top of page
8. NƠI THÁNH CAO TRỌNG (Hêb 9:1-28)
Cơ...
...-đốc nhân là công dân của hai thế giới: thế giới trên đất và thế giới trên trời. Người đó phải “trả cho Sê-sa vật gì của Sê-sa và trả cho Đức Chúa Trời vật gì của Đức Chúa Trời” (Mat 22:21). Vì là công dân của hai thế giới, Cơ-đốc nhân phải học cách bước đi bằng đức tin giữa một thế giới bị chi phối bởi ngoại cảnh. Để thắng hơn hấp lực của thế gian, Cơ-đốc nhân phải nhìn thấy những diều không thấy được gương như Môi-se (Hêb 11:24-27). Người thực dụng sẽ nói: “Thấy mới tin!”, nhưng người có đức tin đáp: “Tin mới thấy!”.
Nguyên tắc đức tin này phải được ứng dụng vào mối liên hệ của chúng ta với nơi thánh trên trời. Dù chưa bao giờ chiêm ngưỡng nơi thánh ấy, nhưng chúng ta vẫn tin rằng Kinh Thánh cho biết có một nơi thánh như thế. Chúng ta nhận biết Đức Chúa Trời không ở trong những đền thờ do tay người làm ra (Công 7:46-50) hôm nay. Ngài không ngự vào bất cứ nơi đặc biệt nào trên đất (Gi 4:19-24; Es 57:15; Es 66:1-2). Chúng ta có thể gọi nhà thờ là “Nhà Chúa”, nhưng đó không phải là nơi Ngài ngự. Ngôi nhà được dâng hiến cho Đức Chúa Trời và công việc Ngài chớ không phải nơi ngự của Ngài.
He 9:1-28 của thư tín trình bày một tương phản rõ nét giữa nơi thánh thời Cựu-ước (đền tạm) với nơi thánh trên trời của giao ước mới, nơi Chúa Giê-xu Christ hiện đang thi hành chức vụ Ngài. Sự tương phản này bày tỏ rằng nơi thánh của giao-ước mới là nơi thánh cao trọng.
1. Nơi thánh của Cựu-ước thấp kém hơn (Hêb 9:1-10)
Thư tín Hê-bơ-rơ nhắc người đọc nhớ rằng các quy định và thực hành trong đền tạm đã được Đức Chúa Trời lập ra, Vì vậy, nếu có sự thấp kém nào trong chức việc tại đền thờ, thì đó không phải là Đức Chúa Trời chưa lập ra nghi thức! Trong lúc Cựu-ước có hiệu lực, nhiệm vụ của các thầy tế lễ được Đức Chúa Trời chỉ định và hoàn toàn hợp cách.
Vậy điều gì đã khiến đền tạm chưa đạt đến mức cao trọng? Sau đây là 5 giải đáp cho câu hỏi trên:
a. Đền tạm là nơi thánh dưới đất (Hêb 9:1).
Đây là nơi do tay người tạo dựng ra (Hêb 9:11; Hêb 8:2). Dân Do-thái dâng rời rộng cho Môi-se những lễ vật họ có và đền tạm được dựng lên từ những vật chất này. Đức Chúa Trời cũng ban cho Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp sự khôn ngoan cũng như kỹ năng để thực hiện công việc tỉ mỉ trong các phần của đền tạm và việc trang trí (Xu 35:1-36:38).
Sau khi việc xây cất đã hoàn tất, nơi thánh được đặt vào chỗ và dâng hiến cho Đức Chúa Trời (Xu 40:1-38). Mặc dù vinh quang Đức Chúa Trời đầy dẫy đền tạm, nhưng đền tạm vẫn là công trình dưới đất bởi tay người dựng nên từ những vật liệu thuộc về đất.
Vì là công trình thuộc về đất, nên đền tạm này có nhiều khiếm khuyết. Trước hết, đền tạm cần phải được gia cố nhiều. Nó còn bị giới hạn về địa lý: nếu được dựng lên ở một nơi, vậy sẽ không thể hiện diện ở nơi khác. Đền tạm có thể bị tháo dỡ và dời đổi từ chỗ này sang chỗ khác. Đền tạm cũng chỉ thuộc về dân Y-sơ-ra-ên chớ không thuộc về cả thế giới.
b. Đền tạm là kiểu mẫu của một điều cao trọng hơn (Hêb 9:2-5).
Tác giả liệt kê các phần và đồ dùng của đền tạm, vì mỗi phần mang một ý nghĩa thuộc linh. Đó là những kiểu mẫu “chỉ về các vật trên trời” (Hêb 9:23). Dưới đây là sơ đồ mô tả hình ảnh tổng quát của đền tạm.
Nhóm từ “phần thứ nhất” (Hêb 9:2) và “phần thứ hai” (Hêb 9:7) chỉ về ranh giới thứ nhất và ranh giới thứ hai của đền tạm.
• Phần thứ nhất gọi là nơi thánh,
• còn phần thứ hai gọi là nơi chí thánh.
Mỗi phần của đền tạm đều có các vật dụng riêng. Mỗi vật dụng mang một ý nghĩa đặc biệt. Trong nơi thánh có một chân đèn bằng vàng ròng với 7 ngọn đèn (Xu 25:31-40; Xu 27:20-21; Xu 37:17-24). “chân đèn” là thuật ngữ chính xác được dùng trong Kinh Thánh (chớ không phải “cây nến”), vì ánh sáng phát ra từ các tim dầu chớ không từ cây nến nào. Đền tạm không có cửa sổ, nên chân đèn này cung cấp ánh sáng cần thiết để các thầy tế lễ hành sự trong nơi thánh.
Dân Y-sơ-ra-ên được xem là “sự sáng cho các dân ngoại” (Es 42:6; Es 49:6). Chúa Giê-xu Christ là “sự sáng của thế gian” (Gi 8:12) nên người tin nhận Ngài cũng phải “chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phi 2:14-15).
Nơi thánh còn có một cái bàn, trên đó để 12 ổ bánh gọi là bàn bánh trần thiết (Xu 25:23-30; Xu 37:10-16; Lê 24:5-9). Mỗi kỳ lễ Sa-bát các thầy tế lễ sẽ cất những ổ bánh cũ và dâng lên những ổ bánh mới. Họ ăn những ổ bánh cũ này. Những ổ bánh dâng lên được gọi là “bánh trần thiết” nên bàn để bánh cũng được gọi là “bàn bánh trần thiết”. Chỉ những thầy tế lễ mới được phép ăn bánh và họ phải ăn trong nơi thánh. Mười hai ổ bánh được dâng lên cho Đức Chúa Trời để kỷ niệm 12 chi phái đã được Ngài chọn. Bánh đó cũng cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu Christ hôm nay là “Bánh của sự sống” ban cho cả thế gian (Gi 6:1-71).
Bàn thờ xông hương bằng vàng trong nơi thánh được đặt ngay trước bức màn phân cách hai phần của đền tạm. Từ “lư hương” (dụng cụ để đốt hương liệu) được đề cập ở Hêb 9:4 thật ra là “bàn thờ”.
Bàn thờ xông hương bằng vàng này không ở trong nơi chí thánh, nhưng chức việc ở bàn thờ có liên quan đến nơi chí thánh. Bằng phương cách nào? Vào ngày lễ chuộc tội hằng năm, thầy tế lễ cả phải dùng than đỏ hực nơi bàn thờ này để đốt hương trước nắp thi ân phía trong bức màn (Lê 16:12-14).
Môi-se (Xu 40:5) liên hệ bàn thờ xông hương bằng vàng với hòm bảng chứng và tác giả sách I Các-vua (IVua 6:22) cũng vậy. Mỗi buổi sáng và buổi chiều, thầy tế lễ đều đốt hương trên bàn thờ xông hương.
Đa-vít ví sánh hành động này như sự cầu nguyện thấu đến Đức Chúa Trời (Thi 141:2). Hình ảnh dâng hương có thể là ý nghĩa nhắc rằng Chúa Giê-xu Christ là Đấng cầu thay chúng ta (Rô 8:33-34). Để biết thêm chi tiết về bàn thờ xông hương, mời bạn xem Xu 30:1-10; Xu 37:25-29. Hương liệu thánh được mô tả ở sách Xu 30:34-35
Nơi chí thánh chỉ có một hòm giao-ước bằng gỗ bề dài 3 ¾ feet (1m,14), bề ngang và bề cao đều 2 ¼ feet (0m,68). Phía trên hòm là nắp thi ân bằng vàng ròng rực rỡ, có gắn tượng Chê-ru-bin ở mỗi đầu. Đây chính là nơi ngự của Đức Chúa Trời trong đền tạm (Thi 80:1 Thi 99:1; Xu 25:10-22). Vào ngày lễ chuộc tội, huyết con sinh tế được rưới trên nắp thi ân, bao phủ hai bảng luật trong hòm. Đức Chúa Trời không nhìn vào luật pháp đã bị vi phạm, nhưng Ngài nhìn vào huyết. Đấng Christ là “nắp thi ân của chúng ta (là “của lễ chuộc tội” trong IGi 2:2; Rô 3:25). Nhưng huyết Ngài đổ ra không chỉ che đậy tội lỗi, mà còn cất đi tội lỗi.
Hẳn có nhiều chân lý thuộc linh ẩn chứa trong từng vật dụng của đền tạm và có giá trị. Nhưng chân lý thuộc linh quan trọng nhất là: Mọi hình thức này chỉ là hình bóng, chớ không phải là hiện thực thuộc linh. Điều này khiến cho đền tạm thời Cựu-ước chưa đạt đến mức cao trọng.
c. Đền tạm là nơi dân sự không thể vào (Hêb 9:6-7).
Chúng ta đừng tưởng dân sự tập trung trong đền tạm để thờ phượng Đức Chúa Trời. Chỉ có thầy tế lễ và những người Lê-vi mới được phép vào khu vực này ngoài họ ra, người thuộc các chi phái khác không thể vào được. Hơn thế, dù các thầy tế lễ hằng ngày hành sự trong nơi thánh, nhưng chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm mới có thể bước vào nơi chí thánh và chỉ bước vào một lần trong năm. Khi phục sự, thầy tế lễ thượng phẩm phải dâng của lễ chuộc tội cho mình cũng như của lễ chuộc tội cho dân sự. Trái lại, đền thánh trên trời luôn mở cửa cho dân Chúa bước vào (Hêb 10:19-25)!
d. Đền tạm không tồn tại lâu dài (Hêb 9:8).
• Phần thứ nhất của đền tạm (Hêb 9:6) là chứng cớ công tác cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho con người chưa được hoàn tất.
• Phần thứ nhất của đền tạm đã phân cách con người với nơi chí thánh. Bao lâu các thầy tế lễ còn thi hành chức vụ trong nơi thánh, con đường dẫn đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời vẫn chưa được mở ra. Nhưng, khi Chúa Giê-xu Christ chịu chết trên thập tự giá, bức màn trong đền thờ bị xé toạc từ trên chí dưới (Mat 27:50-51) mở đường vào trong nơi chí thánh.
Giờ đây, nơi thánh, nơi chí thánh không còn cần thiết nữa, bởi tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu Christ có thể bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
e. Lễ nghi trong đền thờ là hình thức bên ngoài (Hêb 9:9-10).
Những của lễ được dâng lên hay huyết con sinh tế rưới trên nắp thi ân chẳng bao giờ có thể biến cải lòng người hay lương tâm kẻ thờ phượng. Mọi nghi thức diễn ra trong đền tạm có liên quan đến sự thanh sạch về hình thức, chớ không phải sự thanh sạch về đạo đức. Đó chỉ là “mạng lịnh của xác thịt” (c.10) dành cho con người bên ngoài, nhưng không thể thay đổi con người bề trong.
2. Nơi thánh cao trọng trên trời (Hêb 9:11-28)
Năm nhược điểm của nơi thánh thời Cựu-ước đã được nêu trên bày tỏ 5 tính ưu việt của nơi thánh trong Giao ước mới. Ở bất cứ phương diện nào nơi thánh trong hiện tại luôn là nơi thánh cao trọng:
a. Ở trên trời (Hêb 9:11).
Tác giả nhấn mạnh sự kiện này trước tiên, vì ông muốn người đọc dồn sự chú ý vào những điều trên trời chớ không phải những điều dưới đất. Mọi điều thuộc về đất (kể cả ngôi đền thờ Do-thái uy nghi kia) rồi cũng mau chóng tiêu tan, nhưng những điều hiện thực thuộc về trời sẽ tồn tại mãi mãi).
Đền tạm thời Cựu-ước do tay người dựng nên (Xu 35:30-35). Nơi thánh của giao-ước mới không do tay người tạo dựng. “Không thuộc về đời này” (Hêb 9:11) nghĩa là “không thuộc về sự sáng tạo này”. Đền tạm của Môi-se được làm ra từ những vật liệu thuộc về đất, nhưng nơi thánh trên trời chẳng cần đến những vật liệu ấy (Hêb 9:24). Vì đền thánh trên trời không thuộc về tạo vật, nên không phụ thuộc vào sức tàn phá của thời gian.
“Những sự tốt lành sau này” đã đến rồi! Mọi điều được báo trước qua kiểu mẫu trong đền tạm giờ đã trở thành hiện thực, vì Đấng Christ đang thi hành chức tế lễ trên trời. Đền tạm được thiết kế theo mẫu của nơi thánh trên trời, nhưng hôm nay chúng ta không cần đến. Chúng ta có một đền thánh thật ở trên trời!
b. Chức vụ ở nơi thánh trên trời có hiệu lực giải quyết tội lỗi (Hêb 9:12-15).
Ở đây chúng ta sẽ thấy những điểm tương phản chứng minh một lần nữa sự cao trọng của chức vụ tế lễ trên trời.
- Con sinh tế và của lễ chuộc tội của Đấng Christ (Hêb 9:12).
Tác giả sẽ luận về sự khiếm khuyết của con sinh tế trong Hêb 10:1-39 nhưng ở đây ông bắt đầu đặt nền móng cho luận chứng. Chúng ta không cần chứng cớ nào để chứng minh huyết Chúa Giê-xu Christ cao trọng hơn nhiều so với huyết các con sinh tế. Làm sao huyết súc vật có thể giải quyết được nan đề về tội lỗi con người? Chúa Giê-xu Christ đã trở nên một con người để Ngài có thể chịu chết thay cho tội lỗi nhân loại.
• Sự chết của Ngài mang ý nghĩa tự nguyện.
Không thể tin rằng con sinh tế thời Cựu-ước làm được việc ấy! Huyết con sinh tế được thầy tế lễ đem vào nơi chí thánh. Nhưng Chúa Giê-xu Christ đã dâng chính Ngài trước mặt Đức Chúa Trời như của lễ chuộc tội sau cùng và trọn vẹn. Dĩ nhiên, các con sinh tế được dâng lên nhiều lần nhưng Chúa Giê-xu Christ dâng chính Ngài chỉ một lần.
Tóm lại, không con sinh tế nào có thể đem lại “sự chuộc tội đời đời”. Huyết chúng chỉ có thể che đậy tội lỗi cho đến kỳ huyết Đấng Christ “cất tội lỗi thế gian đi” (Gi 1:29). Chúng ta có “sự chuộc tội đời đời” không tuỳ thuộc nơi công đức hay việc thiện của riêng chúng ta, nhưng được bảo đảm một lần đủ cả bởi công tác đã hoàn tất của Chúa Giê-xu Christ.
- Làm sạch phần xác thịt và làm sạch lương tâm (Hêb 9:13-14).
Những nghi thức thời Cựu-ước không thể thay đổi được lòng người. Điều này không có nghĩa là người thờ phượng Đức Chúa Trời chưa có từng trải về thuộc linh (trong khi họ thực sự tin Đức Chúa Trời). Trọng tâm được đề cập ở đây là sự làm sạch về phần xác thịt (theo nghi thức bên ngoài). Khi người thờ phượng Đức Chúa Trời vâng theo những luật định, người ấy được xưng là tinh sạch. Đây là sự tinh sạch về xác thịt, chớ không phải sự thanh sạch về lương tâm (về “tro của bò cái tơ” Dan 19:1-22).
Ở Hêb 8:1-13 của thư tín, chúng ta biết rằng công việc của giao-ước mới còn lại đời đời. “Ta sẽ để luật pháp ta trong trí họ và ghi tạc vào lòng” (Hêb 8:10). Đây là công việc đã được thực hiện bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời (IICôr 3:1-3). Nhưng Đức Thánh Linh không thể ngự trong chúng ta nếu Chúa Giê-xu Christ chưa chuộc tội cho chúng ta. Việc làm sạch lương tâm chúng ta không thể được thực hiện bởi nghi thức bên ngoài, nhưng đòi hỏi một quyền năng bên trong. Vì Chúa Giê-xu Christ là Đấng “không tì tích” nên Ngài có thể dâng lên của lễ chuộc tội trọn vẹn.
• Ơn phước tạm và ơn phước đời đời (Hêb 9:15).
Ơn phước thời Cựu-ước tùy thuộc vào sự đầu phục của con người đối với Đức Chúa Trời. Nếu họ vâng lơì Ngài, sẽ được Ngài ban phước. Nhược bằng họ bất tuân, sẽ bị Ngài rút lại phước hạnh. Những ơn phước đó không chỉ mang tính tạm thời mà còn thuộc về thế tục, chẳng hạn như: mưa, mùa bội thu, thoát khỏi kẻ thù, vượt qua bệnh tật, v.v...
Cơ nghiệp ở Ca-na-an dành cho dân Y-sơ-ra-ên là ơn phước gắn liền với vật chất. Cơ nghiệp đời đời chúng ta có hôm nay là cơ nghiệp thuộc linh (Eph 1:3). Bạn hãy để ý từ trọng tâm ở đây là “đời đời” – “sự chuộc tội đời đời” (Hêb 9:12) và “cơ nghiệp đời đời” (Hêb 9:15). Người tin Chúa có thể vững lòng vì mọi sự người ấy có trong Đấng Christ sẽ còn lại đời đời.
Hêb 9:15 khẳng định rằng chẳng hề có sự chuộc tội sau cùng và trọn vẹn dưới thời Cựu-ước. Những vi phạm được che phủ bởi huyết của nhiều con sinh tế, nhưng không thể xoá sạch tội lỗi cho đến kỳ Đấng Christ dâng chính Ngài làm của lễ chuộc tội trên thập tự giá (Ro 3:24-26). Đấng Christ đã hoàn tất sự chuộc tội đời đời, nên chúng ta cũng được dự phần trong cơ nghiệp đời đời.
Khi xem lại 3 điểm tương phản trên, chúng ta có thể hiểu rằng chức vụ của Đấng Christ có hiệu lực giải quyết tội lỗi chúng ta. Công tá trọn vẹn của Ngài trên đất và chức vụ cầu thay Ngài đang thi hành trên trời là những công việc hoàn hảo và hiệu lực.
c. Chức vụ ở nơi thánh trên trời dựa trên một của lễ đắt giá (He 9:16-23).
Từ “giao-ước” không chỉ có nghĩa như “hiệp ước”, nhưng cũng mang ý nghĩa “chúc thư và di chúc cuối cùng”. Khi một người viết chúc thư, chúc thư ấy chỉ có giá trị khi người viết chết đi. Cũng một lẽ ấy, Chúa Giê-xu Christ cần phải chịu chết để những điều khoản củagiao ước mới có hiệu lực giá trị. “Chén này là giao-ước mới trong huyết ta vì các ngươi mà đổ ra..” (Lu 22:20)
Ngay cả giao-ước cũ cũng đã được lập ra bằng huyết. Đoạn Kinh Thánh He 9:19-21 được trích từ sách Xu 24:3-8 thuật lại việc Môi-se công bố giao-ước cũ cho dân Y-sơ-ra-ên. Sách luật pháp, dân sự, đền thờ và mọi vật dụng trong đó đều được rưới huyết. Đây hẳn là một sự kiện quan trọng.
Huyết không chỉ được sử dụng từ lúc bắt đầu chức vụ của giao ước cũ, mà còn được dùng trong mọi lễ nghi thường xuyên ở đền tạm. Dưới giao ước cũ, con người và các vật dụng phải được tẩy uế bằng huyết, nước hoặc lửa (Dan 31:21-24). Dĩ nhiên đây chỉ là nghi thức làm sạch bên ngoài, nó có nghĩa là con người và các vật dụng đó đã được Đức Chúa Trời chấp nhận. Sự tẩy uế này không thay đổi được bản chất con người hay các vật dụng.
Theo nguyên tắc của Đức Chúa Trời, huyết phải bị đổ ra trước khi tội lỗi được tha thứ (Lê 17:11). Vì Đức Chúa Trời đã quy định rằng sự tha tội phải qua sự đổ huyết và vì sự thanh tẩy cũng chỉ có được qua sự rảy huyết, như vây giao ước mới chỉ có hiệu lực qua việc đổ huyết và ứng dụng huyết đó. Kiểu mẫu (đền tạm Cựu-ước) được thanh tẩy bởi sự rảy huyết. Nhưng những nguyên bản cũng phải được tẩy sạch. Huyết Chúa Giê-xu Christ không chỉ làm sạch lương tâm người tin nhận (Hêb 9:14) mà còn làm sạch chính “các vật trên trời” (Hêb 9:23).
Nơi thánh ở trên trời được sạch như thế nào?
Chúng ta có thể hiểu mức độ nơi thánh dưới đất bị ô uế ra sao khi con người tội lỗi đụng đến. Mỗi kỳ lễ chuộc tội hằng năm đền tạm đều được tẩy uế bằng cách rưới huyết (Lê 16:12-19). Nhưng làm sao nơi thánh trên trời có thể bị ô uế? Chắc chắn là không vật gì trên trời bị ô uế theo nghĩa đen, vì tội lỗi không thể làm ô nhiễm nơi thánh của Đức Chúa Trời.
Nhưng cũng không có vật gì trong đền tạm dưới đất bị ô uế bởi tội lỗi theo nghĩa đen. Vấn đề này có liên quan đến mối liên hệ của con người với Đức Chúa Trời. Huyết rưới trên một vật dụng nào hẳn đã không thay đổi được bản chất của vật đó, nhưng thay đổi được mối liên hệ của Đức Chúa Trời với nó. Đức Chúa Trời có thể bước vào sự tương giao với con người vì cớ huyết được rưới ra.
Nhờ Chúa Giê-xu Christ, những tội nhân như chúng ta có thể bước vào nơi chí thánh trên trời (Hêb 10:19-22). Đương nhiên, chúng ta đang ở dưới đất về mặt thuộc thể, nhưng về thuộc linh, chúng ta đang ở trong mối tương giao với Đức Chúa Trời tại nơi chí thánh trên trời. Để Đức Chúa Trời có thể tiếp nhận chúng ta vào chỗ đứng trên trời này, huyết Chúa Giê-xu Christ đã phải đổ ra. Chúng ta bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời “nhờ huyết Đức Chúa Giê-xu Christ” (Hêb 10:19)
Đến đây chúng ta có thể tóm tắt luận đề của tác giả. Giao-ước cũ được lập bởi huyết và giao-ước mới cũng vậy. Nhưng giao-ước mới được lập trên cơ sở của một của lễ cao trọng, dâng lên ở nơi thánh cao trọng! Những “kiểu mẫu” (thời Cựu-ước) được tẩy uế bằng huyết các con sinh tế, nhưng nơi thánh thật được làm sạch bởi huyết Con Đức Chúa Trời.Đây chính là một của lễ đắt giá bội phần!
d. Chức vụ ở nơi thánh trên trời bày tỏ sự hoàn tất (Hêb 9:24).
Cơ-đốc nhân trong giao-ước mới đã nhìn thấy hiện thực. Chúng ta không cậy nhờ thầy tế lễ thượng phẩm trên đất hằng năm vào nơi chí thánh trong đền tạm một lần. Chúngta đã có thầy tế lễ thượng phẩm trên trời là Đấng bước vào nơi thánh đời đời một lần đủ cả. Ở đó, Ngài cầu thay chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời và Ngài sẽ luôn giữ chức vụ ấy.
Hãy cẩn thận khi tin cậy nơi điều gì kẻo đời sống thuộc linh bạn rơi vào tình trạng “bởi tay người làm ra” (Hêb 9:24). Nó sẽ không tồn tại lâu dài. Đền tạm đã được thay thế bằng đền Sa-lô-môn. Đền thờ ấy bị dân Ba-by-lôn tàn phá khi dân Do-thái thoát khỏi ách nô lệ và trở về quê hương, họ xây dựng lại đền thờ.
Nhiều năm sau đó, vua Hê-rốt đã nới rộng và trang trí đền thờ.
Nhưng rồi người La-mã lại tàn phá đền thờ ấy và đền thờ từ đó đến nay chưa được xây dựng lại. Hơn nữa, kể từ lúc những bản ghi chép gia phả bị thất lạc hoặc bị huỷ, dân Do-thái không biết rõ ai có thể nhận chức vụ thầy tế lễ. Những điều “bởi tay người làm ra” có thể bị hư mất, nhưng những điều “không bởi tay người làm” sẽ còn lại đời đời.
e. Chức vụ ở nơi thánh trên trời là công tác sau cùng và trọn vẹn (He 9:25-28).
Không thể có tình trạng chưa trọn vẹn hay tam thời đối với chức vụ của Chúa chúng ta ở nơi thánh trên trời. Một lần nữa, tác giả lại nêu ra những điểm tương phản rõ nét giữa chức vụ thời Cựu-ước và chức vụ của giao-ước mới:
- Giao ước cũ: | - Giao ước mới: |
Những sinh tế dâng lên nhiều lần. | Một của lễ duy nhất. |
Huyết của con sinh tế khác. | Huyết của Chúa. |
Che đậy tội lỗi. | Cất tội lỗi đi. |
Rời khỏi nơi chí thánh. | Bước vào nơi chí thánh trên trời và ở đó. |
Bước ra ngoài chúc phước dân sự. | Sẽ đến đem dân Chúa lên trời. |
Tóm lại, công việc của Đấng Christ là công tác cuối cùng đã hoàn tất và còn lại đời đời. Trên cơ sở này, Ngài đang cầu thay chúng ta trên trời.
Bạn có để ý thấy từ “hiện ra” được đề cập 3 lần trong Hêb 9:24-28 không? Ba lần sử dụng từ ấy cho chúng ta một tóm tắt về công tác Đấng Christ, Ngài đã “hiện ra” để cất tội lỗi đi bằng cách chịu chết trên thập tự giá (Hêb 9:26). Hôm nay Ngài đang “hiện ra” để đem những người tin nhận đến quê hương trên trời (Hêb 9:28). ba ý nghĩa của sự hiện ra này đều dựa trên cơ sở công tác Ngài đã hoàn tất.
Sau khi đọc đoạn Kinh Thánh này, chắc hẳn các tín hữu Hê-bơ-rơ phải nhận biết rằng sẽ không thể có tư tưởng trung lập. Họ phải có một sự chọn lựa giữa những điều thuộc về đất hoặc thuộc về trời, những điều tạm bợ hoặc những điều còn lại đời đời, sự chưa trọn vẹn hoặc sự trọn vẹn.
Vì sao họ không nên trở lại với đền thờ mà phải sống bởi đức tin Cơ-đốc? Tại sao không được chọn sự ưu việt của cả hai thế giới? Bởi vì, hành động đó mang tính thoả hiệp và chối từ “ra ngoài trại quân đặng đi tới cùng Ngài, đồng chịu điều sỉ nhục” (Hêb 13:13). Vì vậy không thể có lối sống trung lập!
Nơi thánh của Cơ-đốc nhân là nơi thánh trên trời. Cha của chúng ta và Đấng Christ của chúng ta đều ở trên trời. Cha của chúng ta và Đấng Christ của chúng ta đều ở trên trời. Quyền công dân của chúng ta ở trên trời (Phi 3:20) nên của cải chúng ta cũng phải để trên trời (Mat 6:19). Vì vậy, sự trông cậy chúng ta ở trên trời. Cơ-đốc nhân thật phải bước đi bằng đức tin chớ không bởi ngoại cảnh, bất chấp điều gì có thể xảy ra trên đất, Cơ-đốc nhân vẫn có thể vững vàng, bởi mọi sự đã được chuẩn bị ở trên trời.
9. CỦA LỄ CAO TRỌNG (Hêb 10:1-39)
Mẹ của một thiếu niên kia phải đi thăm viếng xa, nên cậu cảm thấy thời giờ trôi qua thật chậm chạp. Cậu quyết định đọc một cuốn sách trong tủ sách gia đình. Mẹ cậu vốn là một Cơ-đốc nhân sốt sắng, nên cậu thừa biết trong sách sẽ có bài giảng luận mở đầu và phần ứng dụng ở cuối sách, nhưng chắc cũng có kèm theo mấy mẫu chuyện hấp dẫn trong phần nội dung.
Trong khi đọc sách, cậu gặp phải nhóm từ “công tác đã được trọn của Đấng Christ”, tạo cho cậu một ấn tượng kỳ lạ. Cậu tự hỏi: “Tại sao không nói sự chuộc tội hay tế lễ vãn hồi của Đấng Christ nhỉ?” (Bạn thấy đấy, cậu ta cũng biết thuật ngữ Kinh Thánh nữa, nhưng không biết Đấng Christ! ). Rồi những chữ “mọi sự đã được trọn” thoáng lóe len trong đầu cậu, và cậu nhận biết ngay đó là công tác cứu rỗi đã được hoàn tất.
“Nếu cả công tác này đã được hoàn tất và mọi nợ tội đã được trả xong, vậy tôi còn phải làm chi nữa?” Cậu biết lời giải đáp nên quỳ xuống tiếp nhận Đấng Christ để được Ngài tha thứ. Đó là kinh nghiệm được Chúa cứu rỗi của J.Hudson Taylor, người sáng lập ra Hội truyền giáo Trung Hoa lục địa.
Hêb 10:1-39 của thư tín Hê-bơ-rơ nhằm luận về của lễ trọn vẹn của Chúa so với những của lễ chưa trọn vẹn được dâng lên dưới thời Cựu-ước. Chức tế lễ cao trọng của Chúa chúng ta thuộc về một dòng cao trọng: ban Mên-chi-xê-đéc chớ không phải ban A-rôn. Chức tế lễ của Ngài được thực hiện dựa trên một giao ước cao trọng –giao-ước mới, trong một nơi thánh cao trọng ở trên trời. Nhưng tất cả điều này tuỳ thuộc vào một của lễ tốt hơn, là chủ đề của đoạn Kinh Thánh này.
Tác giả trình bày 3 lợi ích giải thích lý do tế lễ của Chúa Giê-xu Christ cao trọng hơn mọi của lễ thời Cựu-ước.
1. Tế lễ của Đấng Christ cất tội lỗi đi (Hêb 10:1-10)
Tội lỗi đương nhiên là một nan đề lớn nhất của con người. Dù con người khhoác lên mình một lớp áo tôn giáo nào đi nữa, vẫn không có ích lợi gì nếu tôn giáo ấy không có khả năng giải quyết tội lỗi. Về bản chất, con người vốn là tội nhân và sự lựa chọn của con người chứng tỏ bản chất con người là tội lỗi. Thật hữu lý khi có người nói: “Không phải chúng ta là tội nhân vì phạm tội. Chúng ta phạm tội vì chúng ta vốn là tội nhân”.
a. Nhu cầu về một của lễ cao trọng hơn (Hêb 10:1-4).
Vì sao của lễ thời Cựu-ước chưa đạt đến mức cao trọng? Xét cho cùng, đó là những của lễ được Đức Chúa Trời chỉ định và được thực hiện hằng trăm năm qua. Có những lúc của lễ dân Do-thái dâng lên bị xem là những lễ nghi trống rỗng (Es 1:11-15), nhưng cũng có nhiều người chân thành dâng của lễ cho Đức Chúa Trời và được Ngài ban phước.
Chính bản chất của những của lễ thời Cựu-ước đã khiến chúng ta chưa đạt đến mức cao trọng. Luật pháp chỉ là “bóng của sự tốt lành ngày sau” chớ không có “hình thật”. Nghi thức tế lễ là “kiểu mẫu” hoặc hình ảnh công tác Đấng Christ sẽ thực hiện trên thập tự giá. Như vậy, nghi thức ấy có tính chất tạm thời, nên không thể hoàn tất được điều gì bền vững. Việc lập lại việc dâng sinh tế ngày này sang ngày nọ, lễ chuộc tội năm này sang năm kia đã bày tỏ sự khiếm khuyết của mọi nghi thức này.
Con sinh tế không bao giờ có thể giải quyết dứt điểm tội lỗi con người. Đức Chúa Trời hứa ban sự tha thứ cho những người thờ phượng Ngài có lòng tin thật (Lê 4:20,26,31,35), nhưng đây là sự tha thứ thuộc về luật pháp, chớ không thể cất bỏ tội lỗi khỏi lòng người. Con người không có chứng cớ trong lòng về sự tha thứ trọn vẹn. Họ không thể tuyên bố “tôi không còn biết tội nữa”. Nếu kẻ thờ phượng Đức Chúa Trời đã một lần được sạch (khỏi tội) rồi”, có lẽ họ đã không cần dâng những của lễ khác!
Vì vậy, đại lễ chuộc tội hằng năm đã không thực hiện được điều gọi là “không nhớ đến tội lỗi”, mà chỉ càng “nhắc cho nhớ lại tội lỗi”. Việc lặp đi lặp lại các nghi lễ hằng năm là chứng cớ cho thấy những sinh tế của bao năm trước đã không làm được nhiệm vụ trên. Thật vậy, tội lỗi dân sự dù được che đậy, nhưng không được tẩy sạch. Dân sự không có chứng cớ nội tâm về việc Đức Chúa Trời đã tha thứ và chấp nhận họ.
Vâng, nhất thiết cần có một của lễ cao trọng hơn, vì huyết của bò đực và dê đực không thể cất đi tội lỗi. Huyết con sinh tế có thể che đậy tội lỗi và trì hoãn sự đoán phạt, nhưng chẳng bao giờ có thể làm cho sự chuộc tội có hiệu lực một lần đủ cả. Chỉ có tế lễ cao trọng của Con Đức Chúa Trời mới có thể thực hiện được điều đó.
b. Của lễ cao trọng được cung ứng (Hêb 10:5-9).
Chính Đức Chúa Trời đã ban ra của lễ này, chớ không phải con người.Đoạn Kinh Thánh này được trích từ Thi 40:6-8 ứng dụng cho Chúa Giê-xu Christ khi Ngài hiện thân trên đất (“Đấng Christ khi vào thế gian...”). Đoạn trích dẫn này cho thấy Chúa Giê-xu Christ là sự ứng nghiệm về những của lễ thời Cựu-ước.
Từ “của lễ” chỉ về bất cứ con sinh tế nào. Việc dâng của lễ bao gồm vật thực cùng thức uống. Của lễ thiêu và của lễ chuộc tội cũng được đề cập đến (Hêb 10:5,8). Lễ vật được dâng lên vì sự vi phạm được bao gồm trong từ ngữ “của lễ” (Hêb 10:5). Mỗi lễ vật đều tiêu biểu cho tế lễ của Đấng Christ và bày tỏ một khía cạnh nào đó của công tác Ngài trên thập tự giá (Lê 1:1-7:38).
Câu “Chúa đã sắm sửa một thân thể cho tôi” (Hêb 10:5) không có trong bản gốc. Thi 40:6 chép: “Chúa đã mở tai tôi”. Tác giả Hê-bơ-rơ muốn trích dẫn câu Kinh Thánh trên theo bản dịch Cựu-ước tiếng Hy-lạp (bản dịch Septuagint). Chúng ta giải thích sự khác biệt này ra sao? Câu “Chúa đã mở tai tôi” có liên hệ với đoạn Kinh Thánh Xu 21:1-6 mô tả hành động của chủ khi kẻ tôi tớ của mình không muốn được trả tự do. Chủ sẽ sỏ lổ tai đầy tớ làm dấu hiệu cho biết đầy tớ này muốn ở lại với chủ. Đây cũng là ý nghĩa Chúa Giê-xu Christ như một tôi tớ sẵn sàng chịu “sỏ lổ tai”.
Có lẽ việc “mở tai” (Es 50:4-6) là dấu hiệu của sự sẵn sàng nghe và vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho Con Ngài một thân thể đã được chuẩn bị trước để có thể hầu việc Đức Chúa Trời và thực hiện ý muốn Ngài trên đất. Chúa chúng ta cũng thường liên hệ đến chân lý này (Gi 4:34; Gi 5:30; Gi 6:38; Gi 17:4).
Dĩ nhiên, chính Đức Thánh Linh là Đấng hà hơi trên Thi 40:1-17 có quyền sử dụng và giải thích Lời Ngài qua Hêb 10:1-39. “Tai được mở” chỉ về một thân thể được chuẩn bị để hầu việc.
Hai lần trong đoạn này tác giả xác định rằng Đức Chúa Trời “chẳng muốn” của lễ thời Cựu-ước (Hêb 10:6,8). Điều này không có nghĩa là những của lễ trước kia không hợp cách hay kẻ thờ phượng thật tâm không được hưởng ích lợi gì từ luật pháp Đức Chúa Trời. Nhưng ý nghĩa được bày tỏ ở đây là: Đức Chúa Trời không hài lòng những của lễ được dâng lên không bởi tấm lòng vâng phục của kẻ thờ phượng.Không một con sinh tế nào có thể thay thế cho sự vâng phục (ISa 15:22; Thi 51:16-17; Es 1:11,19; Giê 6:19-20; Os 6:6; Am 5:20-21).
Chúa Giê-xu Christ đã đến để làm theo ý Cha Ngài, ý muốn này chính là giao ước mới thay thế cho giao ước cũ. Bởi sự chết và sự sống lại, Chúa Giê-xu Christ đã bỏ giao ước trước để lập giao ước sau. Đối tượng đọc thư tín Hê-bơ-rơ có lẽ đã nhận được sứ điệp: tại sao phải quay lại với một giao ước đã bị cất bỏ? Tại sao phải dâng những của lễ chưa được cao trọng?
c. Hiệu lực về của lễ cao trọng (Hêb 10:10).
Người tin Chúa được biệt riêng ra (được “nên thánh”) bởi Đấng Christ đã dâng chính Ngài một lần đủ cả: Người thờ phượng Đức Chúa Trời thời Cựu Ước phải được tẩy uế nhiều lần khỏi sự ô uế về mặt hình thức. Nhưng thánh đồ của giao ước mới được nên thánh trọn vẹn đời đời.
2. Tế lễ của Đấng Christ không cần dâng nhiều lần (Hêb 10:11-18)
Một lần nữa, tác giả so sánh thầy tế lễ thượng phẩm thời Cựu-ước với Chúa Giê-xu Christ, thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta. Sự kiện Chúa Giê-xu Christ thăng thiên và ngồi bên hữu Đức Chúa Trời đã chứng minh rằng công tác Ngài được hoàn tất (Hêb 1:3,13; Hêb 8:1).
Chức vụ của các thầy tế lễ trong đền tạm chẳng bao giờ chấm dứt và không có gì khác biệt: họ đều dâng lên cùng một của lễ hết ngày này sang ngày khác. Lễ nghi lặp đi lặp lại này chứng tỏ của lễ họ dâng lên đã không thể cất đi tội lỗi. Điều mà muôn vàn của lễ không thể thực hiện được, thì Chúa đã làm trọn bởi một của lễ đời đời!
Động từ “ngồi” (Hêb 10:12) nhắc ta nhớ đến Thi 110:1 “Hãy ngồi bên hữu ta cho đến chừng ta đặt kẻ thù nghịch ngươi làm bệ chân cho ngươi”. Đấng Christ hiện ở nơi vinh hiển cao trọng. Khi Ngài tái lâm, Ngài sẽ chiến thắng mọi kẻ thù và lập vương quốc công bình của Ngài. Những ai tin nhận Ngài không hề sợ hãi, vì họ đã “được trọn vẹn đời đời” (Hêb 10:14) và “nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự” (Côl 2:10). Trước mặt Đức Chúa Trời, chúng ta có một địa vị trọn lành bởi công tác đã hoàn tất của Chúa Giê-xu Christ.
Làm sao chúng ta biết mình có một địa vị trọn lành trước mặt Đức Chúa Trời? Vì lời chứng của Đức Thánh Linh qua Kinh Thánh (Hêb 10:15-18). Lời chứng của Đức Thánh Linh dựa trên nền tảng của công tác Con Đức Chúa Trời đã thực hiện và được bày tỏ qua Lời Kinh Thánh. Tác giả (Hêb 10:16-17) trưng dẫn sách Giê 31:33-34 làm một phần cho bài giảng của ông (cũng được ông nêu ở Hêb 8:7-12).
Tín-hữu thời Cựu-ước không thể nói rằng mình “không còn biết tội nữa” (Hêb 10:2). Nhưng tín hữu thời có thể tuyên bố rằng tội lỗi cùng những vi phạm mình không còn bị nhớ đến nữa. “Không cần dâng của lễ vì tội lỗi nữa” (Hêb 10:18) và chẳng còn sự nhắc nhớ về tội lỗi nữa.
Tôi có dịp tiếp xúc với một chuyên gia tâm thầnhọc vốn là người tin Chúa. Những bài thuyết trình của ông rất hợp với tư tưởng Kinh Thánh. Ông cho tôi biết: “Nan đề của tâm thần học chính ở chỗ nó chỉ có thể xử lý các triệu chứng. Một bác sĩ về tâm thần có thể giúp bệnh nhân thoát khỏi cảm giác về tội lỗi, nhưng không thể cất đi tội lỗi. Tội lỗi giống như người lái xe tải tháo lỏng tấm chắn trên xe nên không nghe tiếng va đập của động cơ. Bệnh nhân có thể đi đến chỗ có cảm giác khá hơn, nhưng rơi vào hai nan đề thay vì một nan đề!”.
Khi tội nhân tin nhận Đấng Christ mọi tội lỗi người ấy được tha thứ Tội lỗi đã được cất đi và nan đề được giải quyết trọn vẹn một lần đủ cả.
3. Tế lễ của Đấng Christ mở đường đến Đức Chúa Trời (Hêb 10:19-39)
Không một tín đồ nào ở thời Cựu-ước đủ can đảm bước vào nơi chí thánh trong đền tạm.Ngay cả thầy tế lễ thượng phẩm cũng chỉ bước vào đó một lần duy nhất trong năm.Bức màn dầy phân cách nơi thánh với nơi chí thánh là một rào chắn giữa Đức Chúa Trời và con người. Chỉ có sự chết của Đấng Christ mới có thể xé toang bức màn ấy (Mac 15:38) và mở đường vào nơi thánh trên trời, là nơi ngự của Đức Chúa Trời.
a. Lời mời gọi ân cần (Hêb 10:19-25)
“Chúng ta ... (hãy) đến gần Chúa... hãy cầm giữ... hãy coi sóc nhau”. Ba lời kêu gọi này giục chúng ta dạn dĩ bước vào nơi chí thánh. Và sự dạn dĩ này dựa trên công tác đã hoàn tất của Đấng Christ. Vào ngày lễ chuộc tội, thầy tế lễ thượng phẩm không thể bước vào nơi chí thánh nếu không dâng huyết con sinh tế (He 9:7). Nhưng, con đường dẫn chúng ta vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời không nhờ huyết con sinh tế, mà bởi huyết của Đấng Christ đã đổ ra.
Con đường rộng mở dẫn đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời là con đường “mới (nghĩa là “gần đây, vừa mới có”) chớ không thuộc về giao-ước cũ “đã già” và “gần tiêu mất đi” (Hêb 8:13). Đây là con đường”sống” vì Đấng Christ là Đấng “hằng sống để cầu thay” cho chúng ta (Hêb 7:25) Đấng Christ là con đường “mới và sống”! Chúng ta đến với Đức Chúa Trời nhờ Ngài. Thầy tế lễ thượng phẩm trông coi nhà Đức Chúa Trời (tức Hội thánh Hêb 3:6). Khi thân thể Ngài tan nát trên thập tự giá và sự sống Ngài bị hy sinh, Đức Chúa Trời bèn xé toang bức màn trong đền thờ. Sự kiện này đánh dấu giai đoạn con đường mới và sống giờ đây được mở ra cho mọi kẻ tin nhận.
Trên cơ sở những điều chắc chắn này, chúng ta có sự dạn dĩ để bước vào nơi chí thánh, vì chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm hằng sống và nhận được một lời mời ân cần để bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Thầy tế lễ Cựu-ước vào nơi chí thánh chỉ một lần trong năm, nhưng chúng ta được mời gọi ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời mọi ngày mọi lúc. Thật là một đặc quyền kỳ diệu biết bao! Bạn hãy suy gẫm những điều có liên quan đến 3 lời mời gọi sau:
-Hãy “đến gần” (Hêb 10:22). Dĩ nhiên, chúng ta phải sửa soạn tâm linh mình để giao thông với Đức Chúa Trời. Thầy tế lễ thời Cựu-ước phải thực hiện các thủ tục tẩy rửa khác nhau và rưới huyết vào ngày lễ chuộc tội (Lê 16:1-34). Trong chức vụ hằng ngày, thầy tế lễ cũng phải rửa tay chân trong thùng nước trước khi bước vào nơi thánh (Xu 30:18-21).
Cơ-đốc nhân trong giao-ước mới phải đến với Đức Chúa Trời bằng một tấm lòng thật thà và một lương tâm thanh sạch. Mối giao thông với Đức Chúa Trời đòi hỏi sự thanh sạch (IGi 1:5-2:2).
-Hãy “cầm giữ” (Hêb 10:23). Đối tượng đọc thư tín Hê-bơ-rơ là những tín hữu bị cám dỗ từ bỏ niềm tin nơi Chúa Giê-xu Christ để trở lại với hình thức thờ phượng thời Cựu-ước. Tác giả không kêu gọi họ cầm giữ sự cứu rỗi vì sự an toàn của họ ở nơi Đấng Christ chớ không ở trong chính bản thân họ (Hê 7:25). Tác giả kêu gọi họ cầm giữ “sự làm chứng (sự xưng nhận) về điều trông cậy”. (Bản Kinh Thánh không nói đến từ “đức tin”. Từ Hy-lạp là “hy vọng”).
Chúng ta để ý sẽ thấy bài học về thư tín Hê-bơ-rơ nhấn mạnh đến sự hy vọng vinh hiển của Cơ-đốc nhân. Đức Chúa Trời muốn “đem nhiều con đến sự vinh hiển” (He 2:10) Cơ-đốc nhân là những “kẻ dự phần ơn trên trời gọi” (He 3:1) và vì vậy có thể vui mừng trong hy vọng (He 3:6). Hy vọng là một trong những chủ đề của Hê-bơ-rơ chương 6 (He 6:11-12,18-20). Chúng ta đang trông đợi Đấng Christ tái lâm (He 9:28) và đang tìm một thành hầu đến (He 13:14).
Khi một Cơ-đốc nhân đặt hy vọng mình nơi Đấng Christ và tin tưởng sự thành tín của Đức Chúa Trời, người ấy sẽ không bị dao động. Thay vì quay lại phía sau (như dân Do Thái từng hành động). Chúng ta hãy nhìn về phía trước để trông đợi sự trở lại của Chúa.
-Hãy coi sóc nhau (He 10:24-25). Bạn đừng bao giờ để mối giao thông của mình với Đức Chúa Trời trở nên ích kỷ. Chúng ta cũng phải giữ mối liên hệ với các tín hữu khác trong Hội Thánh. Trong thực tế, có một số tín hữu yếu đuối muốn tách mình khỏi mối thông công với Hội Thánh. Điều đáng chú ý ở đây là trọng tâm nói về những điều mà một tín hữu có thể đóng góp cho Hội Thánh chớ không nói về điều người ấy nhận được từ Hội Thánh. Tinh thần trung tín trong sự nhóm lại khích lệ được kẻ khác và khuyên giục họ về “lòng yêu thương và việc tốt lành”.Sự tái lâm mau chóng của Chúa Giê-xu Christ là một trong những động cơ mạnh mẽ cho sự trung tín. Từ “nhóm lại” (Hêb 10:25) còn được gọi là “hội hiệp” ở IITês 2:1 để chỉ về sự tái lâm của Đấng Christ.
Ba đức tính cao trọng của Cơ-đốc nhân được thể hiện ở đây là: đức tin (Hêb 10:22) sự hy vọng (Hêb 10:23) và lòng yêu thương (Hêb 10:24). Đó là những bông trái từ mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời ở nơi thánh trên trời.
b. Lời khuyên quan trọng (Hêb 10:26-31).
Đây là lời khuyên thứ 4 thuộc 5 lời khuyên trong thư tín Hê-bơ-rơ. Thư được viết cho những người đã tin Chúa kèm theo những lời khuyên. Tín-hữu nào bị “trôi dạt” khỏi Lời Chúa (Hêb 2:1-4) chẳng bao lâu sẽ bắt đầu nghi ngờ Lời Ngài (Hêb 3:7-4:13).
Sau đó, người ấy sẽ “chậm hiểu” Lời Chúa (Hêb 5:11-6:20) và trở nên “lười biếng trong đời sống thuộc linh.” Tình trạng này sẽ dẫn đến thái độ khinh thường Lời Chúa. Đây cũng là chủ đề của lời khuyên này.
Chứng cớ về sự khinh thường Lời Chúa là tội lỗi cố phạm. Thì của động từ “cố ý phạm tội” ở Hêb 10:26 có thể hiểu là “Vì nếu chúng ta... tiếp tục cố ý phạm tội”. Lời khuyên răn này không nhằm chỉ về một hành động tội lỗi đặc biệt nào, nhưng nói về một thái độ dẫn đến tình trạng bất tuân tái diễn nhiều lần. Dưới giao-ước cũ, không hề có của lễ chuộc tội đã biết nhưng cố ý vi phạm (Xu 21:12-14; Dan 15:27-31).
Tội nhân tự phụ nào khi khinh thường luật Môi-se và vi phạm luật ấy, sẽ bị xử tử (Phuc 17:1-7). Đây là lý do Đa-vít đãcầu nguyện như tinh thần Thi 51:1-19. Do cố ý phạm tội, lẽ ra ông phải bị xử tử, nhưng ông khóc lóc cầu xin sự thương xót của Đức Chúa Trời. Đa-vít biết rằng muôn vàn của lễ vẫn không thể cứu được ông. Những gì ông có thể dâng cho Chúa là của lễ của “lòng đau thương thống hối” (Thi 51:16-17)
Thái độ thiếu khôn ngoan ảnh hưởng ra sao đến mối liên hệ của Cơ-đốc nhân với Đức Chúa Trời? Thái độ ấy khác nào Cơ-đốc nhân “giày đạp” Chúa Giê-xu Christ, xem thường huyết báu Ngài đã đổ ra cứu mình (Hêb 10:29) và khinh lờn Đức Thánh Linh.Điều này đi ngược lại ý nghĩa của lời khuyên ở Hêb 10:19-25! Thay vì dạn dĩ bày tỏ đức tin, sự hy vọng và lòng yêu thương, Cơ-đốc nhân sa ngã có hành động và thái độ làm sỉ nhục danh Đấng Christ cũng như Hội thánh.
Cơ-đốc nhân thuộc dạng như vậy còn có thể trông mong gì nơi Đức Chúa Trời? Người ấy chỉ đợi chờ sự đoán phạt rất nghiêm mà thôi (sự sửa phạt là chủ đề của Hêb 12:1-29). Không cần phải “giảm nhẹ” những từ như “sự đợi chờ kinh khiếp về sự phán xét”, “lửa hừng sẽ đốt cháy” (Hêb 10:27) hay “hình rất nghiêm” (Hêb 10:29).
Qua lịch sử Y-sơ-ra-ên, chúng ta biết rằng hầu như không ai hưởng được cơ nghiệp Đức Chúa Trời hứa ban dù đã được cứu khỏi Ai-cập bởi huyết chiên con. Họ hầu hết đều chết trong đông vắng. “Cũng có tội đến nỗi chết” (IGi 5:16). Một số tín-hữu Cô-rinh-tô đã bị sửa phạt, bị cất khỏi sự sống vì những tội lỗi cố phạm (ICôr 11:30 “ngủ” nghĩa là “chết”).
Không phải Đức Chúa Trời lúc nào cũng cất đi sự sống của Cơ-đốc nhân chống nghịch, nhưng Ngài sẽ luôn giải quyết tình trạng của người ấy. Ngài từng phán với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài rằng “sự trả thù thuộc về ta”. “Chúa sẽ xét đoán dân mình” (Hêb 10:30 trích từ Phuc 32:35). “Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay” (Hêb 10:31).
Chủ đề chính của thư tín Hê-bơ-rơ nhằm nêu lên vấn đề: “Đức Chúa Trời đã phán ra, còn bạn đang hưởng ứng ra sao đối với Lời Ngài?” “Khi dân Y-sơ-ra-ên không tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài đã sửa phạt họ.” Phao-lô dùng sự kiện này để khuyên răn các tín-hữu Cô-rinh-tô trách tội lỗi cố phạm (ICôr 10:1-12).
Hãy để ý những gương nêu ra ở đoạn này, nói về những người đã chết vì tội lỗi cố phạm.Khi chúng ta học về chủ đề sự sửa phạt ở Hêb 12:1-29 chúng ta sẽ có cái nhìn sâu sắc hơn về sự sửa phạt kinh khiếp của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài.
Khi xác định rằng lời khuyên này ứng dụng cho Cơ-đốc nhân hôm nay, như không liên quan đến việc mất sự cứu rỗi, tôi không cho rằng sự sửa phạt ấy là vô nghĩa. Ngược lại, mỗi Cơ-đốc nhân càng cần phải vâng lời Đức Chúa Trời và làm đẹp lòng Ngài trong mọi sự.
Tấn sĩ William Culbertson, cựu viện trưởng viện thánh Kinh Moody thường khuyên chúng tôi về “những hậu quả đau buồn của tội lỗi đã được tha”. Đức Chúa Trời đã tha thứ tội lỗi Đa-vít, nhưng Đa-vít vẫn phải chịu hậu quả đau buồn trong những năm sau đó (IISa 12:7-15). Đa-vít phạm tội “khinh bỉ lời Đức Giê-hô-va”, nên Đức Chúa Trời đã sửa phạt ông (IISa 12:9).
Cơ-đốc nhân phải làm gì khi phần thuộc linh bị rơi vào tình trạng nghi ngờ, chậm hiểu và khinh thường Lời Đức Chúa Trời? Người ấy phải ăn năn với Chúa và cầu xin sự thương xót của Ngài. Không có của lễ chuộc tội nào khác ngoài của lễ Đấng Christ đã dâng trọn vì tội lỗi chúng ta. Thật đáng khiếp sợ khi rơi vào bàn tay sửa phạt của Chúa, nhưng cũng thật tuyệt diệu khi rơi vào bàn tay Ngài để được tinh sạch và phục hồi địa vị mình, Đa-vít đã nói: “Ta xin sa vào tay Đức Giê-hô-va, vì sự thương xót của Ngài rất lớn” (ISu 21:13).
c. Lời khẳng định đầy yên ủi (Hêb 10:32-39).
Để người đọc không hiểu sai ý nghĩa của lời khuyên, tác giả tiếp tục dùng lời yên ủi khích lệ họ. Các tín hữu Hê-bơ-rơ tỏ ra chứng cớ cho thấy họ là những Cơ-đốc nhân thật. Tác giả không cho rằng họ khinh thường Lời Chúa và chịu sự sửa phạt của Đức Chúa Trời. Thật ra, như ở Hêb 6:1-20 tác giả chuyển đại danh từ “chúng ta” ở Hêb 10:26 thành “người ấy” ở Hêb 10:29 và “ (những) kẻ” ở Hêb 10:39.
Các tín-hữu Hê-bơ-rơ từng sẵn sàng chịu sỉ nhục. Bắt bớ vì những việc lành. Khi được tha khỏi ngục tù, họ đã dạn dĩ đồng nhất hoá cùng những tín-hữu gặp hoạn nạn, thậm chí chịu khổ với những người trong vòng bắt bớ. Đó là lúc họ có sự vững vàng và hy vọng lớn, nhưng lúc này họ đang ở trong nguy cơ mất niềm tin và muốn trở lại hình thức tôn giáo cũ.
Bí quyết của sự đắc thắng ở trong đức tin và sự nhịn nhục của họ. Chúng ta đã thấy những ơn phước kèm theo ở Hêb 6:12,15. Ở đây, tác giả giới thiệu một “đề mục” xoay quanh nội dung ”người công bình của ta sẽ cậy đức tin mà sống“ (Hêb 10:38). Câu Kinh Thánh này được trích từ sách Ha 2:4 cũng được ghi lại ở Rô 1:17 và Ga 3:11. Rô-ma nhấn mạnh về “người công bình”, Ga-la-ti luận về việc “sẽ sống” và Hê-bơ-rơ tập trung vào chủ đề “bởi đức tin”. Chúng ta không chỉ được cứu khỏi tội lỗi bởi đức tin, mà còn phải sống bởi đức tin. Đây là chủ đề của He 11:1-13:25
Cơ-đốc nhân nào sống bởi đức tin sẽ “tấn tới sự trọn lành” (Hêb 6:1), nhưng Cơ-đốc nhân nào sống bởi ngoại cảnh sẽ “lui đi cho hư mất” (Hêb 10:39). Chữ “hư mất” ở đây nghĩa là gì? Từ “hư mất” theo gốc Hy-lạp được sử dụng 20 lần trong Kinh Thánh và được dịch ra bằng những từ khác nhau: “hư mất” (Công 8:20; Rô 9:22), “phí” (Mat 26:8), “chết” (Công 25:25). Từ này có nghĩa “sự đoán phạt đời đời” nhưng không nhất thiết áp dụng cho mọi trường hợp. Bản thân tôi cho rằng từ “phí” là từ hợp lý nhất tương đương với nghĩa “hư mất” ở Hêb 10:39 Cơ-đốc nhân nào không bước đi bởi đức tin hẳn sẽ lui đi trong đường lối cũ và làm phí đời mình.
Việc “giữ đức tin cho linh hồn được cứu rỗi” trái nghĩa với việc làm “phí” nó. Bước đi bởi đức tin là làm theo Lời Đức Chúa Trời và sống cho danh Đấng Christ. Chúng ta bỏ sự sống mình vì danh Chúa, nhưng chúng ta sẽ giữ được sự sống! (Mat 16:25-27). Trong chức vụ của tôi, tôi đã từng chứng kiến nhiều người không muốn làm theo ý Chúa và (như dân Y-sơ-ra-ên) họ đã trải qua những năm tháng phí đời mình khi “lang thang trong đồng vắng”.
Tuy vậy, chúng ta hôm nay có thể đứng vững vàng! Khi chúng ta bước đi bởi đức tin, thầy tế lễ thượng phẩm cao trọng của chúng ta sẽ dẫn dắt và khiến chúng ta trở nên trọn lành!
10. ĐỨC TIN – NĂNG LỰC VĨ ĐẠI NHẤT TRÊN ĐỜI (He 11:1-40)
Đoạn Kinh Thánh này giới thiệu phần cuối của thư tín Hê-bơ-rơ (Hêb 11:1-13:25) mà tôi gọi là “một nguyên tắc cao trọng – đức tin”. Yếu tố Đấng Christ là Con người cao trọng (Hêb 1:1-6:20) và việc Ngài thực hiện chức tế lễ cao trọng (Hêb 7:1-10:39) hẳn khích lệ chúng ta rất nhiều khi đặt niềm tin nơi Ngài.
Tín-hữu Hê-bơ-rơ, đối tượng của thư tín, bị cám dỗ trở lại với hình thức cũ của Do-thái giáo và đặt niềm tin nơi Môi-se. Niềm tin của họ dựa trên những điều hữu hình của thế gian, chớ không dựa trên những hiện thực vô hình từ nơi Đức Chúa Trời. Thay vì phải “tấn tới sự trọn lành” (trưởng thành), họ lại “lui đi cho hư mất (phí)” (Hêb 6:1; Hêb 10:39).
Trong Hêb 11:1-40 này tác giả kêu gọi mọi Cơ-đốc nhân phải sống bằng đức tin. Ở đây, tác giả luận đến hai đề tài quan trọng liên quan đến đức tin (Xem phần giải nghĩa Hêb 11:1-40).
1. Sự mô tả về đức tin (Hêb 11:1-3)
Đây không phải là một định nghĩa về đức tin, nhưng là một cách mô tả về việc làm của đức tin và cách hành động của đức tin. Theo tinh thần Kinh Thánh, đức tin thật không phải là thái độ lạc quan mù quáng hay một cảm giác “hy vọng” tự tạo. Cả hai cách giải thích đó đều không thể được chấp nhận đối với một giáo lý. Đức tin dĩ nhiên không đơn giản là tin mà không cần chứng cớ! Đó sẽ là sự mê tín.
Đức tin thật theo Kinh Thánh là sự vâng phục Lời Đức Chúa Trời với lòng tin quyết bất chấp mọi hoàn cảnh và những gì xảy ra quanh mình. Bạn hãy đọc lại câu này và để nó thấm vào lòng và trí bạn.
Đức tin này hành động thật đơn giản. Đức Chúa Trời phán và chúng ta nghe Lời Ngài.Chúng ta phải tin Lời Ngài và làm theo cho dù hoàn cảnh nào hay điều gì sẽ xảy đến có thể gây cho chúng ta sợ hãi và hoang mang, nhưng chúng ta hãy cứ làm theo Lời Đức Chúa Trời bằng sự trung tín và tin rằng Ngài đang làm những điều hợp lẽ có lợi nhất cho chúng ta.
Thế gian hư mất không thể hiểu đức tin thật theo Kinh Thánh, có lẽ vì họ không nhìn thấy đức tin được bày tỏ trong Hội thánh hôm nay. Chủ biên H.L.Mencken vốn là người có tính hoài nghi đã định nghĩa đức tin như “một niềm tin vô căn cứ về những điều không thể xảy ra”.
Thế gian không nhận biết rằng đức tin gần như là mục tiêu của chính nó, vì vậy mục tiêu của đức tin chúng ta là Đức Chúa Trời.Đức tin không phải là “một cảm giác” nào đó được chúng ta tạo ra. Đức tin là sự hưởng ứng trọn vẹn của chúng ta đối với mọi điều Đức Chúa Trời đã bày tỏ qua Lời Ngài.
Có 3 từ trong Hêb 11:1-3 tóm tắt ý ghĩa của đức tin thật theo Kinh Thánh: Sự biết chắc vững vàng, bằng cớ và lời chứng. Theo nguyên văn “sự biết chắc vững vàng” nghĩa là “chịu đựng, chống đỡ”. Đối với Cơ-đốc nhân, đức tin giống như nền móng của một ngôi nhà: nó giúp người ấy đứng vững một cách chắc chắn và an toàn.
Vì vậy, bạn có thể nói: “Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong...” Khi một Cơ-đốc nhân có đức tin, đức tin đó là cách Đức Chúa Trời ban cho người ấy sự biết chắc vững vàng rằng những điều Ngài đã hứa sẽ được thực hiện.
Bằng cớ đơn giản là “sự biết chắc”. Đây là sự biết chắc trong lòng do Đức Chúa Trời bày tỏ rằng những điều Ngài đã hứa sẽ được thực hiện. Sự hiện diện của đức tin do Đức Chúa Trời gieo vào lòng người chính là sự biết chắc đủ để Cơ-đốc nhân tin rằng Ngài sẽ giữ lời hứa Ngài.
Lời chứng (“được lời chứng tốt”) là từ đầy ý nghĩa trong đoạn Kinh Thánh này. Nó không chỉ xuất hiện ở He 11:2 mà còn ở He 11:4,39. Đại ý của He 12:1 nhằm gọi những người làm chứng như “đám mây rất lớn”. Họ làm chứng cho chúng ta vì Đức Chúa Trời đã làm chứng cho chính họ trước. Ở mỗi gương điển hình được nêu ra, Đức Chúa Trời đều làm chứng cho đức tin của con người. Lời chứng này là sự tán thành thiêng liêng của Ngài đối với đời sống và chức vụ của họ.
Tác giả thư tín Hê-bơ-rơ định rõ đức tin là điều có thể nhìn thấy, chớ không như những gì kẻ vô tín suy diễn (Hêb 11:3). Đức tin giúp chúng ta hiểu công việc Đức Chúa Trời. Đức tin còn giúp ta thấy được những gì kẻ khác không thấy (Hêb 11:7,13,27).
Như một hệ quả, đức tin khiến chúng ta làm được việc kẻ khác bó tay! Người đời cũng từng cười nhạo những Cơ Đốc nhân cao trọng đã bước đi bởi đức tin, nhưng Đức Chúa Trời ở cùng họ và giúp họ đắc thắng, quy vinh hiển cho danh Ngài.
Tấn sĩ J.Oswald Sanders diễn đạt một cách trọn vẹn rằng “Đức tin giúp kẻ tin nhận Chúa nhìn tương lai như hiện tại và những điều vô hình như hữu hình”.
Phương cách hữu hiệu nhất để tăng trưởng trong đức tin là phải bước đi bằng đức tin. Phần còn lại của đoạn này tóm tắt về đời sống và công việc của những anh hùng đức tin thời Cựu-ước. Ở mỗi điển hình, bạn sẽ tìm thấy những yếu tố đức tin giống nhau: 1. Đức Chúa Trời phán với họ qua Lời Ngài 2. Con người bên trong của họ được khuấy động theo những phương diện khác nhau 3. Họ vâng lời Đức Chúa Trời 4. Ngài làm chứng về họ.
2. Sự bày tỏ đức tin (Hêb 11:4-40)
a. A-bên - Đức tin thờ phượng (He 11:4).
Câu chuyện về A-bên được chép trong Sa 4:1-10
A-bên là người được xưng công bình bởi đức tin (Mat 23:35). Đức Chúa Trời bày tỏ cho A-đam cùng hậu tự người cách thờ phượng phải lẽ, và A-bên đã làm theo Lời Đức Chúa Trời bởi đức tin.
Thật ra, A-bên đã trả giá cho sự vâng lời của mình bằng mạng sống. Ca-in không phải là con cái Đức Chúa Trời vì đã không sống bởi đức tin (IGi 3:12 Ông chỉ đội lốt tôn giáo chớ không phải là người công bình. A-bên “nói” với chúng ta như người tử đạo đầu tiên vì đức tin.
b. Hê-nóc – Đức tin bước đi (Hêb 11:5-6).
Đức tin chúng ta nơi Đức Chúa Trời sẽ tăng trưởng khi chúng ta giữ mối giao thông với Đức Chúa Trời. Chúng ta phải vừa khao khát muốn làm đẹp lòng Ngài, vừa chuyên tâm tìm kiếm Ngài. Cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa, thờ phượng, tiết chế – tất cả những điều này sẽ giúp chúng ta trong bước đường theo Chúa.
Hê-nóc bước đi với Đức Chúa Trời giữa một thế giới gian ác trước thời Nước lụt. Ông vẫn có thể giữ cho đời sống mình luôn thanh sạch. Hê-nóc đã được tiếp lên trời trong một ngày nọ (nghĩa là được cất lên trực tiếp) và không ai nhìn thấy ông kể từ đó. A-bên trải qua một sự chết ghê gớm, nhưng Hê-nóc chẳng hề chết. Đức Chúa Trời có một chương trình riêng cho mỗi người tin cậy Ngài. Một số người nhìn thấy nơi Hê-nóc một hình ảnh tuyệt vời về Hội thánh khi Đấng Christ tái lâm (ITe 4:13-18).
c. Nô-ê – Đức tin hành động (Hêb 11:7).
Đức tin của Nô-ê có liên hệ đến cả con người: Trí ông được Đức Chúa Trời khuyên bảo, lòng ông có sự kính sợ Chúa và ý chí ông hành động theo Lời Chúa đã bảo cho mình. Vào thời Nô-ê, chưa có ai nhìn thấy trận nước lụt, thậm chí là một cơn mưa bão. Hành động của Nô-ê hẳn đã gây sự chú ý lớn cũng như sự giễu cợt của người đời.
Đức tin của Nô-ê đã ảnh hưởng lớn đến gia đình ông nên họ đều được cứu. Đức tin Nô-ê đã lên án cả thế gian, vì đức tin ông bày tỏ sự vô tín của họ. Sự thật xảy ra đã chứng minh hành động đúng đắn của Nô-ê. Chúa Giê-xu Christ cũng dùng sự kiện này để khuyên mọi người sẵn sàng khi Ngài trở lại (Mat 24:36-42). Vào thời Nô-ê, người ta chỉ quan tâm đến những hoạt động thường nhật chớ không hề để tâm gì đến lời chứng của Nô-ê (IIPhi 2:5)
d. Các Thánh tổ – Đức tin chờ đợi (Hêb 11:8-22).
Trọng tâm của phân đoạn này nói về lời hứa của Đức Chúa Trời và chương trình Ngài dành cho dân tộc Y-sơ-ra-ên (Hêb 11:9,11,13,17). Dân tộc này được hình thành từ sự kiện Áp-ra-ham được kêu gọi. Đức Chúa Trời đã hứa ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai, nhưng họ phải chờ suốt 25 năm để lời hứa được ứng nghiệm. Con trai họ là Y-sác đã trở nên cha của Gia-cốp và Ê-sau, và chính Gia-cốp đã thực sự lập lên dân tộc này bởi sự ra đời của 12 con trai. Giô-sép đã cứu dân tộc này trong đất Ai-cập và sau đó Môi-se giải phóng họ khỏi Ai-cập.
Đối với tôi, sự chờ đợi là một trong những kỷ luật khắc nghiệt nhất trong đời sống.Dầu vậy, đức tin thật có thể sẵn sàng chờ đợi sự ứng nghiệm của chương trình Đức Chúa Trời trong giờ đã định của Ngài. Nhưng trong lúc chờ đợi, chúng ta cũng phải vâng lời: “Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi...” (Hêb 11:8). Ông vâng lời trong lúc không biết rõ mình đi đâu (Hêb 11:8-10). Ông sống trong những chiếc lều vì là lữ khách giữa thế gian và phải chuẩn bị ra đi bất cứ khi nào Chúa gọi.
Hôm nay, Cơ-đốc nhân cũng là những lữ khách trên đất (IPhi 1:1; IPhi 2:11). Áp-ra-ham chỉ nhìn về thành trên trời và sống cho những điều xảy đến trong tương lai.
Áp-ra-ham cũng vâng lời Chúa dù không biết Đức Chúa Trời sẽ hành động ra sao (Hêb 11:11-12). Cả Áp-ra-ham và Sa-ra đều quá tuổi sinh con, nhưng họ tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm một phép lạ (Rô 4:13-25). Kẻ vô tín thắc mắc: “Bởi sao tôi biết được điều đó?” (Lu 1:18-20 (Làm sao điều này có thể xảy ra được?). Người có đức tin chỉ hỏi: “Sự ấy sẽ xảy đến thế nào?” (Lu 1:34-37).
Áp-ra-ham tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời dù không biết thời điểm Đức Chúa Trời sẽ thực hiện lời hứa Ngài (Hêb 11:13-16). Không một thánh tổ nào thấy sự ứng nghiệm trọn vẹn của Lời hứa Đức Chúa Trời, nhưng họ chỉ nhìn thấy những điều Đức Chúa Trời sắp thực hiện “từ đằng xa”.
Tiến sĩ George Morrison, một nhà truyền đạo lừng danh người Tô-cách-lan đã nói: “Điều quan trọng không phải là những điều chúng ta đang sống trong đó, nhưng là những điều chúng ta tìm kiếm”. Những nhân vật đức tin này đã sống trong những chiếc lều nhưng họ biết có một thành trên trời chờ đón họ. Đức Chúa Trời luôn luôn thực hiện lời hứa Ngài với những người tin cậy Ngài hoặc nhanh chóng, hoặc vào một thời điểm Ngài định.
Sau hết, Áp-ra-ham đã vâng lời Đức Chúa Trời bởi đức tin dù không biết lý do Đức Chúa Trời hành động (Hêb 11:17-19). Tại sao Đức Chúa Trời muốn Áp-ra-ham phải dâng con trai ông làm của lễ, trong khi chính Ngài đã ban cho ông con trai đó? Mọi lời hứa dành cho dân tộc này trong tương lai đều “tập trung” nơi Y-sác.
Những thử thách của đức tin trở nên gay gắt hơn khi chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời, nhưng phần thưởng chúng ta sẽ nhận lãnh còn tuyệt vời hơn! Chúng ta cũng đừng quên gương đức tin vâng phục của Y-sác, một người con ở tuổi thiếu niên (Sa 22:1-24).
Trong Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép chúng ta có 4 thế hệ đức tin. Đôi lúc họ cũng trải qua thất bại, nhưng trên cơ bản họ là những anh hùng đức tin. Họ không phải là những người thập toàn, nhưng họ dâng mình cho Đức Chúa Trời và tin nơi Lời Ngài. Y-sác truyền lại những lời hứa của Đức Chúa Trời và chúc phước cho Gia-cốp (Sa 27:1-46). Gia-cốp chúc phước lại cho 12 con trai ông (Sa 48:1-49:33). Gia-cốp là lữ khách cho đến lúc qua đời.
• Đức tin của Giô-sép thật đáng chú ý.
Có lẽ bạn nghĩ rằng sau khi bị người thân trong gia đình đối xử thậm tệ, Giô-sép sẽ đánh mất đức tin, nhưng trái lại ông càng mạnh mẽ hơn. Ngày cả ảnh hưởng vô tín của dân Ai-cập vẫn không dập tắt được lòng tin cậy của Giô-sép nơi Đức Chúa Trời. Ông không xem tình trạng gia đình, công việc hay hoàn cảnh như một cái cớ cho sự vô tín. Giô-sép biết rõ điều ông tin – rằng Đức Chúa Trời sẽ giải thoát dân Ngài khỏi Ai-cập (Sa 50:24-26).
Giô-sép cũng biết nơi ông hưởng cơ nghiệp, đó là vùng đất Ca-na-an chớ không phải Ai-cập. Vì vậy, ông bắt dân sự thề phải đem hài cốt ông ra khỏi Ai-cập vào lúc rời Ai-cập. Và họ đã làm đúng lời hứa! Mời bạn xem Xu 13:19; Gios 24:32
Đức tin của các Thánh tổ xưa thật đáng để chúng ta khâm phục. Họ không có một bộ Kinh Thánh hoàn hảo, nhưng đức tin họ thật mạnh mẽ. Họ truyền lại lời hứa của Đức Chúa Trời cho con cháu đời này sang đời nọ. Dù trải bao thất bại và thử thách, họ vẫn tin cậy Đức Chúa Trời nên Ngài đã làm chứng cho đức tin của họ. Bạn và tôi phải có đức tin mạnh mẽ hơn thế!
e. Môi-se – Đức tin tranh chiến (Hêb 11:23-29).
Môi-se may mắn có cha mẹ là những người tin kính Chúa. Việc họ giấu con trai mình vượt qua sự kiểm soát của nhà cầm quyền, hẳn là một hành động của đức tin. Câu chuyện này được chép ở sách Xu 2:1-10 Cha mẹ Môi-se là Am-ram và Giô-kê-bết (Xu 6:20). Cha mẹ tin kính có thể tạo một không khí đức tin trong gia đình và làm gương cho con cái noi theo. Gia đình chính là trường đức tin đầu tiên dành cho con cái.
Ba chủ đề lớn về đức tin được thể hiện qua đời sống của Môi-se:
-Thứ nhất là sự từ chối của đức tin (Hêb 11:24-25). Là con nuôi của công chúa Ai-cập, lẽ ra Môi-se đã có thể hưởng cuộc sống dễ chịu trong cung điện. Nhưng đức tin đã giúp Môi-se từ chối cách sống ấy. Ông chọn con đường chịu khổ cùng dân Đức Chúa Trời. Đức tin thật khiến cho Cơ-đốc nhân biết nắm giữ những giá trị đúng đắn và có những chọn lựa hợp lẽ. Nhóm từ “sự vui sướng của tội lỗi” không chỉ nói về sự tham muốn của xác thịt hay những tội lỗi gớm ghiếc khác, nhưng mô tả một lối sống mà hôm nay chúng ta gọi là “thành công”: địa vị, danh vọng, quyền thế, của cải cùng những tự do khác.
Sự từ chối của đức tin Môi-se khiến ông sẵn sàng chịu sự sỉ nhục (Hêb 11:26). Bà thị trưởng của một thành phố lớn thuộc nước Mỹ đã dời đến ở khu nhà đổ nát và đầy nguy hiểm để bày tỏ những nan đề và nhu cầu của dân thiểu số ở đây. Nhưng bà cũng giữ cho mình một căn hộ thời thượng và cuối cùng dời khỏi khu ổ chuột ấy.
Chúng ta nhìn nhận rằng bà can đảm, nhưng chúng ta càng phải khâm phục Môi-se hơn thế. Ông đã rời khỏi cung điện và mãi mãi không quay lại với cuộc sống cũ! Ông đồng nhất hoá với các nô lệ Do Thái. Những con người có đức tin thường phải chịu hoạn nạn sỉ nhục. Các sứ đồ của Chúa đã chịu khổ vì đức tin.Nếu sự sỉ nhục là bằng cớ của đức tin thật, chúng ta sẽ tự hỏi không biết trong số Cơ-đốc nhân ở đất nước chúng ta hôm nay có bao nhiêu người sống với đức tin thật.
Sau cùng, có một phần thưởng dành cho đức tin (Hêb 11:26-29). Đức Chúa Trời luôn ban thưởng đức tin thật, hoặc nhanh chóng, hoặc đến kỳ sau rốt. Chẳng màng đến “châu báu xứ Ê-díp-tô”, Môi-se đã nhìn thấy “sự ban thưởng”.
Như Tấn sĩ Vance Havner nói: “Môi-se đã chọn điều không hề hư mất, đã nhìn thấy những điều vô hình và đã làm những việc chưa ai từng làm”. Đức tin Môi-se giúp ông dạn dĩ trước mặt Pha-ra-ôn và tin rằng Đức Chúa Trời sẽ thay ông đối địch với kẻ thù.
Sự nhẫn nhục của Môi-se không phải là khả năng tự nhiên, vì Môi-se vốn dè dặt và nhút nhát. Sự nhẫn nhục và lòng can đảm này là phần thưởng của đức tin ông.
Đức tin của Môi-se được ban thưởng qua cách Đức Chúa Trời giải cứu ông và dân sự (Xu 11:1-13:22) (Câu chuyện về lễ Vượt qua). Đức tin giúp chúng ta được sống (Hêb 11:28), đưa chúng ta vượt qua khó khăn Hêb 11:29 và đem chúng ta vào nơi bình an Hêb 11:30. Khi tin cậy Đức Chúa Trời, chúng ta tiếp nhận những điều Đức Chúa Trời có thể thực hiện. Nhưng khi tin nơi chính mình, chúng ta chỉ nhận được những gì con người bất toàn có thê làm. Kinh nghiệm của Môi-se là chứng cớ cho biết đức tin thật theo Kinh Thánh nghĩa là vâng lời Đức Chúa Trời bất chấp mọi hoàn cảnh và hậu quả xảy ra.
Nếu bạn và tôi viết tiếp đoạn này, có lẽ phần kế tiếp sẽ là “Đức tin lạc lối”. Nhưng ở đây không đề cập đến sự thất bại của dân Y-sơ-ra-ên và 40 năm hoang phí. Vì sao? Bởi đó là kinh nghiệm về sự vô tín chớ không phải đức tin! Tác giả thư tín Hê-bơ-rơ đã dùng kinh nghiệm này ở đoạn Hêb 3:1-4:16 làm minh hoạ cho tình trạng nghi ngờ Lời Chúa. Nhưng không có chỗ nào trong Hêb 11:1-40 bạn tìm thấy chi tiết về sự thất bại bởi lòng vô tín. Đức tin chỉ ghi lại những đắc thắng mà thôi.
f. Giô-suê và Ra-háp – Đức tin đắc thắng (Hêb 11:30-31).
Câu chuyện về sự kiện chiếm thành Giê-ri-cô được chép trong Gios 2:1-6:27 Giô-suê là người thay thế Môi-se lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, và ông cũng đã thành công bởi tin cậy Đức Chúa Trời như Môi-se. Đức Chúa Trời thay đổi kẻ hầu việc Ngài, nhưng không thay đổi nguyên tắc hành động của Ngài. Ngài ban phước cho đức tin và sửa phạt sự vô tín.
Theo quan điểm con người, Giê-ri-cô là một thành phố không dễ gì chiếm được. Dầu vậy, hành động đức tin đầu tiên của Giô-suê không phải là vây hãm thành nhưng là vượt qua sông Giô-đanh. Bởi đức tin, dân tộc này đã vượt qua sông như cha ông họ vượt biển Đỏ vậy. Đây là một bằng chứng, cũng là sự báo trước cho dân Ca-na-an biết rằng dân Y-sơ-ra-ên đang tiến tới trước bằng quyền năng của Đức Chúa Trời.
Ra-háp là một kỵ nữ, không có gì đảm bảo nàng là người có đức tin nơi Đức Chúa Trời chân thật của Y-sơ-ra-ên! Nàng được cứu bởi ân điển, vì mọi cư dân trong thành đều bị định tội chết. Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót và ân điển đã để Ra-háp được sống. Tuy nhiên, nàng được cứu bởi có đức tin.
Những điều nàng biết về Đức Chúa Trời được chép trong sách Gios 2:8-14 Ra-háp biết rằng Đức Giê-hô-va đã giải phóng dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập và chính Ngài rẽ biển đỏ ra. Nhưng sự kiện ấy xảy ra 40 năm trước đó! Ra-háp cũng biết rằng Đức Chúa Trời đã đánh bại những dân tộc khác suốt thời gian dân Y-sơ-ra-ên đi trong đồng vắng. “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ông là Đức Chúa Trời ở trên trời cao kia và ở dướt đất thấp này” (Gios 2:11). Đó là lời chứng cho đức tin của Ra-háp và Đức Chúa Trời đẹp lòng về điều đó.
• Ra-háp được cứu bởi việc lành.
Đức tin thật phải luôn bày tỏ chính nó qua việc lành (Gia 2:20). Nàng bảo vệ các thám tử, dòng dây đưa họ xuống nơi cửa sổ (Gios 2:15-21). Hành động của nàng cứu được cả gia đình, vì nàng có đức tin thật và trong mọi việc đều vâng theo Đức Chúa Trời (Gios 2:13 Gios 6:25). Ra-háp không chỉ được giải cứu khỏi sự đoán phạt, nàng còn trở nên một công dân của Y-sơ-ra-ên. Nàng đã kết hôn với Sanh-môn và sinh ra Bô-ô, là tổ phụ của vua Đa-vít (Mat 1:4-6). Bạn hãy hình dung xem, một kỹ nữ vô thần lại trở nên một trong những người thuộc tổ tiên Chúa Giê-xu Christ! Đó là điều đức tin có thể làm được!
Gương Ra-háp hẳn là một sự khiển trách dành cho những kẻ vô tín luôn viện cớ để chối từ Đấng Christ. Tôi thường nghe người ta viện cớ rằng “Tôi không biết nhiều về Kinh Thánh”. Ra-háp biết rất ít về chân lý thuộc linh, nhưng nàng đã hành động theo những gì mình biết. Có một viện cớ khác lên tiếng: “Tôi quá xấu xa nên không được cứu đâu!” Nhưng Ra-háp trước đây vốn là một kỹ nữ ngoại đạo đáng bị lên án! Một viện cớ nữa là “gia đình tôi sẽ nghĩ gì đây?” Mối quan tâm đầu tiên của Ra-háp là phải cứu gia đình nàng chớ không phải đối nghịch với họ. Nàng tiêu biểu như một trong những nữ anh hùng đức tin trong Kinh Thánh.
g. Các anh hùng đức tin khác (Hêb 11:32-40).
- Đức tin có thể hành động trong đời sống của bất cứ ai chịu lắng nghe Lời Đức Chúa Trời và đầu phục ý muốn Ngài. Ở đây chúng ta gặp những con người có cá tính khác nhau.
-Ghê-đê-ôn vốn là một nông dân nhút nhát với đức tin chưa tăng trưởng mạnh mẽ (Cac 6:11-7:25).
-Ba-rác chiến thắng Si-sê-ra một cách vẻ vang, nhưng vẫn cần nữ tiên tri Đê-bô-ra làm người giúp đỡ và khích lệ ông (Cac 4:1-5:31). Cả Ghê-đê-ôn và Ba-rác là những gương khích lệ chúng ta khi chúng ta nao núng trong đức tin.
-Câu chuyện về Sam-sôn cũng rất quen thuộc (Cac 13:1-16:31). Có lẽ chúng ta không gọi Sam-sôn là con người tin kính, vì ông đã phó mình cho những ham muốn xác thịt. Ông là một Na-xi-rê, nghĩa là người được biệt riêng cho Đức chúa Trời và sẽ không cắt tóc hay uống rượu (không nên nhằm lẫn một Na-xi-rê với một người Na-xa-rét).
Sam-sôn tin Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ và giải cứu ông. Đến phút cuối cùng, ông vẫn muốn liều mình để đánh bại kẻ thù. Dù vậy chúng ta không nên kết luận rằng Cơ-đốc nhân hôm nay có thể hành động theo hai lối sống mà vẫn hưởng phước Đức Chúa Trời.
-Câu chuyện của Giép-thê có phần hấp dẫn (Cac 11:1-12:7). Dường như không phải ông đã dâng con gái một của mình làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời, vì điêù này bị cấm trong Y-sơ-ra-ên. Có lẽ ông dâng con gái cho Đức Chúa Trời trên cơ sở của luật về sự khấn nguyện (Le 27:1-34), bày tỏ rằng nàng sẽ là trinh nữ trọn đời (Cac 11:34-40).
-Chúng ta không thể xem xét tỉ mỉ từng gương đức tin. Cả tác giả thư tín Hê-bơ-rơ cũng dừng lại sau khi đề cập đến Đa-vít và Sa-mu-ên, hai vĩ nhân của đức tin. Còn có những gương đức tin khác trong Kinh Thánh Cựu-ước nói về những con người sống đắc thắng như đã nêu ra ở Hê 11:33-35 Đa-vít đã chinh phục được các dân tộc khác và bày tỏ sự công bình. Còn đức tin của Đa-ni-ên có thể “bịt mồm sư tử” (Da 6:1-28). Ba người Hê-bơ-rơ đã thắng hơn sức nóng của lò lửa hực (Da 3:23-28). Câu chuyện về những nữ anh hùng đức tin đề cập trong Hê 11:35 được chép ở IVua 17:17-24; IIVua 4:18-37
Câu chuyển tiếp ở Hêb 11:35 rất ý nghĩa: không phải mọi người nam hay người nữ có đức tin đều kinh nghiệm sự giải cứu kỳ diệu. Một số người bị hành hạ bắt bớ và chết đi! Từ “kẻ khác” ở Hêb 11:36 nghĩa là “những kẻ khác không cùng bản chất”.Những “kẻ khác” này có đức tin, nhưng Đức Chúa Trời không hành động trong đời sống họ theo cách Ngài đối cùng Môi-se, Ghê-đê-ôn và Đa-vít.
Có dịp viếng thăm một bệnh viện kia, tôi thấy một bênh nhân nằm trên giường khóc thúc thít.
Tôi hỏi “Bà ơi, có chuyện gì vậy?” Đáp lời tôi, bà trao cho tôi một cuốn sách bà nhận trong số bưu kiện gởi đến. Sách nói về đề tài “Sự chữa lành thiêng liêng” và “Quyền năng của đức tin”. Người vô danh nào đó đã ghi trên bìa sách dòng chữ: “Hãy đọc sách này. Nó sẽ cho bạn một đức tin để được chữa lành”. Bệnh nhân này tình cờ đã trở nên một Cơ-đốc nhân tin nhận Chúa dù đang gặp hoạn nạn. Người gởi thư vô danh nào đó đã nghĩ rằng mọi người có đức tin đều sẽ được cứu giúp một cách “mầu nhiệm”!
Bản thân tôi đã kinh nghiệm phép lạ của Đức Chúa Trời trên thân thể mình, khi những người khác tin chắc tôi sẽ chết. Tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chữa lành tôi. Nhưng tôi cũng hiểu rằng Đức Chúa Trời đã chữa lành tôi không phải để chứng minh rằng tôi có đức tin.
Tác giả thư tín Hê-bơ-rơ (Hêb 11:36-38) kể ra sự kiện nhiều người có đức tin vẫn không được giải cứu khỏi hoạn nạn, dầu vậy Đức Chúa Trời đẹp lòng về đức tin họ. Thật ra, cần phải có đức tin để chịu nhẫn nhục hơn là đức tin để được giải cứu. Noi gương 3 người trai trẻ Hê-bơ-rơ, chúng ta phải tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời cho dù Ngài không giải cứu chúng ta (Da 3:16-18).
Sự đánh giá của người thế gian về những anh hùng đức tin kể trên là một đánh giá thấp kém, nên họ bắt bớ, giam cầm, hành hạ thậm chí giết hại những anh hùng đức tin đó. Dù vậy, cách đánh giá của Đức Chúa Trời hoàn toàn khác hẳn. Ngài phán rằng thế gian không xứng đáng là nơi cư trú của những anh hùng đức tin!
Thánh-đồ Phao-lô là một gương điển hình cho chân lý này. Phê-tu cho rằng Phao-lô đã lãng trí (Công 26:24). Dân Do-thái nói rằng Phao-lô chẳng đáng sống (Công 22:22). Chính Phao-lô xác nhận ông đã bị đối xử như “rác rến của thế gian, cặn bã của loài người” (ICôr 4:13). Nhưng Phao-lô là “chiếc bình” Đức Chúa Trời đã chọn, có lẽ ông là một Cơ-đốc nhân vĩ đại nhất đã sống một cách trọn lành.
Đức tin giúp chúng ta không chiều theo thế gian, nhưng chỉ tìm kiếm những điều đẹp lòng Đức Chúa Trời. Nếu Đức Chúa Trời được vinh hiển khi giải cứu dân Ngài, vậy Ngài sẽ làm điều đó. Nếu Ngài thấy danh Ngài được vinh hiển nếu không giải cứu người thuộc về Ngài, thì Ngài cũng sẽ làm vậy. Nhưng, chúng ta đừng bao giờ kết luận rằng không có sự giải cứu nghĩa là con cái Đức Chúa Trời không có đức tin.
Đức tin nhìn về tương lai, vì đó là nơi có sẵn những phần thưởng giá trị nhất.Những nhân vật được kể tên trong đoạn này (và cả những người vô danh) đã không nhận lành “những điều hứa cho mình” (Hêb 11:13), nhưng họ có lời chứng của Đức Chúa Trời đối với đức tin họ, rằng sẽ có một ngày họ được ban thưởng. Chương trình của Đức Chúa Trời dành cho mọi thánh đồ thời Cựu-ước cũng như thời Tân-ước! Ngày kia, tất cả chúng ta đều sẽ dự phần thành trên trời, nơi các thánh-đồ thật đang trông chờ bằng đức tin.
Hôm nay, chúng phải thầm cảm ơn các thánh đồ xưa vì họ đã trung tín suốt những thời kỳ hoạn nạn, và chúng ta là những người được nhận ơn phước tốt hơn. Các thánh-đồ xưa chỉ nhìn thấy một vài ơn phước từ xa (Gi 8:56), nhưng chúng ta được hưởng những phước hạnh ấy trong Chúa Giê-xu Christ. Nếu các thánh đồ xưa không tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên có lẽ đã bị tuyệt diệt, và như thế Đấng Mê-si-a đã không được hạ sinh.
“Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài” (Hêb 11:6). Tuy nhiên, đức tin này sẽ tăng trưởng khi chúng ta lắng nghe lời Chúa (Rô 10:17) và giữ mối giao thông với Ngài qua sự thờ phượng, cầu nguyện. Đức tin có thể hiện diện trong mọi kẻ tin nhận ở mọi hoàn cảnh. Đức tin không phải là “mặt hàng xa xỉ” dành cho số ít “thánh-đồ ưu tú”. Đức tin là một nhu cầu thiết yếu của mọi con cái Đức Chúa Trời.
11. HÃY TIẾP TỤC CHẠY (Hêb 12:1-29)
Nếu Phao-lô vẫn đang sống hôm nay, có lẽ ông sẽ đọc các trang báo thể thao và theo dõi tiến độ thi đấu của các đội hoặc các vận động viên. Vì sao? Bởi có nhiều chi tiết về môn điền kinh được sử dụng trong các thư tín Phao-lô, chứng tỏ ông rất quan tâm đến thể thao. Dĩ nhiên cả người Hy-lạp và người La-mã rất quan tâm đến những cuộc tranh tài về môn điền kinh, không chỉ để được mạnh khoẻ về thể chất mà còn vì vinh dự của địa phương hoặc quốc gia họ. Làm vận động viên xuất sắc đem vinh dự về cho quốc gia mình là một hành động ái quốc.
Tác giả thư tín Hê-bơ-rơ kết hợp hai chủ đề về môn điền kinh và quyền công dân trong đoạn Hêb 12:1-29) đầy ý nghĩa này. Ở đây là không khí của cuộc chạy trong đấu trường. Chúng ta có thể nhìn thấy các vận động viên quên hết những gánh nặng khổ luyện của mình và cố gắng chạy đến đích.
Một số vận động viên mệt mỏi, kiệt sức nhưng một số khác bền bỉ chạy đến đích và giật giải. Trước tiên, tác giả phác hoạ hình ảnh cuộc đua (Hêb 12:1-13) và sau đó nhấn mạnh về quyền công dân ở thành trên trời (Hêb 12:14-29). Trong tâm trí của người đọc, hai chủ đề này luôn đồng hành nhau, vì không ai có thể dự phần vào những cuộc đua chính thức nếu không phải là công dân của bổn quốc.
Một chủ đề xuyên suốt trong đoạn Kinh Thánh này là “lòng nhịn nhục” (Hêb 12:1,2,3,7; Hêb 10:32,36). Các tín-hữu Hê-bơ-rơ trở nên “mệt mỏi” và muốn lui đi trong đức tin, nên tác giả khích lệ họ nhìn về phía trước trong đời sống Cơ-đốc, giống như các vận động viên điền kinh trên đường đua (Phi 3:12-14). Ông nêu lên 3 nguồn năng lực thiên thượng khích lệ Cơ-đốc nhân tiếp tục tiến tới khi nghịch cảnh xảy đến.
1. Gương mẫu của Con Đức Chúa Trời (Hêb 12:1-4)
Hồi ở ghế Trung học, có một huấn luyện viên muốn huấn luyện tôi thành vận động viên điền kinh. Bạn bè trong lớp cho ông ta biết rằng ông sẽ hoài công, vì tôi là vận động viên tệ nhất trong lớp, thậm chí có thể là dở nhất trong trường! Tôi đã tham gia cuộc tranh tài giữa các trường trong toàn khu vực về môn chạy vượt rào. Tôi làm sập 6 rào chắn, bị nứt xương mắt cá chân trái, nên ngay sau đó phải từ giã cái nghiệp thể thao này!
Huấn luyện viên Walker dùng vài kỹ thuật để dạy tôi cách tập luyện có hiệu quả nhất. Ông khích lệ tôi rằng: “Các học sinh khác đều làm được, vậy em cũng có thể làm được”. Lần khác, ông cổ vũ: “Chỉ cần nghĩ đến những ích lợi nó đem đến cho thân thể em!” Lời khích lệ thứ 3 của ông là “Nào, hãy nhìn xem bọn trẻ khác, coi chúng làm ra sao!”. Khi nhớ lại từng trải này, tôi thật ngạc nhiên khám phá ra rằng ý nghĩa của ba phương pháp hành động trên đã được sử dụng trong đoạn Kinh Thánh này nhằm khích lệ chúng ta trong cuộc chạy đua của Cơ-đốc nhân:
a. Nhìn xem những người thắng cuộc! (Hêb 12:1a).
Câu “nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn” nói về những người được nhắc đến ở đoạn Hêb 11:1-40. Họ là những anh hùng đức tin. Ở đây, tác giả không muốn nói rằng họ đang trên thiên đàng theo dõi chúng ta chạy đua, giống như khác giả trong sân vận động.
“Người chứng kiến” không mang ý nghĩa như “khán giả”, nhưng theo ngôn ngữ Hy-lạp nghĩa là “người tử đạo”. Những người này không phải đang chứng kiến việc chúng ta làm, nhưng họ đang làm chứng cho chúng ta rằng Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy chúng ta thấy suốt. Ngài đã làm chứng cho họ (Hêb 11:2,4-5,39) và giờ đây họ đang làm chứng cho chúng ta.
Một tín-hữu có lần cho tôi biết. “Tôi ít khi đọc Kinh Thánh Cựu-ước lắm, trừ ra sách Thi-thiên và Châm-ngôn”. Tôi đáp: “Vậy là anh đang đánh mất một ích lợi lớn về thuộc linh”.
Đoạn tôi mời anh ta mở Kinh Thánh và đọc lớn Rô 15:4 “Vả mọi sự đã chép từ xưa đều để dạy dỗ chúng ta, hầu cho bởi sự nhịn nhục và sự yên ủi của Kinh Thánh dạy mà chúng ta được sự trông cậy”.
Tôi giải thích với anh rằng “nhịn nhục” nghĩa là “nhẫn nại/ bền chí” “sự yên ủi”nghĩa là “sự khích lệ/cổ vũ”. Một trong những phương cách tối ưu để phát huy tính bền chí và can đảm, đó là phải học biết gương của những con người tin kính thời Cựu-ước, những gì đã chạy đua và giật giải. Nếu bạn gặp rắc rối hay mâu thuẫn với gia đình, hãy gọc gương Giô-sép. Nếu bạn nghĩ công việc mình quá nặng nhọc, hãy học cách sống của Môi-se. Nếu bạn bị cám dỗ trả thù, hãy xem cách Đa-vít giải quyết vấn đề.
b. Nhìn lại bản thân (Hêb 12:1b).
Các vận động viên thường mang những vật nặng khi luyện tập, nhằm giúp họ xử thế mọi tình huống. Thật ra, không vận động viên nào muốn mang vật nặng cả, vì họ sẽ bị trở ngại (Giống như hôm nay, một vận động viên bóng chày thường vung vẩy cái cái chày với một cái niềng bằng chỗ đánh bóng kim loại nặng trước khi bước đến vạch phát bóng). Sức nặng quá lớn đòi hỏi sự nhẫn nại của con người.
“Gánh nặng” mà chúng ta phải cất bỏ để theo đòi cuộc đua là gì? Đó là những gì ngăn trở tiến độ của chúng ta. Chúng ta có thể là “những việc lành” trong mắt kẻ khác. Một vận động viên chiến thắng sẽ không chọn lựa giữa những điều tốt và xấu, nhưng sẽ chọn giữa cái tốt hơn và tốt nhất.
Chúng ta cũng phải quăng hết “tội lỗi dễ vấn vương” (Hêb 12:1). Tác giả không kể ra tội lỗi cụ thể nào, có lẽ ông muốn nói đến tội vô tín. Chính sự vô tín đã khiến dân Y-sơ-ra-ên bị vuột mất khỏi tầm tay cơ nghiệp ở vùng đất hứa, và sự vô tín cũng ngăn trở chúng ta hưởng cơ nghiệp thuộc linh trong Đấng Christ.
Nhóm từ “bởi đức tin” (hay “nhờ đức tin”, “nhơn đức tin”) được sử dụng 21 lần trong đoạn Hêb 11:1-40), cho thấy rằng đức tin trong Đấng Christ giúp chúng ta có sự nhịn nhục trong mọi sự.
c. Nhìn xem Chúa Giê-xu Christ! (Hêb 12:2-4).
Ngài là “cội rễ và cuối cùng của đức tin”. Chúng ta được cứu nhờ hành động “nhìn xem” Ngài, vì “nhìn xem” mang ý nghĩa “tin cậy”. Khi dân Do-thái sắp chết, chịu nhìn lên con rắn bị treo lên, họ liền được chữa lành. Đây là một minh hoạ về sự cứu rỗi chúng ta bởi đức tin trong Đấng Christ (Dan 21:4-9; Gi 3:14-16). “Nhìn xem Đức Chúa Giê-xu Christ” là một thái độ của đức tin, chớ không chỉ là một hành động đơn giản.
Khi Chúa chúng ta thi hành chức vụ trên đất, Ngài đã sống bởi đức tin. Huyền nhiệm của thần tính và nhân tính của Ngài thật cao sâu, khiến chúng ta không thể hiểu đầy đủ, nhưng chúng ta biết rằng Ngài tin cậy. Cha trên trời và sống mỗi ngày của cuộc sống. Tác giả trích câu nói của Chúa: “Ta sẽ phó thác ta cho Chúa” (Hêb 2:13; Es 8:17). Thói quen cầu nguyện của Chúa là một bằng cớ Ngài sống bởi đức tin.
Chúa chúng ta chịu nhịn nhục nhiều hơn bất kỳ anh hùng đức tin nào được kể đến ở đoạn Hêb 11:1-40), vì vậy Ngài là gương hoàn hảo để chúng ta noi theo. Ngài đã mang lấy thập tự giá! Đây là hình phạt đầy nhục nhã, đau đớn dành cho tội nhân.Chúa cam gánh lấy, thậm chí Ngài còn bị Đức Chúa Trời tạm thời lìa xa. Trên thập tự giá, Ngài lấy lòng nhịn nhục để hoàn tất công tác Cha trên trời giao phó (Gi 17:4),
Dù các tín-hữu Hê-bơ-rơ đã trải qua sự bắt bớ, nhưng họ vẫn chưa “đến nỗi đổ huyết” (Hêb 12:4) không ai trong số họ phải tử đạo cả. Còn Chúa Giê-xu Christ trong trận chiến chống lại tội lỗi, Ngài phải đổ huyết của chính mình ra.
Điều gì giúp Chúa chúng ta có thể chịu nhịn nhục mang lấy thập tự giá? Bạn hãy nhớ rằng: suốt thời gian thi hành chức vụ trên đất, Chúa Giê-xu Christ không hề sử dụng quyền năng thiên thượng của Ngài cho những nhu cầu riêng. Sa-tan từng cám dỗ Ngài làm điều này (Mat 4:1-4) nhưng Ngài đã từ chối. Chính đức tin đã giúp Ngài nhịn nhục.
Ngài đặt đôi mắt đức tin trên “sự vui mừng đã đặt trước mặt mình”. Theo Thi 16:8-10 Ngài biết mình sẽ sống lại và ra khỏi phần mộ. Phi-e-rơ đã nói đến đoạn Thi-thiên này khi rao giảng trong ngày lễ Ngũ tuần (Cong 2:24-33). Trong Thi 16:11, Đa-vít nói về sự “đầy lòng vui mừng” trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Cũng theo tinh thần Thi 110:1,4 Chúa Giê-xu Christ biết rằng Ngài được cất lên trời trong sự vinh hiển (Phi-e-rơ cũng trích dẫn Thi thiên này Công 2:34-36). Vì vậy, “sự vui mừng đã đặt trước mặt mình” bao gồm việc Chúa làm trọn ý muốn Đức Chúa Trời, sự phục sinh và thăng thiên của Ngài, niềm vui khi Ngài trình dâng những người tin nhận cho Đức Chúa Trời trong sự vinh hiển (Giu 1:24).
Suốt thư tín, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sự trông cậy ở tương lai. Đối tượng đọc thư tín Hê-bơ-rơ có xu hướng quay đầu nhìn lại và muốn đi thụt lùi, nên tác giả khích lệ họ noi gương Đấng Christ để nhìn về phía trước bởi đức tin. Những anh hùng đức tin được kể tên ở đoạn Kinh Thánh trước đã sống cho tương lai, và điều này đã giúp họ có thể bền đỡ trong mọi sự (Hêb 11:10,14-16,24-27). Khi chúng ta đặt đôi mắt đức tin của mình xa rời Đấng Christ giống như Phi-e-rơ, chúng ta sẽ bắt đầu bị chìm! (Mat 14:22-33).
Vì Đấng Christ chính là “cội rễ và cuối cùng của đức tin”, nên lòng tin cậy Ngài sẽ khiến quyền năng Ngài hành động trong đời sống chúng ta. Tôi đã cố noi theo gương mẫu của vận động viên lừng danh nào đó trong vài năm, nhưng vẫn thất bại.Nếu trong những ngày tháng trẻ tuổi, tôi được ở gần vận động viên ấy và được chỉ cho bí quyết tập luyện, c ó lẽ tôi đã giật giải rồi. Đấng Christ vừa là một gương mẫu mực, vừa là Đấng toàn năng, khi chúng ta nhìn xem Ngài qua Kinh Thánh và đầu phục Đức Thánh Linh, Ngài chắc sẽ dứt dấy đức tin chúng ta và giúp chúng ta tiếp tục cuộc chạy.
2. Sự đảm bảo của tình yêu Đức Chúa Trời (Hêb 12:5-13)
Từ quan trọng trong phân đoạn này là “sửa phạt”, theo ngôn ngữ Hy Lạp nghĩa là “dạy dỗ, chỉ bảo, kỷ luật con cái”. Một đứa trẻ Hy-lạp sẽ luyện tập trong phòng thể dục cho đến trưởng thành. Quá trình này góp phần vào sự chuẩn bị cho đời sống thành nhơn. Tác giả xem những thử thách trong đời sống Cơ-đốc nhân như một sự rèn tập thuộc linh giúp cho Cơ-đốc nhân được trưởng thành. Thay vì cố trách né những khó khăn trong đời sống, chúng ta nên bằng lòng chịu sự “luyện tập” của hoàn cảnh để có thể tăng trưởng mạnh mẽ (Hêb 12:11).
Khi bị thử thách, chúng ta dễ nghi ngờ Chúa không yêu mình. Vì lẽ đó tác giả nêu ra 3 chứng cớ cho biết sự sửa phạt xuất phát từ lòng yêu thương của Đức Chúa Trời.
a. Kinh Thánh (Hêb 12:5-6).
Đây là những câu Kinh Thánh trích từ Ch 3:11-12 một câu nói mà các tín hữu Hê-bơ-rơ đều biết nhưng đã quên. (Đây là một trong những kết quả đáng buồn về sự “chậm hiểu” Lời Chúa, Hêb 5:11-12). Phần trích dẫn này (Hêb 12:5-6) là một lời khuyên, cũng có nghĩa như một lời khích lệ. Do không ghi nhớ Lời Chúa, các tín hữu này đã đánh mất sự khích lệ dành cho họ nên dễ dàng bỏ cuộc chán nản!
Những từ quan trọng trong đoạn trích dẫn này là “con”, “con trai” (Ch 3:11-12). Ở Hêb 12:5-8 từ “con “ được dùng 6 lần, để chỉ về những con trai trưởng thành chớ không phải những cậu bé con. Cha mẹ nào luôn tay đánh phạt một đứa trẻ bé bỏng, sẽ bị coi là kẻ dã man.
Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta như những con trai thành nhơn vì chúng ta đã được nhận làm con và được ban cho địa vị của một người trưởng thành trong gia đình Ngài (Rô 8:14-18; Ga 4:1-7). Việc Cha trên trời sửa phạt chúng ta chứng tỏ chúng ta đang ở giai đoạn trưởng thành và điều đó có nghĩa là chúng ta có thể trưởng thành hơn nữa.
Sự sửa phạt là bằng chứng về tình yêu của Cha trên trời, Sa-tan muốn chúng ta nghĩ rằng những thử thách của cuộc sống là chứng cớ Đức Chúa Trời chẳng yêu thương chúng ta, nhưng sự thật trái hẳn như thế. Lắm lúc, sự sửa phạt của Chúa được hiểu qua sự khiển trách của Ngài bằng lời Ngài hoặc bằng hoàn cảnh. Cũng có lúc Ngài bày tỏ tình yêu Ngài bằng cách sửa phạt chúng ta qua một hoạn nạn về thể xác.
Dù ở hoàn cảnh nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể biết chắc rằng bàn tay sửa phạt của Ngài được kiểm soát bởi lòng yêu thương vô đối của Ngài. Cha không muốn chúng ta như đứa trẻ được nuông chiều quá mức, Ngài muốn chúng ta trở nên những đứa con trưởng thành đủ sức để nhận những trách nhiệm của cuộc sống.
b. Kinh nghiệm của bản thân (Hêb 12:7-11).
Chúng ta ai cũng có một người cha và nếu người cha ấy có lương tâm, hẳn phải sửa phạt chúng ta. Nếu một đứa trẻ bị bỏ bê, nó sẽ lớn lên và trở thành kẻ ngang ngược ích kỷ. Quan điểm của tác giả (Hêb 12:7-8) bày tỏ rằng:người cha chỉ sửa phạt chính con mình, và điều này chứng tỏ chúng là con cái của ông.
Có thể chúng ta cảm thấy muốn phát vào mông bọn trẻ hàng xóm (và người hàng xóm cũng có thể muốn làm vậy đối với con cái chúng ta), nhưng chúng ta không thể làm được. Sự sửa phạt của Đức Chúa Trời chứng minh chúng ta thật sự là con cái Ngài!
Trong cuộc đời chức vụ, tôi từng chứng kiến có những người tự xưng mình đã được cứu, nhưng vì lý do nào đó, họ chưa hề kinh nghiệm sự sửa phạt nào cả. Khi họ không vâng lời Chúa, họ vẫn cảm thấy mình chẳng bị trừng phạt gì cả.
Nếu tôi chống lại ý muốn Chúa, cũng như không kinh nghiệm sự sửa phạt yêu thương của Ngài, tôi e mình chưa được cứu! Mọi con cái thật của Đức Chúa Trời đều chịu sự sửa phạt của Ngài. Những ai tuyên bố mình đã được cứu nhưng không bị sửa phạt, họ chỉ là kẻ giả hình, là “con ngoại tình”.
Vì sao những người cha mẫu mực trên đất thường sửa phạt con mình? Họ làm vậy để con cái biết tôn trọng và vâng lời họ. Đây là lý do Cha trên trời sửa phạt chúng ta Ngài muốn chúng ta kính sợ và vâng phục ý muốn Ngài. Đức trẻ nào không học cách phục tùng sẽ không bao giờ trở thành một người lớn hữu dụng. Nếu con cái Đức Chúa Trời chống nghịch mạng lệnh Ngài sẽ có nguy cơ nếm mùi sự chết! ”...huống chi Cha về phần hồn, chúng ta há chẳng càng nên vâng phục lắm để được sự sống sao?” (Hêb 12:9). Tác giả muốn nói rằng nếu chúng ta không đầu phục Chúa, chúng ta không thể sống lâu trên đất. “Cũng có tội đến nỗi chết” (IGi 5:16).
Đến đây, chúng ta có thể hiểu đoạn Hêb 12:1-29 này có liên quan ra sao đến 5 lời khuyên trong thư tín Hê-bơ-rơ. Khi một Cơ-đốc nhân xao lãng Lời Chúa và sa sút đức tin, Đức Chúa Trời sẽ sửa phạt để đem người ấy trở lại vị trí đầu phục và vâng lời (nếu Đức Chúa Trời không sửa phạt, vậy người ấy chưa thật sự được tái sinh).
Khi một Cơ-đốc nhân cứ ương bướng chống lại ý Chúa, Ngài có thể sẽ cất sự sống của người ấy đi. Đức Chúa Trời có thể để cho con cái Ngài qua đời, còn hơn là để họ hủy hoại cuộc đời mình và bôi nhọ Danh Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã tuyệt diệt hằng ngàn người Do-thái chống nghịch trong đồng vắng (ICôr 10:1-12). Vậy tại sao Ngài phải miễn cho chúng ta sự sửa phạt ấy. Dĩ nhiên cách sửa phạt này không phải là hành động thường xuyên của Ngài, nhưng nó có thể xảy ra. Ngài sửa phạt vì ích lợi của chúng ta, hầu cho chúng ta có thể dự phần trong bản tính thánh khiết của Ngài.
c. Bông trái phước hạnh (Hêb 12:11-13).
Lúc đầu, không có sự sửa phạt nào khiến cha hoặc con vui mừng cả, nhưng về sau sẽ sinh ra những ích lợi. Tôi chắc rằng ít có trẻ con nào tin như vậy khi nghe cha mẹ nói: “Điều này làm ba mẹ đau hơn con nữa!” . Sự thật là vậy. Cha trên trời cũng không vui mừng khi sửa phạt con cái Ngài, nhưng những ích lợi “về sau” khiến sự sửa phạt trở nên một bằng chứng về tình yêu Ngài.
Những ích lợi về sau là gì? Trước tiêu có một ích lợi gọi là “bông trái công bình và bình an”. Thay vì tiếp tục phạm lỗi, người con sẽ cố gắng làm theo những điều phải lẽ. Cũng có một sự hòa bình thay vì tranh chiến “bông trái công bình và bình an”. Sự chống đối đã chầm dứt, nên đứa con được ở trong mối tương giao ngọt ngào với Cha mình. Sự sửa phạt còn khích lệ đứa con rèn luyện những vấn đề thuộc linh như học Lời Đức Chúa Trời, cầu nguyện, suy gẫm, làm chứng v.v... Mọi điều này sẽ sinh ra một sự vui mừng về sau. Phao-lô mô tả sự vui mừng ấy là “sự công bình, bình an, vui vẻ bởi Đức Thánh Linh” (Rô 14:17)
Dĩ nhiên, điều quan trọng là cách con cái Đức Chúa Trời phản ứng trước sự sửa phạt ra sao. Nếu họ khinh dể hay ngã lòng về sự sửa phạt (Hêb 12:5) cả hai thái độ đó đều sai trái. Chúng ta phải bày tỏ sự tôn kính đối với cha bằng hành động vâng phục ý muốn Ngài (Hêb 12:9), sử dụng từng trải để tự rèn luyện tâm linh mình (Hêb 12:11; ITi 4:7-8).
Hêb 12:12-13 có vẻ như những mệnh lệnh của huấn luyện viên đối với đội tuyển của mình! “Hãy làm cho mạnh những bàn tay! Hãy làm cho vững những đầu gối” (Es 35:3) “Hãy làm cho đôi chân lười biếng bước vào đường chạy!” (Ch 4:26). Nào định hướng xuất phát, chạy!
Gưong mẫu mực của Con Đức Chúa Trời và sự biết chắc về tình yêu Đức Chúa Trời hẳn sẽ khích lệ chúng ta bền đỗ trong cuộc chạy đua gay go của Cơ-đốc nhân. Chúng ta còn có một nguồn năng lực thứ ba:
3. Sự hỗ trợ của ân điển Đức Chúa Trời (Hêb 12:14-29)
Khi tham gia cuộc chạy đua Cơ-đốc, mục tiêu chúng ta là gì? Tác giả giải thích mục tiêu ấy trong Hêb 12:14: “Sự bình an với mọi người” và “sự nên thánh trước mặt Đức Chúa Trời”. (Hãy nhớ lại “bông trái công bình và bình an” ở Hêb 12:11).
Hai mục tiêu này nhắc chúng ta nhớ đến chức tế lễ cao trọng của Chúa Giê-xu Christ. Vua sự công bình và vua bình an (Hêb 7:1-2). Cần phải có sự chuyên tâm mới giật được giải cuộc đua, nếu không chúng ta có thể “trật phần ân điển của Đức Chúa Trời” (Hêb 12:15). Ân-điển không bao giờ thiếu hụt hay thay đổi, nhưng chúng ta có thể để hụt mất ích lợi của ân điển Ngài. Ở cuối đoạn Kinh Thánh này, có l luận đề khác về ân điển (Hêb 12:28).
Ở phân đoạn này, tác giả giục lòng người đọc nhờ cậy nơi ân điển Đức Chúa Trời khi khuyên họ đặt con mắt đức tin theo 3 hướng:
a. Nhìn lại – Gương xấu của Ê-sau (Hêb 12:15-17).
Ê-sau đã không hành động trên ân điển của Đức Chúa Trời. Câu chuyện về ông được chép ở Sa 25:27-34; Sa 27:30-45. Ê-sau là kẻ “ô uế” chỉ sống cho thế gian chớ không vì danh Đức Chúa Trời (nghĩa là không thộc về Đức Chúa Trời). Ê-sau khinh thường quyền trưởng nam khi bán quyền cho Gia-cốp (Gia-cốp cũng sai trái khi sử dụng mánh khoé để đoạt quyền trưởng nam. Sa 25:19-26). Sau đó, Ê-sau cố thuyết phục Y-sác đổi ý, nhưng đã quá muộn, Những giọt nước mắt của Ê-sau vẫn không giúp ích được điều gì.
Những tội lỗi nào sẽ tước mất khỏi chúng ta ân điển Đức Chúa Trời? Kinh Thánh cho chúng ta biết những tội lỗi như: không có sự chuyên tâm thuộc linh, có lòng cay đắng với người khác (Phuc 29:18), gian dâm, sống cho thế gian và xác thịt. Một số người nghĩ rằng “ô uế” nghĩa là lộng ngôn, xúc phạm bằng lời lẽ thô tục.Nhưng Ê-sau là một chàng trai dễ tính, một thợ săn giỏi và là người con yêu mến cha. Ê-sau có thể là một người láng giềng tốt bụng, nhưng ông chảng quan tâm đến những điều thuộc về Đức Chúa Trời.
Ân-điển Đức Chúa Trời không thay đổi, nhưng chúng ta có thể không biết nhờ cậy nơi ân điển Ngài. Ê-sau là một điển hình khuyên chúng ta đừng sống cho những điều thấp hèn.
b. Nhìn lên – sự vinh hiển của thành trên trời (Hêb 12:18-24).
Tác giả thư tín Hê-bơ-rơ so sánh núi Si-nai và sự kiện ban luật pháp với núi Si-ôn và những phước hạnh trong Hội thánh (Xu 19:10-25; Xu 20:18-21; Phuc 4:10-24). Ông mô tả sự trang nghiêm và thậm chí là sự kinh khiếp khi luật pháp được ban ta (Hêb 12:18-21). Dân sự kinh hãi khi nghe tiếng Đức Chúa Trời, cả Môi-se cũng run rẩy! Đức Chúa Trời phân định giới hạn chung quanh núi Si-nai, nếu người hay vật vượt giới hạn sẽ bị chết bởi cung tên. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời phải cho dân sự cảm biết tính nghiêm túc của Luật pháp Ngài, giống như cách chúng ta đối với con cái mình vậy. Đây là “thời thơ ấu” của dân tộc này, nên con cái bé mọn chỉ có thể hiểu thế nào là thưởng và phạt.
Thật nhẹ nhõm khi đi từ núi Si-nai qua núi Si-ôn! Núi Si-nai đại diện cho giao ước cũ của luật pháp và núi Si-ôn đại diện cho giao ước mới của ân điển trong Chúa Giê-xu Christ (Ga 4:19-31). Thành trên trời là núi Si-ôn của Đức Chúa Trời (Thi 110:1-2,4; Thi 2:1-12), cũng là thành mà các Thánh tổ xưa trông đợi bởi đức tin (Hêb 11:10,14-17). Thành Giê-ru-sa-lem trên đất chỉ trong thời gian không lâu sau đó đã bị người La-mã tàn phá nhưng Giê-ru-sa-lem trên trời sẽ tồn tại đời đời.
Tác giả mô tả các công dân tạo nên dân số của thành trên trời. Muôn vàn thiên sứ có mặt ở đó, vì người tin Chúa có quyền công dân trên trời (Phi 3:20) và tên của họ được ghi trên trời (Lu 10:20) “Con trưởng” là một danh tôn trọng, có phẩm vị. Ê-sau vốn là trưởng nam của Y-sác, nhưng do xem thường những đặc quyền đó nên ông đã đánh mất phước hạnh và quyền thừa kế của mình.
Đức Chúa Trời chắc hẳn cũng hiện diện ở thành trên trời cùng các thánh-đồ Cựu-ước (“linh hồn người nghĩa được vẹn lành” Hêb 12:23b). Ở đó có sự hiện diện của Chúa Giê-xu Christ – Đấng Cầu thay đã đổ huyết vì chúng ta. Chúng ta biết rằng A-bên vẫn “còn nói” (Hêb 11:4) nhưng ở đây chúng ta khám phá huyết Đấng Christ “nói tốt hơn huyết của A-bên” (Hêb 12:24). Huyết của A-bên cất tiếng từ dưới đất và khóc về sự công bình (Sa 4:10), nhưng huyết Đấng Christ nói từ trời và rao ra sự thương xót dành cho tội nhân.
Huyết A-bên khiến Ca-in cảm biết tội lỗi (và thật như vậy), nên đẩy Ca-in đến tình trạng chán nản, ngã lòng (Sa 4:13-15). Nhưng huyết Đấng Christ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và mở đường vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Nếu không có huyết của giao ước mới, có lẽ chúng ta đã không thể bước vào thành trên trời!
Có một người bạn hỏi tôi: “Tại sao có quá ít bài giảng nói về thiên đàng?” Rồi anh tự đưa ra giải đáp mà có lẽ hợp lý: “Tôi đoán rằng chúng ta cảm thấy sống trên đất quá tuyệt vời, nên không nghĩ đến thiên đàng”.
Khi sống trong những ngày khó khăn và đối diện thử thách đó là lúc chúng ta phải nhìn lên và ngắm xem sự vinh hiển của thiên đàng. Môi-se đã “đứng vững như thấy Đấng không thấy được” (Hêb 11:27).
Các Thánh tổ đã bền đỗ khi nhìn lên thành Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho họ. Một bí quyết để nắm giữ ân điển Đức Chúa Trời là hãy nhìn lên bằng đức tin để thấy một tương lai tuyệt vời Ngài đã dành sẵn cho mình.
c. Nhìn về phía trước – một nước không “rúng động” (Hêb 12:25-29).
Hôm nay Đưc Chúa Trời đang phán với chúng ta qua Lời Ngài cũng như qua những việc Ngài thực hiện trên thế giới. Chúng ta nên lắng nghe! Nếu Đức Chúa Trời đã làm mọi vật tại núi Si-nai rúng động, vậy chúng ta là những người kinh nghiệm phước hạnh của giao ước mới lại càng có trách nhiệm nhiều hơn! Hôm nay, Ngài cũng đang rúng động mọi sự (gần đây bạn có đọc báo không?) Ngài muốn đánh sập “giàn giáo” của con người và bày tỏ những điều thực hữu đời đời không hề rúng động. Ôi, có quá hiều người (kể cả Cơ-đốc nhân) đang xây đời mình trên những điều có thể lay động.
Từ “rúng động” trích ở Ag 2:6 nói đến thời kỳ khi Chúa tái lâm và làm cho nhà Ngài đầy dẫy sự vinh hiển. Khi có những biến cố xảy ra gần thời kỳ này, chúng ta sẽ thấy nhiều sự rúng động hơn trên thế giới. Dù vậy, Cơ-đốc nhân có thể sống vững vàng, vì sẽ được ban một nước không hề rúng động. Thật ra, hôm nay Cơ-đốc nhân đã là một phần của vương quốc Đức Chúa Trời.
Chúng ta sẽ làm gì khi sống giữa một thế giới luôn chao đảo? Hãy lắng nghe Đức Chúa Trời phán và vâng lời Ngài. Hãy đón nhận ân điển mỗi ngày để hầu việc Chúa với “lòng kính sợ”. Đừng bối rối hay sợ hãi vì những thay đổi to lớn quanh bạn. Hãy cứ bền đỗ theo đuổi cuộc chạy đua. Hãy luôn nhìn xem Chúa Giê-xu Christ. Hãy nhớ rằng Cha trên trời rất yêu thương bạn. Và hãy đến gần ân điển kỳ diệu của Đức Chúa Trời.
Dù những người khác ở trong tình trạng sợ hãi – bạn vẫn có thể đứng vững vàng!
12. ĐỨC TIN BẠN SẼ BÀY TỎ RA (Hêb 13:1-25)
Khi đọc đến đoạn cuối cùng của thư tín Hê-bơ-rơ, bạn sẽ có cảm giác tác giả có nhiều vấn đề bàn luận mà vẫn để dành đến đoạn cuối mới luận giải. Trong Hêb 12:1-29 chúng ta vui mừng ngắm xem núi thánh Si-ôn, và bây giờ chúng ta sẽ nói về những chủ đề thường nhật như sự tiếp đãi, giới chức Hội thánh và người cuối cùng được thả khỏi ngục tù.
Tuy nhiên, trong Kinh Thánh không có sự phân ranh giới giữa lý thuyết và hành động, sự mạc khải và trách nhiệm. Hai ý niệm luôn đồng hành với nhau. Trọng tâm trong phần này tập trung vào chủ đề “sống bởi đức tin”. Tác giả đã trưng dẫn các gương đức tin lớn ở đoạn Hêb 11:1-40 và những điều khích lệ của đức tin ở đoạn Hêb 12:1-29. Trong đoạn Hêb 13:1-25 tác giả đưa ra các chứng cớ đức tin cần thiết trong đời sống chúng ta nếu cúng ta thật sự đang bước đi bằng đi bằng đức tin chớ không bởi ngoại cảnh.
Có 4 chứng cớ bày tỏ đức tin:
1. Vui mừng trong mối thông công thuộc linh (Hêb 13:1-6)
Nền tảng của mối thông công này là tình yêu thương anh em, là (những) Cơ-đốc nhân, các tín hữu Hê-bơ-rơ này chắc hẳn đã bị bạn bè và gia đình hất hủi, nhưng mối thông công sâu đậm nhất không lệ thuộc vào chủng tộc hay quan hệ gia đình, nhưng dựa vào sự sống thuộc linh chúng ta có trong Đấng Christ. Mối thông công Hội thánh nếu chỉ dựa trên điều nào khác ngoài tình yêu đối với Đấng Christ và đối với người khác, sẽ không thể duy trì được lâu. Bạn có thể xem những chi tiết khác về “tình yêu thương anh em” ở Rô 12:10; ITês 4:9-10; IPhi 1:22; IIPhi 1:7
Nơi đâu có tình yêu Cơ-đốc thật, ở đó cũng sẽ có sự tiếp đãi (Hêb 13:2). Đây là nhiệm vụ quan trọng của Hội thánh ban đầu, vì cơn bắt bớ đã khiến nhiều Cơ-đốc nhân phải sống xa nhà. Cũng có những người thi hành chức vụ ở xa nên cần chỗ tạm trú (IIIGi 1:5-8). Nhiều thánh-đồ nghèo không đủ tiền để ở nhà trọ, và vì có những Hội thánh nhóm tại nhà riêng (Rô 16:5) nên người ở xa phải trọ tại nhà ấy. Các mục sư được xem là người mến khách (Tit 1:8), nhưng chúng ta cũng phải ân cần tiếp đãi mọi thánh-đồ (Rô 12:13).
Môi-se (Sa 18:1-33) ghi lại câu chuyện Áp-ra-ham tiếp đãi rời rộng Chúa Giê-xu Christ và hai thiên sứ. Khi tiếp rước khác, Áp-ra-ham không biết các vị ấy là ai và sau đó ông mới nhận biết những vị khách vĩ đại kia. Bạn và tôi hôm nay không thể tiếp rước các thiên sứ theo nghĩa đen (dù điều đó có thể xảy ra), nhưng bất kỳ người khách nào cũng có thể là một sứ giả đem phước lành đến cho chúng ta. (Từ “thiên sứ” đơn giản nghĩa là “sứ giả”). Có lẽ chúng ta cũng từng tiếp những vị khách mà chính họ là những sứ giả đem đến cho chúng ta ơn phước của Đức Chúa Trời.
Tình yêu thương cũng bày tỏ chính nó qua sự quan tâm (Hêb 13:3) không có gì lạ khi Cơ-đốc nhân bị bắt bớ giam cầm vì đức tin. Để chia xẻ gánh nặng của những người gặp hoạn nạn đó, tình yêu trong Đấng Christ buộc chúng ta phải giúp đỡ họ, Giúp đỡ một Cơ-đốc nhân bị giam cầm vì danh Đấng Christ nghĩa là đã giúp đỡ chính Đấng Christ (Mat 25:36,40).
Ở các nước tự do, Cơ-đốc nhân không bị bắt bớ vì niềm tin, nhưng ở một số quốc gia khác, Cơ-đốc nhân phải chịu khổ vì đức tin. Chúng ta cần phải cầu nguyện cho họ và chia xẻ khó khăn với họ theo khả năng Chúa ban cho.
Gia đình là nơi đầu tiên tình yêu thương Cơ-đốc phải được thể hiện (Hêb 13:4). Một gia đình Cơ-đốc được xây dựng từ hôn nhân Cơ-đốc trong ý muốn Đức Chúa Trời, nghĩa là có sự chung thuỷ và thánh sạch. Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là quan hệ tội lỗi, đồi bại. Mối quan hệ vợ chồng trong sự đảm bảo của hôn nhân sẽ gây dựng đời sống tốt đẹp và quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
Những người chưa kết hôn có thể phạm vào mối quan hệ tình dục bất chính, còn những người đã có gia đình lại phạm vào tội ngoại tình (tuy nhiên, trong Kinh Thánh Tân-ước, từ “tà dâm” có thể đề cập đến nhiều hình thức khác nhau của tội phạm về thể xác. (Công 15:20; ICôr 6:18)
Đức Chúa Trời đoán phạt kẻ quan hệ tình dục bất chính và kẻ tà dâm ra sao? Đôi lúc họ bị đoán phạt trong chính thân thể mình (Rô 1:24-27). Chắc chắn họ sẽ bị xét đoán vào kỳ sau rốt (Kh 21:8; Kh 22:15). Cơ-đốc nhân nào phạm vào những tội lỗi này có thể được tha thứ, nhưng người ấy gánh những hậu quả của tội tà dâm trong những năm sau đó và chịu khổ sở trong một hoàn cảnh khắc nghiệt nhất: vì cớ con cái của mình.
Hôm nay, khi tội lỗi và tình dục được phô trương để làm trò giải trí qua phim ảnh và truyền hình, Hội thánh cần phải vững vàng để giữ sự thanh sạch trong quan hệ hôn nhân. Một gia đình Cơ-đốc tin kính gần như một thiên đàng trên đất, được xây dựng từ hôn nhân Cơ-đốc.
Nếu yêu mến Đức Chúa Trời và yêu tha nhân, chúng ta sẽ có một mối liên hệ đúng đắn đói với những điều thuộc về vật chất (Hêb 13:5-6). Thời kỳ chịu khổ có thể là thời gian để phục vụ hoặc để giữ lòng ích kỷ. Thật không dễ dàng để “vui lòng chịu của cải mình bị cướp” (Hêb 10:34). Nhưng với những nan đề về kinh tế và sinh thái trên thế giới chúng ta hôm nay, các tín-hữu giàu thấy cần sống với một số thứ xa xỉ mà bây giờ họ xem là cần thiết.
Có một cặp vợ chồng Cơ-đốc nhân người Mỹ giảng đạo cho các tín-hữu ở Đông Âu (sau tấm song sắt). Họ mang theo sách báo Cơ-đốc, mềm và các vật dụng khác. Trong buổi nhóm, họ khẳng định rằng Cơ-đốc nhân ở nước Mỹ đang cầu nguyện cho các Cơ-đốc nhân ở Đông Âu.
Một Cơ-đốc nhân lên tiếng: “Chúng tôi rất vui khi nghe về điều đó, nhưng tôi cảm thấy các tín-hữu ở Mỹ cần sự cầu nguyện nhiều hơn chúng tôi. Chúng tôi gặp khó khăn ở Đông Âu, nhưng các bạn sống ở Mỹ rất tiện nghi. Vì vậy, khi bạn muốn làm một Cơ-đốc nhân trọn lành giữa một cuộc sống tiện nghi, bạn sẽ khó thực hiện hơn”.
“Tham tiền” nghĩa là “yêu tiền bạc”. Sự tham lam này có thể là thái độ mốn có cái gì đó nhiều ơn nữa. Có người đặt câu hỏi với nhà triệu phú Bernard Baruch. Cần có bao nhiêu tiền để một người giàu có thoả mãn, Baruch đáp: “Chỉ là một triệu lần của những gì người ấy có”. Tham lam đồng nghĩa với mỗi khao khát muốn có nhiều hơn, dù chúng ta có cần đến hay không.
Sự thỏa lòng không thể có từ những điều vật chất, vì chúng chẳng thể nào làm thoả mãn lòng người. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm được điều đó “Hãy cẩn thận chớ hà tiện chi tiết, vì sự sống của người ta không phải cốt tại của cải mình dư dật đâu” (Lu 12:15).
Nếu chúng ta có Đức Chúa Trời ở cùng, chúng ta sẽ có mọi điều mình cần. Vật chất của đời người có thể hư hoại hoặc bị cướp mất, nhưng Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta, lời hứa này đã được Giô-suê rao ra khi ông tiếp nối chức vụ Môi-se (Phuc 31:7-8; Gios 1:5,9) và sẽ ứng ghiệm với chúng ta trong Chúa Giê-xu Christ (Mat 28:20; Công 18:9-10).
Lời xác quyết của đức tin ở Hêb 13:6 được trích từ Thi 118:6. Đây là Thi-thiên nói tiên tri về Đấng Cứu Thế và được ứng nghiệm trong Chúa Giê-xu Christ, vì vậy chúng ta có thể nắm giữ lời hứa này cho chính mình. Đây chính là nguồn an ủi lớn cho những Cơ-đốc nhân đầu tiên khi họ biết rằng họ sẽ bình an và không cần sợ con người, vì không ai có thể tra tay trên họ nếu Đức Chúa Trời không cho phép. Họ làm việc lành và chính Đức Chúa Trời thoả đáp mọi nhu cầu của họ.
Có một phụ nữ nói với nhà truyên đạo D.L.Moody rằng “Tôi đã tìm được một lời hứa yên ủi tôi khi tôi sợ hãi. Đó là lời hứa ở Thi 56:3 “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa” Ông Moody đáp “Tôi có một lời hứa tốt hơn thế! Đó là Es 12:2 “Tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi!”.
Cả hai lời hứa trên đều xác thực và mỗi lời hứa có một ứng dụng riêng. Điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải biết rằng Chúa Giê-xu Christ là Chúa và là Đấng cứu giúp của mình để không đặt lòng tin cậy vào vật chất. Cơ-đốc nhân thỏa lòng là người sống với những ưu tiên hàng đầu, còn những điều vật chất không thuộc danh mục ưu tiên của họ.
2. Vâng phục giới chức lãnh đạo thuộc linh (Hêb 13:7-9,17,24)
Có 3 lần tác giả sử dụng nhóm từ “kẻ dắt dẫn anh em” để chỉ về giới lãnh đạo Hội thánh. Hội thánh là một cơ quan, cũng là một tổ chức. Nếu một cơ quan không có tổ chức, sẽ bị đào thải. Bất cứ nơi đâu Phao-lô đến, ông đều lập ra Hội thánh và bổ nhiệm những tín-hữu có tư chất tốt để lãnh đạo Hội thánh (Công 14:23; Tit 1:5). “Các thánh-đồ... các giám mục (trưởng lão) và các chấp sự” (Phi 1:1) là một tóm tắt về tư cách nghị viên và quyền lãnh đạo của các Hội thánh thời Tân-ước.
Mỗi Cơ-đốc nhân có 3 nhiệm vụ đối với giới lãnh đạo thuộc linh trong Hội thánh mình.
a. Hãy nhớ đến họ (Hêb 13:7-9).
Từ “nhớ” có thể được bày tỏ rằng những lãnh đạo này đã qua đời, có lẽ vì tử đạo, nên chúng ta đừng quên họ. Thật dễ quên những Cơ-đốc nhân dạn dĩ thời xưa, là những người mà chức vụ và của lễ của họ dâng giúp chúng ta có thể hầu việc Chúa hôm nay. Dù chúng ta không thờ phượng hay đề cao con người, nhưng chúng ta có quyền để tôn trọng họ và việc làm trung tín của họ (ITês 5:12-13).
Các lãnh đạo này có lẽ đã dẫn dắt tín hữu (đối tượng đọc thư tín) đến với Đấng Christ, vì đã rao giảng Lời Chúa cho họ. Nếu bạn nhớ rằng thời bấy giờ rất ít tín-hữu có Kinh Thánh, bạn mới thấy tầm quan trọng của công tác rao giảng Lời Chúa trực tiếp. Hôm nay, chúng ta đều có thể tự đọc Kinh Thánh, nghe giảng qua đài radio hoặc qua băng cát-xét. Chúng ta dễ rơi vào tình trạng xem nhẹ Lời Chúa.
Các tín-hữu không còn được nghe những lãnh đạo đã qua đời giảng dạy nhưng có thể noi gương đức tin họ và suy gẫm kết quả đức tin họ (“sự cuối cùng”). Kết quả này có thể liên quan đến sự qua đời của họ, trong đó có một số người tử đạo. Dù vậy, tôi tin rằng “sự cuối cùng (của) đời họ” (Hêb 13:7) được bày tỏ ở Hêb 13:8 –“Đức Chúa Giê-xu Christ hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi”. Cuộc đời họ đã bày tỏ về Đấng Christ! Các lãnh đạo Hội thánh có thể đến rồi ra đi, nhưng Chúa Giê-xu Christ không bao giờ thay đổi chính Ngài là trung tâm của đức tin chúng ta.
Sau khi tôi xin rút khỏi Hội thánh tôi đã hầu việc nhiều năm. Một tín-hữu nói với tôi: “Tôi không biết mình sẽ xoay sở ra sao nếu không có mục sư! Tôi nhờ cậy mục sư rất nhiều để được nâng đỡ về tâm linh”.
Lời đáp của tôi làm anh ta bị “sốc” “Vậy tôi ra đi sớm chừng nào, anh mới có thể bắt đầy nhờ cậy nơi Chúa dường nấy. Đừng bao giờ gây dựng đời mình nơi bất cứ tôi tớ nào của Chúa. Hãy gây dựng đời sống anh nơi Đấng Christ. Ngài không bao giờ thay đổi”.
Luôn có một hiểm hoạ gọi là “để cho mọi thứ đạo lạ dỗ dành mình” (Hêb 13:9). Mục đích của công tác thuộc linh là để gây dựng người thuộc về Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài, để họ không bị “day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc” (Eph 4:11-14).
Trong số đối tượng đọc thư tín, có một số người muốn trở lại với luật pháp Do-thái (bị chi phối bởi thức ăn). Tác giả khuyên họ rằng các luật về sự kiêng ăn sẽ không thể đem đến cho họ ích lợi thuộc linh, vì các luật lệ ấy chưa bao giờ gây dựng tâm linh dân Do-thái! Các luật kiêng ăn khiến con người có cảm giác mình rất “thuộc linh”, nhưng đó chỉ là hình bóng của những điều chúng ta có trong Đấng Christ (đọc kỹ Côl 2:16-23).
Khi các Hội thánh khu vực thay đổi mục sư cũng có một xu hướng thay đổi các giáo lý hoặc trọng tâm của giáo lý. Chúng ta cũng phải cẩn thận để không dời đổi nền tảng thuộc linh của Hội thánh. Đáng buồn khi hôm nay không có nhiều bài giảng về giáo lý, vì giáo lý Kinh Thánh là nguồn năng lực và phát triển của Hội thánh.
Tấn sĩ R.W.Dale một truyền đạo Anh quốc lừng danh đã nói với một người bạn: “Tôi sẽ bắt đầu nói một loạt đề tài về giáo lý Kinh Thánh”.
Bạn ông đáp: “Họ sẽ không bao giờ hiểu đâu!”
Ông nói: “Họ sẽ phải hiểu”! Ông đã nói đúng.
b. Hãy vâng lời họ (Hêb 13:17).
Nếu (có) một tôi tớ Đức Chúa Trời sống theo ý Chúa, giảng dạy Lời Chúa trung tín, vậy con cái Đức Chúa Trời nên vâng theo. Điều này không có nghĩa là các mục sư như những người chuyên quyền. “Chẳng phải người cầm quyền trên gia sản của Đức Chúa Trời” (IPhi 5:3). Một số thành viên Hội thánh có thái độ thiếu tôn trọng đối với thẩm quyền của mục sư và đây là điều không hay. Sẽ có một ngày mọi mục sư đều dâng trình chức vụ mình cho Chúa, hẳn họ muốn báo cáo với Ngài cách vui mừng. Một Cơ-đốc nhân ương bướng sẽ thấy những hậu quả bất lợi của thái độ bất phục này, không phải dành cho mục sư, nhưng dành cho chính mình.
Trung thực mà nói “thu phục các linh hồn” còn dễ hơn “gìn giữ” các linh hồn (Exe 3:16-21). Hội thánh càng phát triển chừng nào, công tác chăm sóc bầy chiên của Chúa lại trở nên khó khăn hơn chừng nấy. Tiếc thay, một số người thi hành chức vụ, chỉ đơn giản làm cái việc diễn thuyết và “kéo dài chương trình” chớ không cưu mang sự khao khát gây dựng linh hồn người. Một số người thậm chí là “kẻ chăn thuê” đến làm việc vì tiền bạc và mau mắn cao chạy xa bay khi bất lợi đến gần (Gi 10:11-14). Nhưng nếu người chăn trung tín chăm sóc chiên, bầy chiên cần phải vâng lời người.
c. Hãy thăm hỏi họ (Hêb 13:24).
Người Do-thái thường chào hỏi nhau bằng câu “Sha-lô – chúc bình an!”. Người Hy-lạp thường chào nhau bằng lời ‘chúc ân-điển! Phao-lô kết hợp hai lời chào này để thăm hỏi các thánh-đồ “Nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, và bởi Đức Chúa Giê-xu Christ” (ICôr 1:3 IICôr 1:2 và trong mọi thư tín của ông, ngoại trừ I và II Ti-mô-thê với Tít. Khi Phao-lô viết thư cho các mục sư, ông chào họ bằng câu “nguyền xin ân điển, sự thương xót và bình an...”. Tôi tự hỏi vì sao?).
Dĩ nhiên, tác giả thư tín Hê-bơ-rơ muốn gởi lời chào đặc biệt đến giới lãnh đạo Hội thánh, đây cũng là gương tốt để mọi người chúng ta noi theo. Mọi Cơ-đốc nhân nên dành thời gian chào thăm mục sư Hội thánh mình. Đừng bao giờ để “rễ đắng” châm ra trong lòng bạn (Hêb 12:15), vì nó sẽ huỷ hoại con người bạn, cũng như làm tổn hại cho cả Hội thánh Chúa.
Thật vậy, mỗi chi thể trong thân có một chức năng hoạt động cần thiết, nên Đức Chúa Trời cũng lặp ra càc lãnh đạo thuộc linh trong Hội thánh Ngài. Tôi được đặc ơn giảng dạy ở nhiều Hội thánh tại nước Mỹ nên tôi thấy rằng nơi đâu mục sư được phép giảng dạy, nơi đó luôn có phước hạnh và sự phát triển. Tôi không muốn bàn về “chế độ độc tài” chuyên quyền ích kỷ, nhưng chỉ nói đến quyền lãnh đạo thuộc linh. Đó là khuôn mẫu Đức Chúa Trời dành cho Hội thánh.
3. Dự phần vào sự thờ phượng thuộc linh (Hêb 13:10-16,18-19)
Hôm nay, Cơ-đốc nhân của giao-ước mới không bị ảnh hưởng bởi các lễ nghi và của lễ trong đền tạm trên đất, nhưng người đó cũng không bị tước đi những ơn phước bày tỏ qua các nghi thức xưa. Người Do-thái thời Cựu-ước có thể hướng lòng về đền thờ, nhưng Cơ-đốc nhân hôm nay có một nơi thánh trên trời không bao giờ bị huỷ hoại. Người Do-thái rất tự hào về thành Giê-ru-sa-lem nhưng Cơ-đốc nhân có một thành đời đời, là Giê-ru-sa-lem mới. Mỗi vật dụng trong đền tạm trên đất thời Cựu-ước tương ứng với những hiện thực đời đời trên trời của Cơ-đốc nhân thời giao-ước mới.
“Chúng ta có một cái bàn thờ” (Hêb 13:10) không có nghĩa là bàn thờ hữu hình trên đất, vì như vậy sẽ mâu thuẫn với cả sứ điệp của thư tín này. Trong nơi thánh Cựu-ước bàn thờ bằng đồng là nơi dâng huyết con sinh tế, và bàn thờ bằng vàng phía trước bức màn là nơi xông hương, một hình ảnh của sự cầu nguyện dâng lên Đức Chúa Trời (Thi 141:2).
Bàn thờ của Cơ-đốc nhân trong giao-ước mới là Chúa Giê-xu Christ, vì nhờ Ngài chúng ta có thể dâng những “của lễ thuộc linh” cho Đức Chúa Trời (Hêb 13:15; IPhi 2:5). Có thể chúng ta đã dành riêng một phần nào đó trong nhà thờ và gọi đó là bàn thờ, nhưng những nơi đó không thật sự là bàn thờ theo tinh thần Kinh Thánh, Vì sao? Bởi của lễ Đấng Christ đã được dâng lên một lần đủ cả. Mọi của lễ chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời đều được nhậm, không vì bàn thờ trên đất, nhưng vì một bàn thờ trên trời, là Chúa Giê-xu Christ.
Trọng tâm trong phân đoạn này nói về sự phânc ách khỏi hình thức tôn giáo cũ và dự phần với Chúa Giê-xu Christ trong sự khổ nhục của Ngài. Hình ảnh này thể hiện vào ngày lễ chuộc tội. Của lễ chuộc tội được đem ra ngoài trại quân để đốt trong lửa (Lê 16:27).
Là của lễ chuộc tội trọn vẹn cho chúng ta, Chúa Giê-xu Christ đã chịu thương khó và chịu chết “ngoài cửa thành” Giê-ru-sa-lem. Nói theo cách thuộc linh mọi Cơ-đốc nhân thật phải đồng đi ra ngoài với Ngài để đến nơi bị người ta sỉ nhục và khước từ. Tác giả đặt câu hỏi “Tại sao bạn cứ ở trong Giê-ru-sa-lem khi đó không phải là thành của bạn? Tại sao sống với luật pháp giao-ước cũ khi nó đã được làm trọn trong Đấng Christ?”.
Đối tượng đọc thư tín Hê-bơ-rơ đang tìm kiếm phương cách sống của một Cơ-đốc nhân khi muốn thoát khỏi sự bắt bớ của những kẻ Do-thái vô thần. Tác giả khẳng định nhiều lần “không thể” được. Giê-ru-sa-lem không còn nữa. Hãy bước ra khỏi hình thức tôn giáo cũ của Do-thái và dự phần với Đấng Christ, là “Đấng Christ đã chết thay bạn”. Sẽ không có chỗ cho sự thỏa hiệp.
Tác giả định danh hai “của lễ thuộc linh” mà Cơ-đốc nhân chúng ta phải dâng lên (Hêb 13:15-16). Bạn cần chú ý rằng “thuộc linh” ở đây không tương phản với vật chất, vì những của lễ thuộc về vật chất có thể được chấp nhận như của lễ thuộc linh (Phi 4:10-20). Từ “thuộc linh” nghĩa là “thuộc linh trong phẩm cách, được Đức Thánh Linh sử dụng vào những mục đích thuộc linh”. Thân thể Cơ-đốc nhân dâng cho Đức Chúa Trời, là một của lễ thuộc linh (Ro 12:1-2).
-Của lễ thuộc linh thứ nhất là lời ngợi khen Đức Chúa Trời (Hêb 13:15).
Những lời ngợi khen thốt ra ở môi miệng, xuất phát từ tấm lòng chúng ta giống như bông trái tốt lành dâng trên bàn thờ. Các thánh đồ chịu khổ rất dễ rơi vào tình trạng thở than, nhưng họ cần phải dâng lời tạơn Đức Chúa Trời.
-Của lễ thuộc linh thứ hai là việc lành (Hêb 13:16).
Lễ vật này chắc hẳn cũng bao gồm tinh thần tiếp đãi ở He 13:2, cũng như công tác chăm sóc những người bị bắt bớ ở He 13:3. “Việc lành” ở đây có thể bao quát nhiều công tác như: chia xẻ thực phẩm cho người gặp khó khăn, đưa người đi hầu việc Chúa từ nơi này sang nơi khác, dâng hiến tiền bạc chúng ta có thể làm việc đó giống như một người láng giềng tốt bụng vậy. Tôi có lần đem được một người đến với Chúa, chỉ vì tôi đã giúp đỡ ông ta cắt cỏ khi máy xén cỏ của ông bị hư.
Kế đến, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cầu nguyện (Hêb 13:18-19). Không đến thăm trực tiếp các tín hữu được, nhưng tác giả luôn ước ao họ cầu nguyện cho ông. Chắc có thể một số kẻ thù nghịch đã làm chứng dối về ông, nên ông phải khẳng định sự trung thực và chính trực của mình.
Chúng ta không biết rõ tác giả thư tín này là ai. Nhiều người cho rằng đó là Phao-lô. Chi tiết đề cập đến Ti-mô-thê ở Hêb 13:23, cũng như lời ban phước ở Hêb 13:25 (IITês 3:17-18) cho thấy người viết thư tín có khả năng là Phao-lô.
Một số học giả cho rằng Phi-e-rơ đã đề cập đến tác quyền sách Hê-bơ-rơ của Phao-lô (IIPhi 3:15-16), nhưng câu Kinh Thánh này cũng có thể được áp dụng cho những điều Phao-lô viết ở sách Rô-ma. Chúng ta không biết tên người viết sách Hê-bơ-rơ, nhưng cũng không cần thiết phải biết điều ấy.
4. Kinh nghiệm mối tương giao thuộc linh với Chúa (Hêb 13:20-21)
Lời chúc lành này dường như tập trung các chủ đề chính của thư tín Hê-bơ-rơ: sự bình an, Đấng Christ phục sinh, huyết, giao-ước, sự trọn lành thuộc linh (trưởng thành), công việc của Đức Chúa Trời trong lòng người tin nhận.
Là Đấng Chăn hiên hiền lành, Chúa Giê-xu Christ đã chết thay bầy chiền (Gi 10:11). Là Đấng Chăn Chiên Lớn, Ngài đang sống trên trời vì bầy chiên hôm nay để cầu thay cho họ. Là Đấng đứng đầu mọi kẻ chăn bầy, Ngài sẽ trở lại để tiếp rước bầy chiên (IPhi 5:4). Đấng Chăn chúng ta luôn chăm sóc giữ gìn kẻ thuộc về Ngài trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngài là Đấng “hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời không hề thay đổi”!
Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm Cao Trọng của chúng ta cũng là Đấng Chăn Chiên Lớn của chúng ta. Khi sống trên đất, Ngài thi hành chức vụ vì chúng ta và đã hoàn tất công tác cứu chuộc vĩ đại (Gi 17:4). Giờ đây khi ở thiên đàng, Ngài cũng đang hành động trong chúng ta, khiến chúng ta tăng trưởng trong ý Ngài và đem chúng ta đến vị trí trọn lành về thuộc linh. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến vị trí đó trước khi Chúa trở lại (IGi 2:28-3:3), nhưng trong thời kỳ chờ đợi, chúng ta phải tiếp tục tăng trưởng.
Nhóm từ “khiến anh em nên trọn vẹn” (Hêb 13:21) được diễn dịch từ một thuật ngữ Hy-lạp “katartidzo”. Chúng ta không rành từ ngữ này, nhưng đối tượng đọc thư tín hê-bơ-rơ rất quen thuộc ý nghĩa của nó. Các bác sĩ hiểu từ này theo nghĩa “chỉnh lại xương bị gãy”. Đối với dân chài, nó có nghĩa là “vá lưới rách” (Mat 4:21). Với các thủy thủ, từ này nghĩa là “chuẩn bị đầy đủ cho một con thuyền vượt biển”. Đối với quân nhân, nó có nghĩa “trang bị vụ khí cho quân đội tham chiến”.
Đấng Christ trên trời muốn trang bị cho chúng ta đầy đủ để sống trên đất. Nói theo cách ngọt ngào, Ngài muốn sửa lại “những chiếc xương bị gãy” trong đời sống chúng ta, hầu cho chúng ta có thể bước đi vững vàng và chạy đến đích thành công trên đường đua sủa sự sống. Ngài muốn vá lại những chỗ rách của chiếc lưới hầu chúng ta có thể lưới được nhiều cá và chinh phục nhiều linh hồn tội nhân. Ngài muốn trang bị cho chúng ta để bước vào cuộc chiến và cung cấp mọi công cụ cần thiết hầu chúng ta không bị vùi dập trong những cơn bão cuộc đời. Tóm lại, Ngài muốn khiến chúng ta tăng trưởng để Ngài có thể hành động trong chúng ta và qua chúng ta, hầu điều đó làm đẹp lòng Ngài và làm trọn ý muốn Ngài.
Ngài trang bị cho chúng ta ra sao? Khi tra xem từ “katartidzo” trong Kinh Thánh (nguyên ngữ Hy-lạp), chúng ta có thể khám phá được những công cụ Đức Chúa Trời dùng để huấn luyện và trang bị cho con cái Ngài. Ngài sử dụng Lời Ngài (IITim 3:16-17) và cầu nguyện (ITês 3:10), trong mối thông công Hội thánh (Eph 4:11-12). Ngài cũng dùng cá nhân các tín-hữu để dạy dỗ và sửa chữa chúng ta (Ga 6:1). Sau cùng, Ngài dùng sự hoạn nạn để khiến con cái Ngài nên trọn vẹn (IPhi 5:10), và điều này có liên quan đến những gì chúng ta đã học trong Hêb 12:1-29 và bị sửa phạt.
Nếu chúng ta biến những câu Kinh Thánh ở Hêb 13:20-21 thành một lời cầu nguyện thường nhật cho bản thân mình, vậy đời sống chúng ta sẽ đổi mới biết bao. “Lạy Chúa, xin hãy khiến con nên trọn vẹn trong mọi việc lành để làm theo ý muốn Ngài. Hãy hành động trong con điều gì đẹp ý Ngài. Xin làm điều đó qua Chúa Giê-xu Christ để danh Ngài được vinh hiển”.
Nền tảng cho công tác kỳ diệu này là “huyết giao-ước đời đồi” (Hêb 13:20). Đây là giao-ước mới đã được luận đến ở Hêb 8:1-13, một giao-ước dựa trên của lễ đã được đề cập ở Hêb 10:1-39 Bởi giao-ước này nằm trong kế hoạch cứu rỗi đời đời của Đức Chúa Trời, và vì giao-ước ấy bảo đảm sự sống đời đời, nên được gọi là “giao-ước đời đời”. Nhưng nếu không có sự chết của Chúa Giê-xu Christ, chúng ta không thể dự phần vào bất kỳ phước hạnh này trong lời chúc lành thâm sâu này.
Chữ “A-men” ở cuối lời chúc phước này đã kết thúc trọng tâm của thư tín Hê-bơ-rơ. Phần còn lại là những lời chào thăm và tin tức riêng.
Tác giả đã viết một bức thư khá dài, trong đó luận đến một số giáo lý thâm sâu khó hiểu. Vì lẽ đó, ông khích lệ người đọc vui lòng “nhận lấy” bức thư khuyên nhủ này. Đối với chúng ta, bức thư dường như rất dài, nhưng tác giả có cảm giác đây chỉ là những lời “viết vắn tắt” (Hêb 13:22). Dĩ nhiên có một số tín-hữu hưởng ứng bức thư này một cách tiêu cực, trong khi những người khác tiếp nhận và làm theo. Phao-lô cũng cho chúng ta biết cách hưởng ứng theo Lới Chúa (ITês 2:13). Bạn hãy đọc câu Kinh Thánh này và thực hành theo.
Chúng ta không rõ Ti-mô-thê có liên hệ gì với nhóm tín hữu này. Ông là người hầu việc Chúa xuất sắc thời bấy giờ, nên hầu hết các Cơ-đốc nhân đều quen biết ông.những chi tiết nội bộ này nhắc nhở chúng ta rằng Đức Chúa Trời luôn quan tâm đến từng cá nhân chớ không chỉ là những đoàn thể.
“Các thánh-đồ ở Y-ta-li gởi lời thăm anh em” (Hêb 13:24) có thể được hiểu rằng tác giả thư tín đang ở Y-ta-li vào thời điểm đó, hoặc các thánh-đồ ở Y-ta-li ở cùng ông và muốn gởi lời chào nhóm tín-hữu này.
Những chi tiết riêng ở cuối thư gợi lên những câu hỏi chúng ta không thể trả lời hôm nay. Nhưng ấn tượng chung của thư tín Hê-bơ-rơ có thê giải đáp một câu hỏi quan trọng: “Làm sao tôi có thể đứng vững vàng giữa một thế giới đang chao đảo quanh mình?” Câu giải đáp sẽ là: Hãy nhận biết Đấng Cao Trọng là Chúa Giê-xu Christ, Hãy nhờ cậy nơi chức tế lễ cao trọng của Ngài, và hãy sống bằng nguyên tắc cao trọng của đức tin. Hãy gây dựng đời sống bạn trên những điều thuộc về thiên đàng, là những điều không bao giờ rúng động.
Hãy vững vàng! Đức Chúa Giê-xu Christ là Đấng có quyền cứu toàn vẹn những kẻ thuộc về Ngài!
bottom of page