top of page

I GIĂNG (2)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Thư Nói Chung



6. KẺ GIẢ MẠO (IGi 3:1-10)


Bộ...

...Tài Chánh Mỹ có một nhóm người đặc biệt có bổn phận theo dõi những kẻ làm giả mạo. Đương nhiên, những người này cần biết một tờ giấy bạc giả khi họ nhìn thấy nó.


Họ học nhận diện những tờ bạc giả như thế nào?

Thật lạ là họ không được huấn luyện bằng cách dành nhiều giờ xem xét những tờ bạc giả. Đúng hơn, họ nghiên cứu bạc thật. Họ trở nên quá quen thuộc với những tờ bạc thật đến nổi họ có thể chỉ ra một tờ bạc giả bằng cách nhìn vào nó hay, thường thì chỉ bằng cách sờ thử nó.


Đây là phương cách trong IGi 3:1-24, báo trước cho chúng ta rằng trong thế giới ngày nay có những Cơ-đốc nhân giả – tức “con cái của ma quỷ” (c.10). Nhưng thay vì liệt kê những đặc tính xấu xa của con cái Sa-tan, Thánh Kinh mô tả con cái Đức Chúa Trời thật rõ ràng cho chúng ta. Sự trái ngược giữa hai bên thật hiển nhiên.


Câu trọng tâm của chương này là câu IGi 10: một con cái thật của Đức Chúa Trời làm theo sự công bình và yêu mến các Cơ-đốc nhân khác bất chấp những sự khác biệt nhau. Câu 1-10 đề cập tới đề tài đầu, và câu 11-24 liên hệ đề tài sau.


Làm theo sự công bình và yêu thương anh em mình, dĩ nhiên, không phải là những chủ đề mới mẻ. Hai đề tài quan trọng này được trình bày trong hai chương đầu của thư tín này, nhưng trong chương 3 phương pháp trình bày khác hẳn. Hai chương đầu nhấn mạnh vào mối thông công: một Cơ-đốc nhân ở trong mối thông công với Đức Chúa Trời sẽ làm theo sự công bình và sẽ yêu thương anh em. Nhưng chương 3-5 nhấn mạnh vào địa vị làm con. Vì một Cơ-đốc nhân được “sanh bởi Đức Chúa Trời,” người ấy sẽ làm theo sự công bình và yêu mến anh em mình.


“Được sanh bởi Đức Chúa Trời” là ý tưởng nền tảng đối với các chương này (IGi 2:29; IGi 3:9; IGi 4:7; IGi 5:1,4,18).


Khi bạn đọc IGi 3:1-10 trong Bản văn Authorized, có thể bạn phải ngạc nhiên vì câu 6 và 9 dường như trái ngược hẳn với IGi 1:8-9. Bản dịch Authorized của các động từ ở đây không chính xác. Điều mà bản văn Hy-lạp thực sự nói là: “Không ai ở trong Ngài mà miệt mài trong tội lỗi không ai miệt mài trong tội lỗi mà từng được thấy Ngài hoặc biết Ngài” (c.6).

“Không ai được sanh bởi Đức Chúa Trời mà miệt mài trong tội lỗi . . . người ấy không thể miệt mài trong tội lỗi vì người được sanh bởi Đức Chúa Trời” (c.9).

“Miệt mài” tội lỗi là cứ phạm tội hoài và điều đó như một lối sống. Nó không nói đến việc thỉnh thoảng mới phạm một tội. Rõ ràng là không Cơ-đốc nhân nào vô tội cả (IGi 1:8-10), nhưng Đức Chúa Trời trông mong một tín đồ chân thật phạm tội ít đi, chứ không phạm tội thường xuyên.


Mọi nhân vật vĩ đại được đề cập đến trong Kinh Thánh có lúc cũng đã phạm tội. Áp-ra-ham nói dối về vợ mình (Sa 12:1-20). Môi-se nổi nóng và bất tuân Đức Chúa Trời (Dan 20:7-13). Phi-e-rơ chối Chúa ba lần (Mat 26:69-75). Nhưng tội lỗi không phải là thói quen không thay đổi được của những người này. Đó là một việc bất ngờ xảy ra trong đời sống họ, hoàn toàn trái ngược với thói quen bình thường của họ. Và khi họ phạm tội, họ thú nhận tội đó và cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho mình.


Một người chưa được cứu (ngay cả nếu người ấy tự xưng là một Cơ-đốc nhân nhưng lại là một tín-đồ giả) sống một đời sống thường xuyên phạm tội. Tội lỗi – đặc biệt là tội vô tín – là một điều bình thường trong đời sống người ấy (Eph 2:1-3). Người ấy không có nguồn cậy trông thiên thượng nào để nương tựa. Sự tuyên xưng đức tin của người ấy, nếu có, là không chân thật.

Đây là điều phân biệt được xem xét trong Eph 3:1-10 – một tín đồ thật không sống trong tội lỗi thường xuyên. Người ấy có thể phạm tội – một hành động sai trật có tính cách không thường xuyên – nhưng người ấy sẽ không miệt mài trong tội lỗi – tức tạo nên một thói quen không thay đổi được của hành động đó.


Sự khác biệt là một Cơ-đốc nhân thật biết Đức Chúa Trời. Một Cơ-đốc nhân giả có thể nói về Đức Chúa Trời và tham gia vào các “hoạt động tôn giáo,” nhưng người ấy không thật sự biết Đức Chúa Trời. Người đã được “sanh bởi Đức Chúa Trời” nhờ đức tin nơi Đấng Christ biết Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Và bởi vì người ấy biết Ba ngôi Đức Chúa Trời, người ấy sống một đời sống vâng lời: người ấy không miệt mài trong tội lỗi.


Giăng nêu cho chúng ta ba lý do để sống một đời sống thánh khiết:

1. Đức Chúa Cha yêu thương chúng ta (IGi 3:1-3)

Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta thì vô nhưng. Câu 1 có thể được dịch là, “Hãy xem, Đức Chúa Cha đã ban cho chúng ta loại tình yêu đặc biệt, khác với thế gian này biết bao.” Trong khi chúng ta là kẻ thù nghịch của Đức Chúa Trời Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con Ngài chết thế chúng ta!


Toàn thể kế hoạch cứu rỗi diệu kỳ bắt đầu với tình yêu của Đức Chúa Trời.


Nhiều dịch giả thêm một phần vào câu IGi 1: “Mà cho chúng ta được gọi là con cái Đức Chúa Trời, và chúng ta thật là con cái Ngài.” “Con Đức Chúa Trời” không chỉ là một danh xưng rỗng tuyếch mà chúng ta mang nó là một thực tế! Chúng ta là con cái Đức Chúa Trời! Chúng ta không trông mong thế gian hiểu mối quan hệ lạ lùng này, vì họ thậm chí không hiểu Đức Chúa Trời. Chỉ người nào biết Đức Chúa Trời qua Đấng Christ mới có thể thấu hiểu đầy đủ việc được gọi là con Đức Chúa Trời có nghĩa gì.


Câu 1 cho chúng ta biết chúng ta hiện là gì và câu 2 cho chúng ta biết chúng ta sẽ là gì. Dĩ nhiên, ở đây ám chỉ thời điểm mà Đấng Christ sẽ trở lại vì cớ Hội thánh Ngài. Điều này được đề cập trong IGi 2:28 như một sự khích lệ để sống thánh khiết, và giờ đây nó được lặp lại.


Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với chúng ta không dừng lại khi chúng ta được sinh lại. Nó tiếp tục suốt cuộc đời chúng ta và đeo đuổi chúng ta đến tận lúc Chúa Giê-xu Christ trở lại! Khi Chúa chúng ta hiện đến, mọi tín đồ thật sẽ trông thấy Ngài và sẽ trở nên giống như Ngài (Phi 3:20,21). Hẳn nhiên, điều này có nghĩa là họ sẽ có thân thể mới vinh hiển, thích hợp với thiên đàng.


Nhưng vị sứ đồ không dừng ở đây! Ông đã cho chúng ta biết chúng ta hiện là gì và chúng ta sẽ là gì. Giờ đây, trong IGi 3:3, ông cho chúng ta biết chúng ta cần phải làm gì. Bởi vì sự trở lại của Đấng Christ, chúng ta cần phải giữ đời sống mình thanh sạch.


Tất cả mọi điều này nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Đức Chúa Cha. Vì Đức Chúa Cha yêu thương chúng ta và sai Con Ngài chết thế chúng ta, chúng ta được làm con cái Đức Chúa Trời. Vì cớ Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, Ngài muốn một ngày kia chúng ta sẽ được sống với Ngài.

Sự cứu rỗi, từ lúc bắt đầu đến khi hoàn tất, là một sự bày tỏ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Chúng ta được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời (Eph 2:8,9 Tit 2:11-15), nhưng sự dự bị cho sự cứu rỗi của chúng ta xuất phát từ tình yêu của Đức Chúa Trời. Và vì chúng ta đã từng trãi tình yêu của Đức Chúa Cha, chúng ta không mong muốn sống trong tội lỗi.


Một người vô tín mà phạm tội thì là một tạo vật phạm tội chống nghịch lại Đấng Tạo Hoá mình. Một Cơ-đốc nhân mà phạm tội thì là một đứa con phạm tội chống nghịch lại Cha mình. Kẻ vô tín phạm tội nghịch lại luật pháp tín-đồ phạm tội nghịch lại tình yêu thương.


Điều này nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa của nhóm từ rất thường được lặp lại trong Thánh Kinh: “sự kính sợ Đức Giê-hô-va”. Nhóm từ này không ám chỉ là con cái Đức Chúa Trời phải sống trong một bầu không khí khiếp sợ, “Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần sợ hãi” (IITi 1:7). Đúng hơn, điều này ám chỉ rằng con cái Đức Chúa Trời phải tôn kính Cha mình và sẽ không cố ý bất tuân Ngài hay thử sự nhịn nhục của Ngài.


Một nhóm thiếu niên đang có một cuộc vui, và có người đề nghị là chúng phải đi đến một nhà hàng nào đó để được vui vẻ.


“Mình muốn bạn đưa mình về nhà,” Jan nói với nhóm bạn hẹn của cô, “cha mẹ mình không thích chỗ đó.”

“Bộ sợ ba bạn sẽ đánh bạn hả?” một trong các cô gái mỉa mai hỏi.

“Không đâu,” Jan đáp, “Mình không sợ ba mình sẽ đánh mình, nhưng mình sợ mình có thể làm ông buồn lòng.”


Cô hiểu nguyên tắc là một con cái thật của Đức Chúa Trời, đã từng kinh nghiệm tình yêu của Đức Chúa Trời, không mong muốn phạm tội nghịch lại tình yêu ấy.


2. Đức Chúa Con đã chết thay chúng ta (IGi 3:4-8)

Ở đây, Giăng chuyển từ sự hiện đến của Chúa Giê-xu trong tương lai (IGi 3:2) sang sự hiện ra của Ngài trong quá khứ (c.5). Giăng nêu hai lý do vì sao Chúa Giê-xu đã đến và đã chết: (1) để cất tội lỗi chúng ta đi (c.4-6), và (2) để huỷ phá công việc của ma quỷ (c.7,8). Đối với một con cái Đức Chúa Trời việc phạm tội nói lên rằng người ấy không hiểu hoặc đánh giá đúng điều Chúa Giê-xu đã thực hiện cho mình trên thập tự giá.


(1) Đấng Christ đã hiện ra để cất tội lỗi chúng ta đi (IGi 3:4-6).

Có nhiều định nghĩa của tội lỗi trong Kinh Thánh: “Bất cứ điều gì không bởi đức tin là tội lỗi” (Rô 14:23).

“Tư tưởng ngu dại là tội lỗi” (Ch 24:9).

“Cho nên, kẻ biết điều lành mà chẳng làm là phạm tội” (Gia 4:17).

“Mọi sự không công bình đều là tội” (IGi 5:17).

Nhưng thư tín Giăng định nghĩa tội là sự trái luật pháp (IGi 3:4). Nó xem tội là sự làm ô uế (IGi 1:9-2:2), nhưng ở đây nó xem tội là sự coi thường, không tuân theo.


Ở đây không nhấn mạnh vào tội lỗi (số nhiều), mà vào tội (số ít): “Hễ ai miệt mài trong tội (số ít).” Tội lỗi (số nhiều) là kết quả, nhưng tội (số ít) là gốc rễ.


Đức Chúa Trời là tình yêu thương không có nghĩa là Ngài không có phép tắc hay luật lệ gì cho gia đình của Ngài. “Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài” (IGi 2:3). “Và chúng ta xin điều chi mặc dầu, thì nhận được điều ấy, bởi chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài và làm những điều đẹp ý Ngài” (IGi 3:22). “Chúng ta biết mình yêu con cái Đức Chúa Trời, khi chúng ta yêu Đức Chúa Trời và giữ vẹn các điều răn Ngài” (IGi 5:2).


Con cái Đức Chúa Trời không bị ràng buộc với luật pháp Cựu-ước, vì Đấng Christ đã giải phóng chúng ta và ban cho chúng ta sự tự do (Ga 5:1-6). Nhưng con cái Đức Chúa Trời cũng không được trái luật pháp! Họ “đối với Đức Chúa Trời không phải là không luật pháp, nhưng ở dưới luật pháp của Đấng Christ” (ICôr 9:21).


Tội lỗi về căn bản là một vấn đề của ý muốn. Về phần chúng ta, khẳng định ý muốn của mình chống nghịch lại ý muốn Đức Chúa Trời là phản loạn, và sự phản loạn là gốc rễ của tội lỗi. Tội lỗi không chỉ đơn giản tự bộc lộ trong hành vi trái luật pháp, mà chính bản chất của tội lỗi là sự trái luật pháp. Dù cho hành vi bên ngoài của một người có tội có thể là gì đi nữa, thái độ bên trong của người ấy vẫn là một thái độ của sự phản loạn.


Cô bé Judy đang đi trong xe hơi với cha cô. Cô quyết định đứng lên trên băng ghế phía trước. Cha cô ra lệnh cho cô ngồi xuống và thắt dây lưng an toàn vào, nhưng cô không chịu. Ông bảo cô lần thứ nhì, nhưng cô bé lại từ chối.

Cuối cùng ông bố nói, “Nếu con không ngồi xuống ngay lập tức, ba sẽ tấp xe vào lề đường và phát vào mông con đấy!”, và trước điều này cô bé chịu nghe theo. Nhưng trong vài phút cô nói thầm, “Ba ơi, trong lòng con vẫn đứng.”

Thật là sự trái luật pháp! Một sự phản loạn! Mặc dù có sự ép buộc từ bên ngoài, nhưng vẫn có sự phản loạn ở bên trong và thái độ này là bản chất của tội lỗi.


Nhưng sau khi một người trở nên con cái Đức Chúa Trời, được tái sinh bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ, người ấy không thể thực hành sự trái luật pháp được! Trước hết, Chúa Giê-xu Christ không hề có tội, và ở trong Ngài có nghĩa là đồng nhất hoá với Đấng vô tội. Và thậm chí hơn thế nữa, Chúa Giê-xu Christ đã chết để cất tội lỗi chúng ta đi!

Nếu chúng ta biết con người của Đấng Christ, và nếu chúng ta có phần trong phước hạnh của sự chết Ngài, chúng ta không thể cố ý bất tuân Đức Chúa Trời. Toàn thể công tác của thập tự giá bị chối bỏ khi một người tự xưng là Cơ-đốc nhân cố tình phạm tội. Đây là một lý do vì sao Phao-lô gọi những người như thế là “kẻ thù nghịch thập tự giá của Đấng Christ” (Phi 3:18,19).


Ai ở trong Ngài thì không miệt mài trong tội” (IGi 3:6).


“Ở” là một trong những từ Giăng ưa thích nhất.

Ở trong Đấng Christ nghĩa là ở trong mối thông công với Ngài, không để bất cứ điều gì xen vào giữa chúng ta với Đấng Christ. Địa vị làm con (việc sanh bởi Đức Chúa Trời) đem đến sự hiệp nhất giữa chúng ta với Đấng Christ nhưng mối thông công khiến sự giao thông của chúng ta với Đấng Christ có thể thực hiện được. Chính sự giao thông này (việc ở) với Đấng Christ giữ chúng ta khỏi cố ý bất tuân Lời Ngài.


Một người cố tình và thường xuyên phạm tội đang chứng tỏ rằng người ấy không biết Đấng Christ và vì vậy không thể đang ở trong Ngài.


Trong sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá không chỉ có sự cứu chuộc chúng ta khỏi sự đoán phạt mà cũng có nhiều điều khác diệu kỳ giống như vậy. Qua sự chết của Ngài, Đấng Christ đã phá tan quyền lực của nguyên tắc tội lỗi trong đời sống chúng ta.

Chủ đề của Rô 6:1-8:39 là sự đồng nhất này với Đấng Christ trong sự chết và sự sống lại của Ngài. Đấng Christ không chỉ chết thay tôi, mà tôi đã chết với Đấng Christ! Giờ đây tôi có thể phó dâng chính mình cho Ngài và tội lỗi sẽ không có quyền thống trị trên tôi.


(2). Đấng Christ đã hiện ra để hủy phá công việc của ma quỷ (IGi 3:7-8).

Lô-gíc ở đây thật rõ rệt: nếu một người biết Đức Chúa Trời, người ấy sẽ vâng lời Đức Chúa Trời nếu người ấy thuộc về ma quỷ, người ấy sẽ vâng lời ma quỷ.


Giăng chấp nhận tính chất xác thực của cá nhân một kẻ ác. Kẻ thù này có nhiều danh hiệu khác nhau trong Thánh Kinh: Sa-tan (kẻ địch, kẻ thù), ma quỉ (kẻ kiện cáo), A-ba-đôn hay A-pô-ly-ôn (kẻ huỷ diệt), vua của thế gian này, con rồng, v.v. . . Dù bạn gọi nó danh hiệu gì, hãy nhớ rằng hoạt động chính yếu của nó là chống lại Đấng Christ và dân sự của Đức Chúa Trời.


Sự đối lập ở đây là giữa Đấng Christ (Đấng không có tội lỗi, c. 5) và ma quỷ (kẻ không thể làm gì ngoài ra phạm tội).


Gốc gác của Sa-tan là một điều bí ẩn.

Nhiều học giả tin nó đã từng là một trong các thiên-sứ cao trọng nhất, được Đức Chúa Trời đặt trên trái đất và trên các thiên-sứ khác, và nó đã phạm tội chống lại Đức Chúa Trời và đã bị quăng xuống (Es 14:9-17; Exe 28:12-14).


Sa-tan không còn đời đời, như Đức Chúa Trời, vì nó là một vật thọ tạo. Nó không được tạo dựng với bản chất tội lỗi. Bản tánh hiện nay của nó là một kết quả của sự phản nghịch trong quá khứ của nó. Sa-tan không giống như Đức Chúa Trời: nó không toàn năng, toàn tri, hay có mặt khắp mọi nơi. Tuy nhiên, nó được trợ giúp bởi một đạo quân của các tạo vật thần linh được biết đến như các quỷ dữ, là những kẻ khiến nó có thể hành động tại nhiều nơi trong cùng một lúc (Eph 6:10-12).


Sa-tan là một kẻ phản nghịch, nhưng Đấng Christ là Con biết vâng lời của Đức Chúa Trời. Đấng Christ “đã vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Phi 2:8). Đấng Christ là Đức Chúa Trời nhưng sẵn lòng trở nên một tôi tớ. Sa-tan là một tôi tớ lại muốn trở thành Đức Chúa Trời. Từ buổi đầu của công việc nó, Sa-tan đã từng là một kẻ có tội, và Đấng Christ đã đến để huỷ phá công việc của ma quỷ.


“Huỷ phá” (IGi 3:8) không có nghĩa là “tiêu diệt.” Sa-tan chắc chắn vẫn còn đang hoạt động ngày nay! Ở đây, “huỷ phá” có nghĩa là “làm cho không còn hiệu quả, cướp đi quyền hành.” Sa-tan đã không bị tiêu diệt, nhưng quyền hành của nó đã bị giảm đi và vũ khí nó đã bị làm cho hư hại. Nó vẫn còn là một kẻ thù mạnh mẽ, nhưng nó không đối địch được với quyền năng của Đức Chúa Trời.


Chúa Giê-xu ví sánh thế gian này với một dinh thự chứa nhiều món hàng quý giá. Một người mạnh sức đang canh giữ dinh thự này (Lu 11:14-23). Sa-tan là người mạnh sức, và “hàng hóa” của nó là những người nam và nữ bị hư mất. Cách duy nhất để giải thoát các “hàng hóa” này là cột người mạnh sức lại, và đó chính là điều Chúa Giê-xu đã làm trên thập tự giá. Chúa Giê-xu, khi đến thế gian, đã xâm chiếm “dinh thự” của Sa-tan.

Khi Ngài chết, Ngài đã bẻ gãy quyền lực của Sa-tan và đoạt được các hàng hóa của nó! Mỗi lần một tội nhân hư mất được chinh phục về cho Đấng Christ, thì lại có thêm “chiến lợi phẩm” của Sa-tan bị tước đoạt khỏi nó.


Suốt nhiều tháng sau khi Thế Chiến II chấm dứt, người ta phát hiện các đội lính Nhật ẩn núp trong các hang động và các rừng già của các đảo ở Thái Bình Dương. Một số trong những người đã tan rã hàng ngũ này đang sống giống như những người man rợ đầy kinh hãi họ không biết chiến tranh đã qua rồi. Một khi hiểu được rằng không còn cần thiết phải chiến đấu nữa, họ đã đầu hàng.


Cơ-đốc nhân có thể yên nghỉ trong lẽ thật là Sa-tan là một kẻ thù đã bị đánh bại. Có thể nó vẫn còn thắng vài chiến trận ở đây đó, nhưng nó đã thua trận chiến rồi! Nó đã bị kết án, nhưng sẽ có một khoảng thời gian trước khi án phạt được ban ra. Một người biết Đấng Christ, và đã được giải phóng khỏi ách của tội lỗi nhờ sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá, không mong muốn vâng theo Sa-tan và sống giống như một kẻ phản nghịch.


“Hỡi các con cái bé mọn, chớ để ai lừa dối mình!” Cơ-đốc nhân giả đang cố tìm cách thuyết phục các tín-đồ thật rằng một người có thể “đã được cứu” tuy nhiên vẫn phạm (mưu đồ) tội. Giăng không phủ nhận rằng Cơ-đốc nhân có phạm tội, nhưng ông thật sự phủ nhận là Cơ-đốc nhân có thể sống trong tội lỗi. Một người có thể ưa thích cố ý phạm tội và không cảm thấy bị cáo trách hay từng trải sự sửa phạt của Đức Chúa Trời tốt hơn nên tự tra xét xem mình đã thực sự được sinh bởi Đức Chúa Trời chưa.


3. Đức Chúa Thánh Linh sống trong chúng ta (IGi 3:9,10)

“Hễ ai sinh bởi Đức Chúa Trời thì không phạm tội!”

Vì sao? Vì người ấy mang trong mình một bản tính mới, và bản tính đó không thể phạm tội. Giăng gọi bản tính này là “hạt giống” của Đức Chúa Trời.


Khi một người nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa của mình, những biến đổi lớn lao về tâm linh xảy ra trong người ấy. Người ấy được ban cho một vị trí mới trước mặt Đức Chúa Trời, được nhận là công bình trong cách nhìn của Đức Chúa Trời. Vị trí mới này được gọi là “sự xưng công bình.” Nó không bao giờ đổi thay và không bao giờ mất đi được.


Cơ-đốc nhân mới cũng được ban cho một địa vị mới: người ấy được biệt riêng cho các mục đích riêng của Đức Chúa Trời để sống cho sự vinh hiển của Ngài. Địa vị mới này được gọi là “sự thánh hóa, ” và nó có một cách thức đổi mới mỗi ngày. Sau một thời gian chúng ta gần gũi với Đấng Christ nhiều hơn và sẵn sàng vâng lời Ngài nhiều hơn.


Nhưng có lẽ sự biến đổi gây ấn tượng sâu sắc nhất trong một tín đồ mới là điều chúng ta gọi là “sự tái sinh.” Người ấy được sinh lại “trong gia đình của Đức Chúa Trời. (“Tái” có nghĩa là “một lần nữa” và “sinh” nghĩa là “sự sinh ra.”)


Sự xưng công bình muốn nói đến một vị trí mới trước mặt Đức Chúa Trời, sự thánh hóa hàm ý được biệt riêng cho Đức Chúa Trời, và sự tái sinh ám chỉ một bản tính mới – bản tính của Đức Chúa Trời (IIPhi 1:4).


Cách duy nhất để bước vào gia đình Đức Chúa Trời là bởi việc tin nơi Đấng Christ và kinh nghiệm sự sinh lại mới mẻ này. “Ai tin Đức Chúa Giê-xu là Đấng Christ thì sinh bởi Đức Chúa Trời” (IGi 5:1).


Sự sống thuộc thể chỉ sinh ra sự sống thuộc thể sự sống thuộc linh sinh ra sự sống thuộc linh.

“Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt hễ chi sinh bởi Thánh Linh là thần” (Gi 3:6).

Cơ-đốc nhân đã được sinh lại, “chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hay hư nát, là bởi Lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (IPhi 1:23). Ấy vậy, “cha mẹ thuộc linh” của một Cơ-đốc nhân là Lời Đức Chúa Trời và Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Thánh Linh của Đức Chúa Trời dùng Lời Đức Chúa Trời để cáo trách tội lỗi và bày tỏ Đấng Cứu Chuộc.


Chúng ta được cứu bởi đức tin (Eph 2:8,9), và “đức tin đến bởi việc người ta nghe, mà người ta nghe, là khi Lời của Đức Chúa Trời được rao giảng” (Rô 10:17). Trong phép lạ của sự tái sinh, Đức Thánh Linh truyền sự sống mới – sự sống của Đức Chúa Trời – vào một tội nhân đã tin nhận Ngài, và kết quả là cá nhân đó được sinh vào trong gia đình của Đức Chúa Trời.


Giống y như con cái về phần xác mang bản tính của cha mẹ chúng, con cái thuộc linh của Đức Chúa Trời cũng mang bản tính của Ngài. “Hạt giống” thiên thượng ở trong họ. Một Cơ-đốc nhân có một bản tính cũ do sự sinh ra về phần xác và một bản tính mới từ sự sinh ra thuộc linh. Tân-ước đối chiếu hai bản tính này và cho chúng những tên gọi khác nhau:

- Bản tánh cũ:

- Bản tánh mới:

“con người cũ của chúng ta” (Ro 6:6)

“con người mới” (Co 3:10)

“xác thịt” (Ga 5:24)

“Thánh Linh” (Ga 5:17)

“giống hay hư nát” (IPhi 1:23)

“hạt giống của Đức Chúa Trời” (IGi 3:9)


Bản tánh cũ sinh ra tội lỗi, nhưng bản tính mới dẫn dắt một người vào một đời sống thánh khiết. Trách nhiệm của một Cơ-đốc nhân là sống theo bản tính mới của mình, chứ không theo bản tính cũ.


Chúng ta có thể minh họa điều này là bằng cách đối chiếu “người bề ngoài” với “người bề trong” (IICôr 4:16). Người thuộc thể cần thức ăn, và người bề trong, hay người thuộc linh cũng vậy. “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng bởi mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Mat 4:4). Nếu một Cơ-đốc nhân không dành thời gian mỗi ngày trong việc suy gẫm Lời Đức Chúa Trời thì người bề trong của người ấy sẽ thiếu năng quyền.


Một người Ấn trở lại đạo giải thích, “Tôi có hai con chó sống trong tôi – một con chó xấu tánh và một con chó tốt. Chúng luôn cắn xé nhau. Con chó xấu tánh muốn tôi làm điều xấu, và con chó tốt lành muốn tôi làm điều tốt. Bạn có muốn biết con chó nào thắng không? Con mà tôi cho ăn nhiều nhất!”


Một Cơ-đốc nhân nuôi bản tính mới bằng Lời Đức Chúa Trời sẽ có năng quyền để sống một đời sống tin kính. Chúng ta “không được chăm nom về xác thịt mà làm cho phỉ lòng dục nó” (Rô 13:14).


Người thuộc thể cần sự thanh tẩy, và người bề trong cũng vậy. Chúng ta rửa tay và mặt thường xuyên. Một tín đồ cần phải nhìn vào tấm gương của Lời Đức Chúa Trời hàng ngày (Gia 1:22-25) và tra xét chính mình. Người ấy phải xưng thú tội lỗi mình và cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ (IGi 1:9). Nếu không thì người bề trong sẽ trở nên ô uế và sự ô uế này sẽ gây ra ảnh hưởng lan truyền và “bệnh tật thuộc linh.”


Tội lỗi chưa được xưng ra là bước đầu tiên trong điều mà Kinh Thánh gọi là “sa ngã”– dần dần quay gót khỏi sự bước đi gần gũi với Đấng Christ để rơi vào một đời sống đầy thế gian mà chúng ta đang sống.


Lời hứa của Đức Chúa Trời, “Ta sẽ chữa lành sự bội nghịch của ngươi” (Giê 3:22), hàm ý rằng sự bội nghịch giống như căn bệnh thuộc thể. Trước hết là sự xâm lấn bí mật của vi trùng bệnh vào thân thể. Tiếp theo là sự nhiễm trùng và có sự suy yếu dần: tinh thần không còn hăng hái, ăn không thấy ngon, không hứng thú trong các sinh hoạt bình thường. Rồi sự suy sụp đến!


Sự sa sút thuộc linh diễn ra theo cách thức tương tự. Trước tiên tội lỗi xâm chiếm chúng ta. Thay vì chống trả nó, chúng ta đầu hàng nó (xin xem Gia 1:14) và sự nhiễm độc bắt đầu. Một sự sa sút dần nối tiếp theo. Chúng ta mất sự ham thích đối với những điều thuộc linh, chúng ta trở nên bơ thờ và thậm chí cáu kỉnh, rồi cuối cùng chúng ta suy sụp.


Phương cách chữa trị duy nhất là xưng ra và lìa bỏ tội lỗi mình và quay về với Đấng Christ để được tẩy sạch và chữa lành.


Người bề trong không chỉ cần thức ăn và sự thanh tẩy, nhưng người ấy cũng cần sự luyện tập. “Hãy luyện tập sự tin kính” (ITim 4:7). Một người ăn mà không vận động (luyện tập) sẽ bị béo phì một người luyện tập mà không ăn sẽ tự giết chết mình đi. Phải có sự quân bình thích đáng.


“Sự luyện tập thuộc linh,” đối với một tín-đồ, bao gồm việc chia sẻ Đấng Christ với người khác, làm những việc lành trong danh Đấng Christ, và giúp đỡ gây dựng các tín-đồ khác. Mỗi Cơ-đốc nhân có ít nhất một ân tứ thuộc linh mà người ấy phải sử dụng cho lợi ích của Hội thánh (ICôr 12:1-11). “Mỗi người trong anh em hãy lấy ơn mình đã được mà giúp lẫn nhau, khác nào người quản lý trung tín giữ các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (IPhi 4:10).


Đây là một lời chú thích sống động về toàn thể quá trình của sự cám dỗ và tội lỗi:

“Chớ có ai đương bị cám dỗ mà nói rằng, ‘Ấy là Đức Chúa Trời cám dỗ tôi! ’ vì Đức Chúa Trời chẳng bị sự ác nào cám dỗ được, và chính Ngài cũng không cám dỗ ai.Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình (bản văn Hiện đại dịch là ‘bị tư dục mình lôi cuốn và quyến rũ’). Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sinh ra tội ác tội ác đã trọn, sinh ra sự chết” (Gia 1:13-15).


Sự cám dỗ thu hút đối với những ước muốn cơ bản tự nhiên của chúng ta. Không có gì là tội lỗi về những ước muốn của chúng ta, nhưng sự cám dỗ đem đến cho chúng ta cơ hội để thỏa mãn những ước muốn này bằng một cách thức xấu xa. Đói không phải là tội lỗi, nhưng thoả mãn cơn đói vượt ngoài ý muốn Đức Chúa Trời là một tội lỗi. Đây là sự cám dỗ đầu tiên Sa-tan giáng xuống Chúa Giê-xu (Mat 4:1-4).


Cả hai thuật ngữ “bị lôi cuốn đi” và “bị quyến rũ” (Gia 1:14) đều liên quan tới việc săn bắn hoặc câu cá: việc đặt mồi vào một cái bẫy hay một móc câu. Con vật (hay con cá) tiến tới và những ham muốn tự nhiên của nó lôi cuốn nó đến miếng mồi. Nhưng khi ngoạm miếng mồi, nó bị mắc vào bẫy, hay bị mắc câu. Và cuối cùng là sự chết.


Sa-tan mắc mồi vào bẫy của nó với những thú vui thu hút bản tính cũ, tức xác thịt. Nhưng không miếng mồi nào của nó thu hút đối với bản tính mới thiên thượng bên trong một Cơ-đốc nhân. Nếu một tín-đồ nhường bước bản tính cũ của mình, người ấy sẽ thèm muốn miếng mồi, chiếm lấy nó, và phạm tội. Nhưng nếu người ấy tuân theo những khuynh hướng của bản tính mới trong mình, người ấy sẽ từ chối miếng mồi và vâng theo Đức Chúa Trời. “Vậy tôi nói rằng, “Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt” (Ga 5:16).


Nhường bước tội lỗi là dấu hiệu nổi bật của “con cái ma quỷ” (IGi 3:10). Họ xưng nhận, hoặc tự xưng, một điều, nhưng họ lại thực hành một điều khác. Sa-tan là một kẻ nói dối và là cha của sự dối trá (Gi 8:44), và con cái nó giống như cha của chúng. “Kẻ nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ điều răn Ngài, là người nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người” (IGi 2:4).

Con cái của ma quỷ cố tìm cách lừa dối con cái Đức Chúa Trời vào việc nghĩ rằng một người có thể là một Cơ-đốc nhân và vẫn còn phạm tội. “Hỡi các con cái bé mọn, chớ để cho ai lừa dối mình kẻ làm sự công bình là người công bình, như chính mình Chúa là công bình” (IGi 3:7).


Các giáo sư giả trong thời của Giăng dạy rằng một Cơ-đốc nhân không cần phải lo lắng về tội lỗi vì chỉ thân xác phạm tội thôi và những gì thân xác làm không hề ảnh hưởng đến tâm linh. Một số người trong bọn họ thậm chí còn dạy dỗ rằng tội lỗi là đương nhiên đối với thân xác, vì thân thể vốn đầy tội lỗi.


Tân-ước vạch trần sự ngu dại của những lời biện hộ cho tội lỗi như thế.


-Trước hết, “bản tính cũ” không phải là thân xác. Thân xác tự nó là trung tính: nó có thể được sử dụng hoặc bởi bản tính tội lỗi cũ hoặc bởi bản tính mới thiên thượng. “Vậy chớ để tội lỗi cai trị trong xác hay chết của anh em, và chớ chìu theo tư dục nó. Chớ nộp chi thể mình cho tội lỗi, như là đồ dùng gian ác, nhưng hãy phó chính mình anh em cho Đức Chúa Trời, dường như đã chết mà nay trở nên sống, và dâng chi thể mình cho Đức Chúa Trời như là đồ dùng của sự công bình” (Rô 6:12,13).


Một con cái Đức Chúa Trời cố gắng thắng hơn những ước muốn của bản tính cũ bằng cách nào? Người ấy phải bắt đầu mỗi ngày bằng việc phó dâng thân thể mình cho Đức Chúa Trời như một của lễ sống (Rô 12:1). Người ấy phải dành thì giờ đọc và học Lời của Đức Chúa Trời, “nuôi dưỡng” bản tính mới của mình. Người ấy phải dành thì giờ để cầu nguyện, cầu xin Đức Chúa Trời đổ đầy Thánh Linh trên mình và ban cho mình năng quyền để hầu việc Đấng Christ và tôn vinh Ngài.


Khi một tín-đồ sống mỗi ngày, người ấy phải lệ thuộc vào năng quyền của Đức Thánh Linh trong lòng mình. Khi những cám dỗ đến, người ấy phải lập tức hướng về Đấng Christ để được sự đắc thắng.


Lời Đức Chúa Trời trong lòng người ấy sẽ giúp giữ người ấy khỏi tội lỗi miễn là người ấy sẽ hướng về Đấng Christ. “Tôi đã giữ Lời Chúa trong lòng tôi, để tôi khỏi phạm tội cùng Chúa” (Thi 119:11). Nếu người ấy thực sự phạm tội, người ấy phải lập tức xưng tội với Đức Chúa Trời và cầu xin sự tha thứ. Bằng cách dâng thân thể mình cho Thánh Linh bên trong lòng, người ấy sẽ nhận được năng quyền mình cần để thắng hơn kẻ cám dỗ.


Một thói quen tốt là nắm lấy lời hứa của Đức Chúa Trời: “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có điều nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu đựng được” (ICôr 10:13).


Một giáo viên Trường Chúa Nhật đang giải thích hai bản tính của Cơ-đốc nhân – bản tính mới và bản tính cũ – cho một lớp thiếu niên.

“Bản tánh cũ của chúng ta ra từ A-đam,” giáo viên ấy giải thích, “và bản tính mới của chúng ta đến từ Đấng Christ, được gọi là ‘A-đam cuối cùng.’” Ông yêu cầu lớp đọc ICôr 15:45: “Ấy vậy có lời chép rằng: ‘Người thứ nhứt là A-đam đã nên linh hồn sống.’ A-đam sau hết là thần ban sự sống”


“Điều này có nghĩa là có hai ‘A-đam’ sống trong em,” một trong các thiếu niên nói.

“Đúng vậy,” giáo viên đáp. “Và giá trị thực tiễn của lẽ thật này là gì?”


Lớp học im lặng một lúc, rồi một học viên phát biểu.

“Ý tưởng về “hai A-đam” thực sự giúp em trong việc chống lại sự cám dỗ,” em đó nói. “Khi cám dỗ đến gõ cửa lòng em, nếu em cử A-đam thứ nhứt ra mở cửa, em sẽ phạm tội. Nhưng nếu em cử A-đam sau cùng, em sẽ được đắc thắng.”


Một tín-đồ thật không sống trong tội một tín-đồ giả không thể không sống trong tội, vì người ấy không có bản tính mới của Đức Chúa Trời trong mình. Người tín đồ thật cũng yêu các Cơ-đốc nhân khác, là điều đã được thảo luận chi tiết trong IGi 3:11-24.


Nhưng những lời này không phải được viết ra để bạn và tôi có thể kiểm tra những người khác. Chúng được linh cảm để chúng ta có thể tra xét chính mình. Mỗi người trong chúng ta phải thành thật trả lời trước mặt Đức Chúa Trời:


1. Tôi có bản tính thiên thượng bên trong mình không hay tôi chỉ đang giả vờ là một Cơ-đốc nhân?

2. Tôi có nuôi dưỡng bản tính thiên thượng này bằng cách đọc Kinh Thánh và cầu nguyện hàng ngày không?

3. Có bất cứ tội lỗi nào chưa được xưng ra đã làm ô uế người bề trong của tôi không? Tôi có sẵn lòng xưng tội ra và lìa bỏ nó không?

4. Tôi có để cho bản tính cũ của mình điều khiển những ý tưởng và ước muốn của tôi không, hay bản tính thiên thượng cai trị tôi?

5. Khi những sự cám dỗ đến, tôi có “đùa với nó” không hay tôi chạy trốn khỏi nó? Tôi có lập tức chịu khuất phục bản tính thiên thượng trong tôi không?


Sự sống thực thành thật với Đức Chúa Trời về những vấn đề quan trọng này.



 


7. TÌNH YÊU HAY SỰ CHẾT (IGi 3:11-4:6)



Thư tín Giăng đã được ví sánh như một cầu thang hình trôn ốc vì ông cứ trở lại ba đề tài tương tự: tình yêu thương, sự vâng lời, và lẽ thật. Mặc dù những chủ đề này trở lại, thế nhưng không đúng là chúng chỉ có tính cách lặp đi lặp lại. Mỗi lần chúng ta trở lại với một đề tài, chúng ta nhìn vấn đề từ một quan điểm khác hẳn và được hiểu thấu đáo hơn về đề tài đó.


Chúng ta đã học về tình yêu thương đối với các tín-đồ khác – “những anh em” (IGi 2:7-11) – nhưng chương 2 chỉ nhấn mạnh vào mối thông công. Một tín-đồ “đang bước đi trong sự sáng” sẽ chứng tỏ điều đó bằng việc yêu thương anh em mình.Trong phần này, Giăng nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa người ấy với các tín-đồ khác.


Cơ-đốc nhân yêu thương nhau vì tất cả đều được sinh bởi Đức Chúa Trời, và điều đó khiến tất cả đều là anh chị em trong Đấng Christ.


Sự vâng lời và tình yêu thương cả hai đều là những bằng chứng của địa vị làm con và tình anh em. Chúng ta đã được nhắc nhở rằng một con cái thật của Đức Chúa Trời làm theo sự công bình (IGi 3:1-10), và giờ đây chúng ta sẽ xem xét kỹ vấn đề tình yêu thương đối với anh em (c.11-24). Lẽ thật này trước tiên được nêu lên trong ý tiêu cực – “Ai chẳng làm điều công bình là không thuộc về Đức Chúa Trời, kẻ chẳng yêu anh em mình cũng vậy” (c.10).


Chúng ta cần phải lưu ý sự khác biệt nổi bật giữa cách cư xử của tình yêu thương anh em trước đây và hiện nay. Trong phần nói về mối thông công (IGi 2:7-11), chúng ta được biết rằng việc yêu thương anh em mình là một vấn đề của sự sáng và sự tối tăm. Nếu chúng ta không yêu thương nhau, chúng ta không thể bước đi trong sự sáng, dù cho chúng ta có lớn tiếng tuyên xưng đức tin mình thế nào đi nữa.

Nhưng trong phần nói về tình anh em này (IGi 3:11-24), vị sứ-đồ trình bày cặn kẽ hơn nhiều. Chúng ta được biết rằng việc yêu anh em là một vấn đề của sự sống và sự chết. “Ai chẳng yêu anh em mình thì ở trong sự chết” (c.14).


Khi đề cập đến vấn đề của tình yêu thương này, có thể nói có 4 mức độ quan hệ, mà một người có thể sống dựa vào: sự giết người (c.11-12), lòng ghen ghét (c.13-15), sự dửng dưng (c.16-17), và lòng thương xót của Đấng Christ (c.18-24).


Hai mức độ đầu không mang tính Cơ-đốc chút nào, mức độ thứ ba kém hơn bản tính Cơ-đốc, và chỉ mức độ cuối cùng mới tương hợp với tình yêu thương Cơ-đốc chân thật.


1. Sự giết người (IGi 3:11-12)

Sự giết người, dĩ nhiên, là mức độ thấp nhất mà một người có thể sống trong mối quan hệ với một người nào khác. Đó là mức độ mà chính Sa-tan dựa vào để tồn tại. Ma quỷ là một kẻ giết người từ buổi đầu của tiến trình sa ngã của nó (Gi 8:44), nhưng Cơ-đốc nhân đã được nghe, từ kinh nghiệm buổi đầu của họ, rằng họ phải “yêu thương nhau.”

Giăng nhấn mạnh những sự khởi đầu: “Hãy trở lại buổi ban đầu.” Nếu từng trải thuộc linh của chúng ta bắt nguồn từ Đức Chúa Cha, chúng ta phải yêu thương nhau. Nhưng nếu nó bắt nguồn từ Sa-tan, chúng ta sẽ ghen ghét lẫn nhau. “Còn như các con, điều mình đã nghe từ lúc ban đầu phải ở trong các con” (IGi 2:24).


Ca-in là một thí dụ của một đời sống đầy ghen ghét chúng ta tìm thấy sự ký thuật này trong Sa 4:1-16. Điều quan trọng cần lưu ý là Ca-in và A-bên, là anh em, cùng chung cha mẹ, và cả hai đều đem tế lễ dâng lên Đức Chúa Trời. Thánh Kinh không giới thiệu Ca-in là một người vô thần ông được giới thiệu như một người thờ phượng Đức Chúa Trời.

Và đây là vấn đề: con cái của ma quỷ có thể giả dạng làm tín-đồ thật. Chúng tham dự các buổi nhóm họp tôn giáo, như Ca-in đã làm. Chúng có thể thậm chí đem dâng của lễ. Nhưng những việc làm này tự nó không phải là bằng chứng có giá trị chứng tỏ rằng một người được sinh bởi Đức Chúa Trời. Sự thử nghiệm đích thực là tình yêu thương của người ấy đối với anh em mình – và tại đây Ca-in đã thất bại.


Mỗi người đều có “một dòng dõi thuộc linh” cũng như thuộc thể, và “Cha thuộc linh” của Ca-in là ma quỷ. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là Sa-tan theo nghĩa đen đã sinh ra Ca-in. Đúng hơn, nó có nghĩa là những thái độ và hành động của Ca-in xuất phát từ Sa-tan. Ca-in là một kẻ giết người và một kẻ nói dối giống như Sa-tan (Gi 8:44). Ông giết em mình, và rồi nói dối về việc đó. “Đức Giê-hô-va hỏi Ca-in rằng: ‘A-bên, em ngươi ở đâu?’ Và người nói: ‘Tôi không biết’” (Sa 4:9).


Tương phản với điều này, Đức Chúa Trời là tình yêu thương (IGi 4:8) và lẽ thật (IGi 5:6; Gi 14:6) vì vậy, những ai thuộc về gia đình của Đức Chúa Trời làm theo tình yêu thương và lẽ thật.


Sự khác biệt giữa của lễ của Ca-in và của lễ của A-bên là đức tin (Hêb 11:4), và đức tin luôn dựa vào sự mạc khải Đức Chúa Trời ban cho (Rô 10:17). Dường như rõ ràng là Đức Chúa Trời hẳn đã ban những sự chỉ dạy tận tường liên quan tới việc Ngài sẽ phải được thờ phượng như thế nào. Ca-in khước từ Lời Đức Chúa Trời và quyết định thờ phượng theo cách thức riêng của mình.

Điều này cho thấy mối quan hệ của ông với Sa-tan, vì Sa-tan luôn thích thú trong việc làm cho con người xoay hướng khỏi ý chỉ đã được mạc khải của Đức Chúa Trời. Lời nói của ma quỷ “Mà chi, Đức Chúa Trời há có phán?” (Sa 3:1) là khởi đầu của tai họa cho cha mẹ của Ca-in và cho cả nhân loại kể từ đó.


Chúng ta không được cho biết bởi dấu hiệu bên ngoài nào Đức Giê-hô-va đã chấp nhận của lễ của A-bên và khước từ của lễ của Ca-in. Có thể là Ngài đã sai lửa từ trời thiêu hoá của lễ bằng con sinh tế và huyết của nó do A-bên dâng lên.

Nhưng chúng ta được cho biết những kết quả xảy ra: A-bên lui ra khỏi bàn thờ với lời chứng về sự chấp nhận của Đức Chúa Trời trong lòng, nhưng Ca-in đi ra giận dữ và thất vọng (Sa 4:4-6). Đức Chúa Trời cảnh cáo Ca-in rằng tội lỗi đang rình rập trước cửa như một con thú nguy hiểm (Sa 4:7) nhưng hứa rằng nếu Ca-in vâng lời Đức Chúa Trời, giống như A-bên, thì sẽ hưởng được sự bình an.


Thay vì chú ý đến lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, Ca-in lắng tai nghe lời của Sa-tan và âm mưu giết em mình. Lòng ganh tị của ông đã biến thành sự căm giận và ghen ghét. Ông biết rằng ông xấu xa còn em ông thì công bình. Đúng ra phải ăn năn, như Đức Chúa Trời đã truyền phán, ông quyết định thủ tiêu em mình.


Nhiều thế kỷ sau đó, những người Pha-ri-si đã làm điều tương tự với Chúa Giê-xu (Mac 15:9,10), và Chúa Giê-xu cũng gọi họ là con cái của ma quỉ (Gi 8:44).


Thái độ của Ca-in tiêu biểu cho thái độ của hệ thống thế gian hiện nay (IGi 3:13). Thế gian ghen ghét Đấng Christ (Gi 15:18-25) vì lý do tương tự như Ca-in đã ghen ghét A-bên: Đấng Christ phơi bày tội lỗi của thế gian và bày tỏ bản chất thật của nó. Khi thế gian, giống như Ca-in, đối mặt với thực tế và lẽ thật, nó có thể chọn chỉ một trong hai quyết định mà thôi: ăn năn và đổi mới, hoặc thủ tiêu người phơi bày tội lỗi.


Sa-tan là “vua chúa thế gian này” (Gi 14:30), và nó điều khiển thế gian qua việc giết người và những lời dối trá. Thật kinh khiếp biết bao khi sống dựa trên cùng mức độ như Sa-tan!


Một thợ săn ẩn núp trong một hang động suốt cơn mưa bão. Sau khi quần áo đã khô đôi chút, anh quyết định thăm dò chỗ ở tạm của mình và bật đèn pin lên. Hãy hình dung nỗi ngạc nhiên của anh khi khám phá ra rằng anh đang ở chung hang với đủ loại nhện, thằn lằn, và rắn! Sự chết thật chỉ trong gang tấc đối với anh.


Nếu thế gian chưa được cứu chỉ có thể nhìn thấy thôi, nó sẽ nhận ra rằng nó đang sống dựa trên mức độ thấp kém của sự giết người và những lời dối trá, bao vây bởi con rắn xưa là Sa-tan và tất cả các đạo binh quỷ dữ của nó.

Giống như Ca-in, những người thuộc thế gian cố gắng che đậy bản chất thật của họ với những nghi thức tôn giáo nhưng họ thiếu đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời. Những người tiếp tục sống dựa trên mức độ này cuối cùng sẽ bị quăng vào nơi tối tăm cùng với Sa-tan để chịu phân cách khỏi Đức Chúa Trời đời đời.


2. Lòng ghen ghét (IGi 3:13-15)

Về mặt này, có lẽ bạn đang nghĩ, “Nhưng tôi chưa bao giờ giết ai cả!” Và đối với lời phát biểu này, Đức Chúa Trời đáp, “Đúng thế, nhưng hãy nhớ rằng đối với một Cơ-đốc nhân tội ghen ghét cũng giống như tội giết người vậy” (c.15 Mat 5:22). Sự khác biệt duy nhất giữa Mức độ 1 và Mức độ 2 là hành vi bên ngoài của việc cướp đoạt sự sống. Nhưng dụng ý bên trong thì như nhau.


Một du khách đến thăm sở thú đang trò chuyện với người trông coi chuồng sư tử.

“Tôi có một con mèo ở nhà,” du khách nói, “và mấy con sư tử của ông hành động y hệt như con mèo của tôi. Ông hãy nhìn xem chúng ngủ thật an bình! Có thể xem là một điều đáng xấu hổ khi ông nhốt những sinh vật xinh đẹp đó đàng sau những chấn song.”

“Này ông bạn,” người giữ thú cười to, “những con vật này có thể trông như con mèo của ông, nhưng tính khí chúng hoàn toàn khác hẳn. Có ý đồ giết hại người trong lòng chúng. Tốt hơn ông nên vui mừng vì có những song sắt ở đó.”


Lý do duy nhất một số người chưa bao giờ thật sự giết ai là vì cớ “những chấn song” đã được dựng lên: nỗi sợ hãi bị bắt giữ và nhục nhã, sự hình phạt của pháp luật, và cái chết có thể xảy ra. Nhưng chúng ta sẽ bị đoán phạt bởi “luật pháp của sự tự do” (Gia 2:12).

Câu hỏi không phải nghiêng về phía “Bạn đã làm gì?” mà là “Bạn muốn làm gì?” “Bạn có thể đã làm gì nếu bạn được tự do để làm theo điều mình thích?” Đây là lý do vì sao Chúa Giê-xu coi sự ghen ghét ngang hàng với giết người (Mat 5:21-26) và tham muốn ngang hàng với tội tà dâm (Mat 5:27-30).


Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là sự ghen ghét trong lòng gây ra sự thiệt hại tương đương, hay bao hàm mức độ tội lỗi tương đương, như việc giết người thật sự. Người lân cận của bạn thích bạn ghét họ hơn là giết chết họ! Nhưng trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, sự ghen ghét, về đạo đức, cũng tương đương như tội giết người, và nếu không kiềm chế nó sẽ đưa đến sự giết người.

Một Cơ-đốc nhân đã vượt từ sự chết sang sự sống (Gi 5:24), và bằng chứng của điều này là người ấy yêu thương anh em mình. Khi người ấy thuộc về hệ thống thế gian, người ấy ghen ghét dân sự Đức Chúa Trời nhưng giờ thì người ấy thuộc về Đức Chúa Trời, người ấy yêu thương dân sự Ngài.


Những câu này (IGi 3:14,15), giống những câu đề cập tới tội lỗi có tính cách thói quen trong một tín đồ (IGi 1:5-2:6), quan tâm tới một thói quen không thay đổi trong đời sống: một tín đồ đang thực hành tình yêu thương anh em mình, mặc dầu đôi lúc người ấy có thể nổi giận với một anh em (Mat 5:22-24).

Những sự giận dữ bất ngờ thỉnh thoảng xảy ra không làm cho nguyên tắc này ra vô hiệu. Nếu có sự giận dữ nào, chúng xác nhận nguyên tắc này là đúng, vì một tín đồ không ở trong mối thông công với các anh em Cơ-đốc của mình là một người thật khốn khổ! Những cảm xúc của người ấy chỉ rõ cho người ấy rằng có điều gì đó đang sai trật.


Hãy lưu ý một thực tế khác: chúng ta không được cho biết là những kẻ giết người không thể được cứu. Chính sứ-đồ Phao-lô đã góp một tay vào việc ném đá Ê-tiên (Công 7:57-60) và thú nhận rằng sự cổ vũ của ông đã khiến những người vô tội phải bị giết chết (ITim 1:12-15; Công 26:9-11). Nhưng Đức Chúa Trời đã cứu Phao-lô bởi ân-điển Ngài.


Vấn đề ở đây không phải là liệu một kẻ giết người có thể trở thành một Cơ-đốc nhân không, nhưng là liệu một người có thể tiếp tục là một kẻ giết người mà vẫn là một Cơ-đốc nhân không? Câu trả lời là ‘Không.’ “Anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình” (IGi 3:15b). Kẻ giết người không phải đã từng có sự sống đời đời và rồi đánh mất nó người ấy chưa bao giờ có sự sống đời đời cả.


Sự kiện bạn chưa bao giờ thật sự giết ai không được khiến cho bạn kiêu ngạo hay tự mãn. Bạn có từng nuôi dưỡng sự ghen ghét hận thù trong lòng không?


Sự ghen ghét gây thiệt hại cho người ghen ghét bội phần hơn là cho bất cứ ai khác (Mat 5:21-26). Vào thời của Thánh Kinh sự giận dữ khiến một người có nguy cơ phải đối diện với toà án địa phương. Việc gọi một anh em là “đồ ngu dốt đần độn” khiến người ấy có nguy cơ phải bị đưa ra Tòa Công Luận, hội đồng cao nhất của người Do-thái. Nhưng việc gọi một anh em là “đồ điên” khiến người ấy có nguy cơ bị đoán xét đời đời trong địa ngục. Sự ghen ghét chưa được xưng ra và lìa bỏ thực sự khiến một người bị nhốt trong một ngục tù của xúc cảm và tâm linh (c. 25)!


Thuốc giải độc của lòng ghen ghét là tình yêu thương. “Đáng ghét và ghét lẫn nhau” là một kinh nghiệm của người chưa được cứu (Tit 3:3). Nhưng khi một tấm lòng đáng ghét rộng mở cho Chúa Giê-xu Christ , nó trở thành một tấm lòng đầy yêu thương. Rồi thay vì muốn “giết hại” những người khác qua sự ghen ghét, người ấy mong muốn yêu thương họ và chia sẻ với họ sứ điệp của sự sống đời đời.


Nhà truyền-đạo Phúc-Âm John Wesley, vị lãnh đạo của Hội thánh Giám Lý, một đêm nọ đã bị một tên cướp xa lộ chặn lại và đoạt hết số tiền ông mang theo trong người. Wesley nói với tên cướp, “Nếu đến một ngày nào đó anh mong ước rời bỏ con đường xấu xa này và sống cho Đức Chúa Trời, xin hãy nhớ là ‘huyết của Chúa Giê-xu Christ tẩy sạch mọi tội lỗi.’”


Một vài năm sau, Wesley bị một người chặn lại sau một buổi thờ phượng của Hội thánh. “Ông còn nhớ tôi không?” người này hỏi. “Một đêm nọ tôi đã cướp tiền của ông, và ông bảo tôi rằng huyết của Chúa Giê-xu Christ tẩy sạch mọi tội lỗi. Tôi đã tin nơi Đấng Christ, và Ngài đã đổi mới đời sống tôi.”


3. Sự dửng dưng (IGi 3:16-17)

Nhưng sự thử nghiệm của tình yêu thương Cơ-đốc không chỉ là không làm điều ác cho người khác. Tình yêu thương cũng bao gồm việc làm điều lành cho họ. Tình yêu thương Cơ-đốc vừa tích cực và tiêu cực. “Hãy thôi (tránh) việc làm ác hãy học làm lành” (Es 1:16-17a).


• Ca-in là tấm gương của chúng ta về tình yêu giả dối,

• Đấng Christ là gương mẫu của chúng ta về tình yêu Cơ-đốc chân thật. Đấng Christ đã phó mạng sống Ngài cho chúng ta hầu cho chúng ta có thể kinh nghiệm lẽ thật. Mọi Cơ-đốc nhân đều biết Gi 3:16, nhưng bao nhiêu người trong chúng ta lưu ý nhiều đến IGi 3:16?

Thật tuyệt diệu khi từng trải phước hạnh của Gi 3:16, nhưng thậm chí còn tuyệt diệu hơn nhiều khi chia sẻ kinh nghiệm đó bởi việc vâng theo IGi 3:16: Đấng Christ đã vì chúng ta bỏ sự sống chúng ta cũng nên bỏ sự sống vì anh em mình.


Tình yêu thương Cơ-đốc bao gồm sự hy sinh và phục vụ. Đấng Christ không chỉ nói về tình yêu của Ngài Ngài đã chết để chứng tỏ điều đó (Rô 5:6-10). Chúa Giê-xu không bị giết chết như một người tuận đạo. Ngài sẵn lòng phó sự sống Ngài (Gi 10:11-18; Gi 15:13). “Sự tự bảo toàn mạng sống” là quy luật đầu tiên của sự sống thuộc thể nhưng “sự hy sinh, quên mình” là quy luật đầu tiên của sự sống thuộc linh.


Nhưng Đức Chúa Trời không đòi hỏi chúng ta phó sự sống mình. Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta giúp đỡ anh em mình khi thiếu thốn, lúc hoạn nạn khó khăn. Giăng khôn khéo chuyển từ chữ “anh em” (số nhiều) trong IGi 3:16 sang chữ “anh em mình” (số ít) trong IGi 3:17.


Chúng ta dễ nói về “việc yêu thương anh em mình” nhưng lại bỏ mặc không giúp đỡ một tín-đồ nào khác. Tình yêu thương Cơ-đốc có tính cách cá nhân và tích cực.


Đây là điều Chúa Giê-xu không quên trong câu chuyện ngụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành (Lu 10:25-37). Một thầy dạy luật muốn nói về một đề tài trừu tượng: “Kẻ lân cận của tôi là ai?” Nhưng Chúa Giê-xu tập trung sự chú ý vào một người đang gặp nạn và đổi câu hỏi lại là, “Tôi có thể là kẻ lân cận của ai?”


Hai người bạn đang tham dự một hội nghị về việc truyền giảng Phúc-Âm. Trong suốt một buổi họp, Larry không trông thấy Pete. Vào giờ ăn trưa, khi gặp Pete, anh nói, “Tôi không trông thấy anh tại buổi họp hồi 10 giờ sáng. Thật là một buổi tuyệt vời. Anh đi đâu vậy?”

“Tôi ở ngoài hành lang nói chuyện với một người về Đấng Christ. Tôi đã đưa anh ta đến với Chúa,” Pete nói.


Không có gì sai trật với việc tham dự các hội nghị, nhưng chúng ta dễ mà quên đi các cá nhân và nhu cầu của họ trong khi thảo luận những cái chung chung. Sự thử nghiệm của tình yêu thương Cơ-đốc không phải trong những sự tuyên bố ầm ĩ về việc yêu thương toàn thể Hội thánh, mà trong việc yên lặng giúp đỡ một anh em đang gặp khó khăn. Nếu chúng ta thậm chí không giúp đỡ một người anh em, thì không thể nào chúng ta sẽ “phó sự sống mình” cho “anh em mình” được.


Một người không cần phải giết người để phạm tội: sự ghen ghét là tội giết người trong lòng rồi. Nhưng thậm chí một người không cần ghét anh em mình để phạm tội. Người đó chỉ cần bỏ mặc người anh em hay dửng dưng đối với nhu cầu của anh ta. Một tín-đồ có của cải vật chất và có thể giúp đỡ nhu cầu của anh em mình cần phải làm điều đó. “Việc đóng cửa lòng” đối với anh em mình là một loại giết người rồi!


Nếu tôi có ý định giúp anh em mình, tôi phải đáp ứng ba điều kiện.

-Trước hết, tôi phải có những phương tiện cần thiết để thỏa đáp nhu cầu người ấy.

-Thứ nhì, tôi phải biết rằng nhu cầu ấy hiện có.

-Thứ ba, tôi phải yêu thương đủ để mong muốn được san sẻ.


Một tín-đồ quá nghèo không thể giúp đỡ người khác, hoặc không biết gì về nhu cầu của anh em mình, thì không bị lên án. Nhưng một tín đồ cứng lòng trước anh em mình đang nghèo túng thì bị lên án. Một lý do khiến Cơ-đốc nhân cần phải làm việc là để họ có thể có khả năng “giúp người túng thiếu” (Eph 4:28).


Trong thời đại mà các cơ quan đoàn thể xã hội tăng lên gấp bội này, các Cơ-đốc nhân rất dễ quên đi nghĩa vụ của họ. “Vậy đang khi có dịp tiện, chúng ta hãy làm việc thiện cho mọi người, nhất là cho những anh chị em trong cùng gia đình đức tin” (Ga 6:10).


“Việc làm điều thiện” này không cần phải là vấn đề tiền bạc hay sự chu cấp về vật chất. Nó có thể bao gồm sự phục vụ có tính cách cá nhân và việc cống hiến chính mình cho những người khác. Có nhiều cá nhân trong các Hội thánh của chúng ta đang thiếu tình yêu thương và mong nhận được tình bằng hữu.


Một người mẹ trẻ thú nhận, trong một buổi làm chứng, rằng bà chưa bao giờ dường như tìm được thời giờ cho việc cầu nguyện cá nhân của riêng mình. Bà có nhiều con nhỏ để chăm sóc, và thì giờ trôi mất hết.


Hãy hình dung sự ngạc nhiên của bà khi hai trong các phụ nữ của Hội thánh xuất hiện ở trước cửa nhà bà.


“Chúng tôi đến để làm giúp chị,” họ giải thích. “Chị hãy vào phòng và bắt đầu cầu nguyện riêng đi.” Sau nhiều ngày được giúp đỡ như thế, người mẹ trẻ có thể phát triển đời sống cầu nguyện của mình để rồi những yêu cầu về thời gian của bà hàng ngày không còn làm bà bối rối nữa.


Nếu chúng ta muốn kinh nghiệm và tận hưởng tình yêu của Đức Chúa Trời trong chính tấm lòng mình, chúng ta phải yêu thương những người khác, thậm chí đến mức phải hy sinh. Việc dửng dưng đối với nhu cầu của một anh em có nghĩa là tự tước đoạt đi điều chúng ta càng cần nhiều hơn nữa: tình yêu của Đức Chúa Trời trong lòng mình. Đó là một vấn đề của tình yêu hay sự chết!


4. Tình yêu thương Cơ-đốc (IGi 3:18-24)

Tình yêu Cơ-đốc chân thật nghĩa là yêu thương bằng việc làm và bằng lẽ thật. Điều trái ngược với “bằng việc làm” là “bằng lời nói, ” và điều trái ngược với “bằng lẽ thật” là “bằng lưỡi.” Đây là một thí dụ của tình yêu thương “bằng lời nói”:

“Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hàng ngày, mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng, ‘Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm, ăn cho no’, nhưng không cho họ đồ dùng về phần xác, thì có ích gì chăng?” (Gia 2:15-16).


• Yêu thương “bằng lời nói” nghĩa là chỉ nói về một nhu cầu, nhưng yêu thương “bằng việc làm” nghĩa là làm một điều gì đó để đáp ứng nhu cầu đó. Bạn có thể cho rằng, vì bạn đã bàn luận về một nhu cầu, hoặc thậm chí đã cầu nguyện về nhu cầu đó, là bạn đã thực hiện bổn phận của mình, nhưng tình yêu thương bao gồm nhiều hơn lời nói – nó đòi hỏi những việc làm có tính cách hy sinh.


• Yêu thương “bằng lưỡi (bản dịch mới: nơi chót lưỡi)” là điều trái ngược của yêu thương “bằng lẽ thật.” Nó có nghĩa là yêu thương không thành thật. Yêu thương “bằng lẽ thật” nghĩa là yêu thương một người cách chân tình, từ tấm lòng chứ không chỉ từ đầu môi chót lưỡi. Người ta được thu hút bởi tình yêu thương chân thật, nhưng bị đẩy ra xa bởi loại tình yêu giả tạo. Một lý do tội nhân được thu hút đến với Chúa Giê-xu (Lu 15:1,2) là vì họ chắc chắn Ngài yêu họ chân thật.


“Nhưng người tín-đồ không phải trả giá nhiều để thực hành loại tình yêu này sao?”


Có chứ. Chúa Giê-xu Christ đã phải trả giá bằng chính mạng sống Ngài. Nhưng những lợi ích lạ lùng đến với bạn như sản phẩm phụ của tình yêu thương này nhiều hơn là đền bù cho bất cứ sự hy sinh nào của bạn. Thật ra, bạn không yêu người khác vì bạn muốn nhận trở lại một điều gì đó, nhưng nguyên tắc của Kinh Thánh, “Hãy cho, thì các con sẽ được ban cho” (Lu 6:38), ứng dụng đối với tình yêu thương cũng như đối với tiền bạc.


Giăng nói rõ ba phước hạnh diệu kỳ sẽ đến với một tín-đồ thực hành tình yêu thương Cơ-đốc.


1. Sự đảm bảo (IGi 3:19,20).

Mối quan hệ giữa một tín-đồ với người khác ảnh hưởng mối quan hệ giữa người ấy với Đức Chúa Trời. Một người không hòa thuận với anh em mình cần phải giải quyết vấn đề trước khi người ấy dâng của lễ mình trên bàn thờ (Mat 5:23,24).

Một Cơ-đốc nhân thực hành tình yêu thương lớn lên trong sự thông hiểu lẽ thật của Đức Chúa Trời và có được một tấm lòng đầy sự tin quyết trước mặt Đức Chúa Trời.


Một “tấm lòng lên án” là tấm lòng cướp đi sự bình an của một tín đồ. Một “lương tâm cáo trách” là một cách khác để mô tả điều đó. Đôi khi tấm lòng cáo trách chúng ta sai, vì nó “dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa, ai có thể biết được?” (Giê 17:9).

Lời giải đáp cho vấn đề đó là, “Đức Chúa Trời nhìn biết tấm lòng!” Có khá nhiều Cơ-đốc nhân đã lên án chính mình cách sai trật, hoặc đã nghiêm khắc với chính mình hơn là điều cần thiết nhưng Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ phạm một lỗi lầm như thế.

Một Cơ-đốc nhân bước đi trong tình yêu thương có một tấm lòng rộng mở với Đức Chúa Trời (“Đức Chúa Trời là tình yêu thương”) và biết rằng Đức Chúa Trời không bao giờ phán xét sai trật cả. Giăng có thể đã nhớ hai sự kiện trong cuộc đời Chúa Giê-xu trên đất minh hoạ nguyên tắc quan trọng này.

Khi Chúa Giê-xu đến thăm làng Bê-tha-ni, Ngài ở lại tại nhà của Ma-ri và Ma-thê (Lu 10:38-42). Ma-thê bận rộn lo chuẩn bị bữa ăn, nhưng Ma-ri ngồi dưới chân Ngài và lắng nghe Ngài dạy dỗ. Ma-thê phê phán cả Ma-ri lẫn Chúa Giê-xu, nhưng Chúa Giê-xu biết lòng của Ma-ri và bênh vực bà.


Sứ đồ Phi-e-rơ khóc lóc đắng cay sau khi đã chối Chúa, và chắc hẳn lòng ông đầy hối hận và ăn năn vì cớ tội lỗi mình. Nhưng Chúa Giê-xu biết rằng Phi-e-rơ đã ăn năn, và sau khi phục sinh Chúa đã ban một sứ-điệp đặc biệt (Mac 16:7) cho Phi-e-rơ, điều mà chắc hẳn đã làm người ngư phủ nóng nảy bộp chộp này tin chắc rằng mình đã được tha thứ. Lòng Phi-e-rơ có thể đã lên án ông, vì ông biết mình đã chối Chúa ba lần, nhưng Đức Chúa Trời lại lớn hơn lòng ông. Chúa Giê-xu, biết hết mọi điều, đã ban cho Phi-e-rơ đúng sự đảm bảo ông cần đến.


Hãy cẩn trọng kẻo ma quỷ kiện cáo bạn và cướp đi lòng tin cậy của bạn (Kh 12:10). Một khi bạn xưng nhận tội lỗi mình và tội đó được tha thứ, bạn không cần để cho nó kiện cáo mình nữa. Phi-e-rơ đã có thể đối diện với những người Do-thái và nói, “Nhưng các ngươi đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Bình!” (Công 3:14) vì tội chối bỏ Đấng Christ của chính ông đã được Chúa quan tâm, được Ngài tha thứ và không còn nhớ đến nữa.


Không Cơ-đốc nhân nào được xem nhẹ tội lỗi, nhưng không Cơ-đốc nhân nào cần phải nghiêm khắc với chính mình hơn Đức Chúa Trời. Có một loại tự tra xét và tự lên án mình không lành mạnh, là điều không có tính cách thuộc linh.

Nếu bạn đang thực hành tình yêu thương chân thật đối với anh em mình, lòng bạn phải đúng trước mặt Đức Chúa Trời, vì Đức Thánh Linh sẽ không “tuôn đổ” tình yêu thương Ngài trong bạn nếu có tội lỗi thường xuyên trong lòng bạn. Khi bạn làm buồn lòng Đức Thánh Linh, bạn “làm tắt nghẽn” nguồn cung cấp tình yêu thương của Đức Chúa Trời (Eph 4:30-5:2).


2. Lời Cầu Xin Được Nhậm (IGi 3:21,22).

Tình yêu thương đối với anh em tạo nên sự tin cậy đối với Đức Chúa Trời , và sự tin cậy đối với Đức Chúa Trời ban cho bạn sự dạn dĩ trong việc cầu xin những gì bạn cần. Điều này không có nghĩa là bạn kiếm đuợc những sự đáp lời cầu xin bởi việc yêu thương anh em mình. Đúng hơn, nó có nghĩa là tình yêu thương của bạn đối với anh em mình chứng tỏ rằng bạn đang sống trong ý muốn của Đức Chúa Trời là chỗ mà Đức Chúa Trời có thể nhậm lời cầu xin của bạn.

“Và chúng ta xin điều gì mặc dầu, thì nhận được điều ấy, bởi chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài” (c.22). Tình yêu thương là sự làm trọn luật pháp của Đức Chúa Trời (Rô 13:8-10) vì vậy, khi bạn yêu thương anh em mình, bạn đang vâng giữ các điều răn của Ngài và Ngài có thể nhậm lời cầu xin của bạn.


Mối quan hệ giữa một tín-đồ với anh em mình không thể bị tách rời khỏi đời sống cầu nguyện của người ấy. Nếu những người làm chồng và làm vợ không đang vâng theo Lời Đức Chúa Trời, chẳng hạn, thì những lời cầu nguyện của họ sẽ bị ngăn trở (IPhi 3:7).


Một nhà truyền đạo giảng dạy về gia đình Cơ-đốc. Sau buổi nhóm một ông bố đến gặp ông.


“Tôi đã cầu nguyện cho một đứa con trai ngang bướng suốt nhiều năm,” ông bố nói, “nhưng Đức Chúa Trời vẫn chưa đáp lời cầu nguyện của tôi.”


Nhà truyền đạo đọc Thi 66:18 – “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi.”


Ông nói, “Hãy thành thật với chính mình và với Chúa. Giữa ông và một Cơ-đốc nhân khác có điều gì cần phải giải quyết không?”


Ông bố lưỡng lự, rồi nói, “Vâng, tôi e là có đấy. Tôi đã chất chứa sự ghen ghét trong lòng đối với một người khác trong Hội thánh này.”


“Vậy thì hãy đi làm hòa với người ấy đi,” nhà truyền-đạo khuyên, và ông cầu nguyện với ông bố này. Trước khi chiến dịch kết thúc, ông bố thấy đứa con trai bướng bỉnh của mình trở lại cùng Chúa.


Dĩ nhiên, những câu này không cho chúng ta tất cả những điều kiện để lời cầu xin được nhậm, nhưng chúng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự vâng lời. Một bí quyết lớn lao của lời cầu xin được nhậm là sự vâng lời, và bí quyết của sự vâng lời là tình yêu thương. “Nếu các ngươi yêu mến Ta, thì vâng giữ các điều răn Ta” (Gi 14:15). “Nếu các ngươi ở trong Ta, và lời Ta ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được điều đó . . . Nếu các ngươi vâng giữ các điều răn Ta, thì sẽ ở trong sự yêu thương Ta” (Gi 15:7,10a).


Dĩ nhiên, có thể lắm chúng ta giữ các điều răn của Đức Chúa Trời trong tinh thần sợ hãi hoặc trong tình trạng nô lệ hơn là trong tinh thần yêu thương. Đây là tội của người anh trong câu chuyện về người con trai hoang đàng (Lu 15:24-32).

Một tín-đồ cần phải vâng giữ các điều răn của Cha mình và điều này làm đẹp lòng Ngài. Một Cơ-đốc nhân sống để làm hài lòng Đức Chúa Trời sẽ khám phá rằng Đức Chúa Trời tìm cách để làm con cái Ngài đẹp lòng. “Cũng hãy khoái lạc nơi Đức Giê-hô-va, thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao ước” (Thi 37:4). Khi chúng ta khoái lạc trong tình yêu của Đức Chúa Trời, điều ao ước của chúng ta sẽ nằm trong ý muốn Đức Chúa Trời.


3. Ở (IGi 3:23,24).

Khi một thầy dạy luật xin Chúa Giê-xu cho biết điều răn lớn nhất là gì, Ngài đáp, “Ngươi hãy kính mến Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.” Rồi Ngài thêm vào một điều răn thứ hai: “Ngươi phải yêu kẻ lân cận như mình” (Mat 22:34-40).

Nhưng Đức Chúa Trời cũng ban cho chúng ta một điều răn liên hệ đến cả Đức Chúa Trời lẫn con người: “Chúng ta phải tin đến danh Con Ngài, tức là Chúa Giê-xu Christ, và chúng ta phải yêu mến lẫn nhau” (IGi 3:23). Đức tin đối với Đức Chúa Trời và tình yêu thương đối với con người tóm tắt những bổn phận của một Cơ-đốc nhân. Cơ-đốc Giáo là “đức tin hay làm ra bởi tình yêu thương” (Ga 5:6).


Đức tin đối với Đức Chúa Trời và tình yêu thương đối với con người là hai mặt của cùng một đồng tiền. Chúng ta dễ nhấn mạnh đến đức tin – giáo lý đúng đắn – và bỏ qua tình yêu thương. Mặt khác, một số người lại cho rằng giáo lý không quan trọng và tình yêu thương là trách nhiệm chính yếu của chúng ta. Cả giáo lý và tình yêu thương đều quan trọng. Khi một người được xưng công bình bởi đức tin, người ấy cần phải biết rằng tình yêu thương của Đức Chúa Trời đang được rải khắp trong lòng mình (Rô 5:1-5).


Ở trong Đấng Christ” là một từng trải quan trọng cho một tín-đồ muốn có lòng tin cậy đối với Đức Chúa Trời và được sự đáp lời cầu xin. Chúa Giê-xu, trong sứ điệp của Ngài phán dạy các môn-đệ trong phòng cao (Gi 15:1-14) minh họa “việc ở” này. Ngài ví sánh môn đệ Ngài như những nhánh nho. Bao lâu mà nhánh còn hút nhựa từ cây nho, nó vẫn cứ ra trái. Nhưng nếu nó tự tách ra khỏi cây nho, nó sẽ héo và chết.


Chúa Giê-xu đang nói về sự cứu rỗi Ngài đang nói về việc kết quả. Ngay khi một tội nhân tin nơi Đấng Christ, người ấy bước vào sự hiệp nhất với Đấng Christ, nhưng việc duy trì mối thông công là một trách nhiệm liên tục từng giây phút một.

Việc ở trong Chúa tùy thuộc vào việc chúng ta vâng theo Lời Ngài và giữ cho thanh sạch (Gi 15:3,10).


Như chúng ta đã thấy, khi một tín-đồ bước đi trong tình yêu thương, người ấy thấy dễ dàng vâng lời Đức Chúa Trời, và vì vậy người ấy duy trì một mối thông công mật thiết với Đức Chúa Trời. “Nếu ai yêu mến Ta, thì vâng giữ lời Ta, Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người” (Gi 14:23).


Đức Thánh Linh được đề cập đến đích danh trong I Giăng lần đầu tiên trong IGi 3:24.Giăng giới thiệu với chúng ta Đấng Thánh (IGi 2:20) với sự nhấn mạnh vào việc xức dầu và chức vụ dạy dỗ của Thánh Linh. (Điều này tương tự với Gi 14:26 và Gi 16:13,14). Nhưng Đấng Thánh cũng là Thánh Linh ở trong chúng ta (IGi 3:24; IGi 4:13).

Khi một tín đồ vâng lời Đức Chúa Trời và yêu mến anh em mình, Đức Thánh Linh ngự trong lòng ban cho người ấy sự bình an và tin cậy. Đức Thánh Linh ở trong người ấy đời đời (Gi 14:16), nhưng khi Thánh Linh bị làm cho buồn lòng, Ngài rút phước hạnh của Ngài lại.


Đức Thánh Linh cũng là Thần chứng thực (IGi 4:1-6), chứng thực cho những ai thật sự là con cái Đức Chúa Trời. Khi một tín-đồ ở trong Đấng Christ, Thánh Linh dẫn dắt người ấy và báo cho người ấy biết các thần giả dối là những kẻ sẽ dẫn người ấy đi lạc đường.


Ngài cũng là Đức Thánh Linh làm chứng (IGi 5:6-8), làm chứng cho con người và công việc của Chúa Giê-xu Christ. Sự làm chứng này của Đức Thánh Linh được đề cập đến trong Rô 8:14-16.


Mỗi thân vị của Thượng Đế ba ngôi đều có liên hệ đến “đời sống yêu thương” của một tín-đồ. Đức Chúa Cha ra lệnh cho chúng ta phải yêu thương nhau, Đức Chúa Con phó sự sống Ngài trên thập tự, là gương mẫu cao nhất của tình yêu thương. Và Đức Chúa Thánh Linh sống trong chúng ta để cung cấp tình yêu thương chúng ta cần đến (Rô 5:5).

Ở trong tình yêu thương là ở trong Đức Chúa Trời, và ở trong Đức Chúa Trời là ở trong tình yêu thương. Tình yêu thương Cơ-đốc không phải là một cái gì đó chúng ta “có thể có được” khi chúng ta cần nó. Tình yêu thương Cơ-đốc được “rải khắp trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh,” và đây là kinh nghiệm thường xuyên của bạn khi bạn ở trong Đấng Christ.


Có bốn mức độ mà một người có thể sống. Người ấy có thể chọn mức độ thấp nhất –mức độ của Sa-tan – và thực hành việc giết người. Những kẻ giết người “có phần của chúng nó ở trong hồ có lửa và diêm cháy bừng bừng: đó là sự chết thứ hai” (Kh 21:8).


Hoặc, một người có thể chọn mức độ kế tiếp – ghen ghét. Nhưng sự ghen ghét, trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, thì tương tự như giết người. Một người sống với lòng ghen ghét đang từ từ giết chính mình, chứ không phải người kia! Các chuyên gia về tâm thần cho biết rằng tính hiểm độc và ghen ghét gây ra tất cả các loại nan đề của thân thể và tình cảm. Trên thực tế, một chuyên gia đã đặt tựa đề cho quyển sách của ông là Yêu thương hoặc Diệt vong!


-Mức độ thứ ba – sự dửng dưng – tốt hơn hai mức độ đầu tiên nhiều, vì hai mức độ đầu tiên không mang tính Cơ-đốc chút nào. Một người có sự ghen ghét thường xuyên trong lòng mình, hoặc thường xuyên giết người, chứng tỏ người ấy chưa bao giờ được sanh bởi Đức Chúa Trời. Nhưng một người có thể là một Cơ-đốc nhân mà vẫn dửng dưng trước nhu cầu của những người khác.


Một kẻ giết người thuộc về ma quỷ, như Ca-in. Một kẻ ghen ghét thuộc về thế gian (IGi 3:13), vốn ở dưới sự điều khiển của Sa-tan. Nhưng một Cơ-đốc nhân dửng dưng đang sống cho xác thịt, vốn phục vụ cho các mục đích của Sa-tan.


Phương cách thánh khiết, hạnh phúc duy nhất để sống là dựa vào mức độ cao nhất, mức độ của tình yêu thương Cơ-đốc. Đây là đời sống của sự vui mừng và tự do, đời sống của lời cầu xin được nhậm. Nó bảo đảm cho bạn lòng tin cậy và can đảm bất chấp những khó khăn của đời.


Tiến sĩ Rene Spitz ở New York thực hiện một sự nghiên cứu về trẻ em trong những trại trẻ bị bỏ rơi để xác định tình yêu thương và sự bỏ mặc có ảnh hưởng nào trên chúng. Cuộc khảo sát chứng minh rằng trẻ con bị bỏ mặc và không được yêu thương phát triển chậm chạp hơn nhiều, và một số thậm chí đã chết. Cả về mặt thể chất, tình yêu thương chính là bầu không khí của sự sống và sự tăng trưởng.


Về mặt tâm linh, thậm chí còn hơn thế nữa.


Thực sự thì, đó chính là vấn đề của tình yêu thương hoặc sự chết mà thôi!

1-6 Xem giải nghĩa IGi 2:20-25



 


8. TÌM HIỂU NGỌN NGUỒN CỦA TÌNH YÊU THƯƠNG (IGi 4:7-16)


Đây là lần thứ ba chúng ta xem xét đề tài về tình yêu thương!


Điều này không có nghĩa là Giăng đã cạn ý tưởng và phải lặp đi lặp lại. Nó có nghĩa là Đức Thánh Linh, Đấng linh cảm Giăng, trình bày đề tài này một lần nữa, từ một quan điểm sâu sắc hơn.


Trước hết, tình yêu thương anh em đã được cho thấy là chứng cớ của mối thông công với Đức Chúa Trời (IGi 2:7-11) kế đó nó đã được trình bày như là chứng cớ của địa vị làm con (IGi 3:10-14). Trong đoạn trước nữa, tình yêu thương anh em là một vấn đề của sự sáng hay sự tối tăm trong đoạn thứ nhì nó là một vấn đề của sự sống hoặc sự chết.


Nhưng trong IGi 4:7-16, chúng ta đi sâu vào tận nền tảng của vấn đề. Tại đây chúng ta khám phá vì sao tình yêu thương thật là một phần quan trọng của sự sống thực.

Tình yêu thương là một sự thử nghiệm giá trị của mối thông công của chúng ta và địa vị làm con của chúng ta vì “Đức Chúa Trời là tình yêu thương.” Tình yêu thương là một phần của chính sự sống và bản tính của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta được hiệp nhất với Đức Chúa Trời bởi đức tin nơi Đấng Christ, chúng ta chia sẻ bản tính của Ngài. Và vì cớ bản tính của Ngài là tình yêu thương, tình yêu thương là điều thử nghiệm sự hiện thực của đời sống thuộc linh của chúng ta.


Một nhà hàng hải nhờ vào một la bàn để giúp mình định hướng. Nhưng tại sao lại là một la bàn? Vì nó chỉ cho ông ta hướng đi của mình. Và tại sao la bàn lại chỉ hướng bắc? Vì nó được tạo thành để đáp lại từ trường là một phần của sự cấu thành trái đất. La bàn đáp ứng lại với bản chất của trái đất.


Với tình yêu thương Cơ-đốc cũng vậy. Bản tánh của Đức Chúa Trời là tình yêu thương.

Và một người biết Đức Chúa Trời và đã được sanh bởi Đức Chúa Trời sẽ đáp ứng lại bản tính của Đức Chúa Trời. Như một chiếc la bàn tự nhiên chỉ hướng bắc, một tín đồ sẽ tự nhiên làm theo tình yêu thương vì tình yêu thương là bản tính của Đức Chúa Trời. Tình yêu thương này sẽ không phải là một sự đáp ứng bị ép buộc nó sẽ là một sự đáp ứng tự nhiên. Tình yêu thương anh em của một tín-đồ sẽ là bằng chứng của địa vị làm con và mối thông công của người ấy.


Trong phần này, ba lần Giăng khích lệ chúng ta yêu mến nhau (c.7,11,12). Ông hỗ trợ những lời khuyên này bằng cách nêu cho chúng ta ba thực tế nền tảng về Đức Chúa Trời:


1. Đức Chúa Trời là gì: “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” (IGi 4:7-8)

Đây là thành ngữ thứ ba trong ba thành ngữ trong các thư tín của Giăng giúp chúng ta hiểu bản tính của Đức Chúa Trời: “Đức Chúa Trời là thần” (Gi 4:24) “Đức Chúa Trời là sự sáng” (IGi 1:5) và “Đức Chúa Trời là tình yêu thương.” Dĩ nhiên, không thành ngữ nào trong các thành ngữ này là một sự mạc khải trọn vẹn của Đức Chúa Trời, và thật sai trật khi tách rời chúng ra.


Về bản tính Đức Chúa Trời là thần Ngài không phải là thịt và huyết. Thật thế, Chúa Giê-xu Christ hiện có một thân thể vinh hiển trên thiên đàng, và một ngày kia chúng ta sẽ có thân thể giống như thân thể Ngài. Nhưng bởi bản tính là thần, Đức Chúa Trời không bị giới hạn bởi thời gian và không gian giống như các tạo vật của Ngài.


Đức Chúa Trời là sự sáng.

Điều này đề cập tới bản tính thánh khiết của Ngài. Trong Kinh Thánh, sự sáng là một biểu tượng của sự thánh khiết và sự tối tăm là một biểu tượng của tội lỗi (IGi 1:5-10; Gi 3:18-21). Đức Chúa Trời không thể phạm tội vì Ngài là thánh khiết. Vì chúng ta đã được sinh vào trong gia đình của Ngài, chúng ta nhận được bản tính thánh khiết của Ngài (IIPhi 1:4; IPhi 14-16).


Đức Chúa Trời là tình yêu thương.

Điều này không có nghĩa là “tình yêu thương là Đức Chúa Trời.” Và sự kiện hai người “yêu thương nhau” không có nghĩa là tình yêu thương của họ nhất thiết là thánh khiết. Có người đã nói cách chính xác rằng “tình yêu thương giải thích định rõ tính chất của Đức Chúa Trời nhưng Đức Chúa Trời định rõ tính chất của tình yêu thương.”


Đức Chúa Trời là tình yêu thương và Đức Chúa Trời là sự sáng, vì thế, tình yêu thương của Ngài là một tình yêu thương thánh khiết, và sự thánh khiết của Ngài được bày tỏ trong tình yêu thương. Tất cả những gì Đức Chúa Trời làm bày tỏ tất cả những gì Đức Chúa Trời là. Ngay đến những sự phán xét của Ngài cũng được ban bố trong tình yêu thương và lòng thương xót (Ca 3:22,23).


Phần nhiều cái được gọi là “tình yêu thương” trong xã hội hiện đại không giống hoặc liên hệ đến tình yêu thương thánh khiết, thuộc linh của Đức Chúa Trời. Thế nhưng chúng ta nhìn thấy những khẩu hiệu “Đức Chúa Trời là tình yêu thương”được trưng bày tại nhiều buổi đại hội liên hoan, đặc biệt ở nơi mà những người thân quen của bạn “đang làm việc riêng của họ” – như thể người ta có thể đề cao sự vô luân bằng cách gọi nó là ‘tình yêu thương.”


Tình yêu thương Cơ-đốc là một loại tình yêu thương đặc biệt. IGi 4:10 có thể được dịch là: “Tình yêu thương chân thật được bày tỏ trong điều này.” Có một tình yêu thương giả dối, và loại tình yêu thương này Đức Chúa Trời phải bác bỏ. Tình yêu thương sản sinh từ chính bản chất của Đức Chúa Trời phải thuộc linh và thánh khiết, vì “Đức Chúa Trời là thần” và “Đức Chúa Trời là sự sáng.” Tình yêu thương thật này được “tuôn đổ trong lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh đã được ban cho chúng ta” (Rô 5:5).


Tình yêu thương, vì thế, là một sự thử nghiệm giá trị của đức tin Cơ-đốc chân thật. Vì Đức Chúa Trời là tình yêu thương, và chúng ta đã tuyên xưng mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Trời, chúng ta nhất thiết phải bày tỏ tình yêu thương của Ngài trong cách chúng ta sống. Một con cái Đức Chúa Trời đã được “sinh bởi Đức Chúa Trời,” vì vậy người ấy chia sẻ bản tính thiên thượng của Đức Chúa Trời. Vì “Đức Chúa Trời là tình yêu thương,” Cơ-đốc nhân cần phải yêu mến lẫn nhau. Điều lô-gíc này không thể nào bác bỏ được!


Chúng ta không chỉ đã “được sinh bởi Đức Chúa Trời,” mà chúng ta còn “biết Đức Chúa Trời” nữa. Trong Kinh Thánh, từ biết có một ý nghĩa sâu xa hơn nhiều chứ không chỉ là sự nhận biết hoặc thông hiểu có tính cách lý trí. Chẳng hạn như, từ biết được dùng để mô tả sự hiệp nhất thân thiết của vợ chồng (Sa 4:1).

Biết Đức Chúa Trời có nghĩa là ở trong mối quan hệ sâu xa với Ngài – chia sẻ sự sống của Ngài và vui hưởng tình yêu thương của Ngài. Việc biết này không chỉ là một vấn đề của việc hiểu các sự kiện nó là một vấn đề của lẽ thật nhận biết (IGi 2:3-5).


Chúng ta phải hiểu “ai chẳng yêu thì chẳng biết Đức Chúa Trời” (IGi 4:8) trong ánh sáng này. Hẳn nhiên nhiều người chưa được cứu yêu thương gia đình của họ và thậm chí hy sinh cho họ. Và chắc chắn nhiều người trong cùng nhóm người này theo lý trí cũng có một loại hiểu biết nào đó về Đức Chúa Trời.

Vậy thì, họ thiếu điều gì? Họ thiếu một từng trải riêng tư về Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể diễn giải câu 8 như sau, “Người mà không có loại tình yêu thiên thượng này chưa hề bước vào một sự nhận biết Đức Chúa Trời bằng kinh nghiệm riêng tư. Những gì người ấy biết chỉ ở trong đầu người ấy, chứ nó chưa hề đi vào trong lòng người ấy.”


Đức Chúa Trời là gì xác định chúng ta cần phải là gì. “Ấy là Chúa thể nào, thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian này” (c.17).

Sự kiện Cơ-đốc nhân yêu mến lẫn nhau là bằng chứng của mối thông công giữa họ với Đức Chúa Trời và địa vị làm con của họ từ nơi Đức Chúa Trời, và đó cũng là bằng chứng rằng họ biết Đức Chúa Trời.

Kinh nghiệm của họ với Đức Chúa Trời không chỉ đơn giản là từng trải một lần đủ cả nó là một từng trải hàng ngày của việc nhận biết Ngài ngày càng nhiều hơn. Thần học (sự học biết về Đức Chúa Trời) đúng nghĩa không phải là một khóa giáo lý khô khan, không thực tế – nó là một kinh nghiệm mỗi ngày đầy phấn khích khiến chúng ta được giống Đấng Christ hơn!


Một số lượng lớn chất phóng xạ bị đánh cắp khỏi một bệnh viện. Khi người quản lý bệnh viện báo cho cảnh sát biết, ông nói: “Xin làm ơn cảnh cáo tên trộm rằng hắn đang mang cái chết theo bên mình, và hắn không thể nào thành công trong việc cất giấu chất phóng xạ được. Bao lâu hắn còn cất giữ nó, nó sẽ còn gây tác hại cho hắn cách thảm khốc!”


Một người tự xưng mình biết Đức Chúa Trời và ở trong sự hiệp nhất với Ngài phải được ảnh hưởng cách riêng tư bởi mối quan hệ này. Một Cơ-đốc nhân cần phải trở nên giống như Đức Chúa Trời, và “Đức Chúa Trời là tình yêu thương.” Tranh luận cách khác là chứng tỏ rằng người ấy không thật sự biết Đức Chúa Trời!


2. Điều Đức Chúa Trời làm: “Ngài sai Con Ngài” (IGi 4:9-11)

Vì Đức Chúa Trời là tình yêu thương, Ngài phải truyền đạt – không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm nữa. Tình yêu thương chân thật không bao giờ ở trạng thái tĩnh hoặc thiếu hoạt động. Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương của Ngài cho nhân loại trong nhiều cách. Ngài đã hướng muôn vật phục vụ cho nhu cầu của con người. Trước khi tội lỗi của con người đặt muôn vật ở dưới ách nô lệ, con người đã có một mái ấm hoàn hảo trên đất để yêu mến và hầu việc Đức Chúa Trời tại đó.


Tình yêu thương của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong cách Ngài đối xử với dân tộc Y-sơ-ra-ên. “Đức Giê-hô-va tríu mến và chọn lấy các ngươi, chẳng phải vì các ngươi đông hơn mọi dân khác đâu thật số các ngươi là ít hơn những dân khác.

Nhưng ấy vì Đức Giê-hô-va thương yêu các ngươi . . . nên Đức Giê-hô-va nhờ tay mạnh rút các ngươi ra, chuộc khỏi nhà nô lệ” (Phuc 7:7,8).


Sự bày tỏ lớn lao nhất của tình yêu thương Đức Chúa Trời là trong sự chết của Con Ngài. “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, trong khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ đã vì chúng ta chịu chết” (Rô 5:8)


Từ “bày tỏ” có nghĩa là “lộ ra giữa thanh thiên bạch nhựt, được làm ra công khai.” Nó là điều trái ngược của “che giấu, làm ra bí mật.” Dưới Giao-ước cũ, Đức Chúa Trời bị che khuất sau cái bóng của nghi thức và lễ nghi (Hêb 10:1) nhưng trong Chúa Giê-xu Christ “sự sống được bày tỏ” (IGi 1:2). Chúa Giê-xu phán, “Ai đã thấy Ta, tức là đã thấy Cha” (Gi 14:9).


Vì sao Chúa Giê-xu Christ đã được bày tỏ? “Vả, các con biết Chúa Giê-xu Christ đã hiện ra để cất tội lỗi chúng ta đi” (IGi 3:5). “Vả Con Đức Chúa Trời đã hiện ra để huỷ phá công việc của ma quỷ” (c.8). Chúa Giê-xu đã cất tội lỗi chúng ta đi và huỷ phá (làm vô hiệu hoá) công việc của ma quỷ ở đâu? Taị thập tự giá! Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương Ngài tại Thập tự giá khi Ngài ban Con Ngài làm một của lễ tại đó vì cớ tội lỗi chúng ta.


Đây là chỗ duy nhất trong bức thư nơi Chúa Giê-xu được gọi là Con một của Đức Chúa Trời. Danh hiệu này được dùng trong Phúc-âm Giăng (Gi 1:14). Nó có nghĩa là “độc nhất, cái duy nhất trong loại của nó.”

Sự kiện Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài xuống thế gian là một bằng chứng của thần tính Chúa Giê-xu Christ. Các con trẻ không được ban xuống thế gian từ một nơi nào khác chúng được sinh ra trong thế gian. Là con người trọn vẹn, Chúa Giê-xu được sinh ra trong thế gian, nhưng là Con đời đời, Ngài đã được sai xuống thế gian.


Nhưng việc sai Đấng Christ xuống thế gian, và sự chết của Ngài trên thập tự giá, không phải được thúc đẩy bởi tình yêu của con người đối với Đức Chúa Trời. Chúng được thúc đẩy bởi tình yêu thương của Ngài đối với con người. Thái độ của thế gian đối với Đức Chúa Trời không hề có tình yêu thương!


Sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá nhằm vào hai mục đích: để chúng ta có thể nhờ Ngài được sống (IGi 4:9) và để Ngài có thể làm của lễ chuộc tội chúng ta (c.10). Sự chết của Ngài không phải là một sự tình cờ đó là một sự chỉ định.Ngài không chết như một kẻ tuận đạo yếu đuối, mà như một kẻ chiến thắng đầy uy quyền.


Chúa Giê-xu Christ đã chết để chúng ta có thể được sống “nhờ Ngài” (c.9), “vì Ngài” (IICôr 5:15), và “với Ngài” (ITês 5:9,10). Nhu cầu bức bách của một tội nhân là được sự sống vì người ấy đã “chết vì lầm lỗi và tội ác mình” (Eph 2:1).

Thật là một điều nghịch lý khi Đấng Christ đã phải chết hầu cho chúng ta có thể sống! Chúng ta không bao giờ có thể hiểu thấu được sự huyền nhiệm của sự chết Ngài, nhưng chúng ta biết điều này: Ngài đã chết vì cớ chúng ta (Ga 2:20).


Sự chết của Đấng Christ được mô tả như một “của lễ chuộc tội.” Giăng đã dùng từ này trước đây (IGi 2:2), vì thế không cần nghiên cứu nó cách chi tiết nữa. Chúng ta cần phải nhớ rằng của lễ chuộc tội không có nghĩa là con người phải làm một điều gì đó để làm dịu Đức Chúa Trời hay để làm cho Ngài bớt giận.

Của lễ chuộc tội là điều Đức Chúa Trời làm để con người có thể được tha thứ. “Đức Chúa Trời là sự sáng,” và vì vậy Ngài phải duy trì luật pháp thánh khiết của Ngài. “Đức Chúa Trời là tình yêu thương,” và vì vậy Ngài muốn tha thứ và cứu tội nhân. Làm thế nào Đức Chúa Trời có thể tha thứ tội nhân mà vẫn gắn bó với bản tính thánh khiết của Ngài?

Câu giải đáp là thập tự giá. Tại đó Chúa Giê-xu Christ đã gánh lấy hình phạt vì cớ tội lỗi và đáp ứng những đòi hỏi công lý của luật pháp thánh. Nhưng cũng tại đó, Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương Ngài và khiến con người có thể được cứu bởi đức tin.


Điều quan trọng cần lưu ý là sự chết của Đấng Christ là điều cần nhấn mạnh, chứ không phải sự sinh ra của Ngài. Sự kiện Chúa Giê-xu “trở nên xác thịt” (Gi 1:14) chắc chắn là một chứng cớ của ân điển và tình yêu thương của Đức Chúa Trời, nhưng sự kiện Ngài “trở nên tội lỗi” (IICôr 5:21) được nhấn mạnh vì cớ chúng ta.

Gương mẫu của Đấng Christ, những sự giảng dạy của Đấng Christ, trọn đời sống trên đất của Đấng Christ, tìm thấy ý nghĩa đích thực và sự hoàn thành của chúng tại thập tự giá.


Lần thứ hai, tín đồ được cổ vũ hãy “yêu thương nhau” (IGi 4:11). Sự cổ vũ này là một điều răn phải vâng theo (IGi 4:7), và nền tảng của nó là bản tính của Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Trời là tình yêu thương chúng ta biết Đức Chúa Trời vì thế, chúng ta cần phải yêu thương nhau.” Nhưng sự cổ vũ yêu thương nhau được trình bày như một đặc quyền cũng như một trách nhiệm: “Nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau” (c.11).

Chúng ta không phải được cứu bởi yêu Đấng Christ chúng ta được cứu bởi tin vào Đấng Christ (Gi 3:16). Nhưng sau khi chúng ta nhận thức được điều Ngài đã làm vì cớ chúng ta trên thập tự giá, sự đáp ứng bình thường của chúng ta cần phải là yêu mến Ngài và yêu mến lẫn nhau.


Điều quan trọng là Cơ-đốc nhân phải tấn tới trong sự thông hiểu về tình yêu thương.Yêu thương nhau chỉ đơn giản vì ý thức bổn phận là điều tốt, nhưng yêu thương nhau vì sự cảm kích (hơn là sự bắt buộc) thì càng tốt hơn nữa.


Đây có thể là một lý do vì sao Chúa Giê-xu thiết lập lễ Tiệc Thánh, bữa tiệc Thông Công. Khi chúng ta cùng bẻ bánh và cùng uống chén, chúng ta nhớ lại sự chết của Ngài. Ít người, nếu có, mong người khác nhớ đến sự chết của mình! Trên thực tế, chúng ta nhớ đến đời sống của một người thân yêu và cố gắng quên đi nỗi đau buồn bởi sự chết của người ấy. Với Đấng Christ thì không như thế. Ngài ra lệnh chúng ta phải nhớ đến sự chết của Ngài: “Hãy làm điều này để nhớ đến Ta!”


Chúng ta nên nhớ đến sự chết của Chúa chúng ta trong một cách thức thuộc linh, chứ không chỉ có tính cách cảm xúc. Một số người đã định nghĩa tình cảm là “cảm xúc không có trách nhiệm.” Thật dễ mà kinh nghiệm những cảm xúc thiêng liêng tại một buổi nhóm ở nhà thờ và rồi rời khỏi đó tiếp tục sống đời sống thất bại như trước.

Từng trải thuộc linh đúng nghĩa liên quan tới toàn thể con người. Tâm trí phải hiểu lẽ thật thuộc linh tấm lòng phải yêu mến và cảm kích lẽ thật đó và ý chí phải hành động dựa trên lẽ thật đó. Càng đi sâu vào ý nghĩa của thập tự giá, lòng yêu mến của chúng ta đối với Đấng Christ sẽ càng sâu đậm hơn và sự quan tâm tích cực của chúng ta đối với nhau sẽ càng sâu xa hơn.


Chúng ta đã khám phá Đức Chúa Trời là gì và Đức Chúa Trời đã làm gì nhưng một thực tế nền tảng thứ ba đưa chúng ta càng tiến sâu hơn vào ý nghĩa và những quan hệ mật thiết của tình yêu thương Cơ-đốc.


3. Điều Đức Chúa Trời đang làm: “Đức Chúa Trời ở trong chúng ta” (IGi 4:12-16)

Những gì Giăng đề cập đến chân lý căn bản “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” cần được nhắc lại tại đây.


Lẽ thật được bày tỏ cho chúng ta trong Lời Ngài, nhưng nó cũng được bày tỏ trên thập tự giá, nơi Đấng Christ đã chết vì chúng ta. “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” không chỉ là một giáo lý trong Kinh Thánh đó là một thực tế đời đời được bày tỏ rõ rệt tại Gô-gô-tha. Đức Chúa Trời đã phán điều này với chúng ta, và Đức Chúa Trời đã thực hiện điều này cho chúng ta.


Nhưng tất cả điều này là sự chuẩn bị cho thực tế lớn lao thứ ba: Đức Chúa Trời thực hiện điều này trong chúng ta! Chúng ta không chỉ là những sinh viên đang đọc một quyển sách, hay những khán giả đang theo dõi một biến cố vô cùng thương tâm. Chúng ta là những người tham dự trong chương trình vĩ đại của tình yêu thương của Đức Chúa Trời!


Để tiết kiệm tiền, một lớp cao đẳng kịch nghệ chỉ mua một vài kịch bản của một vở kịch và cắt chúng ra thành nhiều phần riêng rẽ. Vị giám đốc đưa cho mỗi diễn viên phần của cá nhân mình theo thứ tự và rồi bắt đầu diễn tập vở kịch. Nhưng mọi thứ đều sai trật cả. Sau một giờ rối rắm vì các vai tuồng không nắm được và các cảnh bị lộn xộn, việc tập dượt gián đoạn.


Vào thời điểm đó, vị giám đốc cho tất cả các diễn viên ngồi xuống trên sân khấu và nói: “Hãy chú ý, tôi sẽ đọc cả vở kịch cho các bạn nghe, vì vậy đừng ai nói gì hết.” Ông đọc cả kịch bản lớn tiếng, và khi ông đọc xong, một trong các diễn viên nói:

“Vậy ra cả vở kịch là như thế!”


Và khi họ đã hiểu toàn thể câu chuyện, họ có thể ráp các phần của mình lại với nhau và có một buổi diễn tập thành công.


Khi bạn đọc các câu 12-16, bạn cảm thấy thích nói, “Vậy ra tất cả là như thế!” Bởi vì tại đây chúng ta khám phá điều Đức Chúa Trời có trong trí khi đặt ra kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Ngài.


Đầu tiên, ước muốn của Đức Chúa Trời là sống trong chúng ta. Ngài không thoả mãn chỉ nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, hoặc thậm chí bày tỏ cho chúng ta rằng Ngài yêu chúng ta.


Thật thú vị khi tìm thấy những nơi ở của Đức Chúa Trời như được ký thuật trong Thánh Kinh. Ban đầu, Đức Chúa Trời có mối tương giao với con người cách trực tiếp, cá nhân (Sa 3:8), nhưng tội lỗi đã phá hỏng mối tương giao đó. Đối với Đức Chúa Trời thật cần thiết phải làm đổ huyết các con sinh để khoả lấp tội lỗi của A-đam và Ê-va hầu cho họ có thể trở lại trong mối thông công với Ngài.


Một trong những từ trọng tâm trong Sáng-thế ký là đồng đi. Đức Chúa Trời đồng đi với con người, và con người đồng đi với Đức Chúa Trời. Ê-nóc (Sa 5:22), Nô-ê (Sa 6:9), và Áp-ra-ham đồng đi với Đức Chúa Trời (Sa 17:1; Sa 24:40).


Nhưng vào thời của các sự kiện được ký thuật trong Xuất Ê-díp-tô ký, một sự thay đổi đã diễn ra: Đức Chúa Trời không chỉ đồng đi với con người, Ngài cũng sống, hay ở, với họ. Điều răn của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên là, “Họ sẽ làm cho Ta một đền thánh, và Ta sẽ ở giữa họ” (Xu 25:8). Đền thờ đầu tiên trong những đền thánh này là Đền Tạm. Khi Môi-se khánh thành Đền Tạm, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự xuống và đầy dẫy hội mạc.


Đức Chúa Trời ở trong trại, nhưng Ngài không ở trong thân thể của cá nhân những người Y-sơ-ra-ên.


Đáng tiếc thay, cả dân tộc đã phạm tội và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời lìa khỏi họ (ISa 4:21). Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng Sa-mu-ên và Đa-vít để khôi phục dân tộc và Sa-lô-môn đã xây cho Đức Chúa Trời một đền thờ nguy nga. Khi Đền Thờ được khánh thành, một lần nữa sự vinh hiển của Đức Chúa Trời lại đến ngự trong xứ (IVua 8:1-11).


Nhưng lịch sử lại tái diễn, Y-sơ-ra-ên đã bất tuân Đức Chúa Trời và bị lưu đày. Đền Thờ tráng lệ bị phá huỷ. Ê-xê-chi-ên, một trong các tiên tri bị lưu đày, đã nhìn thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời lìa khỏi đền thờ (Exe 8:4; Exe 9:3; Exe 10:4; Exe 11:22,23).


Vinh quang có bao giờ trở lại chăng?

Có – trong con người của Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời! “Và Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, và ngự giữa chúng ta, và chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài” (Gi 1:14).

Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự trên đất trong thân thể Chúa Giê-xu Christ, và thân thể Ngài là đền thờ của Đức Chúa Trời (Gi 2:18-22). Nhưng những kẻ gian ác đã đóng đinh thân thể Ngài trên một cây thập tự. Chúng đóng đinh “Chúa vinh hiển” (ICôr 2:8). Tất cả những điều này là một phần của kế hoạch diệu kỳ của Đức Chúa Trời, và Đấng Christ đã sống lại từ kẻ chết, về trời, và ban Thánh Linh Ngài để ngự trong con người.


Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời hiện nay sống trong thân thể của con cái Đức Chúa Trời. “Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao?” (ICôr 6:19).

Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đã lìa khỏi Đền Tạm và Đền Thờ khi Y-sơ-ra-ên bất tuân Đức Chúa Trời, nhưng Chúa Giê-xu đã hứa rằng Thánh Linh sẽ ở với chúng ta đời đời (Gi 14:16).


Với bối cảnh này, chúng ta có thể hiểu rõ hơn điều IGi 4:12-16 đang nói với chúng ta. Đức Chúa Trời là vô hình (ITim 1:17), và không ai có thể nhìn thấy Ngài trong bản chất của Ngài. Chúa Giê-xu là “hình ảnh của Đức Chúa Trời không thấy được” (Côl 1:15). Bởi việc mang trên chính mình Ngài một thân xác con người, Chúa Giê-xu có thể bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta. Nhưng Chúa Giê-xu không còn trên đất này nữa. Vậy thì, làm thế nào Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài cho thế gian?


Ngài bày tỏ chính mình Ngài qua đời sống của con cái Ngài. Con người không thể nhìn thấy Đức Chúa Trời, nhưng họ có thể nhìn thấy chúng ta. Nếu chúng ta ở trong Đấng Christ, chúng ta sẽ yêu thương nhau, và sự yêu thương nhau của chúng ta sẽ bày tỏ tình yêu thương của Đức Chúa Trời cho một thế giới đang thiếu thốn tình yêu thương. Tình yêu thương của Đức Chúa Trời sẽ được kinh nghiệm trong chúng ta và rồi sẽ được bày tỏ qua chúng ta.


Từ ở nhỏ bé nhưng quan trọng đó được dùng sáu lần trong IGi 4:12-16. Nó đề cập tới mối thông công cá nhân của chúng ta với Chúa Giê-xu Christ. Ở trong Đấng Christ nghĩa là giữ nguyên trong sự hiệp một thuộc linh với Ngài, hầu cho không tội lỗi nào có thể chen giữa chúng ta.

Vì chúng ta được “sinh bởi Đức Chúa Trời,” chúng ta có sự hiệp nhất với Đấng Christ nhưng chỉ khi chúng ta tin cậy Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài chúng ta mới có sự tương giao với Ngài. Thật giống như một người chồng và người vợ chung thủy “ở trong tình yêu thương” dù họ có thể xa cách nhau nhiều dặm, một tín đồ ở trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời cũng vậy. Việc ‘ở’ này có thể thực hiện được bởi sự ngự trị của Thánh Linh trong lòng (IGi 4:13).


Hãy hình dung sự diệu kỳ và đặc quyền của việc có Đức Chúa Trời ở trong bạn! Người Y-sơ-ra-ên thời Cựu-ước sẽ kinh ngạc nhìn vào Đền Tạm hay Đền Thờ, vì sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở trong toà nhà ấy. Không người nào dám bước vào Nơi Chí Thánh, nơi Đức Chúa Trời được tôn cao trong sự vinh hiển! Nhưng chúng ta lại có Thánh Linh Đức Chúa Trời đang sống trong chúng ta! Chúng ta ở trong tình yêu thương này, và chúng ta kinh nghiệm việc Đức Chúa Trời ở trong chúng ta. “Nếu ai yêu mến Ta, thì vâng giữ lời Ta Cha Ta sẽ thương yêu người, chúng ta đều đến cùng người và ở trong người” (Gi 14:23).


Tình yêu thương của Đức Chúa Trời được công bố trong Lời Ngài (“Đức Chúa Trời là tình yêu thương”) và được chứng minh tại Thập tự giá. Nhưng tại đây chúng ta có một điều sâu xa hơn: tình yêu thương của Đức Chúa Trời được nên trọn vẹn trong người tín đồ. Điều này có thể dường như không tưởng được, tình yêu thương của Đức Chúa Trời không được nên trọn vẹn trong thiên sứ, mà là trong những tội nhân được cứu bởi ân điển Ngài. Cơ-đốc nhân chúng ta hiện nay là đền tạm và đền thờ nơi Đức Chúa Trời ngự. Ngài bày tỏ tình yêu thương của Ngài qua chúng ta.


Tiến sĩ G. Campbell Morgan, một nhà truyền-đạo người Anh nổi tiếng, có năm người con trai, tất cả họ đều trở nên những người rao giảng Phúc-Âm. Một ngày nọ một vị khách trong nhà họ dạn dĩ nêu một câu hỏi riêng tư: “Ai trong sáu người các anh là người giảng hay nhất?”

Câu trả lời hiệp nhất của họ là, “Mẹ!”


Dĩ nhiên, Bà Campbell Morgan chưa hề giảng một bài giảng chính thức tại một Hội thánh nhưng đời sống bà là một bài giảng thường xuyên về tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Đời sống của một Cơ-đốc nhân ở trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời là một lời chứng đầy sức thuyết phục cho Đức Chúa Trời trong thế gian. Con người không thể nhìn thấy Đức Chúa Trời, nhưng họ có thể nhìn thấy tình yêu thương của Ngài cảm động chúng ta làm những việc hữu ích và tốt lành.


Ba lời chứng khác nhau được nêu lên trong những câu này: (1) Lời chứng của người tín-đồ rằng Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời (IGi 4:15) (2) Lời chứng trong người tín đồ bởi Thánh Linh (c.13) và (3) lời chứng qua người tín đồ rằng Đức Chúa Trời là tình yêu thương và Ngài đã sai Con Ngài chết thay cho thế gian (c.14).


Những lời chứng này không thể bị tách rời ra. Thế gian sẽ không tin rằng Đức Chúa Trời yêu thương tội nhân cho đến khi họ nhìn thấy tình yêu thương của Ngài hành động trong đời sống con cái Ngài.


Một nhân viên trong Đội Cứu Thế Quân tìm thấy một phụ nữ bị bỏ rơi một mình trên đường phố và mời bà vào nhà thờ để được giúp đỡ, nhưng phụ nữ này từ chối. Nhân viên này quả quyết với bà: “Chúng tôi yêu thương bà và mong muốn giúp đỡ bà. Đức Chúa Trời yêu thương bà. Chúa Giê-xu đã chết thay cho bà.”

Nhưng người phụ nữ không nhúc nhích.


Như được sự thôi thúc thiên thượng, người nữ quân nhân này cúi xuống và hôn lên má bà này, ôm chầm lấy bà trong tay mình. Người phụ nữ bắt đầu khóc, và giống như một đứa bé, bà được đưa vào nhà thờ, nơi mà cuối cùng bà đã tin vào Đấng Christ.


“Cô bảo tôi rằng Đức Chúa Trời yêu thương tôi,” sau đó bà nói, “nhưng mãi đến khi cô cho tôi thấy rằng Đức Chúa Trời yêu thương tôi thì tôi mới mong muốn được cứu.”


Chúa Giê-xu không chỉ giảng dạy về tình yêu thương của Đức Chúa Trời Ngài chứng tỏ điều đó bằng cách phó mạng sống Ngài trên cây thập tự. Ngài mong mỏi những kẻ theo Ngài làm giống như vậy. Nếu chúng ta ở trong Đấng Christ, chúng ta sẽ ở trong tình yêu thương của Ngài. Nếu chúng ta ở trong tình yêu thương Ngài, chúng ta phải chia sẻ tình yêu này với những người khác.

Hễ khi nào chúng ta chia sẻ tình yêu này, đó là bằng chứng trong chính tấm lòng chúng ta rằng chúng ta đang ở trong Đấng Christ. Nói cách khác, không có sự tách rời giữa sự sống bên trong của một Cơ-đốc nhân với đời sống bên ngoài của người ấy.


Việc ở trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời đem lại hai lợi ích thuộc linh kỳ diệu trong đời sống một tín đồ: (1) Người ấy lớn lên trong sự thông biết, và (2) Người ấy lớn lên trong đức tin (c.16). Càng yêu mến Đức Chúa Trời hơn, chúng ta càng hiểu hơn về tình yêu thương của Đức Chúa Trời.

Và càng hiểu hơn về tình yêu thương của Ngài, chúng ta càng dễ dàng tin cậy Ngài hơn. Xét cho cùng, khi bạn biết một người nào đó cách thân thiết và yêu thương người ấy chân thật, bạn không gặp khó khăn khi đặt lòng tin cậy vào người ấy.


Một ông nọ đứng trong khu bán thiệp mừng của một cửa hiệu đang gặp trở ngại trong việc chọn một tấm thiệp. Cô bán hàng hỏi xem cô có thể giúp gì chăng, và ông ta nói:

“À, hôm nay là dịp kỷ niệm 40 năm ngày cưới của chúng tôi, nhưng tôi không tìm được tấm thiệp nào nói lên điều tôi muốn nói. Cô biết không, 40 năm trước việc chọn một tấm thiệp sẽ không có gì khó khăn cả, bởi vì lúc đó tôi cho rằng mình biết tình yêu thương là gì. Nhưng bây giờ chúng tôi càng yêu nhau thật nhiều hơn, tôi thật không thể tìm được một tấm thiệp nói lên điều đó!”


Đây là từng trải với Đức Chúa Trời của một Cơ-đốc nhân đang tăng trưởng. Khi người ấy ở trong Đấng Christ và dành thời gian trong mối thông công với Ngài, người ấy trở nên yêu mến Đức Chúa Trời ngày càng hơn. Người ấy cũng lớn lên trong tình yêu thương đối với các Cơ-đốc nhân khác, đối với những người hư mất, và kể cả đối với kẻ thù nghịch mình.

Khi người ấy chia sẻ tình yêu thương của Đức Chúa Cha với những người khác, bản thân người ấy kinh nghiệm càng hơn tình yêu thương của Cha. Người ấy hiểu được tình yêu thương của Cha ngày càng tận tường hơn.


Đức Chúa Trời là tình yêu thương” không chỉ là một câu phát biểu sâu sắc trong Thánh Kinh. Nó là nền tảng cho mối quan hệ giữa một tín đồ với Đức Chúa Trời và với anh em mình. Vì Đức Chúa Trời là tình yêu thương, chúng ta có thể yêu thương. Tình yêu thương của Ngài không phải là lịch sử đã qua rồi nó là thực tại hiện nay.

“Hãy yêu thương nhau” khởi đầu như một điều răn (c.7), rồi nó trở thành một đặc quyền (c.11). Nhưng nó còn hơn cả một điều răn hay một đặc quyền. Nó cũng là kết quả và chứng cớ đầy thú vị của việc ở trong Đấng Christ của chúng ta (c.12). Việc yêu thương nhau không phải là một điều chúng ta đơn giản cần phải thực hiện nó là điều chúng ta mong muốn thực hiện.


Một vài ứng dụng thực tiễn phát sinh từ lẽ thật căn bản này:

-Trước tiên, chúng ta càng biết rõ tình yêu thương của Đức Chúa Trời hơn, thì việc sống như một Cơ-đốc nhân sẽ càng dễ dàng hơn. Chỉ có sự hiểu biết về Kinh Thánh thôi không thay thế được từng trải cá nhân về tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Trên thực tế, nếu chúng ta không thận trọng thì đó có thể là một sự thay thế nguy hiểm.


Helen trở về nhà sau một đợt bồi linh thanh niên, hết sức phấn khởi về những gì cô đã học hỏi được.


“Bọn chị có một số buổi học thật hay về việc làm thế nào để có giờ cầu nguyện riêng,” cô nói với Joyce em gái mình. “Chị dự định sẽ dành thì giờ cầu nguyện riêng mỗi ngày.”


Một tuần sau, trong khi Joyce đang chạy máy hút bụi, cô nghe Helen la to, “Em làm ồn ào như vậy sao? Em không biết là chị đang cố gắng cầu nguyện sao?” Và tiếp theo sau tiếng la đó là tiếng cửa đóng sầm lại.


Helen vẫn còn phải học biết rằng việc cầu nguyện riêng tự nó không phải là đã đủ rồi.Nếu nó không giúp chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và yêu thương nhau, nó chỉ đạt được kết quả ít ỏi thôi. Thánh Kinh là một sự mạc khải tình yêu thương của Đức Chúa Trời và càng hiểu rõ tình yêu thương của Ngài hơn, chúng ta sẽ càng dễ dàng vâng lời Ngài hơn và càng yêu người khác hơn.


-Sự lưu tâm thứ hai là trừ khi chúng ta yêu thương những người hư mất, lời chứng của chúng ta với họ sẽ ra vô ích. Sứ-điệp của Phúc-Âm là một sứ điệp yêu thương. Tình yêu thương này vừa được công bố vừa được bày tỏ bởi Chúa Giê-xu Christ. Phương cách duy nhất chúng ta có thể chinh phục được linh hồn người khác hữu hiệu là công bố Phúc-Âm và bày tỏ Phúc-Âm đó trong cách chúng ta sống.

Quá nhiều “việc làm chứng” ngày nay chỉ là những lời trên môi miệng mà thôi.Người ta cần sự bày tỏ của tình yêu thương.


Một lý do Đức Chúa Trời cho phép thế gian ghen ghét Cơ-đốc nhân là để Cơ-đốc nhân có thể dùng tình yêu thương đáp lại sự ghen ghét của thế gian. “Khi nào vì cớ Ta mà người ta mắng nhiếc, bắt bớ, và lấy mọi đều dữ nói vu cho các ngươi, thì các ngươi sẽ được phước. . . . Nhưng Ta nói cùng các ngươi rằng: Hãy yêu kẻ thù nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi” (Mat 5:11,44).


“Thưa Mục Sư, Kinh Thánh dạy chúng ta yêu kẻ lân cận mình, nhưng tôi không biết ai có thể yêu thương được những người hàng xóm của tôi,” Bà Barton nói vào cuối một giờ học Trường Chúa Nhật. “Tôi đã cố gắng tử tế với họ, nhưng chẳng đi đến đâu cả.”

“Có lẽ ‘tử tế với họ’ chưa phải là câu giải đáp thực sự,” vị mục sư giải thích. “Bà biết đấy, thật dễ mà tử tế với người khác với động cơ sai trật.”

“Ông muốn nói như thể ông đang cố gắng ‘mua chuộc’ họ à?”

“Đại khái là vậy. Tôi nghĩ tốt hơn tôi với bà nên cầu nguyện để Đức Chúa Trời ban cho bà một tình yêu thương thuộc linh chân thật đối với những láng giềng của bà. Nếu bà yêu thương họ theo cách thức của Chúa, bà sẽ không thể làm gì thiệt hại cho họ cả,” vị mục sư chỉ ra.


Phải mất vài tuần lễ, nhưng bà Barton tăng lên trong tình yêu thương đối với hàng xóm của mình và bà cũng thấy chính mình lớn lên trong đời sống thuộc linh riêng tư nữa.


“Những người lối xóm của tôi đã chẳng thay đổi nhiều lắm,” bà nói với nhóm cầu nguyện, “nhưng thái độ của tôi đối với họ đã thực sự thay đổi. Tôi đã từng làm cho họ nhiều điều để lấy cảm tình của họ. Nhưng bây giờ tôi làm mọi sự vì cớ Chúa Giê-xu, vì Ngài đã chết thay cho họ – và đó là điều quan trọng hơn hết trên đời này!”


Trong đoạn này của bức thư, Giăng đã đem chúng ta đến tận nền tảng của tình yêu thương Cơ-đốc. Nhưng ông vẫn còn nhiều điều để dạy dỗ chúng ta. Trong phần sau, ông đề cập tới tình yêu của cá nhân chúng ta đối với Đức Chúa Trời và cách Đức Chúa Trời làm cho tình yêu thương đó được trọn vẹn trong chúng ta.


Hai lãnh vực này của tình yêu thương Cơ-đốc không thể nào tách rời nhau được: nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ yêu thương nhau và nếu chúng ta yêu thương nhau, chúng ta sẽ lớn lên trong tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời.

Và cả hai câu trên đều đúng vì “Đức Chúa Trời là tình yêu thương.



 


9. YÊU THƯƠNG, TÔN KÍNH VÀ VÂNG LỜI (IGi 4:17- IGi 5:5)


Chàng rể tương lai hồi hộp vô cùng khi anh và vị hôn thê đang thảo luận những dự định đám cưới với vị mục sư của họ.


“Tôi muốn được xem bản những lời thề hứa hôn nhân,” chàng thanh niên nói và vị mục sư trao cho anh xem. Anh ta đọc cẩn thận, trao lại cho vị mục sư, rồi nói, “Thế này thì không được đâu! Trong đó không có viết gì về việc cô ấy phải vâng lời tôi cả!”


Vị hôn thê của anh mỉm cười, cầm tay anh, và nói, “Anh yêu, từ vâng lời không cần phải được viết ra trong một cuốn sách đâu. Nó đã được viết bằng tình yêu trong tim em rồi.”


Đây là lẽ thật được xem xét trong phần này của 1 Giăng. Cho đến thời điểm này, chúng ta đã nhấn mạnh việc Cơ-đốc nhân yêu thương lẫn nhau nhưng bây giờ chúng ta chuyển sang một đề tài sâu sắc hơn – và quan trọng hơn: tình yêu thương của một tín-đồ đối với Đức Chúa Cha. Chúng ta không thể yêu kẻ lân cận mình hoặc anh em mình trừ khi chúng ta yêu mến Cha thiên thượng của mình. Chúng ta phải trước hết yêu mến Đức Chúa Trời với cả tấm lòng mình rồi chúng ta mới có thể yêu thương người lân cận như yêu chính mình được.


Từ trọng tâm trong phần này là trọn vẹn. Đức Chúa Trời muốn làm cho tình yêu thương Ngài đối với chúng ta và tình yêu thương của chúng ta đối với Ngài nên trọn vẹn trong chúng ta. Từ trọn vẹn mang ý tưởng của sự trưởng thành và tính chất hoàn toàn, đầy đủ. Một tín-đồ không chỉ phải lớn lên trong ân điển và sự thông biết (IIPhi 3:18), mà người ấy cũng phải lớn lên trong tình yêu thương của mình đối với Đức Chúa Cha. Người ấy làm điều này để đáp lại tình yêu thương của Cha đối với mình.


Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta nhiều đến chừng nào? Đủ để sai Con Ngài chết thay cho chúng ta (Gi 3:16). Ngài yêu thương con cái Ngài giống như cách Ngài đã yêu Đấng Christ (Gi 17:23). Và Chúa Giê-xu phán với chúng ta rằng Đức Chúa Cha muốn tình yêu thương mà Ngài dùng yêu thương Con Ngài được ở trong con cái Ngài (c.26).


Nói cách khác, đời sống Cơ-đốc nhân phải là một sự từng trải hàng ngày về sự lớn lên trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Nó bao gồm việc một Cơ-đốc nhân phải tiến tới chỗ nhận biết Cha thiên thượng của mình cách càng sâu hơn khi người ấy lớn lên trong tình yêu thương.


Thật dễ mà chúng ta xé đời sống Cơ-đốc ra thành những mảnh nhỏ và bận tâm đến những mảnh vụn riêng rẽ thay vì chiêm ngưỡng bức ảnh cách toàn diện. Một nhóm có thể nhấn mạnh “sự thánh khiết” và giục giã các thành viên của mình phải đắc thắng tội lỗi.

Một nhóm khác có thể nhấn mạnh việc làm chứng, hay “sự tách biệt khỏi thế gian.” Nhưng mỗi sự nhấn mạnh này thực ra đều là một sản phẩm phụ của một điều gì khác: tình yêu thương của một tín đồ đối với Cha gia tăng lên. Tình yêu thương Cơ-đốc trưởng thành là nhu cầu phổ thông vĩ đại giữa vòng dân sự Đức Chúa Trời.


Làm thế nào một tín-đồ biết được rằng tình yêu thương của người ấy đối với Đức Chúa Cha đang được nên trọn vẹn? Đoạn này của 1 Giăng nêu lên bốn chứng cớ.


1. Lòng tin quyết (IGi 4:17-19)

Hai từ hoàn toàn mới xuất hiện trong từ vựng của Giăng ở đây: sự sợ hãi và hình phạt). Và điều này được viết cho tín đồ! Có thể nào Cơ-đốc nhân có thể thực sự sống trong sợ hãi và hình phạt chăng? Thật không may là ‘có’, nhiều người xưng là tín đồ từng trãi cả sự sợ hãi lẫn hình phạt ngày này sang ngày khác. Và lý do là họ không đang lớn lên trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời.


Từ sự dạn dĩ có thể có nghĩa là “sự tin quyết” hay “sự tự do phát biểu.” Nó không có nghĩa là sự trân tráo hay xấc láo. Một tín-đồ kinh nghiệm tình yêu thương trọn vẹn tăng trưởng trong lòng tin quyết đối với Đức Chúa Trời. Người ấy có một sự kính sợ Đức Chúa Trời, chứ không phải là một sự sợ hãi dằn vặt, dày vò.Người ấy là một người con tôn kính Cha mình, chứ không phải một tù nhân khúm núm trước một quan toà.


Chúng ta đã du nhập từ Hy-lạp ‘phobia’ có nghĩa là ‘nỗi sợ hãi’ vào từ vựng Anh ngữ:Tất cả những loại sợ hãi được liệt kê trong những quyển sách tâm lý học, chẳng hạn như acrophobia – “sợ độ cao, ” và hydrophobia – “sợ nước.” Giăng đang viết về krisisphobia – “sợ sự phán xét.” Giăng đã đề cập lẽ thật trang trọng này trong Gi 2:28, và giờ đây ông đề cập nó lần nữa.


Nếu người ta sợ, đó là vì một điều gì đó trong quá khứ ám ảnh họ, hoặc một điều gì đó trong hiện tại làm họ bối rối, hoặc một điều gì đó trong tương lai mà họ cảm thấy đe doạ họ. Hay đó có thể là một sự tổng hợp của cả ba điều này. Một người tin nơi Chúa Giê-xu Christ không cần phải sợ hãi quá khứ, hiện tại, hay tương lai, vì người ấy đã kinh nghiệm sự yêu thương của Đức Chúa Trời và tình yêu thương này đang được làm nên trọn vẹn trong người ấy liên tục mỗi ngày.


“Như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét” (Hêb 9:27).

Nhưng một Cơ-đốc nhân không sợ sự phán xét trong tương lai, vì Đấng Christ đã chịu sự đoán phạt thay người ấy trên thập tự giá.

“Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, ai nghe Lời Ta, và tin Đấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, nhưng vượt khỏi sự chết mà đến sự sống” (Gi 5:24).

“Vậy nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Chúa Giê-xu Christ” (Rô 8:1).

Đối với một Cơ-đốc nhân, sự đoán phạt không phải trong tương lai nó thuộc về quá khứ. Tội lỗi người ấy đã bị đoán phạt rồi tại thập tự giá, và chúng sẽ chẳng bao giờ bị đem ra để chống lại người nữa.


Bí quyết của sự dạn dĩ chúng ta là, “Như Chúa thể nào, thì chúng ta cũng thể ấy trong thế gian này” (IGi 4:17). Chúng ta biết rằng “Chúng ta sẽ nên giống như Ngài” khi Ngài trở lại (IGi 3:1,2), nhưng câu nói ấy chủ yếu ám chỉ thân thể vinh hiển người tín đồ sẽ nhận được (Phi 3:20,21). Về địa vị, chúng ta ngay hiện giờ “giống như Ngài.” Chúng ta được gắn bó thật chặt chẽ với Đấng Christ, như các phần trong thân thể Ngài, đến nỗi địa vị của chúng ta trong thế gian này giống như địa vị được tôn cao của Ngài trên thiên đàng.


Điều này có nghĩa là Đức Chúa Cha đối xử với chúng ta như Ngài đối xử với Con yêu dấu của chính Ngài. Vậy thì, làm thế nào chúng ta lại có thể sợ hãi được?


Chúng ta không cần phải sợ hãi tương lai, vì tội lỗi chúng ta đã bị đoán phạt trong Đấng Christ khi Ngài chết trên thập tự giá. Đức Chúa Cha không thể đoán phạt tội lỗi chúng ta một lần nữa mà không đoán phạt Con Ngài, vì “như Chúa thể nào, thì chúng ta cũng giống như Ngài trên thế gian này.”


Chúng ta không cần phải sợ hãi quá khứ, vì “Ngài đã yêu chúng ta trước.” Ngay từ buổi đầu, mối quan hệ giữa chúng ta với Đức Chúa Trời là một mối quan hệ của tình yêu thương. Không phải là chúng ta đã yêu Ngài, mà là Ngài đã yêu chúng ta (IGi 4:10). “Vì nếu khi chúng ta còn là thù nghịch cùng Đức Chúa Trời, mà đã được hoà thuận với Ngài bởi sự chết của Con Ngài, thì huống chi nay đã hoà thuận rồi, chúng ta sẽ nhờ sự sống của Con ấy mà được cứu là dường nào” (Rô 5:10).

Nếu Đức Chúa Trời đã yêu thương chúng ta khi chúng ta còn ở ngoài gia đình, bất tuân Ngài, thì giờ đây chúng ta là con cái Ngài, Ngài còn yêu thương chúng ta nhiều hơn biết dường nào!


Chúng ta không cần phải sợ hiện tại vì “tình yêu thương trọn vẹn cất bỏ sự sợ hãi” (IGi 4:18). Khi chúng ta lớn lên trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời, chúng ta không còn sợ hãi điều Ngài sẽ làm.


Dĩ nhiên có một sự “kính sợ Đức Chúa Trời” đúng đắn, nhưng đó không phải là loại sợ hãi sinh ra hình phạt. “Vì anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi, nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: ‘A ba! Cha! ’” (Rô 8:15). “Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình thương yêu và giè giữ” (IITim 1:7).


Sợ hãi thực ra là sự bắt đầu của hình phạt. Chúng ta tự dằn vặt mình khi đang chờ đợi điều sắp xảy ra. Nhiều người vô cùng đau khổ khi họ chờ đợi đi gặp nha sĩ khám răng. Hãy nghĩ đến một người chưa được cứu phải chịu đau khổ biết bao khi người ấy chờ đợi ngày phán xét.

Nhưng vì cớ một Cơ-đốc nhân có sự dạn dĩ trong ngày phán xét, người ấy có thể có sự vững tâm khi đối diện cuộc sống hôm nay, vì không có tình trạng nào của cuộc sống hôm nay bắt đầu sánh được với sự nghiêm minh kinh khiếp của ngày phán xét cả.


Đức Chúa Trời muốn con cái Ngài sống trong một bầu không khí yêu thương và tin quyết, chứ không phải trong sự sợ hãi và đau khổ dày vò. Chúng ta không cần phải sợ sự sống hay sự chết, vì chúng ta đang được nên trọn vẹn trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời.

“Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đấng Christ? Có phải hoạn nạn, khốn cùng, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm hay là gươm giáo chăng? Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần. Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Chúa Giê-xu Christ, là Chúa chúng ta” (Rô 8:35,37-39).


Hãy tưởng tượng thử! Không điều gì trong cả vũ trụ này – hiện tại hay tương lai –có thể xen vào giữa chúng ta với tình yêu thương của Đức Chúa Trời cả!


Sự trọn vẹn của tình yêu thương Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta thường là một vấn đề gồm nhiều giai đoạn. Khi chúng ta còn trong sự hư mất, chúng ta sống trong sợ hãi và không biết gì về tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Sau khi tin nơi Đấng Christ, chúng ta thấy trong lòng mình vừa sợ hãi vừa yêu thương lẫn lộn khiến chúng ta thấy bối rối.

Nhưng khi chúng ta lớn lên trong mối thông công với Đức Chúa Cha, dần dần sự sợ hãi tan biến đi và lòng chúng ta được cai quản bởi tình yêu thương của Ngài mà thôi. Một Cơ-đốc nhân còn con trẻ bị hoang mang giữa sự sợ hãi và tình yêu thương nhưng một Cơ-đốc nhân trưởng thành yên nghỉ trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời.


Một sự tin quyết ngày càng hơn trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời là một trong những chứng cớ đầu tiên rằng tình yêu thương của chúng ta đối với Đức Chúa Trời đang tăng trưởng. Nhưng sự tin quyết không bao giờ đứng một mình nó luôn dẫn đến những kết quả khác về phương diện đạo đức.


2. Sự chân thật (IGi 4:20-21)

Đây là lần thứ bảy chúng ta đọc thấy câu này: “Ví có ai nói rằng . . .! ” Chúng ta đã gặp câu quan trọng này nhiều lần, và mỗi lần chúng ta đều biết điều đang xảy đến: một lời cảnh cáo chống lại sự giả bộ.


Sự sợ hãi và giả bộ thường đi chung với nhau. Trên thực tế, chúng được sinh ra một lượt khi người nam và người nữ đầu tiên phạm tội. Ngay khi A-đam và Ê-va ý thức tội lỗi của mình họ liền tìm cách trốn khỏi Đức Chúa Trời và che giấu sự loã lồ của mình đi. Nhưng cả sự che đậy lẫn lời bào chữa của họ không thể che khuất họ khỏi ánh mắt nhìn thấy tất cả của Đức Chúa Trời. A-đam cuối cùng đã thú thật, “Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ” (Sa 3:10).


Nhưng khi lòng chúng ta tin quyết đối với Đức Chúa Trời, chúng ta không cần phải giả bộ, hoặc với Đức Chúa Trời hay với con người. Một Cơ-đốc nhân thiếu sự tin chắc với Đức Chúa Trời cũng sẽ thiếu sự tin chắc với dân sự của Đức Chúa Trời. Một phần của sự đau khổ dày vò (hình phạt) mà sự sợ hãi sản sinh ra là nỗi lo lắng thường xuyên,

“Những người khác thật sự biết về tôi đến mức nào?” Nhưng khi chúng ta có sự tin quyết với Đức Chúa Trời, sự sợ hãi này tan biến đi và chúng ta có thể đối diện Đức Chúa Trời lẫn con người mà không hề lo lắng.


“Trong Hội thánh của mục sư có bao nhiêu tín-hữu?” một người khách hỏi vị mục sư.

“Khoảng gần một ngàn,” vị mục sư đáp.

“Chắc hẳn đó là một số đông người mà ông phải cố làm hài lòng đấy!” người khách kêu lên.

“Này anh bạn, tôi muốn xác quyết với anh là tôi chưa bao giờ cố gắng làm hài lòng mọi tín-đồ của mình cả, hay thậm chí một số người trong họ cũng vậy,” vị mục sư mỉm cười nói. “Tôi chỉ nhằm làm hài lòng một người thôi – đó là Cứu Chúa Giê-xu. Nếu tôi đúng với Ngài, thì mọi sự giữa tôi với tín-hữu mình sẽ tốt đẹp cả.”


Một Cơ-đốc nhân còn non trẻ không đang lớn lên trong tình yêu thương đối với Đức Chúa Trời có thể nghĩ là mình phải gây cho người khác ấn tượng rằng mình “thuộc linh”. Sự sai lầm này biến người ấy thành một kẻ nói dối! Người ấy đang tuyên xưng một điều mà mình không đang thực sự thực hành người ấy đang đóng một vai diễn thay vì đang sống thực.


Có lẽ thí dụ tốt nhất của tội lỗi này được nhìn thấy trong kinh nghiệm của A-na-nia và Sa-phi-ra (Công 5:1-11). Họ bán một mảnh đất và đem một phần tiền đến dâng cho Chúa, nhưng họ tạo ấn tượng là họ đang dâng trọn số tiền. Tội của hai người này không phải là trong việc lấy bớt tiền của Đức Chúa Trời, vì Phi-e-rơ vạch rõ rằng số tiền dâng là tùy nơi họ (c.4). Tội của họ là sự giả hình. Họ đang cố gắng làm cho người ta nghĩ rằng họ rộng rãi hơn và thuộc linh hơn con người thật của họ.


Giả bộ là một trong những hoạt động ưa thích nhất của trẻ con, nhưng chắc chắn nó không phải là một dấu hiệu của sự trưởng thành nơi người lớn. Những người trưởng thành phải biết chính mình và phải là chính mình, làm trọn những mục đích mà Đấng Christ đã vì đó cứu họ. Đời sống họ phải được bày tỏ bằng sự chân thật.


Sự chân thật thuộc linh đem đến sự bình an và năng quyền cho người thực hành nó.Người ấy không cần phải ghi nhớ những lời giả dối mình đã nói, và người ấy không đang dùng sức mình để che đậy. Vì người ấy sống chân thật minh bạch với Đức Chúa Cha, người ấy có thể sống chân thật với những người khác.

Tình yêu thương và lẽ thật đi chung nhau. Vì người ấy biết Đức Chúa Trời yêu mình và chấp nhận mình (ngay cả với mọi lỗi lầm của người ấy), người ấy không đang cố gắng tạo ấn tượng nơi người khác. Người ấy yêu mến Đức Chúa Trời, và vì thế người ấy yêu thương anh em trong Chúa của mình.


Thứ hạng của Jerry tụt thấp hơn nhiều so với thành tích anh thường đạt được, và thêm vào đó, sức khoẻ anh lại đang suy yếu dần. Người bạn mới cùng phòng lo lắng cho anh và cuối cùng thuyết phục anh đến gặp giáo sư khải đạo của trường.


“Tôi không thể nào hiểu nổi,” Jerry thú thật. “Năm ngoái tôi học vượt hẳn cả trường, còn năm nay thì giống như đang vật lộn với việc học vậy.”

“Anh không gặp phiền hà gì với người bạn mới cùng phòng chứ?” giáo sư khải-đạo hỏi.


Jerry không trả lời ngay, và điều này đem đến cho vị khải đạo một manh mối.


“Jerry này, anh đang tập trung vào việc sống đời sống của một sinh viên tốt, hay vào việc cố gắng tạo ấn tượng nơi người bạn mới cùng phòng về khả năng của mình?”

“A, tôi chắc là vậy rồi,” Jerry trả lời với một tiếng thở phào nhẹ nhỏm. “Tôi đã làm cho mình mệt nhoài trong việc ráng sức bề ngoài và không còn đủ năng lực để sống nữa.”


Sự tin quyết đối với Đức Chúa Trời và chân thật với người khác là hai dấu hiệu của sự trưởng thành nhất định phải lộ ra khi lòng yêu mến Đức Chúa Trời của chúng ta đang được làm nên trọn vẹn.


3. Sự vâng lời cách vui mừng (IGi 5:1-3)

Không chỉ là sự vâng lời – mà là sự vâng lời cách vui mừng! “Điều răn của Ngài không phải là nặng nề” (c.3).


Mọi vật trong thế gian – ngoại trừ con người – đều vâng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời.

“Hỡi lửa và mưa đá, tuyết và hơi nước, gió bão vâng theo mệnh lệnh Ngài” (Thi 148:8).

Trong sách Giô-na, bạn thấy sóng gió, và cả con cá cũng vâng theo mệnh lệnh Đức Chúa Trời nhưng vị tiên tri cứ khăng khăng không chịu vâng lời.Ngay đến một dây dưa và một con sâu cũng làm theo điều Đức Chúa Trời ra lệnh.Nhưng vị tiên tri cứ bướng bỉnh mong muốn theo ý riêng mình.


Sự bất tuân ý chỉ Đức Chúa Trời là một tai hoạ– nhưng sự vâng lời miễn cưỡng cũng vậy. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta bất tuân Ngài, nhưng Ngài cũng không muốn chúng ta vâng lời vì sợ hãi hoặc vì bắt buộc. Những gì Phao-lô nói về việc ban cho cũng áp dụng với việc sống nữa: “không phải vì miễn cưỡng hoặc vì ép uổng, vì Đức Chúa Trời yêu người hiến tặng một cách vui lòng” (IICôr 9:7).


Bí quyết của sự vâng lời cách vui mừng là gì?

Phải nhận biết rằng sự vâng lời là một vấn đề của gia đình. Chúng ta đang hầu việc một Người Cha đầy yêu thương và đang giúp đỡ anh chị em trong Chúa của mình. Chúng ta đã được sinh bởi Đức Chúa Trời chúng ta yêu Đức Chúa Trời, và chúng ta yêu con cái Đức Chúa Trời. Và chúng ta bày tỏ tình yêu thương này bằng cách vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời.


Một phụ nữ nọ đến thăm văn phòng của một biên tập viên báo, hy vọng sẽ bán được cho ông ta một số bài thơ bà đã sáng tác.


“Thơ của bà nói về đề tài gì?” biên tập viên hỏi.

“Chúng nói về tình yêu!” nữ thi sĩ nhanh nhẩu đáp.


Biên tập viên ngồi dựa vào ghế và nói, “Được rồi, mời bà đọc thử tôi nghe một bài thơ đi. Thế giới này chắc hẳn có thể cần dùng đến nhiều tình yêu hơn nữa đấy!”


Bài thơ bà đọc đầy những mặt trăng và những Tháng Sáu và những tình cảm ướt át, hơn là điều biên tập viên có thể hiểu được.

Tôi rất tiếc,” ông nói , “nhưng bà thật chẳng biết tình yêu là gì cả! Tình yêu không phải là ánh trăng thanh và bông hồng thắm. Tình yêu là ngồi thức suốt đêm bên giường bệnh, hay làm việc thêm giờ để bọn trẻ có thể có giày mới mang. Thế giới không cần loại tình yêu trong thi ca của bà đâu. Thế giới cần loại tình yêu thực tế đẹp đẽ đã có từ lâu đời.”


D.L. Moody thường nói, “Mỗi quyển Kinh Thánh cần phải được đóng bìa bằng da dày.” Chúng ta bày tỏ tình yêu thương của mình đối với Đức Chúa Trời, không phải bằng lời lẽ rỗng tuếch mà bằng hành động sốt sắng. Chúng ta không phải là những nô lệ vâng lời một ông chủ chúng ta là con cái vâng lời một người Cha. Và tội lỗi chúng ta là một vấn đề của gia đình.


Một trong những thử nghiệm của tình yêu thương đang lớn lên là thái độ của cá nhân chúng ta đối với Kinh Thánh, vì trong Kinh Thánh chúng ta tìm thấy ý muốn của Đức Chúa Trời đối với đời sống chúng ta được bày tỏ. Một người chưa được cứu xem Kinh Thánh là một quyển sách không thể chấp nhận được, chính vì người ấy không hiểu sứ điệp thuộc linh của nó (ICôr 2:14).

Một Cơ-đốc nhân con trẻ xem những điều đòi hỏi của Kinh Thánh là nặng nề. Người ấy phần nào giống như một đứa bé đang học tập vâng lời, và luôn hỏi, “Tại sao con phải làm điều đó?” hay “Làm điều này không tốt hơn hay sao?”


Nhưng một Cơ-đốc nhân từng trải tình yêu thương làm nên trọn vẹn của Đức Chúa Trời thấy mình ham thích Lời Đức Chúa Trời và thật sự yêu mến Lời ấy. Người ấy không đọc Kinh Thánh như một quyển sách giáo khoa, mà như một bức thư tình.


Chương dài nhất trong Kinh Thánh là Thi 119:1-176, và chủ đề của nó là Lời của Đức Chúa Trời. Trừ ra hai câu (c.122,132), các câu khác đều nói đến Lời Đức Chúa Trời trong hình thức này hoặc hình thức khác, như “luật pháp,” “giềng mối,”“điều răn” v. v. . .

Nhưng điều thú vị là tác giả Thi-thiên yêu mến Lời Đức Chúa Trời và ưa thích nói với chúng ta về Lời ấy! “Tôi yêu mến luật pháp Chúa biết bao!” (c.97). Ông vui mừng, vui vẻ về Luật pháp Chúa (c.14,162) và ưa thích, hỉ lạc trong Lời Ngài (c.16,24). Lời Chúa là mật ong trong miệng ông (c.103). Thực tế, ông biến Luật pháp Đức Chúa Trời thành một bài ca: “Các luật lệ Chúa làm bài hát tôi tại nhà tôi ở làm khách lạ” (c.54).


Hãy tưởng tượng việc chuyển các luật lệ thánh thành những bài hát. Giả sử dàn nhạc giao hưởng địa phương trình diễn một đêm luật lệ giao thông phổ thành nhạc! Hầu hết chúng ta không xem các luật lệ là một nguồn ca hát vui mừng, nhưng đây là cách tác giả thi thiên xem xét Luật pháp Đức Chúa Trời.

Bởi vì ông yêu mến Chúa, nên ông yêu mến Luật pháp Ngài. Các điều răn của Đức Chúa Trời không khổ sở và nặng nề cho ông. Giống như một đứa con vui sướng vâng theo mệnh lệnh của cha mình, một Cơ-đốc nhân với tình yêu thương làm nên trọn vẹn cũng vui sướng vâng theo mệnh lệnh Đức Chúa Trời như vậy.


Tại điểm này, chúng ta có thể hồi tưởng lại và hiểu được ý nghĩa thực tiễn của “tình yêu thương đang tăng trưởng” trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Khi tình yêu thương của chúng ta đối với Đức Chúa Cha trưởng thành, chúng ta có sự vững tâm và không còn sợ hãi ý chỉ của Ngài nữa.

Chúng ta cũng chân thật đối với những người khác và mất sự sợ hãi bị khước từ. Và chúng ta có một thái độ mới đối với Lời Đức Chúa Trời: đó là sự bày tỏ tình yêu thương của Đức Chúa Trời, và chúng ta ưa thích vâng theo Lời ấy. Sự vững tâm đối với Đức Chúa Trời, sự chân thật đối với người khác, và sự vâng lời cách vui mừng là những dấu hiệu của tình yêu thương nên trọn vẹn và là những thành phần tạo nên một đời sống Cơ-đốc hạnh phúc.


Chúng ta cũng có thể nhìn thấy tội lỗi huỷ hoại tất cả những điều này ra sao. Khi chúng ta bất tuân Đức Chúa Trời chúng ta mất đi sự dạn dĩ đối với Ngài. Nếu chúng ta không lập tức xưng tội mình và cầu xin Ngài tha thứ (IGi 1:9), chúng ta phải bắt đầu giả bộ để che đậy. Sự bất tuân đưa đến sự không thành thật, và cả hai điều này xoay lòng chúng ta khỏi Lời Đức Chúa Trời. Thay vì đọc Lời Ngài với sự vui mừng để khám phá ra ý muốn Đức Chúa Cha, chúng ta phớt lờ Lời ấy hoặc có lẽ đọc nó theo một thông lệ thôi.


Gánh nặng của tôn giáo (con người cố gắng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng sức riêng của mình) là một gánh nặng khổ sở (Mat 23:4) nhưng ách mà Đấng Christ đặt trên chúng ta thì không nặng nề chút nào (Mat 11:28-30).

Tình yêu thương làm những gánh nặng nhẹ đi. Gia cốp đã phải làm việc bảy năm để có được người nữ ông yêu mến, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng “nhưng bởi yêu nàng, nên coi bảy năm bằng chừng đôi ba bữa” (Sa 28:20). Tình yêu thương nên trọn vẹn sinh ra sự vâng lời cách vui mừng.


4. Sự đắc thắng (IGi 5:4-5)

Vị nữ thần chiến thắng của Hy-lạp là Nike, mà tình cờ đó cũng là tên của một tên lửa đối không của Mỹ. Cả hai đều được đặt tên theo từ Hy-lạp nike (NEE kay) đơn giản có nghĩa là chiến thắng. Nhưng sự chiến thắng có liên hệ gì đến tình yêu thương đang tăng trưởng?


Cơ-đốc nhân sống trong một thế giới thực hữu và bị vây bọc bởi những trở lực đáng sợ. Vâng lời Đức Chúa Trời thật không dễ. Nhưng bị thế gian cuốn trôi đi, không vâng lời Ngài, và “làm theo ý riêng bạn” thì dễ hơn nhiều.


Nhưng Cơ-đốc nhân được “sinh bởi Đức Chúa Trời.” Điều này có nghĩa là người ấy có bản tính thiên thượng trong lòng mình, và bản tính thiên thượng này không thể nào không vâng lời Đức Chúa Trời. “Vì hễ chi sinh bởi Đức Chúa Trời thì thắng hơn thế gian” (c. 4).

Nếu bản tính cũ điều khiển chúng ta, chúng ta không vâng lời Đức Chúa Trời nhưng nếu bản tính mới điều khiển, chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời. Thế gian thu hút đối với bản tính cũ (IGi 2:15-17) và cố gắng làm cho các điều răn của Đức Chúa Trời dường như nặng nề.


Sự đắc thắng của chúng ta là một kết quả của đức tin, và chúng ta lớn lên trong đức tin khi chúng ta lớn lên trong tình yêu thương. Càng yêu thương một người nào, bạn càng dễ dàng tin cậy người ấy hơn. Tình yêu thương của chúng ta đối với Đấng Christ càng nên trọn vẹn hơn, thì đức tin của chúng ta nơi Đấng Christ cũng càng nên trọn vẹn hơn vì đức tin và tình yêu thương cùng trưởng thành song song nhau.


Từ thắng hơn là một từ được Giăng ưa thích ông dùng từ này trong IGi 2:13-14 liên quan tới việc thắng hơn ma quỉ. Ông dùng từ này bảy lần trong Khải huyền để mô tả các tín-đồ và những phước hạnh họ nhận được (IGi 2:7,11,17,26; IGi 3:5,12,21). Ông không đang mô tả một tầng lớp tín-hữu đặc biệt. Đúng hơn, ông đang dùng từ kẻ đắc thắng như một danh xưng dành cho Cơ-đốc nhân chân chính. Vì chúng ta đã được sinh bởi Đức Chúa Trời, nên chúng ta là những kẻ đắc thắng.


Chúng tôi được thuật lại là có một binh sĩ trong quân đội của Alexander đại đế không chiến đấu anh dũng tại chiến trường. Khi lẽ ra phải đang tiến tới trước, anh ta lại nấn ná ở phía sau.

Nhà chiến lược đại tài tiến đến gần anh ta và hỏi, “Anh lính kia, tên anh là gì?”

Người lính đáp, “Thưa ngài, tên tôi là Alexander.”


Đại đế Alexander nhìn thẳng vào mắt anh ta và nói cách kiên quyết: “Anh lính kia, hãy xông ra trận và chiến đấu đi – nếu không hãy đổi tên anh đi!”


Tên của chúng ta là gì? “Con cái Đức Chúa Trời – những kẻ được sinh lại của Đức Chúa Trời.” Alexander đại đế muốn tên mình là một biểu tượng của lòng dũng cảm tên của chúng ta hàm chứa sự đảm bảo của chiến thắng. Được sinh bởi Đức Chúa Trời có nghĩa là được chia sẻ sự đắc thắng của Đức Chúa Trời.


Đây là một đắc thắng của đức tin, nhưng đức tin nơi điều gì? Đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời! Người thắng hơn thế gian là người “tin rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời” (IGi 5:5). Không phải đức tin nơi chính mình, mà chính đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ ban cho chúng ta sự đắc thắng. “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi!” (Gi 16:33).


Sự đồng nhất hóa với Đấng Christ trong sự đắc thắng của Ngài nhắc chúng ta nhớ đến nhiều lần chúng ta đã đọc “như Chúa thể nào” trong thư tín của Giăng. “Như Chúa thể nào, thì chúng ta cũng phải thể ấy trong thế gian này.” (IGi 4:17).

Chúng ta cần phải bước đi trong sự sáng “như chính Ngài ở trong sự sáng” (IGi 1:7). Nếu chúng ta tự nhận là ở trong Ngài, thì chúng ta cần phải làm theo như chính Ngài đã làm (IGi 2:6). Con cái Ngài tại trên đất này sẽ phải giống như Ngài tại trên trời. Chúng ta chỉ cần xác nhận địa vị diệu kỳ này bởi đức tin – và hành động theo điều đó.


Khi Chúa Giê-xu Christ chết, chúng ta cùng chết với Ngài. Phao-lô nói, “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ” (Ga 2:20). Khi Đấng Christ bị chôn, chúng ta cùng bị chôn với Ngài. Và khi Ngài sống lại, chúng ta cùng sống lại với Ngài. “Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-tem trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy” (Rô 6:4).


Khi Đấng Christ thăng thiên, chúng ta cùng thăng thiên với Ngài và hiện nay đang ngồi với Ngài tại các nơi trên trời (Eph 2:6). Và khi Đấng Christ trở lại, chúng ta sẽ chia sẻ sự tôn cao của Ngài. “Khi nào Đấng Christ, là sự sống của chúng ta, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển” (Côl 3:4).


Tất cả những câu này mô tả địa vị thuộc linh của chúng ta trong Đấng Christ. Khi chúng ta xác nhận địa vị này bởi đức tin, chúng ta chia sẻ sự đắc thắng của Ngài. Khi Đức Chúa Trời khiến Chúa Giê-xu Christ từ kẻ chết sống lại, Ngài “làm cho Đấng Christ ngồi bên hữu mình tại các nơi trên trời, cao hơn hết mọi quyền, mọi phép, mọi thế lực, mọi quân chủ, cùng mọi danh vang ra . . . và Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ” (Eph 1:20-22).

Điều này có nghĩa là, về vị trí, mỗi con cái Đức Chúa Trời được ban cho đặc quyền ngồi cao hơn hết mọi kẻ thù nghịch mình!


Chỗ ngồi của một người xác định mức độ thẩm quyền người ấy có thể thực thi. Người ngồi trong chiếc ghế tổng giám đốc có một phạm vi thẩm quyền có giới hạn người ngồi trong chiếc ghế phó chủ tịch thực thi quyền hành nhiều hơn. Nhưng người ngồi phía sau chiếc bàn ghi hàng chữ Chủ Tịch thực thi thẩm quyền nhiều nhất.

Dù cho người đó có thể đang ở đâu trong nhà máy hay văn phòng, người đó vẫn được mọi người kính trọng và vâng lời vì cớ chỗ ngồi của mình. Quyền thế của người đó được xác định bởi vị trí của người, chứ không bởi diện mạo riêng hay cách người cảm nhận.


Một con cái Đức Chúa Trời cũng vậy: thẩm quyền của người ấy được xác định bởi vị trí của người trong Đấng Christ. Khi người ấy tin vào Đấng Christ, người ấy được đồng nhất hoá với Ngài bởi Đức Thánh Linh và được trở nên một phần tử của Thân Ngài (ICôr 12:12-13). Đời sống cũ của người ấy đã bị chôn và người ấy đã được sống lại trong một đời sống mới đầy vinh hiển. Trong Đấng Christ, người ấy đang ngồi trên ngai cai trị cả cõi vũ trụ này!


Một cựu chiến binh của cuộc nội chiến thường đi lang thang từ nơi này sang nơi khác ăn xin để kiếm sống và luôn kể về “Ông bạn Lincoln” của mình. Vì các thương tật, ông không thể có một việc làm thường xuyên. Nhưng bao lâu ông còn có thể đi đây đó, ông vẫn còn nói chuyện về vị tổng thống yêu dấu của mình.

“Ông nói ông biết Ông Lincoln à,” một hôm một người bàng quang hoài nghi hỏi vặn ông. “Tôi không thật tin chắc là ông biết ông ta. Hãy chứng minh đi!”

Người cựu chiến binh già nua đáp, “Ồ, dĩ nhiên, tôi có thể chứng minh chứ. Thực tế là tôi có một mảnh giấy đây do chính Ông Lincoln đã ký và trao cho tôi.”


Từ chiếc bóp cũ kỹ của mình, ông lấy ra một mảnh giấy được gấp lại nhiều lần và đưa cho người kia xem.

“Tôi không biết đọc nhiều,” ông xin lỗi, “nhưng tôi biết đó là chữ ký của Ông Lincoln.”

“Này ông, ông có biết mình có cái gì ở đây không?” một trong những người đứng xem hỏi. “Ông có một số tiền trợ cấp rộng rãi của liên bang do tổng thống Lincoln cấp cho. Ông không phải đi đây đó như một kẻ ăn xin khốn khổ nữa! Ông Lincoln đã làm cho ông được giàu có rồi!


Điều này diễn giải những gì Giăng đã viết: “Anh em là những Cơ-đốc nhân không cần phải đi quanh trong sự đại bại, vì Chúa Giê-xu Christ đã khiến anh em thành những kẻ đắc thắng! Ngài đã đánh bại mọi kẻ thù nghịch và anh em được chia sẻ sự đắc thắng của Ngài. Giờ đây, bởi đức tin, hãy nhận lấy sự đắc thắng của Ngài.”


Dĩ nhiên, điều then chốt là đức tin, nhưng đức tin luôn là chìa khóa của Đức Chúa Trời để đắc thắng. Những người nam và nữ vĩ đại được kể tên trong Hêb 11:1-40 thảy đều giành được sự đắc thắng của mình “bởi đức tin.” Họ chỉ nắm lấy Lời Hứa của Đức Chúa Trời và hành động nương trên lời ấy, và Ngài tôn cao đức tin của họ và ban cho họ sự đắc thắng.

Đức tin không đơn giản là nói rằng điều Đức Chúa Trời phán là thật đức tin thật là hành động nương trên những gì Đức Chúa Trời phán vì nó là thật. Có người đã nói rằng đức tin không phải là tin tưởng thật nhiều bất chấp chứng cớ thế nào, mà là vâng lời bất chấp hậu quả ra sao.


Đức tin đắc thắng là kết quả của tình yêu thương đang trưởng thành. Càng nhận biết Chúa Giê-xu Christ và yêu Ngài hơn, chúng ta càng dễ tin cậy Ngài hơn trong những nhu cầu và những chiến trận của đời sống. Điều quan trọng là tình yêu thương đang trưởng thành này phải trở nên một việc thường xuyên và thực tiễn trong đời sống hàng ngày của chúng ta.


Làm thế nào một tín-đồ có thể kinh nghiệm loại tình yêu thương này và những phước hạnh tuôn tràn từ đó?


Trước hết, loại tình yêu thương này phải được vun xới. Nó không phải là kết quả của một tình bạn may rủi! Một sự nghiên cứu trước đây vạch ra rằng một tín-đồ sa ngã vào thế gian bằng những giai đoạn:


1. Làm bạn với thế gian (Gia 4:4).

2. Bị ô uế bởi thế gian (Gia 1:27).

3. Yêu mến thế gian (IGi 2:15-17).

4. Làm theo thế gian (Rô 12:2).


Mối tương quan giữa chúng ta với Chúa Giê-xu Christ, theo một cách thức tương tự, lớn lên bằng nhiều giai đoạn:


1. Chúng ta phải vun xới tình bằng hữu với Đấng Christ.

Áp-ra-ham là “bạn hữu của Đức Chúa Trời” (Gia 2:23) vì người tự phân rẽ khỏi thế gian và làm theo những gì Đức Chúa Trời phán dạy người. Đời sống người không trọn vẹn, nhưng khi người phạm tội, người xưng nhận tội lỗi và trở lại đồng đi với Đức Chúa Trời ngay.


2. Tình bằng hữu này sẽ bắt đầu ảnh hưởng đời sống chúng ta.

Khi chúng ta đọc Lời Chúa và cầu nguyện, và khi chúng ta thông công với dân sự Đức Chúa Trời, những vẻ đẹp Cơ-đốc sẽ bắt đầu lộ ra trong chúng ta. Tư tưởng chúng ta sẽ được thanh sạch hơn, lời nói chúng ta có ý nghĩa hơn, những ao ước của chúng ta lành mạnh hơn. Nhưng chúng ta sẽ không được biến đổi đột ngột và hoàn toàn đó là một quá trình tiệm tiến.


3. Tình bằng hữu của chúng ta với Đấng Christ và việc chúng ta trở nên giống như Ngài sẽ đưa đến một tình yêu thương sâu đậm hơn với Đấng Christ.

Về mặt con người, tình bằng hữu thường dẫn đến tình yêu thương. Về mặt thiên thượng, tình bằng hữu với Đấng Christ phải đưa đến tình yêu thương. “Chúng ta yêu Ngài vì Ngài đã yêu chúng ta trước” (IGi 4:19).

Lời Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương của Ngài với chúng ta, và Thánh Linh Đức Chúa Trời ngự trong lòng khiến cho tình yêu thương này càng ngày càng thực hữu đối với chúng ta. Hơn nữa, tình yêu thương này được thực hiện trong đời sống chúng ta trong sự vâng lời hàng ngày. Tình yêu thương Cơ-đốc không phải là một cảm xúc thoáng qua nó là một sự hiến dâng thường xuyên, một ước ao sâu kín làm đẹp lòng Đấng Christ và làm theo ý muốn Ngài.


4. Càng biết Ngài nhiều hơn chúng ta càng yêu mến Ngài hơn, và càng yêu mến Ngài hơn chúng ta càng trở nên giống Ngài hơn“được nên giống hình bóng Con Ngài” (Rô 8:29). Dĩ nhiên chúng ta sẽ không hoàn toàn được nên giống Đấng Christ cho đến khi chúng ta thấy Ngài (IGi 3:1-3) nhưng chúng ta sẽ phải bắt đầu quá trình đó ngay bây giờ.


Thật là một sự phấn khích để sống! Khi tình yêu

thương của Đức Chúa Trời được nên trọn vẹn trong chúng ta, chúng ta có sự vững tâm đối với Ngài và không sống trong sự sợ hãi. Vì sự sợ hãi được cất bỏ đi, chúng ta có thể thành thật và cởi mở không cần thiết phải giả bộ.

Và vì sự sợ hãi tan biến, sự vâng lời của chúng ta đối với các mệnh lệnh Ngài được phát sinh từ tình yêu thương, chứ không phải nỗi khiếp sợ. Chúng ta khám phá ra rằng các điều răn Ngài không hề nặng nề.Cuối cùng, sống trong bầu không khí yêu thương, thành thật, và vâng lời cách vui mừng này, chúng ta có thể đương đầu với thế gian với đức tin đắc thắng và chiến thắng thay vì bị đánh bại.


Chỗ bắt đầu không phải là ở một kinh nghiệm táo bạo, đột ngột nào đó. Chỗ bắt đầu là ở nơi cầu nguyện yên lặng, riêng tư. Phi-e-rơ mong muốn phó sự sống mình cho Chúa Giê-xu, nhưng khi được Chúa bảo phải cầu nguyện, Phi-e-rơ đã ngủ gục (Lu 22:31-33,39-46). Một tín-đồ bắt đầu một ngày trong việc đọc Lời Chúa, suy gẫm lời ấy, và thờ phượng Đấng Christ bằng sự cầu nguyện và ngợi khen sẽ kinh nghiệm tình yêu thương nên trọn vẹn này.


Khi việc này bắt đầu, người ấy sẽ biết được – và những người khác cũng sẽ biết nữa. Đời sống người ấy sẽ được biểu thị bởi sự tin quyết, lòng thành thật, sự vâng lời cách vui mừng, và sự đắc thắng.



 


10. BẠN BIẾT CHẮC ĐIỀU GÌ? (IGi 5:6-21)


“Không có gì chắc chắn ngoài ra sự chết và tiền thuế.”


Benjamin Franklin đã viết những lời này vào năm 1789. Dĩ nhiên, một người khôn ngoan như Franklin biết rằng nhiều điều khác cũng chắc chắn. Cơ-đốc nhân cũng biết rằng có nhiều điều chắc chắn. Về lẽ thật thuộc linh, Cơ-đốc nhân không ngại phải nói, “Chúng tôi biết!” Trên thực tế, từ biết xuất hiện 39 lần trong bức thư ngắn ngủi của Giăng, tám lần trong chương kết thư này.


Con người có một khao khát sâu xa về điều chắc chắn, và thậm chí họ sẽ học đòi trong lãnh vực huyền bí với nỗ lực của mình để tìm ra một điều gì chắc chắn.

Một thương gia nói với vị mục sư của mình khi dùng bữa tối với ông, “Ông có nhìn thấy những văn phòng bên kia đường không? Trong đó một số các nhà lãnh đạo kinh doanh có ảnh hưởng nhất trong thành phố này đang họp. Nhiều người trong số họ đã từng đến đây thường xuyên để cầu vấn một bà thầy bói. Bà ta không còn ở đây nữa, nhưng vài năm trước ông có thể đếm lên tới hàng triệu đô-la trong căn phòng này khi những người đó chờ đợi để cầu vấn bà ta.”


Sự sống thật được xây dựng trên những điều chắc chắn thiên thượng được tìm thấy trong Chúa Giê-xu Christ. Thế gian có thể lên án Cơ-đốc nhân là kiêu ngạo và độc đoán, nhưng điều này không ngăn người ấy nói rằng, “Tôi biết!” Trong những câu kết của thư tín Giăng chúng ta tìm thấy năm điều chắc chắn của Cơ-đốc nhân dựa trên đó chúng ta có thể xây dựng đời sống mình với lòng tin quyết.


1. Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời (IGi 5:6-10)

Trong IGi 5:1-5, sự nhấn mạnh nhằm vào việc tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Một người tin nơi Đấng Christ được sinh bởi Đức Chúa Trời và có thể thắng hơn thế gian. Việc tin rằng Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời là điều cơ bản đối với từng trải của Cơ-đốc nhân.


Nhưng làm thế nào chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời? Một số người đồng thời với Ngài gọi Ngài là một kẻ nói dối và một người phỉnh gạt (Mat 27:63). Những người khác cho Ngài là một kẻ cuồng tín, một kẻ mất trí, hoặc có lẽ một nhà ái quốc Do-thái chân thành nhưng lại nhầm lẫn cách đáng buồn.

Giăng vạch trần cho độc giả của ông một sự dạy dỗ giả dối phổ biến rằng Chúa Giê-xu chỉ là một con người mà “Đấng Christ” đã ngự vào khi Ngài chịu báp-tem. Trên thập tự giá, “Đấng Christ” lìa khỏi Chúa Giê-xu (“Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ Tôi?”) và vì vậy Ngài đã chết giống như bất cứ con người nào khác.


Thư tín Giăng bác bẻ lại việc dạy dỗ sai trật này: Nó trình bày ba chứng cớ không thể sai được để chứng minh rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời.


Chứng thứ nhất – Nước.

Chúa Giê-xu đã đến “bằng nước và huyết”. Nước liên hệ tới việc báp-têm của Ngài tại sông Giô-đanh, khi Đức Chúa Cha phán từ trời rằng, “Này là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mat 3:13-17). Cùng lúc ấy Đức Thánh Linh ngự xuống như chim bồ câu và đậu trên Ngài. Đây là lời chứng của Đức Chúa Cha về Con Ngài vào buổi đầu của chức vụ Chúa Giê-xu.


Chứng thứ nhì – Huyết.

Nhưng Đức Chúa Cha ban lời chứng sâu xa hơn khi giờ Chúa Giê-xu phải chết đến gần. Ngài phán tỏ tường với Chúa Giê-xu từ trên trời rằng, “Ta đã làm sáng danh (danh của Ta) rồi, và ta sẽ còn làm cho sáng danh nữa” (Gi 12:28).

Hơn thế nữa, Đức Chúa Cha làm chứng trong quyền năng diệu kỳ khi Chúa Giê-xu đang bị treo trên thập tự giá: sự tối tăm siêu nhiên, cơn động đất, và bức màn trong Đền thờ xé đôi (Mat 27:45,50-53). Không ngạc nhiên gì khi viên sĩ quan la to lên, “Thật người này là Con Đức Chúa Trời!” (Mat 27:54).


Chúa Giê-xu đã không nhận “Đấng Christ” khi Ngài chịu báp-tem và đánh mất “Đấng Christ” tại thập tự giá. Trong cả hai trường hợp, Đức Chúa Cha đều làm chứng cho thần tính của Con Ngài.


Chứng thứ ba – Thánh Linh.

Đức Thánh Linh được ban xuống để làm chứng cho Đấng Christ (Gi 15:26; Gi 16:14). Chúng ta có thể tin vào lời chứng của Đức Thánh Linh vì “Thánh Linh là lẽ thật.” Chúng ta không có mặt tại lúc Chúa Giê-xu chịu báp-têm hoặc tại lúc Ngài chịu chết, nhưng có Đức Thánh Linh hiện diện.

Đức Thánh Linh là Thân vị duy nhất hoạt động trên đất ngày nay đã từng hiện diện khi Đấng Christ đang thi hành chức vụ tại đây.

Lời chứng của Đức Chúa Cha là lịch sử đã qua, nhưng lời chứng của Thánh Linh là kinh nghiệm hiện tại.Lời chứng thứ nhất ở bên ngoài, lời chứng thứ nhì ở bên trong – và cả hai đều phù hợp nhau.


Làm thế nào Thánh Linh làm chứng bên trong lòng của một tín hữu? “Thật anh em đã chẳng nhận lấy thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu lên rằng, ‘A ba! Cha! ’Chính Đức Thánh Linh làm chứng cho lòng chúng ta rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời” (Rô 8:15,16). Lời chứng của Ngài là sự tin quyết bên trong của chúng ta rằng chúng ta thuộc về Đấng Christ – không phải một sự tin quyết do chúng ta tự “tạo nên” cho mình, mà là một sự tin quyết do Đức Chúa Trời ban cho chúng ta.


Thánh Linh cũng làm chứng với chúng ta qua Lời Đức Chúa Trời. Khi chúng ta đọc Lời Đức Chúa Trời, Ngài phán với chúng ta và dạy dỗ chúng ta. Điều này không đúng đối với một người chưa được cứu (ICôr 2:14) nó chỉ đúng với một tín đồ mà thôi.


Một Cơ-đốc nhân cảm thấy “thoải mái tự nhiên” với dân sự Đức Chúa Trời vì Thánh Linh ngự trong người ấy. Đây là một cách khác Thánh Linh làm chứng.


Luật pháp đòi hỏi hai hoặc ba người làm chứng để một vấn đề được giải quyết (Phuc 19:15). Đức Chúa Cha làm chứng tại lúc báp-tem và tại thập tự giá, và Thánh Linh làm chứng ngày nay bên trong lòng người tín đồ. Thánh Linh, nước, và huyết giải quyết vấn đề: Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời.


(Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng IGi 5:7 của bản Kinh Thánh Authorized Version không nằm trong thư này, nhưng việc loại bỏ nó không ảnh hưởng việc dạy dỗ chút nào.)


Chúng ta nhận lời chứng của con người, vậy tại sao chúng ta lại khước từ lời chứng của Đức Chúa Trời?


Người ta thường nói, “Ước gì tôi có thể có đức tin!” Nhưng mọi người đều sống bởi đức tin! Trọn cả ngày, người ta luôn tin nhau. Họ tin vị bác sĩ và người dược sĩ họ tin người đầu bếp trong nhà hàng họ tin cả người đang lái xe trong đường dành cho xe khác trên xa lộ. Nếu chúng ta có thể tin con người, tại sao chúng ta không thể tin Đức Chúa Trời? Và không tin Ngài là đã biến Ngài thành một kẻ nói dối!


Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời: đây là điều chắc chắn trước tiên của Cơ-đốc nhân, và nó là nền tảng đối với mọi điều khác.


2. Tín đồ có sự sống đời đời (IGi 5:11-13)

Từ trọng tâm trong IGi 5:6-10 là sự làm chứng, đôi khi được dịch là “ghi lại” hay “chứng thực.” Đức Chúa Trời làm chứng cho Con Ngài, nhưng Ngài cũng làm chứng cho con cái Ngài – cho cá nhân các tín đồ. Chúng ta biết rằng chúng ta có sự sống đời đời! Không chỉ có sự làm chứng của Thánh Linh bên trong lòng nhưng còn có sự làm chứng của Lời Đức Chúa Trời. “Ta viết những đều này cho các con, hầu cho các con biết mình có sự sống đời đời, là kẻ nào tin đến danh Con Đức Chúa Trời” (c.13).


Sự sống đời đời là một quà tặng nó không phải là một điều gì đó chúng ta kiếm được (Eph 2:8,9; Gi 10:27-29). Nhưng quà tặng này là một Người – Chúa Giê-xu Christ.Chúng ta nhận sự sống đời đời không chỉ từ Đấng Christ, mà còn trong Đấng Christ nữa. “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống” (IGi 5:12). Không chỉ “sự sống” mà là “sự sống thật” (ITi 6:19).


Quà tặng này được nhận lãnh bởi đức tin. Đức Chúa Trời đã tiếp tục ghi lại trong Lời Ngài khi ban tặng sự sống đời đời cho những ai sẽ tin vào Chúa Giê-xu Christ. Hàng triệu Cơ-đốc nhân đã chứng minh rằng điều ghi lại của Đức Chúa Trời là thật. Không tin điều đó là biến Đức Chúa Trời thành một kẻ nói dối. Và nếu Đức Chúa Trời là một kẻ nói dối, không điều gì là chắc chắn cả.


Đức Chúa Trời muốn con cái Ngài biết rằng họ thuộc về Ngài. Giăng được Thánh Linh cảm thúc viết Sách Phúc Âm Giăng để xác quyết với chúng ta rằng “Chúa Giê-xu là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời” (Gi 20:31). Ông viết thư tín này hầu chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời (IGi 5:13).


Tại điểm này sẽ hữu ích khi xem xét lại những đặc tính của con cái Đức Chúa Trời:

“Người nào làm theo sự công bình, ấy là kẻ bởi Đức Chúa Trời mà sinh ra” (IGi 2:29).

“Ai sinh bởi Đức Chúa Trời thì chẳng phạm tội” (IGi 3:9).

“Chúng ta biết rằng mình đã vượt từ sự chết qua sự sống, vì chúng ta yêu anh em mình” (IGi 3:14).

“Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau, vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời: kẻ nào yêu thì sinh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (IGi 4:7).

“Vì hễ sự gì sinh bởi Đức Chúa Trời, thì thắng hơn thế gian” (IGi 5:4).


Nếu bạn mang những “đặc điểm” này, bạn có thể nói với sự tin quyết rằng bạn là con của Đức Chúa Trời.


Khi Sir James Simpson, người khám phá ra chất gây mê, đang trên giường hấp hối, một người bạn hỏi ông, “Thưa ông, những điều suy đoán của ông là gì?”

Ông Simpson đáp: “Những điều suy đoán à! Tôi chẳng có điều suy đoán nào cả! ‘Vì tôi biết tôi đã tin Đấng nào, và tôi chắc rằng Đấng ấy có quyền phép giữ sự tôi đã phó thác cho đến ngày đó.’”


3. Đức Chúa Trời đáp lời cầu xin (IGi 5:14-15)

Một điều cần phải biết đó là Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời và chúng ta là con cái Ngài: nhưng còn về những nhu cầu và những nan đề của đời sống hàng ngày thì sao? Chúa Giê-xu cứu giúp mọi người khi Ngài còn ở tại thế này liệu Ngài có còn cứu giúp họ chăng? Cha trên đất này chăm lo cho con cái mình liệu Cha trên trời có đáp lời khi con cái của Ngài kêu cầu Ngài chăng?


Cơ-đốc nhân có sự dạn dĩ trong khi cầu nguyện, y như họ có sự dạn dĩ khi chờ đợi sự phán xét (IGi 2:28; IGi 4:17). Như chúng ta đã thấy, từ dạn dĩ có nghĩa là “tự do phát biểu.” Chúng ta có thể đến với Đức Chúa Cha cách tự do và trình dâng với Ngài những nhu cầu của chúng ta.

Dĩ nhiên, có những điều kiện chúng ta phải thoả mãn.


-Trước hết, chúng ta phải có một tấm lòng không lên án chúng ta (IGi 3:21,22). Tội lỗi không được xưng ra là một trở lực đáng sợ đối với lời cầu xin được nhậm (Thi 66:18). Đáng phải lưu ý là những sự khác biệt giữa một người chồng Cơ-đốc với vợ người ấy có thể ngăn trở lời cầu nguyện của họ (IPhi 3:1-7). Nếu có điều gì giữa chúng ta với bất cứ Cơ-đốc nhân nào khác, chúng ta phải giải quyết nó (Mat 5:23-25). Nếu một tín đồ không ở trong Đấng Christ, trong tình yêu thương và sự vâng lời thì những lời cầu nguyện của người ấy sẽ không được nhậm (Gi 15:7).


-Thứ hai, chúng ta phải cầu xin trong ý muốn Đức Chúa Trời. “Ý Cha được nên” (Mat 6:10).

Robert Law đã viết, “Sự cầu nguyện là một công cụ đầy năng quyền, không phải để ý muốn con người được thực hiện trên trời, mà để ý muốn Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất này.”

George Mueller, người đã nuôi hàng ngàn trẻ mồ côi với thực phẩm được cung cấp bởi sự đáp lời cầu nguyện, nói: “Cầu nguyện không phải là việc thắng hơn sự không sẵn lòng của Đức Chúa Trời. Đó là việc nắm chặt lấy sự sốt sắng của Đức Chúa Trời vậy.”


Có những lần chúng ta chỉ có thể cầu xin, “Xin ý Ngài được nên chứ không theo ý con,” đơn giản là vì chúng ta không biết ý muốn Đức Chúa Trời trong một vấn đề nào đó. Nhưng phần lớn thời gian chúng ta có thể xác định ý muốn Đức Chúa Trời bởi việc đọc Lời Ngài, lắng nghe tiếng phán của Thánh Linh (Rô 8:26,27), và nhận thức rõ những hoàn cảnh chung quanh mình. Chính đức tin cầu xin Đức Chúa Trời một điều gì đó của chúng ta thường là bằng chứng rằng Ngài muốn ban cho điều đó (Hêb 11:1).


Có nhiều lời hứa trong Kinh Thánh chúng ta có thể cầu xin trong khi cầu nguyện. Đức Chúa Trời đã hứa chu cấp các nhu cầu của chúng ta (Phi 4:19) – chứ không phải những sự tham lam của chúng ta! Nếu chúng ta đang vâng theo ý muốn Ngài và thật sự cần một điều gì đó, Ngài sẽ chu cấp điều đó theo cách của Ngài và vào thời điểm của Ngài.


“Nhưng nếu Đức Chúa Trời muốn ban cho tôi một điều gì, thì tại sao tôi lại cần phải cầu nguyện về điều đó?” Vì cầu nguyện là cách Đức Chúa Trời mong muốn con cái Ngài nhận được điều họ cần. Đức Chúa Trời không chỉ quy định mục đích, nhưng Ngài cũng quy định phương tiện để đạt được mục đích – sự cầu nguyện. Và bạn càng suy nghĩ về điều đó, sự sắp đặt này càng trở nên tuyệt diệu biết bao. Sự cầu nguyện thật sự là nhiệt kế của đời sống thuộc linh. Đức Chúa Trời đã quy định là tôi phải giữ một sự bước đi gần gũi với Ngài nếu tôi trông mong Ngài đáp ứng nhu cầu của mình.


Giăng không viết, “Chúng ta sẽ có những lời cầu xin,” nhưng, “Chúng ta biết chúng ta có những lời cầu xin” (IGi 5:15). Động từ ở thì hiện tại. Chúng ta có thể không thấy sự đáp lời cho một lời cầu nguyện ngay tức khắc, nhưng chúng ta có sự tin quyết trong lòng rằng Đức Chúa Trời đã nhậm lời. Sự tin quyết này, hay đức tin, là “bằng chứng của những điều không thấy được” (Hêb 11:1). Chính Đức Chúa Trời làm chứng với chúng ta rằng Ngài đã nghe và đã nhậm lời chúng ta.


Việc thở đối với một người thuộc thể như thế nào, thì sự cầu nguyện đối với một người thuộc linh cũng thể ấy. Nếu chúng ta không cầu nguyện, chúng ta “mệt mỏi” (Lu 18:1). Cầu nguyện không chỉ là lời nói thoát ra trên đôi môi nó cũng là sự ước ao của tấm lòng.

“Hãy cầu nguyện không thôi” (ITês 5:17) không có nghĩa là một Cơ-đốc nhân cứ luôn cầu nguyện thành tiếng.

Không phải chúng ta được nhậm vì cớ lời nói nhiều của mình (Mat 6:7). Không đâu, “Hãy cầu nguyện không thôi” nói lên thái độ của tấm lòng cũng như lời nói trên môi miệng. Một Cơ-đốc nhân có tấm lòng tập trung vào Đấng Christ và đang cố gắng tôn vinh Ngài là đang cầu nguyện không thôi thậm chí khi người ấy không ý thức về điều đó.


Charles Spurgeon, nhà truyền-đạo nổi tiếng, đang hết sức cố gắng soạn một bài giảng nhưng không thể nào hoàn thành được. Trời càng khuya và vợ ông nói, “Sao anh không đi ngủ đi. Em sẽ đánh thức anh dậy sớm và anh có thể hoàn tất bài giảng của mình vào buổi sáng.”


Spurgeon ngủ mơ màng và trong giấc ngủ ông bắt đầu giảng bài giảng mà ông đang phải bận tâm! Vợ ông ghi lại những gì ông nói và sáng hôm sau đưa cho người chồng truyền-đạo của bà những phần ghi chú.


“Ồ, đó chính là điều mà anh muốn nói đấy!” vị truyền-đạo đầy kinh ngạc kêu lên. Sứ điệp đã có sẵn trong lòng ông nó chỉ cần được diễn tả ra mà thôi. Với sự cầu nguyện cũng vậy: nếu chúng ta đang ở trong Đấng Christ, chính những ước ao của lòng chúng ta đã được Đức Chúa Trời nghe dù chúng ta có nói lên thành lời hay không.


Những trang Kinh Thánh và những trang sử đều đầy những lời tường thuật về sự cầu nguyện được nhậm. Cầu nguyện không phải là sự tự thôi miên thuộc linh. Chúng ta cũng không cầu nguyện vì nó khiến chúng ta cảm thấy mình tốt hơn. Chúng ta cầu nguyện vì Đức Chúa Trời đã ra lệnh chúng ta phải cầu nguyện và vì cầu nguyện là phương tiện được Đức Chúa Trời chỉ định để một tín-đồ nhận được những gì Đức Chúa Trời muốn ban cho người ấy.

Cầu nguyện giữ một Cơ-đốc nhân trong ý muốn của Đức Chúa Trời và việc sống trong ý muốn Đức Chúa Trời giữ một Cơ-đốc nhân trong chỗ phước hạnh và hầu việc Ngài. Chúng ta không phải là những kẻ ăn xin chúng ta là con cái đang đến với một người Cha giàu có yêu thích ban cho con cái Ngài những gì chúng cần.


Mặc dầu Ngài là Đức Chúa Trời trong xác thịt, Chúa Giê-xu vẫn lệ thuộc vào sự cầu nguyện. Ngài sống trên đất, như chúng ta phải sống, trong sự lệ thuộc vào Đức Chúa Cha. Ngài dậy sớm vào buổi sớm mai để cầu nguyện (Mac 1:35), mặc dầu Ngài đã thức khuya đêm trước để chữa bệnh cho đoàn dân đông. Đôi khi Ngài trải qua cả đêm trong sự cầu nguyện (Lu 6:12).

Tại Ghết sê ma nê, Ngài “đã kêu lớn tiếng khóc lóc” mà dâng những lời cầu nguyện nài xin (Hêb 5:7).

Trên thập tự giá Ngài đã cầu nguyện ba lần. Nếu Con Đức Chúa Trời không hề phạm tội đã cần phải cầu nguyện, thì chúng ta còn cần phải cầu nguyện nhiều hơn biết bao?


Điều quan trọng nhất về sự cầu nguyện là ý muốn của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải dành thời gian để biết chắc ý muốn của Đức Chúa Trời trong một vấn đề là gì, đặc biệt tìm kiếm những lời hứa hoặc những nguyên tắc trong Kinh Thánh áp dụng vào tình huống của chúng ta. Một khi chúng ta biết được ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể cầu nguyện với sự tin quyết và rồi chờ đợi Ngài bày tỏ sự đáp lời.


4. Cơ-đốc nhân Không Cố Ý Phạm Tội (IGi 5:16-19)

“Chúng ta biết rằng ai sinh bởi Đức Chúa Trời, thì hẳn chẳng phạm tội” (c.18). “Ai sinh bởi Đức Chúa Trời thì chẳng miệt mài trong tội” (IGi 3:9). Tội lỗi thỉnh thoảng vi phạm không được xem xét ở đây, mà là tội lỗi có tính cách thường xuyên, sự cố ý phạm tội. Vì một tín đồ có một bản tính mới (“hạt giống của Đức Chúa Trời,” IGi 3:9), người ấy có những ước muốn và những ham thích mới và không ưa thích tội lỗi nữa.


Một Cơ-đốc nhân đối diện ba kẻ thù, tất cả đều mong muốn dẫn người ấy vào tội lỗi: thế gian, xác thịt, và ma quỉ.


Thế gian “phục dưới quyền của ma quỷ” (IGi 5:19), tức Sa-tan – chúa đời này (IICo 4:3,4)và vua thế gian này (Gi 14:30). Hắn là thần hiện đang hành động trong các con bạn nghịch (Eph 2:2).


Sa-tan có nhiều công cụ để dẫn một tín-đồ vào tội lỗi. Hắn nói dối, như hắn đã làm với Ê-va (IICôr 11:1-3; Sa 3:1-24), và khi con người tin những lời dối trá của hắn họ quay đi và bất tuân lẽ thật của Đức Chúa Trời. Hoặc, Sa-tan có thể gây ra sự đau đớn trên thân thể như hắn đã làm cho Gióp và Phao-lô (IICôr 12:7-9).

Trong trường hợp của Đa-vít, Sa-tan dùng sự kiêu ngạo như vũ khí của người và xúi giục Đa-vít tu bộ dân sự và bằng cách này đã coi thường Đức Chúa Trời (ISu 21:1-30), Sa-tan giống như một con rắn lừa dối (Kh 12:9) và như một con sư tử hay cắn xé (IPhi 5:8,9). Hắn là một kẻ thù đáng khiếp sợ.


Tiếp đến là vấn đề của xác thịt, tức bản tính cũ mà chúng ta được sinh ra và hiện vẫn còn trong chúng ta. Đúng vậy, chúng ta có một bản tính mới (hạt giống thiên thượng, IGi 3:9) bên trong chúng ta, nhưng chúng ta không luôn luôn đầu phục bản tính mới của mình.


Kẻ thù thứ ba của chúng ta là thế gian (IGi 2:15,17). Chúng ta dễ mà đầu hàng những điều mê tham của xác thịt, những điều mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời! Bầu không khí quanh chúng ta khiến chúng ta khó mà giữ tâm trí mình thanh sạch và tấm lòng chúng ta đúng với Đức Chúa Trời.


Vậy thì làm thế nào một tín-đồ giữ mình khỏi phạm tội?

Câu 18 của chương 5 đem đến lời giải đáp: Chúa Giê-xu Christ giữ gìn người tín-đồ để kẻ thù không thể tra tay trên người ấy. “Đấng (Đấng Christ) sinh bởi Đức Chúa Trời giữ gìn người ấy (người tín-đồ) và ma quỷ chẳng lạm hại người được” (bản dịch New American Standard).

Bản văn Authorized tạo ấn tượng là một tín đồ tự giữ lấy mình khỏi tội lỗi, nhưng đây không phải là điều câu này nói. Dĩ nhiên, đúng là một Cơ-đốc nhân phải tự giữ mình trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời (Giu 1:21) nhưng không đúng ở chỗ một Cơ-đốc nhân phải nhờ vào chính mình để thắng hơn Sa-tan


Từng trải của Phi-e-rơ với Sa-tan giúp chúng ta hiểu được lẽ thật này.

“Hỡi Si-môn, Si-môn,” Chúa Giê-xu phán, “Nầy, quỷ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. Nhưng ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy, đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình” (Lu 22:31,32).


Trước hết là, Sa-tan không thể làm hại bất cứ người tín đồ nào nếu Đức Chúa Trời không cho phép. Sa-tan muốn sàng sảy tất cả các môn đệ, và Chúa Giê-xu đã cho phép hắn. Nhưng Chúa Giê-xu đã cầu nguyện đặc biệt cho Phi-e-rơ, và lời cầu nguyện của Ngài đã được nhậm. Mặc dù Phi-e-rơ đã thiếu lòng can đảm, nhưng cuối cùng đức tin của ông đã không thiếu thốn. Phi-e-rơ đã được phục hồi và trở nên một người chinh phục linh hồn đầy quyền năng và kết quả.


Bất cứ khi nào Sa-tan tấn công chúng ta, chúng ta có thể chắc chắn rằng Đức Chúa Trời cho phép hắn. Và nếu Đức Chúa Trời đã cho phép hắn thì Ngài cũng sẽ ban cho chúng ta năng quyền để thắng hơn, vì Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ cho phép chúng ta bị thử nghiệm vượt quá sức mình (ICôr 10:13).


Một trong những đặc tính của “những người trẻ tuổi thuộc linh” là khả năng thắng hơn ma quỉ của họ (IGi 2:13,14). Bí quyết của họ là gì? “Lời Đức Chúa Trời ở trong anh em” (IGi 2:14). Một phần của khí giới của Đức Chúa Trời là gươm của Thánh Linh (Eph 6:17), và gươm này thắng hơn Sa-tan.


Khi một tín đồ phạm tội, người ấy có thể xưng tội mình và được tha thứ (IGi 1:9). Nhưng một tín-đồ không dám đùa giỡn với tội lỗi, vì tội lỗi là sự trái luật pháp (IGi 3:4, nơi “sự vi phạm Luật pháp” có nghĩa là “vô luật pháp”). Một người tiếp tục phạm tội cho thấy là người ấy thuôc về Sa-tan (IGi 3:7-10). Hơn nữa, Đức Chúa Trời cảnh cáo chúng ta rằng tội lỗi có thể dẫn đến sự chết thuộc thể!


“Mọi sự không công bình đều là tội, ” nhưng có tội thì tồi tệ hơn tội khác. Mọi tội lỗi đều gớm ghiếc đối với Đức Chúa Trời, và cần phải gớm ghiếc đối với một tín-đồ nhưng có tội đến nỗi chết. Giăng cho chúng ta biết (IGi 5:16,17) về trường hợp của một người anh em (một tín-hữu) bị cất lấy sự sống vì cớ tội lỗi.


Thánh Kinh đề cập đến những người đã chết vì tội lỗi mình. Na-đáp và A-bi-hu, hai con trai của thầy tế lễ A-rôn, đã chết vì họ cố tình không vâng lời Đức Chúa Trời (Lê 10:1-7). Cô-rê và bộ tộc người chống nghịch lại Đức Chúa Trời và đã chết (Dan 16:1-50). A-can bị ném đá vì người bất tuân những mệnh lệnh của Giô-suê do Đức Chúa Trời truyền phán tại Giê-ri-cô (Gios 6:1-7:26). Một người tên là U-xa chạm vào hòm giao ước và Đức Chúa Trời đã giết chết người (IISa 6:1-23).


“Nhưng đó là những tấm gương trong Cựu-ước thôi!” một số người có thể tranh cãi. “Giăng đang viết cho các tín-hữu sống dưới ân điển trong thời Tân-ước kia mà!”


Ai được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều. Một tín-đồ ngày nay có một trách nhiệm phải vâng lời Đức Chúa Trời lớn lao hơn nhiều so với các thánh thời Cựu-ước. Chúng ta có một quyển Thánh Kinh trọn vẹn, chúng ta có sự mạc khải đầy đủ về ân-điển của Đức Chúa Trời, và chúng ta có Đức Thánh Linh đang sống trong chúng ta để giúp chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời. Nhưng có những trường hợp trong Tân Ước về những tín đồ bị mất sự sống mình vì họ đã bất tuân Đức Chúa Trời.


A-na-nia và Sa-phi-ra đã nói dối với Đức Chúa Trời về việc dâng hiến của mình, và cả hai đã chết (Công 5:1-11). Một số tín-hữu tại Cô-rinh-tô đã chết vì cách xử sự của họ tại lễ Tiệc Thánh (ICôr 11:30). Và ICôr 5:1-5 đề xuất rằng một người phạm tội nào đó rất có thể sẽ phải chết nếu người ấy không chịu ăn năn và xưng nhận tội lỗi mình (IICôr 2:6-8).


Nếu một tín hữu không đoán xét, xưng ra, và lìa bỏ tội, Đức Chúa Trời phải sửa phạt người ấy. Quá trình này được mô tả trong Hêb 12:1-13, gợi ý là một người không vâng phục Đức Chúa Cha sẽ không được sống (c.9). Nói cách khác, trước tiên Đức Chúa Trời “sửa phạt” con cái phản nghịch của Ngài, và nếu họ không chịu thuận phục ý muốn của Ngài, Ngài có thể cất họ khỏi thế gian kẻo sự không vâng lời của họ dẫn những kẻ khác đi sai lạc và khiến danh Ngài càng bị sỉ nhục hơn.


“Tội đến nỗi chết” không phải là một tội cụ thể riêng biệt nào đó. Đúng hơn, nó là một loại tội – nó là thứ tội lỗi dẫn đến sự chết. Với Na-đáp và A-bi-hu, đó là hành động kiêu căng ngạo mạn trong việc giành lấy chức vụ của thầy tế lễ và vào trong nơi chí thánh. Trong trường hợp của A-can đó là tội tham lam. A-na-nia và Sa-phi-ra phạm tội giả hình và thậm chí dối gạt Đức Thánh Linh.


Nếu một Cơ-đốc nhân nhìn thấy một anh em đang phạm tội, người ấy cần phải cầu nguyện cho anh em đó (IGi 5:16), cầu xin cho người ấy xưng ra tội lỗi mình và trở lại trong mối thông công với Đức Chúa Cha. Nhưng nếu trong sự cầu nguyện của mình, người ấy không cảm thấy là mình đang cầu xin trong ý muốn Đức Chúa Trời (như được dạy trong c.14,15), thì người ấy không nên cầu nguyện cho người anh em đó. “Cho nên ngươi chớ vì dân này mà cầu thay đừng vì nó mà cất tiếng khấn vái cầu nguyện, cũng đừng cầu thay cùng ta, vì ta sẽ chẳng nghe ngươi” (Giê 7:16).


Gia 5:14-20 phần nào giống với IGi 5:16,17. Gia-cơ mô tả một tín đồ bị đau ốm, có thể vì cớ tội lỗi của mình. Người ấy mời các trưởng lão đến và cầu nguyện cho người. Sự cầu nguyện bởi đức tin chữa lành cho người ấy và nếu người đã phạm tội thì tội lỗi người được tha. “Sự cầu nguyện bởi đức tin” là sự cầu nguyện trong ý muốn của Đức Chúa Trời, như được mô tả trong IGi 5:14,15. Đó là “cầu nguyện trong Thánh Linh” (Giu 1:20).


Cơ-đốc nhân không cố ý phạm tội. Họ có bản tính thiên thượng bên trong Chúa Giê-xu Christ canh giữ họ, và họ không muốn sự sửa phạt của Đức Chúa Trời.


5. Sự sống Cơ-đốc là sự sống thật (IGi 5:20-21)

Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời chân thật. Chúng ta biết Đấng chân thật, và chúng ta ở trong Ngài là Đấng chân thật. Chúng ta có “điều chân thật”!


“Chúng ta biết rằng sự sống thật của chúng ta là ở trong Đấng chân thật, và ở trong Chúa Giê-xu Christ, Con của Ngài. Đây là Đức Chúa Trời chân thật và đây là sự sống đời đời, chân thật” (c.20). Sự thật là chủ đề xuyên suốt thư tín của Giăng, và giờ đây chúng ta lại được nhắc đến điều đó một lần nữa.


Giăng có lẽ đang viết cho các tín hữu tại thành Ê-phê-sô, một thành phố đắm mình trong sự thờ lạy hình tượng. Đền thờ nữ thần Diana, một trong các kỳ quan của thế giới cổ xưa, được toạ lạc tại Ê-phê-sô, và việc chế tạo và buôn bán các hình tượng là một trong những nghề chính của người dân tại đó (Công 19:21-41). Bị vây bọc bởi sự thờ lạy hình tượng, Cơ-đốc nhân tại đó ở dưới áp lực kinh khiếp phải hoà nhập theo.


Nhưng “chúng ta biết thần tượng trong thế gian thật hư không, chỉ có một Đức Chúa Trời, chớ không có thần nào khác” (ICôr 8:4). Đó là, “một thần tượng không thực sự hiện hữu”. Tai họa của sự thờ lạy hình tượng là một hình tượng chết không thể đem lại lợi ích gì cho kẻ thờ lạy nó vì nó không có thật. Các tác giả Hy-bá-lai trong Cựu-ước gọi các hình tượng là “những sự hư không, những điều vô nghĩa, những vật hư ảo, sự trống rỗng”. Hình tượng là vật thay thế vô ích, vô tri giác cho điều chân thật.


Các Thi-thiên chứa đựng những bản cáo trạng cay độc của sự thờ lạy hình tượng (Thi 115:1-8; Thi 135:15-18). Đối với cái nhìn của con người, một hình tượng trông có vẻ thật – có mắt, tai, miệng, mũi, tay, chân – nhưng những điều này chỉ là những sự bắt chước điều chân thật cách có ích. Mắt chẳng thấy, tai chẳng nghe, miệng chẳng nói, tay chân thì bại liệt. Nhưng tai hoạ thật sự chính là “Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó, đều giống như nó” (Thi 115:8). Chúng ta trở nên giống như những gì chúng ta thờ lạy!


Đây là bí quyết của sự sống thật. Vì chúng ta đã thấy Đức Chúa Trời chân thật, qua Con Ngài là Chúa Giê-xu Christ, chúng ta tiếp xúc với sự thật. Mối thông công của chúng ta là với một Đức Chúa Trời chân thật. Như chúng ta đã thấy, từ “chân thật” có nghĩa là “bản gốc tương phản với một bản sao chép” và “sự đích thực tương phản với một sự bắt chước.” Chúa Giê-xu Christ là Sự Sáng thật (Gi 1:9), và Bánh thật (Gi 6:32), Gốc nho thật (Gi 15:1), và chính Lẽ thật (Gi 14:6). Ngài là Nguyên bản mọi vật khác đều là một bản sao chép. Ngài là đích thực mọi vật khác chỉ là một sự bắt chước mà thôi.


Cơ-đốc nhân sống trong một bầu không khí của sự thật. Hầu hết những người chưa được cứu sống trong một bầu không khí của sự giả bộ và điều không chân thật. Cơ-đốc nhân đã được ban cho sự phân biệt các thần để biết thần chân thật và thần giả dối, nhưng những người chưa được cứu không có sự thông hiểu này. Cơ-đốc nhân không chỉ chọn giữa cái tốt và cái xấu họ chọn giữa cái đúng và cái sai.

Một hình tượng tượng trưng cho cái giả dối và trống rỗng và một người sống cho các hình tượng chính mình sẽ trở nên giả dối và trống rỗng.


Ngày nay ít người quỳ trước các hình tượng bằng gỗ và kim loại. Thế nhưng, các hình tượng khác thu hút sự chú ý và sự ham mến của họ. Sự tham lam, chẳng hạn, là sự thờ lạy hình tượng (Côl 3:5). Một người có thể thờ lạy quyển sổ ngân hàng của mình cách nhiệt thành y như một người được gọi là ngoại đạo thờ lạy hình tượng xấu xa của mình.

“Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi” (Mat 4:10). Điều chúng ta hầu việc là điều chúng ta thờ phượng! Bất cứ điều gì làm chủ đời sống chúng ta và “sai khiến chúng ta” đều là thần của chúng ta.


Điều này giải thích vì sao Đức Chúa Trời cảnh cáo chúng ta đề phòng tội thờ lạy hình tượng. Nó không chỉ là một sự vi phạm điều răn của Ngài (Xu 20:1-6), mà nó còn là một cách thức tinh vi để Sa-tan điều khiển chúng ta. Khi “những điều thuộc đời này” chiếm chỗ của Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta, chúng ta đã phạm tội thờ hình tượng. Điều này có nghĩa là chúng ta đang sống cho những gì hư ảo thay cho những gì chân thật.


Đối với một người thuộc thế gian, đời sống Cơ-đốc là hư ảo và đời sống trần thế là thật. Điều này là vì một người thuộc thế gian sống bằng những gì mình trông thấy và cảm thấy (những điều thuộc đời này) chứ không bằng những gì Đức Chúa Trời phán trong Lời của Ngài. Hình tượng là sự tạm thời Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời đời đời.

“Vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà những sự không thấy được là đời đời không cùng vậy” (IICôr 4:18).


Giống như Môi-se, một Cơ-đốc nhân đứng vững trong thử thách “như thấy Đấng không thấy được” (Hêb 11:27). Đức tin là “bằng chứng của những điều không thấy được” (Hêb11:1). Nô-ê chưa hề nhìn thấy một cơn nước lụt, thế nhưng bởi đức tin người “thấy” nó đang đến và làm theo những gì Đức Chúa Trời phán bảo người làm. Áp-ra-ham “thấy” một thành và quê hương trên trời bởi đức tin, và sẵn sàng lìa bỏ nhà riêng trên đất này để đi theo Đức Chúa Trời.

Tất cả những anh hùng đức tin vĩ đại được kể tên trong Hêb 11:1-40 đã hoàn thành những điều họ thực hiện vì họ “thấy những điều không thấy được” bởi đức tin. Nói cách khác, họ đã tiếp xúc với sự thật.


Thế gian khoe khoang về ánh sáng văn minh của họ, nhưng một Cơ-đốc nhân bước đi trong sự sáng thật, vì Đức Chúa Trời là sự sáng. Thế gian nói về tình yêu thương, nhưng họ chẳng biết gì về tình yêu thương chân thật mà một Cơ-đốc nhân kinh nghiệm vì “Đức Chúa Trời là tình yêu thương”.

Thế gian phô bày sự khôn ngoan và tri thức của mình, nhưng một Cơ-đốc nhân sống trong lẽ thật vì “Thánh Linh là lẽ thật”. Đức Chúa Trời là sự sáng, tình yêu thương, và lẽ thật và những điều này kết hợp với nhau tạo nên một sự sống thật.


“Nhưng một người tin gì, điều đó không quan trọng, miễn người ấy thành thật thôi!”


Lời bào chữa phổ biến này hầu như không cần sự bác bẻ lại. Người dược sĩ, hay nhà phẫu thuật, hoặc nhà hóa học tin gì, điều đó có quan trọng không? Điều đó vô cùng quan trọng!


Hãy nhỏ lệ cho Jimmy Brown

Jimmy đáng thương không còn nữa.

Vì điều anh tưởng là H2O

Hóa ra lại là H2SO4!


Một Cơ-đốc nhân đã “trở lại cùng Đức Chúa Trời, bỏ hình tượng đặng thờ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật” (ITês 1:9). Các hình tượng đều chết, nhưng Đấng Christ là Đức Chúa Trời hằng sống. Các hình tượng đều giả dối, nhưng Đấng Christ là Đức Chúa Trời chân thật. Đây là bí quyết của sự sống thật!


Vì thế lời cảnh cáo của Giăng, “Hãy giữ mình về hình tượng,” có thể được diễn giải là, “Hãy cẩn thận về sự bắt chước và sự giả tạo và HÃY CHÂN THẬT!”



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023-2025 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page