ngươi nói điều đó tự ý mình, hay là có người đã nói điều đó với ngươi về ta?” (Gi 18:34), Ngài thật sự muốn hỏi điều gì? “Ngươi đang nghĩ về vua nào? Vua Rô-ma hay Vua Do-thái? Vua thế gian hay Vua thiên đàng?” Chúa Giê-xu không lẩn tránh vấn đề, Ngài buộc Phi-lát phải làm sáng tỏ vấn đề theo suy nghĩ của ông ta. Tóm lại, người bị xét xử không phải là Chúa Giê-xu, nhưng chính là Phi-lát!


Nếu Phi-lát nghĩ về vua Rô-ma, vậy Chúa Giê-xu có thể bị xem là kẻ chống nghịch.Nếu ông ta nghĩ về vua Do-thái, vậy những vấn đề chính trị có thể được thông qua, đáng chú ý rằng Phi-lát đã gọi Chúa Giê-xu bằng danh hiệu “Vua” ít nhất bốn lần suốt cuộc xử án, thậm chí còn ghi danh ấy vào tấm bảng treo trên thập tự giá (Gi 18:39; Gi 19:3,14,15,19).


Câu trả lời của Phi-lát trước mặt Chúa Giê-xu bày tỏ suy nghĩ của dân Rô-ma về dân Do-thái. Giọng nói ông ta hẳn đã biểu hiện sự khinh thường và mỉa mai: “Nào có phải ta là người Do-thái đâu?” Chúa Giê-xu không phải là phạm nhân do bị Phi-lát bắt, nhưng bởi các quan trưởng trong dân Ngài! Không có lửa sao có khói? Vì vậy, Phi-lát đã hỏi: “Ngươi đã làm điều gì?”


Bằng thái độ khoan dung, Chúa vui lòng giải thích về chính Ngài và Vương quốc Ngài. Vâng, Ngài thừa nhận mình là Vua, nhưng Vương quốc Ngài không đến từ quyền lực thế gian. Dân Do-thái ở dưới quyền La-mã, Phi-lát ở dưới quyền Sê-sa. Nhưng Chúa Giê-xu nhận được quyền năng từ Đức Chúa Trời.

Vương quốc Ngài là Vương quốc thuộc linh, ngự trị trong lòng những người theo Ngài và Ngài không dựa vào phương tiện thế tục hay con người để đạt được mục đích mình. Nếu vương quốc Ngài thuộc về thế gian, vậy lúc này những người theo Ngài đã có thể tập hợp thành một quân đội sẵn sàng chống trả để giải thoát cho Ngài!


Chúa Giê-xu không nói rằng Ngài không có Vương quốc ở thế gian, cũng không nói rằng Ngài sẽ không bao giờ cai trị trên đất. Ngài thật sự có một Vương quốc ở thế gian này, vương quốc ấy hiện diện bất cứ nơi đâu có những con người tin cậy và đầu phục sự tể trị của Ngài. Ngày kia, Ngài sẽ tái lâm để thiết lập Vương quốc công bình của Ngài trên đất (Dan 7:13-28). Mối quan tâm của Phi-lát chính là nguồn cội của Vương quốc này: Chúa Giê-xu nhận thẩm quyền từ đâu?


Trong Gi 18:37 Chúa cho biết Ngài là ai và Vương quốc nào thuộc về Ngài. Có lẽ Phi-lát không hiểu được ý nghĩa của những lời sâu sắc này, nhưng chúng ta hôm nay có thể hiểu rõ ý nghĩa Chúa muốn nói. Ngài đã được “sinh” ra, điều đó bày tỏ nhân tính Ngài. Nhưng Ngài đã “giáng thế” cho thấy thần tính Ngài. Sự kiện Ngài “giáng thế” có nghĩa là Ngài đã hiện hữu từ trước khi sinh ra tại Bết-lê-hem. Đây là một chân lý quan trọng được lặp lại nhiều lần trong Phúc-âm Giăng (Gi 1:9-10; Gi 3:17,19; Gi 9:39; Gi 10:36; Gi 12:46; Gi 16:28; Gi 17:18).


Chúa không những chỉ cho Phi-lát biết về nguồn gốc Ngài, mà còn giải thích về chức vụ Ngài: làm chứng cho chân lý. Vương quốc Ngài là Vương quốc của chân lý thuộc linh, vì vậy Ngài thu phục dân sự không bởi bạo quyền nhưng bởi sự cáo trách và thuyết phục. Ngài nói chân lý về Lời Đức Chúa Trời nên những ai thuộc về Ngài đều hưởng ứng theo lời kêu gọi của Ngài (Gi 8:47; Gi 10:27). Vũ khí của người Rô-ma là gươm giáo, nhưng vũ khí của Chúa là lẽ thật của Đức Chúa Trời, là Gươm Thánh Linh (Eph 6:17).


Chúng ta thật không thể biết Phi-lát đã đặt câu hỏi “nổi tiếng” kia với thái độ nào: “Chân lý là gì?” 

Francis Bacon đã viết: “Lẽ thật là gì? Phi-lát hỏi một cách bỡn cợt chớ không muốn biết lời giải đáp”.

Tuy nhiên, chúng ta không biết chắc Phi-lát có bỡn cợt thật sự hay không. Có lẽ ông đã hỏi thật lòng. Từ bao thế kỷ qua, các triết gia Rô-ma và Hy-lạp đã bàn cãi về chính câu hỏi này, nhưng không đi đến kết luận nào hợp lý cả, chúng ta không biết Phi-lát đã cười nhạo hay thở dài khi hỏi câu ấy. Vì vậy thật không khôn ngoan khi đưa ra kết luận về vấn đề này.


Ít ra, Phi-lát cũng can đảm đối đầu với đám đông và tuyên phán: “Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả”. Nhưng ông không nhận được sự hưởng ứng như lòng mình mong muốn, bởi các thầy tế lễ cả và các trưởng lão càng tố cáo Chúa nhiều hơn nữa! (Mat 27:12-14).

Chúa Giê-xu chỉ lặng thinh trước những kẻ vu cáo, sự yên lặng ấy đã làm Phi-lát kinh ngạc. Lẽ nào vị Vua này không thể tự bảo vệ mình sao? Nếu Ngài không nói gì, làm sao kẻ khác có thể bảo vệ được chứng cớ của họ?Phi-lát phải đương đầu với một tình huống nan giải!


Các thầy tế lễ thượng phẩm và các trưởng lão giải quyết nan đề thay Phi-lát khi la lên rằng Chúa Giê-xu đã xui dân làm loạn từ xứ Ga-li-lê (Lu 23:5). Ga-li-lê! Đó là lãnh địa thuộc trách nhiệm chủ quản của vua Hê-rốt, vậy tại sao lại không giao phạm nhân này cho Hê-rốt là người cũng đến Giê-ru-sa-lem dự lễ?

Giữa Gi 18:39 đã xảy ra sự kiện được chép ở Lu 23:6-12 kế hoạch của Phi-lát không giải quyết được nan đề của ông, vì vua Hê-rốt lại giao Chúa Giê-xu về cho Phi-lát! Nhưng dù sao kết quả nhận được cũng là sự hàn gắn vết đổ vỡ trong quan hệ thân hữu giữa hai vị lãnh đạo này. Phi-lát vẫn phải đương đầu với Chúa Giê-xu và những người Do-thái.


3. Các ngươi có muốn ta tha Vua dân Giu-đa cho chăng? (Gi 18:39-19:7)

• (Gi 18:29-30). Việc vua Hê-rốt không tìm thấy tội lỗi nào đáng chết nơi Chúa Giê-xu đã khích lệ Phi-lát đương đầu với các lãnh đạo Do-thái để tìm cách phóng thích Chúa. Ông giải thích cho thầy tế lễ và các lãnh đạo rằng vua Hê-rốt đã không tìm thấy tội lỗi nơi Chúa và ông cũng thấy điều đó. Vậy chỉ nên đánh đòn Chúa rồi tha ra. Người Do-thái vẫn muốn Chúa Giê-xu phải chết (Gi 18:31) nhưng Phi-lát gắng gượng với ý muốn làm một điều tốt đẹp.


Hy vọng lời đề nghị của mình được thắng thế, Phi-lát mặc cả với các lãnh đạo Do-thái. Nhà cầm quyền có lệ phóng thích một phạm nhân để lấy lòng dân Do-thái. Vì vậy, tại sao lại không tha Chúa Giê-xu? Nếu không, cũng có thể tha Ba-ra-ba.Nhưng tại sao dân Do-thái muốn tha Ba-ra-ba? Đúng ra, hắn chỉ là một tên trộm cướp (Gi 18:40), một tội phạm nổi tiếng (Mat 27:16), một kẻ dấy loạn và giết người (Lu 23:19). Ai lại muốn phóng thích một loại tội phạm như thế?


Thật không thể ngờ rằng đám đông xin tha cho Ba-ra-ba! Dân chúng đã bị các thầy tế lễ cả và các trưởng lão dỗ dành (Mat 27:20). Những niềm tin tôn giáo không thúc đẩy họ về công lý và công bằng.

Tự ái dân tộc luôn gia tăng trong kỳ lễ Vượt Qua, nên ủng hộ Ba-ra-ba là tư tưởng nghịch lại Rô-ma. Dù Chúa Giê-xu là một nhân vật nổi tiếng trong dân sự, nhưng nhiều người thất vọng vì Ngài đã không lãnh đạo được “cuộc tổng khởi nghĩa” lật đổ Rô-ma. Có lẽ, họ hy vọng rằng việc tiến vào Giê-ru-sa-lem của Chúa vài ngày trước đó là khởi điểm của cuộc cách mạng dân tộc Do-thái.


Không thể lý giải về cách đám đông chọn lựa người hùng của họ ra sao. Chắc hẳn có nhiều người Do-thái khâm phục Ba-ra-ba về sự can đảm và mưu mô của anh ta. Họ cũng vui mừng khi Ba-ra-ba chống lại Rô-ma. Nếu họ thật lòng so sánh hai “ứng cử viên” họ sẽ phải chọn Chúa Giê-xu. Nhưng khi đám đông bị những lãnh đạo xảo quyệt dụ dỗ lôi kéo trong bầu nhiệt huyết ái quốc họ sẽ đánh mất chính mình và bắt đầu suy nghĩ theo tình cảm chớ không theo lý trí. Lời biểu quyết kết án của họ không có ý nghĩa gì đối với Con Đức Chúa Trời, nhưng có ý nghĩa rất lớn đối với chính họ.


• (Gi 19:1-7). Chẳng bao giờ để lỡ cơ hội, Phi-lát áp dụng chiến thuật mới: cảm thông! Đám đông gào thét. “Hãy đóng đinh nó lên thập tự giá!” (Mac 15:14). Nhưng có lẽ họ đã lắng lòng thù hận xuống khi Chúa Giê-xu bị đánh đòn. Làm sao con người có thể nhìn xem một phạm nhân bị đánh đập mà vẫn muốn người ấy bị đóng đinh? Roi để đánh Chúa là một đoạn dây bằng da (được gắn vào một tay cầm)có gắn những mảnh kim loại. Nhiều phạm nhân không thể sống sót khi bị đánh đập bằng roi da ấy.

Chúng ta sẽ thật đau lòng khi nghĩ đến Con Đức Chúa Trời vô tội lại bị xử phạt tàn bạo đến như vậy. Ngài vốn là Đấng thánh khiết, nhưng bị đối xử như kẻ có tội, và Ngài làm điều đó vì chúng ta. Ngài bị vả trước mặt An-ne (Gi 18:22), bị nhổ nước miếng và bị đánh trước mặt Cai-phe cùng hội đồng các lãnh đạo (Mat 26:13). Trước khi giải Ngài đến đồi Gô-gô-tha quân lính còn chế nhạo vì đánh Ngài bằng cây sậy (Mac 15:19). Vì chúng ta, Ngài phải chịu thương khó dường ấy!


Phi-lát gọi Chúa là “Vua dân Giu-đa” (Gi 18:39) nên quân lính cho rằng “vua” phải có vương miện và áo choàng. Dân Do-thái trước đây cười nhạo khi Chúa phán về Ngài như một tiên tri (Mat 26:67-68), và giờ đây dân ngoại cũng chế nhạo Ngài khi Ngài xưng mình là Vua. Thì của động từ Hy-lạp trong Mat 19:3 cho biết quân lính nhiều lần đến với Ngài, chế nhạo Ngài và đánh Ngài. Quyền lực âm phủ đã hưởng một ngày “hoàng kim” trong toà án Phi-lát!


Tội lỗi đã đem vào thế gian mọi thứ gai góc (Sa 3:17-19). Vì vậy, Đấng Tạo Hóa phải mang mão gai khi gánh tội lỗi thế gian trên thập tự giá. Chính nguồn kim loại Ngài tạo ra và đặt dưới lòng đất, giờ được sử dụng làm những chiếc đinh đóng xuyên qua tay chân Ngài!


Lần thứ ba, Phi-lát bước ra trước dân chúng, dẫn theo Chúa Giê-xu (Gi 18:29,38; Gi 19:4). Chắc hẳn hình ảnh một người khiêm nhường chịu đánh đòn như vậy sẽ khơi dậy lòng thương hại của một số người nhưng không phải vậy, lần thứ hai, Phi-lát tuyên bố ông không tìm thấy tội nào nơi Chúa Giê-xu, nhưng lời ông nói càng làm trỗi dậy lòng căm ghét của họ.

“Đây này!...” có nghĩa là “Hãy xem kẻ tội nghiệp này! Ông ta chịu đựng như vậy chưa đủ sao? Hãy thương xót và tha cho ông ta”. Phi-lát đã cố gắng hết khả năng, nhưng ông vẫn thất bại!


Sự thất bại trong kế hoạch của Phi-lát dạy chúng ta một bài học có ý nghĩa: tình cảm con người chưa đủ để đem tội nhân hư mất đến sự cứu rỗi. Có một quan điểm về sự cứu chuộc, được gọi là thuyết ảnh hưởng đạo đức, thích hợp với cách thức của Phi-lát. Quan điểm này cho rằng sự nhận biết về nỗi thống khổ của Chúa Giê-xu có thể cảm động lòng tội nhân để họ lánh xa tội lỗi và bắt đầu yêu mến Đức Chúa Trời. Quan điểm này hoàn toàn chủ quan, không liên quan đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời hay tầm quan trọng của thoả mãn công lý thiên thượng.


Nếu có đám đông nào phải mủi lòng thương hại, đó chính là dân Do-thái đang chờ đợi Phi-lát. Liệu có dân tộc nào từng chịu đau khổ như Do-thái? Trước mặt họ là một tiên tri Do-thái chịu thương khó bất công dưới tay người Rô-ma, nhưng họ vẫn không hối hận hay tỏ lòng thương hại chút nào! Nếu tội nhân đã trông thấy Chúa Giê-xu trong sự thương khó mà còn không chịu ăn năn, vậy sẽ trông mong gì nơi những con người của 20 thế kỷ tiếp nối, là những người chỉ đọc về chuyện thương khó của Ngài?


Thập tự giá có liên quan đến nhiều điều, chớ không chỉ là sự thương khó. Trên thập tự giá, Con Đức Chúa Trời đã trả giá cho tội lỗi của thế gian. Vì vậy, thập tự giá công bố tình yêu Đức Chúa Trời, đề cao sự thánh khiết và công bình của Ngài. Chúng ta được cứu không phải do cảm xúc thương hại Chúa Giê-xu, Đấng chuộc tội thánh khiết.

Tấn sĩ Leon Morris viết rằng “Nếu Đấng Christ không hành động gì bởi sự chết của Ngài, vậy chúng ta phải đương đầu với lòng tự cao của con người, chớ không có điều gì khác hơn!”.


Điều này không có nghĩa rằng, ngắm xem thập tự giá và suy ngẫm về sự thương khó của Đấng Christ là điều sai trái! Bài Thánh ca “Giờ được chiêm ngưỡng thập giá:” (TC 95) giúp ta nhận biết cái giá Chúa đã trả cho mình, nhưng cũng đừng nhầm lẫn “tính đa cảm” với cảm xúc thuộc linh thật.

Những giọt lệ rơi xuống suốt buổi thờ phượng trong Hội thánh là một vấn đề, nhưng quyết định dâng hiến, đầu phục và việc sau buổi thờ phượng lại là một vấn đề khác. Chúng ta không chỉ chiêm ngưỡng thập tự giá, mà còn phải mang lấy nó!


Lần thứ ba, Phi-lát công bố: “Ta không tìm thấy người có sự gì đáng chết.” Có lẽ đám đông đã hét lớn: “Tại sao ông cho người đánh đòn Giê-xu?” Hành động của Phi-lát đã mâu thuẫn với lời nói của ông. Giống như nhiều chính trị gia khác, ông là con người hèn nhát, chỉ mong tìm một giải pháp “hòa hợp” hầu làm vui lòng mọi người. Khổng Tử đã định nghĩa sự hèn nhát là “biết điều thiện nhưng không làm theo”.


Các lãnh đạo tôn giáo cũng không bỏ lỡ cơ hội hưởng ứng mạnh mẽ “Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết, vì hắn tự xưng là Con Đức Chúa Trời” (Gi 19:7).

Câu nói này không được ghi lại ở những Phúc-Âm khác (Mat 26:63-64). Tuy nhiên, câu nói ấy thích hợp với mục đích viết Phúc-âm của Giăng (Gi 20:31).


4. Ngươi từ đâu?” (Gi 19:8-16)

Người La-mã và người Hy-lạp có rất nhiều huyền thoại về các vị thần lấy hình loài người để đến thế gian (Công 14:8-13) vì vậy có lẽ Phi-lát rất nhạy bén khi nghe danh hiệu “Con Đức Chúa Trời” do đã biết những câu chuyện trên. Lời nói và thái độ của Chúa Giê-xu gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng Phi-lát. Từ trước đến nay, ông chưa hề gặp một phạm nhân nào như Ngài.

Ngài có phải là một vị thần đến thế gian? Ngài có quyền năng siêu nhiên chăng? Dĩ nhiên, Phi-lát bắt đầu lo sợ! Vợ của Phi-lát cũng sai người đến khuyên ông một lời kỳ lạ: đừng làm gì đụng đến Chúa Giê-xu (Mac 27:19). Chúa Giê-xu đã hiện diện trong cả giấc mơ của bà!


Vì sao Chúa Giê-xu không trả lời câu hỏi của Phi-lát? Vì Ngài đã trả lời trước đó (Gi 18:36-37). Một nguyên tắc thuộc linh cơ bản cho thấy: Đức Chúa Trời sẽ không bày tỏ cho chúng ta chân lý nào khác nếu chúng ta không hành động theo chân lý mình đã biết. Hơn nữa Phi-lát rõ ràng đã tỏ ra không quan tâm đến chân lý thuộc linh. Tất cả những gì ông quan tâm là làm sao duy trì được yên ổn ở Giê-ru-sa-lem khi xúc tiến việc xét xử Chúa Giê-xu Na-xa-rét. Phi-lát không xứng đáng nhận câu trả lời!


Sự sợ hãi và tức giận thường đồng hành với nhau. Khi chúng ta sợ chúng ta trở nên yếu đuối, từ đó nơi vào một thái cực khác là cố “tỏ ra mạnh mẽ. Đây chính là điều Phi-lát hành động khi ông nhắc Chúa Giê-xu về quyền hạn của một quan chức La-mã như ông. Tuy nhiên lời nói của ông không bày tỏ quyền lực, chỉ càng biểu lộ sự yếu đuối nhu nhược mà thôi. Nếu ông có quyền phóng thích Chúa, vậy sao ông không thể làm điều ấy? Ông đã lên án bản thân bằng những lời khoe khoang của chính mình.


Sự yên lặng của Chúa chúng ta trước mặt Hê-rốt và Phi-lát đã làm ứng nghiệm lời tiên tri Es 53:7 Sau này, Phi-e-rơ đã dùng hình ảnh ấy làm tấm gương về sự nhịn nhục để các Cơ-đốc nhân noi theo (IPhi 2:18-23).


Gi 19:11 ghi lại những lời sau cùng của Chúa Giê-xu trước mặt Phi-lát, bày tỏ đức tin Ngài nơi Đức Chúa Trời và sự đầu phục theo ý muốn Đức Chúa Trời (IPhi 2:23; IPhi 4:19). Mọi quyền đều từ Đức Chúa Trời mà đến (Rô 13:1).

Chúa Giê-xu vui lòng phó mình vào tay người La-mã và người Do-thái vì trên hết Ngài muốn đầu phục Đức Chúa Trời. Phi-lát khoe khoang về quyền hạn của mình (Ro 19:10), nhưng Chúa Giê-xu cho ông biết rằng điều mà ông gọi là “quyền” chỉ bởi Đức Chúa Trời định cho ông mà thôi. Một ngày nào đó, Đức Chúa Trời sẽ gọi ông đến khai trình về cách ông đã sử dụng những đặc quyền và trách nhiệm mình có ra sao.


Chúa Giê-xu muốn nói về ai khi Ngài phán “...kẻ đã nộp ta cho ngươi...”? Chắc chắn không phải Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết, chẳng hề có tội lỗi. Chúa muốn nói về Cai-phe một thầy tế lễ thượng phẩm vô lương, là người từ lâu đã muốn Chúa Giê-xu phải chết (Gi 11:47-54).

Cai-phe hiểu biết Kinh Thánh và có nhiều cơ hội tra xem chứng cớ, nhưng ông vẫn cố tình bịt mắt và đóng cửa lòng. Ông cho rằng Chúa Giê-xu đã không bị xét xử công bằng! Chính các cộng sự của ông xúi giục dân chúng gào lên: “Đóng đinh hắn trên cây thập tự đi!”

Phi-lát là một kẻ vô thần bị mù lòa về tâm linh, nhưng Cai-phe là người Do-thái hiểu biết về Kinh Thánh. Vì vậy, chính Cai-phe (chớ không phải Phi-lát) mới là kẻ có trọng tội hơn!


Phi-lát rơi vào tình huống nan giải biết bao! Làm sao ông có thể tiếp tục tra xét lời Chúa Giê-xu tuyên bố Ngài là “Con Đức Chúa Trời”? Không có chứng cớ nào tỏ ra Ngài là người gây rối hoặc xui dân làm loạn. Cố gắng can đảm cuối cùng của Phi-lát là tìm cách tha Chúa Giê-xu. Giăng không nói cho chúng ta Phi-lát xử lý như thế nào (theo nguyên văn Hy-lạp thì nói “ông tiếp tục tìm cách thả Ngài”) nhưng tất cả đều thất bại.


Thật ra, dân chúng bắt đầu cáo Phi-lát là người nghịch lại Sê-sa! Điều này quá nặng nề cho Phi-lát, nên ông đã tuyên án và giao Chúa Giê-xu cho người ta đóng đinh Ngài. Ma-thi-ơ cho biết Phi-lát đã rửa tay trước dân chúng (Mat 27:4), nhưng hành động ấy không tẩy sạch được tấm lòng ông. Chính Phi-lát đang bị xét xử chớ không phải Chúa Giê-xu!


Dường như Giăng sử dụng giờ của Rô-ma, vì vậy “giờ thứ 6” có thể là 6 giờ sáng. Mác lại cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu bị đóng đinh vào “giờ thứ ba”, theo cách tính giờ của Do-thái là 9 giờ sáng. Vì Giăng viết “độ chừng giờ thứ 6” nên chúng ta không cần suy tính lý do vì sao phải mất 3 giờ đồng hồ để giải Chúa Giê-xu từ toà Phi-lát đến đồi Gô-gô-tha.


“Ngày sắm sửa” chỉ về sự chuẩn bị cho lễ Sa-bát (Gi 19:31), sẽ bắt đầu lúc mặt trời lặn của ngày hôm ấy (thứ sáu). Vì đây là lễ Sa-bát, nên đó là ngày lễ rất trọng thể. Các lãnh đạo tôn giáo quan tâm rất nhiều về truyền thống chớ không muốn tìm biết chân lý và vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời. Vào ngày lễ trọng thể ấy, họ đã đóng đinh Đấng Mê-si-a của mình, là Chúa Giê-xu Con Đức Chúa Trời!


Lời cuối cùng dân Do-thái nói rằng: “Chúng tôi không có vua khác chỉ Sê-sa mà thôi! ” (“Chúng tôi không muốn người này cai trị chúng tôi” – Lu 19:14).

Có một số nhà truyền đạo sốt sắng nhưng đã lầm lẫn khi nói rằng đám đông trong ngày Lễ Lá đã hô lớn ”Hô-sa-na”, nhưng sau đó đổi lòng khi gào thét ”Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự đi!” 

Tuy nhiên, đó hoàn toàn là hai đám đông khác nhau. -Đám đông trong ngày Lễ Lá đến từ xứ Ga-li-lê nơi Chúa được mọi người biết.

-Đám đông tại toà Phi-lát từ xứ Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem nơi các lãnh đạo tôn giáo nắm mọi quyền hành. Nếu các môn đệ Ga-li-lê có mặt, có lẽ họ đã chống lại để giải thoát cho Chúa Giê-xu!


Theo quan điểm con người, việc xét xử Chúa Giê-xu là tội lỗi và bi kịch lớn nhất trong lịch sử. Nhưng theo quan điểm Đức Chúa Trời, đây là sự ứng nghiệm lời tiên tri và sự hoàn thành ý muốn Đức Chúa Trời. Việc Đức Chúa Trời đã sắp đặt mọi sự vẫn không miễn trách được tránh nhiệm của những kẻ dự phần. Thực tế là vào lễ Ngũ Tuần, Phi-e-rơ đã kết hợp hai ý niệm này trong một câu nói! (được chép ở Công 2:23).


Khi dân Y-sơ-ra-ên cầu xin một vị vua, Đức Chúa Trời đã ban Sau-lơ cho họ và dân tộc này chối bỏ Con Đức Chúa Cha. Khi xin tha cho Ba-ra-ba, họ đã chối bỏ Đức Chúa Con. Ngày nay họ chối bỏ sự dẫn dắt của Đức Chúa Thánh Linh (Công 7:51; Rô 10:21). Nhưng một ngày nào đó họ sẽ nhìn thấy Vua mình! (Kh 1:7; Mat 24:30; Xa 12:10-11).


Dân tộc này và người cai trị họ đã bị xét đoán, họ thất bại một cách thảm hại.

Mong rằng chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng ấy!



 


21 CHỊU CHẾT TRÊN THẬP TỰ GIÁ (Gi 19:17-42)


Bài tín điều các sứ đồ xác định rằng: “Ngài... bị đóng đinh trên thập tự giá, chịu chết và chôn...” Ba sự kiện này được mô tả trong Gi 19:17-42 là những sự kiện quan trọng mà chúng ta không chỉ nên hiểu theo quan điểm lịch sử mà còn theo quan điểm của giáo lý nữa.


1. Bị đóng đinh (Gi 19:17-27)

Phi-lát giao Chúa Giê-xu cho các thầy tế lễ cả. Cùng với sự giúp sức của quân lính La-mã, họ đã đem Chúa đi đóng đinh. Cicero nhà triết học kiêm chính trị gia người Rô-ma nói rằng: “Đây là một trong những hình phạt nhục nhã và kinh khủng nhất. Đừng bao giờ để nó xảy đến với thân thể công dân Rô-ma, cũng đừng để nó lảng vảng trong tâm trí, trong mắt thấy hay tai nghe của họ”.


Hình phạt đóng đinh trên thập tự có lẽ xuất xứ từ Ba-tư và xứ Phê-ni-xi, nhưng người Rô-ma lại sử dụng nó một cách đặc biệt. Không một người Rô-ma nào có thể bị hình phạt ấy, vì đây là hình phạt dành cho loại tội phạm nguy hiểm nhất, đặc biệt là những kẻ khởi xướng một cuộc nổi dậy. Hôm nay, chúng ta nhìn xem thập tự giá như một biểu tượng của sự vinh hiển và đắc thắng, nhưng vào thời Phi-lát, thập tự giá bày tỏ tình trạng tệ hại nhất của sự bị chối bỏ, nhục nhã và đau đớn. Chính Chúa Giê-xu là Đấng đã làm cho mọi sự thay đổi.


Phạm nhân theo luật phải vác thập tự giá của mình, hay ít nhất cũng phải vác xà ngang, đi từ toà xử án đến trường án. Chúa Giê-xu bắt đầu một chặng đường dài phải mang thập tự của Ngài, nhưng Ngài được phần nào nhẹ gánh khi quân lính bắt Si-môn quê ở Sy-ren vác thập tự thay Ngài. Chúng ta không biết vì sao Chúa Giê-xu được miễn vác gánh nặng ấy, Kinh Thánh không nói về lý do này.

Phải chăng Chúa quá yếu sức do bị đòn nhiều nên không thể vác nặng? Hay sự yếu sức của Ngài làm trì trệ thời gian của cả đoàn người trong lúc người Do-thái nóng lòng muốn mọi sự qua sớm để họ có thể kỷ niệm lễ Vượt Qua vào ngày Sa-bát. Một điều luật rõ ràng: mang thập tự giá là dấu hiệu của sự phạm tội, nhưng Chúa Giê-xu chẳng có tội lỗi nào (Mac 15:20-21).


Phạm nhân buộc phải mang một tấm bảng nêu tội trạng của mình. Tội trạng duy nhất được công bố trong bốn sách Phúc-Âm là lời Phi-lát viết rằng: “Giê-xu người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa?” 

Các thầy tế lễ cả phủ nhận danh hiệu này, nhưng Phi-lát không muốn thay đổi. Đây là thái độ công kích cuối cùng của ông đối với tổ chức Do-thái giáo. Ông thừa biết các thầy tế lễ cả ghen ghét Chúa Giê-xu và muốn tiêu diệt Ngài (Mat 27:18).

Một chính trị gia khôn ngoan như Phi-lát hiểu rõ những âm mưu của hội đồng các thầy tế lễ. Ông biết rằng bảng tội trạng kia đã làm nhục họ và khiến họ bối rối. Đó chính là điều Phi-lát muốn!


Thật ý nghĩa khi danh hiệu này được viết bằng chữ Hê-bơ-rơ, Gờ-réc là La-tinh. Trước tiên, điều này cho thấy Chúa chúng ta bị đóng đinh ở một nơi có nhiều người và nhiều dân tộc biết đến. Tiếng Hê-bơ-rơ là ngôn ngữ tôn giáo, tiếng Gờ-réc dành cho triết học và tiếng La-tinh dùng trong luật pháp.

Ba ngôn ngữ này được sử dụng khi Con Đức Chúa Trời bị đóng đinh trên thập tự giá. Tuy nhiên Ngài đã chết trên thập tự vì cả thế gian! Trong Phúc-âm, Giăng nhấn mạnh công việc của Đấng Christ ở quy mô rộng lớn dành cho cả thế gian. Không hề nhận biết điều này, nhưng Phi-lát đã viết một truyền đạo đơn Phúc-âm khi ông nêu lên danh hiệu này, vì một trong những tên trộm cướp đã khám phá ra Ngài là Vua và xin được vào Vương quốc Ngài.


Chúa Giê-xu bị đóng đinh ngoài cửa thành (He 13:11-13) giữa hai phạm nhân, có lẽ là đồng bọn của Ba-ra-ba. Chúng ta không biết rõ nơi thập tự giá của Chúa được dựng lên ở đâu.

Đã có biết bao thay đổi về địa hình ở Giê-ru-sa-lem kể từ năm 70 SC khi Titus và người Rô-ma phá huỷ thành. Vì vậy thật khó xác định con đường Chúa đi đến nơi đóng đinh hoặc nơi dựng thập tự. Ngày nay khách hành hương đến Đất Thánh đều nhìn thấy ngôi nhà thờ nơi có ngôi mộ Chúa Giê-xu và đồi Gô-gô-tha gần ngôi mộ trong vườn.


Theo tiếng Hê-bơ-rơ, Gô-gô-tha có nghĩa là “Cái Sọ” (tiếng La-tinh là Calvary). Chúng ta cũng không biết vì sao nơi đây có cái tên đặc biệt như vậy. Chắc chắn người Do-thái không cho phép những chiếc sọ người ô uế vứt nơi thi hành án. Vì vậy, thi thể (có đầu nguyên vẹn) được giải quyết bằng cách chôn (nếu phạm nhân có thân hữu - hoặc bị ném vào bãi rác. Thật ra, Gô-gô-tha có hình dạng giống sọ người, nhưng hiện địa hình của nó vẫn giữ nguyên như vậy cách đây 2.000 năm không?


Việc đóng đinh Chúa Giê-xu chung với hai tên cướp khét tiếng chỉ làm gia tăng sự sỉ nhục. Điều này làm ứng nghiệm lời tiên tri Es 53:12 “Người đã bị kể vào hàng kẻ dữ”. Ngài bị đối xử như một tội phạm nguy hiểm!


Những cuộc xử án ngày nay thường được thực hiện kín đáo, gần như ít người biết. Nhưng Chúa Giê-xu đa bị đóng đinh vào thập tự giá, bị treo lên cho mọi người đều thấy. Thời điểm này là lễ Vượt Qua nên hằng ngàn người từ các nơi đổ về Giê-ru-sa-lem. Nơi thi hành án ở ngoài cửa thành là nơi nhiều người sẽ đi qua.Chúa Giê-xu là nhân vật nổi tiếng nên việc Ngài bị bắt và bị xử án là những đề tài để nhiều người bàn luận. Đương nhiên, mọi người đều tụ tập lại để chứng kiến cảnh tượng thương tâm này!


Quân lính chắc hẳn cũng có mặt ở đó để làm nhiệm vụ ở mọi cuộc xử án của người Rô-ma, một đội trưởng sẽ được bốn lính theo hỗ trợ. Vì Chúa Giê-xu là một giáo sư được nhiều người biết đến nên Phi-lát có thể đã phái nhiều lính canh đến Gô-gô-tha. Quân lính có đặc quyền chia mọi thứ của phạm nhân. Vì vậy họ chia những gì Chúa Giê-xu có. Có lẽ Chúa có một khăn choàng, một đôi dép, quần áo trong, áo ngoài và dây lưng. Bốn tên giữ mỗi người một món đồ, và chúng cũng bắt thăm để lấy áo không đường nối của Ngài. Điều này ứng nghiệm lời tiên tri ở Thi 22:18


Các sách Phúc-âm khác cho chúng ta biết rằng nhiều người đi qua đã sỉ vả Chúa Giê-xu, do sự xui giục của các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo (Mac 15:29-32). Khi đọc Thi 22:1-31 bạn sẽ thấy Đa-vít dùng hình ảnh của loài vật để mô tả những con người bắt bớ Chúa chúng ta: bò đực (c.12), sư tử (c.13,21), và chó (c.16,20). Khi con người chối bỏ Chúa mình, họ trở nên khác nào loài cầm thú!


Có mấy nguời phụ nữ cùng sứ đồ Giăng đứng gần thập tự giá (sau đó có lẽ họ đã lùi xa hơn để đứng chung với những người bạn khác của Chúa Giê-xu (Mat 27:55-56; Mac 15:40-41)

Giăng kể tên bốn người đàn bà là Ma-ri: mẹ Chúa, Sa-lô-mê: chị của mẹ Ngài, Ma-ri: vợ của Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len. Họ thật can đảm khi đứng giữa những kẻ ghen ghét và nhạo báng, nhưng sự hiện diện của họ hẳn khích lệ Chúa rất nhiều.


-Lần đầu tiên chúng ta gặp Ma-ri trong Phúc-âm Giăng lúc bà dự lễ cưới (Gi 2:1-11)giờ đây bà sắp chuẩn bị một lễ chôn cất. Giờ đã đến! Bà kinh nghiệm được “thanh gươm” đã nói đến những năm về trước (Lu 2:35).

Sự yên lặng của bà thật ý nghĩa! Vì nếu có ai bảo vệ cho Chúa Giê-xu, ấy chính là mẹ Ngài! Những gì bà phải làm là cho mọi người biết lời tuyên bố của Chúa Giê-xu hoàn toàn sai – nhưng bà không nói gì! Đây quả là một chứng cớ về thần tính của Đấng Christ.


Để bày tỏ cho Ma-ri lòng yêu mến tôn trọng của Chúa đối với bà, Ngài đã giao trách nhiệm cho Giăng, môn-đệ Ngài yêu, người đã dựa trên ngực Ngài. Giăng sẽ làm con trai của Ma-ri để chăm sóc bà.

Chúng ta không biết lúc ấy Giăng có dẫn Ma-ri về nhà hay không, nhưng chắc rằng Giăng đã chăm sóc bà, và bà là một trong những người có mặt tại Phòng Cao vào lễ Ngũ Tuần (Công 1:14).

Dù khi thi hành công tác cứu chuộc, Chúa vẫn trung tín với trách nhiệm làm con của Ngài. Thật vinh dự cho Giăng khi được thay thế nhiệm vụ của Chúa trong đời sống Ma-ri!


-Đừng lầm lẫn Ma-ri Ma-đơ-len với “người đàn bà có tội” ở Lu 7:36 Chúa Giê-xu đã đuổi các quỷ ra khỏi Ma-ri Ma-đơ-len (Lu 8:2 Mac 16:9), vì vậy bà sử dụng nguồn tài chính mình có để giúp đỡ Chúa thi hành chức vụ.

-Sa-lô-mê là người đã xin Chúa ban “ngôi vinh hiển” cho hai con trai mình (Mat 20:20-29) và Chúa đã từ chối lời cầu xin ấy. Có lẽ bạn không biết bà nghĩ gì khi đứng nhìn Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá. Cảnh tượng này hẳn đã cáo trách sự ích kỷ của bà.


2. Chịu chết (Gi 19:28-30)

Chúa biết mọi điều sắp xảy đến, nên Ngài bình tĩnh khi vâng phục ý muốn Cha trên trời. Ngài chối từ uống rượu làm giảm đau được ban cho những kẻ sắp bị đóng đinh (Mat 27:34).

Để được ứng nghiệm lời Kinh Thánh (Thi 69:21) Ngài phán “Ta khát”. Ngài phải chịu đựng sự đau đớn thật của thể chất vì Ngài có một thân thể con người bằng xương thịt. Ngài bị chìm đắm trong sự tối tăm suốt ba giờ đồng hồ, nếm trải cơn thịnh nộ và sự xa cách với Đức Chúa Trời (Mat 27:45-49).

Khi bạn kết hợp những yếu tố: sự tối tăm, cơn khát và sự cô đơn bạn sẽ thấy một địa ngục ở trước mặt! Có những lý do về thể chất khiến Chúa khát (Thi 22:15), nhưng cũng có những lý do thuộc linh nữa (Thi 42:1-2).


Một tên lính đã thương hại Chúa nên thấm môi Ngài bằng loại rượu giấm rẻ tiền mà bọn lính vẫn thường uống. Chúng ta không nên nghĩ rằng Chúa bị treo quá cao ở trên khoảng không, nên không thể đụng tới được. Chân Ngài có lẽ chỉ cách mặt đất khoảng 3-4 feet (trên dưới 1m) nên tên lính dễ dàng buộc miếng bông đá vào đầu cây sậy và cho Chúa uống.

Hôm nay, bạn và tôi cũng có thể “cho Chúa uống” bằng cách san sẻ những gì mình có cho những kẻ khốn khó (Mat 25:34-40).


Thi 69:1-36 có những ngụ ý rất rõ ràng về Đấng Mê-si-a. Câu 3 nói rằng: “Cuống họng tôi khô”. Câu 4 là lời Chúa muốn nói ở Gi 15:25. Câu 8 có liên hệ với Gi 7:3-5. Câu 9 được trích dẫn ở Gi 2:17 và câu 21 được đề cập trong Gi 19:28-29. Hãy chú ý sự nhấn mạnh về nỗi “sỉ nhục” (c.7-10,19-20) và hình ảnh “dòng nước sâu” (c.14-15; Lu 12:50).


Có 7 câu nói Chúa đã thốt ra khi Ngài bị treo trên thập tự giá. Ba lời nói đầu tiên, Ngài nghĩ đến kẻ khác: là những kẻ đã đóng đinh Ngài (Lu 23:34), tên cướp tin nhận Ngài (Lu 23:39-43), mẹ Ngài (Gi 19:25-27) lời nói thứ 4 có liên quan đến mối liên hệ của Ngài với Đức Chúa Trời (Mat 27:45-49). Ba lời nói sau cùng tập trung vào bản thân Ngài: thể chất Ngài (Gi 19:28-29), linh hồn Ngài (Gi 19:30; Es 53:10) và tâm linh Ngài (Lu 23:46).


Rượu giấm không làm thỏa mãn hoàn toàn cơn khát của Chúa, nhưng giúp Ngài đủ sức thốt lên những lời đắc thắng mạnh mẽ và lớn tiếng: “Mọi việc đã được trọn”. Theo tiếng Hy-lap, lời nói ấy được viết là “tetelestai” nghĩa là “Mọi việc đã được hoàn tất, vẫn đang hoàn tất và luôn luôn hoàn tất”.

Thật vậy, sự thương khó của Chúa chúng ta giờ đây đã được hoàn tất và nhiều ý nghĩa được hàm chứa trong lời nói đầy kịch tính ấy. Mọi điều trong luật pháp và lời tiên tri thời Cựu-ước đã được làm trọn. Giờ đây, Ngài đã hoàn thành công tác chuộc tội “một lần đủ cả”.


Đối với chúng ta hôm nay, từ “tetelestai” thật xa lạ nhưng vào thời ấy nó được nhiều người dùng đến trong đời sống thường nhật. Người đầy tớ dùng từ ấy để báo lại cho chủ “tôi đã hoàn tất công việc được giao phó” (Gi 17:4).

Khi thầy tế lễ xem xét con sinh tế và không thấy nó có tì vết. Khi ông ta sẽ dùng đến từ ấy. Chúa Giê-xu thật là Chiên Con Đức Chúa Trời không tì không vết khi một hoạ sĩ hoàn tất bức họa hay một nhà văn viết xong tác phẩm của mình, họ có thể nói “mọi việc đã xong”.

Sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá đã hoàn tất “bức tranh” Đức Chúa Trời đang vẽ và câu chuyện Ngài đang viết từ bao thế kỷ qua. Bởi thập tự giá, chúng ta có thể hiểu được những nghi lễ và lời tiên tri trong Cựu-ước.


Có lẽ, ý nghĩa thâm thuý nhất của từ “tetelestai” đã được các thương gia sử dụng: “Mọi nợ nần đã được trả đủ!” Khi Chúa Giê-xu phó mạng sống trên thập tự giá, Ngài đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu chính đáng của một luật lệ thánh khiết, Ngài đã gánh hết mọi nợ tội của chúng ta. Không một con sinh tế nào trong thời Cựu-ước có thể xoá sạch tội lỗi. Huyết của chúng chỉ có thể khoả lấp tội mà thôi. Nhưng Chiên Con Đức Chúa Trời đã đổ huyết ra và huyết Ngài có thể xoá sạch tội lỗi của cả thế gian (Gi 1:29; Hêb 9:24-28).


Trước đây, có một nhà truyền đạo hơi “lập dị” tên là Alenxander Wooten được một thanh niên hoang đàng tìm đến hỏi rằng: “Tôi phải làm gì để được cứu?” 

Wooten đáp “Đã quá trễ!” rồi bắt đầu làm việc.

Chàng thanh niên vô cùng lo lắng: “Có phải ông muốn nói rằng đã quá trễ để tôi có thể được cứu? Tôi không thể làm được gì sao?” 

Wooten nói: “Đã quá trễ! Vì mọi việc đã được làm trọn rồi! Điều duy nhất cậu có thể làm là: tin nhận!”


Sự chết của Chúa Giê-xu là một chủ đề chính trong Phúc-âm Giăng. Điều này đã được Giăng Báp-tít rao báo trước khi Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ Ngài (Gi 1:29,35-36). Chúa đề cập đến điều này đầu tiên trong Gi 3:14, chắc hẳn là hình ảnh về sự đóng đinh trên thập tự giá (Gi 8:28; Gi 12:32). Chúa thường nói về việc “vác thập tự giá” (Mat 10:38; Mat 16:24).

Sau khi Phi-e-rơ xưng nhận đức tin, Chúa cho biết rõ rằng Ngài sẽ phải bị giết (Mat 16:21), sau đó Ngài cho các môn-đệ biết Ngài sẽ bị đóng đinh trên thập giá (Mat 20:17-19).


Trong Phúc-âm Giăng, bạn sẽ tìm thấy nhiều hình ảnh nói về sự chết của Chúa: chiên con bị giết (Gi 1:29), đền thờ bị phá huỷ (Gi 2:19), con rắn bị treo lên (Gi 3:14), người Chăn phó mạng sống mình vì bầy chiên (Gi 10:11-18) và hạt giống bị gieo xuống đất (Gi 12:20-25).

Những hình ảnh này cho biết rõ về sự chết của Chúa Giê-xu: đó không phải là một sự cố hay một tai nạn, nhưng là sự chỉ định từ Đức Chúa Trời.

Chúa bị giết không theo ý nghĩa của việc bức tử, nhưng Ngài vui lòng phó sự sống mình vì chúng ta. Sự chết của Ngài không chỉ là một tấm gương, nhưng còn là một sự chuộc tội, Ngài thật sự đã hoàn tất công tác cứu chuộc trên thập tự giá!


Những kẻ vô tín đã bịa đặt rằng Chúa Giê-xu không thật sự chết, Ngài chỉ “ngất đi” trên thập tự giá và sau đó đã “tỉnh lại” trong ngôi mộ lạnh lẽo kia! Nhưng có rất nhiều chứng cớ cho thấy Chúa Giê-xu thật sự đã chết trên thập tự giá: thầy đội (Mac 15:44-45), những người viết sách Phúc-Âm, các thiên sứ (Mat 28:5,7) người Giu-đa (Công 5:28) chính Chúa Giê-xu (Lu 24:46 Kh 1:18), và cả muôn vàn thiên sứ thờ phượng Chúa trên trời (Kh 5:9,12). Phao-lô, Phi-e-rơ và Giăng cũng đề cập đến sự chết của Đấng Christ trong các thư tín.


Sự chết của Chúa mang tính tự nguyện: Ngài vui lòng trút linh hồn mình (Gi 19:30; Gi 10:17-18) và phó chính mình (Ga 2:20) Ngài dâng mình như một giá chuộc nhiều người (Mac 10:45), như một của tế lễ cho Đức Chúa Trời (Eph 5:2) và của lễ chuộc tội (IGi 2:2).

Ở (Lu 9:31 sự chết của Chúa được gọi là sự “qua đời”), tiếng Hy-lạp gọi là “exodus” (cuộc ra đi) chỉ về Chiên con của lễ Vượt Qua và sự giải phóng khỏi ách nô lệ. Để bày tỏ mọi điều đã xảy ra khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá, hẳn sẽ phải mất một khoảng thời gian vô tận!


3. Bị chôn (Gi 19:31-42)

Có hai nhóm người liên quan đến việc chôn Chúa: quân lính La-mã (Gi 19:31-37) và các tín hữu Do-thái (Gi 19:38-42). Các phạm nhân thường ở trong tình trạng chết treo trên thập tự giá quá lâu, nên các lãnh đạo tôn giáo muốn kết thúc nhanh chóng cái chết của Chúa Giê-xu và hai tên cướp.

Tuy nhiên, Chúa chúng ta vẫn hoàn toàn chủ động. Ngài trút linh hồn vào “giờ thứ chín” nghĩa là 3 giờ chiều (Mat 27:45-50). Ba lời nói cuối cùng được Chúa thốt ra trong khoảng thời gian ngắn trước khi Ngài phó sự sống mình.


Đáng chú ý là lính La-mã đã không thực hiện mệnh lệnh được giao cho họ: phải đánh gãy chân các phạm nhân. Nhưng họ đã làm việc mà họ không hề được giao: đâm vào sườn Đấng Christ! Trong cả hai sự việc, họ đã làm ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời! Chẳng một cái xương nào của Chiên Con lễ Vượt Qua bị gãy (Xu 12:46; Dan 9:12; Thi 34:20) như vậy chính Chúa đã bảo vệ những cái xương của Ngài. Sườn Ngài phải bị đâm (Xa 12:10; Kh 1:7), vì vậy điều này đã được quân lính La-mã thực hiện.


Giăng nhìn thấy một ý nghĩa đặc biệt về huyết và nước đã chảy ra từ hông Chúa. Trước tiên, nó chứng tỏ Chúa Giê-xu có một thân thể con người thật (IGi 1:1-4) nên đã trải qua một sự chết thật. Vào thời điểm Giăng viết thư tín này, có những giáo sư giả trong Hội thánh tuyên bố rằng Chúa Giê-xu thật sự không mang thân thể con người! Ngoài ra, còn có một ý nghĩa tượng trưng: huyết Chúa bày tỏ việc chúng ta được xưng công bình, nước từ hông Ngài bày tỏ rằng chúng ta được thánh hoá và tinh sạch.


Huyết Chúa bôi xoá tội lỗi và nước từ Ngài giải quyết ô nhiễm của tội lỗi.

Một số người học Kinh Thánh đã kết hợp (Gi 19:34; IGi 5:6) nhưng có lẽ sự kết hợp này không đủ sức thuyết phục. Trong IGi 5:1-21 Giăng đưa ra chứng cớ Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời đã đến thế gian trong thể xác và ông trình bày ba chứng cớ: Thánh Linh, nước và huyết (IGi 5:6,8). Thánh Linh có liên quan đến lễ Ngũ Tuần và nước có liên hệ với phép báp-têm.

Còn huyết chỉ về sự hy sinh của Chúa trên thập tự giá. Trong mỗi sự kiện ấy, Đức Chúa trời chứng minh rằng Chúa Giê-xu chính là Đấng đại diện cho những gì Ngài tuyên bố, là Đức Chúa Trời đã đến trong xác thịt. Thật vậy, qua Gi 19:35 sứ-đồ Giăng cho thấy rõ nước và huyết giúp người đọc Kinh Thánh tin rằng Chúa Giê-xu là Đấng Christ (Gi 20:31).


Khi quân lính đã thực hiện xong công việc dã man của họ, bạn hữu của Chúa bắt đầu làm nhiệm vụ. Theo Kinh Thánh, từ đây không có kẻ vô tín nào sờ được thân thể Chúa Giê-xu. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị trước hai con người ở tầng lớp thượng lưu để lo việc chôn cất xác Chúa và đặt Ngài vào một ngôi mộ xứng đáng.

Nếu như Giô-sép và Ni-cô-đem không có mặt tại đó, có lẽ xác Chúa sẽ bị vứt vào một hố tăm tối nào đó và không ai biết đến, theo như lời của James Stalker đã viết trong cuốn sách “Vụ án và Sự chết của Chúa Giê-xu” (The Trial & Death of Jesus Christ). Nếu bạn hữu của nạn nhân có mặt, lính La-mã sẽ rất vui mừng giao xác chết cho bạn hữu người và không còn trách nhiệm nữa.


Nếu bạn thu thập những tư liệu sẵn có về Giô-sép người A-ri-ma-thê, bạn sẽ biết rằng: ông rất giàu (Mat 27:57), một nghị viên toà Công Luận có danh vọng (Mac 15:43), một người chánh trực công bình, không đồng ý với những việc tòa Công Luận đã làm (Lu 23:50-51) một người thuộc nhóm thiểu số trong dân Do-thái có lòng tin và trông đợi Nước Đức Chúa Trời (Mac 15:43 chú ý Lu 2:25-38) và cũng là một môn-đệ của Chúa Giê-xu (Gi 19:38). Chính ông là người xin xác Chúa Giê-xu và cùng với bạn mình là Ni-cô-đem đã chôn cất Chúa tử tế.


Tuy nhiên có một số chi tiết về Giô-sép khiến chúng ta khó hiểu và cần nghiên cứu kỹ hơn. Tại sao ông cho xây ngôi mộ rất gần nơi xử án? Hầu hết những người Do-thái mộ đạo đều muốn mình được chôn cất trong thành Giê-ru-sa-lem, vậy mà một người giàu có như Giô-sép lẽ nào lại không đủ khả năng mua một mảnh đất tốt hơn cho nơi an nghỉ cuối cùng của mình? Bạn tưởng tượng xem những người bà con của ông đến để thăm mộ ông sẽ phải nghe tiếng nguyền rủa gào thét của những tử tội trên thập tự giá gần đó! (Gi 19:41).


Ma-thi-ơ, Lu-ca và Giăng cho chúng ta biết rằng ngôi mộ ấy chưa từng chôn ai. Đó là ngôi mộ mới xây của Giô-sép (Mat 27:60) để dành cho chính ông. Cũng có thể ông chuẩn bị ngôi mộ ấy cho Chúa Giê-xu chăng?


Giăng cũng cho biết Giô-sép là “môn-đệ kín giấu của Chúa Giê-xu vì ‘sợ dân Giu-đa”. Theo tiếng Hy-lạp, “kín giấu” nghĩa là “được giữ bí mật”, giống như từ “kín nhiệm” ở Mat 13:35 vậy.

Nói cách khác, Giô-sép là “một nhân viên mật của Đức Chúa Trời” trong tòa Công Luận! Theo quan điểm con người, Giô-sép giữ bí mật vì sợ dân Do-thái (Gi 7:13; Gi 9:22; Gi 12:42), nhưng dưới mắt Đức Chúa Trời ông là người được bảo vệ để chuẩn bị sẵn sàng cho việc chôn xác Chúa Giê-xu.


Chúng ta để ý rằng mỗi lần Ni-cô-đem được nhắc đến, người đọc đều biết ông là người gặp Chúa Giê-xu vào ban đêm (Gi 3:1; Gi 7:50-53). Nhưng con người này từ chỗ mơ hồ vào ban đêm (Gi 3:1-36) đã có sự xưng nhận vào ban ngày! Ni-cô-đem đã từ hai bóng tối bước ra ánh sáng, và cùng với Giô-sép ông chẳng hề xấu hổ khi nhận Chúa Giê-xu trước mặt mọi người. Dĩ nhiên khi hai người này chạm đến xác Chúa Giê-xu họ đã bị ô uế và không thể dự lễ Vượt Qua được. Nhưng điều này đã tạo khác biệt gì? Họ đã gặp được Chiên Con của Đức Chúa Trời!


Rõ ràng Giô-sép và Ni-cô-đem đã vạch kế hoạch chu đáo cho công việc của họ tại Gô-gô-tha. Chắc hẳn họ không thể chuẩn bị ngôi mộ vào giây phút cuối cùng, cũng không thể mua được hương liệu trị giá 65 nén bạc quá nhanh chóng như vậy trong kỳ lễ Vượt Qua khi các thương buôn không hoạt động.

Chúa Giê-xu không chết trước khi Giô-sép đến gặp Phi-lát để xin xác Ngài. Ni-cô-đem đã có mặt tại thập tự giá để canh chừng xác Chúa. Hai người này có lẽ đã chờ nhau tại ngôi mộ mới, mang theo hương liệu và vải liệm, chuẩn bị cho giây phút Đấng Christ tắt hơi.


Sự khẩn trương là điều cần thiết nên hai người đàn ông này bắt tay vào làm việc nhanh nhẹn. Họ không thể tắm rửa toàn bộ thân thể Chúa theo tục lệ, nhưng họ đã cố gắng hết khả năng mình. Điều quan trọng là phải giữ xác Ngài được an toàn, tránh khỏi sự chú ý của người La-mã và các lãnh đạo Do-thái. Dĩ nhiên Ma-ri ở Bê-tha-ni đã xức dầu thơm để chôn xác Chúa từ trước (Gi 12:1-8; Mac 14:8). Họ sẽ trở lại sau ngày Sa-bát để hoàn tất việc chôn xác Chúa (Lu 23:55-24:1).


Câu hỏi được nêu ra ở đây là “Làm sao Giô-sép và Ni-cô-đem biết trước để chuẩn bị việc chôn Chúa?” Tiến trình sau đây chỉ là sự phỏng đoán của riêng tôi, nhưng có lẽ đây là điều hợp lý.


Khi Ni-cô-đem đến gặp Chúa lần đầu tiên, ông rất cảm kích trước phép lạ và lời giáo huấn của Chúa, nhưng không hiểu “tái sinh” nghĩa là gì. Chắc hẳn sau cuộc nói chuyện ấy, Ni-cô-đem đã tra xem Kinh Thánh và cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt ông về những vấn đề thuộc linh quan trọng này.


Tại cuộc họp của tòa Công Luận ở Gi 7:45-53. Ni-cô-đem dạn dĩ bảo vệ cho Đấng Christ! Các cộng sự ông cười nhạo khi ông nghĩ rằng một tiên tri có thể xuất thân từ Ga-li-lê. Họ nói rằng: “Hãy tra xét, sẽ thấy...” và đó là điều Ni-cô-đem đã thực hiện. Dường như Giô-sép cũng yên lặng đồng tình với Ni-cô-đem và bày tỏ rằng ông đã tin chắc Chúa Giê-xu Na-xa-rét đích thực là Đấng Mê-si-a của Y-sơ-ra-ên, Con Đức Chúa Trời.


Khi Ni-cô-đem và Giô-sép tra xem Kinh Thánh, họ đã tìm thấy những lời tiên tri nói về Đấng Mê-si-a, cũng như khám phá rằng có nhiều lời tiên tri được ứng nghiệm qua Chúa Giê-xu. Chưa hẳn họ đã nhìn biết Ngài là Chiên Con Đức Chúa Trời và biết trước Ngài sẽ hy sinh tại lễ Vượt Qua.

Chúa Giê-xu cũng cho Ni-cô-đem biết trước Ngài sẽ “bị treo lên” (Gi 3:14) nghĩa là bị đóng đinh trên thập tự giá. Vì các chiên con của lễ Vượt Qua bị giết khoảng 3 giờ chiều, nên hai người này đều biết chính xác thời điểm Chiên Con Đức Chúa Trời chịu chết trên thập tự giá! Có lẽ họ đã đọc Es 53:1-12 và chú ý đến câu Es 9: “Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác, nhưng khi chết, người được chôn với kẻ giàu”. Chúa Giê-xu sẽ phải được chôn trong mộ của người giàu!


Giô-sép đã chuẩn bị ngôi mộ từ trước và giờ đây ông cùng Ni-cô-đem đem đến vải liệm và thuốc thơm cho việc chôn xác Chúa. Có lẽ họ đã ẩn nấp trong ngôi mộ này suốt 6 tiếng đồng hồ Chúa chịu đau đớn trên thập tự giá.

Khi họ nghe lời phán “Mọi việc đã được trọn! Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha!”, họ biết Ngài đã tắt hơi nên bắt tay vào công việc. Họ dạn dĩ nhận xác Chúa Giê-xu trong thời điểm dường như Ngài đã thất bại một cách vô vọng. Như chúng ta đã biết, trong số các môn-đệ Chúa, chỉ có Giăng ở cùng họ tại thập tự giá.


Ngày Sa-bát sắp bắt đầu, Chúa Giê-xu đã hoàn tất công tác “sáng tạo mới” của Ngài (IICôr 5:17) và giờ đây Ngài yên nghỉ.



 


22. BÌNH MINH CỦA MỘT NGÀY MỚI (Gi 20:1-18)


Nếu Phúc-âm Giăng là một cuốn sách tiểu sử bình thường, vậy có lẽ sẽ không có đoạn 20. Tôi vốn là người thường đọc các tiểu sử, thấy rằng hầu hết đều nói đến sự chết và chôn của nhân vật. Tuy nhiên, tôi chưa đọc một cuốn sách nào mô tả sự sống lại từ cõi chết của một nhân vật!

Việc Giăng tiếp tục viết phần cuối sách và chia sẻ niềm hân hoan về phép lạ phục sinh, đủ chứng minh rằng Chúa Giê-xu không giống những nhân vật bình thường khác. Ngài thật sự là Con Đức Chúa Trời!


Sự sống lại là phần cốt lõi trong sứ điệp của Phúc-Âm (ICôr 15:1-8) và là một giáo lý quan trọng trong Cơ-đốc giáo, chứng minh rằng: Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời (Công 2:32-36; Rô 1:4) công tác cứu chuộc của Ngài trên thập tự giá đã được hoàn tất và có hiệu nghiệm (Rô 4:24-25).

Thập tự giá “không người” và ngôi mộ “trống” chính là những “chứng từ” của Đức Chúa Trời cho chúng ta biết mọi khoản nợ đã được trả hết. Chúa Giê-xu không chỉ là Đấng Christ, Ngài còn là Đấng Thánh Hóa (Rô 6:4-10) và Đấng Cầu Thay (Rô 8:34). Ngày kia, Ngài sẽ tái lâm để làm Đấng Xét Đoán (Công 17:30-31).


Ngay từ trước, kẻ thù của Chúa đã muốn chối bỏ sự kiện lịch sử về sự phục sinh. Các lãnh đạo Do-thái tuyên bố rằng xác Chúa đã bị đánh cắp khỏi ngôi mộ.


Lời tuyên bố ấy thật vô lý, vì nếu xác Chúa bị môn-đệ đánh cắp thì làm sao họ có thể thực hiện được? Ngôi mộ được quân lính La-mã canh gác cẩn mật và được lấp bằng tảng đá lớn có dấu niêm phong của nhà chức trách La-mã. Hơn nữa, các môn-đệ Chúa không tin rằng Ngài có thể sống lại từ cõi chết, chính những kẻ thù Chúa là những người ghi nhớ những lời Ngài từng phán (Mat 27:62-66).

Chắc chắn họ cũng không phải là kẻ lấy xác Chúa đi. Mục đích cuối cùng của họ là sẽ không còn ai tin rằng Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại. Nếu bạn hữu Chúa không thể lấy xác Ngài và kẻ thù Chúa cũng không làm vậy, thế ai đã làm điều này?


Có thể các môn-đệ đã có những “khải tượng” về Chúa phục sinh và cắt nghĩa chúng như những chứng cớ về sự phục sinh? Nhưng họ không hề mong được thấy Chúa và đó cũng không phải là trạng thái tâm lý do ảo giác tạo ra. Làm sao hơn 500 người có chung một ảo giác tại cùng một thời điểm? (ICôr 15:6).


Các môn đệ Chúa đã đến nhầm mộ chăng? Không phải vậy. Họ đã xem xét cẩn thận vị trí ngôi mộ của Chúa (Mat 27:61; Mac 15:47; Lu 23:55-56). Họ yêu mến Thầy mình nên không thể lầm lẫn nơi yên nghỉ của Ngài. Thực tế, khi những phụ nữ đi đến mộ, họ rất lo lắng vì không biết ai sẽ lăn hòn đá nặng nề kia (Mac 16:1-3). Vì vậy, họ rất quen thuộc với địa điểm này.


Không cần phải nói gì về lý luận ngớ ngẩn cho rằng Chúa Giê-xu đã không chết nhưng chỉ ngất đi trên thập tự giá và sau đó tỉnh lại! Biết bao chứng cớ cho thấy Chúa Giê-xu đã chết khi thân thể Ngài được đem xuống khỏi thập tự giá. Sau đó, Ngài đã phục sinh có sự chứng kiến của những nhân chứng đáng tin cậy. Một kết luận hữu lý duy nhất, đó là Ngài đã thành tín với lời hứa và sống lại từ cõi chết!


Tuy nhiên, lúc bấy giờ các môn đệ thân cận nhất của Chúa cũng không hiểu chân lý vinh hiển về sự Phục sinh. Chân lý ấy dần dần hiển hiện và bày tỏ cho những con người khốn khổ biết rằng Chúa của họ không chết nhưng vẫn sống!

Thật là một đổi thay bất ngờ khi họ nhận biết trọn vẹn về sự phục sinh! Đối với Ma-ri, Ma-đơ-len, đổi thay ấy đã đưa bà từ chỗ khóc lóc đến vui mừng (Gi 20:1-18). Đối với 10 môn-đệ, họ từ chỗ sợ hãi đã trở nên dạn dĩ (Gi 20:19-23). Đối với Thô-ma, nỗi nghi ngờ của ông đã nhường chỗ cho sự biết chắc (Gi 20:24-31). Với Ma-ri, bà kinh nghiệm được tình yêu của Chúa. Với 10 môn đệ, họ kinh nghiệm về hy vọng, và với Thô-ma, ông kinh nghiệm về đức tin.


Khi xem xét từng trải của Ma-ri Ma-đơ-len trong ngày phục sinh của Chúa, chúng ta có thể thấy ba giai đoạn trong sự hiểu biết của bà về chân lý của sự phục sinh. Phi-e-rơ và Giăng cũng dự phần trong từng trải này:


1. Đức tin lu mờ (Gi 20:1-2)

Ma-ri Ma-đơ-len cùng những phụ nữ khác hẹn nhau đến mộ Chúa vào sáng sớm ngày đầu tuần để bày tỏ lòng yêu mến của họ đối với Chúa Giê-xu qua việc hoàn tất thủ tục chôn cất. Giô-sép người A-ri-ma-thê và Ni-cô-đem đã tranh thủ khâm liệm xác Chúa và bây giờ những người đàn bà muốn hoàn tất công việc này. Mối quan tâm lớn của họ là làm sao để vào được ngôi mộ. Có lẽ họ hy vọng lính La-mã sẽ thương hại họ và giúp họ một tay.


Có một điều họ không biết một cơn động đất đã xảy ra và hòn đá trước cửa mộ được thiên sứ lăn ra! Dường như Ma-ri Ma-đơ-len là người đến mộ trước những phụ nữ khác. Khi nhìn thấy hòn đá được lăn ra khỏi cửa mộ, bà cho rằng có ai đó đã đột nhập vào mộ và đánh cắp xác Chúa.

Có thể, chúng ta sẽ chỉ trích Ma-ri về những kết luận vội vàng của bà. Nhưng nếu xem xét hoàn cảnh lúc ấy, chúng ta sẽ thấy bà khó lòng có một kết luận nào khác hơn thế. Trời hãy còn mờ tối, bà chỉ có mặt một mình tại ngôi mộ. Và cũng như bao môn-đệ khác của Chúa, bà không tin rằng Chúa sẽ sống lại từ cõi chết.


Bà đã chạy đi báo tin cho Phi-e-rơ và Giăng, là những người có lẽ đã sống chung với nhau tại một nơi quen thuộc với các môn-đệ. Nơi ấy có lẽ là Phòng Cao, chỗ họ đã gặp mặt Chúa Giê-xu. Thật thú vị khi Ma-ri dùng đại danh từ “chúng ta” vì nó bao gồm cả những phụ nữ khác những người vào thời điểm đó đã khám phá ra Chúa Giê-xu đã sống (Mac 16:1-8; Lu 24:1-8)! Họ rời ngôi mộ và loan báo sứ điệp của các thiên sứ cho những môn-đệ khác.


Ý nghĩa thay khi những nhân chứng đầu tiên về sự phục sinh của Đấng Christ là những người nữ tin kính. Giữa vòng dân Do-thái thời bấy giờ, lời làm chứng của phụ nữ thường không được coi trọng.

Các thầy dạy luật từng nói rằng: “Thà để lời luật pháp bị thiêu cháy còn hơn là chuyển đạt nó cho phụ nữ?” Tuy vậy, những phụ nữ tin kính này đã rao ra một sứ điệp vĩ đại hơn lời của luật pháp vì họ biết rằng Đấng Christ của họ là Đấng sống!


Tuy đức tin của Ma-ri không nguội lạnh, nhưng vẫn còn rất lu mờ. Sự sáng vẫn hiện diện ở đó, nhưng bị che khuất Phi-e-rơ và Giăng cũng ở trong tình trạng thuộc linh tương tự, nhưng chẳng bao lâu ba người ấy sẽ bước ra khỏi bóng tối để đi vào sự sáng!


2. Đức tin đã ló dạng (Gi 20:3-10)

Gi 20:3 cho thấy Phi-e-rơ khởi hành trước để đến mồ, nhưng ở Gi 20:24 cho biết Giăng đến nơi trước. Có lẽ Giăng là người trẻ tuổi có thể lực khỏe hơn hoặc có thể Giăng là người chạy giỏi hơn. Có người đã thử “thuộc linh hóa” cuộc chạy đua này và liên hệ nó với Es 10:31 và Hêb 12:1-2.

Khi một Cơ-đốc nhân xa rời mối liên hệ với Chúa, thật khó lòng tham dự cuộc đua của đức tin. Tuy vậy, hai người này xứng đáng được tin cậy vì can đảm chạy vào địa phận kẻ thù, không cần biết việc gì sẽ xảy đến cho mình. Đây có lẽ là một cái bẫy thuận lợi để bắt cóc môn đệ.


Khi Giăng đến ngôi mộ, ông cẩn thận ở bên ngoài nhìn vào. Có lẽ ông muốn cùng Phi-e-rơ vào bên trong. Giăng nhìn thấy gì? Những tấm khăn hiện nằm trên phiến đá không có dấu vết của cuộc bạo động hay tội ác nào. Nhưng những lớp vải liệm trống rỗng! Chúng nằm đó như một cái vỏ rỗng vẫn mang hình dáng của thân thể Chúa Giê-xu.


Phi-e-rơ đến nơi và hấp tấp bước vào ngôi mộ đúng như điều chúng ta đoán trước. Ông cũng thấy những tấm vải liệm nằm chơ vơ ở đó và chiếc khăn trùm đầu được quấn cẩn thận đặt ở một vị trí khác. Những tên trộm mồ mả không thể mở thi thể người chết cách cẩn thận và rồi để những tấm vải liệm một cách ngăn nắp như vậy. Thật ra, khi có thuốc thơm được gấp theo vải liệm thì việc mở xác chết ra mà không làm xáo trộn vải liệm là một việc bất khả. Cách duy nhất để những tấm vải liệm kia có thể được giữ trong tình trạng này, đó là Chúa Giê-xu đã thoát khỏi lớp vải liệm khi Ngài sống lại!

Sau đó Giăng đã bước vào ngôi mộ và xem xét chứng cớ. Ông đã “thấy và tin” (Gi 20:8).


Khi Giăng viết đoạn Kinh Thánh này, ông đã sử dụng ba từ Hy-lạp khác nhau nói về hành động “thấy”. Ở Gi 20:5 động từ đơn giản có nghĩa là “nhìn vào”. Ở Gi 20:6 từ ‘thấy” có nghĩa là xem xét cẩn thận hoặc quan sát. Ở Gi 20:8 “thấy” nghĩa là nhận biết một cách sâu sắc và minh mẫn. Niềm tin về sự phục sinh của họ giờ đây đang ló dạng!


Thật không ngờ rằng môn đệ Chúa Giê-xu không hề trông mong Chúa sống lại và bước ra khỏi phần mộ. Ngài đã nhiều lần cho họ biết trước rằng Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Ngay từ lúc khởi đầu chức vụ, Chúa đã phán: “Hãy phá đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng lại!” (Gi 2:19). Sau khi Chúa phục sinh, các môn-đệ Ngài nhớ lại lời Ngài phán về điều này (Gi 2:22). Kẻ thù của Chúa cũng nhớ lời Ngài phán nữa (Mat 27:40,63-64).


Chúa từng so sánh Ngài với tiên tri Giô-na (Mat 12:40) và hai lần Ngài công khai cho biết Ngài sẽ sống lại sau ba ngày chịu chết (Mat 16:21; Mat 20:19). Vào ngày thứ năm của tuần lễ chức vụ cuối cùng, Chúa hứa cùng các môn đệ rằng Ngài sẽ sống lại và gặp họ tại Ga-li-lê (Mat 26:32; Lu 24:6-7).


Đức tin của Phi-e-rơ và Giăng ra sao trong giai đoạn từng trải thuộc linh này? Đức tin của họ là đức tin dựa trên chứng cớ. Nhìn thấy những tấm vải liệm, họ biết thân xác Chúa không có ở phần mộ. Tuy nhiên, chứng cớ xác thực chỉ giúp cho việc thuyết phục tâm trí con người chớ không bao giờ có thể đổi thay được đời sống.

Chúng ta là những người sống trong thế kỷ hiện tại nên không thể xem xét chứng cớ vì chứng cớ có thể xem thấy như ngôi mộ, những tấm vải liệm chẳng hạn không còn ở đó để chúng ta xem xét. Tuy vậy, chúng ta có lời Đức Chúa Trời (Gi 20:9), và lời ấy là thật (Gi 19:35; Gi 21:24).

Thật vậy, đức tin nơi lời Đức Chúa Trời là điều Chúa Giê-xu muốn nhìn thấy nơi các môn đệ (Gi 2:22; Gi 12:16; Gi 14:26). Phi-e-rơ bày tỏ rằng lời Đức Chúa Trời phải là nền tảng của đức tin trong chúng ta chớ không phải những kinh nghiệm của con người (IPhi 1:12-21).


Các môn-đệ lúc bấy giờ chỉ có Kinh Thánh Cựu-ước (IPhi 20:9). Hội thánh ban đầu đã dùng Kinh Thánh Cựu-ước để minh chứng cho dân Do-thái và người ngoại biết rằng Chúa Giê-xu là Đấng Christ, Ngài đã chết thay tội nhân và sống lại (Công 9:22; Công 13:16; Công 17:1-4)

Sứ điệp Phúc-Âm gồm tóm “Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo lời Kinh Thánh” (ICôr 15:4). Phao-lô và Giăng nhớ đến những lời Kinh Thánh nào trong Cựu-ước?


Phao-lô nhìn thấy sự phục sinh qua Thi 2:7; Công 13:33. Phi-e-rơ nhớ đến Thi 16:8-11 (Công 2:23-26; Công 13:35). Phi-e-rơ cũng đề cập đến Thi 110:1 (Công 2:34-35). Câu nói “những ngày người sẽ thêm dài ra” Es 53:10 cũng được giải nghĩa như một lời tiên tri về sự phục sinh của Đấng Christ.

Chúa Giê-xu đã dùng tiên tri Giô-na để minh hoạ cho sự chết, chôn và sống lại của Ngài (Mat 12:38-40) sứ điệp này chứa đựng một khoảng thời gian “ba ngày”. Phao-lô nhìn thấy lễ dâng trái đầu mùa như một hình ảnh về sự phục sinh của Đấng Christ (Le 23:9-14; ICôr 15:20-23) và hình ảnh này cũng liên hệ với “ngày thứ ba”. Một số học viên Kinh Thánh nhìn thấy sự phục sinh và “ngày thứ ba” ở sách Os 6:2


Sau khi phục sinh, Chúa Giê-xu không bày tỏ chính Ngài cho mọi người, nhưng chỉ tỏ cho những nhân chứng Ngài chọn để rao Phúc-Âm ra cho người khác (Cong 10:39-43). Chứng cớ này được chép trong Thánh Kinh Tân-ước và cả trọn bộ Kinh Thánh Tân-ước đều có chung một chứng cớ ấy. Sách luật pháp, các đoạn Thi-thiên, các tiên tri và các sứ đồ đều cùng làm chứng rằng Chúa Giê-xu là Đấng Sống.


Phi-e-rơ và Giăng nhìn thấy chứng cớ nên tin. Sau đó, Đức Thánh Linh đã khiến đức tin họ được vững vàng qua những lời Kinh Thánh Cựu Ước. Tối hôm ấy, họ đã gặp được Chúa mình một cách rõ ràng! Đức tin của họ từ chỗ lu mờ giờ đã bắt đầu ló dạng!


3. Đức tin chiếu sáng ra (Gi 20:11-18)

Khi nghĩ đến Ma-ri Ma-đơ-len đang thơ thẩn một mình giữa vườn, tôi nhớ câu Ch 8:17 “Ta yêu mến những người yêu mến ta, phàm ai tìm kiếm ta sẽ gặp ta”. Ma-ri yêu mến Chúa nên đến vườn thật sớm để bày tỏ tấm lòng bà. Phi-e-rơ và Giăng trở về nhà đúng vào lúc Ma-ri trở lại ngôi mộ, nên họ không thể cho bà biết rằng họ đã nhìn thấy chứng cớ: Ma-ri vẫn cho rằng Chúa Giê-xu đã chết. Tôi chợt nhớ câu Thánh Kinh ở Thi 30:5 “Sự khóc lóc đến trọn ban đêm, nhưng buổi sáng bèn có sự vui mừng”.


Tiếng khóc của Ma-ri là sự sầu não thống thiết, bày tỏ tính cách của người Do-thái khi biểu lộ sự buồn rầu. (Gi 11:31-33). Lòng buồn rầu thật tâm không có gì là sai trái cả, vì Đức Chúa Trời đã khiến chúng ta có thể rơi lệ, và tiếng khóc là phương thuốc hữu hiệu cho những tấm lòng tan vỡ. Tuy nhiên, sự buồn rầu của Cơ-đốc nhân phải khác biệt với nỗi thất vọng của thế gian (ITês 4:13-18) vì chúng ta đã được tái sinh “nhờ sự Đức Chúa Giê-xu sống lại từ trong kẻ chết mà có sự trông cậy sống” (IPhi 1:3).

Chúng ta khóc không phải vì những người thân yêu tin kính của chúng ta đã đến Nước Trời, nhưng vì họ đã tạm biệt chúng ta và khiến chúng ta nhớ họ


Khi Ma-ri nhìn vào mộ, bà thấy có hai người nam mặc áo trắng. Họ ngồi ở hai đầu phiến đá nơi Chúa đã nằm. Vị trí này khiến chúng ta nhớ đến các chê-ru-bin trên nắp thi ân (Xu 25:17-19). Dường như Đức Chúa Trời muốn phán rằng: “Giờ đây đã có một nắp thi ân mới. Con Ta đã trả giá cho tội lỗi và con đường đang mở ra dẫn đến nơi hiện diện của Đức Chúa Trời”.

Rõ ràng, Ma-ri không hề bối rối khi nhìn hai người nam này. Không có chứng cớ biểu hiện rằng bà biết họ là thiên sứ. Cuộc nói chuyện ngắn kia cũng không làm vơi đi những giọt lệ hay trấn tĩnh tâm trí bà. Bà quyết định đi tìm xác Chúa Giê-xu.


Vì sao Ma-ri quay lại mà không tiếp tục nói chuyện với hai vị khách lạ kia? Phải chăng bà nghe một tiếng nói phía sau? Hay là các thiên sứ đứng dậy khi nhận ra sự hiện diện của Chúa họ? Hai suy đoán trên có thể đúng, cũng có thể cả hai điều sai. Ma-ri biết chắc xác Chúa không có trong mộ, vậy tại sao bà lại nấn ná nơi đây?


Tại sao Ma-ri không nhận ra Đấng mà bà đang nôn nóng tìm kiếm! Có thể Chúa Giê-xu có ý không cho bà biết Ngài, vì Ngài cũng làm vậy khi đi với hai môn đệ ở Em-ma-út (Lu 24:13-32). Trời vẫn còn sớm và có lẽ trong vườn tối. Thêm vào đó mắt Ma-ri có thể bị nhòa bởi những giọt lệ.


Chúa Giê-xu hỏi bà câu hỏi tương tự như các thiên sứ: “Sao ngươi khóc?” Đáng tiếc rằng bà đã khóc thay vì có thể vui mừng ngợi khen Chúa khi nhận biết Ngài đã sống! Chúa hỏi tiếp: “Ngươi tìm ai?” (Đây cũng là câu hỏi Ngài nói với đám đông trong vườn – Gi 18:4). Chúng ta được khích lệ khi biết rằng Chúa Giê-xu hiểu thấu mọi nỗi đau buồn của chúng ta. Đấng Christ biết tấm lòng tan vỡ của Ma-ri và tâm trí bối rối của bà. Ngài không quở trách bà nhưng dịu dàng tỏ chính Ngài cho bà.


Chúa chỉ kêu tên Ma-ri, lập tức bà nhận ra Ngài. Chiên Ngài nghe tiếng Ngài khi Ngài gọi tên chúng (Gi 10:3). Khi Chúa gọi tên Ma-ri, bà quay lại nhìn Ngài. Thật là một nỗi ngạc nhiên đầy phước hạnh khi Ma-ri nhìn thấy gương mặt yêu dấu của Chúa mình! Bà chỉ có thể thốt lên: “Ra-bu-ni (Chúa tôi, Thầy tôi)”.

Danh hiệu Ra-bu-ni được sử dụng ở một hoàn cảnh khác trong Mac 10:51 Theo bản văn Hy-lạp, Ra-bu-ni là Chúa). Ra-bi và Ra-bu-ni đều được dùng theo nghĩa kính trọng. Trong những năm sau này, dân Do-thái có sự phân biệt giữa ba cấp bậc về “thầy”: rab (thấp nhất), ra-bi và Ra-bu-ni (cao nhất).


Ma-ri không chỉ nói với Ngài, nhưng còn ôm chặt chân Ngài. Đây là một sự bày tỏ tự nhiên: Bây giờ đã gặp được Chúa, bà không muốn mất Ngài. Bà và những người tin khác vẫn còn vô số điều để học về trạng thái vinh hiển mới của Ngài. Họ vẫn muốn liên hệ với Ngài như cách họ đã làm trong suốt ba năm chức vụ trước khi lên thập tự.


Chúa Giê-xu đã cho phép những phụ nữ khác ôm chân Ngài và không ngăn cấm họ (Mat 28:9). Vì sao Ngài lại phán với Ma-ri rằng “Chớ rờ đến ta?” Một lý do là bà đã gặp lại Chúa vì Ngài chưa về cùng Cha. Sau khi phục sinh Ngài còn ở trần gian 40 ngày và thường xuất hiện trước nhiều môn-đệ để dạy dỗ họ những chân lý thuộc linh (Công 1:1-9). Ma-ri không cần phải ngạc nhiên vì đây không phải là lần cuối cùng bà gặp Chúa.


-Lý do thứ hai cho thấy Ma-ri có một việc phải làm, đó là đi nói cho các anh em Chúa biết rằng Ngài đang sống và sẽ trở về cùng Cha. “Ngài không thẹn mà gọi những kẻ đó là anh em” (He 2:11) “Tôi sẽ rao truyền danh Chúa cho anh em tôi” (Thi 22:22).

Ngài đã gọi những kẻ thuộc về Ngài là “đầy tớ” (Gi 13:16) và “bạn hữu” (Gi 15:15) nhưng giờ đây Ngài gọi họ là “anh em”. Điều này có nghĩa là Ngài muốn chia sẻ với họ quyền năng phục sinh và sự vinh hiển của Ngài.


Một số học viên Kinh Thánh cho rằng Chúa Giê-xu đã về cùng Cha vào sáng hôm ấy và đó là sự trở về mà Ngài muốn nói đến. Nhưng không có đoạn Kinh Thánh nào trong Tân-ước chứng thực lời giải thích ấy. Tôi nghĩ nếu nói rằng Chúa muốn làm trọn biểu tượng về Ngày Chuộc Tội và trình dâng huyết mình cho Cha, như vậy vấn đề đã bị kéo đi quá xa (Le 16:1-34).

Về phương diện này, Chúa chẳng có huyết nào để dâng nữa. Ngài đã bày tỏ huyết ấy nơi thập tự giá khi gánh tội thay chúng ta. Trong sự vinh hiển phục sinh của Ngài Ngài là Đấng có “thịt xương” (Lu 24:39), chớ không phải “thịt và huyết”. Chính sự phục sinh đã chứng minh rằng công tác cứu chuộc đã được hoàn tất (“Ngài...sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta” Ro 4:24-25). Vậy Ngài còn phải làm điều gì hơn thế?


Chúa Giê-xu không bao giờ dùng nhóm từ “Cha chúng ta” hay “Đức Chúa Trời chúng ta”. Mối liên hệ của Ngài với Cha khác với mối liên hệ của các môn-đệ nên Ngài có sự phân biệt rất thận trọng. Chúng ta nói “Cha chúng ta” và “Đức Chúa Trời chúng ta” vì mọi Cơ-đốc nhân đều thuộc một gia đình và có một vị trí bình đẳng trước mặt Đức Chúa Trời.

Chúa nhắc nhở bà Ma-ri và các môn-đệ khác rằng Đức Chúa Trời là Cha họ và Ngài sẽ ở với Cha nơi thiên đàng sau khi thăng thiên. Trong bài gảng tại Phòng Cao, Ngài dạy họ rằng Ngài sẽ trở về cùng Cha để Đức Thánh Linh có thể đến với họ.


Dù Ngài là Chúa Giê-xu không hề thay đổi, trong một thân thể vinh hiển, nhưng mối liên hệ giờ đây đã khác. Chúng ta phải cẩn thận, đừng nhận biết Đấng Christ “theo xác thịt” (IICôr 5:16) có nghĩa là đừng có cách tiếp cận Ngài như thể Ngài vẫn ở trong tình trạng khiêm ti.

Hôm nay Ngài là Con Đức Chúa Trời đáng được ngợi khen trong sự vinh hiển và chúng ta phải tôn kính Ngài theo cách ấy. Một số người muốn phô trương sự hiểu biết non nớt của họ khi làm chứng, cầu nguyện hay tôn vinh, đôi lúc càng cho thấy họ chẳng hiểu gì về lời Phao-lô nói ở (IICôr 5:16). Khi Giăng ngồi cạnh Chúa tại bàn ăn, ông đã dựa vào ngực Ngài (Gi 13:23), nhưng khi ông thấy Chúa ở giữa những chân đèn vàng, ông đã ngã xuống chân Ngài như người chết (Kh 1:17).


Có lẽ đối với Ma-ri, thật ích kỷ và bất tuân nếu bà cứ giữ Chúa lại cho riêng mình. Bà đứng dậy đi đến nơi nhóm họp của các môn đệ để báo cho họ tin mừng rằng Chúa Giê-xu vẫn sống! “Tôi đã thấy Chúa” (chú ý Gi 20:14,18,20,25,29). Mác thuật rằng những tín hữu này đang khóc lóc than vãn nên không tin lời bà (Mac 16:9-11).

Chính Ma-ri cũng từng than khóc nhưng nay đã được Chúa Giê-xu biến đổi từ chỗ buồn rầu sang vui mừng. Nếu họ tin, sự buồn bã của họ cũng sẽ đổi thành vui mừng. Chính sự vô tín đã khiến con người không còn nhận biết điều gì đúng hay sai. Vì vậy Đức Chúa Trời khuyên chúng ta cẩn thận đừng để mình “có lòng dữ và chẳng tin” (He 3:12).


Ma-ri không chỉ rao sự sống lại của Chúa được cá nhân bà chứng kiến, mà còn thuật lại những lời Chúa phán với bà. Một lần nữa, chúng ta thấy rõ tầm quan trọng của lời Đức Chúa Trời. Ma-ri không thể truyền đạt kinh nghiệm của bà cho họ, nhưng chỉ có thể chia xẻ lời Chúa, đó chính là lời đem đến đức tin (Rô 10:17), Đấng Christ hằng sống đã rao ra lời hằng sống của Ngài (IPhi 1:23-25).


Đức tin dựa trên chứng cớ xác thực là điều cần thiết, nhưng chứng cớ ấy phải dẫn chúng ta đến với lời Chúa. Lời Ngài phải đưa chúng ta đến với Đấng Christ. Tiếp nhận một giáo lý và tuân thủ nó là một vấn đề, nhưng có một mối liên hệ cá nhân với Chúa hằng sống là một vấn đề hoàn toàn khác.

Mãi đến khi gặp Chúa phục sinh có sự chứng kiến của các môn-đệ khác, Phi-e-rơ và Giăng mới tin chắc rằng Chúa đang sống (Chúa Giê-xu cũng hiện ra cho Phi-e-rơ chiều hôm ấy, (ICôr 15:5; Lu 24:34). Chứng cớ không đem lại kinh nghiệm thì đó chỉ là một giáo lý chết.

Bí quyết ở đây chính là đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời.


Tiến sĩ Robert W. Dale, một trong những nhà thần học và là mục sư nổi tiếng ở Anh quốc. Lần nọ, khi ông chuẩn bị cho bài giảng trong lễ Phục Sinh, sự nhận biết về Chúa Phục Sinh đã khiến ông có một năng lực mới. Ông nói với bản thân: “Đấng Christ đang sống! Ngài thật đang sống”. Nghỉ một chút đoạn ông nói: “Thật vậy sao? Chúa vẫn sống như tôi đang có mặt ở đây à?” ông rời khỏi bàn và đi tới lui lẩm bẩm: “Đấng Christ đang sống! Đấng Christ đang sống! ”


Tấn sĩ Dale đã biết và tin nơi giáo lý này từ nhiều năm qua, nhưng trong ngày ấy sự thực hữu của giáo lý ấy đã chiếm hữu ông. Từ đó trở đi, “Đấng Christ hằng sống” luôn là đề tài truyền giảng của ông. Ông mời ca đoàn tôn vinh bài thánh ca về sự phục sinh của Chúa mỗi sáng Chủ nhật hàng tuần. Ông nói: “Tôi muốn dân tộc tôi tin nơi một sự thật vinh hiển rằng Đấng Christ đang sống để có sự vui mừng. Anh biết đấy, Chúa nhật là ngày Đấng Christ từ cõi chết sống lại mà!”


Niềm tin có tính chất lịch sử bày tỏ “Đấng Christ sống!” Nhưng người có đức tin nơi sự cứu rỗi nói rằng “Đấng Christ sống trong tôi”. Bạn có tin rằng Đấng Christ sống trong mình không?



 


23. QUYỀN NĂNG PHỤC SINH (Gi 20:19-31)


Tin tức về sự sống lại của Chúa Giê-xu bắt đầu loan ra trong vòng các môn-đệ, từ chỗ dè dặt đến lúc đầy nhiệt huyết. Cả các môn-đệ cũng không tin những lời kể lại lúc ban đầu, còn Thô-ma lại đòi nhìn xem chứng cớ. Tuy nhiên, bất cứ nơi đâu người ta đối diện với chân lý về Chúa phục sinh, đời sống họ đều được thay đổi. Thật vậy, hôm nay điều đó vẫn là kinh nghiệm biến đổi của chính bạn.

Khi xem những đổi thay xảy ra trong đời sống của các môn-đệ (Gi 20:19-31), bạn hãy hỏi chính mình: “Bản thân tôi đã gặp Đấng Christ phục sinh chưa? Ngài đã thay đổi đời sống tôi chưa?”


1. Từ sợ hãi đến dạn dĩ (Gi 20:19-25)

Chúa chúng ta yên nghỉ trong phần mộ vào ngày Sa-bát và sống lại từ cõi chết vào ngày đầu tuần. Nhiều người đã gọi Chúa nhật là ngày Sa-bát của Cơ-đốc nhân, nhưng Chúa nhật không phải là ngày Sa-bát. Ngày Sa-bát là ngày thứ bảy trong tuần kỷ niệm công việc sáng tạo đã hoàn tất của Đức Chúa Trời (Sa 2:1-3). Chúa nhật là ngày kỷ niệm công tác cứu chuộc đã được trọn của Đấng Christ, là “sự sáng tạo mới”.

Đức Chúa Trời đã làm việc trong 6 ngày, sau đó Ngài nghỉ ngơi. Con Đức Chúa Trời đã làm việc trong 6 ngày, sau đó Ngài nghỉ ngơi. Con Đức Chúa Trời đã chịu thương khó trên thập tự giá suốt 6 giờ đồng hồ và Ngài cũng yên nghỉ.


Đức Chúa Trời đã ban ngày Sa-bát cho dân Y-sơ-ra-ên như một “dấu” đặc biệt bày tỏ họ thuộc về Ngài (Ne 9:14; Xu 20:8-11; Xu 31:13-17). Dân tộc này phải dùng ngày Sa-bát để nghỉ ngơi và tịnh dưỡng cho cả người và súc vật nuôi. Nhưng đối với dân Y-sơ-ra-ên, đây không nhất thiết là một ngày đặc biệt để nhóm họp và thờ phượng. Tiếc thay các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đã áp đặt nhiều lề luật khắt khe đối với ngày Sa-bát, đến nỗi ngày ấy trở thành một ngày “nô lệ” chớ không phải là ngày phước hạnh! Chính Chúa Giê-xu đã từng lên án những lễ nghi ấy dù Ngài cũng rất coi trọng ngày Sa-bát.


Phục sinh vào ngày đầu tuần, Chúa Giê-xu đã hiện ra ít nhất 5 lần với Ma-ri Ma-đơ-len (Xu 20:11-18), những phụ nữ khác (Mat 28:9-10), Phi-e-rơ (ICôr 15:5; Lu 24:34), hai môn-đệ ở Em-ma-út (Lu 24:13-32). Dường như các môn-đệ từ lâu thường nhóm họp vào chiều tối Chúa nhật gọi là “ngày của Chúa” (Kh 1:10).

Có lẽ Hội thánh ban đầu đã nhóm lại vào ngày đầu tuần để thờ phượng Chúa cũng như kỷ niệm sự chết và sống lại của Ngài (Công 20:7; ICôr 16:1-2).


Ngày Sa-bát đi qua, cũng là lúc Chúa sống lại từ cõi chết (Mac 16:1) vào ngày đầu tuần (Mat 28:1; Lu 24:1; Gi 20:1). Sự thay đổi từ ngày thứ bảy sang ngày đầu tuần không do ảnh hưởng của các điều luật trong Hội thánh, nhưng xuất phát từ đức tin và sự làm chứng của các tín hữu ban đầu.

Bao thế kỷ qua, ngày Sa-bát của dân Do-thái có liên hệ với luật pháp: 6 ngày làm việc, và rồi nghỉ ngơi. Nhưng ngày của Chúa là ngày đầu tuần có liên hệ với ân điển: trước hết có đức tin trong Đấng Christ, và rồi là việc làm.


Không có chứng cớ nào cho thấy Đức Chúa Trời từng ban luật Sa-bát cho dân ngoại, hay Hội thánh phải vâng theo luật Sa-bát. Trong Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, có điều răn được truyền đạt lại trong những thư tín gởi các Hội thánh, nhưng điều răn về ngày Sa-bát không được nhắc đến. Tuy vậy, Phao-lô giải thích rằng chúng ta là những Cơ-đốc nhân không nên tạo ra xem những ngày đặc biệt như một cuộc thử nghiệm về thuộc linh và mối thông công (Rô 14:5; Co 2:16-23).


Chúa đã biến đổi các môn-đệ từ chỗ sợ hãi trở nên dạn dĩ ra sao? Trước hết, Ngài đến với họ. Chúng ta không biết 10 con người sợ hãi này nhóm họp ở đâu phía sau những cánh cửa đóng chặt, nhưng Chúa Giê-xu đã đến với họ và yên ủi họ. Với thân thể phục sinh, Ngài có thể bước vào phòng mà không cần mở cửa! Đây thật đúng là một thân thể thực hữu vì Ngài yêu cầu họ sờ Ngài, thậm chí Ngài còn ăn với họ (Lu 24:41-43). Tuy nhiên thân thể Ngài giờ đây đã khác trước, vì không bị giới hạn bởi cái người ta gọi là “luật tự nhiên”.


Đáng chú ý là những con người này rất đỗi sợ hãi. Những phụ nữ đã cho họ biết Chúa sống lại và hai môn đệ ở Em-ma-út cũng làm chứng như vậy (Lu 24:33-35). Dường như Chúa hiện ra cho Phi-e-rơ vào chiều hôm ấy (ICôr 15:5; Lu 24:34; Mac 16:7) và sau đó ông mới được phục hồi lại mối liên hệ với Chúa (Gi 21:1-25). Chúa đã đến với các môn-đệ đúng vào lúc họ “không tin và lòng cứng cỏi” (Mac 16:14).


Lời đầu tiên Ngài nói với họ là lời chào hỏi theo phong tục Do-thái “Shalom – Bình an cho các ngươi!” Ngài có quyền quở trách sự vô tín và ngã lòng của họ vào những ngày trước đó, nhưng Ngài không làm vậy. “Ngài không đãi chúng tôi theo tội lỗi chúng tôi, cũng không báo trả chúng tôi tuỳ sự gian ác của chúng tôi” (Thi 103:10).

Công tác Ngài đã thực hiện trên thập tự giá chính là sự bình an (Eph 2:14-17; Rô 5:1) và sứ điệp họ rao truyền sẽ là Phúc-Âm về sự bình an (Rô 10:15). Con người từng “tuyên chiến” với Đức Chúa Trời (Thi 2:1-12; Công 4:23-30) nhưng Đức Chúa Trời lại phán với những ai tin Ngài rằng: “Bình an cho các ngươi!”.


Chúa Giê-xu không chỉ đến với các môn-đệ, Ngài còn yên ủi khích lệ họ. Ngài cho họ thấy vết đinh nơi bàn tay Ngài, vết giáo đâm nơi hông Ngài, Ngài tạo cơ hội để họ nhân biết Ngài thật sự là Chúa họ, chớ không phải là một “bóng ma”. (Các sách Phúc-Âm không ghi lại những vết thương ở chân Chúa, nhưng Thi 22:16 bày tỏ rằng chân Ngài cũng bị đóng vào thập tự giá).


Những vết thương trên thân Chúa mang ý nghĩa vượt khỏi phạm vi của sự nhận diện.Chúng chứng minh rằng giá chuộc tội đã được trả xong và con người đã được “hoà thuận với Đức Chúa Trời”. Nền tảng cho sự bình an của chúng ta được bày tỏ qua Con người và công việc của Chúa Giê-xu. Ngài chết thay chúng ta, sống lại trong sự vinh hiển và đang sống vì chúng ta. Trong sự sợ hãi chúng ta không thể giữ Ngài ở bên ngoài. Ngài đến với chúng ta bằng ân điển và khích lệ ta qua lời Ngài. “Bạn hữu làm cho thương tích, ấy bởi lòng thành tín” (Ch 27:6).


Chúa phán với các môn-đệ rằng: “Cha đã sai ta thể nào, ta cũng sai các ngươi thể ấy” (Ch 20:21). Hãy nhớ rằng các môn đệ theo Chúa đầu tiên không phải là những người hiện diện trong phòng lúc này, nhưng có một số người khác, trong đó có cả hai môn-đệ ở Em-ma-út. Đây không phải là một “nghi lễ thụ phong” theo luật lệ Hội thánh, nhưng là lời rao truyền cho các môn đệ về công tác giảng Phúc-Âm khắp thế gian.

Chúng ta phải thay thế công việc của Chúa trên thế gian này (Gi 17:18). Đây thật là một đặc quyền lớn lao và cũng là một trách nhiệm quan trọng? Chúng ta phải hạ mình xuống để thấy rằng: Chúa rất yêu chúng ta như Cha đã yêu Ngài vậy (Gi 15:6,17,26), chúng ta được ở trong Cha cũng như Chúa Giê-xu ở trong Cha (Gi 17:21-22). Cũng hãy khiêm nhường để biết rằng Ngài đã sai chúng ta trong thế gian như Cha đã từng sai Ngài. Trước khi thăng thiên, Chúa nhắc nhở họ về nhiệm vụ rao giảng Phúc-Âm khắp đất (Mat 28:18-20).


Các môn-đệ hẳn rất vui mừng khi nhận biết rằng dẫu họ có nhiều khiếm khuyết thất bại, nhưng Chúa vẫn giao phó cho họ, công việc Ngài và rao truyền Lời Ngài. Họ từng khước từ Ngài và lẩn trốn, nhưng giờ đây Ngài muốn sai họ đi trong danh Ngài. Phi-e-rơ chối Chúa ba lần nhưng chỉ vài ngày sau ông rao giảng lời Chúa (và lên án dân Do-thái về tội chối bỏ Chúa – Công 3:13-14) kết quả cho thấy:hàng ngàn người đã được cứu.


Chúa Giê-xu không chỉ đến với các môn-đệ và khích lệ họ, Ngài còn giúp đỡ họ qua Đức thánh Linh. (Gi 20:22 nhắc chúng ta nhớ đến Sa 2:7 khi Đức Chúa Trời hà sinh khí vào con người đầu tiên). Theo tiếng Hy-lạp và Hê-bơ-rơ, từ “hơi thở” cũng có nghĩa là Thánh Linh. Hơi thở của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo đầu tiên mang ý nghĩa về sự sống của thể chất, còn hơi thở của Chúa Giê-xu Christ trong sự sáng tạo mới mang ý nghĩa về sự sống thuộc linh.

Các môn-đệ đã chịu phép báp-tem của Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần và được ban quyền phép để thi hành chức vụ (Công 1:4-5; Công 2:1-4), Nếu không được đầy dẫy Đức Thánh Linh, chúng ta không thể ra đi làm chứng một cách hiệu quả được. Đức Thánh Linh từng ở với các môn-đệ trong thân vị Chúa Giê-xu, nhưng giờ đây chính Đức Thánh Linh sẽ ở trong lòng họ (Gi 14:17).


Gi 20:23 không có nghĩa là Chúa ban cho cá nhân con người quyền hạn tha tội hay cho phép kẻ khác lên thiên đàng! Chúa cũng phán những lời tương tự trước đó (Mat 16:19), nhưng Ngài không muốn đặt các môn đệ (cũng như những người kế tục họ) qua một thành phần được ưu đãi thuộc linh để đối diện với tội lỗi của thế gian. Hãy nhớ rằng ngoài các môn-đệ ra, trong phòng còn có những người khác, còn Thô-ma vắng mặt!


Cách đây vài năm, tôi có trao đổi thư từ với một học giả Hy-lạp nổi tiếng và Tiến sĩ Julius R. Mantey (nay đã qua đời) về câu Kinh Thánh trên. Ông đoan chắc với tôi rằng cả Gi 20:3 và Mat 16:19 đều dịch đúng “Bất cứ ai phạm tội mà các ngươi miễn xá, (tha tội cho) người ấy sẽ được tha tội. Còn ai phạm tội mà các ngươi cầm tội lại, người ấy sẽ không được tha tội”.

Nói cách khác, các môn-đệ không có quyền ban sự tha tội, họ chỉ có thể rao ra sự tha thứ trên nền tảng của sứ điệp Phúc-Âm. Một học giả Hy-lạp khác là tấn sĩ Kenneth Wuest giải thích rằng “họ đã được tha thứ trước”.


Khi các tín hữu ban đầu ra đi, họ đã rao truyền về Phúc-Âm của sự cứu rỗi: Nếu tội nhân ăn năn và tin nhận Chúa Giê-xu, tội lỗi họ sẽ được tha.

”Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (Mac 2:7).

Cơ-đốc nhân chỉ có thể làm một điều duy nhất: rao ra sứ điệp của sự tha thứ, còn Đức Chúa Trời sẽ thực hiện phép lạ của sự tha thứ. Nếu tội nhân tin nơi Chúa Giê-xu, chúng ta có đủ cơ sở cho họ biết rằng tội lỗi họ đã được tha, chớ chúng ta không phải là những người có quyền tha tội.


Giờ đây, nỗi sợ hãi của các môn-đệ đã tan biến. Họ biết chắc Chúa là Đấng Sống đang chăm sóc bảo vệ họ. Họ có “sự hòa thuận với Đức Chúa Trời” và “sự bình an của Đức Chúa Trời” (Phi 4:6-7). Họ được giao một nhiệm vụ quan trọng và được ban cho quyền năng để thực hiện trọng trách. Họ cũng được ban cho đặc ân lớn lao để đem Phúc-Âm về sự tha thứ cho cả thế giới. Công việc họ phải làm lúc này là ở lại Giê-ru-sa-lem cho đến khi nhận quyền năng từ Đức Thánh Linh.


2. Từ vô tín đến tin nhận (Gi 20:26-28)

Tại sao Thô-ma không có mặt cùng với các môn-đệ khác khi họ nhóm lại vào buổi chiều ngày Chúa phục sinh? Phải chăng Thô-ma quá thất vọng đến nỗi không thiết tha nhóm lại với bạn hữu mình? Nhưng lúc chúng ta chán nản ngã lòng là lúc chúng ta cần bạn hữu hơn hết! Tự cô lập bản thân chỉ càng làm cho sự chán nản gia tăng, nuôi dưỡng lòng tự ti mặc cảm, khiến tâm trạng càng tệ hại hơn.


Có lẽ Thô-ma rất sợ hãi.

Nhưng Gi 11:16 dường như cho thấy ông vốn là con người can đảm, sẵn sàng đến xứ Giu-đê để cùng chết với Chúa! Trong Gi 14:5, Thô-ma tỏ ra là người có tư duy thuộc linh, muốn biết chân lý và không ngại đặt câu hỏi.Dường như ở Thô-ma có một cái nhìn đầy bi quan. Chúng ta thường gọi ông là “Thô-ma hay nghi ngờ”, nhưng Chúa Giê-xu không trách cứ sự nghi ngờ của ông. Ngài chỉ quở trách lòng vô tín của ông, ”chớ cứng lòng, nhưng hãy tin!” Sự nghi ngờ thường là một vấn đề thuộc lý trí: chúng ta muốn tin, nhưng niềm tin bị lấn át bởi những nan đề và thắc mắc. Còn sự vô tín là vấn đề thuộc đạo đức con người tự nhiên không muốn tin!


Phải chăng Thô-ma không muốn tin? Các môn-đệ khác đều kể lại rằng Chúa Giê-xu Christ đã sống lại (Gi 20:25). Chắn hẳn những phụ nữ và các môn-đệ ở Em-ma-út cũng hỗ trợ cho chứng cớ này. Mặt khác, chúng ta khâm phục Thô-ma vì ông muốn có một kinh nghiệm bản thân. Nhưng chúng ta cũng trách ông vì đã đặt điều kiện với Chúa.


Cũng như nhiều người thời đó, Thô-ma có hai tên “Thô-ma” bằng tiếng Aramaic và “Đi-đim” theo tiếng Hy-lạp cả hai điều có nghĩa là “sinh đôi”. Ai là anh em sinh đôi của Thô-ma? Chúng ta không biết rõ, nhưng đôi lúc tôi có cảm giác chúng ta là anh em sinh đôi của Thô-ma! Bao lần chúng ta đã không muốn tin và nài Chúa phải tỏ chính Ngài cho mình!


Thô-ma là một điển hình khuyên chúng ta không nên bỏ qua sự nhóm lại với con cái Đức Chúa Trời trong ngày Chúa nhật (He 10:22-25). Vì vắng mặt, nên Thô-ma đã không gặp Chúa Giê-xu để có thể nghe những lời phán bình an của Ngài, nhận trọng trách Ngài giao cũng như hưởng sự ban cho thuộc linh từ nơi Ngài.

Lẽ ra có thể kinh nghiệm được sự vui mừng và bình an, Thô-ma đã phải chịu đựng suốt một tuần với lòng sợ hãi và vô tín! Những khi bạn bị cám dỗ ở nhà thay vì phải đi nhà thờ, hãy nhớ đến tình trạng của Thô-ma! Bạn sẽ chẳng bao giờ biết được những phước hạnh kỳ diệu mà mình đã đánh mất!


Mười môn-đệ cho Thô-ma biết họ đã thấy tay và sườn Chúa (Gi 20:20), vì vậy Thô-ma muốn “kiểm tra chứng cớ”. Ông đã có mặt khi Chúa gọi La-xa-rơ sống lại, vậy tại sao ông lại thắc mắc về sự sống lại của chính Ngài? Dù sao, ông vẫn muốn nhìn thấy bằng chứng: thấy mới tin!


Những lời Thô-ma nói giúp chúng ta hiểu sự khác nhau giữa tính nghi ngờ và lòng vô tín.

Kẻ nghi ngờ nói rằng: “Tôi không thể tin được! Có quá nhiều vấn đề ở đây!

Kẻ vô tín lại nói “Tôi không tin trừ khi anh cho tôi thấy bằng chứng tôi muốn”.

Theo tiếng Hy-lạp có một dạng phủ định kép trong câu: “Tôi tuyệt đối không tin”.


Chúa Giê-xu đã nghe mọi lời Thô-ma nói, không cần ai thuật lại cho Ngài. Vì vậy vào Chúa nhật kế tiếp, Ngài xuất hiện trong phòng (một lần nữa mọi cửa đều đóng) và đối diện cách cá nhân với Thô-ma và sự vô tín của ông. Ngài vẫn chào các môn-đệ bằng câu nói “Shalom. Bình an cho các ngươi!” Lòng vô tín của Thô-ma không thể tước đi khỏi các môn-đệ sự bình an và vui mừng của họ trong Chúa.


Chúa thật nhân từ biết bao khi hạ mình đến với chúng ta để nâng chúng ta lên một vị trí cần thiết. Ngài cho phép Ghê-đê-ôn được thỏa mãn với những thử nghiệm đức tin mà ông đề nghị (Cac 6:36-40), cũng như đáp ứng yêu cầu của Thô-ma. Không có lời nào trong Kinh Thánh cho biết Thô-ma có tiếp nhận lời mời của Chúa hay không. Khi đến lúc phải bày tỏ đức tin, Thô-ma không cần một chứng cớ nào khác nữa!


Lời kêu gọi của Chúa được hiểu rằng “Đừng tiếp tục nghi ngờ nữa, nhưng hãy tin” Chúa đã nhìn thấy nơi lòng Thô-ma những tư tưởng tai hại nên Ngài khuyên ông hãy chấm dứt những suy nghĩ ấy. Hêb 3:1-19 sẽ giải thích rõ ràng về vấn đề trên, là đoạn Kinh Thánh Đức Chúa Trời khuyên chúng ta đừng “có lòng dữ và chẳng tin” (c.12).


Thật không dễ gì hiểu nổi tâm lý của kẻ nghi ngờ và vô tín. Có lẽ nó có liên quan đến cá tính. Một số người này có lòng tin mạnh mẽ hơn một số người khác. Có thể là Thô-ma đã quá thất vọng đến nỗi sẵn sàng buông xuôi tất cả, nên ông thốt ra “lời thách thức” và nghĩ rằng Chúa sẽ không đáp ứng nổi. Ở mức độ nào đi nữa Thô-ma vẫn phải đối diện với những lời đã nói và phải có một quyết định.


Gi 20:29 cho thấy lời làm chứng của Thô-ma không xuất phát từ hành động “rờ” Chúa nhưng từ việc “thấy” Chúa.

“Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi!” là lời chứng cuối cùng được Giăng ghi lại, bày tỏ Thần tính của Chúa Giê-xu. Những lời chứng khác xuất phát từ Giăng Báp-tít (Gi 1:34), Na-tha-na-ên (Gi 1:49) Chúa Giê-xu (Gi 5:25 Gi 10:36) Phi-e-rơ (Gi 6:69) người mù được chữa lành (Gi 9:35) Ma-thê (Gi 11:27) và dĩ nhiên là Giăng (Gi 20:30-31).


Chúng ta được khích lệ khi biết rằng Chúa vẫn quan tâm lo lắng cho một Thô-ma hay nghi ngờ. Ngài muốn nâng đỡ đức tin Thô-ma và đưa ông đến nguồn phước hạnh dành sẵn cho những người theo Ngài. Nghi vấn những điều Chúa làm mới nghe có vẻ “tinh tế” và tri thức nhưng những nghi vấn ấy là bằng chứng của tấm lòng cứng cỏi, không phải là tấm lòng muốn tìm kiếm Chúa.

Thô-ma trình bày “lý luận khoa học” về sự sống nhưng chẳng có hiệu quả gì! Tóm lại khi kẻ hoài nghi nói rằng: “Tôi không tin trừ khi...” kẻ ấy đã thừa nhận rằng mình không tin! Người ấy chỉ tin nơi “tính lôgic” của sự thử nghiệm hoặc kinh nghiệm mà bản thân nghĩ ra.

Nếu người ấy có thể tin nơi “lý luận khoa học” của mình, vậy tại sao không tin nơi những điều Đức Chúa Trời bày tỏ?


Chúng ta cần nhắc nhở mình phải sống bằng đức tin. Sự khác nhau chính là đối tượng của niềm tin. Cơ Đốc nhân tin nơi Đức Chúa Trời và lời Ngài, còn kẻ vô tín chỉ tin nơi bản thân.


3. Từ sự chết đến sự sống (Gi 20:29-31)

Giăng không thể kết thúc sách Phúc-Âm mà không bày tỏ cho người đọc phép lạ về sự sống lại. Dù đời sống chúng ta hôm nay chưa thể kinh nghiệm được quyền năng phục sinh của Đấng Christ, chúng ta cũng không nên nhìn Thô-ma và những môn đệ khác với tư tưởng đố kỵ. Đó là lý do Giăng viết sách Phúc-Âm này, hầu cho mọi người ở mọi thời đại biết rằng Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời và đức tin nơi Ngài sẽ đem đến cho chúng ta sự sống đời đời.


Không cần phải “thấy” Chúa Giê-xu mới có thể tin nơi Ngài. Vâng, đồng ý rằng các Cơ-đốc nhân đầu tiên thật có phước khi nhìn thấy Chúa và biết rằng Ngài sống, nhưng điều đó không cứu được họ. Họ được cứu bởi “tin”, chớ không phải “thấy”.Trọng tâm suốt Phúc-Âm Giăng nói về đức tin. Có khoảng 100 chi tiết trong Phúc-âm Giăng nói về đức tin nơi Chúa Giê-xu.


Hôm nay, bạn và tôi không thể “thấy” Đấng Christ, cũng không thể xem Ngài làm những phép lạ như Giăng đã viết trong Phúc-Âm này. Nhưng lịch sử vẫn còn đó, những gì ghi lại trong Kinh Thánh là điều chúng ta cần biết. “Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô 10:17; ICôr 5:9-13).

Khi đọc Phúc-âm Giăng, bạn sẽ đối diện với Đấng Christ, nhìn xem cách Ngài sống, lời Ngài phán và việc Ngài làm. Mọi chứng cớ đều bày tỏ rằng Ngài thật sự là Đức Chúa Trời đã đến trong xác thịt, là Cứu Chúa của thế gian.


Những dấu lạ được Giăng liệt kê và mô tả trong Phúc-Âm này là chứng cớ về Thần tính của Đấng Christ. Những phép lạ này rất ý nghĩa, nhưng tội nhân được cứu không phải bởi “tin nơi phép lạ”, nhưng bởi “tin nơi Chúa Giê-xu”.

Nhiều người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem tin Chúa Giê-xu vì những phép lạ Ngài làm, nhưng họ không tin Ngài. Ni-cô-đem cũng tin nơi các phép lạ (ICôr 3:2) nhưng lúc đó thật sự ông chưa được sinh lại.

Vô số người Do-thái theo Ngài vì phép lạ Ngài làm (Gi 6:2)nhưng cuối cùng họ đều rút lui (Gi 6:60). Cả các lãnh đạo tôn giáo là những người luôn tìm phương giết Chúa cũng tin rằng Ngài đã làm phép lạ, nhưng “kiểu niềm tin” này không cứu được họ (Gi 11:47).


Niềm tin nơi phép lạ của Chúa có thể dẫn đến niềm tin nơi lời Ngài, và niềm tin này sẽ khiến con người tin nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Chúa Giê-xu cũng bày tỏ rằng niềm tin nơi những việc Ngài làm (phép lạ) chỉ là bước đầu dẫn đến niềm tin nơi lời Đức Chúa Trời (Gi 5:36-40). Tội nhân phải “nghe” lời Chúa mới có thể được cứu (Gi 5:24).


Giăng không cần phải kể lại tất cả các phép lạ Chúa làm, vì ông biết rằng chẳng bao giờ có thể viết hết tất cả (Gi 21:25). Đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu luôn là lãnh vực rất phong phú cho bất cứ người viết sách nào, dù người ấy được hà hơi cũng không thể chép lại hết được. Tuy nhiên, cũng không cần thiết để chép lại đầy đủ mọi sự việc. Mọi sự kiện cơ bản đã được chép ra trong Phúc-Âm để chúng ta đọc và suy gẫm. Chân lý được chép trong Phúc Âm này đủ để bất cứ tội nhân nào có thể tin và được cứu!


Chủ đề trong Phúc-âm Giăng là “Chúa Giê-xu là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời”. Giăng đưa ra ba chứng cớ về luận điểm này: việc làm của Chúa, con đường Ngài đi và lời Ngài phán. Trong Phúc-Âm này, bạn sẽ thấy Chúa thực hiện phép lạ, nhìn xem đời sống trọn vẹn của Ngài giữa vòng kẻ thù nghịch và nghe Ngài phán những lời kỳ diệu mà không một người nào khác có thể nói được.


Chúa Giê-xu phải chăng là một người “bị tâm thần” hay là “kẻ ngộ nhận” hay là “Đấng” Ngài đã phán? Kẻ thù gọi Ngài là người bị loạn trí, bị rơi vào sự ngộ nhận hão huyền. Nhưng tất cả những ai nhìn xem và lắng nghe lời Ngài đều kết luận rằng Ngài là con người đặc biệt, không giống với bất cứ ai họ từng biết. Làm sao một kẻ tâm thần hay ngộ nhận lại có thể làm được những việc Chúa làm? Khi những người nghe và tin nơi Ngài, đời sống họ đều được thay đổi! Điều đó không thể xảy ra khi bạn tin nơi một kẻ tâm thần hay nói dối!


Ngài xưng mình là Đức Chúa Trời đã đến trong xác thịt, Con Đức Chúa Trời, Đấng Christ của thế gian. Đó chính là sự thật về Ngài!


Giăng không hài lòng khi bày tỏ một chủ đề. Ông vốn là một nhà truyền đạo, muốn đạt một mục đích. Ông muốn người đọc tin nơi Chúa Giê-xu để được cứu! Ông không muốn viết ra một tiểu sử để đọc tiêu khiển hay một sách lịch sử để “khai sáng” kẻ khác. Ông muốn viết ra một sách Phúc-Âm để thay đổi cuộc đời con người.


“Sự sống” là trong những chữ chìa khoá được đề cập trong Phúc-âm Giăng. Ông sử dụng từ này ít nhất là 36 lần. Chúa Giê-xu là Đấng ban cho tội nhân sự sống đời đời và sung mãn. Con đường duy nhất tội nhân phải chọn, đó là tin nơi Chúa Giê-xu.


Khi tội nhân cần sự sống, có nghĩa là họ đã “chết”. “Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình” (Eph 2:1). Sự cứu rỗi không phải là tình trạng hồi tỉnh lại (sau một cơn ngất) nhưng là sự sống lại từ cõi chết) (Gi 5:24). Tội nhân hư mất cũng không phải là kẻ yếu đuối hay bệnh hoạn, nhưng là kẻ đã chết!


Sự sống này đến từ danh Ngài. Danh Ngài là gì? Qua Phúc-âm Giăng, Chúa từng phán “TA LÀ...” Ngài phán 7 lời “TA LÀ...” trong Phúc-âm Giăng để tỏ cho tội nhân hư mất biết mọi điều họ cần.


“Sự sống đời đời” không chỉ là “thời gian vô tận”, vì tội nhân hư mất cũng sẽ sống đời đời nơi hoả ngục! “Sự sống đời đời” là sự sống của Đức Chúa Trời, nói về bản chất của sự sống chớ không phải là số lượng thời gian. Đó là từng trải thuộc linh về “thiên đàng trên đất” hiện nay. Không phải đợi đến lúc chết, Cơ-đốc nhân mới có sự sống đời đời, nhưng đã có sự sống ấy trong Đấng Christ ngay hôm nay.


Từ tâm trạng sợ hãi, 10 môn-đệ đã trở nên dạn dĩ. Thô-ma từ chỗ vô tín đã trở nên vững lòng. Giờ đây, Giăng cũng mời gọi bạn tin nhận Chúa Giê-xu Christ để được biến đổi từ cõi chết sang sự sống đời đời.


Nếu bạn đã có quyết định thay đổi đời sống từ lâu, hãy cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài đã ban cho bạn món quà quý giá của sự sống đời đời.


Nếu bạn chưa từng có quyết định trên, hãy làm điều đó ngay bây giờ.

Ai tin Con thì được sự sống đời đời, ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Gi 3:36).



 


24. ĐƯỢC BIẾN ĐỔI ĐỂ PHỤC VỤ (Gi 21:1-25)


Người đọc có thể biết rằng Giăng đã hoàn tất sách Phúc-Âm của ông bằng chứng cớ đầy kịch tính của Thô-ma (Gi 20:28-31), cũng như thắc mắc vì sao Giăng lại viết thêm một đoạn nữa. Nguyên nhân chính là do sứ đồ Phi-e-rơ, một cộng sự thân thiết của ông trong chức vụ (Công 3:1).

Giăng không muốn kết thúc sách Phúc-Âm mà không cho người đọc biết rằng Phi-e-rơ đã được phục hồi địa vị làm sứ đồ của Chúa. Nếu không có những thông tin trong đoạn này, có lẽ chúng ta không biết vì sao Phi-e-rơ lại “nổi bật” trong 12 đoạn đầu của sách Công-vụ.


Giăng còn một mục đích khác. Ông muốn bác bỏ tin đồn ngớ ngẩn giữa vòng các môn đệ khi cho rằng Phi-e-rơ sẽ sống cho đến khi Chúa tái lâm (Gi 21:23). Vào thời điểm Giăng viết sách này, Phi-e-rơ đã chết và tin đồn trên cũng biến mất theo ông. Giăng giải thích rằng lời Chúa phán đã bị hiểu sai một cách trầm trọng.


Tôi cho rằng Giăng cũng có một mục đích kế tiếp: ông muốn cho chúng ta biết cách tạo mối liên hệ với Đấng Christ phục sinh. Suốt 40 ngày giữa thời gian Chúa phục sinh và thăng thiên, Ngài ẩn mình và xuất hiện theo ý muốn, thăm viếng các môn đệ, chuẩn bị cho họ tinh thần để tiếp nhận Thánh Linh và thi hành chức vụ trong tương lai (Công 1:1-9).

Họ không biết khi nào Chúa xuất hiện, nên họ phải tỉnh thức (cũng như chúng ta phải tỉnh thức về sự tái lâm của Chúa hôm nay vậy). Đó là thời điểm rất ý nghĩa đối với các môn đệ vì họ sắp thay thế công việc Chúa trên thế gian và bắt đầu rao sứ điệp của Ngài cho kẻ khác.

Trong đoạn này, tôi thấy ba hình ảnh về người tin Chúa kèm theo từng trách nhiệm:


1. Chúng ta là những tay “đánh lưới người” - Hãy vâng phục Chúa (Gi 21:1-8)

Chúa đã dặn các môn-đồ phải gặp Ngài tại Ga-li-lê, điều này giải thích lý do vì sao họ có mặt tại biển Ga-li-lê hoặc biển Ti-bê-ri-át (Mat 26:32; Mat 28:7-10; Mac 16:7). Nhưng Giăng không giải thích vì sao Phi-e-rơ quyết định đi đánh lưới.Đây cũng là vấn đề tranh luận của các học viên Kinh Thánh. Một số người cho rằng Phi-e-rơ hoàn toàn có quyền đi đánh cá, vì ông cần trang trải các khoản chi tiêu và cách tốt nhất để có tiền là phải đi đánh lưới. Tại sao lại ngồi không? Phải làm việc thôi!


Một số khác cho rằng Phi-e-rơ đã được kêu gọi từ trước (Lu 5:1-11), như vậy ông đã sai lầm khi trở lại đánh cá! Hơn nữa, khi đi đánh cá, ông dẫn theo 6 người khác. Nếu ông sai lầm vậy 6 người kia cũng sai lầm. Thật đáng buồn nếu một người tin Chúa lại dẫn kẻ khác đi sai đường.


Thật đáng chú ý vì có ít nhất 7 người trong số 12 môn đệ Chúa làm nghề đánh cá. Tại sao Chúa Giê-xu lại chọn nhiều người đánh cá để theo Ngài? Trước hết những người đánh cá rất dạn dĩ nên Chúa cần những con người dạn dĩ đi theo Ngài. Họ chỉ nhắm vào một mục đích và không dễ gì bị phân tâm. Những người đánh cá không dễ bỏ cuộc (dĩ nhiên tôi muốn nói về những người đánh cá chuyên nghiệp, chớ không phải những người đi câu vào dịp nhàn rỗi! ) Họ đảm nhận nhiệm vụ và biết cách hỗ trợ nhau.


Chúng ta không thể chứng minh Phi-e-rơ và các bạn ông đúng hay sai, dù tôi cho rằng họ sai – nhưng chúng ta biết điều này mọi nỗ lực của họ đều vô vọng. Phải chăng họ đã quên lời Chúa phán rằng “vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Gi 15:5)?

Họ đã vất vả cả đêm nhưng chẳng lưới được gì. Chắc hẳn Phi-e-rơ đã nhớ lại những điều xảy ra trước đó hai năm, khi Chúa Giê-xu gọi ông làm môn đệ chính thức của Ngài (Lu 5:1-11). Vào dịp ấy, Phi-e-rơ cũng trải qua một đêm không bắt được cá, nhưng Chúa Giê-xu đã biến sự thất bại của ông trở nên một thành công.


Có lẽ tính bốc đồng và chủ quan trong Phi-e-rơ một lần nữa đã lộ ra. Ông là người thành thật, làm việc chăm chỉ nhưng không đem lại kết quả, thật giống với một số tín hữu hầu việc Chúa! Họ luôn tin rằng mình đang làm theo ý Đức Chúa Trời nhưng công sức họ trở nên vô ích. Họ hầu việc mà không có sự hướng dẫn của Chúa, nên không nhận được phước hạnh từ nơi Ngài.


Sau khi Chúa phục sinh có mấy lần các môn đệ không nhận ra Ngài (Gi 20:14; Lu 24:16). Vào rạng sáng, Ngài xuất hiện trên bờ biển nhưng họ không nhìn biết. Ngài hỏi họ và chờ câu trả lời phủ định: “Hỡi các con, không có chi ăn hết sao?” Họ đáp lại bằng một từ ngắn gọn, nhưng lộ vẻ bối rối: “không”


Đã đến lúc Chúa làm chủ tình thế như Ngài đã từng hành động khi gọi Phi-e-rơ đi theo Ngài. Ngài bảo cho họ biết nơi phải thả lưới, họ vâng lời và đã bắt được 153 con cá lớn! Sự khác nhau giữa thành công và thất bại chỉ là “khoảng cách” của bề rộng chiếc thuyền! Chúng ta không bao giờ có thể đạt được thành công nếu không để Chúa điều khiển mình. Vâng lời Ngài chúng ta sẽ rất gần với sự thành công hơn sự suy đoán của mình!


Giăng là người đầu tiên nhận biết vị khách lạ trên bờ biển chính là Chúa của họ. Ông là người dựa nơi ngực Chúa tại bàn ăn (Gi 13:23) và là người đứng bên thập tự giá lúc Chúa chịu chết (Gi 19:26). Bởi tình yêu ấy, Giăng đã có thể nhận biết Chúa và rao cho kẻ khác tin mừng này: “Ấy là Chúa! ”


Với cá tính bốc đồng, Phi-e-rơ nhanh nhẹn mặc áo dài vào và nhảy xuống nước! Ông muốn đến với Chúa Giê-xu. Hình ảnh này thật tương phản với Lu 5:8 khi ông nài xin Chúa ra khỏi ông. Sáu người khác kéo thuyền vào bờ với một lưới cá đầy. So với sự kiện ở Lu 5:1-19 lưới đứt ra, nhưng lần này lưới vẫn không đứt.


Có lẽ qua hai phép lạ đánh cá trên, chúng ta có thể nhìn thấy một minh hoạ về cách Chúa giúp người thuộc về Ngài “lưới” những linh hồn hư mất. Mọi nỗ lực của chúng ta sẽ đều vô hiệu, không được sự chỉ dẫn và phước hạnh từ nơi Chúa. Hiện nay, chúng ta không biết mình đã lưới được bao nhiêu con cá nhưng điều chúng ta thường cảm nhận là dường như lưới bị rách. Nhưng vào kỳ sau rốt khi gặp Chúa, chúng ta sẽ khám phá rằng không có một con cá bị mất nhưng sẽ phát hiện có rất nhiều con cá ở đó.


Chúa Giê-xu đã kêu gọi các môn đệ khi xưa và chúng ta hôm nay để trở nên những “tay đánh lưới người”. Cách gọi này không do Chúa Giê-xu tạo ra, nhưng đã được sử dụng từ bao năm trước đó do các giáo sư Hy-lạp và La-mã. “Tay đánh lưới người” thời bấy giờ có nghĩa là người tìm kiếm, thuyết phục và “bắt” kẻ khác bằng chân lý. Người đánh cá lưới được cá sống nhưng khi có cá trong tay, cá đều chết.Người rao truyền Phúc-Âm tìm bắt “cá chết” (chết trong tội lỗi) nhưng khi bắt được cá trong tay, cá liền được sống lại trong Đấng Christ!


Đến đây, chúng ta có thể hiểu vì sao có nhiều môn đệ Chúa làm nghề chài lưới. Người đánh cá biết cách làm việc có hiệu quả. Họ đi ra “chỗ nước sâu” bằng sự dạn dĩ và niềm tin quyết. Có đủ lòng kiên trì và nhẫn nại, họ sẽ không bỏ cuộc. Họ biết cách hỗ trợ nhau cũng như rất thành thạo trong cách sử dụng lưới và điều khiển thuyền chài. Đây là tấm gương cho mỗi chúng ta noi theo khi chúng ta muốn “lưới cá” cho Chúa Giê-xu!


Chúng ta thật sự là những “tay đánh lưới người” và có rất nhiều “cá” ở quanh ta. Nếu vâng theo sự hướng dẫn của Chúa, chúng ta sẽ lưới được cá!


2. Chúng ta là những người chăn bầy - Hãy yêu mến Chúa (Gi 21:9-19)

Chúa Giê-xu nhóm các môn đệ trên bờ biển nơi Ngài đã chuẩn bị bữa ăn sáng cho họ. Quang cảnh này có lẽ khơi dậy trong Phi-e-rơ ký ức về những sự kiện đã qua, khuấy động tâm khảm ông. Hẳn ông nhớ lại mẻ cá đầu tiên (Lu 5-1-11) cũng như việc Chúa nuôi 5.000 người bằng 5 cái bánh và 2 con cá (Gi 6:1-71).

Trước đó không lâu, ông đã bày tỏ chứng cớ rõ ràng về đức tin mình nơi Chúa Giê-xu (Gi 6:66-71). “Than lửa” có lẽ đã khiến ông nhớ đến “đống lửa” nơi ông đã chối Chúa (Gi 18:18). Chúng ta cũng cần phải nhớ đến quá khứ, hầu có cơ sở để xưng tội.


Có ba lời mời gọi nổi bật trong Phúc-âm Giăng, đó là “Hãy đến xem” (Gi 1:34) “Hãy đến cùng ta mà uống” (Gi 7:37) và “Hãy lại mà ăn” (Gi 21:12). Chúa thật nhân từ biết bao khi cho Phi-e-rơ ăn trước khi Ngài đáp ứng những nhu cầu thuộc linh của ông.

Ngài để Phi-e-rơ có cơ hội lau mình, sưởi ấm, thỏa mãn cơn đói và thông công vui vẻ với bạn hữu. Đây là gương có ích cho mỗi chúng ta trong lãnh vực chăm sóc con cái Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên những điều thuộc linh quan trọng hơn những điều thuộc thể, nhưng việc chăm sóc thuộc thể chuẩn bị cho công tác thuộc linh.Chúa chúng ta không phải là Đấng chỉ thiên về “linh hồn” đến nỗi lơ là với thân thể!


Chúa và Phi-e-rơ đã gặp mặt trước đó nên chắc hẳn Chúa đã giải quyết về tội lỗi của Phi-e-rơ (Lu 24:34; ICôr 15:5), nhưng vì Phi-e-rơ đã chối Chúa trước mặt mọi người nên cần phải có sự phục hồi trước mọi người. Tội lỗi phải được giải quyết theo phạm vi nó đã bày tỏ. Tội lỗi kín nhiệm phải được xưng ra nơi kín nhiệm, tội lỗi công khai phải được xưng ta nơi đông người. Vì Phi-e-rơ đã chối Chúa 3 lần, nên Chúa cũng hỏi ông 3 lần. Ngài khích lệ ông bằng cách 3 lần giao cho ông một nhiệm vụ hầu phục hồi địa vị ông để hầu việc Ngài.


Nội dung chính ở đây nói về tình yêu của Phi-e-rơ đối với Chúa Giê-xu và tình yêu ấy cũng cần phải là vấn đề đáng quan tâm cho chúng ta hôm nay. Chúa muốn nói gì khi Ngài phán “...hơn những kẻ này chăng?” Có phải Ngài muốn hỏi ”Ngươi có yêu ta hơn yêu những kẻ này chăng?” Không phải vậy, bởi vì điều này chưa hề xảy ra trong vòng các môn-đệ.

Họ đều yêu Chúa trên hết dù rằng không phải lúc nào họ cũng vâng lời Ngài hoàn toàn. Có lẽ Chúa Giê-xu muốn nói rằng: “Ngươi có yêu ta hơn yêu những thuyền chài, lưới và cá không?” Cũng không phải như vậy, vì không có bằng chứng nào cho thấy Phi-e-rơ mong muốn trở lại với nghề đánh cá. Đánh cá không phải là việc mâu thuẫn với tình yêu của Đấng Christ.


Câu hỏi của Chúa có thể hiểu: “Ngươi có yêu ta như ngươi đã từng tuyên bố rằng hơn những môn đệ khác yêu ta?” Phi-e-rơ đã khoe khoang về tình yêu ông dành cho Chúa, thậm chí còn so sánh với tình yêu của kẻ khác đối cùng Chúa. “Tôi liều sự sống tôi vì Chúa!” (Gi 13:37). “Dầu mọi người vấp phạm vì cớ Thầy, nhưng tôi chắc không bao giờ vấp phạm vậy” (Mat 26:33). Trong lời nói khoe khoang này còn hàm chứa một ngụ ý cho rằng Phi-e-rơ tin chắc ông yêu Chúa hơn các môn-đệ khác đối với Ngài.


Trong cuộc đối thoại này, có hai từ “yêu” khác nhau được sử dụng. Trong câu hỏi của Chúa ở Gi 21:15-16 Ngài dùng từ “agape” theo tiếng Hy-lạp nghĩa là “tình yêu cao quý nhất tình yêu hy sinh, tình yêu thiên thượng. Phi-e-rơ lại luôn dùng từ “phileo” đó là tình yêu của bạn hữu dành cho nhau, tình yêu mến đối với một người khác. Trong câu (Gi 21:17, Chúa Giê-xu và Phi-e-rơ đều sử dụng từ “phileo”.


Tuy nhiên, chúng ta không nên đi sâu và tập trung vào vấn đề từ ngữ này vì hai từ trên thường được sử dụng thay thế nhau trong Phúc-âm Giăng. Trong Gi 3:16 tình yêu Đức Chúa Trời dành cho loài người là tình yêu “agape” nhưng Gi 16:27 lại là tình yêu “phileo”.

Tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho Con Ngài trong Gi 3:35 là tình yêu “agape”, nhưng Gi 5:20 là tình yêu “phileo”. Cơ-đốc nhân có trách nhiệm yêu mến lẫn nhau. Trong Gi 13:34 đây là tình yêu “agape” nhưng Gi 15:19 lại là tình yêu “phileo”. Dường như Giăng sử dụng hai từ này như những từ đồng nghĩa, mặc dù có sự phân biệt giữa chúng.


Trước khi xét đoán Phi-e-rơ, chúng ta cần xem xét hai vấn đề khác. Khi trả lời hai câu hỏi đầu, Phi-e-rơ khẳng định tình yêu “agape” của ông và đáp: “Lạy Chúa, phải”. Trường hợp Phi-e-rơ dùng từ “phileo” cũng không phủ nhận được tấm lòng của ông khi đồng tình với tình yêu “agape” mà Chúa sử dụng. Vấn đề thứ hai, Phi-e-rơ và Chúa Giê-xu dĩ nhiên đều nói chuyện bằng ngôn ngữ Aramaic mặc dù Đức Thánh Linh cho ghi chép lại bằng tiếng Hy-lạp.


Dù trải bao lỗi lầm và thất bại, Phi-e-rơ vẫn thật sự yêu mến Chúa và ông không hổ thẹn thừa nhận điều này. Những môn đệ khác lắng nghe Phi-e-rơ và hẳn rút ra bài học cho chính họ, vì họ cũng từng làm buồn lòng Chúa sau những lời khoe khoang về sự tận tuỵ của mình. Phi-e-rơ xưng nhận tội lỗi và được tha thứ. Giờ đây, ông được phục hồi để làm sứ-đồ của Chúa và lãnh đạo Hội thánh Chúa.


Hình ảnh trên đã chuyển đổi từ người đánh cá sang hình ảnh kẻ chăn chiên. Phi-e-rơ phải làm nhiệm vụ của người rao giảng Phúc-Âm (lưới cá) và của một mục sư (người chăn bầy chiên). Thật đáng tiếc nếu chúng ta tách rời hai nhiệm vụ này vì hai trọng trách ấy luôn đi đôi với nhau. Mục sư phải rao giảng Phúc-Âm (IITi 4:5) và chăm sóc những người mình dắt về Chúa để họ trưởng thành trong Ngài.


Chúa Giê-xu đưa ra ba lời khuyên cho Phi-e-rơ “Hãy chăn những chiên con ta”, “Hãy chăn chiên ta”, “Hãy chăn chiên ta” Cả chiên con và chiên đã trưởng thành đều cần được chăm sóc và hướng dẫn. Đó là nhiệm vụ của người chăn chiên thuộc linh.

Làm người chăn bầy chiên của Đức Chúa Trời thật là trách nhiệm lớn lao biết bao (IPhi 5:2). Kẻ thù lúc nào cũng muốn huỷ diệt bầy chiên nên người chăn phải tỉnh thức và mạnh mẽ (Công 20:28-35). Bầy chiên vốn khờ dại và không có khả năng tự bảo vệ, nên chúng cần được sự che chở hướng dẫn của người chăn bầy.


Đức Thánh Linh luôn chuẩn bị cho người hầu việc để làm người chăn bầy và giao Hội thánh cho họ (Eph 4:11). Mỗi Cơ-đốc nhân cũng có trách nhiệm chăm sóc bầy chiên. Chúng ta đều có sự ban cho của Chúa nên phải sử dụng điều Ngài ban để chăm sóc và gây dựng bầy chiên. Chiên có khuynh hướng đi vẩn vơ nên chúng ta phải chăm sóc lẫn nhau và khích lệ nhau tăng trưởng.


Chúa Giê-xu Christ là Đấng chăn chiên hiền lành (Gi 10:11). Đấng chăn chiên lớn (He 13:20-21). Mục sư là người chăn bầy ở “cấp dưới” nên phải vâng lời Chúa khi nhận nhiệm vụ đối với bầy chiên được giao. Yêu mến Chúa Giê-xu Christ là điều quan trọng nhất mà mục sư cần thể hiện. Nếu một mục sư thật sự yêu mến Chúa Giê-xu, người ấy cũng sẽ yêu bầy chiên của Ngài và chăm sóc chiên chu đáo. (Tiếng Hy-lạp chỉ về “chiên” ở Gi 21:17 mang ý nghĩa như “chiên yêu dấu”).

Chúa rất yêu bầy chiên Ngài nên Ngài cũng muốn những người hầu việc Ngài yêu thương chiên hết lòng (Exe 34:1-31 nói về lời quở trách của Đức Chúa Trời đối với những kẻ chăn bầy bất nghĩa, là những kẻ làm đầu Y-sơ-ra-ên). Mục sư yêu thương bầy chiên sẽ chăm sóc bầy một cách trung tín dù phải trả bất cứ giá nào.


3. Chúng ta là môn-đệ Chúa - Hãy theo Ngài (Gi 21:20-25)

Chúa Giê-xu đã phán về cuộc đời và chức vụ của Phi-e-rơ. Giờ đây, Ngài nói về sự chết của Phi-e-rơ. Có lẽ đây là một cú sốc đối với Phi-e-rơ khi Chúa nói đến sự chết của ông bằng thái độ công khai ấy. Dĩ nhiên Phi-e-rơ rất vui mừng vì đã được phục hồi địa vị làm sứ đồ trong mối liên hệ với Chúa. Nhưng vì sao Chúa lại nêu ra việc tử đạo?


Lần đầu tiên khi Chúa phán về sự chết của Ngài, Phi-e-rơ đã can Ngài (Mat 16:21-22), thậm chí trong cơn nóng giận đã dùng gươm để bảo vệ Chúa nơi vườn Ghết-sê-ma-nê. Phi-e-rơ còn khoe khoang rằng ông sẽ sẵn sàng chết vì Chúa Giê-xu! Nhưng khi đối diện với áp lực, ông đã thất bại một cách thảm hại (có lẽ bạn và tôi đã làm điều tệ hại hơn! ). Bất cứ ai dấn thân hầu việc Chúa phải thật lòng đối diện với vấn đề về sự chết. Khi tôi viết những lời này, nhân dân Hoa-kỳ đang than khóc cho cái chết thảm thương của 7 phi hành gia vũ trụ trong vụ nổ của chiếc Challenger. Những người làm phi hành gia đều biết rằng họ có nguy cơ đối diện với cái chết.


Khi một người đã thông hiểu vấn đề về sự chết, người ấy sẽ sẵn sàng sống và hầu việc! Sự chết của Chúa là chủ đề tái hiện trong Phúc-âm Giăng: Ngài biết “giờ” Ngài sẽ đến, nên Ngài sẵn sàng vâng theo ý muốn Cha. Là môn-đệ Chúa, chúng ta phải dâng mình làm “của lễ sống và thánh” như Ngài đã phó mình vì chúng ta (Ro 12:1-2) và hãy sẵn sàng để ”bị đổ ra làm lễ quán” (IITi 4:6-8) nếu đó là ý muốn Đức Chúa Trời.


Vào buổi sớm mai ấy, Phi-e-rơ đã mặc áo và vội vàng vào bờ để gặp Chúa (Gi 21:7). Sẽ có một ngày ông bị bắt và bị giết (Gi 1:13,14). Có lời kể lại rằng Phi-e-rơ thật đã bị đóng đinh trên thập tự giá, nhưng ông xin được đóng đinh ở tư thế đầu chúi xuống đất vì thấy mình không xứng đáng chết như Chúa.


Tuy vậy, sự chết của Phi-e-rơ không phải là một bi kịch vì điều đó làm sáng danh Đức Chúa Trời! Sự chết của La-xa-rơ cũng làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời (Gi 11:4,40) và sự chết của Chúa Giê-xu cũng vậy (Gi 12:23). Phao-lô luôn quan tâm đến việc làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời, dù khi sống hay lúc chết (Phi 1:20-21). Chúng ta cần có lòng khao khát như Phao-lô.


Lời Chúa phán “Hãy theo ta” có lẽ đã khiến lòng Phi-e-rơ đầy vui mừng và bình an mới. Nói cách nôm na Ngài muốn nói rằng “Hãy cứ tiếp tục theo ta.” Đó là lúc Phi-e-rơ bắt đầu đi theo Chúa như ông đã từng làm vậy trước khi chối Ngài.

Có ít nhất hai lần Phi-e-rơ đã phạm một sai lầm khi không chăm xem Chúa Giê-xu.Sau lần đánh cá thứ nhất, ông không nhìn xem Chúa nhưng chỉ nghĩ đến cái tôi “Lạy Chúa, xin ra khỏi tôi, vì tôi là người có tội” (Lu 5:8). Khi bước đi với Chúa giữa biển động, Phi-e-rơ không nhìn xem Chúa mà chỉ chăm vào cơn gió mạnh cùng những lượn sóng lớn để rồi bị lún xuống nước (Mat 14:30). Thật tai hại biết bao khi con người chỉ nhìn vào hoàn cảnh bên ngoài thay vì nhìn xem Chúa!


Vì sao Phi-e-rơ rời mắt khỏi Chúa và nhìn lại? Ông đã nghe tiếng ai đó bước phía sau mình. Ấy là sứ-đồ Giăng, người cũng đi theo Chúa Giê-xu. Phi-e-rơ đã làm một điều dại dột khi hỏi rằng: “còn người này, về sau sẽ ra thể nào?” Nói cách khác “Lạy Chúa, Ngài đã cho con biết điều sẽ xảy đến cho con, vậy điều gì sẽ xảy đến cho Giăng?”


Chúa quở trách Phi-e-rơ và nhắc ông nhớ rằng nhiệm vụ của ông là phải đi theo Ngài, không cần can thiệp vào đời sống những sứ đồ khác. Bạn hãy giữ mình để không mắc vào tình trạng rời mắt khỏi Chúa và bắt đầu chú ý đến những tín hữu khác “Nhìn xem Đức Chúa Giê-xu” chính là mục đích hành động của mỗi Cơ-đốc nhân (He 12:1-2). Chú ý quá mức đến bản thân, hoàn cảnh hoặc người khác sẽ khiến chúng ta khó vâng lời Chúa, dễ dàng xa rời ý muốn Ngài. Bạn hãy hướng đôi mắt đức tin nơi Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi. Điều này không có nghĩa như chúng ta “lạnh lùng” với kẻ khác, vì trách nhiệm chúng ta là phải chăm sóc lẫn nhau (Phi 2:1-5).

Chúng ta đừng để tính tò mò về người khác khiến mình xa rời Chúa. Đức Chúa Trời có chương trình cho mỗi chúng ta, Ngài cũng có chương trình cho bạn hữu và những người đồng công với ta nữa. Ngài có cách hành động trong đời sống họ, còn chúng ta chỉ nên bước đi theo sự hướng dẫn của Ngài (Rô 14:1-13).


Tôi nhớ trước đây có lần tôi bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, bối rối khi thấy những người hầu việc (Chúa) khác đều được ơn phước dư dật của Chúa, còn tôi như kẻ gặt một vụ mùa thất thu! Tôi xưng ra trước Chúa lòng đố kỵ ấy và cầu xin Ngài ban cho tôi những phước hạnh giống họ. Nhưng Chúa dịu dàng trách tôi: “Điều đó có quan hệ gì với con? Hãy theo ta”. Đó là sứ điệp cần thiết cho tôi, và kể từ đó tôi luôn lưu tâm đến lời khuyên của Ngài.


Chúa Giê-xu không phán rằng Giăng sẽ sống cho tới lúc Ngài tái lâm, nhưng đó chỉ là suy nghĩ sai lầm của các môn đệ. Có nhiều nan đề phát sinh không từ phía tội nhân hư mất, nhưng từ phía những môn-đệ không thông suốt vấn đề. Việc cắt nghĩa sai lời Đức Chúa Trời sẽ gây ra sự hiểu lầm về con cái Đức Chúa Trời và chương trình Ngài dành cho họ.


Lời Chúa phán về Giăng có vẻ hơi khó hiểu. Ngài không nói rằng Giăng sẽ sống cho đến lúc Ngài tái lâm, cũng không khẳng định ông sẽ chết trước thời điểm ấy. Thật ra, Giăng là người sống lâu nhất trong vòng các sứ đồ. Ông đã chứng kiến sự tái lâm của Chúa khi xem những khải tượng được chép ở sách Khải-huyền.


Ở cuối sách Phúc-âm Giăng xác quyết một lần nữa lời chứng của ông (“lời chứng” này là chủ đề trọng tâm của Phúc-âm Giăng). Giăng làm chứng về những sự kiện này và ghi lại cho chúng ta biết qua sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Ông cũng có thể viết nhiều hơn nữa, nhưng ông chỉ ghi lại những điều Đức Thánh Linh chỉ bảo.


Phúc-âm Giăng kết thúc ở chi tiết Phi-e-rơ và Giăng đi theo Chúa Giê-xu để được Ngài hướng dẫn trong sách Công-vụ. Thật kỳ diệu thay khi họ nhận quyền năng của Đức Thánh Linh và làm chứng về Chúa Giê-xu! Nếu họ không tin nhận Ngài để được biến đổi và hầu việc Ngài, có lẽ họ vẫn là những người dân chài kiếm sống trên biển Ga-li-lê và như vậy thế giới chẳng bao giờ biết đến họ!


Chúa Giê-xu vẫn đang biến đổi biết bao cuộc đời hôm nay. Bất cứ nơi đâu có người sẵn sàng đầu phục ý muốn Ngài, lắng nghe lời Ngài và noi theo dấu chân Ngài, Ngài sẽ biến đổi ngươi ấy cũng như thực hiện những điều kỳ diệu qua đời sống người ấy.


Giăng và Phi-e-rơ đã không còn hiện diện trên đời từ bao thế kỷ qua. Nhưng bạn và tôi vẫn đang sống hôm nay để thay thế nhiệm vụ của Chúa Giê-xu và các môn đệ khi xưa. Đây quả là một trách nhiệm, cũng là một đặc ân cho chúng ta!

Chúng ta chỉ có thể sống kết quả khi bằng lòng để Chúa biến đổi mình. HÃY ĐỔI MỚI!



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page