top of page
1. SUY SỤP NHƯNG KHÔNG GỤC NGÃ (IICo 1:1-11)
1. Mở đầu (IICo 1:1-2)
“Có lẽ bạn tưởng tôi chẳng hề trải những thăng trầm của cuộc sống, nhưng chỉ có một lối bằng phẳng thênh thang của kiến thức thuộc linh với niềm vui và sự thanh thản miên man. Chẳng hề như vậy! Tôi thường cảm thấy hết sức khốn khổ và mọi sự dường như u ám nhất”.
Đó...
...là lời nói của Tiến sĩ John Henry Jowett, người từng được gọi là “Nhà truyền giáo lừng danh nhất trong giới nói tiếng Anh” vào thời ông. Làm mục sư ở những Hội Thánh lớn, ông đã giảng dạy cho những hội chúng đông đảo và viết ra những cuốn sách bán chạy nhất.
“Tôi là đối tượng của tinh thần chán nản thật đáng sợ đến nỗi tôi mong rằng không ai trong số các bạn rơi vào những thái cực khốn khổ như tôi.”
Những lời ấy được Charles Haddon Spurgeon chia sẻ trong một bài giảng. Chức vụ xuất sắc của ông tại Luân Đôn hẳn đã khiến ông trở nên nhà truyền giáo lừng lẫy nhất mà Anh quốc chưa từng có.
Nản lòng là tình trạng có thể xảy đến với mọi người, không phân biệt ai. Thật ra, sự nản lòng dường như tấn công những người thành đạt nhiều hơn những người không thành đạt Vì càng leo cao, chúng ta có thể bị ngã xuống sâu hơn. Chẳng ngạc nhiên gì khi chúng ta biết sứ đồ cao trọng như Phao-lô từng “bị đè nén quá chừng” và “đến nỗi mất lòng trông cậy giữ sự sống” (IICo 1:8). Cao trọng qua tính cách và chức vụ, nhưng Phao-lô cũng chỉ là con người như chúng ta.
Phao-lô có thể đã thoát được khỏi những gánh nặng nếu ông không được Chúa kêu gọi (IICo 1:1)và không quan tâm giúp đỡ người khác. Ông đã thành lập Hội Thánh tại Cô-rinh-tô và thi hành chức vụ ở đó được 1 năm 6 tháng (Cong 18:1-18). Khi những vấn đề nghiêm trọng của Hội Thánh xảy ra sau khi ông ra đi, ông cử Ti-mô-thê đến giải quyết những nan đề đó (ICo 4:17) và viết bức thư mà chúng ta gọi là ICô-rinh-tô.
Chẳng may, nan đề trở nên tệ hại hơn nên Phao-lô phải thực hiện chuyến viếng thăm “buồn rầu” đến Cô-rinh-tô đối phó với những kẻ gây rối (IICo 2:1). Dầu vậy, vẫn không có giải pháp nào cho nan đề này. Sau đó, Phao-lô viết một “bức thơ nghiêm khắc” được cộng sự của ông là Tít đem đi (IICo 2:4-9 IICo 7:8-12). Sau nhiều đau buồn, cuối cùng Phao-lô gặp lại Tít và được nghe tường thuật khích lệ rằng nan đề đã được giải quyết. Đó là lúc ông viết bức thư chúng ta gọi là IICô-rinh-tô.
Phao-lô viết thư này với nhiều lý do. Trước tiên, ông muốn khích lệ Hội Thánh tha thứ và phục hồi địa vị cho thuộc viên đã gây mọi rắc rối này (IICo 2:6-11). Ông cũng muốn giải thích lý do ông thay đổi kế hoạch (IICo 1:15-22) và bênh vực quyền sứ đồ của mình (IICo 4:1-2 IICo 10:1-12:21). Sau hết, ông muốn khích lệ Hội Thánh dự phần vào “việc quyên góp viện trợ” được ông phát động để giúp đỡ các thánh đồ nghèo khó xứ Giu-đê (IICo 8:1-9:15).
Một trong những từ quan trọng ở thư tín này là “yên ủi hay khích lệ” tiếng Hy Lạp có nghĩa “gọi về phía mình để giúp đỡ”. Động từ này được sử dụng 18 lần trong thư tín và danh từ 11 lần. Mặc cho mọi thử thách đã trải qua, Phao-lô (bởi ơn Đức Chúa Trời) vẫn có thể viết ra một bức thư chan chứa sự yên ủi.
Phao-lô có bí quyết thành công gì khi trải qua những áp lực và thử thách” Bí quyết của ông là Đức Chúa Trời. Lúc cảm thấy nản lòng và sắp bỏ cuộc, bạn đừng chú ý vào bản thân, và hãy hướng về Đức Chúa Trời. Bởi từng trải khốn khó của bản thân, Phao-lô cho chúng ta biết phương cách có thể tìm thấy sự yên ủi nơi Đức Chúa Trời. Ông cho chúng ta 3 điều nhắc nhở đơn giản.
2. Hãy nhớ Đức Chúa Trời là gì đối với bạn (IICo 1:3)
Phao-lô mở đầu thư tín bằng một bài ca chúc tụng. Chắc hẳn, ông không thể ca ngợi về những hoàn cảnh của mình, nhưng có thể ca ngợi Đức Chúa Trời Đấng tể trị mọi hoàn cảnh. Phao-lô biết rằng sự ngợi khen là một yếu tố quan trọng để đắc thắng sự nản lòng và cơn buồn phiền. “Ngợi khen thay đổi mọi sự” cũng giống như “cầu nguyện thay đổi mọi sự”.
Hãy ngợi khen Ngài vì Ngài là Đức Chúa Trời! Bạn thấy nhóm từ “ngợi khen Đức Chúa Trời” ở 2 chỗ trong Kinh Thánh Tân Ước: Eph 1:3 và IPhi 1:3. Ở Eph 1:3 Phao-lô ngợi khen Đức Chúa Trời về điều Ngài thực hiện trong quá khứ, khi “chọn chúng ta trong (Đấng Christ)” (Eph 1:4) và ban cho chúng ta “đủ mọi thứ phước thiêng liêng”. Ở IPhi 1:3 Phi-e-rơ ngợi khen Đức Chúa Trời về những phước hạnh trong tương lai và “sự trông cậy sống”. Nhưng ở thư IICô-rinh-tô, Phao-lô ngợi khen Đức Chúa Trời về những ơn phước hiện tại, những điều Đức Chúa Trời đang hoàn thành ngay lúc ấy.
Trải suốt những kinh hoàng của cuộc chiến 30 năm, mục sư Martin Rinkart đã trung tín giúp đỡ người dân ở Eilenburg, Saxony. Một ngày ông chủ trì đến 40 tang lễ, với tổng số trên 4.000 tang lễ suốt giai đoạn thi hành chức vụ. Nhưng, từ từng trải khiếp kinh này, ông đã viết ra “một bài cầu nguyện trong bữa ăn” cho trẻ con mà hôm nay được chúng ta sử dụng như một bài ca cảm tạ:
“Nào, chúng ta hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của mình,
Bằng tấm lòng, đôi tay và tiếng nói
Đấng đã thực hiện những điều kỳ diệu,
Trong Ngài thế giới của Ngài hoan hỉ! ”
Hãy ngợi khen Ngài vì Ngài là Cha Đức Chúa Giê-xu! Chính nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta có thể gọi Đức Chúa Trời là “Cha” và thậm chí có thể đến gần Ngài như con cái Ngài. Đức Chúa Trời nhìn thấy chúng ta qua Con Ngài và yêu thương chúng ta như Ngài yêu Con Ngài vậy (Gi 17:26). Chúng ta là “những người yêu dấu của Đức Chúa Trời” (Ro 1:7) vì chúng ta “được tiếp nhận trong Con yêu dấu của Ngài” (Eph 1:6).
Bất cứ điều gì Đức Chúa Cha đã làm cho Chúa Giê-xu khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên đất, Ngài cũng có thể làm cho chúng ta hôm nay. Chúng ta được Đức Chúa Trời yêu quí vì Con Ngài được Ngài yêu quí và vì chúng ta là công dân “Nước của Con rất yêu dấu Ngài” (con của tình yêu Ngài) (Co 1:13). Chúng ta được Đức Chúa Cha quí trọng và Ngài đảm bảo chắc chắn rằng những áp lực của cuộc sống sẽ không huỷ diệt chúng ta.
Hãy ngợi khen Ngài vì Ngài là Cha hay thương xót! Đối với dân Do Thái, chữ “cha của...” mang ý nghĩa “người sáng tạo ra...” Sa-tan là “cha sự nói dối” (Gi 8:44) vì những dối trá khởi nguồn từ nó. Theo Sa 4:21 Giu-banh là tổ phụ của những nhạc cụ vì ông sáng tạo ra ống sáo và đàn hạc. Đức Chúa Trời là Cha hay thương xót vì mọi sự thuơng xót đều khởi nguồn từ Ngài và chỉ được bảo đảm nơi Ngài.
Bởi ân điển, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những điều chúng ta không xứng đáng nhận lãnh, và bởi lòng thương xót, Ngài không ban cho chúng ta những điều chúng ta đáng phải nhận lãnh. “Ấy là nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài chẳng dứt” (Ca 3:22). Sự thương xót của Đức Chúa Trời thật phong phú (Ne 9:19), dịu dàng (Thi 25:6) và rất lớn (Dan 14:19). Kinh Thánh luôn nói đến sự nhân từ dư dật của Chúa” mà sự cung ứng thật vô tận (Thi 5:7 Thi 51:1 Thi 69:13,16 Thi 106:7,45 Ca 3:32).
Hãy ngợi khen Ngài vì Ngài là Đức Chúa Trời ban mọi sự yên ủi! Từ “yên ủi hay an ủi (từ cùng gốc theo tiếng Hy Lạp) được lặp lại 11 lần trong (IICo 1:1-11). Chúng ta đừng nghĩ đến “yên ủi” theo những thuật ngữ về “sự cảm thông”, vì sự cảm thông có thể khiến chúng ta yếu đuối thay vì làm chúng ta mạnh mẽ. Đức Chúa Trời không vỗ đầu chúng ta để khen ngợi rồi cho chúng ta cây kẹo hay một món đồ chơi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của chúng ta khỏi những khốn khổ. Không hề vậy, Ngài đặt năng lực nơi lòng chúng ta hầu cho chúng ta có thể đối diện với những thử thách và đắc thắng chúng. Theo tiếng Anh từ “yên ủi” (comfort) xuất phát từ 2 từ La-tinh nghĩa là “với sức mạnh”. Từ Hy Lạp nghĩa là “đi bên cạnh và giúp đỡ”. Chính từ này được sử dụng cho Đức Thánh Linh (“Đấng Yên ủi”) trong Gi 14:1-16:33.
Đức Chúa Trời có thể yên ủi chúng ta bởi Lời Ngài và qua Thánh Linh Ngài. Nhưng đôi lúc Ngài cũng dùng những tín hữu khác để ban sự yên ủi cho chúng ta khi cần (IICo 2:7,8 IICo 7:6-7). Thật tuyệt biết bao nếu chúng ta đều mang biệt danh “Ba-ra-ba – con trai của sự yên ủi”! (Cong 4:36).
Khi bạn cảm thấy chán nản bởi những hoàn cảnh khó khăn bạn rất dễ nhìn bản thân và cảm xúc của mình hoặc chú ý vào những nan đề quanh mình. Nhưng bước đầu tiên ta phải thực hiện là: hãy nhìn lên Chúa bằng đức tin và nhận biết mọi quyền năng của Đức Chúa Trời đối với mình. “Tôi ngước mắt lên trên núi: Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu? Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên trời và đất” (Thi 121:1,2).
3. Hãy nhớ những điều Đức Chúa Trời làm cho bạn (IICo 1:4,8-11)
Trước tiên, Ngài cho phép thử thách xảy đến: Ngôn ngữ Hy Lạp có 10 từ cơ bản nói về sự chịu khổ, trong đó có 5 từ được Phao-lô dùng để viết thư tín này. Từ được sử dụng thường xuyên nhất là từ “thlipsis”, mang ý nghĩa “eo hẹp, bị hạn chế, bị đè nén” và trong thư tín này dịch là”hoạn nạn (IICo 2:4 IICo 4:17), “đau khổ” (IICo 1:4)và “khó khăn” (IICo 1:4,8). Cảm thấy mình bị giam hãm bởi những nghịch cảnh, nên cách duy nhất Phao-lô có thể hành động là đương đầu với hoàn cảnh.
Ở (IICo 1:5-6), Phao-lô dùng từ “pathêma” – “sự đau đớn” – từ này cũng được sử dụng để nói về sự đau đớn của Đấng Christ chúng ta (IPhi 2:11 IPhi 5:1). Có những sự đau đớn chúng ta chịu chỉ vì chúng ta là người phàm nên phải bị đau, nhưng cũng có những đau đớn khác xảy đến cho chúng ta là dân của Đức Chúa Trời muốn hầu việc Ngài.
Chúng ta đừng nghĩ rằng khó khăn là một tai nạn. Đối với Cơ Đốc nhân, mọi sự đều được Đức Chúa Trời định sẵn. Khi những thử thách của cuộc sống xảy đến, chỉ có 3 quan con người có vận dụng: Nếu thử thách xảy đến cho chúng ta là kết quả của “số phận” hay “may rủi” vậy phản ứng duy nhất của chúng ta là đầu hàng. Không ai có thể điều khiển được số phận hay may rủi. Nếu chúng ta phải tự điều khiển mọi sự, vậy hiện trạng của chúng ta xem như đồng nghĩa với vô vọng. Nhưng nếu Đức Chúa Trời điều khiển mọi sự và chúng ta tin cậy nơi Ngài, khi ấy chúng ta có thể thắng hơn hoàn cảnh nhờ sự tiếp trợ của Ngài.
Đức Chúa Trời yên ủi chúng ta trong mọi đau khổ của mình bằng cách dùng Lời Ngài để dạy chúng ta biết rằng chính Ngài là Đấng cho phép mọi thử thách xảy ra. Ngài cũng yên ủi chúng ta nhiều hơn bằng cách nhắc ta nhớ Ngài đang tể trị mọi thử thách (IPhi 1:8) “Chúng tôi đã bị đè nén quá chừng, quá sức mình, đến nỗi mất lòng trông cậy giữ sự sống”. Phao-lô mệt mỏi như một con vật thồ hàng với những gánh nặng quá tải. Nhưng Đức Chúa Trời biết khả năng chịu đựng của Phao-lô và Ngài tể trị hoàn cảnh.
Chúng ta không biết Phao-lô gặp “hoạn nạn” cụ thể nào, nhưng nó đáng sợ đủ để ông tưởng mình sắp chết. Chúng ta không biết có phải đó là sự nguy hiểm từ phía những kẻ thù của ông (ICo 15:30-32 Cong 19:21), bệnh tật ngặt nghèo hoặc sự tấn công đặc biệt của ma quỉ hay chăng, nhưng chúng ta hẳn biết rằng Đức Chúa Trời đã điều khiển mọi hoàn cảnh và bảo vệ tôi tớ Ngài. Khi Đức Chúa Trời đặt con cái Ngài trong lò lửa thử thách, Ngài giữ tay Ngài trên bộ chỉnh nhiệt và mắt Ngài trên nhiệt kế (ICo 10:13 IPhi 1:6-7). Phao-lô có thể mất hy vọng giữ sự sống, nhưng Đức Chúa Trời không hề mất hy vọng nơi Phao-lô.
- Ngài giúp chúng ta có thể chịu được thử thách (IICo 1:9). Việc đầu tiên Đức Chúa Trời phải làm là cho chúng ta biết tình trạng yếu đuối trong bản thân mình. Phao-lô là một tôi tớ dày dặn và đầy ơn của Đức Chúa Trời, từng trải mọi thử thách hoạn nạn (IICo 4:8-12 IICo 11:23). Chắc hẳn mọi từng trải này đã giúp ông đương đầu với những khó khăn mới và khắc phục chúng.
Nhưng Đức Chúa Trời muốn chúng ta tin cậy Ngài – chớ không phải ân tứ, tài năng, kinh nghiệm, hay “những thành tích thuộc linh”. Ngay khi chúng ta cảm thấy tự tin và có thể giáp mặt với kẻ thù, là lúc chúng ta thất bại thảm hại. “Vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (IICo 12:10).
Khi bạn và tôi chết về bản ngã, bấy giờ quyền năng phục sinh của Đức Chúa Trời có thể hành động. Chính khi Áp-ra-ham và Sa-ra gần như chết về thân thể, là lúc quyền năng phục sinh của Đức Chúa Trời khiến họ sinh đứa con như lời hứa (Ro 4:16-25). Tuy nhiên, “chết về cái tôi” không có nghĩa là sự tự mãn nhàn rỗi, chẳng làm gì và chờ đợi Đức Chúa Trời làm mọi sự. Bạn có thể chắc rằng Phao-lô đã cầu nguyện, truy cứu Kinh Thánh, hội ý với các cộng sự, và nhờ cậy Đức Chúa Trời hành động. Đức Chúa Trời Đấng khiến kẻ chết sống lại thoả đáp được bất cứ nan đề nào của cuộc sống. Ngài có thể làm được mọi sự, nhưng chúng ta phải sẵn sàng cho Ngài.
Phao-lô không phủ nhận cảm xúc của ông, Đức Chúa Trời cũng không muốn chúng ta phủ nhận cảm xúc của mình. “Chúng tôi khốn đốn đủ mọi cách, ngoài thì có sự chiến trận, trong thì có sự lo sợ” (IICo 7:5). Nhóm từ “án xử tử” trong IICo 1:9 có thể nói về một bản án công khai, một lệnh bắt giữ và xử án Phao-lô. Hãy nhớ rằng người Do Thái không tin đã săn lùng Phao-lô và muốn trừ khử ông (Cong 20:19). Trong danh mục về những nguy hiểm Phao-lô trải qua, ta không nên bỏ sót phần “nguy với giữa dân mình” (IICo 11:26).
- Ngài giải cứu chúng ta khỏi thử thách (IICo 1:10). Phao-lô nhìn thấy bàn tay giải cứu của Đức Chúa Trời dù khi ông chùn bước, cân nhắc hay suy tính. Từ Phao-lô sử dụng mang ý nghĩa “giúp thoát khỏi cơn khốn khổ, cứu và bảo vệ”. Không phải lúc nào Đức Chúa Trời cũng giải cứu chúng ta tức thời, Ngài cũng không giải cứu mỗi con cái Ngài cùng một phương cách.Gia-cơ bị xử chém đầu, nhưng Phi-e-rơ được tha khỏi ngục (Cong 12:1-25). Cả 2 điều được giải cứu, nhưng theo những phương cách khác nhau. Đôi lúc, Đức Chúa Trời giải cứu chúng ta khỏi thử thách, và lúc khác Ngài lại giải cứu chúng ta qua chính thử thách chúng ta chịu.
Sự giải cứu của Đức Chúa Trời nhằm để đáp ứng đức tin Phao-lô, cũng như đức tin của nhiều tín hữu đang khẩn nguyện tại Cô-rinh-tô (IICo 1:11) “Kẻ khốn cùng này có kêu cầu, Đức Giê-hô-va bèn nhậm lời người, giải cứu người khỏi các điều gian truân” (Thi 34:6).
- Sau cùng, Ngài được vinh hiển qua những thử thách chúng ta nếm trải (IICo 1:11). Khi Phao-lô thuật lại những việc Đức Chúa Trời làm cho ông, một bài ca tôn vinh và cảm tạ từ các thánh đồ đã đến nơi ngôi Đức Chúa Trời. Sự hầu việc cao trọng nhất mà bạn và tôi có thể thực hiện, đó là quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời, và lắm lúc sự hầu việc ấy cũng bao gồm sự chịu khổ nữa. “Ân tứ được ban” đề cập đến việc Phao-lô được giải cứu khỏi sự chết.Thật là một ân tứ kỳ diệu!
Phao-lô chẳng bao giờ xấu hổ khi nhờ các tín hữu cầu thay cho ông. Trong ít nhất 7 thư tín, ông nhắc đến nhu cầu to lớn của mình về việc cầu thay (Ro 15:30-32 Eph 6:18-19 Phi 1:19 Co 4:3 ITe 5:25 IITe 3:1 Phi 1:22). Phao-lô và các tín hữu Cô-rinh-tô đang giúp đỡ nhau (IICo 1:11,24).
Mới đây, một người bạn truyền giáo của tôi kể rằng đứa con gái của anh được giải cứu cách mầu nhiệm khỏi một căn bệnh bị xem là một căn bệnh chết người. Ngay giờ phút đứa con gái ấy quá yếu sức, nhiều bằng hữu ở Hoa-kỳ đã tiếp tục cầu nguyện cho gia đình này Đức Chúa Trời đã nhậm lời và chữa lành đứa con gái. Sự giúp đỡ cao quí nhất chúng ta có thể dành cho tôi tớ Đức Chúa Trời, ấy là “giúp nhau bằng sự cầu nguyện”.
Từ “sunupourgèo” có nghĩa “giúp nhau” được sử dụng duy nhất ở đây trong Kinh Thánh Tân Ước tiếng Hy Lạp, và được tạo thành từ 3 từ: “với, dưới, làm việc”. Đây là bức tranh của những người làm việc dưới gánh nặng, chung sức nhau để công việc được hoàn tất. Thật đáng khích lệ khi biết rằng Đức Thánh Linh cũng hỗ trợ chúng ta trong sự cầu nguyện và giúp chúng ta mang nổi gánh nặng (Ro 8:26).
Nếu chúng ta đầu phục Đức Chúa Trời, tin cậy và vâng theo mọi điều Ngài truyền bảo.Ngài sẽ thực hiện mục đích của Ngài qua những thử thách của cuộc sống chúng ta.Những khó khăn có thể “khiến đức tin chúng ta tăng trưởng và làm mạnh mẽ đời sống cầu nguyện của chúng ta. Khó khăn có thể kéo chúng ta đến gần hơn với các tín hữu khác khi họ chia sẻ gánh nặng với chúng ta. Những khó khăn nó thể được sử dụng để quy vinh hiển danh Đức Chúa Trời. Vì vậy, khi bạn thấy mình rơi vào những thử thách của cuộc sống, hãy nhớ đến Đức Chúa Trời là gì đối với bạn và những điều Ngài làm cho bạn.
4. Hãy nhớ những điều Đức Chúa Trời hành động qua bạn (IICo 1:4-7)
Trong lúc hoạn nạn, đa số chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân và quên kẻ khác. Chúng ta trở nên những cái “bể chứa” thay vì là những “mạch nước”. Nhưng một lý do thử thách xảy đến, ấy là để bạn và tôi có thể học biết cách trở nên những mạch nước phước hạnh, yên ủi khích lệ những người khác. Chúng ta có thể yên ủi họ, bởi Đức Chúa Trời đã yên ủi chúng ta.
Một trong những nhà truyền giáo tôi tâm đắc là Tiến sĩ George W. Truett, người đã làm mục sư Hội Thánh First Baptist ở Dallas, Texas gần 50 năm. Trong một bài giảng, ông kể về cặp vợ chồng vô tín có đứa con nhỏ chết bất ngờ. Tiến sĩ Truett chủ trì tang lễ và sau đó ông vui mừng thấy cả 2 vợ chồng tin nhận Chúa Giê-xu.
Nhiều tháng sau, có một người mẹ trẻ mất con. Lần nữa, Tấn sĩ Truett được mời đến yên ủi bà. Nhưng, trong lời chia sẻ của ông, dường như không câu nào có vẻ yên ủi bà mẹ. Thế nhưng tại lễ tang, bà mẹ đã được thay đổi đi bên cạnh người mẹ trẻ và nói: “Tôi đã trải qua hoàn cảnh này và tôi biết những điều bà đang trải qua.Đức Chúa Trời đã gọi tôi, vượt qua bóng tối và tôi đã đến với Ngài. Ngài đã yên ủi tôi và Ngài sẽ yên ủi bà! ”
Tấn sĩ Truett nói: “Có thể trong nhiều ngày, nhiều tháng người mẹ thứ nhất có thể giúp cho người mẹ thứ hai nhiều hơn những gì tôi có thể làm, vì người mẹ thứ nhất đã chính mình đi trên con đường đau khổ”.
Tuy nhiên, Phao-lô nói rõ rằng chúng ta không nhất thiết phải trải qua những thử thách như nhau mới có thể chia sẻ được sự yên ủi của Đức Chúa Trời. Nếu đã nếm biết sự yên ủi của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể “yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ gặp” (IICo 1:4b). Dĩ nhiên, nếu chúng ta trải qua những hoạn nạn tương tự, chúng có thể giúp ta gần gũi hơn với kẻ khác và hiểu rõ tâm trạng họ nhưng những từng trải của chúng ta không thể thay đổi sự yên ủi của Đức Chúa Trời. Sự yên ủi ấy vẫn luôn sẵn có và hữu hiệu cho dù những từng trải của chúng ta thế nào đi nữa.
Ở IICo 12:1-21 Phao-lô sẽ cho chúng ta một điển hình về nguyên tắc này. Ông được ban cho “một cái giằm xóc vào thịt”, một thứ hoạn nạn về thể xác luôn giáng trên ông. Chúng ta không rõ “cái giằm xóc vào thịt” này là gì, cũng không cần thiết phải biết. Chúng ta thật biết rằng Phao-lô đã kinh nghiệm ân điển Đức Chúa Trời và chia sẻ sự yên ủi đó cho chúng ta. Dù bạn gặp thử thách ra sao, lời phán “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi” (IICo 12:9) là một lời hứa bạn có thể nắm giữ. Nếu Phao-lô không chịu khổ, có lẽ chúng ta đã không có lời hứa ấy.
Không dễ gì hiểu được vấn đề đau khổ của con người, vì có những mầu nhiệm trong hành động của Đức Chúa Trời chúng ta không bao giờ biết rõ cho đến khi vào thiên đàng. Đôi lúc chúng ta chịu khổ vì tội lỗi và sự chống nghịch của mình, giống như Giô-na. Cũng có khi chúng ta chịu khổ để không phạm tội như trường hợp của Phao-lô (IICo 12:7). Hoạn nạn có thể hoàn thiện tính cách chúng ta (Ro 5:1-5) và giúp ta dự phần vào bản tính Đức Chúa Trời (Eph 12:1-11).
Nhưng hoạn nạn còn có thể giúp chúng ta chăm sóc kẻ khác. Ở mỗi Hội Thánh, có những tôi tớ trưởng thành của Đức Chúa Trời đã trải qua hoạn nạn và kinh nghiệm ơn thương xót của Đức Chúa Trời, và họ là những “người yên ủi” tuyệt vời trong hội chúng. Phao-lô kinh nghiệm hoạn nạn, không như hình phạt về sự vi phạm nào đó của ông, nhưng như sự chuẩn bị cho công việc ông sắp thực hiện – chăm sóc những kẻ khác trong sự khốn khố. Hãy nghĩ đến những thử thách vua Đa-vít đã chịu để có thể nhận được niềm yên ủi lớn lao qua những gì chúng ta tìm thấy trong sách Thi Thiên.
Câu Kinh Thánh IICo 1:17 cho thấy rõ luôn có khả năng hoàn cảnh có thể đảo ngược:tín hữu Cô-rinh-tô có thể vượt qua những thử thách và nhận ân điển Đức Chúa Trời hầu có thể yên ủi kẻ khác. Đôi lúc Đức Chúa Trời kêu gọi một gia đình Hội Thánh trải qua những thử thách đặc biệt để Ngài có thể ban cho họ ơn dư dật đặc biệt. Sự khích lệ đầy ân điển của Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng ta nếu chúng ta học hỏi chịu đựng. “Sự chịu đựng kiên trì là bằng chứng của đức tin. Nếu chúng ta trở nên cay đắng và phê phán Chúa, nếu chúng ta chống nghịch thay vì đầu phục, khi ấy những thử thách chúng ta chịu sẽ gây hại cho chúng ta thay vì làm ích lợi cho chúng ta, khả năng chịu hoạn nạn cách kiên trì mà không bỏ cuộc là dấu hiệu của sự trưởng thành thuộc linh (He 12:1-7).
Đức Chúa Trời phải hành động trong chúng ta trước khi Ngài có thể hành động qua chúng ta. Đối với chúng ta, thật dễ tăng trưởng trong sự hiểu biết hơn là tăng trưởng trong ân điển (IPhi 4:18). Học hỏi chân lý của Đức Chúa Trời và đưa nó vào đầu chúng ta là một chuyện, nhưng sống theo chân lý của Đức Chúa Trời và áp dụng nó vào bản tính của chúng ta lại là một chuyện hoàn toàn khác. Đức Chúa Trời đã đặt thanh niên Giô-sép trong 13 năm hoạn nạn trước khi Ngài khiến ông trở nên quan tể tướng của Ai Cập. Giô-sép đã trở thành con người vĩ đại biết bao! Đức Chúa Trời luôn chuẩn bị chúng ta cho điều Ngài dành sẵn cho chúng ta, và một phần của sự chuẩn bị đó là sự đau khổ.
Trong ánh sáng này, IICo 1:5 rất ý nghĩa: ngay cả Chúa Giê-xu của chúng ta cũng đã phải chịu khổ! Khi chịu khổ theo ý muốn Đức Chúa Trời là lúc chúng ta đang dự phần vào sự chịu khổ của Đấng Christ. Điều này không liên hệ đến “sự chịu khổ thay kẻ khác” của Chúa trên thập tự, vì chỉ có Ngài mới có thể chịu chết như sự thay thế vô tội cho chúng ta (IPhi 2:21-25). Ở đây Phao-lô muốn đề cập đến “sự thông công thương khó của Ngài” (Phi 3:10), giống như Đấng Christ, những thử thách chúng ta chịu vì chúng ta muốn trung tín làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời.Đây là sự chịu khổ “vì sự công bình” (Mat 5:10-12).
Nhưng khi hoạn nạn gia tăng thì sự ban ơn của Đức Chúa Trời cũng gia tăng. Chữ “chứa chan” gợi lên hình ảnh một con sông tuôn chảy. “Nhưng Ngài lại ban cho ta ơn lớn hơn nữa” (Gi 4:6). Đây là một nguyên tắc quan trọng cần biết: Đức Chúa Trời có ân điển dư dật cho mọi nhu cầu chúng ta, nhưng Ngài sẽ không ban ơn ấy trước. Chúng ta đến ngôi ơn phước bởi đức tin “hầu cho được thương xót và tìm được ơn để giúp chúng ta trong thì giờ có cần dùng” (He 416). Từ Hy Lạp nghĩa là “giúp đỡ khi bạn cần, sự giúp đỡ đúng lúc”.
Tôi có đọc câu chuyện về một tín đồ sốt sắng bị bắt bớ vì niềm tin và bị xử thiêu sống tại cột. Vào đêm trước ngày thi hành án, ông ta không biết mình có đủ ơn để trở thành “ngọn đuốc người” hay không. Vì vậy, ông thử nghiệm lòng can đảm của mình bằng cách đặt ngón tay vào ngọn lửa đèn cầy. Dĩ nhiên, anh bị lửa đốt nóng và phải rút tay lại vì đau đớn. Ông chắc rằng mình sẽ chẳng bao giờ có thể đối đầu với sự tử đạo mà không nản lòng. Nhưng hôm sau, Đức Chúa Trời đã ban cho ông ơn cần thiết, nên ông đã bày tỏ một chứng cớ vui mừng và đắc thắng trước kẻ thù.
Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn ICo 1:9 vì nếu chúng ta có thể dự phòng ơn của Đức Chúa Trời để dùng khi khẩn cấp, chúng ta sẽ có xu hướng cậy nơi bản thân chớ không cậy nơi “Đức Chúa Trời của mọi ơn” (IPhi 5:10). Mọi nguồn tài nguyên Đức Chúa Trời ban cho chúng ta có thể được cất giữ để sử dụng cho tương lai, như tiền bạc, lương thực, tri thức v.v.. nhưng ân điển của Đức Chúa Trời không thể được tích trữ như vậy.
Khi chúng ta kinh nghiệm ơn phước của Đức Chúa Trời trong đời sống thường nhật ơn ấy được đầu tư trong đời sống chúng ta như phẩm chất tin kính (Ro 5:1-5). Sự đầu tư này đem lại ích lợi khi những hoạn nạn mới xảy đến trên đường đi của chúng ta, vì phẩm chất tin kính Chúa giúp chúng ta có thể chịu được hoạn nạn hầu làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
Có một “tình đồng đội” đối với sự chịu khổ, nó có thể kéo chúng ta đến gần Đấng Christ và những người thuộc về Ngài. Nhưng nếu chúng ta khởi sự đắm mình trong sự than thân trách phận – thì hoạn nạn sẽ tạo ra sự cô lập thay vì quan hệ gắn bó. Chúng ta sẽ xây lên những bức tường chớ không phải những nhịp cầu.
Điều quan trọng là bạn hãy hướng sự chú ý nơi Đức Chúa Trời chớ không nơi bản thân.Hãy nhớ Đức Chúa Trời là gì đối với bạn – Ngài là “Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Giê-xu chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự yên ủi” (IICo 1:3). Hãy nhớ những điều Đức Chúa Trời làm cho bạn – rằng Ngài có quyền tể trị trên những thử thách của bạn để khiến chúng xảy ra vì ích lợi của bạn và vì vinh hiển của Ngài. Sau hết, hãy nhớ những điều Đức Chúa Trời hành động qua bạn và hãy để Ngài sử dụng bạn làm sự yên ủi kẻ khác.
2. BẠN KHÔNG CẦN PHẢI THẤT VỌNG! (IICo 1:12-2:17)
Trong cuốn sách nhan đề “những nét nổi bật trong sự can đảm” (Profiles in Courase), John F. Kennedy viết: “những khủng hoảng lớn sản sinh những con người vĩ đại và những công việc vĩ đại của lòng can đảm”.
Thật đúng khi cho rằng cơn khủng hoảng tạo nên một con người, nhưng cũng đúng khi nói rằng khủng hoảng phơi bày bản chất thật của một con người. Quan toà Phi-lát đã đối diện với một cơn khủng hoảng lớn, nhưng cách giải quyết của ông không giúp ông trở nên can đảm hay tuyệt vời. Cách chúng ta giải quyết những khó khăn của cuộc sống tuỳ thuộc nhiều nơi tính cách chúng ta vì những gì cuộc sống đem đến cho chúng ta tuỳ vào những gì cuộc sống tìm thấy trong chúng ta.
Trong chính bức thư riêng này, Phao-lô đã mở lòng mình ra với tín hữu Cô-rinh-tô (cùng với chúng ta) và bày tỏ những thử thách hoạn nạn ông đã trải qua. Trước tiên, ông bị người Cô-rinh-tô chỉ trích gay gắt vì đã thay đổi kế hoạch và rõ ràng đã thất hứa. Lúc bấy giờ, xảy ra vấn đề chống đối về quyền sứ đồ trong Hội Thánh. Một trong những thành viên Hội Thánh – có lẽ là người lãnh đạo – đã phải bị kỷ luật, và điều này khiến Phao-lô hết sức đau buồn. Sau cùng, xảy ra những hoàn cảnh khốn khó Phao-lô gặp phải ở xứ A-si (IICo 1:8-11), một thử thách quá khắc nghiệt đến nỗi Phao-lô mất lòng trông cậy giữ được sự sống.
Điều gì giúp Phao-lô không nản lòng? Nếu đương đầu với hoàn cảnh tương tự, người khác có lẽ đã gục ngã! Tuy vậy, Phao-lô không chỉ đắc thắng mọi hoàn cảnh mà từ từng trải ấy ông đã viết ra một bức thư tuyệt vời thậm chí hôm nay vẫn đang giúp con cái Đức Chúa Trời kinh nghiệm được sự đắc thắng. Những nguồn năng lực thuộc linh nào đã giúp Phao-lô vững vàng như vậy?
1.Lương tâm thánh sạch (IICo 1:12-24)
Theo tiếng Anh, từ “lương tâm” (consciènce) có nguồn gốc từ 2 chữ La-tinh “com” (nghĩa là “với”) và “scire” (nghĩa là “biết”). Lương tâm là phần nội tâm “nhận biết với” tư tưởng chúng ta để bênh vực khi chúng ta hành động đúng, nhưng tố cáo khi chúng ta làm sai. Lương tâm không phải luật pháp Đức Chúa Trời nhưng nó làm chứng cho luật pháp. Lương tâm là cửa sổ đón nhận sự sáng nếu cửa sổ ấy trở nên bụi bặm vì chúng ta không vâng phục, vậy sự sáng sẽ ngày càng trở nên lu mờ (Mat 6:22-23 Ro 2:14-16).
Phao-lô sử dụng từ “lương tâm” 23 lần trong các thư tín và trong chức vụ rao giảng của ông ở sách Công vụ. “Cũng vì cớ ấy, nên tôi gắng sức cho có lương tâm không trách móc trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt loài người (Cong 24:16). Khi một người có tính chính trực, không giả dối, người ấy có thể đáng tin cậy.
Vì vậy các tín hữu Cô-rinh-tô cáo Phao-lô về sự lừa dối và vô trách nhiệm? Vì ông đã buộc phải thay đổi kế hoạch. Ông vốn đã hứa sẽ trú đông tại Cô-rinh-tô “nếu Chúa cho phép” (ICo 16:2-8). Phao-lô muốn gom góp tiền dâng mà tín hữu Cô-rinh-tô góp giúp các tín đồ Do Thái nghèo khó và để Hội Thánh có quyền sai ông cùng các cộng sự của ông đến Giê-ru-sa-lem.
Đối diện nhiều với sự hối tiếc và bẽ bàng, Phao-lô đã phải thay đổi những kế hoạch này. Tôi rất thông cảm với ông, vì trong chức vụ hạn hẹp của tôi, lắm lúc tôi đã phải thay đổi kế hoạch và huỷ bỏ những buổi nhóm họp mà không được lợi ích gì của quyền sứ đồ! Will Roger nói: “Kế hoạch kéo bạn vào những sự việc, nhưng bạn phải hành động theo cách của mình”. Giờ đây, Phao-lô định thực hiện 2 cuộc thăm viếng đến thành Cô-rinh-tô, một lần trên đường đến xứ Ma-xê-đoan và một lần trên đường rời xứ Ma-xê-đoan. Khi ấy Phao-lô sẽ kết hợp tiền dâng của tín hữu Cô-rinh-tô với tiền dâng của tín hữu các Hội Thánh xứ Ma-xê-đoan và tiếp tục đến Giê-ru-sa-lem.
Tiếc thay, cả kế hoạch B cũng bị huỷ bỏ. Vì sao? Vì lòng yêu thương của Phao-lô không thể chịu nổi một “cuộc viếng thăm buồn rầu” nữa (IICo 1:23 IICo 2:1-3). Phao-lô thông báo cho Hội Thánh Cô-rinh-tô sự thay đổi kế hoạch của ông, nhưng điều này cũng không làm lắng dịu sự chống đối. Họ cáo ông làm theo “sự khôn ngoan xác thịt” (IICo 1:12), xao lãng ý chỉ của Đức Chúa Trời (IICo 1:17) và lập những kế hoạch chỉ để thoả mãn chính mình. Họ muốn nói rằng: “Nếu Phao-lô nói hay viết điều gì, ông ta thật sự muốn nói một điều khác! Ong ấy nói “vâng”, nghĩa là “không”và “không” nghĩa là “vâng”.
Những hiểu lầm giữa con cái Đức Chúa Trời thường rất khó gỡ rối. Vì hiểu lầm này sẽ dẫn đến hiểu lầm khác. Một khi chúng ta bắt đầu nghi ngờ sự trung thực của người khác hay không tin lời nói của họ, cửa sổ sẽ được mở cho mọi thứ nan đề.Nhưng cho dù những kẻ tố cáo Phao-lô nói gì đi nữa, ông vẫn vững vàng bởi có một lương tâm thánh sạch. Điều ông viết, lời ông nói và cách ông sống đều nhất quán với nhau. Xét cho cùng, ông đã bổ sung cho kế hoạch ban đầu rằng “nếu Chúa cho phép” (ICo 16:7 chú ý Gia 4:13-17).
Khi có một lương tâm thánh sạch, bạn sẽ sống trong sự nhận biết về ngày Chúa Giê-xu Christ tái lâm (IICo 1:14) “Ngày Đức Chúa Giê-xu” chỉ về thời điểm Đấng Christ hiện ra và cất Hội Thánh Ngài lên trời. Phao-lô biết chắc rằng ông sẽ làm vẻ vang cho các tín hữu Cô-rinh-tô cũng như họ sẽ làm vẻ vang cho ông trước Ngôi Phán Xét của Đấng Christ. Dù hôm nay xảy ra những hiểu lầm nào chăng nữa, nhưng tất cả sẽ được tha thứ, được quên đi và được biến đổi thành sự vinh hiển khi chúng ta đứng trước mặt Chúa Giê-xu Christ để dâng lời chúc tụng Ngài.
Khi có một lương tâm thánh sạch, bạn sẽ rất chú trọng ý muốn Đức Chúa Trời (c.15-18). Phao-lô không lập kế hoạch một cách cẩu thả hay bừa bãi, nhưng ông tìm kiếm sự dẫn dắt của Chúa. Đôi lúc, ông không biết rõ Đức Chúa Trời muốn ông làm gì (Cong 16:6-10), nhưng ông biết cách chờ đợi Chúa. Động cơ của Phao-lô rất chân thật: ông muốn tìm cách làm đẹp lòng Chúa chớ không phải đẹp lòng con người. Khi chúng ta yên lặng suy xét hoàn cảnh khó khăn của phương tiện vận chuyển và thông tin thời bấy giờ, hẳn có thể thán phục rằng Phao-lô đã không gặp nhiều trở ngại khi thực hiện nhiều kế hoạch với giờ giấc bận rộn của mình.
Chúa Giê-xu dạy chúng ta truyền đạt điều mình muốn nói: “Con chỉ cần nói đơn giản “vâng” hoặc “không” là đủ. Củng cố lời hứa bằng một lời thề chứng tỏ đã có gì giả dối” (Mat 5:37). Chỉ có kẻ xấu tính mới lắm lời để củng cố cho câu trả lời có hay không của mình. Người Cô-rinh-tô biết Phao-lô là người có phẩm cách chính trực vì ông là người có một lương tâm thánh sạch. Suốt 18 tháng thi hành chức vụ giữa vòng họ, Phao-lô đã tỏ mình trung tín và không thay đổi.
Khi có một lương tâm thánh sạch, bạn sẽ ngợi khen Chúa Giê-xu Christ (IICo 1:19-20). Bạn không thể ngợi khen Đấng Christ lại đồng thời làm điều giả dối.Nếu làm vậy, bạn sẽ xúc phạm đến lương tâm và huỷ hoại phẩm cách của chính mình để cuối cùng sự thật rồi cũng lộ ra. Tín hữu Cô-rinh-tô được cứu do Phao-lô và các bạn ông đã rao giảng về Chúa Giê-xu Christ cho họ. Làm sao Đức Chúa Trời có thể bày tỏ cách sống thật của mình.
Đối với Chúa Giê-xu, không có trường hợp “phải” hoặc “không”. Ngài là sự trả lời “vâng vĩnh cửu” của Đức Chúa Trời đối với những ai tin cậy Ngài. “Vì chưng cũng như các lời hứa của Đức Chúa Trời đều là phải trong Ngài cả, ấy cũng bởi Ngài mà chúng tôi nói “A-men” làm sáng danh Đức Chúa Trời” (IICo 1:20). Chúa Giê-xu Christ bày tỏ những lời hứa, làm trọn lời hứa và giúp chúng ta nắm giữ lời hứa! Một trong những phước hạnh dành cho một lương tâm tốt, đó là phước hạnh mà chúng ta không sợ đối diện với Đức Chúa Trời hoặc con người hay khi nắm giữ lời hứa Đức Chúa Trời ban qua Lời Ngài. Phao-lô không hề phạm tội “giả mạo” Lời Đức Chúa Trời để biện hộ cho những hành vi tội lỗi của mình (IICo 4:2).
Sau cùng, nếu có một lương tâm thánh sạch, bạn sẽ ở trong mối tương giao tốt đẹp với Thánh Linh Đức Chúa Trời (IICo 1:21-24). Từ “được thiết lập” là một thuật ngữ thương mại có liên quan đến việc cam kết làm trọn một hợp đồng. Đó là sự bảo đảm của người bán đối với người mua, rằng sản phẩm sẽ y như quảng cáo hoặc dịch vụ sẽ được thực hiện như đã hứa.
Thánh Linh là sự bảo đảm của Đức Chúa Trời rằng Ngài đáng tin cậy và Ngài sẽ thực hiện mọi điều đã hứa. Phao-lô cẩn thận để không làm buồn lòng Đức Thánh Linh, và vì Đức Thánh Linh không lên án ông nên ông biết những động cơ của mình rất trong sáng cũng như lương tâm rất thánh sạch.
(IICo 1:21). Trong Cựu Ước, các tiên tri, thầy tế lễ và vua mới là những người được Đức Chúa Trời xức dầu. Họ được xức dầu để chuẩn bị cho chức vụ. Thánh Linh có thể giúp chúng ta hầu việc Đức Chúa Trời và sống đời sống tin kính khi chúng ta đầu phục Ngài. Thánh Linh ban cho chúng ta khả năng suy xét đặc biệt về thuộc linh mà chúng ta cần để hầu việc Đức Chúa Trời cách đẹp lòng Ngài (IGi 2:20-27).
Đức Thánh Linh cũng ấn chứng cho chúng ta (IICo 1:22 Eph 1:13) để chúng ta thuộc về Đấng Christ và được Ngài nhìn nhận. Lời chứng của Đức Thánh Linh ở trong lòng bảo đảm rằng chúng ta là con cái thật của Đức Chúa Trời chớ không phải con cái giả hiệu (Ro 5:5 Ro 8:9). Đức Thánh Linh còn bảo đảm rằng Ngài sẽ bảo vệ chúng ta, vì chúng ta là tài sản của Ngài.
Sau hết, Đức Thánh Linh giúp chúng ta có thể phục vụ kẻ khác (IICo 1:23-24), không như kẻ “chuyên quyền thuộc linh” bảo người khác những điều phải làm, nhưng như tôi tớ tìm cách giúp người khác tăng trưởng. Những giáo sư giả xâm phạm Hội Thánh Cô-rinh-tô vướng phải tội những kẻ chuyên quyền (IICo 11:1-34). Hôm nay, Thánh Linh có thể khiến chúng ta vui mừng hưởng những phước hạnh của thiên đàng ở trong lòng! Nhờ có Đức Thánh Linh là Đấng ngự vào lòng, Phao-lô đã có thể giữ lương tâm thánh sạch và đối diện với mọi hiểu lầm bằng tình yêu thương với lòng nhịn nhục. Nếu bạn sống để làm vui lòng con người, vậy những hiểu lầm sẽ khiến bạn buồn chán nhưng nếu sống để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, bạn có thể đối diện với mọi sự hiểu lầm bằng đức tin và sự can đảm.
2. Tấm lòng yêu thương (IICo 2:1-11)
Tôi thường trích dẫn một vần thơ vô danh mô tả cách trọn vẹn một trong những vấn đề mà con cái Đức Chúa Trời như chúng ta thường hay gặp phải:
“Sống trên trời với những thánh đồ ta yêu quí,
Hẳn sẽ là niềm hãnh diện!
Sống dưới trần với thánh đồ ta quen biết.
Ồ đó lại là chuyện khác! ”
Một thuộc viên Hội Thánh Cô-rinh-tô đã khiến Phao-lô hết sức đau buồn. Chúng ta không biết chắc đây có phải là cùng một người Phao-lô đã đề cập ở ICo 5:1-13 hay không, là kẻ đang sống trong sự thông dâm lộ liễu hay đây là một người khác là người phản đối quyền sứ đồ của Phao-lô. Phao-lô đã thực hiện cuộc viếng thăm nhanh chóng đến thành Cô-rinh-tô để giải quyết vấn đề này (ICo 12:14 ICo 13:1) và cũng viết cho họ một “bức thư buồn rầu” nói về thực trạng ấy. Trong mọi điều này ông bày tỏ lòng thương xót. Bạn hãy chú ý những chứng cớ về tình yêu thương của Phao-lô.
- Trước tiên, Phao-lô đặt kẻ khác lên hàng đầu (IICo 2:1-4). Ông không nghĩ đến những cảm xúc của bản thân, nhưng nghĩ đến những cảm xúc của người khác trước hết. Trong chức vụ Cơ Đốc, những ai đem đến cho chúng ta niềm vui lớn, cũng có thể gây cho chúng ta buồn bã nhiều, và đây chính là điều Phao-lô kinh nghiệm. Ông gởi cho tín hữu Cô-rinh-tô một bức thư nghiêm túc, được viết ra từ tấm lòng quặn thắt và chứa chan tình yêu Cơ Đốc.Ước mong lớn của Phao-lô là Hội Thánh vâng lời Chúa, kỷ luật người phạm tội và đem lại sự thanh sạch cùng sự bình an trong hội chúng.
“Bạn hữu làm cho thương tích, ấy bởi lòng thành tín, còn sự hôn hít của kẻ ghen ghét lấy làm giả nguỵ” (Ch 27:6). Phao-lô biết rằng lời lẽ của ông sẽ làm tổn thương những người ông yêu mến, và điều này khiến ông đau lòng. Nhưng (như mọi cha mẹ có lòng yêu thương) ông cũng biết rằng: làm đau lòng người khác và làm hại cho người khác là hai điều khác nhau hoàn toàn. Lắm lúc, những người yêu mến chúng ta phải làm đau lòng chúng ta để giúp ta không làm hại bản thân mình.
Lẽ ra Phao-lô đã có thể thực hiện quyền sứ đồ và yêu cầu các tín hữu tôn trọng và vâng lời ông, nhưng ông muốn thi hành chức vụ bằng tình yêu thương và lòng nhịn nhục. Đức Chúa Trời biết rằng sự thay đổi kế hoạch của Phao-lô xuất phát từ động cơ làm giảm bớt sự buồn rầu cho Hội Thánh Cô-rinh-tô (IICo 1:23,24). Tình yêu thương luôn suy xét xúc cảm của kẻ khác và tìm cách đặt lợi ích họ lên hàng đầu mọi sự.
-Nhưng tình yêu cũng tìm cách giúp người khác tăng trưởng (IICo 2:5,6). Đáng chú ý lời Phao-lô không nêu tên của người chống đối ông và chia rẽ tập thể Hội Thánh. Tuy nhiên, Phao-lô bảo Hội Thánh phải kỷ luật người này vì ích lợi của người đó. Nếu người bị ám chỉ là người phạm tội thông dâm đã đề cập ở ICo 5:1-11, vậy những câu Kinh Thánh này cho thấy Hội Thánh đã tổ chức một buổi họp và kỷ luật người ấy người ấy đã ăn năn tội và được phục hồi địa vị.
Sự sửa phạt thật là bằng cớ của tình yêu (He 12:1-29). Một số bậc phụ huynh trẻ, có “quan niệm mới“ về cách nuôi dạy con cái đã không sửa phạt sự bất tuân của con mình vì tuyên bố rằng họ rất yêu con cái. Nhưng nếu họ thật sự yêu con cái mình, họ đã sửa phạt chúng rồi.
Kỷ luật Hội Thánh không phải là một vấn đề phổ biến hay một thông lệ. Có quá nhiều Hội Thánh “giấu biệt” những việc như thế thay vì vâng theo Lời Chúa và dạn dĩ đối diện với thực trạng bằng cách “lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” (Eph 4:15). “bình an bằng bất cứ giá nào” không phải là một nguyên tắc Kinh Thánh, vì không thể có sự bình an thuộc linh thật nếu không có sự thánh sạch (Gia 2:13-18). Những nan đề “bị giấu biệt” bằng cách nào đó sẽ gia tăng và còn tạo thêm cả những vấn đề tệ hại hơn sau đó.
Người mà Phao-lô đương đầu và là người mà Hội Thánh kỷ luật, đã được nâng đỡ bằng sự quan tâm đầy lòng yêu thương này. Lúc còn bé, tôi luôn không tán thành hình thức kỷ luật cha mẹ dành cho mình, dù phải công nhận rằng tôi đáng phải nhận lãnh hơn thế. Nhưng giờ đây khi nhớ lại, tôi có thể cảm tạ Đức Chúa Trời rằng cha mẹ yêu thương tôi đủ để đánh tôi đau và ngăn cản tôi gây hại cho chính mình. Bây giờ tôi đã hiểu những điều cha mẹ thật sự muốn bày tỏ khi nói: “Điều này làm cha mẹ đau nhiều hơn con”.
Sau hết, tình yêu tha thứ và yên ủi (IICo 2:7-11). Phao-lô kêu gọi tập thể Hội Thánh tha thứ người phạm lỗi, và ông trình bày những lý do chính đáng củng cố cho lời khuyên này. Trước tiên, họ phải tha thứ cho người phạm lỗi vì lợi ích của người ấy, “hầu cho người khỏi bị sa ngã vì sự buồn rầu quá lớn” (IICo 2:7-8). Sự tha thứ là phương thuốc giúp chữa lành những tấm lòng tan vỡ. Điều quan trọng là Hội Thánh phải làm cho người ăn năn tin chắc về sự yêu thương của Hội Thánh.
Trong chức vụ mục sư của tôi, tôi từng dự những buổi nhóm tại đó những thuộc viên bị kỷ luật đã được tha thứ và phục hồi mối thông công. Đó là những giờ phút cao quý, thánh khiết trong đời tôi. Khi một tập thể Hội Thánh giúp một anh em được tha thứ tin chắc tội lỗi mình được quên lãng và mối thông công đã được phục hồi, có một cảm biết về sự hiện diện của Chúa thật là một kinh nghiệm tuyệt diệu. Mỗi phụ huynh khi sửa phạt con cái phải áp dụng kỷ luật này với sự bảo đảm về tình yêu cùng sự tha thứ, nếu không, kỷ luật sẽ gây tai hại hơn ích lợi.
Họ phải xác định tình yêu thương của mình đối với người anh em đã được tha thứ vì cớ Chúa (IICo 2:9-10). Xét cho cùng, kỷ luật là một vấn đề về sự vâng phục chúa cũng là một sự bắt buộc dành cho một anh em. Vấn đề không đơn giản là giữa một anh em phạm tội và một sứ đồ buồn rầu nó cũng là vấn đề giữa một anh em phạm tội với một Đấng Christ đau buồn. Người phạm tội nghịch với Phao-lô và Hội Thánh, người ấy hầu như đã nghịch với Chúa. Khi những lãnh đạo Hội Thánh nhút nhát, cố “che đậy” những thực trạng thay vì thành thật đối diện với chúng, vậy họ đang làm buồn lòng Đấng Christ.
Phao-lô nêu lý do thứ ba: Hội Thánh phải tha thứ cho người phạm lỗi vì ích lợi của Hội Thánh (IICo 2:11). Nếu trong hội chúng có tinh thần không tha thứ vì tội lỗi đã không được giải quyết bằng thái độ Kinh Thánh, tinh thần này cho Sa-tan một “chỗ đổ bộ” để từ đó nó có thể hành động trong hội chúng. Chúng ta làm buồn lòng Thánh Linh Đức Chúa Trời và “nhường chỗ cho ma quỉ” khi giữ tinh thần cố chấp (Eph 4:27-32).
Một trong những “mưu chước” của Sa-tan là kiện cáo những Cơ Đốc nhân đã phạm tội để khiến họ có cảm giác thực trạng mình vô phương cứu chữa. Có một số người viết thư hoặc gọi điện cho tôi để yêu cầu được giúp đỡ vì họ bị sự thúc ép và kiện cáo của ma quỉ. Đức Thánh Linh cáo trách tội lỗi chúng ta để chúng ta xưng ra và trở lại với Đấng Christ hầu được sạch tội, nhưng Sa-tan kiện cáo chúng ta về tội lỗi để chúng ta nản lòng và bỏ cuộc.
Khi một anh em phạm lỗi bị kỷ luật theo Kinh Thánh và ăn năn, vậy tập thể Hội Thánh phải tha thứ và phục hồi tư cách thuộc viên ấy, vấn đề phải được quên đi và không bao giờ bị khơi lại. Nếu tập thể Hội Thánh hay một cá nhân nào trong đó mang tinh thần không tha thứ, Sa-tan sẽ lợi dụng thái độ ấy làm bàn đạp cho những cuộc đột kích mới chống lại Hội Thánh.
Phao-lô đã có thể vượt qua những vấn đề gặp phải, vì ông có một lương tâm thánh sạch và một tấm lòng thương xót. Nhưng, còn một nguồn linh lực thứ 3 khiến ông đắc thắng.
3. Một đức tin đắc thắng (IICo 2:12-17)
Dường như kế hoạch của Phao-lô ở A-si đã hoàn toàn thất bại. Tít ở đâu? Chuyện gì đang xảy ra ở thành Cô-rinh-tô. Phao-lô đang có những cửa mở ra cho “chức vụ tại Trô-ách, nhưng ông không có sự bình an trong lòng để bước qua những cửa đó.Nói theo cách loài người, đây giống như kết thúc của cuộc chiến trong đó Sa-tan là kẻ chiến thắng.
Một điều ngoại lệ! Phao-lô có một đức tin đắc thắng! Ông đã có thể bật lên lời chúc tụng và viết: “Tạ ơn Đức Chúa Trời! ” (IICo 2:14). Bài ca chúc tụng này ra đời từ những điều Phao-lô biết chắc, bởi ông tin cậy Chúa.
Phao-lô biết chắc Đức Chúa Trời đang dẫn dắt ông (IICo 2:14a). Mọi hoàn cảnh đã không dễ chịu, và Phao-lô đã không thể lý giải những thay đổi cùng những điều gây nản lòng. Nhưng ông biết chắc Đức Chúa Trời đã tể trị mọi sự. Cơ Đốc nhân luôn có thể biết chắc rằng bao lâu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và tìm cách vâng phục ý chỉ Ngài, Ngài sẽ hiệp mọi sự làm ích lợi cho chúng ta (Ro 8:28). Lời hứa này không phải là cớ để biện hộ cho sự bất cẩn nhưng đó là lời yên ủi cho niềm tin quyết.
Một người bạn của tôi muốn gặp một lãnh đạo là Cơ Đốc ở phía sau “màn sắt” và chuẩn bị xuất bản một cuốn sách, nhưng mọi sự sắp đặt đều thất bại. Bạn tôi đơn điệu trong một nơi xa lạ, nghĩ ngợi không biết phải làm gì kế tiếp đây, khi anh “tình cờ”tiếp xúc với một người lạ, chính là người đã đưa anh đến đúng những lãnh đạo anh muốn tìm! Đó là sự định liệu của Đức Chúa Trời hành động, sự ứng nghiệm của (Ro 8:28).
Phao-lô cũng biết chắc Đức Chúa Trời đang dẫn dắt ông trong sự đắc thắng (IICo 2:14b). Bức tranh ở đây là bức tranh về “lễ mừng chiến thắng của dân Rô-ma” (Roman Triumph), một sự ngưỡng mộ đặc biệt mà Rô-ma dành cho những tướng thắng trận của họ. Lễ này tương tự như cuộc diễu hành có trong các băng giấy của dân Hoa-kỳ (Ticker tape parade).
Nếu một tướng tổng chỉ huy thắng trận hoàn toàn trên đất lạ, và nếu giết được tối thiểu 5.000 địch quân cũng như dành được lãnh thổ mới về cho hoàng đế, vị tướng ấy sẽ được quyền làm bất cứ điều gì tại lễ mừng chiến thắng. Đoàn diễu hành bao gồm viên chỉ huy ngồi trên cỗ xe bằng vàng, vây quanh bởi các tướng lãnh. Đám rước bao gồm sự phô trương những chiến lợi phẩm cũng như tù binh địch bị bắt giữ. Các thầy tế lễ Rô-ma cũng có mặt trong đám rước, mang theo hương liệu đang cháy để bày tỏ lòng ngưỡng mộ đối với đội quân chiến thắng.
Đoàn diễu hành sẽ đi theo một con đường đặc biệt xuyên qua thành phố và dừng tại đấu trường Maximus nơi những tù binh vô vọng sẽ làm trò tiêu khiển cho mọi người bằng cách đấu với dã thú. Đó là một ngày rất đặc biệt tại Rô-ma khi mọi công dân được thết đãi bằng một “lễ mừng chiến thắng” thật đầy đủ.
Chi tiết lịch sử này ứng dụng ra sao đối với Cơ Đốc nhân nặng lòng hôm nay? Tướng tổng chỉ huy của chúng ta là Chúa Giê-xu Christ đã đến đất lạ (thế gian) và đánh bại hoàn toàn kẻ thù (Sa-tan). Thay vì diệt 5.000 người, Ngài đã ban sự sống cho hơn 5.000 người – thêm 3.000 người tại lễ Ngũ tuần và 2.000 người nữa không lâu sau lễ Ngũ tuần (Cong 2:41 Cong 4:4). Chúa Giê-xu Christ đã giành được chiến lợi phẩm là những linh hồn hư mất từng ở trong vòng xiềng xích của tội lỗi và Sa-tan (Lu 11:14-22 Co 2:15 Eph 4:8). Thật là một chiến thắng lừng lẫy!
Những người con của viên tướng thắng trận này sẽ bước đi sau cỗ xe của cha mình, dự phần trong chiến thắng của cha và đó là vị trí của những Cơ Đốc nhân hôm nay –bước đi trong chiến thắng của Đấng Christ. Chúng ta không chiến đấu để được chiến thắng chúng ta chiến đấu từ chiến thắng. Thực trạng không có vẻ gì là chiến thắng đối với Phao-lô tại A-si hay tại thành Cô-rinh-tô, nhưng ông tin Đức Chúa Trời – và Đức Chúa Trời đã đổi bại thành thắng.
Sau hết, Phao-lô biết chắc Đức Chúa Trời đang sử dụng ông khi Ngài dẫn dắt ông (IICo 2:14-17). Khi các thầy tế lễ Rô-ma xông hương trong đoàn diễu hành, mùi hương ấy tác động đến mọi người theo những cách khác nhau. Đối với binh lính thắng trận, mùi hương mang ý nghĩa sự sống và chiến thắng nhưng đối với địch quân bị đánh bại, mùi hương mang ý nghĩa chiến bại và chết chóc. Họ đi để bị dã thú giết chết.
Khi sử dụng hình ảnh về hương liệu Phao-lô đã phác hoạ nhiệm vụ của Cơ Đốc nhân.Phao-lô nhìn Cơ Đốc nhân như một hương liệu, toả hương thơm về Chúa Giê-xu Christ trong đời sống và việc làm của mình. Đối với Đức Chúa Trời, Cơ Đốc nhân là hương thơm của cuộc sống, nhưng đối với kẻ vô tín, chúng ta như mùi hương của sự chết. Nói cách khác, đời sống và chức vụ của Cơ Đốc nhân là vấn đề về sự sống và sự chết. Cách chúng ta sống và làm việc có thể mang ý nghĩa sự sống hoặc sự chết đối với một thế giới hư mất quanh ta.
Chẳng lạ gì khi Phao-lô kêu lên “Ai xứng đáng cho những sự này?” (IICo 2:16) và cho lời giải đáp ở chương kế tiếp “tài năng của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời (IICo 3:5). Ông nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ rằng lòng ông thánh sạch và những động cơ của ông rất chân thật. Xét cho cùng, khi Phao-lô bước đi trong sự huấn luyện tài tình của Đấng Christ đắc thắng, không cần phải tỏ ra khôn ngoan hay “thông thái rởm” về Lời Đức Chúa Trời! Các tín hữu Cô-rinh-tô có thể hiểu lầm ông, nhưng Đức Chúa Trời biết lòng ông.
Chúng ta không cần phải thất vọng! Mọi hoàn cảnh có thể làm ta chán nản và con người có thể nghịch với chúng ta cũng như hiểu lầm chúng ta nhưng chúng ta đã có những nguồn linh lực nơi Đấng Christ để thắng trận: một lương tâm thánh sạch, một tấm lòng thương xót và một đức tin đắc thắng.
“Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?... Trái lại, trong mọi sự đó, chúng ta nhờ Đấng yêu thương mình mà thắng hơn bội phần” (Ro 8:31,37).
3. TỪ VINH HIỂN QUA VINH HIỂN (IICo 3:1-18)
Mỗi khi bạn thấy những điều chân thật, bạn sẽ thấy có người đề cao những thứ giả mạo. Cả những nhà phê bình nghệ thuật cũng bị đánh lừa bởi những “kiệt tác” giả mạo, và các nhà xuất bản lương thiện đã mua những “bản thảo giá trị” chỉ để khám phá chúng là đồ giả. Henry Ward Beecher thật có lý khi nói: “Một sự giả dối luôn cần có một sự thật để nó lợi dụng”.
Ngay khi Phúc Âm về ân điển Đức Chúa Trời bắt đầu lan rộng giữa vòng dân ngoại thì một “Phúc Âm” giả hiệu xuất hiện – một sự pha trộn luật pháp với ân điển. Sự pha trộn này được tạo ra do một nhóm người nhiệt huyết mà chúng ta phải gọi là “những người theo đạo Do Thái”. Phao-lô viết thư cho người Ga-la-ti để bác bỏ những học thuyết của họ, và bạn sẽ thấy ông đề cập đến các học thuyết đó nhiều lần trong thư tín IICô-rinh-tô.
Trọng tâm của những học thuyết đó nhằm vào sự cứu rỗi bởi đức tin trong Đấng Christ kèm theo việc tuân giữ luật pháp (xem Cong 15:1). Họ cũng dạy rằng người tin Chúa được trọn vẹn trong đức tin mình bằng cách sống theo luật Môi-se. “Phúc Âm về sự tuân theo luật pháp” của họ rất phổ biến, bởi bản chất con người vốn thích đạt đến những mục tiêu tôn giáo thay vì chỉ tin nhận Đấng Christ và hành động theo Thánh Linh. Đánh giá “tôn giáo” thật dễ hơn nhiều khi đánh giá sự công bình thật.
Phao-lô xem những giáo sư giả như những kẻ “giả mạo” lời Đức Chúa Trời (IICo 2:17), những “kẻ tống tiền đội lốt tôn giáo” lừa gạt người nhẹ dạ, Phao-lô bác bỏ những cách dạy Kinh Thánh quanh co của họ (IICo 4:2) và xem thường xu hướng họ khoe khoang về những người họ dắt về Chúa (IICo 10:12-18). Một lý do tín hữu Cô-rinh-tô chậm trễ trong việc đóng góp cho sự quyên tiền đặc biệt, là vì những người đạo Do Thái đã “cướp bóc” của Hội Thánh (IICo 11:7-12,20 IICo 12:14).
Phao-lô phản bác những học thuyết và việc làm của các giáo sư giả ra sao? Bằng cách bày tỏ vinh hiển trội hơn trong chức vụ của Phúc Âm về ân điển Đức Chúa Trời. Trong IICo 3:1-18 Phao-lô so sánh chức vụ của giao ước cũ (luật pháp) với chức vụ của giao ước mới (ân điển), và chứng minh tính cao trọng của chức vụ thuộc giao ước mới. Hãy chú ý những điểm tương phản ông trình bày.
1. Bảng đá - Lòng người (IICo 3:1-3)
Những người Do Thái giáo khoe khoang rằng họ đã mang những “thơ gởi gắm” (IICo 3:1)của “những người quan trọng” trong Hội Thánh Giê-ru-sa-lem, và cho Phao-lô là người không có những uỷ nhiệm thư như vậy. Thật buồn khi một người đo giá trị của bản thân bằng những điều người khác nói về mình thay vì bằng những điều Đức Chúa Trời biết về mình Phao-lô không cần uỷ nhiệm thư nào của các lãnh đạo Hội Thánh: đời sống và chức vụ của ông là những sự gởi gắm duy nhất ông cần.
Khi Đức Chúa Trời ban luật pháp, Ngài viết trên những bảng đá và những bảng này được đặt trong hòm giao ước. Cho dù dân Y-sơ-ra-ên có thể đọc được 2 bảng đá này, thì từng trải đó cũng không thể thay đổi được đời sống họ. Luật pháp là hình thức bên ngoài và con người cần một năng lực bên trong nếu muốn đời sống mình được thay đổi. Người theo chủ nghĩa luật pháp có thể khuyên chúng ta “hãy làm điều này” hay “đừng làm điều đó! ” nhưng người ấy không thể cho chúng ta năng lực vâng theo. Nếu chúng ta vâng theo, thường thì sự vâng theo đó không xuất phát từ tấm lòng, và chúng ta sẽ đi đến tình trạng tệ hại hơn trước!
Chức vụ của ân điển thay đổi lòng người. Thánh Linh Đức Chúa Trời dùng lời Ngài để viết nơi lòng người. Lúc Phao-lô đến với tín hữu Cô-rinh-tô, họ chỉ là những tội nhân gian ác, nhưng chức vụ của Phúc Âm về ân điển Đức Chúa Trời do Phao-lô thi hành đã thay dổi hoàn toàn đời sống họ (ICo 6:9-11). Kinh nghiệm về ân điển Đức Chúa Trời có ý nghĩa đối với họ nhiều hơn những thư gởi gắm do các giáo sư giả đem đến. Tín hữu Cô-rinh-tô đã được viết cách yêu thương trên lòng Phao-lô, và Thánh Linh Đức Chúa Trời đã viết chân lý nơi lòng họ, khiến họ trở nên những “thư tín sống động của Đấng Christ”.
Sự trắc nghiệm về chức vụ là những đời sống được thay đổi, chớ không phải là những thông cáo báo chí hay các con số thống kê. Người theo chủ nghĩa luật pháp rất dễ khoe mình, vì người ấy có thể “đánh giá chức vụ mình bằng những tiêu chuẩn bên ngoài. Người tin Chúa nhẫn nại thi hành chức vụ bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời phải dành kết quả cho Chúa. Thật thê thảm khi tín hữu Cô-rinh-tô nghe theo những người Do Thái giáo khoe khoang và làm tan vỡ lòng người đã từng cứu họ khỏi sự đoán phạt.
2. Sự chết - Sự sống (IICo 3:4-6)
Phao-lô nhanh chóng quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời chớ không cho bản thân, sự tin chắc của ông (“tin cậy” ở nơi Đức Chúa Trời và tài năng của ông đến từ Đức Chúa Trời. Phao-lô là người thông minh và học thức, nhưng ông không cậy vào khả năng của riêng mình. Ông nhờ cậy nơi Chúa.
Dĩ nhiên những người theo chủ nghĩa luật pháp nói với mọi người rằng bất cứ ai cũng có thể vâng theo luật pháp và trở nên thuộc linh. Một chức vụ thuộc luật pháp có cách thổi phồng cái tôi của con người. Khi bạn chú trọng đến ân điển Đức Chúa Trời, bạn phải cho mọi người biết họ là tội nhân hư mất không có khả năng tự cứu mình. Phao-lô làm chứng rằng: “...bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi” (ICo 15:10). Không ai tự cho mình có đủ khả năng để làm việc với lòng người, khả năng này chỉ có thể đến từ Đức Chúa Trời.
Khi đọc đoạn Kinh Thánh này, bạn hãy chú ý những tên gọi khác nhau được Phao-lô sử dụng cho giao ước cũ và giao ước mới khi ông so sánh chúng. Ở (IICo 3:6) “chữ”đề cập đến luật pháp Cựu Ước, còn “Thánh Linh” đề cập đến sứ điệp về ân điển của giao ước mới. Phao-lô không muốn so sánh 2 cách tiếp cận Kinh Thánh, một “cách giải nghĩa đen” và một “cách giải nghĩa thuộc linh”. Ông muốn nhắc nhở người đọc rằng luật pháp Cựu Ước không thể ban sự sống đó là chức vụ về sự chết (Ga 3:21). Phúc Âm đem sự sống đến cho những ai tin nhận vì công tác của Chúa Giê-xu Christ trên thập tự giá.
Phao-lô không có ý cho rằng luật pháp là một sai lầm hay chức vụ của luật pháp không quan trọng. Chẳng hề vậy! Phao-lô biết tội nhân hư mất phải bị luật pháp xử chết và bị bỏ mặc để bị định tội cách vô vọng trước khi có thể được cứu bởi ân điển Đức Chúa Trời. Giăng Báp-tít đã xuất hiện mang theo một sứ điệp về sự đoán xét, mở đường cho Chúa Giê-xu và sứ điệp về ơn cứu rỗi của Ngài.
Một chức vụ về luật pháp đem đến sự chết. Những mục sư truyền đạo nào chỉ chú trọng vào những luật lệ và quy tắc sẽ kìm hãm Hội Thánh dưới đám mây u ám của tội lỗi. Và điều này sẽ giết chết niềm vui, năng lực và lời chứng hiệu quả của họ cho Đấng Christ. Cơ Đốc nhân nào luôn đánh giá nhau, so sánh “các kết quả” và tranh cạnh nhau, sẽ chóng khám phá ra mình đang cậy nơi xác thịt chớ không nơi quyền năng Thánh Linh. Chẳng bao giờ có một tiêu chuẩn nào có thể biến đổi đời sống con người, kể cả mười điều răn. Chỉ có ân điển Đức Chúa Trời được Thánh Linh Ngài hành động mới có thể biến đổi tội nhân hư mất trở nên những bức thư sống làm sáng danh Chúa Giê-xu Christ.
Giáo lý của Phao-lô về giao ước mới không phải là những gì ông phát minh ra nhân cơ hội này. Là người nghiên cứu Kinh Thánh đầy uyên bác, hẳn Phao-lô đã đọc qua sách Gi 31:27-34 (cũng như sách Exe 11:14-21). Ở Tân Ước, He 8:1-10:39 là đoạn quan trọng để nghiên cứu. Luật pháp Cựu Ước cùng với sự chú trọng đến sự vâng lời bên ngoài đã là sự dọn đường cho sứ điệp về ân điển của giao ước mới chú trọng về việc biến cải bên trong lòng người.
3. Vinh hiển tạm - Vinh hiển bội phần (IICo 3:7-11)
Phân đoạn này là phần trọng tâm của chương, và phải được nghiên cứu kết hợp với Xu 34:29-35. Phao-lô không phủ nhận vinh hiển của luật pháp Cựu Ước, vì trong sự ban phát luật pháp cùng việc duy trì đền tạm và những lễ nghi trong đền thờ hẳn đều bày tỏ vinh hiển. Tuy nhiên, điều Phao-lô khẳng định là vinh hiển của giao ước mới trong ân điển cao trọng hơn nhiều, và ông đưa ra nhiều lý do củng cố cho sự khẳng định của mình:
1.Vinh hiển của giao ước mới mang ý nghĩa sự sống thuộc linh chớ không phải sự chết (IICo 3:7-8). Khi Môi-se từ trên núi xuống sau cuộc hầu chuyện với Đức Chúa Trời, gương mặt ông rực sáng sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đây là một phần vinh hiển của việc ban luật pháp và chắc hẳn gây ấn tượng cho dân sự. Rồi Phao-lô lập luận từ sự việc nhỏ đến sự việc quan trọng hơn: Nếu có vinh hiển trong việc ban một luật pháp, là luật pháp đem đến sự chết, vậy một chức vụ đem lại sự sống còn vinh hiển hơn dường nào!
Người theo chủ nghĩa luật pháp giống như người theo đạo Do Thái, họ thích phóng đại vinh hiển của luật pháp và thu nhỏ sự khiếm khuyết của nó. Trong bức thư gởi các Hội Thánh ở Ga-la-ti, Phao-lô nêu ra những nhược điểm của luật pháp: không thể xưng công bình cho tội nhân hư mất (Ga 2:16), không thể ban cho tội nhân sự công bình (Ga 2:21), không thể ban Đức Thánh Linh (Ga 3:2), không thể ban cơ nghiệp (Ga 3:18), không thể ban sự sống (Ga 3:21) hoặc sự tự do (Ga 4:8-10). Vinh hiển của luật pháp thật sự là vinh hiển của một chức vụ về sự chết.
2.Vinh hiển của giao ước mới mang ý nghĩa sự công bình, không phải sự định tội (IICo 3:9-10). Luật pháp được ban ra không vì mục đích cứu rỗi, bởi không có sự cứu rỗi nào nhờ sự vâng theo luật pháp. Luật pháp sinh ra sự định tội và là chiếc gương soi bày tỏ thực trạng gương mặt chúng ta dơ bẩn ra sao. Nhưng chúng ta không thể xoá gương mặt mình trong gương.
Chức vụ của giao ước mới sinh ra sự công bình và thay đổi nhiều đời sống quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Nhu cầu to lớn nhất của con người là sự công bình, và sự ban cho vĩ đại nhất của Đức Chúa Trời là sự công bình bởi đức tin trong Chúa Giê-xu Christ “Nếu bởi luật pháp mà được sự công bình, thì Đấng Christ chịu chết là vô ích” (Ga 2:21). Người cố gắng sống theo luật pháp sẽ thấy mình tội càng thêm tội. Tình trạng này có thể dẫn đến một cảm giác thất vọng và cảm giác bị loại bỏ. Chính khi chúng ta tin nhận Đấng Christ, và sống bởi đức tin trong ân điển Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ kinh nghiệm niềm vui cùng sự thoả lòng.
IICo 3:10 khẳng định rằng luật pháp thật sự “đánh mất sự vinh hiển của nó” khi so với vinh hiển trổi hơn của chức vụ về ân điển Đức Chúa Trời. Đơn giản là chẳng còn sự so sánh nào nữa. Thật đáng buồn, có một số người không thể “cảm thấy thuộc linh” nếu không mang gánh nặng của tội lỗi. Luật pháp sinh ra sự vi phạm và sự định tội, vì luật pháp giống như một giấy nợ (Co 2:14), một kẻ bảo hộ kỷ luật chúng ta (Ga 4:1-5) và như một cái ách quá nặng không mang nổi (Ga 5:1 Cong 15:10).
3.Vinh hiển của giao ước mới là vinh hiển vĩnh cửu, không phải vinh hiển tạm (IICo 3:11). Thì của động từ ở đây rất quan trọng “đang qua đi”. Phao-lô viết thư tín vào một giai đoạn trong lịch sử khi các thời đại cứ tiếp nối nhau. Giao ước mới của ân điển đã xuất hiện, nhưng các lễ nghi ở đền thờ vẫn được thực hiện và dân tộc Y-sơ-ra-ên vẫn sống dưới luật pháp. Vào năm 70 SC, thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị quân La Mã tàn phá, và sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của hệ thống Do Thái giáo.
Những người theo Do Thái giáo muốn tín hữu Cô-rinh-tô trở lại với luật pháp, để “hoà hợp” hai giao ước. Phao-lô đặt câu hỏi: “Tại sao còn quay lại với những sự tạm bợ đang biến đi? Hãy sống trong sự vinh hiển của giao ước mới, là sự vinh hiển ngày càng trổi hơn”. Vinh hiển của luật pháp chỉ là vinh hiển của lịch sử đã qua, nhưng vinh hiển của giao ước mới là vinh hiển hiện tại. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta có thể được thay đổi “từ vinh hiển qua vinh hiển” (IICo 3:18), điều mà luật pháp chẳng bao giờ thực hiện.
Vinh hiển của luật pháp đang biến đi trong thời Phao-lô và hôm nay. Vinh hiển ấy chỉ được tìm thấy qua những câu chuyện lịch sử trong Kinh Thánh. Đất nước Y-sơ-ra-ên không còn đền thờ hay chức tế lễ. Nếu họ xây đền thờ, chắc sẽ không có sự vinh hiển Shê-ki-na ngự nơi Chí thánh. Luật Môi-se là một tôn giáo có quá khứ lừng lẫy nhất, nhưng hôm nay chẳng để lại vinh hiển nào. Ánh sáng ấy đã tắt, tất cả còn lại chỉ là những hình bóng (Co 2:16-17).
Phao-lô chỉ ra rằng chức vụ về ân điển mang tính chất bên trong (IICo 3:13), đem đến sự sống (IICo 3:4-6) và liên quan đến sự vinh hiển trổi hơn (IICo 3:7-11). Ông trình bày một điểm tương phản sau cùng để chứng minh tính cao trọng của chức vụ giao ước mới về ân điển.
4. Che đậy - Bày tỏ ra (IICo 3:12-18)
Kinh Thánh cơ bản là một “cuốn sách chứa nhiều hình ảnh” vì nó sử dụng những biểu tượng, lối so sánh, ẩn dụ và những yếu tố khác về văn chương để truyền tải thông điệp của nó. Trong phân đoạn này, Phao-lô sử dụng từng trải của Môi-se với chiếc lúp che mặt của ông để minh hoạ sự tự do đầy vinh hiển cùng sự bày tỏ về đời sống Cơ Đốc dưới ân điển. Phao-lô nhìn thấy trong từng trải của Môi-se một ý nghĩa thuộc linh sâu sắc hơn những gì bạn và tôi từng nhìn thấy khi đọc Xu 34:29-35.
1.Sự kiện lịch sử (IICo 3:12-13). Nếu bạn dự phần vào một chức vụ của vinh hiển trổi hơn, bạn có thể dạn dĩ trong điều mình nói và Phao-lô đã không giấu diếm sự dạn dĩ của ông. Và không như Môi-se, Phao-lô không có gì để che đậy.
Lúc Môi-se xuống núi sau khi giao thông cùng Đức Chúa Trời, mặt ông rực sáng phản chiếu vinh hiển của Đức Chúa Trời. Khi Môi-se nói chuyện với dân sự, họ có thể nhìn thấy vinh hiển trên gương mặt ông và vinh hiển ấy gây ảnh hưởng đối với họ.Nhưng Môi-se biết rằng vinh hiển này sẽ biến đi, nên khi dạy dỗ dân sự xong, ông lấy mạng che mặt. Mạng che này khiến dân dự không nhìn thấy vinh hiển biến mất vì xét cho cùng, có ai lại muốn đi theo một lãnh đạo sắp mất sự vinh hiển?
Từ được dịch là “cuối cùng” ở IICo 3:13 có 2 ý nghĩa “mục đích” và “sự kết thúc”.Mạng che mặt ngăn không cho dân sự nhìn thấy “sự kết thúc” của vinh hiển khi nó đã biến đi. Nhưng mạng che mặt cũng ngăn không cho dân sự hiểu “mục đích” đằng sau sự vinh hiển biến đi này. Luật pháp vừa mới được ban ra và dân sự chưa sẵn sàng để biết rằng hình thức tôn giáo này chỉ là tạm thời. Chân lý mà giao ước của luật pháp là sự chuẩn bị cho điều cao trọng hơn, vẫn chưa được rao ra giữa vòng họ.
2.Ứng dụng cho dân tộc (IICo 3:14-17). Phao-lô có một tình yêu đặc biệt đối với dân Y-sơ-ra-ên và nặng lòng trông mong dân tộc ông được cứu (Ro 9:1-3). Vì sao dân Do Thái khước từ Đấng Christ? Là nhà truyền giáo cho dân ngoại, Phao-lô chứng kiến nhiều người ngoại tin nhận Chúa, ngoại trừ dân Do Thái, dân tộc ông đang chối bỏ chân lý và bắt bớ Phao-lô cùng Hội Thánh Chúa.
Vì sao vậy? Có một “màn che thuộc linh” phủ nơi lòng và trí họ, “đôi mắt thuộc linh” của họ đã bị mù, nên khi đọc Kinh Thánh Cựu Ước, họ không nhìn biết chân lý về Đấng Christ của mình. Thậm chí dù Kinh Thánh từng được đọc cách hệ thống trong các nhà hội, dân Do Thái vẫn không hiểu rõ thông điệp thuộc linh Đức Chúa Trời ban cho họ. Họ đã bị tôn giáo làm cho mù lòa.
Không còn hy vọng nào dành cho con cái lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên sao? Vâng, có chớ! “Nhưng khi họ trở lại cùng Chúa (bằng cách tin nhận Chúa Giê-xu), thì màn ấy mới “cất khỏi” (IICo 3:16).
Trong mỗi Hội Thánh thuộc 3 Hội Thánh tôi đã làm mục sư, Hội Thánh nào cũng đem đến cho tôi niềm vui mừng được làm báp-tem cho những người Do Thái tin nhận Chúa Giê-xu Christ. Thật kỳ diệu biết bao khi tâm trí họ mở ra trước Lời Thánh Kinh sau khi được tái sinh. Một người cho tôi biết “Nó giống như thể có những cái vảy rớt ra khỏi mắt ông vậy. Ông không hiểu vì sao mọi người không thấy những gì ông nhìn thấy! ” Màn che đã được Thánh Linh Đức Chúa Trời cất đi, họ nhận được khải tượng thuộc linh.
Nhưng, không có tội nhân nào – người Do Thái hay người ngoại – có thể trở lại với Đấng Christ nếu không có chức vụ của Thánh Linh Đức Chúa Trời. “Chúa tức là Thánh Linh” (IICo 3:17). Câu Kinh Thánh này là lời tuyên bố mạnh mẽ về Thần tính của Đức Thánh Linh: Ngài là Đức Chúa Trời. Những người theo Do Thái giáo đã xâm phạm vào Hội Thánh tại Cô-rinh-tô, muốn cậy luật pháp để thay đổi đời sống con người nhưng chỉ có Thánh Linh Đức Chúa Trời mới có thể đem đến sự biến cải tâm linh. Luật pháp chỉ có thể đem đến sự bó buộc, nhưng Thánh Linh dẫn chúng ta vào một cuộc đời tự do. “Thật anh em đã chẳng nhận lấy phần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi nhưng đã nhận lấy thần trí của sự làm con nuôi, và nhờ đó chúng ta kêu rằng: A-ba! Cha! (Ro 8:15).
Là một quốc gia, Y-sơ-ra-ên ngày nay đang mù loà về thuộc linh, nhưng không có nghĩa là cá nhân người Do Thái không thể được cứu. Hội Thánh hôm nay cần phải phục hồi lại gánh nặng cho Y-sơ-ra-ên đã bị đánh mất. Chúng ta là những người mắc nợ họ, vì mọi ơn phước thuộc linh chúng ta hưởng đều đến từ Y-sơ-ra-ên “Sự cứu rỗi bởi người Do Thái mà đến” (Gi 4:22). Phương cách duy nhất chúng ta có thể “trả” món nợ này là rao Phúc Âm cho họ và cầu nguyện để họ được cứu (Ro 10:1).
3.Ứng dụng cho cá nhân (IICo 3:18)“Chúng ta ai nấy đều để mặt trần mà nhìn xem vinh hiển Chúa như trong gương, thì hoá nên cùng một ảnh tượng Ngài, từ vinh hiển qua vinh hiển, như bởi Chúa, là Thánh Linh”.
Câu Kinh Thánh trên là đỉnh điểm của chương này, và nó trình bày một chân lý đầy hứng thú đến đỗi tôi ngạc nhiên, khi có rất nhiều tín hữu đã bỏ qua – hoặc lờ đi câu này. Bạn và tôi có thể mang hình ảnh của Chúa Giê-xu Christ và đi “từ vinh hiển qua vinh hiển” nhờ chức vụ của Thánh Linh Đức Chúa Trời!
Dưới thời Cựu Ước, chỉ một mình Môi-se lên núi và giao thông với Đức Chúa Trời.Nhưng dưới giao ước mới, mọi Cơ Đốc nhân đều có đặc quyền giao thông với Ngài.Nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta có thể bước vào nơi chí thánh (He 10:19-20) và không cần phải leo lên ngọn núi nào!
“Gương”là biểu tượng của Lời Đức Chúa Trời (Gia 1:22-25). Khi chúng ta nhìn vào lời Đức Chúa Trời và thấy Con Ngài, Thánh Linh biến đổi chúng ta trở nên đúng ảnh tượng Đức Chúa Trời. Tuy nhiên quan trọng là chúng ta không nên giấu giếm Đức Chúa Trời điều gì. Chúng ta phải mở lòng mình và thành thật trước mặt Ngài, chớ không “lấy màn che mặt”.
Từ được dịch là “được thay đổi” cũng được dịch là “được biến hoá” trong câu chuyện về sự hoá hình của Chúa Giê-xu (Mat 17:1-27 Mac 9:1-51). Từ này mô tả một sự thay đổi ở bên ngoài xuất phát từ bên trong. Tiếng Anh có từ “metamorphosis” là một dạng chuyển tự của từ Hy Lạp. “Metamorphosis” mô tả một tiến trình biến đổi một con trùng từ dạng ấu trùng thành con nhộng, rồi thành một loài sâu bọ phát triển hoàn chỉnh. Những thay đổi này xảy ra từ bên trong.
Môi-se phản chiếu vinh hiển Đức Chúa Trời, nhưng bạn và tôi có thể chiếu ra vinh hiển Ngài. Khi chúng ta suy ngẫm Lời Đức Chúa Trời và qua đó nhìn thấy Con Đức Chúa Trời, khi ấy Thánh Linh biến đổi chúng ta! Chúng ta trở nên giống Chúa Giê-xu hơn khi tăng trưởng “từ vinh hiển qua vinh hiển”. Sự vinh hiển của luật pháp đã biến đi, nhưng vinh hiển của ân điển Đức Chúa Trời tiếp tục gia tăng trong đời sống chúng ta.
Hãy nhớ rằng Phao-lô không chỉ muốn so sánh Cựu Ước với Tân Ước, nhưng cũng so sánh chức vụ của giao ước cũ với chức vụ của ân điển. Mục tiêu của chức vụ trong giao ước cũ là sự vâng theo một tiêu chuẩn bên ngoài, nhưng sự vâng giữ này không thể thay đổi phẩm cách con người. Mục tiêu của chức vụ trong giao ước mới là việc giống Chúa Giê-xu. Luật pháp có thể đem chúng ta đến với Đấng Christ (Ga 3:24) nhưng chỉ ân điển mới có thể khiến chúng ta trở nên giống Ngài. Các nhà truyền đạo và giáo sư theo chủ nghĩa luật pháp có thể khiến người nghe tuân theo một tiêu chuẩn nào đó, nhưng họ không bao giờ có thể biến đổi những người ấy trở nên giống Con Đức Chúa Trời.
Công cụ cho chức vụ trong giao ước cũ là luật pháp, nhưng công cụ cho chức vụ của giao ước mới là Thánh Linh Đức Chúa Trời sử dụng Lời Ngài. (Khi dùng chữ “luật pháp” tôi không muốn nói đến Kinh Thánh Cựu Ước nhưng nói về cả hệ thống luật pháp do Môi-se lập ra. Chắc chắn Đức Thánh Linh có thể sử dụng cả Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước để bày tỏ Chúa Giê-xu Christ cho chúng ta). Vì Đức Thánh Linh viết ra Kinh Thánh, nên Ngài có thể dùng nó để dạy dỗ chúng ta. Hơn thế, vì Đức Thánh Linh sống trong chúng ta nên Ngài có thể giúp ta vâng giữ lời Ngài bằng tấm lòng mình. Đây không phải là sự vâng lời của luật pháp sinh ra bởi sự sợ hãi, nhưng là sự vâng lời của người làm con sinh bởi lòng kính yêu.
Sau cùng, kết quả của chức vụ thuộc giao ước cũ đem đến sự trói buộc. Nhưng kết quả của chức vụ thuộc giao ước mới đem đến tự do trong Thánh Linh. Chủ nghĩa luật pháp khiến con người không trưởng thành và người không trưởng thành phải sống bằng những điều lệ và qui tắc (Ga 4:1-7). Đức Chúa Trời muốn con cái Ngài vâng lời không vì một qui tắc bên ngoài (luật pháp), nhưng vì tính cách bên trong.Cơ Đốc nhân không sống dưới luật pháp, nhưng không có nghĩa chúng ta như những kẻ vô luật pháp! Thánh Linh Đức Chúa Trời viết lời Ngài nơi lòng chúng ta, và chúng ta vâng lời Cha mình vì có sự sống mới Ngài đã ban trong lòng.
Hấp lực chủ nghĩa luật pháp vẫn ở cùng chúng ta. Các giáo phái giả hiệu đã lợi dụng những người xưng là Cơ Đốc nhân và các thuộc viên Hội Thánh, giống như những người Do Thái giáo thời Phao-lô đã làm. Chúng ta phải biết cách nhận diện những hình thức sùng bái giả hiệu và không nghe theo những lời dạy dỗ đó. Cũng có một số Hội Thánh rao giảng Phúc Âm theo xu hướng của luật pháp nên khiến các thuộc viên Hội Thánh ở tình trạng không trưởng thành, dễ phạm tội và sợ hãi. Họ trải qua thời gian dài đối phó với những hình thức bên ngoài và xao lãng sự trau dồi đời sống bên trong. Họ đề cao các chuẩn mực và lên án tội lỗi, nhưng không ngợi khen Chúa Giê-xu Christ. Thật đáng buồn khi có một chức vụ của giao ước cũ xuất hiện trong một số Hội Thánh thời Tân Ước.
Đến đây, Phao-lô đã giải thích hai khía cạnh trong chức vụ ông. Đó là chức vụ đắc thắng (IICo 1:1-2:17) và vinh hiển (IICo 3:1-17). Cả hai đi đôi với nhau. “Vậy nên, chúng tôi nhờ sự thương xót đã ban cho, mà được chức vụ này, thì chúng tôi chẳng ngã lòng” (IICo 4:1).
Khi chức vụ của bạn có liên quan đến vinh hiển của Đức Chúa Trời, bạn không thể rút lui!
4. CAN ĐẢM ĐỐI DIỆN VỚI NGHỊCH CẢNH (IICo 4:1-5:8)
Chủ đề chính trong phân đoạn này được lặp lại ở c. 1 và c. 16 “Chúng tôi chẳng ngã lòng! ” Theo nghĩa đen, Phao-lô nói: “Chúng tôi không mất lòng”. Chắc hẳn có nhiều lý do gây nản lòng trong hoàn cảnh của Phao-lô, nhưng vị sứ đồ tuyệt vời này đã không bỏ cuộc. Điều gì đã giúp Phao-lô không nản lòng trước những nghịch cảnh của cuộc sống? Ông biết những điều mình có trong Chúa Giê-xu Christ! Thay vì phàn nàn về những điều mình không có, Phao-lô vui mừng trong những điều ông có, bạn và tôi cũng có thể làm được như vậy.
1. Chúng ta có một chức vụ vinh hiển (IICo 4:1-6)
Theo nghĩa đen Phao-lô muốn viết “Vì vậy, sự thật là chúng tôi có được loại chức vụ này”. Đó là loại chức vụ gì? Loại chức vụ này đã được mô tả ở chương trước, một chức vụ vinh hiển đem cho con người, sự sống, sự cứu rỗi và sự công bình, một chức vụ có khả năng biến đổi đời sống con người. Chức vụ này là một sự ban cho chúng ta nhận từ Đức Chúa Trời. Chức vụ ấy được ban cho chúng ta bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, chớ không vì bất cứ điều gì chúng ta đã làm hay địa vị chúng ta thế nào (ITi 1:12-17).
Cách bạn nhìn xem chức vụ mình sẽ giúp quyết định cách bạn thực hiện chức vụ ấy. Nếu xem sự hầu việc Đấng Christ như một gánh nặng thay vì là một đặc quyền, bạn sẽ là một kẻ lao dịch, và chỉ làm những điều bắt buộc. Một số người còn xem sự hầu việc như sự trừng phạt của Đức Chúa Trời. Khi Phao-lô suy xét sự kiện ông làm người thi hành chức vụ của Chúa Giê-xu, ông đầy lòng cảm kích ân điển và sự thương xót của Đức Chúa Trời. Thái độ tích cực của Phao-lô đối với chức vụ đã có những kết quả thực tiễn trong đời sống ông.
- Trước tiên, thái độ tích cực giúp Phao-lô không là người bỏ cuộc (IICo 4:1). Ông thú nhận với tín hữu Cô-rinh-tô rằng những thử thách ông trải qua tại xứ A-si hầu như khiến ông ngã lòng (IICo 1:8). Dù có tài năng xuất chúng và kinh nghiệm dẫy đầy, Phao-lô vẫn là con người và là đối tượng cho những khiếm khuyết của người phàm. Nhưng làm sao Phao-lô có thể ngã trong khi tham dự vào một chức vụ tốt đẹp như vậy. Có phải Đức Chúa Trời đã giao phó chức vụ này cho ông để ông thất bại? Dĩ nhiên là không! Với sự kêu gọi thiên thượng cùng sự giúp đỡ thiên thượng, Phao-lô biết rằng Đức Chúa Trời sẽ giúp ông vượt qua mọi sự.
Một mục sư Hội Thánh Giám lý bị ngã lòng đã viết thư cho Alexander Whyte, nhà truyền giáo lừng danh người Tô-cách-lan để xin lời khuyên. Liệu ông có nên từ bỏ chức vụ không? Whyte viết cho ông rằng: “Các thiên sứ ở quanh ngôi vinh hiển đang ghen tị anh về công tác tuyệt vời của anh đấy! ” Đó là cách trả lời mà có lẽ Phao-lô muốn viết như vậy, một cách trả lời mà tất cả chúng ta cần suy nghĩ mỗi khi cảm thấy công việc mình làm không có kết quả.
- Điều thứ 2, thái độ tích cực giúp Phao-lô không trở nên kẻ giả dối (IICo 4:2-4). “Nhưng chúng tôi từ bỏ mọi điều hổ thẹn giấu kín. Chúng tôi chẳng theo sự gối dạt, và chẳng giả mạo lời Đức Chúa Trời, nhưng trước mặt Đức Chúa Trời chúng tôi bày tỏ lẽ thật, khiến lương tâm mọi người cho chúng tôi là đáng chuộng” (IICo 4:2). Chắc chắn Phao-lô muốn ám chỉ những người theo Do Thái giáo khi viết ra những lời này. Mọi giáo sư giả ngày nay đều tuyên bố họ căn cứ giáo lý của mình trên lời Đức Chúa Trời, nhưng sử dụng lời Ngài theo những cách giả dối. Bạn có thể dùng Kinh Thánh để chứng minh bất cứ điều gì nếu bóp méo lời Chúa khỏi văn cảnh và chối bỏ lời chứng của lương tâm mình. Kinh Thánh là một sách văn chương và phải được giải nghĩa theo những luật lệ căn bản của sự giải nghĩa. Nếu người ta giải thích những sách khác theo cách họ đã luận giải Kinh Thánh, có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ học được điều gì.
Phao-lô không có gì để giấu giếm hoặc trong đời sống riêng tư hay trong sự rao giảng lời Chúa của ông. Mọi sự đều công khai và thành thật, không có sự giả dối hay bóp méo lời Chúa. Những người theo Do Thái giáo đã phạm tội bóp méo lời Chúa cho phù hợp với cách giải nghĩa theo định kiến của họ, và những người dại dột đã sẵn sàng theo họ.
Nếu Phao-lô là một giáo sư trung tín rao giảng lời Chúa như thế, tại sao nhiều người không tin sứ điệp của ông? Tại sao các giáo sư giả lại quá thành công trong việc thu phục những người cải đạo? Bởi lòng tội nhân hư mất bị Sa-tan làm cho mù loà, và con người sa ngã cảm thấy tin những lời giả dối dễ hơn tin chân lý. Phúc Âm “che khuất cho những kẻ hư mất, cho những kẻ chẳng tin mà Chúa đời này đã làm mù lòng họ, hầu cho họ không trông thấy sự vinh hiển chói lói của Phúc Âm Đấng Christ, là ảnh tượng của Đức Chúa Trời” (IICo 4:3-4).
Phao-lô đã giải thích rằng tâm trí người Do Thái đã bị “che”, bởi lòng họ bị mù loà (IICo 3:14-16 Ro 11:25). Lòng dân ngoại cũng bị mù loà! Những kẻ hư mất (“bị huỷ diệt”) không thể hiểu được sứ điệp của Phúc Âm. Sa-tan không muốn ánh sáng chói lọi của sự cứu rỗi chiếu vào lòng họ. Là chúa đời này và vua chúa của thế gian này (Gi 12:31), Sa-tan luôn giữ tội nhân hư mất trong bóng tối tăm. Đáng buồn là Sa-tan còn lợi dụng các giáo sư đội lốt tôn giáo (như những người theo Do Thái giáo) để lừa dối con người. Có nhiều người vốn trước đây là thuộc viên của những Hội Thánh Cơ Đốc, nay đã thuộc về các giáo phái khác.
Sự kiện kỳ diệu mà Phao-lô đã nhận chức vụ nơi Đấng Christ đã giữ ông không trở nên người bỏ cuộc hay kẻ lừa dối, và cũng giữ ông không trở nên kiêu ngạo (IICo 4:5-6). “Chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi! ” (IICo 4:5). Những người theo Do Thái giáo thích phô mình và khoe khoang về thành tích riêng (IICo 10:12-18). Họ không phải là những tôi tớ muốn giúp đỡ người khác nhưng là những kẻ chuyên quyền lợi dụng người ta.
Phao-lô rõ ràng là một người thể hiện sự khiêm nhường thật. Ông không nhờ cậy bản thân (IICo 1:9) hay phô mình (IICo 3:1-5), hoặc rao giảng về mình (IICo 4:5). Ông chỉ muốn dẫn dắt nhiều người đến với Chúa Giê-xu Christ và gây dựng họ trong đức tin. Phao-lô, có thể dễ dàng tạo ra một “hội những người hâm mộ” cho mình và lợi dụng những người yếu đuối là những người muốn có liên hệ với những vĩ nhân. Những người theo Do Thái giáo đã hành động theo cách ấy, nhưng Phao-lô khước từ loại chức vụ như vậy.
Điều gì xảy ra khi bạn rao giảng về Chúa Giê-xu Christ cho tội nhân hư mất? Sự sáng bắt đầu chiếu rạng! Phao-lô ví sánh việc trở lại tin nhận Chúa như sự sáng tạo được mô tả ở sách Sa 1:3. Giống như tình trạng trái đất được chép ở Sa 1:2 tội nhân hư mất ở tình trạng vô hình và trống không, nhưng khi tin nhận Đấng Christ, người ấy trở nên một tạo vật mới (IICo 5:17). Khi ấy, Đức Chúa Trời bắt đầu định hình và gây dựng đời sống của người tin nhận Đấng Christ, để rồi người ấy bắt đầu kết quả cho Chúa. Lời Đức Chúa Trời phán “phải có sự sáng! ” khiến mọi sự đều trở nên mới.
2. Chúng ta có một của quí (IICo 4:7-12)
Từ vinh hiển của sự sáng tạo mới, Phao-lô chuyển sang sự khiêm nhường của chiếc bình đất. Cơ Đốc nhân đơn giản là một “chiếc bình đất”, nhưng chính của cải chứa trong bình khiến chiếc bình có giá trị. Hình ảnh cái bình là hình ảnh tái hiện trong Kinh Thánh và từ đó chúng ta có thể học được nhiều bài học.
Trước hết, Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta như hình dáng chúng ta hôm nay để chúng ta có thể làm công việc Ngài muốn. Đức Chúa Trời phán về Phao-lô rằng “vì ta đã chọn người này làm một đồ dùng ta, để đem danh ta đồn ra trước mặt các dân ngoại...” (Cong 9:15). Không Cơ Đốc nhân nào có quyền phàn nàn Đức Chúa Trời vì sự khiếm khuyết về những ân tứ hay tài năng, hoặc vì những hạn chế, bệnh tật của thân thể mình. Thi 139:13-16 cho thấy chính cấu trúc di truyền của thân thể chúng ta là do bàn tay Đức Chúa Trời nắn nên. Mỗi chúng ta phải thoả lòng với bản thân mình và sống đúng với mình.
Điều quan trọng về một chiếc bình là nó sạch sẽ, trống không và sẵn sàng cho việc sử dụng. Mỗi chúng ta phải ao ước trở nên “cái bình quí trọng làm của thánh, có ích cho chủ mình và sẵn sàng cho mọi việc lành” (IITi 2:21). Chúng ta là những chiếc bình để Đức Chúa Trời có thể sử dụng. Chúng ta là những chiếc bình đất để có thể nhờ cậy quyền năng của Đức Chúa Trời chớ không phải sức riêng.
Chúng ta phải hướng sự chú ý vào của quí chớ không phải cái bình. Phao-lô không sợ hoạn nạn hay thử thách, vì biết rằng Đức Chúa Trời sẽ gìn giữ chiếc bình bao lâu Phao-lô vẫn gìn giữ của quí (ITi 1:11 ITi 6:20). Đức Chúa Trời cho phép những thử thách xảy đến, Ngài tể trị chúng và dùng chúng vì vinh hiển Ngài. Đức Chúa Trời được sáng danh qua những chiếc bình yếu ớt. J. Hudson Taylor, nhà truyền đạo đã rao Phúc Âm giữa đất nước Trung quốc, từng nói: “Tất cả những người vĩ đại của Đức Chúa Trời là những con người yếu đuối đã làm những việc vĩ đại cho Đức Chúa Trời vì biết Ngài ở cùng mình”.
Lắm lúc Đức Chúa Trời cho phép những chiếc bình của chúng ta bị va đập đến nỗi một số của cải sẽ rơi ra ngoài và làm giàu cho kẻ khác. Hoạn nạn không chỉ bày tỏ sự yếu đuối của con người, mà còn bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Trong phân đoạn này, Phao-lô trình bày một chuỗi những nghịch lý: chậu đất – quyền năng Đức Chúa Trời sự chết của Chúa Giê-xu – sự sống của Chúa Giê-xu, việc làm của sự chết – việc làm của sự sống. Tâm trí phàm tục không thể hiểu chân lý thuộc linh này nên cũng không hiểu vì sao Cơ Đốc nhân có thể đắc thắng hoạn nạn.
Chúng ta không những phải hướng sự chú ý vào của quí chớ không phải cái bình, mà còn phải hướng lòng về Chủ mình chớ không phải đầy tớ. Nếu chúng ta chịu khổ, ấy là vì cớ Chúa Giê-xu. Nếu chúng ta chết về cái tôi, đó là để sự sống của Đấng Christ có thể được bày tỏ trong chúng ta. Nếu chúng ta vượt qua mọi thử thách, ấy là để Đấng Christ được vinh hiển. Và mọi điều này xảy ra vì cớ ích lợi của những người khác. Khi chúng ta hầu việc Chúa, sự chết hành động trong chúng ta, nhưng sự sống hành động trong những người được chúng ta gây dựng.
Tiến sĩ John Henry Jowett nói rằng “Chức vụ mà không trả giá thì không đạt được gì”.Ông nói rất đúng. Một mục sư đồng nghiệp và tôi có lần nghe một thanh niên kia thuyết giảng một bài hùng hồn nhưng vẫn thiếu một điều gì đó. Tôi nói với bạn tôi “hình như còn thiếu một cái gì”. Bạn tôi đáp “Vâng, nó sẽ thiếu cho đến khi nào tấm lòng anh ta tan vỡ ra. Sau khi chịu hoạn nạn một thời gian, anh ta sẽ có một sứ điệp đáng phải lắng nghe”.
Những người Do Thái giáo đã không chịu khổ. Thay vì thu phục linh hồn hư mất, họ lại đánh cắp những người quy đạo ở các Hội Thánh của Phao-lô. Thay vì hy sinh cho kẻ khác, họ bắt người khác hy sinh cho mình (IICo 4:11:20). Những giáo sư giả này không có một của báu nào để chia sẻ. Tất cả những gì họ có là vài mẩu vật trưng bày trong bảo tàng từ thời Cựu Ước, những món đồ cổ bạc màu không bao giờ có thể làm giàu cho đời sống một ai.
Qua kinh nghiệm, tôi thấy có nhiều Hội Thánh không hiểu biết về cái giá mà một mục sư phải trả để trung tín với Chúa trong sự chăm sóc dân sự Ngài. Phân đoạn này là một trong 3 phân đoạn thuộc thư IICô-rinh-tô tập trung vào một danh mục liệt kê những hoạn nạn của Phao-lô. Hai phân đoạn còn lại là IICo 6:1-10 IICo 11:16-12:10.Sự trắc nghiệm một chức vụ thật không phải là những chiếc phù hiệu, nhưng là những vết sẹo “Ước gì từ nay về sau, chẳng ai làm khó cho tôi, vì trong mình tôi có đốt dấu vết (những nhãn hiệu) của Đức Chúa Giê-xu vậy” (Ga 6:17).
Làm sao chúng ta có thể tránh được sự bỏ cuộc? Bằng cách nhớ rằng chúng ta được ban đặc quyền giữ của quí của Phúc Âm trong những chiếc bình đất của mình!
3. Chúng ta có một đức tin vững vàng (IICo 4:13-18)
Chữ “lòng tin” có nghĩa là “thái độ hoặc quan điểm về đức tin”. Phao-lô không muốn nói đến một sự ban cho đặc biệt về đức tin (ICo 12:9), nhưng đúng hơn ông muốn đề cập thái độ của đức tin cần có ở mỗi Cơ Đốc nhân. Ông thấy mình đồng cảm với tác giả Thi 116:10 “Tôi tin, nên tôi nói”. Lời chứng thật cho Đức Chúa Trời dựa trên đức tin nơi Đức Chúa Trời, và đức tin này đến từ lời Đức Chúa Trời (Ro 10:17). Không điều gì có thể bịt miệng người tin Chúa như sự vô tín (Lu 1:20).
Phao-lô vững tin về điều gì? Ông tin rằng qua sự sống hay sự chết ông không có gì để sợ hãi! Ông vừa liệt kê một số thử thách như một phần của đời sống và chức vụ mình và đến đây ông khẳng định rằng đức tin đã giúp ông đắc thắng mọi sự. Hãy để ý những điều Phao-lô biết chắc bởi đức tin.
1.Phao-lô biết chắc về sự đắc thắng cuối cùng (IICo 4:14). Nếu Chúa Giê-xu Christ đã thắng sự chết là kẻ thù cuối cùng, vậy tại sao phải sợ hãi điều gì nữa? Con người làm đủ mọi cách để thấy suốt ý nghĩa của sự chết và để chuẩn bị cho sự chết, nhưng thế gian không có lời giải đáp cho sự chết cho đến khi nào một người chuẩn bị để chết, người ấy mới thực sự sự chuẩn bị để sống. Sứ điệp vui mừng của Hội Thánh đầu tiên là sự đắc thắng sự chết của Chúa Giê-xu Christ và chúng ta cần quay lại với sự nhấn mạnh đắc thắng này.
Hãy để ý rằng Phao-lô cũng nhìn thấy một sự nhóm hiệp của con cái Đức Chúa Trời trong tương lai khi ông viết “chúng tôi ứng hầu với anh em trước mặt Ngài”. Sự chết là rào ngăn cách đáng sợ, nhưng trong Chúa Giê-xu Christ có sự đảm bảo rằng những người thuộc về Ngài sẽ được nhóm hiệp lại trong sự hiện diện của Ngài” (ITe 4:13-18).
2.Phao-lô biết chắc Đức Chúa Trời sẽ được vinh hiển (IICo 4:15). Câu Kinh Thánh này tương đương với Ro 8:28 bảo đảm với chúng ta rằng mọi hoạn nạn chúng ta chịu không trở nên vô ích: chúng được Đức Chúa Trời sử dụng để gây dựng kẻ khác và cũng để qui vinh hiển cho danh Ngài. Làm sao Đức Chúa Trời được vinh hiển trong những thử thách của chúng ta ?Bằng cách Ngài ban cho chúng ta “ân điển dư dật” khi cần để chúng ta luôn có niềm vui và năng lực lúc gặp khó khăn. Bất cứ điều gì khởi đầu bằng ân điển đều dẫn đến vinh hiển (Thi 84:11 IPhi 5:10).
3.Phao-lô biết chắc những thử thách xảy đến có lợi cho ông chớ không làm hại ông (IICo 4:16-17). “Chúng tôi chẳng ngã lòng” (IICo 4:1) là lời chứng mạnh mẽ của Phao-lô. Có vấn đề gì nếu “người bề ngoài” hư nát mà “người bề trong” đang kinh nghiệm sự đổi mới thuộc linh từng ngày Phao-lô không có ý cho rằng thân thể không quan trọng hay chúng ta phải phớt lờ những nguy cơ và nhu cầu của thân thể. Vì thân thể chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời nên chúng ta phải chăm sóc chúng. Nhưng chúng ta không có khả năng điều khiển tình trạng sa đoạ tự nhiên của bản chất con người. Khi chúng ta suy ngẫm mọi hoạn nạn về thân thể mà Phao-lô phải chịu, không có gì ngạc nhiên khi ông viết như vậy.
Là Cơ Đốc nhân chúng ta phải sống từng ngày từng giờ. Dù giàu có hay tài năng ra sao, không ai có thể sống 2 ngày cùng một thời điểm. Đức Chúa Trời chu cấp cho chúng ta “từng ngày” khi chúng ta cầu nguyện với Ngài (Lu 11:3). Ngài ban cho chúng ta năng lực cần thiết tuỳ theo nhu cầu hằng ngày của mình (Phu 33:25). Chúng ta đừng “tích trữ ơn” cho những lúc khẩn cấp trong tương lai, vì Đức Chúa Trời ban ơn cần thiết cho khi chúng ta cần” (He 4:16). Khi chúng ta học cách sống từng ngày từng giờ, vững tin nơi sự chăm sóc của Đức Chúa Trời, đời sống chúng ta sẽ giảm đi rất nhiều áp lực.
Từng thước một, đời thật khổ!
Từng tấc một, đời sẽ đắc thắng
Khi sống bằng đức tin trong Đấng Christ, bạn sẽ có cái nhìn đúng đắn về hoạn nạn.Hãy để ý những điểm tương phản được Phao-lô trình bày ở IICo 4:17 hoạn nạn nhẹ – vinh hiển cao trọng, tạm thời – đời đời, gây bất lợi cho chúng ta – gây ích lợi cho chúng ta. Phao-lô muốn viết bằng những giá trị đời đời ông nhìn thấy.Ông xem nhẹ những hoạn nạn trong hiện tại khi so với vinh hiển trong tương lai, và khám phá rằng những hoạn nạn đó thật sự ích lợi cho ông (xem Ro 8:18).
Chúng ta đừng hiểu sai nguyên tắc này và nghĩ rằng Cơ Đốc nhân có thể sống bất cứ cách nào vừa ý mình rồi trông chờ mọi sự trở nên vinh hiển lúc sau cùng.Phao-lô muốn viết về những thử thách đã trải qua trong ý muốn Đức Chúa Trời khi ông thực hiện công việc Ngài giao. Đức Chúa Trời thật có thể biến hoạn nạn trở nên vinh hiển, nhưng Ngài không thể biến tội lỗi nên vinh hiển được. Tội lỗi phải bị đoán phạt, vì không có vinh hiển nào nơi tội lỗi. Câu Kinh Thánh IICo 4:16 hẳn có liên hệ với IICo 3:18 vì cả hai câu Kinh Thánh đều đề cập đến sự đổi mới thuộc linh của con cái Đức Chúa Trời. Tự hoạn nạn không khiến chúng ta trở nên người thánh khiết hơn. Nếu chúng ta không đầu phục Chúa, vâng lời Ngài và tin cậy Ngài, thì hoạn nạn có thể khiến chúng ta trở nên những Cơ Đốc nhân tồi tệ hơn. Trong chức vụ mục sư tôi từng thấy một số con cái Chúa trở nên chỉ trích và cay đắng, họ đi từ xấu xa đến tình trạng tệ hại hơn thay vì đi “từ vinh hiển qua vinh hiển”. Chúng ta cần có “lòng tin” như Phao-lô đề cập ở IICo 13.
4.Phao-lô biết chắc thế giới vô hình có thật (IICo 4:18). Tiến sĩ A. W. Tozer thường nhắc chúng ta nhớ rằng thế giới vô hình được mô tả trong Kinh Thánh là “thế giới có thật”duy nhất. Nếu chỉ nhìn thế giới hữu hình theo cách Đức Chúa Trời muốn, chúng ta sẽ chẳng bao giờ bị mê hoặc bởi bất cứ điều gì nó phô trương (IGi 2:15-17). Những vĩ nhân của đức tin được đề cập ở He 11:1-40 đã đạt được những điều họ đã làm vì họ đã “thấy Đấng không thấy được” (He 11:10,13-14,27).
Mọi điều thuộc thế gian này có vẻ rất thật vì chúng ta có thể nhìn thấy và cảm nhận chúng, nhưng chúng thảy đều tạm bợ và trong tương lai sẽ tiêu mất. Chỉ có những điều vĩnh cửu của đời sống thuộc linh sẽ tồn tại. Một lần nữa, chúng ta không nên đẩy chân lý này vào những thái rồi cho rằng “vật chất” và “thuộc linh” mâu thuẫn nhau. Khi chúng ta sử dụng vật chất theo ý muốn Đức Chúa Trời, Ngài sẽ biến đổi nó thành những điều thuộc linh. Và nó trở thành một phần của cải chúng ta ở trên trời (vấn đề này được luận nhiều hơn ở đoạn IICo 8:1-9:28). Chúng ta quý trọng vật chất vì nó có thể được sử dụng để phát triển thuộc linh, chớ không vì giá trị của nó.
Làm sao bạn có thể nhìn xem những sự không thấy được? Bởi đức tin khi bạn đọc Lời Chúa. Chúng ta chưa bao giờ nhìn thấy Đấng Christ hay thiên đàng, nhưng chúng ta biết những điều ấy có thật vì lời Đức Chúa Trời cho ta biết như thế. Đức tin là “bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy” (He 11:1). Vì tìm kiếm thành trên trời, Áp-ra-ham rời khỏi Sô-đôm nhưng Lót đã chọn Sô-đôm bởi bước đi bởi ngoại cảnh chớ không bởi đức tin (He 11:10 Sa 13:1-18.
Dĩ nhiên thế gian hư mất này nghĩ rằng chúng ta là những kẻ kỳ quặc, thậm chí có lẽ điên khùng – vì chúng ta tin chắc sự hiện hữu của cõi phước hạnh thiêng liêng vô hình. nhưng Cơ Đốc nhân bằng lòng điều khiển đời sống mình bằng những giá trị vĩnh cửu, chớ không phải có giá trị tạm bợ.
4. Chúng ta có một sự trông cậy ở tương lai (IICo 5:1-8)
“Chúng tôi... được chức vụ này... Chúng tôi có của quý này.... Chúng tôi có đồng một lòng tin... lại có nhà của Đức Chúa Trời” (IICo 4:1,7,13 IICo 5:1).
“Nhà của Đức Chúa Trời” này không phải là nhà của Cơ Đốc nhân ở trên trời như đã được hứa ban ở Gi 14:16 Đó là thân thể vinh hiển của Cơ Đốc nhân. Phao-lô là người may trại (Cong 18:1-3) và ở đây ông sử dụng một nhà tạm làm hình ảnh thân thể thuộc về đất trong hiện tại của chúng ta. Nhà tạm là cấu trúc yếu ớt, tạm bợ, không đẹp đẽ cho lắm, nhưng thân thể vinh hiển chúng ta được ban cho sẽ là thân thể vĩnh cửu xinh đẹp và không hề có dấu hiệu yếu ớt hay hư nát (xem Phi 3:20-21 Phao-lô nhìn thấy thân thể con người như một chiếc bình đất (IICo 4:7)và một nhà tạm, nhưng ông biết rằng một ngày nào đó những người tin nhận Chúa sẽ mang lấy thân thể vinh hiển, phù hợp với cõi thiên đàng vinh hiển.
Thật thú vị biết bao khi dõi theo lời chứng của Phao-lô trong phân đoạn này.
- Chúng ta biết (IICo 5:1). Làm sao chúng ta biết? Vì chúng ta tin nơi Lời Đức Chúa Trời. Không Cơ Đốc nhân nào cần phải tham vấn thầy tướng số, bảng cầu cơ, các nhà thần linh hay một cỗ bài để biết những điều xảy ra trong tương lai hoặc những gì ở bên kia sự chết. Đức Chúa Trời đã cho chúng ta biết mọi điều cần biết qua những trang của lời Ngài. Những chữ “chúng ta biết” của Phao-lô có liên quan đến chữ “biết” của ông ở IICo 4:14 và điều này liên hệ đến sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta biết Ngài đang sống, Vì vậy chúng ta biết rằng sự chết không thể cầm giữ chúng ta “vì ta sống thì các ngươi cũng sẽ sống” (Gi 14:19).
Nếu nhà tạm của chúng ta bị “tháo dỡ” (tan rã) chúng không phải sợ chi. Thân thể chỉ là nhà ở để chúng ta sống trong đó: Khi một Cơ Đốc nhân qua đời, thân thể người ấy đến nơi phần mộ, nhưng linh hồn người ấy đi đến cùng Đấng Christ (Phi 1:20-25). Khi Chúa Giê-xu tái lâm để tiếp rước người thuộc về Ngài, Ngài sẽ khiến thân thể kẻ chết sống lại trong vinh hiển. Và thân thể cùng linh hồn sẽ được hiệp lại để hưởng sự sống vĩnh cửu đầy vinh hiển nơi thiên đàng (ITe 4:13-18 ICo 15:35-58).
- Chúng ta than thở (IICo 5:2-5). Phao-lô không muốn bày tỏ tư tưởng buồn rầu mong được chết. Thật ra, ông khẳng định điều ngược lại ông nôn nóng chờ đợi Chúa Giê-xu Christ tái lâm để ông được “mặc”thân thể vinh hiển. Ông trình bày 3 khả năng xảy ra khi dùng hình ảnh thân thể như một nhà tạm: (1). Sống – ở trong nhà tạm, (2). Chết – ‘trần truồng”, “bị lột trần” ở ngoài nhà tạm (3). Được mặc lại – sự biến đổi của thân thể khi Chúa tái lâm. Phao-lô hy vọng ông sẽ còn sống trên đất khi Chúa trở lại để ông có thể không phải nếm trải kinh nghiệm về sự chết. Phao-lô dùng một hình ảnh tương tự trong ICo 15:51-58 và dùng ý nghĩa “than thở” trong Ro 8:22-26).
Thân thể vinh hiển được gọi là “nhà của Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra” (IICo 5:1) và “nhà chúng ta từ trên trời” ở IICo 5:2. Thân thể này khác với thân thể hay hư nát của chúng ta được tạo từ bụi đất. “Như chúng ta đã mang ảnh tượng của người thuộc về đất, thì chúng ta cũng mang ảnh tượng của người thuộc về trời” (ICo 15:49). Cần để ý rằng Phao-lô không than thở do ông ở trong thân thể con người, nhưng vì ông khao khát được gặp mặt Chúa Giê-xu Christ để được một thân thể vinh hiển. Phao-lô than thở cho sự vinh hiển!
Điều này giải thích lý do vì sao sự chết không có gì đáng kinh khiếp đối với Cơ Đốc nhân. Phao-lô gọi sự chết của ông là một sự “ra đi” (IITi 4:6). Một ý nghĩa của từ này theo tiếng Hy Lạp nghĩa là “hạ trại và dời đi”. Nhưng làm sao chúng ta có thể biết chắc rằng một ngày kia chúng ta sẽ có thân thể mới giống như thân thể vinh hiển của Đấng Christ chúng ta? Chúng ta có thể biết chắc như thế vì Thánh Linh sống trong chúng ta. Phao-lô đề cập đến ấn chứng và của đặt cọc của Đức Thánh Linh trong IICo 1:22 (cũng xem Eph 1:13-14). Đức Thánh Linh ngự trong thân thể người tin nhận Chúa là “của cầm”bảo đảm cho cơ nghiệp trong tương lai, trong đó có thân thể vinh hiển. Theo tiếng Hy Lạp ngày nay, từ dịch là “của đặt cọc” nghĩa là “nhẫn đính hôn” Hội Thánh được hứa gả cho Chúa Giê-xu Christ và hiện đang trông đợi Chàng rể đến rước nàng vào Tiệc Cưới.
- Chúng ta hằng đầy lòng tin cậy (IICo 5:6-8). Con cái Đức Chúa Trời có thể hiện diện ở hai nơi: hoặc trên trời, hoặc dưới đất. Không ai trong số họ ở nơi mồ mả, trong hoả ngục hay ở “chốn lơ lửng” giữa trời và đất. Cơ Đốc nhân trên đất là những người “ở nhà trong thân thể này”trong lúc Cơ Đốc nhân đã qua đời là những người “lìa bỏ thân thể này”. Cơ Đốc nhân trên đất “cách xa Chúa” trong lúc Cơ Đốc nhân trên thiên đàng được “ở cùng Chúa”.
Bởi có lòng tin này, Phao-lô không sợ hoạn nạn thử thách hay thậm chí những nguy hiểm. Điều này không có nghĩa là ông thử Chúa bằng cách liều mạng vô ích, nhưng có nghĩa là ông sẵn sàng từ bỏ sự sống vì cớ Chúa và vì chức vụ Phúc Âm. Ông bước đi bởi đức tin chớ không bởi ngoại cảnh. Ông chăm xem những sự vĩnh cửu không thấy được chớ không phải những tạm bợ thấy được (IICo 4:18). Đối với Phao-lô, thiên đàng không chỉ là đích đến: đó còn là một động lực thúc đẩy.Giống như những anh hùng đức tin ở thư tín He 11:1-40 Phao-lô đã tìm kiếm thành trên trời và hướng cuộc đời mình theo những giá trị vĩnh cửu.
Khi xem lại phân đoạn này trong thư tín IICô-rinh-tô, chúng ta có thể thấy mức độ can đảm của Phao-lô trước nghịch cảnh mà không nản lòng. Ông có một chức vụ vinh hiển, làm biến đổi những đời sống. Ông có một của báu trong chiếc bình đất của thân thể mình và ông muốn chia sẻ của báu ấy cho một thế giới khánh kiệt.Phao-lô có một đức tin vững vàng thắng hơn sự sợ hãi và một sự trông cậy ở tương lai vừa là một đích đến và vừa là một động lực thúc đẩy.
Chẳng lạ gì khi Phao-lô là người “thắng hơn bội phần” (Ro 8:37). Mọi Cơ Đốc nhân trong Chúa Cứu Thế Giê-xu đều có những điều sở hữu kỳ diệu giống như vậy, và qua đó có thể tìm thấy sự can đảm khi đối diện với nghịch cảnh.
5. NHỮNG THÔI THÚC THI HÀNH CHỨC VỤ (IICo 5:9-21)
Điều chúng ta tin và cách chúng ta hành động phải luôn đi đôi với nhau. Phao-lô liên kết giáo lý với nhiệm vụ, vì điều Đức Chúa Trời làm cho chúng ta phải thôi thúc chúng ta làm một điều gì đó cho Ngài. Philip Brooks nói: “Cơ Đốc giáo không biết chân lý nào chẳng phải là đứa con của tình yêu và cha mẹ của trách nhiệm.”
Một phụ nữ nói với vị mục sư của bà rằng “Có lẽ bài giảng của ông sẽ tuyệt vời nếu không có những từ “cho nên” ở cuối câu! ”
Phao-lô có lẽ đã đồng ý với vị mục sư này, vì ông cũng thường dùng từ “cho nên” và “bởi đó” cách thoải mái trong các thư tín của mình. Thật vậy, bạn sẽ thấy những từ ấy trong phân đoạn này (IICo 5:9,11,16,17). Phao-lô chuyển từ giải thích sang ứng dụng, và chủ đề của ông nói về động cơ thi hành chức vụ. Những kẻ ganh ghét Phao-lô cáo rằng ông đã lợi dụng chức vụ của Phúc Âm vì những mục đích ích kỷ, nhưng thật ra họ mới là những kẻ “buôn bán” Phúc Âm (IICo 4:2 IICo 2:17).
Chức vụ của Cơ Đốc nhân là gì? Đó là nhiệm vụ thuyết phục tội nhân làm hoà với Đức Chúa Trời (IICo 5:11,20). Chúng ta đừng bao giờ ép buộc người khác tin nhận Chúa hoặc thúc giục họ bằng phương cách thiếu ngay thẳng.
“Sứ điệp của chúng tôi gởi đến anh em là thật, những động cơ của chúng ta trong sạch, hạnh kiểm chúng tôi hoàn toàn chân thật” (ITe 2:3). Người hầu việc Chúa phải có động cơ đúng đắn để thi hành chức vụ, cũng như sứ điệp đúng đắn.
Trong phân đoạn này, Phao-lô kể ra 3 động cơ hữu lý để thi hành chức vụ:
1. Sự kính sợ Chúa (IICo 5:9-13)
“Vâng, chúng tôi biết Chúa đáng kính sợ” (c.11). Thái độ này thường thiếu vắng trong chức vụ. Học giả Kinh Thánh nổi tiếng ông B. F. Westcott có lần đã viết: “Mỗi năm đều khiến tôi run sợ về sự táo bạo được người ta dùng để nói những điều thuộc linh”. Philip Brooks thường cảnh báo về những “anh hề tôn giáo” là những kẻ đùa giỡn với Kinh Thánh, đã cướp đi khỏi cuốn sách được hà hơi này sự vinh hiển và quyền năng của nó. Rất thường xảy ra sự thiếu vắng kỉnh kiền trong các buổi nhóm họp ở Hội Thánh, vì vậy chẳng ngạc nhiên gì khi thế hệ trẻ không nghiêm túc trong những điều thuộc về Đức Chúa Trời.
Phao-lô giải thích động cơ này bằng cách chia sẻ lời chứng của ông qua 3 nhận định tuyệt vời.
- Chúng ta “làm hết sức” (IICo 5:9). Câu này nghĩa là “chúng ta có tham vọng”. Có một tham vọng mang tính vị kỷ và trần tục, nhưng cũng có một tham vọng thánh để tôn cao Chúa. Tham vọng lớn lao của Phao-lô là làm đẹp lòng Chúa Giê-xu Christ. Những người theo Do Thái giáo thi hành chức vụ để làm hài lòng con người và ủng hộ con người. Nhưng Phao-lô thi hành chức vụ để làm vui lòng một mình Chúa Giê-xu Christ (Ga 1:10). Chức vụ làm đẹp lòng người là chức vụ mang tính xác thịt và thoả hiệp, nên Đức Chúa Trời không thể chúc phước cho chức vụ này.
Từ dịch là “được chấp nhận” (“được đẹp lòng”) được sử dụng nhiều chỗ khác trong Kinh Thánh tân ước và mỗi sự ám chỉ này giúp ta hiểu rõ hơn điều gì làm đẹp lòng Chúa. Chúa được đẹp lòng khi chúng ta dâng thân thể mình cho Ngài như của lễ sống (Ro 12:1), và khi chúng ta sống với mục đích giúp đỡ người khác và như tránh gây cho họ vấp ngã (Ro 14:18). Đức Chúa Trời đẹp lòng khi con cái Ngài cách ly mình khỏi những điều ác chung quanh (Eph 5:10) cũng như khi họ dâng của lễ của mình cho Ngài (Phi 4:18). Đức Chúa Trời đẹp lòng về những con cái biết vâng phục cha mẹ mình (Co 3:20) cũng như về những thánh đồ bằng lòng để Chúa Giê-xu Christ thực hiện ý muốn trọn lành của Ngài trong đời sống họ (He 13:20-21).
Không có gì sai trái khi có một tham vọng tin kính. “Nhưng tôi cố gắng hết sức (có tham vọng) mà rao Phúc Âm” là lời chứng của Phao-lô ở Ro 15:20 chính tham vọng tin kính này đã giục ông rao truyền sứ điệp ở nơi chưa được nghe về Phúc Âm.Phao-lô yêu cầu các tín hữu Tê-sa-lô-ni-ca phải “học cách (có tham vọng) ăn ở cho yên lặng” (ITe 4:11). Nếu được Thánh Linh dẫn dắt, người tin Chúa sẽ đặt nỗ lực vào nếp sống Cơ Đốc và sự hầu việc như họ thực hiện một môn điền kinh hay một công việc kinh doanh, thì Phúc Âm sẽ tạo được một ảnh hưởng lớn hơn đối với thế gian hư mất. Một tân tín hữu nói với tôi: “Tôi muốn làm người sốt sắng cho Đức Chúa Trời giống như đã từng sốt sắng về những điều ác”, và đời sống người ấy đã được Đức Chúa Trời đại dụng.
- Chúng ta thảy đều ứng hầu (IICo 5:10). Không phải mọi Cơ Đốc nhân đều sốt sắng cho Chúa, nhưng mọi Cơ Đốc nhân sẽ ứng hầu trước Chúa, và bây giờ là lúc để sửa soạn. Toà án của Đấng Christ là sự kiện xảy ra trong tương lai khi dân Đức Chúa Trời sẽ đứng trước Đấng Christ lúc công việc họ được xét đoán và tưởng thưởng (Ro 14:8-10). Phao-lô có tham vọng cho Chúa bởi ông muốn gặp mặt Ngài bằng sự vững tin chớ không phải hổ thẹn (IGi 2:28).
Thuật ngữ “toà án” xuất xứ từ tiếng Hy Lạp “bema” đó là một thềm cao ở các tỉnh nhỏ của Hy Lạp, nơi người ta đọc các bài diễn văn hoặc các quyết định được nhà cầm quyền công bố (Mat 27:19 Cong 12:21 Cong 16:12). Toà án cũng là nơi những giải thưởng được trao cho những người thắng cuộc thế vận hội hằng năm: không nên nhầm lẫn “toà án” này với “toà lớn và trắng” nơi Đấng Christ sẽ xét đoán kẻ ác (Kh 20:11-15). Bởi công tác nhân từ của Đấng Christ trên thập tự giá, người tin nhận Ngài sẽ không đối diện với tội lỗi mình (Ro 8:1 Gi 5:24) nhưng chúng ta sẽ phải khai trình những việc làm – và sự hầu việc Chúa của mình.
Toà án của Đấng Christ sẽ là nơi của sự bày tỏ vì từ “xuất hiện” nghĩa là “được bày tỏ ra”. Khi sống và làm việc trên đất chúng ta dễ giấu giếm và gian dối mọi sự, nhưng thực chất việc làm của chúng ta sẽ được phơi trần trước đôi mắt dò xét của Đấng Christ, Ngài sẽ bày tỏ việc làm của chúng ta là tốt hay xấu (vô ích). Tính chất sự hầu việc của chúng ta (ICo 3:13) cũng như những động cơ thúc đẩy chúng ta (ICo 4:5) sẽ được tỏ ra.
Toà án của Đấng Christ cũng là một nơi “tính sổ” khi chúng ta khai trình chức vụ mình (ICo Ro14:10-12). Nếu chúng ta trung tín, toà án ấy sẽ là nơi “ban thưởng” và “công nhận” (ICo 3:10-15 ICo 4:1-6). Đối với những ai trong chúng ta đã trung tín, ấy sẽ là một thời điểm “hoan hỉ” khi chúng ta tôn vinh Chúa bằng cách dâng lại cho Ngài phần thưởng của mình trong sự thờ phượng và ngợi khen.
Có phải ước muốn được phần thưởng là một động cơ đúng đắn cho sự hầu việc? Sự kiện Đức Chúa Trời hứa ban phần thưởng chứng minh rằng động cơ này không phải là một động cơ tội lỗi, cho dù có thể nó không phải là động cơ cao quý nhất.Cũng như các bậc cha mẹ sung sướng khi con cái họ thành danh thì Chúa cũng hài lòng khi dân Ngài xứng đáng được sự công nhận và phần thưởng. Điều quan trọng không phải là chính phần thưởng, nhưng là “niềm vui” làm hài lòng Đấng Christ và tôn kính Ngài.
- Chúng ta thuyết phục con người (IICo 5:11). Nếu Đức Chúa Trời xét đoán dân thuộc về Ngài, vậy điều gì sẽ xảy đến cho những kẻ hư mất? “Lại nếu người công bình còn khó được rỗi, thì những kẻ nghịch đạo và kẻ có tội sẽ trở nên thể nào?” (IPhi 4:18). Từ “kinh sợ” (terror) không có nghĩa giống “hoảng sợ, khiếp sợ hay ghê rợn. Nói cho cùng, chúng ta sẽ gặp Đấng Christ của mình, và Ngài yêu chúng ta. Tuy nhiên, Phao-lô không xem nhẹ sự đáng kinh sợ của sự kiện ấy. Chúng ta sẽ đứng trước Đấng Christ” và không có sự tây vị ai” (Co 3:23-25). Đấng Christ đã bảo chúng ta rao truyền Phúc Âm đến mọi quốc gia, và chúng ta phải vâng lời. Có người đã hỏi công tước vùng Wellington những điều ông suy nghĩ về việc truyền giáo nước ngoài và ông đáp rằng: “lệnh hành quân của anh đâu?”
Làm sao Cơ Đốc nhân có thể sửa soạn để đứng trước toà án của Đấng Christ? Trước hết, người ấy phải giữ một lương tâm thanh sạch (IICo 5:11). Dĩ nhiên một số kẻ thù địch tại Cô-rinh-tô nói “chỉ hãy chờ đến khi Phao-lô đứng trước mặt Chúa! ”Nhưng Phao-lô không sợ, bởi ông biết lương tâm mình thanh sạch (IICo 1:12). Sự thật về mỗi người trong chúng ta sẽ được tỏ ra và Chúa Giê-xu sẽ khen chúng ta vì những điều làm hài lòng Ngài.
Kế đến, chúng ta cẩn thận đừng cậy nơi sự tán dương của con người (IICo 5:12). Câu này có liên hệ với IICo 3:1 là chi tiết Phao-lô đề cập đến những “bức thư gởi gắm” đã được những người theo Do Thái giáo đánh giá rất cao. Nếu chỉ sống cho sự tán dương của con người, chúng ta sẽ không giành được sự tán dương của Đức Chúa Trời tại toà án của Đấng Christ. Sống cho sự tán dương của con người là đề cao danh tiếng hơn bản tính, nhưng chính bản tính sẽ có giá trị khi chúng ta gặp Chúa. Các tín hữu Cô-rinh-tô thật sự nên khen ngợi Phao-lô! Ngược lại, họ “ủng hộ” những người theo Do Thái giáo – những kẻ khoe mình bề ngoài (IICo 11:18) nhưng không thuộc linh trong lòng.
Sau cùng, chúng ta phải phớt lờ sự chỉ trích của con người (IICo 5:13). Kẻ thù của Phao-lô nói rằng ông bị điên. Phao-lô nói ông bị “mất trí” khi muốn bắt bớ Hội Thánh (Cong 26:11), nhưng kẻ thù nói ông “mất trí” từ khi biến mình thành Cơ Đốc nhân (Cong 26:24). Nhưng dân chúng từng nói rằng Chúa chúng ta bị mất trí, nên Phao-lô cũng còn đỡ hơn (Mac 3:21). Phao-lô muốn nói “Nếu tôi bị mất trí, ấy là vì ích lợi cho anh em và vì vinh hiển của Đức Chúa Trời – vì vậy điều đó thật đáng giá!
Khi Dwight L. Moody giảng dạy ở Trường Chúa nhật lớn của ông và Hội Thánh tại Chicago, người ta thường gọi ông là “Moody điên khùng”. Trong mắt của thế gian không được cứu này, Moody “điên khùng” khi từ bỏ một nghề kinh doanh thành công để trở thành một giáo viên Trường Chúa nhật và người truyền đạo, nhưng thời gian đã chứng minh quyết định của ông là một quyết định khôn ngoan. Ngày nay, chúng ta không biết tên những người đã cười nhạo ông, nhưng chúng ta biết và tôn trọng tên tuổi D. L. Moody.
Mọi Cơ Đốc nhân cần thường xuyên tra xét đời sống mình để thấy mình có sẵn sàng đối diện trước toà án Đấng Christ chưa. Mong muốn trình một báo cáo tốt đẹp trước Đấng Christ là một động cơ xứng đáng cho sự hầu việc Cơ Đốc.
2. Tình yêu thương của Đấng Christ (IICo 5:14-17)
Làm sao những cảm xúc đối lập như sự kính sợ và tình yêu thương có thể ở trong cùng một tấm lòng? Chắc hẳn những cảm xúc ấy có trong lòng những con cái yêu cha mẹ và vẫn kính trọng cha mẹ cùng quyền hạn của cha mẹ. “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ, và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi 2:11).
Nhóm từ “tình yêu thương của Đấng Christ” nghĩa là tình yêu Ngài dành cho chúng ta như đã được thấy trong sự chết hy sinh của Ngài. “Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (IGi 4:19). Ngài đã yêu chúng ta khi chúng ta không đáng được yêu. Thật ra, Ngài đã yêu chúng ta khi chúng ta là những kẻ bất kính, tội lỗi và thù nghịch (Ro 5:6-10). Khi chịu chết trên thập tự giá, Đấng Christ đã chứng minh tình yêu của Ngài đối với thế gian (Gi 3:16), Hội Thánh (Eph 5:25) và từng tội nhân (Ga 2:20). Khi suy ngẫm những lý do Chúa chịu chết, bạn không thể không yêu mến Ngài.
Ngài đã chịu chết để chúng ta có thể chết (IICo 5:14 “thì mọi người đều đã chết”). Thì của động từ này cho ý nghĩa “thì mọi người đã chết”. Chân lý này được giải thích chi tiết trong Ro 6:1-23 sự đồng nhất hoá của người tin nhận với Đấng Christ. Khi Ngài chịu chết, chúng ta cũng đã chết trong Ngài và với Ngài. Vì vậy, đời sống cũ không thể có quyền lực gì trên chúng ta hôm nay “Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ” (Ga 2:20).
Ngài đã chịu chết để chúng ta có thể sống (IICo 5:15). Đây là khía cạnh tích cực của việc chúng ta được đồng nhất hoá với Đấng Christ: Không chỉ đã chết với Ngài, chúng ta còn được sống lại với Ngài để có thể”bước đi trong đời mới” (Ro 6:4). Do đã chết với Đấng Christ, chúng ta có thể thắng hơn tội lỗi, và do sống với Đấng Christ, chúng ta có thể sinh quả cho vinh hiển của Đức Chúa Trời (Ro 7:4).
Ngài đã chịu chết để chúng ta có thể sống “nhờ” Ngài: “Đức Chúa Trời đã sai Con một Ngài đến thế gian, đặng chúng ta nhờ Con được sống” (IGi 4:9). Đây là kinh nghiệm của chúng ta về sự cứu rỗi, sự sống đời đời nhờ đức tin nơi Chúa Giê-xu.Nhưng Ngài chịu chết để chúng ta có thể sống cho Ngài, chớ không phải cho bản thân (IICo 5:15). Đây là kinh nghiệm của chúng ta về sự hầu việc. Có thể nói rằng: “Đấng Christ đã chết sự chết của chúng ta cho chúng ta để chúng ta có thể sống sự sống của Ngài cho Ngài”. Nếu một tội nhân hư mất đã đến thập tự giá và được cứu, làm sao người ấy có thể sử dụng phần đời còn lại của mình trong sự vị kỷ được?
Vào năm 1858, Frances Ridley Havergal đi thăm nước Đức cùng với cha của bà là người sẽ được điều trị đôi mắt đau. Trong lúc ở nhà của một mục sư, bà thấy trên tường có một bức tranh về sự đóng đinh với dòng chữ bên dưới: “Ta đã làm điều này cho con. Con đã làm gì cho ta?”. Bà lập tức lấy một tờ giấy và viết một bài thơ dựa trên phương châm ấy. Nhưng bà không hài lòng với bài thơ ấy, nên quăng tờ giấy vào lò sưởi. Tờ giấy rơi ra còn nguyên! Sau đó, cha của bà động viên bà xuất bản bài thơ ấy, và ngày nay chúng ta hát lời bài thơ ấy theo một giai điệu do Philip P. Bliss sáng tác:
Ta đã phó sự sống ta cho con,
Huyết báu ta đã đổ ra
Để con có thể được chuộc
Và được đẩy ra khỏi những kẻ chết
Ta đã phó, ta đã phó, sự sống ta cho con
Con đã phó chi cho ta?
Đấng Christ đã chịu chết để chúng ta có thể sống nhờ Ngài và cho Ngài, và để chúng ta có thể sống với Ngài. “Đấng đã chết vì chúng ta, hầu cho chúng ta hoặc thức hoặc ngủ, đều được đồng sống với Ngài” (ITe 5:10). Bởi sự kiện tại đồi Gô-gô-tha, Cơ Đốc nhân sẽ đến thiên đàng để đồng sống với Đấng Christ đời đời!
Ngài đã chịu chết để chúng ta có thể chết, và Ngài đã chịu chết để chúng ta có thể sống. Nhưng Ngài cũng đã chịu chết để chúng ta có thể “dự phần trong sự sáng tạo mới” (IICo 5:16-17). Mối liên hệ mới của chúng ta với Đấng Christ dẫn đến một mối liên hệ mới với thế gian cùng những người quanh ta. Chúng ta không còn nhìn cuộc đời theo cách trước đây. “Biết” Đấng Christ “theo xác thịt” nghĩa là đánh giá Ngài theo quan điểm loài người. Nhưng “những ngày của xác thịt Ngài”đã chấm dứt (He 5:7) vì Ngài đã thăng thiên và đang được vinh hiển bên hữu Đức Chúa Cha.
A-đam là đầu của sự sáng tạo cũ, và Đấng Christ (A-đam sau cùng ICo 15:45) là đầu của sự sáng tạo mới. Sự sáng tạo cũ đã bị đẩy vào tội lỗi và sự kết án bởi sự bất tuân của A-đam. Sự sáng tạo mới nghĩa là sự công bình và sự cứu rỗi bởi sự vâng phục của Chúa Giê-xu (Ro 5:12-21) để biết sự giải thích về “2 A-đam”). Vì chúng ta là một phần thuộc sự sáng tạo mới, nên mọi sự đã trở nên mới.
Trước hết, chúng ta có một quan điểm mới về Đấng Christ. Đáng tiếc là có một sự nhấn mạnh quá nhiều được trình bày trong âm nhạc và nghệ thuật nói về Đấng Christ “theo xác thịt”. Những sự kiện về đời sống trên đất của Chúa Giê-xu rất quan trọng, vì sứ điệp Cơ Đốc này được ghi lại trong lịch sử. Nhưng chúng ta phải giải nghĩa máng cỏ bằng ngôi vua. Chúng ta không thờ phượng một Hài nhi trong một máng cỏ chúng ta thờ phượng một Đấng Christ vinh hiển ngự trên ngôi.
Bởi “mọi sự đều trở nên mới”, nên chúng ta cũng có một cái nhìn mới về mọi người quanh ta. Chúng ta nhìn họ như những tội nhân được Đấng Christ chết thay. Chúng ta không còn nhìn họ như bạn hữu hay kẻ thù, khách hàng hay đồng nghiệp chúng ta nhìn họ theo cách Đấng Christ nhìn họ, như những con chiên lạc mất cần một người chăn. Khi bị ràng buộc bởi tình yêu của Đấng Christ, bạn muốn chia sẻ tình yêu Ngài với người khác.
Trong một kỳ bầu cử tổng thống đặc biệt có khả năng gây tranh cãi, một nhân viên của Hội Thánh bước vào lớp học Trường Chúa nhật đeo một phù hiệu để ủng hộ cho một trong các ứng viên. Mục sư chặn ông ta lại và khuyên ông ta hãy tháo đinh ghim ấy cho đến khi ông ra khỏi nhà thờ. Ông ta cãi lẽ: “Tại sao phải tháo nó ra:Người ấy là một ứng viên hoàn toàn tốt! ”
Mục sư đáp: “Nhưng nếu phù hiệu này bị một người không được cứu của đảng khác nhìn thấy thì sao? Có phải nó sẽ khiến người đó tức giận và có thể cản trở người đó nghe Lời Chúa để được cứu không?”
Chợt, người đàn ông tháo phù hiệu ra rồi cười nói: “Tôi đoán mình nên nhớ rằng con người không phải là những thành viên của Đảng Cộng Hoà hay Đảng Dân Chủ. Họ là những tội nhân cần một Cứu Chúa và điều đó quan trọng hơn việc đắc cử”.
Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhìn xem các Cơ Đốc nhân khác như một phần thuộc sự sáng tạo mới và đừng đánh giá họ dựa trên học vấn, chủng tộc, tài chính hay địa vị xã hội. “Tại đây không còn chia ra người Do Thái hay người Gờ-réc không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ không còn đàn ông hoặc đàn bà vì trong Đức Chúa Giê-xu, anh em thảy đều làm một” (Ga 3:28).
3. Mệnh lệnh của Đấng Christ (IICo 5:18-21)
Ý chính của đoạn này là “sự giảng hoà”. Bởi sự chống nghịch, con người trở nên kẻ thù của Đức Chúa Trời và bước ra khỏi mối tương giao với Ngài. Nhờ công tác nơi thập tự giá, Đấng Christ đã khiến con người và Đức Chúa Trời hoà thuận lại.Đức Chúa Trời đã được giảng hoà và quay mặt tình yêu của Ngài hướng về thế gian hư mất. Ý nghĩa cơ bản của từ “giảng hoà” là “thay đổi hoàn toàn”. Nó đề cập đến một mối liên hệ đã được thay đổi giữa Đức Chúa Trời và thế gian hư mất.
Đức Chúa Trời không cần phải được làm hoà với con người, vì điều đó đã được Đấng Christ thực hiện trên thập tự giá. Chính con người tội lỗi phải được làm hoà với Đức Chúa Trời. Tôn giáo là những nỗ lực yếu ớt của con người để được làm hoà với Đức Chúa Trời, những nỗ lực chắc chắn thất bại. Con Người giúp chúng ta làm hoà với Đức Chúa Trời Cứu Chúa Giê-xu, và nơi Ngài hoà giải cho chúng ta là thập tự giá của Ngài.
Ý chính khác trong phân đoạn này là sự quy tội. Đây là một từ mượn của ngành ngân hàng nó đơn giản nghĩa là “kể vào tài khoản”. Khi bạn gởi tiền vào ngân hàng, máy tính (hoặc thư ký) đưa số tiền ấy vào tài khoản của bạn hoặc vào khoản tín dụng của bạn. Khi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá, mọi tội lỗi của chúng ta được quy cho Ngài – đưa vào tài khoản của Ngài. Ngài bị Đức Chúa Trời đối xử như thể Ngài đã thật sự phạm mọi tội lỗi ấy.
Kết quả thế nào? Mọi tội lỗi ấy đã được trả hết và Đức Chúa Trời không còn kể chúng nghịch với chúng ta, vì chúng ta đã tin nhận Đấng Christ làm Cứu Chúa mình.Nhưng còn hơn thế: Đức Chúa Trời đã đặt vào tài khoản của chúng ta sự công bình của Đấng Christ! “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng (Christ) vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (IICo 5:21).
Sự giảng hoà đặt cơ sở trên sự quy tội: vì những đòi hỏi trong Thánh luật của Đức Chúa Trời đã được đáp ứng đầy đủ trên thập tự giá, nên Đức Chúa Trời có thể được làm hoà với tội nhân. Những ai tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa mình sẽ không bao giờ bị quy tội cho mình lần nữa (Ro 4:18 Thi 32:1-2). Về lý lịch của họ, họ được dự phần sự công bình của Chúa Giê-xu Christ!
Có một minh hoạ dễ thương về chân lý này trong thư tín ngắn ngủi. Phao-lô viết cho bạn là Phi-lê-môn. Người đầy tớ của Phi-lê-môn là Ô-nê-sim đã ăn cắp của chủ rồi trốn đến Rô-ma. Vì những tội của mình người này lẽ ra đã bị đóng đinh.Nhưng trong sự định liệu của Đức Chúa Trời, Ô-nê-sim đã gặp Phao-lô và qui đạo.Phao-lô viết thư cho Phi-lê-môn để khích lệ bạn mình tha thứ cho Ô-nê-sim và tiếp nhận người ấy vào nhà. Phao-lô viết “Hãy nhận lấy người như chính mình tôi vậy. Nhược bằng người có làm hại anh hoặc mắc nợ anh điều chi, hãy cứ kể cho tôi” (IICo 5:17-18). Phao-lô sẵn lòng thanh toán hoá đơn (sự quy tội) hầu cho Phi-lê-môn và Ô-nê-sim có thể được làm hoà.
Giáo lý kỳ diệu này về sự giảng hoà thôi thúc chúng ta hầu việc Đấng Christ ra sao?Chúng ta là những đại sứ mang theo một sứ điệp. Đức Chúa Trời đã giao cho chúng ta chức vụ giảng hoà (IICo 5:18) và đạo giảng hoà (IICo 5:19).
Trong đế chế La Mã, có 2 loại tỉnh: cái tỉnh thuộc hội đồng thượng nghị sĩ và các tỉnh thuộc hoàng đế. Các tỉnh thuộc hội đồng thượng nghị sĩ được hình thành từ những người dân sống hoà bình và không ở trong tình trạng tranh chiến với La Mã. Họ đã đầu hàng và phục tùng. Nhưng các tỉnh thuộc hoàng đế không ở trong tình trạng hoà bình: Họ rất nguy hiểm vì họ sẽ chống lại Rô-ma nếu có khả năng.Rô-ma cần phải cử các đại sứ đến các tỉnh thuộc hoàng đế để bảo đảm sự nổi loạn không khởi phát.
Vì Cơ Đốc nhân trong thế gian này là những đại sứ của Đấng Christ, điều này nghĩa là thế gian đang chống nghịch với Đức Chúa Trời. Thế gian này là một “tỉnh thuộc hoàng đế” đối với Đức Chúa Trời. Ngài đã phái các đại sứ của Ngài vào thế gian để tuyên bố hoà bình chớ không phải chiến tranh. “Anh em hãy làm hoà với Đức Chúa Trời”. Chúng ta đại diện Chúa Giê-xu (IICo 4:5 Gi 20:21). Nếu tội nhân khước từ chúng ta và sứ điệp của chúng ta, thì chính Chúa Giê-xu là Đấng thật sự bị khước từ. Thật là một đặc quyền lớn lao được làm các đại sứ trên trời đến với những tội nhân chống nghịch thuộc thế gian này!
Khi còn là một mục sư trẻ, tôi thường có chút ngại ngùng để thực hiện những cuộc thăm viếng và đối diện với nhiều người bằng những lời khẳng định về Đấng Christ. Và rồi tôi đã trở thành một người được ơn, một đại sứ của Vua trên muôn vua! Không có điều gì để ngại ngùng cả. Thật ra, những người được tôi thăm viếng có lẽ rất biết ơn vì một trong các đại sứ của Đấng Christ đã đến gặp họ.
Đức Chúa Trời đã không tuyên bố chiến tranh trên thế gian, Ngài đã tuyên bố hoà bình tại thập tự giá. Nhưng một ngày kia, Ngài sẽ tuyên bố chiến tranh, và lúc ấy sẽ quá trễ cho những ai đã khước từ Đấng Christ (IITe 1:3-10). Sa-tan đang tìm cách phá huỷ mọi thứ trong thế gian này, nhưng Đấng Christ và Hội Thánh Ngài tham gia trong chức vụ giảng hoà, sẽ hiệp mọi sự lại và quy về cho Đức Chúa Trời.
Chức vụ không dễ dàng. Nếu muốn thành công, chúng ta phải được thôi thúc bởi sự kính sợ Chúa, tình yêu thương của Đấng Christ và mệnh lệnh Ngài đã giao phó cho chúng ta. Được hầu việc Ngài quả là một đặc quyền!
6 . TỪ TẤM LÒNG QUA TẤM LÒNG (IICo 6:1-7:16)
Hai chương này đem đến một kết luận chân thành về lời giải thích của Phao-lô cho chức vụ ông. Ông cho độc giả biết rằng, bất chấp mọi thử thách hoạn nạn, chức vụ của ông là một chức vụ đắc thắng (IICo 1:1-2:17), một chức vụ vinh hiển (IICo 3:1-18)và cho biết ông không bao giờ nghĩ đến chuyện bỏ cuộc. Kẻ thù đã cáo ông lợi dụng chức vụ để tư lợi, nhưng ông chứng minh chức vụ ông là thành thật (IICo 4:1-18)và được đặt cơ sở trên đức tin nơi Đức Chúa Trời (IICo 5:1-21). Mọi việc còn lại là thách thức tấm lòng của các tín hữu Cô-rinh-tô và bảo đảm với họ về tình yêu thương của ông, và ông đã làm điều này bằng cách bày tỏ cho họ 3 sự nài xin đầy lòng yêu thương.
1. Nài xin sự đánh giá đúng đắn (IICo 6:1-18)
“Những nguyên tắc của tâm lý học” của William James là một bản văn cổ điển và chắc hẳn là một công trình tiên phong trong lãnh vực ấy. Nhưng tác giả thừa nhận rằng có một “sự thiếu sót rất lớn” trong cuốn sách này. Ông viết: “Nguyên tắc sâu sắc nhất về nhân bản là sự thèm muốn được đánh giá đúng đắn”, nhưng ông đã không đề cập nguyên tắc này trong sách mình.
Khi đọc IICô-rinh-tô, bạn có ấn tượng mạnh mẽ rằng Hội Thánh không thật sự đánh giá đúng đắn Phao-lô và công việc ông làm giữa họ. Lẽ ra họ phải bênh vực Phao-lô chớ không nên buộc ông tự bênh vực mình. Những tín hữu Cô-rinh-tô đã khoe khoang về những người theo Do Thái giáo là những kẻ xâm phạm Hội Thánh và những người theo Do Thái giáo này vẫn chưa làm được gì cho các tín hữu Cô-rinh-tô.
- Phao-lô người rao giảng Phúc Âm (IICo 6:1-2). Chính Phao-lô là người đã đến thành Cô-rinh-tô mang theo Tin Mừng về Phúc Âm và qua chức vụ của ông, Hội Thánh được thành lập. Ông đã làm trọn công việc của “đại sứ” như đã được mô tả trong IICo 5:18-21). Không phải những người Do Thái giáo đã chinh phục những người Cô-rinh-tô về cho Đấng Christ, đó chính là Phao-lô.
Nhưng thậm chí giờ đây Phao-lô không chắc mọi người trong Hội Thánh đã cho rằng đã được cứu có thật sự là con cái của Đức Chúa Trời hay không (IICo 13:5). Ông trích dẫn Es 49:8 như sự nài xin của ông để họ nhận ân điển Đức Chúa Trời. Bởi công tác giảng hoà của Đấng Christ trên thập tự giá (IICo 5:18-19), ngày nay thật sự là “ngày cứu rỗi”. Không có gì bảo đảm rằng bất cứ tội nhân nào đều sẽ có cơ may được cứu trong ngày mai. “Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được” (Es 55:6).
Có một mục sư muốn đối phó với một thiếu phụ lý luận rằng bà có nhiều thời gian để quyết định cho Chúa Giê-xu. Ông trao cho bà một tờ giấy và nói: “Bà có muốn ký một biên bản rằng bà sẵn sàng hoãn lại sự cứu rỗi trong một năm không?” Không, bà không làm vậy. Sáu tháng? Cũng không. Một tháng? Bà do dự, nhưng nói không.Rồi bà bắt đầu nhìn thấy sự ngu xuẩn trong lý lẽ của mình và bà đã tin nhận Đấng Christ không chậm trễ.
- Phao-lô – một tấm gương (IICo 6:3-10). Một trong những ngăn trở lớn nhất đối với sự phát triển của Phúc Âm là gương xấu của những người xưng là Cơ Đốc nhân. Những người không được cứu thích lợi dụng những điểm bất nhất của các thánh đồ – đặc biệt là các mục sư truyền đạo – làm cớ khước từ Chúa Giê-xu. Phao-lô cẩn thận không làm bất cứ điều gì tạo một chướng ngại gây vấp ngã trên đường đi của tội nhân hoặc thánh đồ (Ro 14:1-23). Ông không muốn chức vụ bị mất uy tín (bị chê bai) trong bất kỳ phương diện nào do đời sống của mình.
Phao-lô nhắc độc giả của ông về những thử thách ông đã chịu vì họ (IICo 6:4-5). Ông là một con người chịu đựng (nhẫn nại) và đã không bỏ cuộc khi mọi sự khó khăn.“Hoạn nạn” là những thử thách dưới áp lực khi bạn bị những hoàn cảnh đè nặng.“Nhu cầu” là những gian khổ thường nhật của đời sống, và “đau buồn” chỉ về những từng trải dồn chúng ta đến đường cùng nơi dường như không lối thoát. Từ Hy Lạp nghĩa là “một nơi hẹp”.
Nhưng ngay cả những người không được cứu cũng trải qua những kinh nghiệm này, nên kế đó Phao-lô liệt kê một số thử thách ông đã chịu vì sự chống đối của con người:đòn vọt, lao tù, rối loạn (bạo loạn). Ông trải qua những thử thách này vì đã trung tín hầu việc Chúa. Rồi ông kể tên một vài sự hy sinh ông tình nguyện thực hiện vì cớ chức vụ: sự khó nhọc (công việc dẫn đến mệt mỏi), sự thức canh (những đêm không ngủ), sự kiêng ăn (bằng lòng chịu đói). Dĩ nhiên, Phao-lô không rao những điều này cách công khai. Lý do duy nhất ông đề cập chúng trong thư tín này là để bảo đảm với các tín hữu Cô-rinh-tô về tình yêu ông dành cho họ.
Ông nhắc họ thêm về những công cụ được ông sử dụng trong chức vụ (IICo 6:6-7). “Sự thanh sạch” nghĩa là “sự trinh bạch” (IICo 11:2). Phao-lô giữ mình trong sạch về mặt đạo đức. “Sự khoan nhẫn” chỉ về sự kiên nhẫn với những người khó tính, còn “lòng nhịn nhục” (IICo 6:4) chỉ về sự chịu đựng trong những nghịch cảnh. Phao-lô nhờ cậy quyền năng của Thánh Linh hầu có thể bày tỏ ra trái của Thánh Linh như lòng tốt và tình yêu thương thật. Ông sử dụng Lời Đức Chúa Trời để truyền đạt tri thức thuộc linh, và mặc áo giáp của Đức Chúa Trời (Eph 6:10) để bảo vệ mình khỏi những sự tấn công của ma quỉ.
Sau cùng, ông nhắc họ về lời chứng mà ông đã bày tỏ (IICo 6:8-10). Phao-lô liệt kê một chuỗi những nghịch lý, bởi ông biết không phải mọi người đều thật sự hiểu ông và chức vụ của ông. Những kẻ thù của Phao-lô đã kể xấu về ông như một kẻ lừa dối đáng hổ thẹn. Nhưng Đức Chúa Trời đã kể tốt về Phao-lô như một người danh giá, trung nghĩa. Phao-lô vừa nổi tiếng lẫn vừa vô danh.
Thật là một giá Phao-lô phải trả để giữ lòng trung tín trong chức vụ! Tuy nhiên các tín hữu Cô-rinh-tô thật sự đánh giá mọi điều Phao-lô làm cho họ một cách kém cỏi biết bao. Họ đem đến sự buồn rầu cho lòng ông, nhưng ông “luôn vui mừng”trong Chúa Giê-xu. Ông đã trở nên nghèo ngặt để họ có thể trở nên giàu có (ICo 1:5 IICo 8:9). Từ được dịch là “nghèo” nghĩa là “sự thiếu thốn hoàn toàn của một người ăn mày”.
Phải chăng Phao-lô sai lầm khi nài xin sự đánh giá đúng đắn của họ? Tôi không nghĩ vậy. Rất nhiều Hội Thánh có xu hướng xem nhẹ chức vụ đầy lòng hy sinh của các mục sư, truyền đạo và những người làm việc trung tín ở nhà thờ. Phao-lô không nài xin sự tán dương, nhưng ông nhắc nhở các bạn hữu tại Cô-rinh-tô rằng chức vụ của ông đối với họ đã khiến ông trả giá đắt.
Dĩ nhiên trong toàn bộ lời chứng cá nhân này, Phao-lô muốn bác bỏ những lời cáo đầy ác tâm của nhóm người theo Do Thái giáo. Họ đã chịu khổ bao nhiêu cho người Cô-rinh-tô? Họ đã trả giá nào cho chức vụ mình? Giống như hầu hết những kẻ sùng bái cá nhân ngày nay, những giáo sư giả này đã đánh cắp những người qui đạo của kẻ khác họ không tìm cách tự mình chinh phục những kẻ hư mất. Có người đã nói rằng: “Nếu bạn muốn tìm thấy sự biết ơn, hãy tìm trong từ điển.” Chúng ta có đang bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã giảng dạy mình không?
2. Nài xin sự biệt riêng (IICo 6:11-18 IICo 7:1)
Mặc cho mọi nan đề và những sự đau lòng Hội Thánh gây cho mình, Phao-lô vẫn rất mực yêu thương các tín hữu Cô-rinh-tô. Ông đã nói với họ cách thành thật và yêu thương, giờ đây ông dịu dàng yêu cầu họ mở lòng đối với ông. Ông cảm thấy mình như một người cha có những đứa con đang tước đoạt của mình tình yêu mà ông đáng được hưởng (ICo 4:15).
Tại sao họ từ chối bày tỏ tình yêu? Bởi họ có lòng chia rẽ. Các giáo sư giả đã lấy đi lòng họ, và giờ đây họ nguội lạnh đối với Phao-lô. Họ giống như người con gái đã hứa hôn, nhưng bị quyến dụ bởi một người cầu hôn không xứng đáng (IICo 11:1-3). Các tín hữu Cô-rinh-tô đang thoả hiệp với thế gian, nên Phao-lô nài xin họ biệt riêng cho Đức Chúa Trời, như cách một người vợ chung thuỷ được biệt riêng cho chồng nàng.
Đáng tiếc là giáo lý quan trọng về sự biệt riêng đã bị hiểu sai và bị lạm dụng trong những năm gần đây, vì đó là một chân lý thiết yếu. Một số Cơ Đốc nhân sốt sắng thật đã đổi sự biệt riêng thành sự cô lập, cho đến khi mối thông công của họ trở nên quá hẹp hòi đến nỗi họ không thể hợp ý với cả chính mình. Để phản ứng với thái cực này, những Cơ Đốc nhân khác đã phá đổ mọi bức tường và muốn giao hảo với bất cứ ai, không kể người ấy tin nơi điều gì hoặc sống thế nào. Nhưng chúng ta tán thành ước muốn rèn luyện tình yêu Cơ Đốc của họ, chúng ta muốn nhắc họ rằng ngay cả tình yêu Cơ Đốc cũng phải vận dụng sự sáng suốt (Phi 1:9-11).
Phao-lô trình bày 3 luận chứng để cố thuyết phục các tín hữu này rằng họ phải tách mình khỏi điều đi ngược với ý muốn Đức Chúa Trời.
1.Bản chất Cơ Đốc nhân (IICo 6:14-16).
Bản chất quyết định mối quan hệ. Vì con heo có bản chất của loài heo, nó gắn bó với những con heo khác trong hố bùn. Bởi con chiên có bản chất của chiên, nó nhai cỏ cùng bầy trong đồng cỏ. Cơ Đốc nhân có một bản chất của chiên, nó nhai cỏ cùng bầy trong đồng cỏ. Cơ Đốc nhân có một bản chất thiêng liêng (Phi 1:3-4)và vì vậy người ấy phải mong muốn chỉ gắn bó với điều gì đẹp ý Chúa.
Khái niệm về “ách không đồng đều” xuất phát từ Phu 22:10 “Chớ cày với một con bò thắng chung với một con lừa”. Con bò là vật sạch đối với dân Do Thái, nhưng còn lừa thì không (Phu 14:1-8) và lồng chúng chung một ách là điều sai trái. Hơn nữa, chúng mang hai bản chất đối lập và thậm chí sẽ không làm việc tốt với nhau. Thật độc ác nếu buộc chúng chung với nhau. Tương tự như vậy, thật sai lầm cho những Cơ Đốc nhân mang ách chung với những kẻ vô tín.
Hãy để ý những danh từ được Phao-lô sử dụng: sự thông công, sự liên lạc, sự tương hợp (hoà hợp), phần, sự đồng ý. Mỗi từ trong số này đều nói về sự có chung điều gì. Từ “tương hợp:” cho chúng ta nghĩa tiếng Anh là “sự hoà âm”, và nó nói về khúc nhạc hay vang lên khi các nhạc công đọc cùng một bản hoà âm và vâng theo một chỉ huy. Sẽ hỗn loạn biết bao nếu mỗi nhạc công chơi giai điệu riêng mình theo cách riêng!
Những ước muốn của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài được nhìn thấy trong những từ này.Ngài muốn chúng ta chia sẻ với nhau (sự thông công) và có chung (sự liên lạc)những phước hạnh của đời sống Cơ Đốc. Ngài muốn chúng ta hưởng sự hoà hợp và sự nhất trí khi sống và làm việc với nhau. Khi chúng ta cố gắng vừa bước đi với thế gian và vừa với Chúa cùng một lúc, chúng ta sẽ phá vỡ mối giao thông thuộc linh và gây ra sự bất hoà cùng sự chia rẽ.
Phao-lô nhìn thấy Cơ Đốc nhân và kẻ vô tín trong sự tương phản rõ rệt với nhau: sự công bình – sự không công bình, sự sáng – sự tối, Đấng Christ – Bê-li-am (Sa-tan), sự tin tưởng – sự không trung tín (sự vô tín), đền thờ Đức Chúa Trời – thần tượng. Làm sao bạn có thể hoà hợp những sự đối kháng này được? Chính bản chất của Cơ Đốc nhân đòi hỏi người ấy phải được biệt khỏi điều gì xấu xa. Khi một người được cứu kết hôn với một người chồng hoặc người vợ không được cứu, điều này gây ra một tình trạng tuyệt vọng và điều tương tự ứng dụng cho những sự hùn vốn trong kinh doanh và “sự giao thông” tôn giáo.
Để ý từ “anh em” ở dạng số nhiều trong IICo 6:16. Ở đây Phao-lô ám chỉ Hội Thánh địa phương như một tổng thể chớ không phải chỉ là cá nhân tín hữu, như trong ICo 6:19-20 Hội Thánh địa phương là nơi ngự của Đức Chúa Trời vì các tín hữu là dân cư của Đức Chúa Trời (Exe 37:26-27 Le 26:12 Xu 25:8). Vì một Hội Thánh địa phương nào gây nguy hại cho lời chứng mình, giống như một đền thánh bị ô uế.
2.Mệnh lệnh trong Kinh Thánh (IICo 6:17).
Phần quan trọng của lời trích dẫn này là từ Es 52:11 nhưng cũng có sự lặp lại ở Exe 20:34,41 Sự ám chỉ trong Ê-sai nói về dân tộc bị giam cầm này sẽ rời Ba-by-lôn trở về quê hương mình, nhưng những ứng dụng thuộc linh chỉ về sự biệt riêng của người thuộc về đức Chúa Trời ngày nay.
Đức Chúa Trời ra lệnh dân Ngài phải “ra khỏi” ám chỉ một hành động dứt khoát về phía họ. “Hãy phân rẽ” nói đến sự dấn thân cho Đức Chúa Trời vì một đích đặc biệt. Sự phân rẽ này không chỉ là một hành động tiêu cực của sự thoát khỏi, nó cũng là một hành động tích cực của sự dâng mình cho Đức Chúa Trời. Chúng ta phải phân cách khỏi tội lỗi và biệt riêng cho Đức Chúa Trời. “Đừng đá động đến đồ ô uế” là một lời cảnh cáo chống lại sự ô uế. Người Do Thái thời Cựu Ước bị ô uế nếu người ấy đụng đến xác chết hay một vết thương mưng mủ chảy ra. Dĩ nhiên, Cơ Đốc nhân ngày nay không bị nhiễm sự ô uế thuộc linh do sự đụng chạm, nhưng nguyên tắc này vẫn không thay đổi: chúng ta đừng kết giao với điều gì gây hại cho lời chứng của mình hoặc dẫn chúng ta đến sự bất tuân.
Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời về sự biệt riêng được tìm thấy suốt Kinh Thánh. Ngài cảnh cáo Y-sơ-ra-ên đừng hoà nhập với những dân tộc ngoại đạo trong đất Ca-na-an (Dan 33:50-56). Tuy nhiên họ đã nhiều lần bất tuân lời Ngài và đã bị sửa phạt vì hành động đó. Các tiên tri nhiều lần nài xin dân sự từ bỏ các hình tượng tà thần và dâng mình trọn vẹn cho Chúa. Sau cùng, Đức Chúa Trời đã phải phó Y-sơ-ra-ên vào sự lưu đày của quân A-sy-ri và phó dân Giu-đa vào sự lưu đày của quân Ba-by-lôn. Chúa chúng ta đã chối từ “sự biệt riêng” giả dối của người Pha-ri-si, nhưng Ngài cảnh cáo các môn đệ đề phòng men (giáo lý sai trật) của người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê và Ngài cầu nguyện cho họ được giữ khỏi sự ô uế của thế gian (Mat 16:6,11 Gi 17:14-17).
Các sứ đồ cũng nhấn mạnh sự tinh sạch về giáo lý và về cá nhân trong các thư tín bởi đến các Hội Thánh. Cơ Đốc nhân ở trong thế gian, nhưng người ấy phải cẩn thận để không trở nên giống thế gian. Hội Thánh cũng phải phân cách khỏi những kẻ chối bỏ giáo lý được Đấng Christ và các sứ đồ truyền đạt (Ro 12:1-2 Ro 16:17-20 Co 3:1-2 ITi 6:10-11 Tit 2:14 IPhi 4:3-6 IGi 4:6). Ngay cả sách Khải huyền cũng có một sự nhấn mạnh về người thuộc về Đức Chúa Trời được phân cách khỏi điều gì sai trật và đi ngược với đời sống thánh khiết (Kh 2:14-16,20-24 Kh 18:4).
Trong ước muốn đối với sự tinh sạch về giáo lý và về cá nhân, chúng ta đừng trở nên quá tự kỷ trung tâm đến nỗi phớt lờ thế giới khốn khó quanh ta. Chúa chúng ta “thánh khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội” (He 7:26), và dù vậy Ngài là “bạn của người thâu thuế và kẻ có tội” (Lu 7:26). Như một bác sĩ tài giỏi, chúng ta phải thực hiện “sự tiếp xúc mà không bị ô nhiễm”. Nếu không chúng ta sẽ cô lập mình khỏi những người cần đến chức vụ của chúng ta hơn hết.
3.Lời hứa về ơn phước của Đức Chúa Trời (IICo 6:17-7:1).
Đức Chúa Trời đã trở nên Cha của chúng ta khi chúng ta tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa mình, nhưng Ngài không thể là Cha đối với chúng ta nếu chúng ta không vâng lời Ngài và giao thông với Ngài. Ngài mong mỏi tiếp nhận chúng ta trong tình yêu và đối xử với chúng ta như những con trai con gái yêu quí của Ngài. Sự cứu rỗi nghĩa là chúng ta dự phần sự sống của Đức Chúa Cha, nhưng sự biệt riêng nghĩa là chúng ta hoàn toàn bước vào tình yêu của Đức Chúa Cha. Chúa Giê-xu đã hứa về “tình yêu sâu đậm” này trong (Gi 14:21-23).
Đức Chúa Trời ban phước cho những ai biệt mình khỏi tội lỗi và sống cho Chúa.Áp-ra-ham đã biệt mình khỏi U-rơ thuộc xứ Canh-đê và Đức Chúa Trời đã ban phước cho ông. Khi Áp-ra-ham thoả hiệp và đến xứ Ai Cập, Đức Chúa Trời đã phải sửa phạt ông (Sa 11:31-12:20). Trong thời gian dân Y-sơ-ra-ên được biệt khỏi các dân tộc tội lỗi ở Ca-na-an, Đức Chúa Trời đã ban phước cho họ. Nhưng khi họ bắt đầu hoà nhập với dân ngoại đạo, Đức Chúa Trời đã phải sửa phạt họ. Cả E-xơ-ra và Nê-hê-mi đã phải dạy dân sự lại ý nghĩa của sự biệt riêng (Exo 9:1-10:44 Ne 9:2 Exo 10:28 Exo 13:1-9,23-31).
IICo 7:1 Bởi những lời hứa nhân từ của Đức Chúa Trời, chúng ta có những trách nhiệm thuộc linh (IICo 7:1). Chúng ta phải làm sạch mình một lần đủ cả về điều gì làm ô uế chúng ta. Cầu xin Đức Chúa Trời làm sạch chúng ta thì chưa đủ chúng ta phải làm sạch đời sống mình và giũ bỏ mọi điều làm chúng ta dễ phạm tội. Không Cơ Đốc nhân nào có thể đặt ra luật lệ cho Cơ Đốc nhân khác. Mỗi Cơ Đốc nhân biết những nan đề của tấm lòng và đời sống mình.
Cơ Đốc nhân rất thường đối phó với những triệu chứng chớ không phải những nguyên nhân gây ra. Chúng ta cứ xưng những tội lỗi giống nhau vì chúng ta đã không nắm bắt được cội rễ của sự rắc rối và “làm sạch mình”. Có lẽ có “sự dơ bẩn về xác thịt”, tội lỗi yêu thích nào đó đã “nuôi dưỡng” bản chất cũ (Ro 13:14). Hoặc đó có thể là “sự dơ bẩn về tâm linh”, một thái độ mang tính tội lỗi. Đứa con trai hoang đàng đã phạm những tội về thể xác, nhưng người anh cả “đạo đức” đã phạm những tội về tâm linh. Người anh thậm chí không thể hoà thuận được với cha mình (Lu 15:11-21).
Nhưng việc làm sạch bản thân chỉ là nửa phần trách nhiệm chúng ta còn phải “lấy sự kính sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh” (IICo 7:1). Đây là tiến trình không thay đổi khi chúng ta tăng trưởng trong ân điển và sự thông biết (IIPhi 3:18). Được quân bình là điều quan trọng. Những người Pha-ri-si rất tha thiết cất đi tội lỗi, nhưng họ đã xao lãng việc làm trọn sự nên thánh. Nhưng thật dại dột khi cố làm trọn sự nên thánh nếu có tội lỗi được nhận biết trong đời sống chúng ta.
Phao-lô đã nài xin sự đánh giá đúng đắn và sự biệt riêng. Ông đưa ra một sự nài xin sau cùng bằng nỗ lực mình để dành lại tình yêu thương và sự dấn thân của các tín hữu Cô-rinh-tô.
3. Nài xin sự giảng hòa (IICo 7:2-16)
“Hãy mở rộng lòng anh em cho chúng tôi” (IICo 6:13). “Hãy tiếp nhận chúng tôi (IICo 7:2). “Nếu 2 người không đồng ý với nhau, thì há cùng đi chung được sao?” (Am 3:3). Nếu các tín hữu Cô-rinh-tô chỉ cần làm sạch đời sống họ và mối thông công trong Hội Thánh của họ. Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận họ (IICo 6:17) và họ có thể lại dành được sự thông công với Phao-lô.
Sự nhấn mạnh trong phân đoạn này nói về cách Đức Chúa Trời đã yên ủi Phao-lô sau khi ông trải qua những thử thách lớn dường ấy tại A-si và Trô-ách (IICo 1:8-10 IICo 2:12-13). Thực tế có một sự yên ủi với 3 ý được ghi lại trong những câu này.
1.Phao-lô yên ủi Hội Thánh (IICo 7:2-4).
Hội Thánh đã tiếp nhận Tít giờ đây họ phải tiếp nhận Phao-lô (IICo 7:13). Phao-lô nài xin họ tin tưởng ông, vì ông chưa hề làm điều gì có hại cho họ. Chắc chắn đây là cách dùng từ “đánh lừa” (lợi dụng IICo 11:20). Họ muốn nói rằng “Phao-lô chiếm giữ tiền quyên góp cho việc truyền giáo này để ông ta có thể tự mình sử dụng tiền bạc! ”
Vì sao làm cho người khác tin chắc về tình yêu của chúng ta lại là việc khó?Phao-lô đã có thể làm gì hơn để thuyết phục họ? Ông sẵn lòng chịu chết cho họ nếu cần, vì họ ở trong tấm lòng của ông (IICo 3:1 IICo 6:11-13). Ông khoe với người khác về họ (“hãnh diện về anh em”) nhưng họ đã chỉ trích ông.
Nhưng, bất chấp những nan đề này, Phao-lô đã có lý do chính đáng để yên ủi Hội Thánh vì sự viếng thăm của Tít đã thành công và giờ đây đã có cơ hội để “sữa chữa những hàng rào” và phục hồi mối thông công. Điều này dẫn đến sự yên ủi thứ hai.
2.Tít yên ủi Phao-lô (IICo 7:5-10).
Sự yên ủi đầu tiên Phao-lô nhận được là việc Tít đến sau khi 2 người xa cách nhau.Không dễ gì liên lạc hay đi lại vào thời ấy, và Phao-lô đã cậy nơi sự định liệu của Đức Chúa Trời cho kế hoạch về sự viếng thăm của Tít đến thành Cô-rinh-tô có thể thực hiện được (thậm chí với phương tiện hiện đại của chúng ta về giao thông và vận chuyển, chúng ta vẫn cần nhờ cậy nơi sự định liệu của Đức Chúa Trời).
Nhưng Phao-lô đã được yên ủi bởi sự tường thuật về việc Tít được tiếp đón tại Cô-rinh-tô. Họ đã đọc “bức thư buồn rầu” của Phao-lô, ăn năn tội lỗi mình và kỷ luật những thuộc viên đã gây ra những nan đề này. Đáng tiếc là bản dịch King James dịch 2 từ khác nhau của tiếng Hy Lạp ra “ăn năn”, vì chúng mang ý nghĩa khác nhau. Từ “ăn năn” trong IICo 7:8 nghĩa là “ân hận” và “đã ăn năn” trong IICo 7:10 nghĩa là “hối tiếc”.
Phao-lô đã viết cho họ một bức thư nghiêm khắc, và rồi ân hận về điều đó. Nhưng bức thư đã đạt mục đích của nó và các tín hữu Cô-rinh-tô đã ăn năn điều này khiến Phao-lô vui mừng, sự ăn năn của họ không chỉ là một sự “hối hận” thoáng qua Đó là một sự buồn rầu thành kính và chân thật vì tội lỗi. “Vì sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự hối cải, sự hối cải dẫn đến sự cứu rỗi và chẳng để lại sự hối hận nhưng sự buồn rầu theo thế gian đem đến sự chết” (IICo 7:10). Sự khác nhau này được nhìn thấy trong Giu-đa và Phi-e-rơ. Giu-đa “tự ăn năn” (vô cùng hối hận) và đi để phạm tội tự sát trong khi đó Phi-e-rơ đã khóc lóc và ăn năn về sự sa ngã của mình (Mat 26:75-27:5).
Cơ Đốc nhân có cần ăn năn không? Chúa Giê-xu đã phán rằng chúng ta cần ăn năn (Lu 17:3-4) và Phao-lô đã đồng ý với Ngài (IICo 12:21). Bốn trong số 7 Hội Thánh thuộc xứ A-si được kể tên trong Kh 2:1-3:22 được kêu gọi phải ăn năn. Ăn năn đơn giản nghĩa là “đổi ý” và những Cơ Đốc nhân bất tuân cần ăn năn, không phải để được cứu, nhưng để phục hồi mối giao thông mật thiết của mình với Đức Chúa Trời.
3.Các tín hữu Cô-rinh-tô yên ủi Tít (IICo 7:11-16).
Họ đã sẵn sàng làm mọi sự để thực hiện ý muốn Đức Chúa Trời.Trước hết họ tiếp nhận Tít và làm cho ông tươi tỉnh bằng sự thông công của họ (IICo 7:13). Họ khiến lòng Tít vui mừng khi tỏ ra đúng với mọi điều Phao-lô đã khoe về họ. Họ tiếp nhận sứ điệp của Phao-lô qua Tít và hành động theo.
Ở (IICo 7:11), Phao-lô giải thích rõ cách xử lý của họ về vấn đề kỷ luật “Vậy hãy xem sự buồn rầu theo ý Đức Chúa Trời sanh ra sự ân cần trong anh em là dường nào! Lại có sự bào chữa, buồn giận, răn sợ, sốt sắng, nôn nả, trách phạt là dường nào! Anh em đã tỏ ra cho ai nấy đều biết rằng mình vốn là thanh sạch trong việc đó”. Phao-lô được yên ủi khi Tít cho ông biết cách họ đã ăn năn, bày tỏ sự quan tâm và sốt sắng để làm những điều đúng đắn. Phao-lô đoan chắc với họ rằng mục đích thư tín của ông không chỉ để quở trách những người sai phạm và giúp đỡ những người sai phạm đó, nhưng còn để chứng tỏ tình yêu của ông đối với Hội Thánh. Phao-lô đã chịu khổ nhiều vì tình trạng này, nhưng sự chịu khổ của ông thật đáng giá, vì giờ đây nan đề đã được giải quyết.
Một trong những điều khó thực hiện nhất là tái lập một mối liên hệ đã bị đổ vỡ.Phao-lô cố gắng làm điều này trong IICô-rinh-tô và đặc biệt trong IICo 6:1-7:16.Tiếc thay, ngày nay có nhiều mối liên hệ bị gãy đổ trong gia đình, Hội Thánh và chức vụ và chúng chỉ có thể được hàn gắn lại và củng cố khi con người đối diện với những vấn đề cách thành thật, giải quyết chúng theo tinh thần Kinh Thánh trong tình yêu thương, và tìm cách làm đẹp lòng Chúa.
Khi bạn và tôi tra xét đời sống mình, chúng ta phải xác định mình là một phần của sự giải đáp, chớ không phải một phần của nan đề. Chúng ta phải bày tỏ sự đánh giá đúng đắn, thực hành sự biệt riêng và cổ vũ sự giảng hoà nếu Đức Chúa Trời muốn sử dụng chúng ta để phục hồi những mối liên hệ đã bị đổ vỡ.
bottom of page