top of page
7. ƠN BAN CHO-PHẦN1 (IICôr 8:1-24)
Một...
...trong những chức vụ chính trong chuyến đi truyền giáo của Phao-lô là thu tiền quyên góp trợ giúp cho các Cơ-đốc nhân nghèo khó xứ Giu-đê. Phao-lô đã giúp theo cách này một lần trước đó (Công 11:27-30) và ông vui sướng làm điều ấy lần nữa. Thật ý nghĩa khi chính Phao-lô là người đã nhớ “phước lành đã bị quên lãng” của Chúa Giê-xu: “Ban cho thì có phước hơn là nhận lãnh” (Công 20:35).
Nhưng Phao-lô đã có những phước hạnh khác trong trí ngoài sự giúp đỡ người nghèo về vật chất. Ông muốn khoản dâng hiến này củng cố tình đoàn kết của Hội thánh khi các Hội thánh người ngoại chia sẻ với các hội chúng Do-thái bên kia đại dương.
Phao-lô nhìn thấy người ngoại như “những người mắc nợ” đối với người Do-thái (Rô 15:25-28), và sự quyên góp đặc biệt này là một cách trả món nợ đó.
Khoản dâng hiến này cũng là bằng cớ đối với các tín hữu Do-thái (trong đó có một số người vẫn sốt sắng với luật pháp) rằng Phao-lô không phải là kẻ thù nghịch của người Do-thái hay của Môi-se (Công 20:17). Từ buổi đầu chức vụ, Phao-lô đã hứa nhớ đến kẻ nghèo (Ga 2:6-10), và ông đã lao động vất vả để giữ lời hứa ấy nhưng đồng thời ông hy vọng rằng lòng rộng rãi của người ngoại sẽ làm nín lặng tính đố kỵ của người Do-thái.
Tiếc thay, các tín hữu Cô-rinh-tô không muốn thực hiện phần mình. Giống như nhiều người, họ đã có những lời hứa, nhưng không giữ lời. Thật ra, cả một năm đã bị hoang phí (IICôr 8:10). Nguyên nhân nào đã gây sự trì hoãn nghiêm trọng này? Mức độ thuộc linh thấp kém của Hội thánh.
Khi một Hội thánh nào không thuộc linh, Hội thánh đó không rộng rãi. Một yếu tố khác là sự xâm phạm của những người theo Do-thái giáo, những kẻ có thể đã ra sức bòn rút tiền bạc (IICôr 11:7-12,20; IICôr 12:14).
Phao-lô biết rằng làm cho các tín hữu Cô-rinh-tô chịu dự phần sẽ là điều khó khăn, vì vậy ông nâng lên sự nài xin mình đến mức độ thuộc linh cao nhất có thể được: ông dạy họ rằng ban cho là một hành động của ân điển. Phao-lô sử dụng 9 từ khác nhau để chỉ về sự dâng hiến, nhưng một từ Phao-lô sử dụng nhiều nhất là “ân điển”.
Ban cho thật sự là một chức vụ và sự thông công (IICôr 8:4) để giúp đỡ người khác, nhưng động cơ phải là ân điển của Đức Chúa Trời trong lòng. Phao-lô biết sự quyên góp này là một “món nợ” dân ngoại đã mắc (Rô 15:27) và là quả từ đời sống Cơ-đốc của họ (Rô 15:28). Nhưng nó còn hơn thế nữa: đó là hành động của ân điển Đức Chúa Trời trong lòng người.
Thật là điều kỳ diệu khi Cơ-đốc nhân bước vào ơn ban cho, khi họ thật sự tin rằng ban cho có phước hơn nhận lãnh. Chúng ta có thể nói sao khi chúng ta đang thực hành “ơn ban cho” Phao-lô cho biết có một số chứng cớ hiển hiện khi sự ban cho của chúng ta được thôi thúc bởi ân điển.
1. Khi chúng ta ban cho bất chấp mọi hoàn cảnh (IICôr 8:1-2)
Những Hội thánh của người Ma-xê-đoan mà Phao-lô đang dùng làm một tấm gương đã trải qua những khó khăn gay go, nhưng họ đã ban cho rời rộng. Họ không đơn giản đã vượt qua “hoạn nạn”, họ đã trải qua ”thử thách lớn của sự hoạn nạn” (c.2).
Họ đã ở trong “cơn rất nghèo khó” nghĩa là “sự thiếu thốn đến tận cùng”. Từ này mô tả một người ăn mày hoàn toàn không có gì và không có hy vọng kiếm được cái gì –hoàn cảnh khó khăn của họ có thể một phần do niềm tin Cơ-đốc của họ, vì họ có thể đã bị mất việc hoặc bị loại trừ khỏi những hội buôn bán, bởi họ từ chối không dính dáng với sự sùng bái thần tượng.
Nhưng hoàn cảnh của họ đã không ngăn trở họ ban cho. Thật ra, họ đã ban cho cách vui mừng và tự do! Không máy tính nào có thể phân tích được công thức lạ lùng này: hoạn nạn lớn và cơn rất nghèo khó cộng với ân điển là niềm vui dư dật và sự tự do phong phú! Nó nhắc chúng ta về nghịch lý trong chức vụ của Phao-lô: “như nghèo ngặt mà làm cho nhiều người được giàu có” (IICôr 6:10). Nó cũng nhắc chúng ta về những của lễ rời rộng được dâng lên tại đền tạm (Xu 35:5-6) hoặc đền thờ (ISu 29:6-9).
Khi đã kinh nghiệm ân điển Đức Chúa Trời trong đời sống mình, bạn sẽ không dùng những hoàn cảnh khó khăn làm cớ để không ban cho. Về vấn đề đó hoàn cảnh có bao giờ khuyến khích sự ban cho không? Trong chức vụ mục sư đầu tiên của tôi, chúng tôi có một nhu cầu lớn về việc xây dựng một nhà thờ mới nhưng một số người chống đối chương trình xây cất do “hoàn cảnh kinh tế”.
Rõ ràng là các nhà máy thép đang có kế hoạch đình công, các xí nghiệp sắp đóng cửa, ngành đường sắt cũng đang có những vấn đề... và đó dường như là một thời gian đầy mạo hiểm cho việc xây dựng. Nhưng đã có đủ những con người tin nơi “sự ban cho rời rộng” đến nỗi Hội thánh đã dựng lên một nhà thờ mới – bất chấp những cuộc đình công, đóng cửa, giảm công nhân, và những vấn đề khác về tài chính. Sự ban rời rộng là sự ban cho bất chấp mọi hoàn cảnh.
2. Khi chúng ta ban cho cách nhiệt tình (IICôr 8:3-4)
Người ta có thể ban cho rời rộng, nhưng khó có thể ban cho cách nhiệt tình. Một thuộc viên Hội thánh nghèo khó nói rằng: “Mục sư nói tôi nên ban cho đến khi việc đó gây khó chịu nhưng đối với tôi thật khó chịu khi chỉ nghĩ đến việc ban cho!”
Các Hội thánh của người Ma-xê-đoan đã không cần sự thúc giục hay sự nhắc nhở nào như Hội thánh Cô-rinh-tô. Ho rất vui sướng dự phần trong sự quyên góp. Thật ra, họ đã “nài xin được có phần!” (c.4). Có bao nhiêu lần bạn đã nghe một Cơ-đốc nhân yêu cầu ai đó cho mình được dự phần dâng hiến?
Sự ban cho của họ mang tính tự nguyện và tự phát. Sự ban cho này thuộc về ân điển, chớ không phải sự thúc ép. Họ ban cho vì muốn ban cho và vì họ đã kinh nghiệm ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển không chỉ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhưng còn giải thoát chúng ta khỏi cái tôi. Ân điển của Đức Chúa Trời sẽ mở tấm lòng và bàn tay bạn.
Sự ban cho của bạn không phải là kết quả của sự tính toán lạnh lùng, nhưng của niềm hân hoan đầy nhiệt tâm.
3. Khi chúng ta ban cho như Chúa Giê-xu đã ban cho (IICôr 8:5-9)
Chúa Giê-xu luôn là tấm gương nổi bật cho Cơ-đốc nhân noi theo, dù trong sự hầu việc, chịu khổ hoặc hy sinh. Giống như Chúa Giê-xu, các Cơ-đốc nhân Ma-xê-đoan đã dâng mình cho Đức Chúa Trời và người khác (c.5). Nếu dâng mình cho Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ ít có vấn đề dâng của cải mình cho Đức Chúa Trời.
Nếu dâng mình cho Đức Chúa Trời, chúng ta cũng sẽ phó mình vì người khác. Không thể có tình trạng bạn yêu Đức Chúa Trời và làm ngơ trước những nhu cầu của người lân cận mình. Chúa Giê-xu đã phó chính mình Ngài vì chúng ta (Ga 1:4; Ga 2:20). Chúng ta há không nên dâng mình cho Ngài sao? Ngài đã chịu chết để chúng ta không thể sống cho chính bản thân, nhưng cho Ngài và cho tha nhân (IICôr 5:15).
Giống như sự ban cho của Đấng Christ, sự ban cho của tín hữu Ma-xê-đoan đã được thôi thúc bởi tình yêu thương (IICôr 8:7-8). Thật là một quở trách đối với các tín hữu Cô-rinh-tô những người đã được giàu có bởi những phước hạnh thuộc linh (ICôr 1:4-5). Họ chỉ nghĩ đến những sự ban cho của Thánh Linh đến nỗi xao lãng những ân điển của Thánh Linh, kể cả ơn ban cho.
Các Hội thánh của người Ma-xê-đoan có một “sự dư dật trong cơn rất nghèo khó” (IICôr 8:2), tuy nhiên họ cũng đầy hào phóng. Các tín hữu Cô-rinh-tô dư dật về ân tứ thuộc linh, nhưng họ đã lơ đễnh trong việc giữ lời hứa mình và dự phần trong sự quyên góp.
Chúng ta đừng bao giờ lý luận rằng chức vụ về những ân tứ thuộc linh của chúng ta là một sự thay thế ơn ban cho. “Tôi dạy một lớp Trường Chúa Nhật, vì vậy tôi không phải ban cho”, không phải là một lời giải thích, đó là một cớ thoái thác. Cơ-đốc nhân nào nhớ rằng những ân tứ mình có là những sự ban cho sẽ được thôi thúc ban cho người khác và không “trốn” phía sau chức vụ mình đối với Chúa.
Tôi thường gặp các mục sư truyền đạo là những người lý luận rằng vì họ đã dành trọn thời gian của mình trong sự hầu việc Chúa, nên họ không bị buộc phải ban cho.
Phao-lô đã lý luận ngay điều ngược lại: vì bạn được Đức Chúa Trời ban nhiều ân tứ cách kỳ diệu, bạn phải mong muốn ban cho nhiều hơn nữa!
Phao-lô thận trọng để họ hiểu rằng ông không ra lệnh họ ban cho. Thật ra, ông muốn so sánh thái độ của tín hữu Ma-xê-đoan với thái độ của tín hữu Cô-rinh-tô. Ông nhận định rằng các tín hữu Ma-xê-đoan đang noi gương Chúa: họ nghèo khó, nhưng họ đã ban cho. Các tín hữu Cô-rinh-tô nói rằng họ yêu mến Phao-lô giờ đây ông yêu cầu họ chứng minh tình yêu ấy bằng cách dự phần vào sự dâng hiến. Ơn ban cho là một bằng chứng của tình yêu – tình yêu đối với Đấng Christ, tình yêu đối với các tôi tớ Đức Chúa Trời những người đã chăm sóc chúng ta, và tình yêu đối với những ai có nhu cầu đặc biệt mà chúng ta có thể giúp đáp ứng.
Sau cùng, sự ban cho của họ mang tính hy sinh (c.9). Chúa Giê-xu giàu có trong những phương diện nào? Chắc chắn Ngài giàu có trong thân vị Ngài, vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng hữu. Ngài giàu có trong của cải và trong địa vị làm Vua muôn vua cùng Chúa muôn chúa. Ngài giàu có trong quyền năng vì Ngài có thể làm bất cứ điều gì. Tuy nhiên, dù sự thật Ngài đã có mọi của cải này – và hơn nữa -Ngài đã trở nên nghèo khó.
Thì của động từ này cho biết đó là sự thành nhục thể của Ngài, sự giáng sinh của Ngài tại Bết-lê-hem, điều được nói ở đây. Ngài đã hợp nhất chính Ngài với loài người và đã mặc cho chính Ngài một thân xác con người. Ngài đã lìa ngôi để trở nên một tôi tớ. Ngài đã từ bỏ mọi sở hữu của Ngài đến nỗi thậm chí không có một chỗ để gối đầu. Từng trải tột cùng về sự nghèo khó của Ngài là khi Ngài đã trở nên tội lỗi vì chúng ta trên thập tự giá.
Âm phủ là sự nghèo khó đời đời, và trên thập tự giá Chúa Giê-xu đã trở nên nghèo nhất trong số người nghèo.
Vì sao Ngài đã làm điều đó? Hầu chúng ta có thể trở nên giàu! Điều này ý nói chúng ta đã nghèo trước khi gặp Chúa Giê-xu, và chúng ta đã hoàn toàn phá sản. Nhưng giờ đây khi chúng ta đã tin nhận Ngài, chúng ta dự phần trong mọi của cải Ngài! Chúng ta hiện là con cái Đức Chúa Trời, “kẻ kế tự Đức Chúa Trời và là kẻ đồng kế tự với Chúa Giê-xu” (Rô 8:17).
Vì điều này là thật, làm sao chúng ta có thể tự chối không ban cho người khác? Ngài đã trở nên nghèo để khiến chúng ta giàu! Chúng ta há không thể noi gương Ngài như các Hội thánh của người Ma-xê-đoan, những người đã dư dật sự hào phóng trong cơn rất nghèo khó sao?
4. Khi chúng ta ban cho cách sẵn lòng (IICôr 8:10-12)
Có một khác biệt lớn giữa “hứa” và “thực hiện”. Một năm trước đó, tín hữu Cô-rinh-tô đã khoe khoang với Tít rằng họ sẽ dự phần trong sự quyên góp đặc biệt này (c.6), nhưng họ không giữ lời hứa. Hãy chú ý các câu 10-12. Phao-lô nhấn mạnh “sự sẵn lòng”. Ơn ban cho phải đến từ một tấm lòng nhiệt thành nó không thể bị bắt buộc hay bị thúc ép.
Suốt những năm trong chức vụ, tôi từng chịu đựng nhiều sự yêu cầu dâng hiến. Tôi đã lắng nghe những câu chuyện mủi lòng về những nhu cầu không thể tin được. Tôi buộc phải cười vào những chuyện đùa cũ kỹ cho rằng việc chi tiền dễ dàng hơn đối với tôi. Tôi bị mắng nhiếc, làm nhục và gần như bị hù doạ, và tôi phải thú nhận rằng không có một cách tiếp cận nào trong những cách này khích động tôi ban cho hơn là tôi dự định ban cho.
Thật ra, hơn một lần tôi đã ban cho ít hơn vì tôi quá phẫn nộ cách tiếp xúc trần tục. (Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ trở nên giống Mark Twain, người đã nói rằng ông quá chán ngấy sự yêu cầu dai dẳng đến đỗi chẳng những ông đã không ban cho những gì ông dự định, mà ông còn rút một tờ giấy bạc khỏi đĩa lạc quyên! ).
Chúng ta phải cẩn trọng ở đây không nên nhầm lẫn “sẵn lòng” với “thực hiện”, vì cả 2 phải đi đôi với nhau. Nếu sự sẵn lòng là thành thật vì thuộc ý muốn Đức Chúa Trời, vậy phải có “một sự thực hiện nữa” (c.11; Phi 2:12-13). Phao-lô không nói rằng sự sẵn lòng là một sự thay thế cho việc thực hiện, bởi vì nó không phải vậy. Nhưng nếu sự ban cho của chúng ta được thôi thúc bởi ân điển, chúng ta sẽ ban cho cách sẵn lòng, và không vì lý do chúng ta bị ép buộc ban cho.
Đức Chúa Trời nhìn thấy “sự ban cho của tấm lòng” chớ không phải “sự ban cho của tay”. Nếu tấm lòng đã muốn ban cho nhiều hơn, nhưng không thể làm được như vậy, Đức Chúa Trời nhìn thấy tấm lòng và ghi nhận cách phù hợp. Nhưng nếu tay cho nhiều hơn tấm lòng muốn Đức Chúa Trời sẽ ghi những gì Ngài thấy trong lòng cho dù vật dâng hiến trong tay có to lớn thế nào chăng nữa.
Một người bạn của tôi sắp đi một chuyến kinh doanh, và vợ ông ta nhắc nhở ông trước khi đi nhà thờ rằng bà cần thêm tiền cho chi tiêu gia đình. Ngay trước giờ dâng hiến, ông giúi tiền vào tay bà và nghĩ rằng đó là tiền dâng trong tuần của họ, bà đã đặt tất cả vào đĩa dâng. Đó là số tiền chi phí cho cả tuần.
Bạn tôi nói: “Ồ, chúng tôi đã dâng nó cho Chúa và Ngài sẽ ghi vào sổ”.
Mục sư của họ hỏi “Ông định dâng bao nhiêu?” và bạn tôi đã cho biết số tiền. Mục sư nói: “Vậy đó là những gì Đức Chúa Trời đã ghi nhận, vì Ngài đã nhìn thấy ý định của lòng ông!”
Đức Chúa Trời không nhìn thấy phần dâng, nhưng nhìn thấy tỉ lệ dâng. Nếu chúng ta đã có thể dâng nhiều hơn và đã không thực hiện, Đức Chúa Trời chú ý điều ấy. Nếu chúng ta đã muốn dâng nhiều hơn, và không thể dâng được, Đức Chúa Trời cũng chú ý điều đó. Khi dâng hiến cách sẵn lòng, theo những gì mình có, chúng ta đang thực hành ơn ban cho.
5. Khi chúng ta ban cho bởi đức tin (IICôr 8:13-24)
Phao-lô không cho rằng người giàu trở nên nghèo hầu người nghèo có thể trở nên giàu.Thật chẳng khôn ngoan gì cho một Cơ-đốc nhân phải mắc nợ để giải nợ cho một người khác, dĩ nhiên trừ khi người ấy có thể giải quyết trách nhiệm hoàn nợ.Phao-lô nhìn thấy một “sự bình đẳng” trong toàn bộ thủ tục này, người ngoại được người Do-thái làm giàu về thuộc linh, vì vậy người Do-thái phải được người ngoại làm giàu về vật chất (Ro 15:25-28).
Hơn nữa, các Hội thánh người ngoại thời đó đang hưởng một số của cải vậtchất, trong khi các tín hữu tại xứ Giu-đê đang chịu khổ. Ngày nào đó hoàn cảnh ấy có thể đảo ngược. Có thể đến một thời điểm nào đó khi các tín hữu Do-thái sẽ giúp đỡ những người ngoại.
Ai thực hiện sự bình đẳng này? Đức Chúa Trời thực hiện. Phao-lô dùng phép lạ về ma-na từng ngày ở mức độ nào, họ đã luôn có mọi thứ họ cần. Những ai đã cố gắng tích trữ ma-na đều khám phá rằng không thể được, vì ma-na sẽ hư và có mùi (Xu 16:20).
Bài học thật rõ ràng: hãy thâu những gì bạn cần, hãy chia sẻ những gì bạn có thể, và đừng cố gắng trích trữ ơn phước Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời định liệu rằng bạn sẽ không ở trong sự thiếu thốn nếu bạn tin cậy và vâng lời Ngài.
Động cơ để chúng ta ban cho là ơn phước thuộc linh của Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta, nhưng thước đo để chúng ta ban cho là ơn phước thuộc thể của Đức Chúa Trời. Phao-lô làm rõ điều này khi ông viết cho tín hữu Cô-rinh-tô trong thư tín đầu tiên, “hãy để mỗi người trong anh em tự để dành, theo như Đức Chúa Trời đã cho mình” (ICôr 16:2).
Phao-lô đã không đặt ra bất cứ công thức toán học nào, vì ơn ban cho không bị hạn chế bởi phần mười (10%). Ân điển ban cho mang tính hệ thống, nhưng không mang tính luật pháp. Nó không được thoả mãn với số lương tối thiểu cho dù lượng tối thiểu ấy có thể ra sao.
Các Cơ-đốc nhân đầu tiên (giống như nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay) đã tự nguyện chia sẻ những gì họ có, nhưng không ép buộc người khác tham gia. Toàn bộ chương trình này có tính tạm thời và sự kiện Phao-lô phát động một cuộc quyên góp đặc biệt để giảm bớt những nhu cầu của họ là chứng cớ cho thấy chương trình này chưa bao giờ mang ý nghĩa nó sẽ được các thế hệ Cơ-đốc nhân sau này bắt chước theo.
Ân điển ban cho là một vấn đề của đức tin: chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời và tin rằng Ngài sẽ đáp ứng những nhu cầu của chúng ta khi chúng ta giúp đáp ứng nhu cầu kẻ khác. Như dân Do-thái thâu ma-na từng ngày, vậy chúng ta phải nhờ cậy Đức Chúa Trời “ban cho chúng ta hôm nay bánh hằng ngày của mình” (Mat 6:11).
Chúng ta không nên phí phạm hoặc hoang phí điều Đức Chúa Trời ban cho mình, cũng không nên tích trữ nó. Trong ý muốn Đức Chúa trời, để dành là điều đúng (dân Do-thái đã để dành ma-na của ngày thứ sáu để ăn vào lễ Sa-bát, và ma-na đã không bị hư (Xu 16:22-26). Nhưng ngoài ý muốn Đức Chúa Trời, của cải mà chúng ta tích trự sẽ làm hại chúng ta hơn là giúp ích chúng ta (Gia 5:1-6).
Mở đầu trong c.16, Phao-lô đột nhiên chuyển từ một nguyên tắc thuộc linh sâu sắc sang một gọi ý thực tiễn về cách cuộc quyên góp đặc biệt sẽ được tiến hành.Trong khi đúng là ơn ban cho nghĩa là sự ban cho bởi đức tin, thì cũng đúng là ơn ban cho không có nghĩa sự ban cho tình cờ. Cơ-đốc nhân nào chia sẻ với người khác phải biết chắc rằng điều mình ban cho được chuẩn bị cách thành thật và trung tín.
Những năm qua, tôi cố khích lệ con cái Đức Chúa Trời ủng hộ những chức vụ có thể đáng tin cậy. Hơn một lần, tôi đã khuyến cáo một thuộc viên Hội thánh đừng dâng hiến cho một tổ chức không xứng đáng, chỉ để khám phá rằng mình đã ban cho bừa bãi.
Thế rồi vài tháng sau ông ta đến gặp tôi và nói: “Tôi đã gởi đi một tấm séc cho tổ chức ấy, và bây giờ tôi khám phá rằng tổ chức ấy là giả mạo!”
Tôi nhẹ nhàng đáp: “Tôi đã khuyên ông đừng cho gì cả!”
Ông ấy lý luận: “Ồ, Chúa biết lòng tôi, dù tiền bạc đã bị phung phí, tôi đã được khen ngợi về sự ban cho ở trên trời.”
Ơn ban cho không phải là sự ban cho dại dột. Thậm chí trong một Hội Thánh địa phương, người quản lý tiền bạc phải có những phẩm chất nào đó. Phao-lô rất thận trọng cách quản lý tiền bạc được giao phó cho mình, bởi ông không muốn mang tiếng là một “kẻ cắp tôn giáo”. Các Hội thánh góp phần vào sự quyên góp đã chọn ra những người đại diện để đi với Phao-lô hầu cho mọi sự được thực hiện cách thành thật, thoả đáng và có trật tự.
Tôi để ý thấy trong một lớp Trường Chúa Nhật của chúng ta tại một Hội thánh tôi từng làm mục sư có một thanh niên nhận tiền dâng, đếm tiền, ghi chép và đem tiền đến văn phòng. Nói theo cách nhẹ nhàng tôi cho rằng anh ta đã đặt mình trong một thế nguy hiểm nếu có ai tố cáo anh về bất cứ điều gì, bởi anh không thể chứng minh rằng anh đã quản lý tiền bạc cách thành thật.
Tôi nói: “Tôi tin anh, nhưng tôi không tin những người có thể đang dò xét anh và tìm điều gì đó để phê phán”. Thay vì làm theo ý kiến của tôi, anh ta nổi giận và rời khỏi Hội thánh.
Nam giới và nữ giới trong mọi chức vụ Cơ-đốc – một Hội thánh địa phương, một tổ chức truyền giáo, một buổi truyền giảng – phải có một phẩm chất sau nếu muốn quản lý tiền bạc của Đức Chúa Trời.
1. Một sự khao khát được Chúa ban để hầu việc (IICôr 8:16-17).
Phao-lô đã không “biệt phái” Tít thanh niên này có một khao khát trong lòng muốn giúp trong việc thu góp tiền dâng đặc biệt. Rất thường trong các Hội thánh, các ông và các bà được cử vào ban tài chính, là những người không có khao khát thật để hầu việc Chúa theo cách này. Trên hết mọi sự, một người quản lý tiền bạc của Chúa phải có một tấm lòng đẹp ý Đức Chúa Trời.
2. Một gánh nặng đối với những linh hồn hư mất (IICôr 8:18).
Chúng ta không biết người anh em này là ai, nhưng chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời vì ông ta được lời chứng là một người rao giảng Phúc-Âm, ít ra ông đã được các Hội thánh biết đến như một người nặng gánh vì những linh hồn.
Hội thánh địa phương đã cử “những uỷ ban đặt để những người có ơn chinh phục linh hồn” vào ban truyền giảng Tin Lành hoặc ban truyền giáo nhưng một số người trong đó cũng phải vào ban tài chính hoặc ban quản trị.
Tại sao? Để giữ vững những ưu tiên. Tôi đã chứng kiến những ban ngành đồng ý bỏ ra một số tiền lớn cho những việc xây cất và trang bị, họ đã không chi tiền cho chức vụ chinh phục linh hồn.
Ngày kia có một mục sư nản lòng cần tìm lời khuyên của tôi. Ông nói: “Ban tài chính của tôi đang trở nên hoảng sợ. Hoàn cảnh kinh tế đã khiến họ quá chặt chẽ, họ đã không chi khoản tiền nào – và chúng tôi có một số thặng dư lớn trong ngân hàng!” Tôi chưa bao giờ gặp ban tài chính của ông ta, nhưng tôi biết một điều về họ: họ cần một gánh nặng đối với những linh hồn hư mất.
3. Một khao khát ngợi khen Đức Chúa Trời (IICôr 8:19)
Những báo cáo tài chính thường ca ngợi Hội thánh hay một nhóm lạc quyên đặc biệt, chớ không ngợi khen Đức Chúa Trời. Không có việc nào trong Hội thánh như “những việc trần tục và những việc thiêng liêng”, “công việc và chức vụ”.
Mọi việc chúng ta làm đều là “việc thiêng liêng” và là chức vụ cho Chúa. Khi điều lệ Hội thánh cho rằng các chấp sự (hay trưởng lão) điều hành “những việc thuộc linh “ của Hội thánh, và ban trị sự điều hành “những việc vật chất và tài chính”, Hội thánh đó đang tạo nên một sự phân biệt không theo tinh thần Kinh Thánh. Điều thuộc linh nhất mà một Hội thánh có thể thực hiện là sử dụng tiền bạc của mình cách khôn ngoan cho chức vụ thuộc linh.
Chúng ta quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời bằng cách sử dụng điều Ngài ban cho chúng ta theo cách Ngài muốn nó được sử dụng. Nếu những người quản lý tài chính của Hội thánh không nặng lòng để quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời, họ sẽ chóng dùng ngân quỹ này theo những cách làm ô danh Chúa.
4. Một tiếng tốt về sự ngay thẳng (IICôr 8:20-22)
Phao-lô cho biết rõ ông đã tiếp đón những đại diện của các Hội thánh cộng tác. Ông muốn tránh bất cứ sự trách móc nào. Để nói “Ồ, Chúa thấy đều chúng ta đang làm” thì chưa đủ, chúng ta phải biết chắc con người có thể thấy điều chúng ta đang làm. Tôi thích cách J. B. Philips dịch c.21 “Tất nhiên chúng tôi muốn tránh hơi hướng nhẹ nhất của sự chỉ trích trong sự phân phối những món quà của họ, và muốn hoàn toàn thẳng thắn không chỉ trước mặt Đức Chúa Trời nhưng trong mắt con người nữa”.
Về phần tôi, tôi sẽ không hỗ trợ cho một nhà truyền đạo hay một cộng sự Cơ-đốc trong phương diện nào đó đã không gắn bó với một ban có tiếng tốt hay một tổ chức có tiếng tốt. Tôi cũng sẽ không hỗ trợ một chức vụ nào không có sổ sách kiểm tra và báo cáo sẵn có cho những người dâng hiến. Tôi không nói rằng mọi cộng sự Cơ-đốc “tự do” đều vô trách nhiệm nhưng tôi sẽ tin tưởng nhiều hơn về chức vụ của họ nếu họ gắn bó với một ban hay một tổ chức giám sát việc hỗ trợ tài chính cho họ.
Hãy để ý sự nhấn mạnh trong c.22 về “sự siêng năng”. Nếu có một phẩm chất cần thiết khi quản lý những việc tài chính, đó là sự siêng năng. Tôi có nghe về những thủ quỹ Hội thánh là những người đã không cập nhật những ghi chép chính xác về khoản thu chi, và là những người nộp báo cáo hằng năm cẩu thả với viện cớ họ “quá bận rộn nên không thể vào sổ sách kịp”. Vậy thì lẽ ra họ không nên đảm nhận chức việc này!
5. Một tinh thần cộng tác (IICôr 8:23-24).
Tít không chỉ có một tấm lòng vì chức vụ này (c.16) nhưng ông cũng biết cách làm một “thành viên giỏi của nhóm”. Phao-lô gọi ông là “cộng sự” của mình và là “bạn giúp đỡ”. Tít không giống như một thuộc viên của ban mà tôi đã nghe người ấy nói tại buổi nhóm đầu tiên: “Bao lâu tôi ở ban này, sẽ không có việc hoàn toàn nhất trí!”
Các thành viên ban tài chính không sở hữu tiền bạc nó thuộc về Đức Chúa Trời, ban tài chính này chỉ là một quản gia, quản lý tiền bạc cách thành thật và cẩn trọng cho sự hầu việc Chúa. Cũng hãy để ý rằng Phao-lô nhìn thấy uỷ ban này như những tôi tớ đặc biệt của các Hội thánh.
Việc gây “quỹ cứu trợ” đặc biệt là một nỗ lực hợp tác của các Hội thánh người ngoại, Phao-lô cùng những người đại diện chỉ là những “sứ giả” của các Hội thánh. Từ Hy-lạp là “apostolos”, từ đó chúng ta có từ tiếng Anh “apostle (sứ-đồ) – người được phái đi với một nhiệm vụ đặc biệt”. Những Cơ-đốc nhân tận tuỵ này cảm biết một bổn phận đối với các Hội thánh để làm công việc của họ cách thành thật và hiệu quả.
Ơn ban cho là một mạo hiểm đầy thú vị! Khi bạn học biết cách ban cho “bởi ân điển, nhờ đức tin” (như cách bạn đã được cứu – Eph 2:8,9) bạn bắt đầu kinh nghiệm một sự tự do tuyệt vời khỏi những sự việc và hoàn cảnh.
Thay vì để cho những sự việc chiếm hữu bạn, bạn bắt đầu kiểm soát chúng bạn phát triển một tập hợp mới của những giá trị và ưu tiên. Bạn không còn đo đạc đời sống hay những người khác trên cơ sở tiền bạc hoặc của cải. Nếu tiền bạc là sự thử nghiệm tuyệt nhất của thành công, vậy Chúa Giê-xu là một sự thất bại, vì Ngài đã làm Con Người nghèo khó!
-Ơn ban cho làm giàu cho bạn, khi bạn làm giàu cho người khác.
-Ơn ban cho khiến bạn trở nên giống Chúa Giê-xu hơn.
Bạn đã khám phá niềm vui mừng trong ơn ban cho chưa?
8. ƠN BAN CHO-PHẦN 2 (IICo 9:1-15)
Điều có vẻ lạ là Cơ-đốc nhân chúng ta cần những sự khích lệ để ban cho, khi Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta quá nhiều. Đức Chúa Trời đã làm giàu cho các tín hữu Cô-rinh-tô cách kỳ diệu, nhưng họ đã do dự chia sẻ những gì mình có với người khác. Họ đã không quen với ơn ban cho, nên Phao-lô phải giải thích điều đó với họ. Sau khi đã giải thích ơn ban cho với họ, Phao-lô cố thúc giục họ dự phần trong sự dâng hiến đặc biệt ông làm điều này bằng cách chia sẻ 5 điều khích lệ liên quan đến ơn ban cho.
1. Sự ban cho của bạn sẽ giục lòng người khác (IICôr 9:1-5)
Cơ-đốc nhân không nên cạnh tranh nhau trong sự hầu việc Đấng Christ thì họ phải “coi sóc nhau để khuyên giục về lòng yêu thương và việc tốt lành” (Hêb 10:24). Khi nhìn thấy những điều Đức Chúa Trời đang thực hiện trong và qua đời sống những người khác, chúng ta phải nỗ lực để chính mình hầu việc Ngài tốt hơn.
Có một ranh giới tinh tế giữa sự bắt chước thuộc thể và sự thi đua thuộc linh, chúng ta phải thận trọng về mặt này. Nhưng một Cơ-đốc nhân sốt sắng có thể là một phương tiện vực dậy một Hội thánh và giục lòng nhiều người cầu nguyện, làm việc, chứng đạo và ban cho.
Điều thú vị là: Phao-lô đã dùng sự sốt sắng của các tín hữu Cô-rinh-tô để thách thức tín hữu Ma-xê-đoan nhưng giờ đây ông đang dùng tín hữu Ma-xê-đoan để thách thức tín hữu Cô-rinh-tô! Một năm trước đó, tín hữu Cô-rinh-tô đã sốt sắng khoe khoang rằng họ sẽ dự phần trong sự dâng hiến, nhưng rồi họ đã không làm gì cả.Các tín hữu Ma-xê-đoan đã tin hoàn toàn nơi lời hứa họ, và Phao-lô e rằng sự khoe mình của ông sẽ trở nên vô ích.
Phao-lô phái Tít và những anh em khác đến thành Cô-rinh-tô để giục lòng họ dự phần vào việc dâng hiến. Quan trọng hơn nhiều so với chính tiền bạc là lợi ích thuộc linh sẽ đến với Hội thánh khi họ dự phần trong sự đáp ứng ân điển Đức Chúa Trời trong đời sống mình.
Phao-lô đã viết thư cho Hội thánh trước đó để cho họ biết cách đảm nhận những sự đóng góp (ICôr 16:1-4), vì vậy không có cớ gì cho sự trễ nải của họ. Phao-lô muốn toàn bộ sự đóng góp được sẵn sàng khi ông và “uỷ ban tài chính” của ông đến nơi hầu cho không thể có bất cứ sự quyên góp nào ở phút cuối có thể trở nên áp đặt trên Hội thánh.
Phao-lô muốn tránh điều gì? Sự bẽ bàng đối với bản thân ông và với Hội thánh nếu việc dâng hiến chưa sẵn sàng. Vì xét cho cùng, có nhiều người đại diện của các Hội thánh xứ Ma-xê-đoan trong uỷ ban đặc biệt này (Công 20:4). Phao-lô đã khoe với các tín hữu Ma-xê-đoan về Hội thánh Cô-rinh-tô, và giờ đây ông sợ rằng sự khoe mình của ông có thể trở nên vô ích.
Rõ ràng, Phao-lô chẳng thấy điều gì sai trật hay không thuộc linh về việc yêu cầu người khác hứa ban cho. Ông đã không bảo họ “mức độ” họ phải hứa, nhưng ông mong họ giữ lời hứa. Khi một người ký hợp đồng gắn một điện thoại, người ấy hứa trả một số tiền nào đó hằng tháng. Nếu có thể chấp nhận được việc lập những uỷ ban tài chính cho những việc như điện thoại, xe hơi, và thẻ tín dụng, chắc chắn phải chấp nhận được việc lập các uỷ ban cho công việc của Chúa.
Hãy chú ý những từ được Phao-lô sử dụng khi ông viết về sự quyên góp. Đó là “sự giúp đỡ các thánh-đồ”, một sự phục vụ các anh em tín hữu. Đó cũng là một “quà tặng hào phóng” (IICôr 9:5) nghĩa là “một sự ban cho rời rộng”. Có lẽ Phao-lô ngụ ý rằng các tín hữu Cô-rinh-tô ban cho nhiều hơn họ đã dự định chăng?
Tuy nhiên, Phao-lô đã thận trọng không áp đặt bất cứ sự thúc ép nào. Ông muốn sự ban cho của họ là “vấn đề về tính hào phóng (tính rời rộng) chớ không như vấn đề về sự tham lam (cái gì đó bị vắt cạn khỏi họ)”. Những sự nài xin dâng hiến với tính thúc ép cao không thuộc về ơn ban cho.
Sự khích lệ lớn nhất của chúng ta đối với việc ban cho là sự khích lệ đẹp lòng Chúa, nhưng không có gì sai trật trong việc thực hành cách ban cho làm giục lòng người khác ban cho. Điều này không có nghĩa là chúng ta quảng cáo việc chúng ta làm với tư cách cá nhân, vì kiểu thực hành đó sẽ vi phạm một trong những nguyên tắc cơ bản của sự ban cho: hãy dâng cho Chúa cách kín nhiệm (Mat 6:1-4).
Tuy nhiên, Phao-lô đã muốn viết cho các Hội thánh và không có gì sai trái đối với hội chúng để thông báo những gì họ đã hợp tác ban cho. Nếu động cơ của chúng ta là khoe khoang vậy chúng ta không thực hiện việc ban cho ân điển.Nhưng nếu nhằm mục đích giục lòng người khác ban cho, vậy ân điển Đức Chúa Trời có thể hành động qua chúng ta để giúp đỡ người khác.
2. Sự ban cho của bạn sẽ chúc phước cho bạn (IICôr 9:6-11)
“Hãy cho, người sẽ cho mình” là lời hứa của Chúa chúng ta và lời hứa ấy vẫn giữ đúng (Lu 6:38). “Sự cho thêm” Ngài ban cho chúng ta không phải lúc nào cũng là tiền bạc hay vật chất, nhưng nó luôn đáng giá nhiều hơn chúng ta đã cho. Ban cho không phải là điều gì đó chúng ta làm, nhưng là điều gì đó bày tỏ thực chất chúng ta.
Ban cho là cách sống của Cơ-đốc nhân hiểu biết ân điển Đức Chúa Trời. Thế gian không thể hiểu một nhận định như Ch 11:24 “Có người rải của mình ra, lại càng thêm nhiều lên cũng có người chắt lót quá bực, nhưng chỉ được sự thiếu thốn.” Trong ơn ban cho, động cơ của chúng ta không phải là “để kiếm được cái gì”, nhưng nhận phước hạnh của Đức Chúa Trời là một trong những phúc lợi phụ.
Nếu muốn sự ban cho của chúng ta đem lại phước hạnh và gây dựng chúng ta, chúng ta phải cẩn thận làm theo những nguyên tắc đã được Phao-lô giải thích trong phân đoạn này.
1. Nguyên tắc về sự gia tăng: Chúng ta gặt theo lượng mình gieo (IICôr 9:6).
Nguyên tắc này chẳng cần giải thích gì, vì chúng ta nhìn thấy nó hoạt động trong dời sống thường nhật. Người nông dân gieo ra nhiều giống sẽ có cơ hội cao hơn được một mùa thu hoạch lớn hơn. Người đầu tư bỏ một khoản tiền lớn vào ngân hàng chắc chắn sẽ thu nhiều phần lợi nhuận hơn. Chúng ta càng đầu tư vào công việc của Chúa, “quả” sẽ càng nhiều trong tài khoản chúng ta (Phi 4:10-20)
Bất cứ khi nào chúng ta bị cám dỗ để quên nguyên tắc này, chúng ta cần nhắc nhở bản thân rằng Đức Chúa Trời đã không tiếc sự ban cho của Ngài. “Ngài đã không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há chẳng cũng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao?” (Rô 8:32). Trong cả bản tính lẫn ân điển, Đức Chúa Trời là Đấng ban cho rời rộng, và người tin kính phải noi theo mẫu mực thiêng liêng này.
2. Nguyên tắc về ý định: Chúng ta gặt khi chúng ta gieo với những động cơ đúng (IICôr 9:7).
Động cơ tuyệt đối không ảnh hưởng gì đến người nông dân! Nếu người ấy gieo ra giống tốt và được thời tiết tốt, người ấy sẽ gặt một mùa thu hoạch cho dù người ấy làm việc vì lợi nhuận, vì vui thích hay vì sự kiêu hãnh chăng nữa. Việc người ấy sử dụng tiền mình kiếm được như thế nào chẳng tạo khác biệt gì, mùa thu hoạch có thể sẽ đến như nhau.
Nhưng với Cơ-đốc nhân thì không như vậy: động cơ trong sự ban cho (hay trong bất cứ hoạt động nào khác) vô cùng quan trọng. Sự ban cho của chúng ta phải đến từ tấm lòng, và động cơ trong lòng phải đẹp ý Đức Chúa Trời. Chúng ta đừng làm “những kẻ ban cho buồn bã” là những người ban cho cách miễn cưỡng, hay “những kẻ ban cho loạn trí” – ban cho vì phải ban cho (“vì sự cần thiết”) nhưng chúng ta phải làm “những người ban cho vui mừng” – vui vẻ ban cho những gì mình có vì đã kinh nghiệm ân điển Đức Chúa Trời. “Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước” (Ch 22:9).
Nếu không thể ban cho cách vui mừng (từ Hy Lạp cho chúng ta từ tiếng Anh “hilarious”: vui nhộn), vậy chúng ta phải mở lòng mình ra trước Chúa và cầu xin Ngài ban cho ta ân điển Ngài. Chắc chắn Đức Chúa Trời có thể chúc phước một món quà được ban cho vì một tinh thần trách nhiệm, nhưng Đức Chúa Trời không thể chúc phước người ban cho nếu lòng người ấy không thật. Ơn ban cho nghĩa là Đức Chúa Trời chúc phước người ban cho cũng như quà ban cho, và người ban cho là một ơn phước đối với những người khác.
3. Nguyên tắc về sự tức thì: Chúng ta gặt thậm chí trong khi chúng ta đang gieo (IICôr 9:8-11).
Người nông dân phải chờ đợi mùa thu hoạch của mình, nhưng Cơ-đốc nhân thực hành ơn ban cho đều khởi sự thu hoạch ngay lập tức. Chắc chắn, có những ích lợi từ xa của việc chúng ta ban cho, nhưng cũng có những phước hạnh tức thời.
-Trước hết, chúng ta bắt đầu chia sẻ ơn dư dật của Đức Chúa Trời (c.8). “Đủ mọi thứ” trong câu này đáng gây ngạc nhiên: mọi ân điển luôn luôn, mọi sự đầy đủ, mọi việc lành. Điều này không có nghĩa Đức Chúa trời làm cho mọi Cơ-đốc nhân giàu có về vật chất, nhưng có nghĩa là Cơ-đốc nhân nào thực hành ơn ban cho sẽ luôn có những gì người ấy cần lúc cần thiết.
Hơn nữa, ân điển Đức Chúa Trời làm giàu người ấy về mặt đạo đức và thuộc linh hầu cho người ấy tăng trưởng trong phẩm cách Cơ-đốc nhân. Trong cách sống và việc làm, người ấy nhờ cậy hoàn toàn nơi sự chu cấp đầy đủ của Đức Chúa Trời.
Thật đáng lo ngại khi thấy có bao nhiêu Cơ-đốc nhân ngày nay đang nhờ cậy nơi những điều khác để được những nguồn thuộc linh. Các mục sư truyền đạo không thể thực hiện những bài giảng nếu họ không mượn chúng ở một cuốn sách hay băng cát-sét.
Những người giúp việc nhà thờ lúng túng không biết làm gì với một vấn đề nếu họ không gọi điện thoại cho 2 hoặc 3 mục sư truyền đạo nổi tiếng để được lời khuyên. Quá nhiều thuộc viên Hội thánh phải hỏi ý mục sư một lần mỗi tuần, nếu không, họ sẽ sa sút thuộc linh.
Từ “sự đầy đủ” nghĩa là “những nguồn thoả đáng bên trong” (Phi 4:11). Nhờ Chúa Giê-xu, chúng ta có sự đầy đủ mình cần để đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống.Là Cơ-đốc nhân, chúng ta cần phải giúp đỡ và khích lệ lẫn nhau nhưng chúng ta không nên tuỳ thuộc vào nhau. Sự tuỳ thuộc của chúng ta phải dựa vào Chúa. Chỉ một mình Ngài có thể ban cho chúng ta “mạch nước” trong lòng, khiến chúng ta được đầy đủ để sống (Gi 4:14).
Không chỉ chia sẻ ơn Đức Chúa Trời, chúng ta còn chia sẻ sự công bình của Ngài (IICôr 9:9). Phao-lô đã trích dẫn Thi 112:9 để chứng minh cho quan điểm ông. Thi-thiên này mô tả người công bình không hề sợ hãi bởi lòng người ấy chân thật và vâng phục Chúa. Phao-lô không cho rằng chúng ta đạt được sự công bình bằng cách ban cho, vì cách duy nhất để có sự công bình là bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu.Tuy nhiên, nếu tấm lòng chúng ta chân thật, sự ban cho của chúng ta sẽ được Đức Chúa Trời sử dụng để khiến tính cách chúng ta trở nên công bình. Ơn ban cho gây dựng tính cách Cơ-đốc nhân.
Chúng ta gặt khi chúng ta gieo và chúng ta chia sẻ sự nhân lên của phép lạ từ Đức Chúa Trời về những gì chúng ta ban cho và thực hiện (IICôr 9:10). Người nông dân phải quyết định lượng hạt giống người ấy sẽ giữ lại dùng làm thực phẩm, và lượng giống người ấy sẽ gieo trồng. Nếu vụ thu hoạch kém, có ít giống sẵn cho việc ăn và trồng. Nhưng Cơ-đốc nhân tin nơi ơn ban cho không bao giờ phải lo lắng về quyết định này: Đức Chúa Trời chu cấp mọi thứ người ấy cần. Luôn có “bánh” thuộc linh và thuộc thể để ăn cùng “hạt giống” thuộc linh và thuộc thể cho việc gieo trồng.
Ở đây Phao-lô đề cập đến Es 55:10-11, một phân đoạn sử dụng “hạt giống” và “bánh” để chỉ về Lời Đức Chúa Trời và mùa thu hoạch trong cánh đồng theo nghĩa đen.Không có điều gì như là “thế tục” và “thiêng liêng” trong đời sống Cơ-đốc nhân.
Việc dâng tiền bạc là một hành động cũng thuộc linh như việc hát một thánh ca hoặc phân phát một tài liệu Tin Lành. Tiền bạc là hạt giống. Nếu chúng ta dâng nó theo những nguyên tắc của ân điển, nó sẽ nhân lên vinh hiển Đức Chúa Trời và đáp ứng nhiều nhu cầu. Nếu chúng ta sử dụng tiền bạc theo những cách khác hơn Đức Chúa Trời mong muốn, mùa thu hoạch sẽ kém.
-Sau cùng, khi gieo chúng ta được giàu có và làm giàu cho người khác (IICôr 9:11). Người nông dân gặt hái những lợi ích về sức khoẻ tức thời khi làm việc trong đồng ruộng mình, nhưng người ấy phải chờ đợi mùa thu hoạch. Cơ-đốc nhân nào được thúc giục bởi ân điển sẽ gặt những phước hạnh về sự giàu có của cá nhân trong đời sống và tính cách của riêng mình và sự giàu có này làm lợi cho người khác.
Là mục sư, tôi từng chứng kiến những Cơ-đốc nhân trẻ tuổi ứng dụng những nguyên tắc của ơn ban cho này và bắt đầu tăng trưởng. Thật là niềm vui mừng lớn lao được nhìn thấy họ tin cậy Đức Chúa Trời khi sự ban cho của họ được thôi thúc bởi ân điển. Đồng thời, tôi đã nhìn thấy những tín hữu khác cười những nguyên tắc này và họ dần dần làm nghèo chính mình. Một vài người trong số họ “phát đạt” về tài chính, nhưng thu nhập của họ là sự sa sút của họ: nó đã không làm giàu cho họ. Họ đã có phần thưởng, nhưng họ đã đánh mất những cơ họ làm giàu thuộc linh của mình.
Ơn ban cho nghĩa là chúng ta thật sự tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng ban cho vĩ đại, và chúng ta sử dụng nguồn chu cấp thuộc thể và thuộc linh của mình một cách phù hợp. Đơn giản là bạn không thể làm Đức Chúa Trời cạn kiệt!
3. Sự ban cho của bạn sẽ thoả đáp những nhu cầu (IICôr 9:12)
Phao-lô đã giới thiệu một từ mới dùng cho sự dâng hiến: “sự hầu việc”. Nó có nghĩa là “sự hầu việc tế lễ”, vì vậy một lần nữa Phao-lô đã nâng sự dâng hiến lên mức độ cao nhất có thể được. Ông nhìn thấy sự quyên góp này như một “của lễ thiêng liêng” được dâng cho Đức Chúa Trời, cách một thầy tế lễ dâng một của lễ đắt giá trên bàn thờ.
Cơ-đốc nhân không còn dâng cho Đức Chúa Trời những con vật làm của lễ hy sinh nữa vì công tác của Đấng Christ trên thập tự giá đã kết thúc hệ thống của người Lê-vi (Hêb 10:1-14). Nhưng những món quà thuộc thể chúng ta dâng cho Chúa trở nên “những của lễ thuộc linh” nếu chúng được dâng trong danh Chúa Giê-xu (IPhi 2:5; Hêb 13:15-16; Phi 4:10-20).
Nhưng sự nhấn mạnh trong IICôr 9:12 vào sự kiện viêc dâng hiến của họ sẽ đáp ứng nhưng nhu cầu của các thánh đồ xứ Giu-đê. “Vì việc phát tiền bố thí dường ấy chẳng những đáp ứng sự thiếu thốn của các thánh-đồ, lại còn dư dật bởi nhiều sự tạ ơn Đức Chúa Trời” (c.12). Các tín-hữu người ngoại có thể đã viện những lý do để không ban cho. “Việc họ đói kém và nghèo khổ không phải là lỗi chúng tôi!” có thể là một trong những cớ thoái thác. Hoặc “các Hội thánh gần xứ Giu-đê hơn phải giúp dỡ họ”. Hay là “chúng tôi tin nơi sự ban cho, nhưng chúng tôi nghĩ chúng tôi nên chăm lo cho nội bộ chúng tôi trước”.
Khi một Cơ-đốc nhân bắt đầu nghĩ đến những cớ thoái thác việc ban cho, người ấy tự động rời khỏi phạm vi của ơn ban cho. Ân điển chẳng bao giờ tìm một lý do, nó chỉ tìm một cơ hội. Nếu có môt nhu cần được đáp úng, Cơ-đốc nhân được ân điển chi phối sẽ làm những gì người ấy có thể để đáp ứng nhu cầu đó.
“Vậy, đương lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho anh em chúng ta trong đức tin” (Ga 6:10). Phao-lô khuyên những Cơ-đốc nhân giàu có rằng “họ làm điều lành, giàu việc phước đức, sẵn sàng đóng góp, vui lòng chia sẻ” (ITi 6:18). Đa số chúng ta không xem mình là “giàu có”, nhưng phần còn lại trên thế giới cho là như vậy.
Tuy nhiên, chúng ta không phải là những người nhận vinh hiển chính Chúa là Đấng đã được vinh hiển (Mat 5:16). Nhiều người sẽ dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chia sẻ của chúng ta trong việc đáp ứng những nhu cầu của họ. Chúng ta không thể nghe lời cảm tạ ấy trên đất hôm nay, nhưng chúng ta sẽ nghe lời ấy trên trời khi Hội thánh được nhóm hiệp với nhau.
Ở đây có thể hữu ích để chú ý cách Phao-lô sử dụng khái niệm về “sự dư dật” khi ông viết thư này. Ông mở đầu thư bằng sự hoạn nạn dư dật phù hợp với sự yên ủi dư dật (IICôr 1:5). Ông cũng đề cập ơn dư dật (IICôr 4:15) và niềm vui mừng cùng sự rộng rãi dư dật (IICôr 8:12).
Bởi ơn dư dật của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể luôn dư dật trong mọi việc lành (IICôr 9:8). Vị sứ-đồ này đã nhìn thấy đời sống Cơ-đốc nhân như một đời sống dư dật, vì Chúa Giê-xu có thể khiến chúng ta đầy đủ cho mọi hoàn cảnh.
Sự ban cho của chúng ta phải định liệu cho mọi sự cần thiết, đừng trợ cấp cho những thứ xa xỉ. Có những nhu cầu cần được đáp ứng và những nguồn cung cấp bị giới hạn của chúng ta không nên bị lãng phí. Sự thật là nhu cầu tự nó không phải là lý do duy nhất để ban cho, vì luôn có nhiều nhu cầu hơn là những điều mà bất cứ một Cơ-đốc nhân hay Hội thánh có thể đáp ứng được. Nhưng nhu cầu là quan trọng.
Một số nhu cầu lớn hơn những nhu cầu khác, và một số nhu cầu chiến lược hơn những nhu cầu khác. Chúng ta cần thông tin chính xác cũng như sự soi sáng thuộc linh khi tìm cách đáp ứng nhiều nhu cầu đang đè nặng trên chúng ta hôm nay.
4. Sự ban cho của bạn sẽ làm vinh hiển Đức Chúa Trời (IICôr 9:13)
Chúa chúng ta đã phán “sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như cậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời” (Mat 5:16). Đây là một trong những vẻ đẹp về sự ban cho của Hội thánh: không cá nhân nào nhận lấy vinh hiển chỉ thuộc về Đức Chúa Trời.
Các tín hữu Do-thái biết ơn sẽ dâng lời cảm tạ về điều gì? Dĩ nhiên, họ sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời vì tính rộng rãi của các Hội thánh người ngoại trong việc đáp ứng nhu cầu thuộc thể và vật chất của họ. Nhưng họ cũng sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời vì sự đầu phục thuộc linh của tín hữu người ngoại, sự vâng lời của họ đối với Thánh Linh Đức Chúa Trời – Đấng đã ban cho họ sự khao khát để ban cho. Họ sẽ nói “Những người ngoại đó không chỉ rao giảng Phúc-Âm, nhưng họ cũng thực hành nữa! ”
Nhóm từ “cùng với mọi người” ở cuối câu này (IICôr 9:13) rất ý nghĩa. Các tín hữu Do-thái sẽ dâng lời tạ ơn về việc những người khác cũng đang được các Hội Thánh người ngoại giúp đỡ. Mỗi nhóm nhỏ hội chúng đã được giúp đỡ sẽ tạ ơn về sự giúp đỡ ấy và vì sự giúp đỡ này đang được ban phát cho những người khác.
Thay vì nói “Tại sao chúng ta đã không nhận được nhiều hơn, họ sẽ ngợi khen Đức Chúa Trời về việc những người khác gặp túng thiếu cũng đang được giúp đỡ.” Đó là cách ơn ban cho hành động.
Có thể ích lợi cho các Hội thánh chúng ta khi ghi ra bảng kiểm kê để thấy có ai đang dâng lời tạ ơn Đức Chúa trời vì sự vâng lời và tính rộng rãi của chúng ta hay không. Chẳng có mức độ nào của sự nhiệt tâm rao giảng Phúc-Âm hay sinh hoạt thờ phượng có thể bù đắp cho những cơ hội đã bị đánh mất trong việc chăm sóc người khác và đáp ứng nhu cầu thực tế của họ.
Phải có sự quân bình về việc rao Phúc-Âm và đáp ứng những nhu cầu thực tế nếu muốn sự sáng của chúng ta chiếu ra rạng rỡ và đều đặn. Có thể nói rằng thật khó rao giảng Phúc-Âm cho một người đói khát (xem Gia 2:15-16).
Tôi nhớ đã đọc về một Cơ-đốc nhân giàu có, mỗi ngày vào buổi nhóm cầu nguyện của gia đình, người ấy cầu nguyện cho những nhu cầu của các giáo sĩ được Hội thánh người ấy chu cấp. Buổi sáng nọ, sau khi người ấy đã kết thúc buổi cầu nguyện của gia đình, đứa con trai nhỏ của người ấy nói: “Ba ơi, nếu con có tập chi phiếu, con có thể đáp ứng những lời cầu nguyện của ba!” Thật là một cậu bé sâu sắc!
5. Sự ban cho của bạn sẽ hiệp con cái Đức Chúa Trời lại (IICôr 9:14-15)
Dĩ nhiên đây là một trong những mục đích chính đã có trong lòng Phao-lô khi ông thách thức những Hội thánh người ngoại giúp đỡ cho các tín hữu Do-thái. Những người theo chủ nghĩa luật pháp cực đoan trong Hội thánh đã cáo Phao-lô rằng ông chống đối Do-thái và chống cả luật pháp.
Những Hội thánh dân ngoại đã được dời đi khỏi “Hội thánh mẹ” tại Giê-ru-sa-lem bởi khoảng cách và nền văn hoá. Phao-lô muốn ngăn chặn một sự chia rẽ trong Hội thánh, và sự dâng hiến tiếp trợ này là một phần của chương trình phòng ngừa đó.
Trong những phương diện nào việc dâng hiến này sẽ gắn bó các hội chúng Do-thái và người ngoại mật thiết hơn? Trước hết, việc dâng hiến là một sự bày tỏ tình yêu thương. Các tín hữu người ngoại không bị ép buộc phải chia sẻ (dù Phao-lô đã thấy việc dâng hiến như một sự trả “nợ thuộc linh” (Rô 15:25-27), nhưng họ đã chia sẻ bởi ân điển Điức Chúa Trời. Lần lượt các tín hữu Do-thái sẽ cảm thấy mình gắn bó với anh em người ngoại của họ.
Mối dây liên kết thiêng liêng khác là sự cầu nguyện. “Và trong sự cầu nguyện của họ vì anh em, lòng họ sẽ trải ra cho anh em, bởi ân điển quá đỗi của Đức Chúa Trời đã ban cho anh em” (IICôr 9:14). Phải chăng các Hội thánh người ngoại đang “mua” sự cầu thay của các Hội thánh Do-thái” Chẳng hề như vậy! Phao-lô hình dung một sự bày tỏ tự giác về tình yêu thương, sự ngợi khen và sự cầu nguyện khi ông phân phát của dâng hiến trong xứ Giu-đê.
Tôi đã kinh nghiệm về việc thăm viếng nhiều khu vực truyền giáo và nghe các tín hữu ở đó nói: “Chúng tôi đang cầu nguyện cho các bạn”. Tôi nhớ đã chuyện trò với một Cơ-đốc nhân tốt bụng ở Đông Âu, người ấy nói: “Chúng tôi đang cầu nguyện cho các bạn ở Hiệp chủng quốc Hoa-kỳ, vì ở một vài phương diện các bạn trải qua một thời kỳ khó khăn hơn so với chúng tôi để làm những Cơ-đốc nhân thuộc linh”.
Khi tôi yêu cầu người ấy giải thích, người ấy cười và nói: “Các bạn có cuộc sống tương đối dễ chịu, và sự an nhàn là kẻ thù của đời sống thuộc linh. Ở Đông Âu, chúng tôi biết ai là kẻ thù của mình, và chúng tôi biết ai là bạn hữu mình. Nơi các bạn sống, thật dễ bị đánh lừa. Vâng chúng tôi đang cầu nguyện cho các bạn!”
Các Hội thánh của người Do-thái lẫn người ngoại sẽ được kéo gần Chúa Giê-xu Christ hơn “Tạ ơn Đức Chúa Trời (ân điển) vì sự ban cho của Ngài không kể xiết (không thể mô tả nổi)” (c.15). Trong Chúa Giê-xu, mọi sự kỳ thị của con người đều bị xoá bỏ, và chúng ta không còn xem người khác là người Do-thái hay người ngoại, giàu hay nghèo, người ban cho hay người nhận lãnh. “Vì trong Đức Chúa Giê-xu, anh em thảy đều làm một” (Ga 3:28).
Thật đáng buồn khi sự ban cho của chúng ta trở nên một sự thay thế cho cách sống của mình. Một chức viên Hội thánh có lần đã phàn nàn với tôi: “Tôi sẽ dâng bất cứ khoản tiền nào ông cần cho việc truyền giáo. Chỉ đừng bắt tôi lắng nghe một truyền giáo nào nói cả! ”
Khi một Cơ-đốc nhân thực hành ơn ban cho, tiền bạc người ấy không phải là một sự thay thế cho mối quan tâm hay sự hầu việc của người ấy. Người ấy trước hết dâng mình cho chúa (IICôr 8:5) và sau đó ban cho những gì mình có.
Của dâng của người ấy là một biểu tượng về sự đầu phục của tấm lòng mình, như đúng nghĩa của nó. Bạn không thể tách rời của dâng và người dâng khi sự ban cho của bạn được thôi thúc bởi ân điển Đức Chúa Trời.
Tôi đề nghị bạn đọc lại IICôr 8:1-24; IICôr 9:1-15 và hãy chú ý sự nhấn mạnh về ân điển Đức Chúa Trời. Nếu Hội thánh và những chức vụ khác của chúng ta quay lại với ơn ban cho thì, sẽ có ít hơn yêu cầu dâng hiến với sự thúc ép cao, ít hơn những mánh lới tuyên truyền để gây quỹ, và ít hơn những lời phàn nàn hơn từ phía con cái Đức Chúa Trời. Thay vào đó, sẽ có nhiều tiền sẵn sàng cho những chức vụ thật sự ngợi khen ân điển Đức Chúa Trời. Và tôi nghĩ rằng những người chưa được cứu trên thế giới sẽ giật mình chú ý!
Bạn và tôi đã được cứu vì Đức Chúa Trời đã tin nơi ơn ban cho.
Chúng ta tin nơi ơn ban cho ở mức độ ra sao?
9. NHỮNG HIỂU LẦM TRONG CHỨC VỤ (IICôr 10:1-18)
Mỗi khi nhận một lá thư phê bình của một độc giả hay thính giả đài phát thanh, tôi thường lưu nó trong một hồ sơ đặc biệt cho đến khi tôi cả thấy mình thật sự sẵn sàng để trả lời thư. Trong vài trường hợp, tôi đã trả lời thư quá nhanh. Và tôi hối hận về điều đó. Bằng cách chờ đợi, tôi cho mình thời gian suy nghĩ và cầu nguyện, để “tìm hiểu ẩn ý” và để chuẩn bị một giải đáp đem lại ích lợi nhiều nhất và ít tai hại nhất.
Thánh Linh đã hướng dẫn Phao-lô sử dụng một cách tiếp cận khôn ngoan khi ông viết thư cho các tín hữu Cô-rinh-tô. Ông muốn viết cho một Hội thánh bị chia rẽ (ICôr 1:11) một Hội thánh chống đối quyền hạn của ông, và là một Hội thánh bị các giáo sư giả quyến dụ.
Vì vậy, trước hết ông giải thích chức vụ mình hầu cho họ không còn nghi ngờ sự chân thật của ông. Sau đó ông khích lệ họ dự phần dâng hiến vì ông biết rằng thách thức này sẽ giúp họ tăng trưởng trong đời sống thuộc linh của họ. Ơn ban cho và ơn sống phải đi đôi với nhau.
Giờ đây, trong phân đoạn cuối của thư tín, Phao-lô thách thức những kẻ chống đối trong Hội thánh – kể cả những giáo sư giả – và bênh vực chức sứ-đồ của mình.Khi đọc các chương 10-13, bạn sẽ thấy Phao-lô ám chỉ trực tiếp những kẻ tố cáo ông (ICôr 10:7,10-12; ICôr 11:4,20-23 chẳng hạn) và đáp lại những lời buộc tội của họ.
Ông không giấu sự thật rằng những người theo Do Thái giáo trong Hội thánh là những người hầu việc Sa-tan, kẻ muốn phá hoại công việc của Đức Chúa Trời (ICôr 11:12-15).
Phao-lô đã sử dụng một từ 20 lần trong các chương 10-13, từ được dịch là “khoe mình”hay “hãnh diện”. Khi đọc các chương này trước, bạn có cảm tưởng Phao-lô đang khoe khoang về chính mình, nhưng trường hợp này không phải thế. Phao-lô đã khoe mình trong Đức Chúa Giê-xu” chớ không phải trong bản thân ông hay trong những thành tích của ông (Rô 511; Ga 6:14; Phi 3:3). Ông đã khoe với người khác về các tín hữu Cô-rinh-tô, nhưng dường như sự khoe mình của ông có thể vô ích (IICôr 7:4,14; IICôr 8:24).
Hãy nhớ rằng Phao-lô không bênh vực ông cách cá nhân ông muốn bênh vực chức vụ và quyền sứ đồ của mình. Ông không có liên quan đến “một cuộc tranh đua cá tính”với những người hầu việc khác. Kẻ thù của ông không ngại tố cáo ông cách giả dối, cũng không ngại đề cao bản thân họ (IICôr 11:12). Chính thái độ trần tục của các tín hữu Cô-rinh-tô đã buộc Phao-lô phải bênh vực cho mình bằng cách nhắc họ nhớ lại đời sống và chức vụ ông. Phao-lô chưa bao giờ ngần ngại nào về Chúa Giê-xu, nhưng ông đã không nói về bản thân, trừ khi có một lý do chính đáng để làm vậy.
Sau cùng, khi Phao-lô thật sự khoe mình, ông đã giới hạn bản thân ở chức vụ Đức Chúa Trời giao phó cho ông (IICôr 10:13) và rồi ông nhấn mạnh những hoạn nạn của ông không phải thành công của ông. Khi bức thư này được đọc trong hội chúng Cô-rinh-tô, hẳn nó đã đem sự xấu hổ cho tấm lòng của những ai chỉ trích Phao-lô – và chắc đã khiến những người theo Do-thái giáo có vẻ dại dột.
-Bước đầu tiên của Phao-lô trong việc bênh vực chức vụ ông là sửa chữa những hiểu lầm hiện hữu trong tâm trí của nhiều người bằng cách đề cập đến việc làm của ông. Họ đã không hiểu 3 lãnh vực quan trọng trong chức vụ.
1. Cách tiến hành cuộc chiến thuộc linh (IICôr 10:1-6)
(1). Sự buộc tội (IICôr 10:1-2) không khó tìm thấy. Những kẻ chống đối trong Hội thánh (do những người Do-thái cầm đầu)đã nói rằng Phao-lô thật can đảm khi viết các thư tín từ xa, nhưng rất nhút nhát thậm chí yếu đuối khi ở cùng các tín hữu Cô-rinh-tô (c.9-11).
Dĩ nhiên những người Do-thái giáo luôn độc đoán trong thái độ của họ – và dân chúng đã yêu mến họ (IICôr 11:20). Thái độ sống “không nhất quán” của Phao-lô giống cách giải quyết “vâng và không” đối với việc thực hiện lời hứa (IICôr 1:15-20).
Khi Phao-lô thành lập Hội thánh tại Cô-rinh-tô, mục đích của ông nhằm tăng trưởng Đấng Christ chớ không phải chính ông (ICôr 2:1-5). Cơ-đốc nhân thường tăng trưởng theo cách họ được sinh ra. Nếu được sinh ra trong một không khí của sự lãnh đạo độc đoán, họ tăng trưởng nhờ vào sự khôn ngoan và năng lực con người.
Nếu được sinh ra trong một không khí của sự khiêm nhường và tình yêu thương, họ học cách nhờ cậy Chúa. Phao-lô muốn những người qui đạo của ông tin cậy Chúa, chớ không phải tôi tớ vì vậy ông cố ý “giảm nhẹ” quyền hạn và khả năng của riêng mình.
Các tín hữu Cô-rinh-tô thiếu khôn ngoan biết bao, ngay cả khi Phao-lô đã dạy dỗ họ. Họ đã không nhận biết rằng linh lực thật ở trong “sự nhu mì và hiền lành” (IICôr 10:1), không phải trong “cách cư xử kiêu căng hùng hổ”.
Chính thái độ của Phao-lô trong những câu mở đầu này đã đánh bật đối phương ông. (Thật ra, cách ông sử dụng tên riêng của ông rất ý nghĩa vì Phao-lô nghĩa là “nhỏ”).
Nếu Phao-lô là con người yếu đuối, vậy Chúa Giê-xu cũng thế vì Chúa Giê-xu đã bày tỏ sự nhu mì và hiền lành (Mat 11:29). Tuy nhiên, Chúa chúng ta cũng có thể nghiêm khắc và thậm chí giận dữ trong trường hợp cần thiết (Mat 15:1-2; Mat 23:13-33; Mac 11:15-17; Gi 2:13-16). Phao-lô đã cảnh cáo họ cách yêu thương “xin đừng buộc tôi đến và cho thấy tôi dạn dĩ thế nào”
(2). Sự trả lời (IICôr 10:3-6) bày tỏ mọi điều về trận chiến thuộc linh. Vì các tín hữu Cô-rinh-tô (do các giáo sư giả dẫn dụ) đã xét đoán chức vụ của Phao-lô bởi bề ngoài, họ hoàn toàn không trông thấy quyền năng hiện diện ở đó. Họ đánh giá sự việc “theo xác thịt” (c.2) chớ không theo Thánh Linh. Giống như một số “nhân vật tôn giáo vĩ đại” ngày nay, những người Do-thái gây ấn tượng cho dân chúng bằng những khả năng mạnh mẽ, năng lực hùng biện của họ và “những thư gởi gắm” từ các lãnh đạo Hội thánh.
Phao-lô đã sử dụng một phương cách tiếp cận khác vì dù là con người như bất cứ người nào khác, ông đã không nhờ cậy nơi loài người nhưng nhờ cậy nơi những điều thiêng liêng, những vũ khí thuộc linh do Chúa cung cấp. Trận chiến của ông không theo xác thịt, vì ông không chiến đấu với thịt và huyết (Eph 6:10). Bạn không thể tham gia những trận chiến thuộc linh với những vũ khí thuộc thể.
Từ “chiến tranh” trong c.4 nghĩa là “chiến dịch”. Phao-lô không đơn giản lào vào một cuộc chạm trán nhỏ ở Cô-rinh-tô sự tấn công của kẻ thù ở đó là một phần trong một chiến dịch rộng lớn của Sa-tan. Các quyền của âm phủ vẫn tìm cách phá huỷ công việc của Đức Chúa Trời (Mat 16:18) và quan trọng là chúng ta đừng nhường đất cho kẻ thù, dù là một nhà thờ!
Có những bức tường cố thủ trong lòng người, và những bức tường này (giống như những bức tường thành Giê-ri-cô) phải bị phá đổ. “Những bức tuờng trí tuệ” này là gì? Là những lập luận đối lập với chân lý của lời Đức Chúa Trời. Sự kiêu ngạo của trí thông minh đã đề cao chính nó. Phao-lô không muốn công kích trí thông minh, nhưng công kích thuyết duy lý trí, thái độ kiêu căng khiến người ta nghĩ họ biết nhiều hơn thực tế (Rô 12:16). Phao-lô đã đối diện với “sự khôn ngoan của loài người” khi ông thành lập Hội thánh (ICôr 1:18) và sự khôn ngoan ấy đã lộ diện lần nữa với sự xuất hiện của những người theo Do-thái giáo.
Thái độ khiêm nhường của Phao-lô thật sự là một trong những vũ khí mạnh nhất của ông, vì sự kiêu ngạo hoành hành trong tay Sa-tan. Con Đức Chúa Trời nhu mì đã có quyền lực cao hơn nhiều so với Phi-lát (Gi 19:11), và Ngài đã chứng minh nó.Phao-lô đã sử dụng những vũ khí thuộc linh để đánh bại sự chống đối – sự cầu nguyện, Lời Đức Chúa Trời, tình yêu thương, quyền năng của Thánh Linh hành động trong đời sống ông. Ông không cậy nơi cá tính, khả năng con người hay thậm chí quyền hạn ông có với tư cách sứ đồ. Tuy nhiên, ông đã sẵn sàng kỷ luật những người phạm lỗi nếu cần, một khi hội chúng đã đầu phục Chúa.
Nhiều Cơ-đốc nhân ngày nay không nhận biết rằng Hội Thánh có liên quan trong cuộc chiến, và những ai hiểu tính nghiêm trọng của trận chiến Cơ-đốc không phải lúc nào cũng biết cách tham gia chiến trận. Họ cố sử dụng những phương pháp loài người để đánh bại những thế lực của ma quỷ, và những phương pháp này không tránh khỏi thất bại.
Khi Giô-suê và đội quân của ông diễn hành quanh thành Giê-ri-cô một tuần, những người chứng kiến cho rằng họ đã mất trí. Khi dân Do-thái tin cậy Đức Chúa Trời và vâng theo các luật lệ, họ đã phá sập những bức tường cao và đánh bại kẻ thù (Gios 6:1-20)
Khi làm mục sư ở Chicago, tôi đã gặp 3 người bạn mục sư hằng tuần, và chúng tôi hiệp nhau trong “cuộc chiến cầu nguyện”. Chúng tôi đã nắm giữ lời hứa của Đức Chúa Trời để xua tan tư tưởng sai lầm đang ngăn trở con người đầu phục Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đã làm những việc lớn trong đời sống của nhiều người được chúng tôi cầu thay. Một khi những bức tường trong tâm trí đã bị phá đổ, cửa lòng có thể được mở ra.
2. Cách sử dụng quyền năng thuộc linh (IICôr 10:7-11)
Một trong những bài học khó nhất các môn-đệ Chúa đã phải học đó là: trong Vương quốc Đức Chúa Trời, địa vị và thế lực không phải là bằng chứng của quyền hạn.
Chúa Giê-xu đã cảnh cáo các môn-đệ Ngài đừng lấy sự lãnh đạo của dân ngoại làm kiểu mẫu cho sự lãnh đạo của mình vì dân ngoại đó thích “ra oai” với người khác và làm ra vẻ quan trọng (Mac 10:35-45). Mẫu mực chúng ta phải noi theo là mẫu mực của Chúa Giê-xu Đấng đã đến như một đầy tớ và đã chăm sóc cho người khác. Phao-lô đã noi theo mẫu mực ấy.
Nhưng các tín hữu Cô-rinh-tô đã không có ý thức thuộc linh đủ để nhận biết những gì Phao-lô đang làm. Họ so sánh sự nhu mì của ông với “sức mạnh về cá tính” của những người theo Do-thái giáo, và họ kết luận rằng Phao-lô chẳng có quyền hạn nào cả. Chắc chắn, ông đã viết những bức thư kỳ diệu nhưng hình dáng thuộc thể của ông yếu đuối, và lời nói ông “không gây ấn tượng”. Họ đã xét đoán bằng hình dáng bên ngoài chớ không thể hiện sự sáng suốt về thuộc linh.
Mấy người bạn và tôi có lần đã nghe một người giảng mà cả bài giảng của người ấy được soạn bởi “những lời huyênh hoang” thỉnh thoảng có trích dẫn từ Kinh Thánh (thường bị tách khỏi văn cảnh) và nhiều sự ám chỉ về những biến cố trên thế giới cùng “những dấu hiệu của các thời kỳ”.
Khi chúng tôi rời buổi nhóm, một người bạn của tôi nói: “IVua 19:11 mô tả quá trình đó một cách trọn vẹn: Chúa không có trong trận gió”. Vậy mà mọi người quanh chúng tôi nói rằng đó là “bài giảng tuyệt vời nhất” họ từng được nghe. Tôi hết sức nghi ngờ rằng 10 phút sau họ có thể nhớ lại một điều cụ thể mà người giảng luận đã nói.
Phao-lô không chối rằng ông có quyền hạn, nhưng ông đã không thực hiện quyền hạn ấy bằng một thái độ thiếu thuộc linh. Mục đích cho quyền hạn của ông là để gây dựng họ, không phải để phá đổ họ và nó đòi hỏi kỹ năng cao hơn để gây dựng hơn là để phá đổ. Hơn nữa, cần có tình yêu thương để gây dựng (ICôr 8:1) và các tín hữu hiểu tình yêu thương cùng sự nhu mì của Phao-lô như một dấu hiệu của sự yếu đuối.
Sự khác biệt giữa Phao-lô và những người theo Do-thái giáo chính là: Phao-lô đã sử dụng quyền hạn của ông để gây dựng Hội thánh, trong khi những người theo Do-thái giáo sử dụng Hội thánh để gây dựng quyền hạn của họ.
Trong nhiều năm của chức vụ mục sư và lưu hành, tôi chưa bao giờ khỏi ngạc nhiên về cách một số Hội thánh đối xử với các mục sư của họ. Nếu một người bày tỏ tình yêu và sự khiêm nhường thật, họ chống đối quyền lãnh đạo của người ấy và làm tan nát lòng người ấy. Mục sư kế tiếp sẽ là một “nhà độc tài”, người “điều hành Hội thánh” và ông ta đạt được ngay những gì mình muốn. Nhiều người yêu mến ông ta và khoe khoang về ông ta! Chúa chúng ta đã bị đối xử như vậy, nên có lẽ chúng ta không nên ngạc nhiên.
Những kẻ chống đối trong Hội thánh đã cáo Phao-lô rằng ông không phải là một sứ-đồ thật vì nếu là một sứ đồ thật, ông sẽ bày tỏ bằng cách sử dụng quyền hạn của mình. Mặt khác nếu Phao-lô đã “cư xử cách kiêu căng” có lẽ họ đã nhận biết Phao-lô cách đó. Dù Phao-lô cư xử cách nào, họ cũng tìm cách kết tội ông. Đây là điều luôn xảy ra khi các thuộc viên Hội thánh không có ý thức thuộc linh, nhưng đánh giá chức vụ theo một quan điểm trần tục.
Nhưng sự buộc tội của họ đã đem lại kết quả ngược với điều họ mong đợi. Nếu Phao-lô không phải là một sứ đồ, vậy ông là một kẻ giả danh, thậm chí không phải là một Cơ-đốc nhân. Nhưng nếu thật như vậy, thì Hội thánh tại Cô-rinh-tô không phải là một Hội Thánh thật. Phao-lô đã nói rõ rằng không ai có thể phân cách chức vụ ông với đời sống riêng của ông (IICôr 1:12-14). Nếu ông là một kẻ lừa dối, vậy các tín hữu Cô-rinh-tô là những người bị lừa dối!
Phao-lô cũng định rõ không có sự mâu thuẫn nào giữa việc giảng dạy và viết thư của ông. Ông tỏ ra dạn dĩ qua các thư tín vì đó là điều cần thiết đúng lúc. Ông có lẽ đã vui mừng biết bao khi có thể viết thư bằng sự dịu dàng. Nhưng điều đó có lẽ sẽ không đạt được mục đích mong muốn. Và, thậm chí khi ông đã viết những bức thư “nặng nề và uy quyền”, ông vẫn viết từ một tấm lòng yêu thương. Ong muốn nói: “Anh em nên sẵn sàng cho cuộc viếng thăm sắp tới của tôi thì hơn, vì nếu cần, tôi sẽ chứng tỏ với anh em tôi có thể mạnh mẽ ra sao”.
Cách một Cơ-đốc nhân sử dụng quyền hạn là một chứng cớ về tính cách và sự trưởng thành thuộc linh của người ấy. Một người không trưởng thành “vênh váo” khi người ấy sử dụng quyền hạn mình, nhưng một người trưởng thành tăng trưởng”trong việc sử dụng quyền hạn, và những người khác cũng tăng trưởng với người ấy.
Giống như bậc cha mẹ khôn ngoan, vị mục sư khôn ngoan này để hành động bằng quyền hạn đã định. Cần có năng lực nhiều hơn để chờ đợi hơn là để tấn công. Một người trưởng thành không sử dụng quyền hành để đòi hỏi sự tôn trọng, nhưng để kiềm chế sự tôn trọng. Những lãnh đạo trưởng thành chịu khổ khi họ chờ đợi để hành động, trong khi những lãnh đạo không trưởng thành hành động nông nổi và làm những người khác đau khổ.
Các giáo sư giả cậy nơi “những thư gửi gắm” để có quyền hạn nhưng Phao-lô đã có một nhiệm vụ thiêng liêng từ trời. Đời sống mà ông đã sống và công việc ông đã làm là “những uỷ nhiệm thư” đầy đủ, vì đó là chứng cớ bàn tay Đức Chúa Trời đã đặt trên đời sống ông. Phao-lô đã có thể can đảm viết “từ nay về sau, xin đừng để ai làm khó cho tôi, vì trong mình tôi có đốt dấu vết của Đức Chúa Giê-xu” (Ga 6:17).
Khi vợ tôi và tôi thi hành chức vụ ở Anh quốc, chúng tôi đã cố gắng sắp xếp giờ giấc để có thể thăm Luân-đôn. Chúng tôi đặc biệt thích mua sắm ở cửa hiệu Selfridge và cửa hiệu Harrod, là 2 cửa hàng bách hoá đứng đầu Luân-đôn. H. Gordon Selfridge người đã gây dựng cửa hàng lớn mang tên mình, luôn tuyên bố rằng ông là một người thành công vì ông là một người lãnh đạo chớ không phải một “ông chủ”.
Người lãnh đạo nói “Chúng ta hãy đi nào!” trong khi ông chủ nói “Đi!”
Ông chủ biết cách công việc được thực hiện, người lãnh đạo cho biết cách công việc được thực hiện. Ông chủ truyền sự sợ hãi, người lãnh đạo truyền nhiệt tình dựa trên sự tôn trọng và thiện ý. Ong chủ qui trách nhiệm về sự thất bại, trong khi người lãnh đạo thật sửa chữa thất bại.
Ông chủ cứ nói “tôi” còn người lãnh đạo nói “chúng ta”. Triết lý về quản lý của ông Selfridge chắc hẳn phù hợp với triết lý về sự lãnh đạo của Phao-lô.
3. Cách đánh giá chức vụ thuộc linh (IICôr 10:12-18)
Tôi cho rằng có nhiều vấn đề phát sinh do những người “đánh giá chức vụ” hơn là do bất cứ hoạt động nào khác trong Hội thánh. Nếu công việc của Hội thánh là công việc của Đức Chúa Trời, và nếu công việc của Đức Chúa Trời là một phép lạ, chúng ta bắt đầu đánh giá một phép lạ ra sao? Trong sự xem xét riêng về 7 Hội thánh được nêu tên ở sách Kh 2:8-11; Kh 3:14-22. Chúa Giê-xu đã đánh giá họ cách rất khác biệt với cách họ tự đánh giá mình. Với Hội thánh nghĩ rằng mình rất nghèo nàn, Ngài lại cho là giàu có, còn Hội thánh khoe rằng mình có nhiều của cải thì Ngài lại công bố là nghèo.
Một số người đánh giá chức vụ chỉ bởi sự thống kê. Trong khi đúng là Hội thánh đầu tiên đã chú ý những con số (Công 2:41; Công 4:4) cũng đúng là việc gia nhập Hội thánh thời đó là điều khó khăn (và nguy hiểm) hơn nhiều (Công 5:13).
Cách đây vài năm, một trong những giáo phái lớn của Mỹ có chủ đề “một triệu nữa trong năm 64, và mỗi người 1 phần 10! ” Tôi đã nghe một trong những mục sư hàng đầu của họ bình luận “nếu chúng ta kiếm được một triệu nữa giống như một triệu trước, Đức Chúa Trời giúp chúng ta”. Số lượng không phải là sự đảm bảo của chất lượng.
1. Sự đánh giá sai lầm (IICôr 10:12).
Những người theo Do-thái giáo rất thạo việc đánh giá chức vụ họ, vì một tôn giáo của những hoạt động bên ngoài thật dễ đánh giá hơn một tôn giáo của sự biến đổi bên trong. Người sống theo luật pháp có thể đánh giá những điều người ấy làm và những điều người ấy không làm, nhưng Chúa là Đấng duy nhất có thể nhìn thấy sự tăng trưởng thuộc linh trong lòng một người tin nhận. Đôi khi những ai đang tăng trưởng nhiều nhất cảm thấy như mình kém cỏi hơn hết.
Trong một ý nghĩa nào đó, những người theo Do-thái giáo đã thuộc về một “nhóm người hay tâng bốc lẫn nhau”, đã lập những tiêu chuẩn riêng của mình và đánh giá mọi người theo những tiêu chuẩn ấy. Dĩ nhiên, những ai thuộc nhóm này đều thành công những ai ngoại cuộc đều thất bại. Phao-lô là một trong những ngoại cuộc, nên ông đã bị xem là thất bại. Tiếc thay, họ đã không đánh giá chính mình bởi Chúa Giê-xu (Eph 4:12-16). Nếu họ đã làm vậy, có lẽ nó đã tạo ra một sự khác biệt.
2. Sự đánh giá đúng (IICôr 10:13-18).
Phao-lô gợi ý 3 câu hỏi chúng ta có thể hỏi chính mình khi chúng ta tìm cách đánh giá chức vụ của chúng ta bởi ý muốn Đức Chúa Trời.
-Có phải tôi đang hiện diện nơi Đức Chúa Trời muốn? (c.13-14). Đức Chúa Trời đã “phân công một lãnh vực” trong đó Phao-lô phải làm việc: ông là sứ đồ cho dân ngoại (Công 9:15; Công 22:21; Eph 3:1-21). Ông cũng phải đến nơi không có sứ-đồ nào khác từng thi hành chức vụ, ông phải là một “nhà truyền giáo tiên phong” cho dân ngoại.
Phao-lô đã sử dụng một chút “sự mỉa mai thánh” khi bênh vực mình. “Địa phận Đức Chúa Trời chỉ định cho tôi bao gồm cả anh em, những tín hữu Cô-rinh-tô” (IICôr 10:13). Không phải những người Do-thái giáo đã đến thành Cô-rinh-tô mang theo Phúc-Âm. Giống như một số hệ phái ngày nay, họ có mặt chỉ sau khi Hộithánh đã được thiết lập (Rô 15:15-22).
Các Hội thánh và những người thi hành chức vụ không tranh cạnh nhau họ thi đua với bản thân Đức Chúa Trời sẽ không đánh giá chúng ta trên cơ sở những ân tứ và cơ hội Ngài đã ban cho Charles Spurgeon hay Billy Sunday. Ngài sẽ đánh giá công việc của tôi bởi những gì Ngài đã giao phó cho tôi. Đức Chúa Trời đòi hỏi sự trung tín trên hết mọi sự khác (ICôr 4:2).
Có điều gì đó gây kinh sợ về việc tham dự một hội đồng các mục sư hoặc một hội nghị giáo phái, bởi vì những người trong chương trình thường là những “người có vẻ nhiều khả năng thành công” với lý lịch tốt đẹp nhất. Những mục sư trẻ và những người già hơn trong những nơi chật chội thường về nhà mang cảm giác tội lỗi, vì công việc trung tín của họ dường như không sinh nhiều quả.
Một số những người nản lòng này lúc bấy giờ cố thử mọi chương trình và việc xúc tiến, chỉ để gặt thêm sự thất vọng, và rồi họ tính đến chuyện từ bỏ chức vụ. Phải chi họ nhận biết rằng Đức Chúa Trời đánh giá chức vụ họ trên cơ sở địa phận Ngài đã đặt để họ, chớ không dựa trên những điều đang diễn biến ở thành phố nào khác, có lẽ điều đó sẽ khích lệ họ ở lại với công việc và giữ lòng trung tín.
-Có phải Đức Chúa Trời được vinh hiển bởi chức vụ của tôi? (IICôr 10:15-17). Đây là sự chế giễu khác nhằm vào những người theo Do-thái giáo, những kẻ đã đánh cắp người qui đạo của người khác và tuyên bố họ thuộc về mình. Phao-lô không khoe khoang về công việc của người khác, cũng không xâm phạm địa phận của người khác. Bất cứ việc gì ông đã làm, Đức Chúa Trời làm qua ông, và chỉ một mình Đức Chúa Trời đáng được vinh hiển.
Tôi có lần lắng nghe một người thuyết trình về cách gây dựng một Trường Chúa Nhật lớn. Mọi điều trong bài thuyết trình đúng đắn và chắc chắn đã được thực hiện trong các giáo đoàn lớn ở Hiệp Chủng quốc Hoa-kỳ. Vấn đề duy nhất đó là con người chưa bao giờ tự mình gây dựng một Trường Chúa Nhật lớn! Ông này đã đi thăm nhiều giáo đoàn lớn, phỏng vấn các mục sư cùng những thuộc viên của ban tham mưu và phát triển bài thuyết trình của mình. Sau khi ông ta kết thúc bài thuyết trình, người ta dồn về phía ông để đặt câu hỏi và xin chữ ký. Tôi tình cờ đứng gần một mục sư là người đã xây dựng một trong những nhà thờ đẹp nhất và một trong những nhà thờ lớn nhất ở Mỹ.
Tôi nói với ông: “Những người đó phải nói chuyện với ông. Ông đã làm việc ấy và ông biết nhiều về công việc Trường Chúa Nhật hơn ông ta!”
Bạn tôi nói với một nụ cười ý nhị: “Hãy để ông ta tự mãn. Chúng ta đều đang làm cùng một công việc, và tất cả những gì đáng quan tâm đó là Đức Chúa Trời được vinh hiển.”
Phao-lô đã thêm vào chút sự “mỉa mai thánh” khác khi ông cho các tín hữu Cô-rinh-tô biết rằng điều duy nhất giữ ông không đến “những vùng xa hơn” họ chính là sự thiếu đức tin của họ. Nếu họ vâng phục quyền lãnh đạo của ông và làm theo lời Chúa, họ đã có thể đến với những linh hồn hư mất khác nhưng họ đã tạo ra quá nhiều vấn đề cho ông, khiến ông phải sử dụng thời gian của việc truyền giảng Phúc-Âm trong lãnh vực truyền giáo để giải quyết những vấn đề trong Hội thánh. Ông muốn nói: “Lẽ ra tôi sẽ có những con số thống kê tốt hơn để báo cáo, nhưng anh em đã ngăn trở tôi.”
Phao-lô trích dẫn Gie 9:24 trong câu 17, một lời tuyên bố cũng được ông trích dẫn trong ICôr 1:31. Các tín hữu Cô-rinh-tô có xu hướng tự hào về con người, đặc biệt giờ đây những người theo Do-thái giáo đã tiếp quản Hội thánh. Khi các tín hữu Cô-rinh-tô nghe “những báo cáo” về điều các giáo sư này đã làm, và khi họ nhìn thấy những “thư gởi gắm” được những người này mang theo, Hội thánh hoàn toàn bị họ mê hoặc. Như một kết quả, Phao-lô và chức vụ của ông có vẻ nhỏ bé và không thành công.
Nhưng trắc nghiệm sau cùng không phải là khi những báo cáo được công bố trong cuộc họp hằng năm. Sự trắc nghiệm sau cùng đến tại Tòa Án của Đấng Christ, “bấy giờ ai nấy sẽ lãnh sự ngợi khen của Đức Chúa Trời” (ICôr 4:5). Nếu con người nhận vinh hiển, vậy Đức Chúa Trời không thể được vinh hiển. “Ta là Chúa: ấy là danh ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển ta cho một đấng nào khác” (Es 42:8).
Điều này không có ý rằng những người thi hành chức vụ nổi tiếng với những công việc tiến triển đang cướp sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta tăng trưởng và sinh “nhiều quả”, chúng ta đem vinh hiển cho Đức Chúa Cha (Gi 15:1-8). Nhưng chúng ta phải cẩn thận là chính “trái” sinh từ đời sống thuộc linh chớ không phải “những kết quả” xuất hiện khi chúng ta lôi kéo con người và tạo ra những con số thống kê.
-Chúa có thể khen ngợi công việc của tôi không? (IICôr 10:18). Chúng ta có thể ngợi khen bản thân hoặc bị người khác lên án, và vẫn không xứng đáng được sự ngợi khen của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ưng chịu công việc của chúng ta ra sao? Bằng cách trắc nghiệm nó. Từ “ưng chịu” trong c.18 nghĩa là “ưng chịu bằng cách trắc nghiệm”.
Có môt sự trắc nghiệm trong tương lai tại Tòa Án của Đấng Christ (ICôr 3:10), nhưng cũng có một trắc nghiệm hiện tại về công việc chúng ta làm. Đức Chúa Trời cho phép những khó khăn xảy đến với các Hội Thánh địa phương hầu cho công việc có thể được trắc nghiệm và được ưng chịu.
Những năm qua, tôi đã chứng kiến các chức vụ được trắc nghiệm bởi những mất mát về tài chính, sự xâm lấn của giáo lý sai lạc, sự nổi lên của những lãnh đạo kiêu ngạo muốn “điều hành Hội thánh”, và cơn thách thức về sự đổi thay. Mội số Hội thánh sa sút và hầu như đã chết, vì công việc không thuộc linh. Những chức vụ khác đã tiến triển vì những thử thách và trở nên thanh sạch hơn, mạnh mẽ hơn.
Và qua mọi sự, Đức Chúa Trời được vinh hiển.
Chắc chắn những chức vụ của chúng ta phải được ghi lại và công bố những báo cáo, nhưng chúng ta đừng rơi vào “cái bẫy của sự thống kê” và nghĩ rằng những con số ấy là sự đo đạc duy nhất của chức vụ. Mỗi hoàn cảnh là độc nhất vô nhị, và không có chức vụ nào thật có thể được đánh giá trên cơ sở của chức vụ khác.Điều quan trọng là chúng ta hiện diện nơi Đức Chúa Trời muốn, làm điều Đức Chúa Trời muốn ta làm để Ngài có thể được vinh hiển.
Động cơ là một phần sự đo đạc của Đức Chúa Trời về công việc chúng ta cũng giống như sự tăng trưởng. Nếu tìm cách quy vinh hiển và làm đẹp lòng chỉ một mình Đức Chúa Trời, và nếu không sợ sự đánh giá của Ngài về tấm lòng và đời sống của mình, vậy chúng ta không cần phải sợ những đánh giá của con người hay những sự phê bình của họ.
“Nhưng ai khoe mình, hãy kheo mình trong Chúa” (c.17)
10. CHA BIẾT RÕ NHẤT (IICôr 11:1-33)
Nếu là người thi hành chức vụ Cơ-đốc, bạn sẽ thuyết phục mọi người trong hội chúng của bạn thế nào để họ tin rằng bạn thật sự yêu thương họ.
Đây là vấn đề Phao-lô đã đối diện khi viết thư tín này. Nếu ông nhắc dân chúng về công việc ôngđã làm giữa họ, họ chỉ sẽ trả lời: “Phao-lô đang khoe khoang!” Nếu ông không nói gì về chức vụ mình tại Cô-rinh-tô, những người Do-thái giáo sẽ nói: “Hãy xem đi, chúng tôi đã cho anh em biết Phao-lô chẳng hoàn thành việc gì cả!”
Vậy Phao-lô đã làm gì? Ông đã được Thánh Linh Đức Chúa Trời dẫn dắt để sử dụng một hình ảnh đẹp đẽ – một sự so sánh – chắc chắn đụng đến tấm lòng các tín hữu tại Cô-rinh-tô. Ông so mình với một “người cha thuộc linh” chăm sóc gia đình mình. Ông đã sử dụng hình ảnh này trước đó để nhắc các tín hữu Cô-rinh-tô rằng như một “người cha” ông đã sinh ra họ nhờ Phúc-Âm và ông đã có thể kỷ luật họ nếu ông cảm thấy cần thiết (ICôr 4:14-21). Họ là con cái thuộc linh yêu dấu của ông, và ông muốn điều tốt nhất cho họ.
Phao-lô đã cho họ 3 chứng cớ về tình yêu của người cha mà ông dành cho họ.
1. Sự ghen tuông của ông vì Hội thánh (IICôr 11:1-6,13-15)
Tình yêu thật chẳng bao giờ đố kỵ, nhưng nó có quyền ghen tuông đối với những ai được yêu. Người chồng ghen với vợ mình, bực tức cách thích đáng và chống lại bất cứ sự kình địch nào đe dọa tình yêu của họ đối với nhau. Một người ái quốc thật có mọi quyền ghen với tự do mình và sẽ chiến đấu để bảo vệ nó. Tương tự như vậy, người cha (hay người mẹ) ghen với con cái mình và tìm cách bảo vệ chúng khỏi bất cứ điều gì sẽ làm hại chúng.
Bức tranh ở đây là bức tranh một người cha yêu thương có một đứa con gái đã hứa hôn. Ông đã thấy, việc giữ cho đứa con gái tinh sạch là đặc quyền và trách hiệm của ông, hầu cho ông có thể trình diện con gái cho chồng cô với niềm vui mừng chớ không phải sự buồn rầu. Phao-lô nhìn thấy Hội thánh địa phương như một cô dâu, đã hứa gả cho Chúa Giê-xu (Eph 5:22; Rô 7:4). Cuộc hôn nhân ấy sẽ không xảy ra cho đến khi Chúa Giê-xu đến rước cô dâu của Ngài (Kh 19:1-9). Trong khi đó, Hội thánh – nghĩa là mỗi Cơ-đốc nhân – phải giữ mình tinh sạch khi sửa soạn gặp Người yêu dấu.
Khi ấy, hiểm hoạ là về sự không chung thuỷ đối với vị hôn thê của nàng. Người đàn bà đã hứa hôn mắc nợ tình yêu và sự trung thành với một người duy nhất – chồng hứa của nàng. Nếu chung chạ với người đàn ông khác, nàng phạm tội không chung thuỷ – Từ được dịch là “lòng thật thà” trong IICôr 11:3 có nghĩa “tính chân thành, giản dị của sự tận tụy”. Một tấm lòng chia rẽ dẫn đến một đời sống ô uế và một mối liên hệ bị đổ vỡ”.
Hình ảnh về tình yêu và hôn nhân cùng nhu cầu cho sự trung thành thường được sử dụng trong Kinh Thánh. Tiên tri Giê-rê-mi nhìn thấy dân Giu-đa đánh mất tình yêu của họ đối với Đức Chúa Trời, và ông đã cảnh cáo họ: “Đức Giê-hô-va phán như vậy:Ta còn nhớ về ngươi, lòng nhân từ của ngươi lúc đang thơ, tình yêu mến trong khi ngươi mới kết bạn” (Gie 2:2).
Dân tộc Do-thái đã đánh mất “tình trăng mật” của mình và phạm tội thờ lạy thần tượng. Chúa Giê-xu đã dùng hình ảnh tương tự khi Ngài cảnh cáo Hội thánh tại Ê-phê-sô “Nhưng điều ta trách ngươi, là ngươi đã bỏ lòng kính mến ban đầu” (Kh 2:4).
Kẻ trốn đằng sau hiểm hoạ này là Sa-tan, được phác hoạ ở đây là con rắn. Sự ám chỉ này là ở Sa 3:1-21. Đáng chú ý là Phao-lô có nhiêu điều để nói về kẻ thù của chúng ta, quỷ Sa-tan khi ông viết thư tín này cho các tín hữu Cô-rinh-tô. Ông cảnh cáo rằng Sa-tan có nhiều mưu chước tấn công các Cơ-đốc nhân. Nó có thể đè nặng lương tâm các Cơ-đốc nhân đã phạm tội (IICôr 2:10-11), làm mù tâm trí những người vô tín (IICôr 4:4) hoặc quyến dụ lòng Cơ-đốc nhân (IICôr 11:3) và thậm chí vùi dập thân thể những người thi hành chức vụ của Đức Chúa Trời (IICôr 12:7).
Trọng điểm ở đây nói về tâm trí, vì Sa-tan là kẻ nói dối và tìm cách khiến chúng ta lắng nghe những lời dối trá của nó, suy nghĩ và rồi tin theo. Đây là điều nó đã làm với Ê-va. Trước hết, nó chất vấn Lời Đức Chúa Trời (“À, Đức Chúa Trời há có phán...?”) sau đó nó phủ nhận Lời Đức Chúa Trời (“Hai ngươi chắc chắn sẽ không chết đâu!”) và rồi nó thay vào sự dối trá của chính nó (“Hai ngươi sẽ như các thần...”) (Sa 3:1,4-5).
Dĩ nhiên, Sa-tan thật xảo quyệt. Nó biết rằng Cơ-đốc nhân sẽ không chấp nhận ngay một lời nói dối, vì vậy kẻ thù này phải nhử mồi và khiến chúng ta dễ chấp nhận điều nó muốn đề nghị. Trên cơ bản, Sa-tan là kẻ bắt chước: nó sao chép điều Đức Chúa Trời làm và cố thuyết phục chúng ta tin rằng sự đề nghị của nó tốt đẹp hơn của Đức Chúa Trời. Nó làm điều này bằng cách nào? Bằng cách sử dụng những người thi hành chức vụ giả mạo làm bộ hầu việc Đức Chúa Trời, nhưng họ thật sự là tôi tớ của Sa-tan.
Sa-tan có một phúc-âm giả mạo (Ga 1:6-12) có liên quan đến một đấng cứu rỗi khác và một thánh linh khác. Tiếc thay, các tín hữu Cô-rinh-tô đã “tiếp đón phúc âm mới” này, nó là một sự pha tạp của luật pháp với ân điển chớ không phải một Phúc-Âm thật nào cả. Chỉ có một Phúc-Âm duy nhất, và vì vậy chỉ có thể có một Đấng Christ duy nhất (ICôr 15:1).
Khi bạn tin nhận Đấng Christ, bạn nhận Thánh Linh Đức Chúa Trời trong lòng và chỉ có một Đức Thánh Linh duy nhất.
Những người rao giảng phúc âm giả này (và họ vẫn ở cùng chúng ta ngày nay) được mô tả trong IICôr 11:13-15). Họ tuyên bố mình có quyền hạn thiêng liêng như những tôi tớ Đức Chúa Trời, nhưng quyền hạn của họ là giả. Họ tuyên bố những tôi tớ thật của Đức Chúa Trời là những kẻ mạo danh trong thời Phao-lô, họ nói điều này chỉ về ông.
Thậm chí họ còn tuyên bố mình là “những sứ-đồ siêu hạng”, đạt một trình độ cao hơn nhiều so với Phao-lô. Với tài hùng biện khôn khéo, họ đã khẳng định rằng Phao-lô không phải là một diễn giả rất tài năng (c.6 IICôr 10:10). Bi thảm thay khi những Cơ-đốc nhân không kiên định bị chao đảo bởi “bài diễn thuyết hợp lý” của những người làm công cho Sa-tan, thay vì đứng vững trên những chân lý cơ bản của Phúc-Âm do các mục sư và giáo sư trung tín đã dạy dỗ họ.
Phao-lô cảnh cáo “họ không phải là những sứ đồ siêu hạng gì cả! Họ là những sứ đồ dỏm! – sứ đồ giả!” Động cơ của họ không phải để quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời, nhưng để tự lợi bằng cách chiếm đoạt những người qui đạo. Những phương pháp của họ mang tính lừa dối (IICôr 2:17; IICôr 4:2).
Ý niệm cơ bản ở đây là ý niệm về việc sử dụng mồi để bắt cá. Họ trình bày cho các thuộc viên Hội thánh một đời sống Cơ-đốc “siêu hạng” hơn đời sống được mô tả trong Tân-ước, một đời sống mang tính pha tạp của luật pháp và ân điển không theo tinh thần Kinh Thánh.
Thay vì được Thánh Linh ban quyền phép, những kẻ thi hành chức vụ này được Sa-tan ban năng lực. Ba lần, Phao-lô sử dụng từ ‘thay đổi” để ám chỉ công việc của họ (IICôr 11:13,14,15). Từ này tiếng Hy-lạp đơn giản nghĩa là “trá hình, giả dạng”. Những kẻ làm công cho Sa-tan, giống như chính Sa-tan, không bao giờ xuất hiện trong tính chất thật của mình họ luôn mang đồ cải trang và ẩn phía sau một chiếc mặt nạ.
Khi tôi đang viết tập sách này, có nhiều “mục sư giả mạo” của Sa-tan xuất hiện trước cửa phòng tôi. Một trong số họ, một phụ nữ trẻ vẻ quyến rũ cố cho tôi biết cô đang làm việc vì hòa bình thế giới nhưng khi tôi đối chất với cô ta, cô thừa nhận rằng mình thuộc một giáo phái nào đó. Hai thanh niên ăn mặc bảnh bao tự giới thiệu “chúng tôi đây đại diện cho Chúa Giê-xu Christ”.
Tôi nhanh chóng cho họ biết tôi biết họ đại diện cho nhóm nào và tôi đóng cửa lại. Thậm chí tôi đã không nói “tạm biệt”. Nếu bạn nghĩ rằng tôi bất lịch sự, hãy đọc IIGi 1:5-11 và hãy làm theo.
Phao-lô chứng minh tình yêu của ông đối với Hội thánh bằng cách bảo vệ Hội thánh khỏi những sự tấn công của các giáo sư giả vậy mà những thuộc viên Hội thánh đã “tìm kiếm” những người theo Do-thái giáo và để họ bước vào. Những tín hữu Cô-rinh-tô đã “bỏ lòng kính mến ban đầu” của họ và không còn dâng cho Chúa Giê-xu sự tận tuỵ ngay thẳng nữa. Không chỉ đơn giản là họ đã quay lưng lại với Phao-lô, nhưng họ đã quay lưng với Đấng Christ, và điều đó nghiêm trọng hơn nhiều.
2. Lòng rộng rãi của Phao-lô đối với Hội thánh (IICôr 11:7-12)
Cha mẹ yêu thương chu cấp những nhu cầu của gia đình, và Phao-lô đã hy sinh để ông có thể chăm sóc cho Hội thánh tại Cô-rinh-tô. Trong khi Phao-lô ở đó, ông đã lao động vất vả bằng đôi tay mình với tư cách một người may trại (Công 18:1-3) và thậm chí đã nhận quà từ các Hội thánh khác để ông có thể rao Phúc-Âm ở Cô-rinh-tô. Nói cách khác, tín hữu Cô-rinh-tô không tốn kém gì cả để được lợi từ chức sứ-đồ của con người vĩ đại này của Đức Chúa Trời.
Tín hữu Cô-rinh-tô có đánh giá đúng đắn những hy sinh mà Phao-lô đã làm vì họ? Không, đa số họ đã không đánh giá đúng. Thật ra, những người theo Do-thái giáo thậm chí đã sử dụng phương sách tài chính của Phao-lô làm “chứng cớ” rằng ông không phải là một sứ-đồ thật. Xét cho cùng, nếu không phải là một sứ-đồ thật, ông sẽ chấp nhận sự hỗ trợ về tài chính.
Phao-lô đã sẵn sàng giải thích phương sách của ông trong một bức thư trước (ICôr 9:1-15). Ông đã nói rõ rằng ông là một sứ đồ thật vì ông đã nhìn thấy Đấng Christ phục sinh và đã được Ngài giao nhiệm vụ. Phao-lô đã có quyền để yêu cầu sự hỗ trợ về tài chính, cũng giống như các tôi tớ trung tín của Đức Chúa Trời đang làm ngày nay, nhưng ông đã tự ý bỏ quyền ấy hầu cho không ai có thể tố cáo ông về việc lợi dụng Phúc-Âm chỉ như một phương tiện để làm tiền. Ông đã bỏ đi “những quyền hạn về tài chính” của mình vì mục đích Phúc-Âm và vì những tội nhân hư mất là những người có thể vấp ngã vì bất cứ điều gì gây cảm giác như “sự mua bán tôn giáo”.
Mặt khác, chính những người theo Do-thái giáo đã phạm tội “rao bán Phúc-Âm” vì lợi ích cá nhân. Phao-lô đã giảng Phúc-Âm cho họ cách miễn phí (IICôr 11:7 theo nghĩa đen là “không phải trả tiền, không đòi gì cả”) nhưng những giáo sư giả đã rao một phúc-âm giả hiệu và cướp bóc của Hội thánh (c.20).
Phao-lô sử dụng một chút mỉa mai trong (c.8) “Vâng, tôi từng là một “kẻ cướp bóc. Tôi đã cướp bóc” những Hội thánh khác để tôi sẽ không phải cướp bóc “của anh em!” Và giờ đây những người theo Do-thái giáo đã thật sự cướp bóc của họ.
Một người cha yêu thương không đặt những gánh nặng của bản thân lên con cái mình.Thay vào đó, người ấy chịu hy sinh để con cái có thể hưởng những gì chúng cần. Dạy con cái sự khác biệt giữa những “giá cả” và “giá trị” thật là một điều khó.
Con cái dường như không có ý niệm gì về việc lao động của cha mẹ để kiếm tiền chu cấp những thứ gia đình cần có ý nghĩa gì. Khi một trong những đứa cháu của tôi còn nhỏ, nó nghe cha mẹ bàn luận về việc mua một số đồ gia dụng nhưng nó đã không thể hiểu lý do tại sao họ không đi mua ngay. Nó hỏi, chỉ vào tập chi phiếu của ba nó: “Tại sao ba không viết ngay một trong những tấm giấy đó?” Nó đã không hiểu rằng phải có tiền trong ngân hàng để xác nhận những gì bạn viết trên “những tấm giấy” đó.
Phao-lô đã không nêu lên vấn đề tiền bạc để khoe khoang về mình. Đúng hơn, ông sử dụng mọi phương tiện có thể được để làm nín lặng sự khoe khoang của những người theo Do-thái giáo. Phao-lô biết rằng không một người có thể cáo ông về sự tham lam hay ích kỷ (Công 20:33-35 lời chứng của Phao-lô cho Hội thánh Ê-phê-sô). Đôi tay ông tinh sạch. Ông muốn “cắt đứt” bất cứ cơ hội nào cho kẻ thù của ông.
Từ “phải chịu phí tổn” trong IICôr 11:9 đáng xem xét đặc biệt (IICôr 12:13-14). Theo tiếng Hy-lạp, từ này nghĩa đen là “trở nên tê liệt”. Từ này đến từ hình ảnh con lươn điện làm tê liệt nạn nhân của nó bằng một cú giật điện. Phần thân thể bị tê liệt sẽ là một gánh nặng đối với nạn nhân. Phao-lô đã không dùng mánh khoé xảo quyệt nào để đánh úp các tín-hữu, tấn công hay cướp bóc họ. Trong sự rao giảng Phúc-Âm và sự giải quyết tài chính của ông, ông tỏ ra công khai và thành thật.
Trong những chuyến đi của tôi, tôi đã chứng kiến những hoàn cảnh trong các Hội thánh địa phương làm tan vỡ lòng tôi. Tôi đã thấy những hội chúng bày tỏ ít hoặc không bày tỏ sự đánh giá đúng đắn đối với các mục sư trung tín đã khổ nhọc một cách hy sinh để thấy Hội thánh phát triển.
Một vài người trong số những người này đã được trả lương quá thấp và đã làm việc quá sức, vậy mà các Hội thánh dường như không có tình yêu thương nào dành cho họ. Tuy nhiên, những người kế tục họ đã được đối xử như những vị vua! Chắc chắn tại Tòa Án của Đấng Christ, các sổ sách sẽ được cân bằng.
Có lần tôi nghe Tiến sĩ W. A. Criswell kể về cặp vợ chồng truyền giáo trung tín đã trở về nước Mỹ trên cùng chiếc tàu đưa Teddy Roosevelt trở về nhà từ một cuộc hành trình đường bộ ở Châu Phi. Nhiều phóng viên và các nhà nhiếp ảnh có mặt trên bến tàu, chờ gặp Roosevelt để phỏng vấn và chụp hình ông ta nhưng không ai có thể sẵn sàng tiếp đón các nhà truyền giáo trở về, những người đã hiến cuộc đời mình để hầu việc Đấng Christ tại Châu Phi.
Tối hôm ấy, trong căn phòng giản dị của khách sạn cặp vợ chồng này hồi tưởng về việc họ đến thành phố Nữu-ước và người chồng có một chút cay đắng. Ông nói với vợ: “Thật chẳng công bằng. Ông Roosevelt trở về nhà từ một chuyến đi săn, và cả quốc gia đi ra đón ông ta. Chúng ta trở về nhà sau những năm phục vụ, và không ai có mặt để chào hỏi chúng ta cả.”
Nhưng vợ ông đã có câu trả lời đúng đắn: “Mình ạ, chúng ta vẫn chưa về nhà.”
Phao-lô đã trình bày 2 chứng cớ chứng minh tình yêu của ông đối với các tín hữu Cô-rinh-tô sự ghen tuông của ông vì Hội thánh, bảo vệ họ khỏi “sự không trung tín về thuộc linh” và lòng rộng rãi của ông đối với Hội thánh – từ chối nhận sự tiếp trợ của họ. Ông chia sẻ phần chứng cớ thứ 3.
3. Sự lo lắng của ông đối với Hội thánh (IICôr 11:16-33)
Chìa khóa cho phân đoạn dài này là c.28, có thể được diễn đạt: “Vâng, tôi đã trải qua nhiều thử thách, nhưng thử thách lớn nhất trong tất cả, gánh nặng nhất trong tất cả là sự quan tâm của tôi đối với các Hội thánh!” Từ được dịch là “sự lo lắng” có nghĩa “áp lực, tâm trạng căng thẳng, băn khoăn”. Những từng trải khác có tính chất bên ngoài (từ bên ngoài) và xảy ra không thường xuyên, nhưng gánh nặng về những Hội thánh có tính chất bên trong và không dứt.
Herry Ward Beecher đã nói “chúng ta không bao giờ biết tình yêu của cha mẹ đối với mình cho đến khi chúng ta đã trở thành cha mẹ và ông đã đúng”. Khi đứa con trai lớn của chúng tôi còn nhỏ, nó đã đẩy một đồ chơi vào ổ điện và bị “hết xăng” qua bên kia phòng. Một ngày gần đây nó phát hiện đứa con nhỏ của nó đang chơi với ổ điện, và phản ứng dữ dội của người cha gần như làm hoảng sợ đứa nhỏ chưa tròn 1 tuổi. Nó nói với tôi qua điện thoại: “Bây giờ con biết ba và mẹ cảm giác ra sao khi con còn nhỏ. Làm cha mẹ có những nỗi lo sợ cũng như những niềm vui mừng.”
Trước khi liệt kê những loại thử thách khác nhau đã trải qua, Phao-lô cẩn thận giải thích lý do ông “khoe mình” trong phương diện này. Phao-lô chưa bao giờ có bất cứ vấn đề nào khi khoe mình về Đấng Christ và kể lại những sự chịu khổ của Ngài, nhưng ông luôn do dự khi nói về những từng trải đau đớn của riêng mình với tư cách một tôi tớ của Đức Chúa Trời. Phao-lô và Giăng Báp-tít có lẽ đã đồng ý “Ngài (Đấng Christ) phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Gi 3:30). “Nhưng ai hãnh diện, hãy để người ấy hãnh diện trong Chúa” (IICôr 10:17).
Chính thái độ không trưởng thành và thiếu thuộc linh của các tín hữu Cô-rinh-tô đã buộc Phao-lô phải viết về chính ông và “hãnh diện” (khoe mình) trong những từng trải này. Ông đã bắt đầu phân đoạn này (IICôr 11:1) bằng cách xin lỗi về sự khoe mình của ông, và ông nhắc lại cảm xúc này trong c.16. Trong c.17, Phao-lô không phủ nhận sự linh cảm trong những lời nói của ông đúng hơn bởi việc khoe mình ông đã thừa nhận rằng , ông thật không giống Chúa (IICôr 10:1). Tuy nhiên, ông đã phải làm điều đó để chứng minh tình yêu của ông đối với các tín hữu Cô-rinh-tô và bảo vệ họ khỏi những ai dẫn họ đi lạc lối.
-Trước hết, các giáo sư giả đã chẳng hổ thẹn để khoe khoang, và các tín hữu Cô-rinh-tô không ngại tiếp nhận sự khoe khoang của họ, Phao-lô dường như muốn nói: “Vì sự khoe khoang là “mốt” trong mối thông công của anh em, vậy tôi sẽ khoe mình.” Có thể Phao-lô đã nhớ nguyên tắc của Ch 26:15 “Hãy đáp với kẻ ngu si tuỳ sự ngu dại nó, kẻo nó khôn ngoan theo mắt nó chăng.”
Hơn nữa, Phao-lô đã khoe mình để ông có thể giúp đỡ Hội thánh trong khi các giáo sư giả đã khoe khoang để họ có thể giúp bản thân đối với những điều họ có thể đoạt của Hội thánh. Động cơ của Phao-lô thanh khiết động cơ của họ đầy tư kỷ. Câu 20 liệt kê những phương diện khác nhau mà những người theo Do-thái giáo đã lợi dụng Hội thánh:
-Sự trói buộc: Họ dạy một giáo lý về chủ nghĩa luật pháp trái ngược với Phúc-Âm của ân điển.
-Ăn ngấu nghiến: Họ “nuốt” mọi thứ họ có thể dành được trong Hội thánh họ lợi dụng đặc quyền nhận sự ủng hộ về tài chính.
-Bon rút của anh em: “lừa gạt anh em”, khiến anh em bị lừa. Hình ảnh này là hình ảnh một con chim bị mắc trong bẫy hoặc con cá bị mắc vào cần câu. “Họ gài bẫy anh em và bắt giữ anh em.”
-Đề cao: Họ đề cao bản thân, không phải Chúa Giê-xu họ thích được tôn trọng và được đối xử như những lãnh đạo vĩ đại.
-Sỉ vả anh em: Điều này có lẽ chỉ về những sự tấn công bằng lời nói hơn là sức mạnh của thân thể những người theo Do-thái giáo đã không ngần ngại “vả trên mặt họ” và làm họ bẽ bàng giữa mọi người.
Phao-lô kết thúc sự phơi trần này về những thái độ và hành động không thuộc linh của những người theo Do-thái giáo bằng cách đem vào một chút “mỉa mai đầy cảm hứng” hơn nữa: “Tôi lấy làm hổ thẹn thừa nhận rằng chúng tôi quá yếu đuối về điều đó!” (Ch 11:21)
Những tín-hữu Cô-rinh-tô nghĩ rằng sự nhu mì của Phao-lô là sự yếu đuối, trong lúc đó thật sự là sức mạnh. Và họ cho rằng sự ngạo mạn của những người theo Do-thái giáo là sức mạnh. Lắm lúc các thánh đồ này có thể trở nên khờ dại biết bao.
Khi nói về di sản Do-thái, các giáo sư giả ngang bằng với Phao-lô, nhưng khi nói về nhiệm vụ đối với Đấng Christ, chính Phao-lô là “sứ-đồ siêu hạng” chớ không phải những người theo Do-thái giáo. Hãy suy ngẫm những gì Phao-lô đã chịu đựng vì sự nghiệp của Đấng Christ và sự quan tâm đối với các Hội thánh.
- Sự chịu khổ vì Đấng Christ: (IICôr 11:23-25a).
Nếu Phao-lô đã không phải là một sứ đồ, có lẽ ông đã không trải qua những thử thách này. Ông đã nhận “những đòn vọt quá chừng” từ phía người ngoại lẫn người Do-thái. Ba lần người ngoại đánh ông bằng roi, và 5 lần ông bị người Do-thái quất 39 roi. Chỉ 1 lần đánh đòn được chép trong sách (Công 16:22) cũng như một lần ném đá (Công 14:19).
Từ lúc khởi đầu chức vụ, Phao-lô biết rằng ông sẽ chịu khổ vì cớ Chúa Giê-xu (Công 9:15-16), và Đức Chúa Trời khẳng định lại điều này với ông khi chức vụ của ông được tiếp tục (Công 20:23). Ong là người đã khiến người khác chịu khổ vì đức tin họ, chính ông phải chịu khổ vì đức tin mình.
- Những hoạn nạn tự nhiên (c.25b-27).
Hầu hết bất cứ người đi lại nào thời đó cũng có thể trải qua một trong những hoạn nạn này, nhưng chúng ta không thể không tin rằng những hoạn nạn đó do kẻ thù gây ra để cố ngăn trở công việc Chúa. Công 27:1-44 ghi lại 1 trong 3 nạn đắm tàu.Chúng ta không biết gì về 2 vụ đắm tàu còn lại. Chúng ta không biết Phao-lô đã mất bao nhiêu của cải quý giá riêng trong trường hợp này.
Vì luôn di chuyển, Phao-lô đã bị đặt vào những hiểm hoạ của việc đi lại. Những người theo Do-thái giáo đã thăm viếng những nơi an toàn, Phao-lô đã thực hiện những hành trình đến những nơi khó khăn. Nhưng Phao-lô không phải là khách du hành bình thường: Ông là một người đáng chú ý. Ông có kẻ thù giữa dân Do-thái và dân ngoại, và một số người có lẽ thích giết ông.
IICôr 11:27 mô tả những hậu quả riêng của sự đi lại khó khăn này. Trong chức vụ lưu hành của mình tôi đã có tiện nghi của những chiếc xe hơi và máy bay, nhưng tôi phải thú nhận rằng chuyến đi làm tôi rã rời. Chuyến đi này đối với Phao-lô khó khăn hơn dường nào! Chắc chắn ông đầy rã rời và đau đớn. Ông thường phải nhịn ăn, nhịn uống, mất ngủ, và đôi khi thiếu quần áo để giữ ấm cho mình.
Trong khi bất cứ khách du hành nào khác có thể đã chịu đựng những điều này, Phao-lô đã chịu đựng những điều đó vì tình yêu của ông đối với Đấng Christ và Hội thánh. Gánh nặng lớn nhất không phải ở xung quanh ông, nhưng ở trong ông: Sự quan tâm đến tất cả các Hội thánh. Tại sao ông quan tâm nhiều như vậy? Vì ông đã đồng nhất hoá với các Cơ-đốc nhân (c.29). Bất cứ điều gì xảy ra cho “con cái ông” đều đụng đến tấm lòng ông và ông đã không thể bỏ họ.
Phao-lô đã đưa chuyện kể về những hoạn nạn của ông đến đỉnh điểm bằng cách kể về từng trải ê chề tại Đa-mách, khi ông – sứ đồ cao trọng – đã được đưa lén ra khỏi thành trong một cái giỏ dòng qua tường! (c.32-33). Có ai trong số những người theo Do-thái giáo từng kể một câu chuyện giống như vậy? Dĩ nhiên không! Cả khi Phao-lô tường thuật những hoạn nạn của mình, ông đã cẩn thận để Đấng Christ được vinh hiển, chớ không phải Phao-lô.
Chúng ta không thể đọc những câu này mà không khâm phục lòng can đảm và sự tận tuỵ của sứ đồ Phao-lô. Mỗi hoạn nạn đã để lại dấu vết trên đời sống ông, nhưng ông cứ ra đi, cứ hầu việc Đấng Christ. “Nhưng không điều nào trong những điều này lay chuyển tôi, tôi cũng chẳng kể sự sống mình làm quý” (Công 20:24).
Phao-lô chắc hẳn đã chứng minh tình yêu của ông đối với Hội thánh.
Giờ đây Hội thánh phải chứng minh tình yêu của họ đối với Phao-lô.
Nguyện chúng ta không bao giờ xem nhẹ những hy sinh mà người khác đã làm hầu cho chúng ta có thể vui hưởng những phước hạnh của Phúc-Âm hôm nay.
11. MỘT NHÀ TRUYỀN ĐẠO TRONG BA-RA-ĐI (IICôr 12:1-10)
Phân đoạn này là cao điểm sự bênh vực của Phao-lô về chức sứ đồ của ông và tình yêu của ông đối với tín hữu thành Cô-rinh-tô. Ông kín đáo khi viết về những từng trải này của bản thân, nhưng không có cách nào khác để giải quyết vấn đề. Thật ra, để tránh đề cao bản thân, Phao-lô đã mô tả từng trải của ông trong ngôi thứ ba hơn là ngôi thứ nhất. Ông chia sẻ với độc giả của mình 3 kinh nghiệm từ Đức Chúa Trời.
1. Vinh hiển: Đức Chúa Trời ưu ái ông (IICôr 12:1-6)
Những người Do-thái giáo nôn nóng nhận những vinh dự, và họ khoe khoang về những “thư gởi gắm” của họ (IICôr 3:1). Nhưng Phao-lô không tìm kiếm vinh dự từ con người ông để Đức Chúa Trời ưu ái ông vì chỉ có điều đó là vinh dự thật sự có giá trị.
-Trước tiên, Đức Chúa Trời ưu ái Phao-lô bằng cách cho ông những khải tượng và những sự mạc khải. Phao-lô đã nhìn thấy Đấng Christ vinh hiển vào chính ngày ông trở lại đạo (Công 9:3; Công 22:6). Ông nhìn thấy một khải tượng về A-na-nia đến giúp đỡ ông (Công 9:2), và ông cũng có một khải tượng từ Đức Chúa Trời khi được gọi thi hành chức vụ đối với dân ngoại (Công 22:17).
Suốt chức vụ, ông đã có những khải tượng từ Đức Chúa Trời để dẫn dắt và khích lệ ông. Chính bởi một khải tượng mà ông đã được kêu gọi đến xứ Ma-xê-đoan (Công 16:9). Khi chức vụ trở nên khó khăn tại Cô-rinh-tô, Đức Chúa Trời đã yên ủi Phao-lô bằng một khải tượng (Công 18:9-10).
Sau khi bị bắt ở Giê-ru-sa-lem, Phao-lô một lần nữa, được yên ủi bằng một khải tượng từ Đức Chúa Trời (Công 23:11). Một thiên sứ đã hiện ra cho ông giữa cơn bão và cho ông biết chắc rằng ông và những hành khách sẽ được cứu (Công 27:23).
Cặp theo những khải tượng đặc biệt này có liên quan đến sự kêu gọi và chức vụ của ông, những sự mạc khải thuộc linh về chân lý trên trời cũng được thông tin cho Phao-lô (Eph 3:1-6). Đức Chúa Trời đã ban cho ông sự hiểu biết thâm sâu về kế hoạch của Đức Chúa Trời đối với thời đại hiện tại này. Chắc chắn Phao-lô đã hiểu những sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời cũng đã ưu đãi Phao-lô bằng cách đưa ông lên trời và rồi trả ông trở lại đất. Từng trải kỳ diệu này đã xảy ra 14 năm trước khi ông viết bức thư này, nghĩa là vào khoảng năm 43 SC. Đây là khoảng thời gian trong cuộc đời Phao-lô giữa sự kiện ông đi đến đất Tạt-sơ (Công 9:30) và cuộc thăm viếng của ông từ Ba-na-ba (Công 11:25-26). Không có sự ghi chép nào về những chi tiết của sự kiện này và suy đoán là điều vô ích đối với chúng ta.
Các thầy dạy đạo Do-thái quen nói về mình qua người thứ 3, và Phao-lô sử dụng cách tiếp cận đó khi ông bày tỏ kinh nghiệm này cho bạn hữu (và kẻ thù) ông tại Cô-rinh-tô. Từng trải này kỳ diệu đến nỗi Phao-lô không thật biết chắc Đức Chúa Trời có đưa ông lên trời trong thân thể, hay linh hồn ông có lìa thể xác hay không. (Có một sự tương phản hoàn toàn giữa tình trạng “được dòng xuống” trong một cái giỏ và “được đem lên” đến tầng trời thứ 3! ).
Ở đây Phao-lô khẳng định sự thực hữu của thiên đàng và khả năng Đức Chúa Trời đem con người đến đó. Tầng trời thứ 3 chính là “Ba-ra-đi”, tầng trời trên các tầng trời nơi Đức Chúa Trời ngự trong vinh hiển. Nhờ khoa học hiện đại, con người ngày nay đã tham quan trời của các tầng mây (chúng ta bay trên những đám mây) và tầng trời của các hành tinh (con người đã đi trên mặt trăng), nhưng con người không thể đến được thiên đàng của Đức Chúa Trời nếu không có sự giúp đỡ của Ngài.
Điều thú vị đó là Phao-lô đã giữ yên lặng về từng trải này trong 14 năm! Suốt những năm đó, ông đã bị đau đớn bởi “cái giằm xóc vào thịt” và có lẽ người ta thắc mắc lý do ông bị sự khốn khổ nặng nề dường ấy. Những người theo Do-thái giáo có lẽ đã sử dụng quan điểm của những người an ủi Gióp và nói ‘sự khốn khổ này là hình phạt của Đức Chúa Trời” (thật sự, đó là sự ban cho từ Đức Chúa Trời).
Một số bạn hữu của Phao-lô có lẽ đã cố yên ủi ông bằng cách nói “Hỡi Phao-lô, hãy vui lên đi. Ngày kia anh sẽ ở trong thiên đàng!” Phao-lô có thể đã đáp lại: “Đó là lý do tôi có cái giằm này. Tôi đã đến thiên đàng rồi!”
Đức Chúa Trời ưu đãi Phao-lô bằng cách ban cho ông những khải tượng cùng những sự mạc khải, và bằng cách đem ông lên trời nhưng Ngài đã ưu đãi ông hơn nữa bằng cách cho phép ông nghe “những lời không thể nói ra” trong khi ông ở trong thiên đàng. Những điều này có thể đã được Đức Chúa Trời và các loài thọ tạo trên trời nói ra, nhưng những điều ấy không thể được con người nói
Phải chăng những người theo Do-thái giáo đã có thể liên hệ đến bất cứ từng trải nào giống như vầy? Ngay cả Môi-se, con người mật thiết với Đức Chúa Trời, đã gặp Chúa trên đỉnh núi nhưng Phao-lô đã gặp Chúa trong nơi Ba-ra-đi. Phao-lô đã thực hành kỷ luật thuộc linh cao trọng suốt 14 năm đó, vì ông đã không kể kinh nghiệm này cho ai. Không còn gì nghi ngờ rằng khải tượng này về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là một trong những quyền năng tồn tại trong đời sống và chức vụ của Phao-lô. Cho dù ông hiện diện nơi đâu – trong ngục tù, trong nơi sâu thẳm, trong những hành trình nguy hiểm – ông biềt rằng Đức Chúa Trời ở cùng ông và mọi sự đều tốt đẹp.
Bạn và tôi sẽ không đến thiênđàng cho đến khi chúng ta qua đời hay đến khi Chúa chúng ta tái lâm. Nhưng chúng ta có một sự yên ủi kỳ diệu trong sự kiện mà chúng ta hôm nay được ngồi với Đấng Christ trong các nơi trên trời (Eph 2:6). Chúng ta có một địa vị thuộc quyền hạn và sự chiến thắng “trên hết mọi sự” (Eph 2:21-22). Trong khi chúng ta chưa nhìn thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời như Phao-lô đã thấy, chúng ta thật sự dự phần sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngay bây giờ (Gi 17:22) và một ngày kia chúng ta sẽ bước vào thiên đàng và ngắm xem sự vinh hiển của Đấng Christ (c.24).
Một sự ưu đãi dường ấy có lẽ đã khiến đa số người rất kiêu ngạo. Thay vì giữ yên lặng 14 năm, họ sẽ lập tức kể cho thế gian biết và trở nên nổi tiếng. Nhưng Phao-lô đã không trở nên kiêu ngạo. Ông đơn giản kể sự thật – đó không phải là sự khoe khoang rỗng tuếch – và hãy chỉ để những sự thật nói cho chúng. Mối quan tâm lớn của ông là không ai cướp của Đức Chúa Trời sự vinh hiển và dành cho Phao-lô. Ông muốn người khác có sự đánh giá thành thật về bản thân ông và việc làm của ông (xem Rô 12:3).
Làm sao Phao-lô đã có thể có một từng trải cao trọng như thế mà vẫn khiêm nhường? Vì từng trải thứ 2 Đức Chúa Trời đã đem đến cho đời sống ông.
2. Phước lành: Đức Chúa Trời khiến ông khiêm nhường (IICôr 12:7-8)
Chúa biết cách quân bình đời sống chúng ta. Nếu chúng ta chỉ có những hạnh phước chúng ta có thể trở nên kiêu ngạo vì vậy Ngài cũng cho phép chúng ta có những gánh nặng. Từng trải cao trọng của Phao-lô nơi thiên đàng có thể làm hỏng chức vụ của ông trên đất nên trong ơn lành, Đức Chúa Trời đã cho phép Sa-tan hành hại Phao-lô để giữ ông khỏi trở nên kiêu ngạo.
Điều bí ẩn về sự chịu khổ của con người sẽ không được giải quyết hoàn toàn trong đời này. Đôi lúc chúng ta chịu khổ chỉ vì chúng ta là con người. Thân thể chúng ta thay đổi khi chúng ta trở nên già hơn và chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi những vấn đề bình thường của cuộc sống. Cùng một thể xác mà có thể đem đến cho chúng ta những vui thoả, cũng có thể đem cho chúng ta những đau đớn. Cùng những thành viên gia đình và bạn bè đã đem lại sự vui thỏa cho chúng ta, cũng có thể khiến ta nát lòng. Đây là một phần trong “hài kịch của con người” và lối duy nhất để thoát ra là trở nên thấp kém hơn con người. Nhưng không ai muốn chọn con đường ấy.
Đôi lúc chúng ta chịu khổ do dại dột và bất tuân đối với Chúa. Sự chống nghịch của chính chúng ta có thể làm khổ chúng ta, hoặc Chúa có thể thấy thích hợp để sửa phạt chúng ta trong tình yêu của Ngài (Hêb 12:3). Vua Đa-vít đã chịu khổ sở nhiều vì tội lỗi ông những hậu quả thật đau đớn và sự sửa phạt của Đức Chúa Trời cũng vậy (IISa 12:1-22; Thi 51:1-19). Trong ân điển Đức Chúa Trời đã tha thứ tội lỗi chúng ta nhưng trong sự tể trị, Ngài phải để chúng ta gặt những gì mình gieo.
Hoạn nạn cũng là một công cụ được Đức Chúa Trời sử dụng để gây dựng phẩm chất tin kính (Rô 5:1-5). Chắc chắn Phao-lô là một con người giàu phẩm chất Cơ-đốc vì ông để Đức Chúa Trời uốn nắn và khiến ông ở trong những từng trải đau đớn của đời sống mình. Khi đi dọc theo bờ đại dương, bạn để ý thấy những viên đá sắc bén trong những vùng nước yên tĩnh, nhưng được mài nhẵn trong những nơi có các đợt sóng đánh vào chúng. Đức Chúa Trời có thể sử dụng “những con sóng và ba đào” của cuộc đời để đánh bóng chúng ta, nếu chúng ta sẽ đầu phục Ngài.
Cái giằm xóc trong thịt của Phao-lô được ban cho ông để giữ ông khỏi phạm tội.Những từng trải thuộc linh đầy lý thú – như việc lên trên và trở xuống – có thể thổi phồng cái tôi của con người và sự kiêu ngạo dẫn đến nhiều cám dỗ phạm tội.Nếu lòng Phao-lô đầy dẫy sự kiêu ngạo, 14 năm sau đó có lẽ đã đầy thất bại thay vì thành công.
Chúng ta không biết cái giằm xóc vào thịt của Phao-lô là gì. Từ được dịch là “cái giằm” có nghĩa “cọc nhọn dùng để hành hạ hoặc đâm ai”. Đây là hoạn nạn nào đó về thể xác đem đến cho Phao-lô sự đau đớn và khốn khó. Một số nhà nghiên cứu Kinh Thánh nghĩ rằng Phao-lô đã bị bệnh về mắt (Ga 6:11), nhưng chúng ta không thể biết chắc. Thật là điều tốt khi chúng ta không biết, vì cho dù những hoạn nạn của chúng ta có thể ra sao, chúng ta có thể áp dụng những bài học Phao-lô đã học và tìm được sự yên ủi.
Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan làm khổ Phao-lô, giống như Ngài đã cho phép Sa-tan làm khổ Gióp (Giop 1:1-2:13). Trong khi chúng ta không hiểu đầy đủ nguồn cội của điều ác trong vũ trụ này, hoặc tất cả những mục đích Đức Chúa Trời đã xếp đặt khi Ngài cho phép điều ác xảy đến, chúng ta thật sự biết rằng Đức Chúa Trời kiểm soát sự ác và có thể sử dụng nó ngay cả cho vinh hiển của chính Ngài. Sa-tan không thể hành động chống lại một Cơ-đốc nhân mà không có sự cho phép của Đức Chúa Trời. Mọi sự mà kẻ thù đã làm cho Gióp và Phao-lô đã được cho phép bởi ý muốn Đức Chúa Trời.
• Sa-tan đã được phép hành hại Phao-lô.
Từ này nghĩa là “đánh, đập bằng cú đấm tay”. Thì của động từ cho thấy rằng sự đau đớn này có thể thường xuyên hoặc tái đi tái lại. Khi bạn dừng lại đã nghĩ rằng Phao-lô có những bức thư để viết, những chuyến đi phải thực hiện, những bài giảng để rao giảng, những Hội thánh cần thăm viếng, và những hiểm nguy phải đối diện khi ông thi hành chức vụ, bạn có thể hiểu rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng. Không có gì ngạc nhiên khi ông đã cầu nguyện 3 lần (như Chúa ông đã làm trong vườn (Mac 14:32-41) để hoạn nạn có thể được cất khỏi ông (IICôr 12:8).
Khi Đức Chúa Trời cho phép hoạn nạn xảy đến với đời sống chúng ta, có nhiều cách chúng ta có thể đối phó với nó. Một số người trở nên cay đắng và oán trách Đức Chúa Trời đã cướp của họ sự tự do cùng sự vui thoả. Những người khác thì “bỏ cuộc” và không nhận được bất cứ phước hạnh nào qua từng trải vì họ sẽ không đặt sự can đảm nào trong từng trải đó.
Vẫn có những người khác cắn răng và mang một bình phong dũng cảm, quyết định “chịu đựng đến cuối cùng”. Mặc dù đây là một đáp ứng can đảm nhưng nó thường làm họ cạn kiệt năng lực cần thiết cho đời sống hằng ngày và sau một thời gian, họ có thể gục ngã.
Có phải Phao-lô đã phạm tội khi ông cầu xin được giải thoát khỏi sự hành hại của Sa-tan? Tôi không nghĩ thế. Đó chắc chắn là một điều bình thường đối với một Cơ-đốc nhân cầu xin Đức Chúa Trời để được sự giải cứu khỏi bệnh tật và đau đớn.
Đức Chúa Trời đã không bị buộc phải chữa lành mọi Cơ-đốc nhân mỗi khi người ấy cầu xin nhưng Ngài khích lệ chúng ta đem những gánh nặng và những nhu cầu đến cho Ngài. Phao-lô đã không biết “cái giằm xóc vào thịt” này có phải là sự thử nghiệm tạm thời của Đức Chúa Trời hay không, hay là một từng trải không dứt mà ông sẽ phải học để sống với nó.
Có những người muốn chúng ta tin rằng một Cơ-đốc nhân bị hoạn nạn là một sự sỉ nhục cho Đức Chúa Trời. Họ nói: “Nếu bạn vâng lời Chúa và nắm giữ mọi điều bạn có trong Đấng Christ, vậy bạn sẽ chẳng bao giờ bệnh hoạn.” Tôi chưa bao giờ thấy sự dạy dỗ đó trong Kinh Thánh – Đúng là Đức Chúa Trời đã hứa với dân Do-thái phước hạnh và sự bảo vệ đặc biệt dưới thời Cựu-ước (Phuc 7:12), nhưng Ngài không bao giờ hứa với các tín hữu thời Tân-ước sự tự do khỏi bệnh tật hay hoạn nạn. Nếu Phao-lô đã có cơ hội đến gần “sự chữa lành tức thời” vì mối liên hệ của ông với Đấng Christ, vậy tại sao ông đã không sử dụng nó cho bản thân mình và cho người khác, như Ép-ba-phô-đích chẳng hạn? (Phi 2:25).
Thật là một sư tương phản giữa 2 từng trải của Phao-lô! Phao-lô đã đi từ thiên đàng đến sự đau đớn, từ vinh hiển đến hoạn nạn. Ông đã nếm phước hạnh của Đức Chúa Trời trong thiên đàng và rồi cảm biết sự hành hại của Sa-tan trên đất. Ông đã đi từ trạng thái cực kỳ sung sướng đến sự đau khổ, tuy nhiên 2 từng trải này thích hợp với nhau. Một từng trải của ông về sự vinh hiển đã chuẩn bị cho ông sự từng trải dai dẳng về hoạn nạn, vì ông biết rằng Đức Chúa Trời có thể đáp ứng nhu cầu của ông. Phao-lô đã đi đến thiên đàng, nhưng sau đó ông biết rằng thiên đàng có thể đến với ông.
3. Ân điển: Đức Chúa Trời đã giúp đỡ ông (IICôr 12:9-10)
Hai sứ điệp có liên quan trong từng trải đau đớn này. Cái giằm xóc vào thịt là sứ điệp của Sa-tan nhưng Đức Chúa Trời đã có một sứ điệp khác cho ông, sứ điệp về ân điển. Thì của động từ trong c.9 là quan trọng: “Và Ngài đã phán với tôi một lần đủ cả” Đức Chúa Trời đã ban cho Phao-lô một sứ điệp luôn ở cùng ông. Những lời Phao-lô đã nghe trong khi ở thiên đàng, ông đã không được phép chia sẻ với chúng ta nhưng ông thật đã chia sẻ những lời Đức Chúa Trời ban cho ông trên đất – và những lời ấy thật là một sự yên ủi.
Đó là một sứ điệp về ân điển. Ân điển là gì? Đó là sự định liệu của Đức Chúa Trời cho mọi nhu cầu của chúng ta khi chúng ta cần. Có thể nói rằng Đức Chúa Trời bởi ân điển Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta không xứng đáng và trong sự thương xót Ngài không ban cho chúng ta những điều chúng ta đáng nhận.
Có người nào đó đã làm một câu thơ chữ đầu về từ ‘ân điển” (grace): God’s Riches Available at Christ’s Expense” (Của cải của Đức Chúa Trời có được do sự chi trả của Đấng Christ). “Và bởi sự đầy dẫy của Ngài mà chúng ta đều có nhận được và ơn càng thêm ơn” (Gi 1:16).
Đó là một sứ điệp về ân điển đầy đủ. Không bao giờ có sự thiếu hụt về ân điển. Đức Chúa Trời chu cấp đủ cho những chức vụ thuộc linh (IICôr 3:4-6) và những nhu cầu vật chất của chúng ta (IICôr 9:8) cũng như những nhu cầu về thể chất của chúng ta (IICôr 12:9). Nếu ân điển Đức Chúa Trời dủ để cứu chúng ta, chắc chắn nó đủ để giữ chúng ta và làm mạnh mẽ chúng ta trong giờ hoạn nạn của chúng ta.
Đó là một sứ điệp về ân điển ban năng lực. Đức Chúa Trời cho phép chúng ta trở nên yếu đuối để chúng ta có thể nhận năng lực của Ngài. Đây là một tiến trình liên tục: “Sức mạnh nào tự biết mình là mạnh thì thật là sự yếu đuối, nhưng sự yếu đuối nào biết chính nó là sự yếu đuối thì thật là sức mạnh.”
Trong đời sống Cơ-đốc, chúng ta nhận được nhiều phước hạnh qua sự biến đổi, chớ không phải sự thay thế. Khi Phao-lô cầu nguyện 3 lần để sự đau đớn của ông được cất đi, ông cầu xin Chúa một sự thay thế: “Xin hãy ban cho con sức khỏe thay cho bệnh hoạn, sự giải cứu thay cho sự đau đớn và yếu đuối.”
Đôi khi Đức Chúa Trời thật sự đáp ứng nhu cầu bằng sự thay thế nhưng lúc khác Ngài đáp ứng nhu cầu bằng sự biến đổi. Ngài không cất đi hoạn nạn, nhưng Ngài ban cho ta ân điển Ngài hầu cho hoạn nạn xảy đến có ích cho chúng ta chớ không nghịch lại chúng ta.
Khi Phao-lô cầu nguyện về vấn đề của ông, Đức Chúa Trời ban cho ông một nhận thức sâu sắc hơn trong việc ông đang làm. Phao-lô học biết rằng cái giằm xóc vào thịt của ông là sự ban cho từ Đức Chúa Trời. Thật là một sự ban cho kỳ lạ! Chỉ có một việc để Phao-lô làm: tiếp nhận sự ban cho từ Đức Chúa Trời và để Đức Chúa Trời hoàn thành những mục đích của Ngài. Đức Chúa Trời muốn giữ Phao-lô khỏi tình trạng “được đề cao quá mức” và đây là cách Ngài hoàn thành điều đó.
Khi Phao-lô tiếp nhận hoạn nạn như sự ban cho của Đức Chúa Trời, điều này khiến ân điển Đức Chúa Trời có thể khởi sự hành dộng trong đời sống ông. Chính khi đó Đức Chúa Trời phán với Phao-lô và ban cho ông sự biết chắc về ân điển Ngài. Mỗi khi bạn trải qua hoạn nạn, hãy dành thêm thời gian trong lời Đức Chúa Trời và bạn có thể biết chắc Đức Chúa Trời sẽ phán với bạn – Ngài luôn có một sứ điệp đặc biệt cho con cái Ngài lúc họ bị hoạn nạn.
Đức Chúa Trời đã không ban cho Phao-lô sự giải thích nào thay vào đó, Ngài ban cho ông một lời hứa: “Ân điển ta đủ cho ngươi rồi”. Chúng ta không sống nhờ vào những lời giải thích chúng ta sống nhờ những lời hứa. Cảm xúc của chúng ta thay đổi, nhưng những lời hứa của Đức Chúa Trời chẳng bao giờ thay đổi. Những lời hứa tạo ra đức tin, và đức tin củng cố hy vọng.
Phao-lô đã nắm giữ lời hứa Đức Chúa Trời và sử dụng ân điển dành cho mình, điều này đã biến điều có vẻ là bi kịch trở nên đắc thắng. Đức Chúa Trời đã không thay đổi hoàn cảnh bằng cách cất đi sự hoạn nạn Ngài thay đổi nó bằng cách thêm vào một thành phần mới: ân điển. Đức Chúa Trời của chúng ta là “Đức Chúa Trời ban mọi ơn” (IPhi 5:10) và cái giằm của Ngài là “cái giằm của ân điển” (Hêb 4:16).
Lời của Đức Chúa Trời là “Lời của ân điển Ngài” (Công 20:32) và lời hứa là “Ngài ban thêm ơn” (Gia 4:6). Cho dù chúng ta nhìn ơn ấy cách nào đi nữa, Đức Chúa Trời thỏa đáng cho mọi nhu cầu chúng ta có.
Nhưng Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta ân điển Ngài đơn giản để chúng ta có thể “chịu đựng” những hoạn nạn của mình. Ngay cả những người không quy đạo có thể bày tỏ sự chịu đựng lớn. Ân điển Đức Chúa Trời phải giúp chúng ta có thể vượt lên trên mọi hoàn cảnh cùng cảm xúc của mình và khiến những hoạn nạn của chúng ta làm lợi cho chúng ta trong việc hoàn thành những điều tốt tích cực.
Đức Chúa Trời muốn gây dựng tính cách chúng ta để chúng ta càng giống Đấng Christ hơn. Ân điển của Đức Chúa Trời không những đã có thể giúp Phao-lô chấp nhận những hoạn nạn của ông, nhưng còn giúp ông hãnh diện trong những hoạn nạn ấy. Hoạn nạn của ông không phải là một bạo chúa cai trị ông, nhưng là một tôi tớ giúp việc cho ông.
Những lợi ích nào Phao-lô đã nhận được do sự chịu khổ của ông? Trước hết, ông đã kinh nghiệm quyền năng của Đấng Christ trong đời sống mình. Đức Chúa Trời đã biến đổi sự yếu đuối của Phao-lô ra sức mạnh. Từ được dịch là “nghỉ ngơi” có nghĩa “căng trại lên”. Phao-lô nhìn thấy thân thể ông như một nhà trại mỏng manh (IICôr 5:1), nhưng vinh hiển Đức Chúa Trời đã đến trong nhà trại ấy và biến đổi nói thành một đền tạm thánh.
Một điều khác xảy đến với Phao-lô: ông đã có thể hãnh diện về những yếu đuối của mình. Điều này không có nghĩa là ông thích sự đau đớn hơn sức khỏe, nhưng đúng hơn là ông biết cách chuyển những yếu đuối của mình thành tài sản. Điều gì đã tạo nên sự khác biệt này? Ân điển của Đức Chúa Trời và vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ông “vui sướng” trong những thử thách và nan đề này, không phải vì ông mất cân bằng về mặt tâm lý và vui hưởng sự đau đớn nhưng do ông muốn chịu khổ vì cớ Đấng Christ. Ông muốn ngợi khen Đức Chúa Trời bằng cách chấp nhận và đối phó những từng trải khốn khó của đời sống.
P.T. Forsyth đã viết “cầu nguyện cho sự thay đổi của tình trạng đau đớn là điều lớn hơn sự cất bỏ nó” và điều này đúng. Phao-lô đã dành chiến thắng không phải bởi sự thay thế, nhưng bởi sự biến đổi. Ông đã khám phá sự đầy đủ của ân điển Đức Chúa Trời.
Từ kinh nghiệm của Phao-lô, chúng ta có thể học nhiều bài học thực tiễn:
1. Đối với Cơ-đốc nhân nhiệt thành, những điều thuộc linh quan trọng hơn nhiều so với những điều thuộc thể.
Điều này không cho rằng chúng ta phớt lờ những điều thuộc thể, vì thân thể chúng ta là đền thờ của Thánh Linh Đức Chúa Trời. Nhưng điều này có nghĩa là chúng ta cố gắng đừng làm cho thân thể mình thành một cứu cánh trong chính chúng.
Chúng là những công cụ của Đức Chúa Trời để hoàn thành công việc Ngài trong thế gian này. Điều Đức Chúa Trời thực hiện trong việc phát triển tính cách Cơ-đốc của chúng ta có giá trị hơn nhiều so với sự chữa lành thuộc thể mà không có tính cách.
2. Đức Chúa Trời biết cách cân bằng gánh nặng và phước hạnh, hoạn nạn và vinh hiển.
Đời sống là cái gì đó giống như một phương thuốc. Các thành phần đặc thù có thể gây tổn thương chúng ta, nhưng khi được hoà lẫn đúng mức, chúng giúp ích cho ta.
3. Không phải mọi bệnh tật đều do tội lỗi gây ra.
Lý luận của những người an ủi Gióp cho rằng Gióp đã phạm tội, và đó là lý do ông bị hoạn nạn. Nhưng lý luận của họ đã sai trong trường hợp của Gióp, cũng như trong trường hợp của Phao-lô. Có những lúc Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan làm khổ chúng ta hầu cho Đức Chúa Trời có thể hoàn thành mục đích lớn trong đời sống chúng ta.
4. Có một thứ tệ hại hơn bệnh tật, đó là tội lỗi và tội lỗi tệ hại nhất trong mọi tội lỗi là sự kiêu ngạo.
Người mạnh khoẻ nào chống lại Đức Chúa Trời thì ở trong hình dạng tệ hại hơn người bị hoạn nạn đang đầu phục Đức Chúa Trời và vui hưởng ân điển Ngài. Chính là một nghịch lý – một bằng chứng về quyền tể trị của Đức Chúa Trời – rằng Đức Chúa Trời đã sử dụng Sa-tan, kẻ kiêu ngạo nhất trong mọi loài, để giúp giữ cho Phao-lô khiêm nhường.
5. Hoạn nạn thuộc thể không hẳn phải là một trở ngại đối với sự hầu việc Cơ-đốc hữu hiệu.
Các thánh-đồ ngày nay rất có khuynh hướng buông thả mình và dùng mọi đau bệnh hay đau khổ nhỏ làm cớ để vắng mặt khỏi Hội thánh hoặc từ chối nhận những cơ hội hầu việc. Phao-lô đã không để cho cái giằm xóc vào thịt của ông trở nên một chướng ngại vật. Thật ra, ông để Đức Chúa Trời biến đổi cái giằm đó trở thành một bàn đạp.
6. Chúng ta có thể luôn yên nghỉ nơi lời Đức Chúa Trời. Ngài luôn có một sứ điệp về sự yên ủi cho chúng ta trong giờ thử thách và hoạn nạn.
Madame Guyon nhà thần bí nổi tiếng người Pháp có lần đã viết cho một người bạn bị hoạn nạn: “Ồ giá mà bạn biết quyền năng nào có trong một nỗi đau buồn được chấp nhận!”
Phao-lô đã biết về quyền năng ấy, vì ông tin cậy ý muốn Đức Chúa Trời và nhờ vào ân điển của Đức Chúa Trời.
Chính quyền năng đó có thể là của bạn hôm nay.
12. BA PHƯƠNG CÁCH ĐỂ SẴN SÀNG (IICôr 12:11-13:13)
Khi Phao-lô kết thúc thư, tình yêu lớn của ông đối với các tín hữu Cô-rinh-tô buộc ông thực hiện một sự nài xin sau cùng. Ông đã không muốn chuyến viếng thăm thứ ba của ông đến Hội thánh của họ là một kinh nghiệm đau buồn thêm cho họ và cho ông. Ông đã mở lòng mình cho họ, giải thích chức vụ của ông, đáp lại những lời tố cáo ông, và thúc giục họ đầu phục lời Đức Chúa Trời cùng vâng theo Chúa. Ông đã có thể nói hay làm gì nữa?
Trong phân đoạn cuối của thư tín, Phao-lô sử dụng 3 phương cách trong sự cố gắng của mình để thúc giục các tín hữu Cô-rinh-tô về sự vâng lời và dự đầu phục.
1. Ông làm họ xấu hổ (IICôr 12:11-21)
(IICôr 12:11-13). Khi chúng ta còn nhỏ, có bao lần chúng ta nghe câu “thật xấu hổ cho con! ” từ một phụ huynh hay một người láng giềng? Thật là một điều tốt khi người ta có thể xấu hổ về những hành động và thái độ xấu xa của mình. Bằng chứng của một tấm lòng cứng cỏi và một lương tâm chai lì là khi một người phạm lỗi không còn cảm thấy xấu hổ. “Họ há lấy làm xấu hổ khi phạm tội gớm ghiếc ư? Không, họ chẳng xấu hổ chút nào, cũng chẳng thẹn đỏ mặt nữa” (Gie 6:15).
-Trước tiên, Phao-lô làm các tín-hữu Cô-rinh-tô xấu hổ vì họ không có sự khen ngợi (IICôr 12:11-13). Lẽ ra họ phải khoe về ông thay vì buộc ông phải khoe mình.Ngược lại, các tín hữu Cô-rinh-tô đã khoe về “các sứ đồ siêu hạng”, những người theo Do-thái giáo đã chiếm tình cảm họ và hiện đang điều hành Hội thánh họ.
Có phải Phao-lô thấp kém hơn những người này? Không đời nào! Các tín hữu Cô-rinh-tô đã chứng kiến Phao-lô qua hành động, thật ra, họ đã nợ chính những linh hồn của mình đối với ông. Ông đã thực hiện giữa vòng họ những dấu lạ chứng minh chức sứ đồ của ông (Hêb 2:1-4). Ông đã kiên trì trong chức vụ mình tại Cô-rinh-tô bất chấp sự bắt bớ bên ngoài cùng những nan đề bên trong.
Ông chẳng làm hao tổn gì cho Hội thánh. Phao-lô đã sử dụng mỉa mai tinh tế của ông một lần nữa khi ông viết “Trừ ra việc tôi chưa bao giờ làm gánh nặng cho anh em, làm sao anh em thấp kém hơn các Hội thánh khác? Hãy tha thứ cho tôi sự sai lầm này!” (IICôr 12:13).
(IICôr 12:14-21). Một trong những hiểm hoạ của đời sống Cơ-đốc là hiểm hoạ trở nên quen với những phước lành của chúng ta. Một mục sư tin kính hay một giáo viên Trường Chúa nhật có thể làm nhiều điều cho chúng ta đến nỗi chúng ta bắt đầu xem nhẹ chức vụ này. (Công bằng mà nói, tôi phải thừa nhận rằng các mục sư đôi khi phạm lỗi xem nhẹ các thuộc viên Hội thánh). Thái độ này khiến Phao-lô làm họ xấu hổ vì họ thiếu sự đánh giá đúng đắn (c.14-18).
Bất chấp những khó khăn vướng víu, Phao-lô đã trung tín viếng thăm các tín hữu Cô-rinh-tô, và giờ đây ông sắp thực hiện chuyến viếng thăm thứ ba (IICôr 13:1). Thay vì biết ơn, các tín hữu Cô-rinh-tô đã chỉ trích Phao-lô về sự thay đổi kế hoạch của ông. Phao-lô đã không nhận sự trợ giúp nào từ Hội thánh, nhưng đúng hơn ông đã ban cho Hội thánh một cách hy sinh vậy mà họ không muốn bày tỏ sự đánh giá đúng đắn của mình bằng cách chia sẻ với người khác. Dường như Phao-lô càng yêu họ, họ càng yêu mến Phao-lô ít hơn! Tại sao? Vì họ đã không có một tình yêu thật thà đối với Đấng Christ (IICôr 11:3). Phao-lô đã vui lòng “sử dụng và chi tiêu” để giúp đỡ Hội thánh.
Những người theo Do-thái giáo đã sử dụng những cách xảo quyệt để vơ vét Hội thánh (IICôr 4:2) nhưng Phao-lô công khai và không có sự lừa đảo. “Thủ thuật” duy nhất Phao-lô đã áp dụng trên họ là sự chối từ nhận sự trợ giúp về tài chính. Trong việc này, ông đã làm họ nguôi giận để họ không bao giờ có thể cáo ông về việc chỉ quan tâm đến tiền bạc. Không ai trong số những cộng sự mà Phao-lô đã phái đến với họ vơ vét của họ bất cứ cách nào hoặc lợi dụng họ.
Thật là điều bi thảm khi con cái không đánh giá đúng đắn những điều cha mẹ làm cho mình. Cũng là một bi kịch con cái Đức Chúa Trời không đánh giá đúng những điều “cha mẹ thuộc linh” của họ làm cho họ. Điều gì là nguyên nhân của sự thiếu đánh giá đúng này? Phao-lô đề cập đến điều đó trong phân đoạn kế tiếp: thiếu sự thánh hoá (c.19-21). Đã có những tội lỗi gớm ghiếc trong Hội thánh, nên Phao-lô muốn họ xử đoán và cất bỏ trước khi ông đến thăm viếng. Nếu không, cuộc viếng thăm của ông chỉ sẽ là kinh nghiệm đau buồn khác.
Một số thuộc viên Hội thánh có lẽ đã nói: “Nếu Phao-lô thăm viếng chúng ta lần nữa, ông ấy chỉ sẽ gây ra thêm những vấn đề!” Phao-lô đã nói rõ rằng ước muốn của ông là giải quyết những vấn đề và củng cố Hội thánh. Tội lỗi trong Hội thánh phải được đối diện cách thành thật và giải quyết cách dạn dĩ. “Giấu nhẹm chúng” là làm cho những vấn đề trở nên tệ hại hơn. Tội lỗi trong Hội thánh như ung nhọt trong cơ thể con người: nó phải bị cắt bỏ.
Hãy xem xét những tội lỗi Hội thánh phạm phải, những tội lỗi đáng phải được xưng ra và cất bỏ. Họ phạm tội cãi cọ (tranh luận) vì đố kỵ nhau. Họ có những cơn bùng nổ bất chợt về sự giận dữ (nóng giận). Họ ủng hộ những quan hệ thể xác và những mưu mô trong Hội thánh (bất hòa), kéo theo những sự nói hành và lời bàn tán xa gần.Mọi điều này sinh ra do sự kiêu ngạo cùng cảm giác cường điệu về sự quan trọng (kiêu ngạo) và dẫn đến sự lộn xộn trong Hội thánh (hỗn loạn) IICôr 12:10. Nếu bạn so sánh phần liệt kê những tội lỗi này với ICôr 13:1-13 bạn sẽ thấy rằng có sự thiếu vắng tình yêu thương trong hội chúng.
Cặp theo những “tội lỗi về tâm linh” này (ICôr 7:1), còn có những tội trọng về xác thịt – ngoại tình và gian dâm (trác táng). Phao-lô đã đề cập những tội này trong ICôr 5:1-6:20 nhưng một số kẻ phạm tội vẫn cứ bất tuân. Họ đã để cho đời sống cũ điều khiển trở lại (ICôr 6:9-11), thay vì nhường chỗ cho đời sống mới.
Phao-lô đã không nôn nóng dự tính trước chuyến viếng thăm thứ 3. Ông sợ rằng ông sẽ không thấy Hội thánh như ông muốn. Nhưng ông hứa với họ rằng cho dù ông sẽ bị sỉ nhục và đau lòng (từ này nghĩa là “thương tiếc những người đã chết”), ông vẫn sử dụng quyền hạn của mình để giải quyết êm đẹp mọi sự. Tình yêu của ông dành cho họ quá lớn đến nỗi ông không thể làm ngơ những vấn đề này và để chúng làm suy yếu Hội thánh.
Các tín hữu Cô-rinh-tô lẽ ra phải xấu hổ, nhưng họ đã không xấu hổ. Để biết chắc mình sẽ làm cho sứ điệp được hiểu rõ, Phao-lô sử dụng phương pháp thứ hai.
2. Ông cảnh cáo họ (IICôr 13:1-8)
Ở đây có 2 lời cảnh cáo.
“Hãy sửa soạn chính mình anh em” (IICôr 13:1-4). Để đối phó với tội lỗi trong một Hội thánh địa phương, chúng ta phải có những sự thật chớ không phải những lời đồn đại. Phao-lô trích dẫn Phuc 19:15 và chúng ta cũng tìm thấy những tương đồng trong Dan 35:30; Mat 18:16 cũng như ITi 5:19. Sự hiện diện của các nhân chứng sẽ giúp bảo đảm sự thật về một vấn đề, đặc biệt khi các thuộc viên Hội thánh có mâu thuẫn với nhau như thế.
Nếu mọi thuộc viện Hội thánh làm theo những chỉ dẫn được Chúa Giê-xu trình bày trong Mat 18:15-20 họ sẽ tự giải quyết được hầu hết những vấn đề của họ. Tôi đã chứng kiến những bất đồng nhỏ trong một Hội thánh phát triển thành những vấn đề lớn và phức tạp chỉ vì các tín hữu đã không vâng theo những sự hướng dẫn của Chúa chúng ta. Mục sư và Hội chúng không nên dính líu vào một vấn đề cho đến khi những cá nhân có liên quan thành thật tìm kiếm một giải pháp.
Những người theo Do thái giáo trong Hội thánh đã cáo Phao-lô là một con người yếu đuối (IICôr 10:7-11). Cách tiếp cận chức vụ của họ nặng nề và độc đoán, trong khi cách tiếp cận của Phao-lô nhẹ nhàng và khiêm nhường (IICôr 1:24).
Giờ đây Phao-lô cho họ biết chắc ông sẽ tỏ với họ ông có thể mạnh mẽ ra sao – nếu đó là điều cần để giải quyết những vấn đề. “Tôi sẽ chẳng dung thứ!” là lời cảnh cáo của ông, và ông đã sử dụng một từ nghĩa là “tha cho trong trận chiến”. Tóm lại, Phao-lô đang tuyên chiến với bất cứ ai chống lại quyền của Lời Đức Chúa Trời.
Những thù địch của Phao-lô đã nói “hãy để Phao-lô chứng minh ông ấy là một sứ-đồ thật!” Lời đáp của Phao-lô “giống như Chúa Giê-xu, tôi mạnh mẽ khi tôi dường như yếu đuối”. Trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã bày tỏ sự yếu đuối, nhưng thập tự giá vẫn là “quyền năng của Đức Chúa Trời (ICôr 1:18). Phao-lô đã giải thích phương cách của ông về cuộc chiến thuộc linh (IICôr 10:1-6) và báo trước cho độc giả của ông đừng nhìn xem bề mặt của những sự việc, nhưng nhìn sâu hơn.
Theo những tiêu chuẩn của thế gian, cả Chúa Giê-xu và Phao-lô đều yếu đuối, nhưng theo tiêu chuẩn của Chúa, cả 2 đều mạnh mẽ. Chính người giúp việc khôn ngoan và trưởng thành biết khi nào để “yếu đuối” và khi nào để “mạnh mẽ” khi người ấy đối phó với những vấn đề kỷ cương trong Hội thánh địa phương.
Một người bạn của tôi là mục sư, hiện ở thiên đàng, đã có một thái độ dịu dàng khi chia sẻ trên toà giảng và một cách tiếp cận tương tự trong chức vụ riêng của ông. Sau khi nghe ông giảng, một người đến dự đã nói: “Tôi cứ chờ ông ấy bắt đầu giảng!” Bà đã quen nghe một diễn giả lớn tiếng phát ra nhiều sức nóng hơn là ánh sáng. Nhưng bạn tôi đã gây dựng một Hội thánh mạnh mẽ vì ông biết những tiêu chuẩn thật cho chức vụ. Ông biết cách “yếu đuối trong Đấng Christ” và cũng biết cách “mạnh mẽ”.
Ngày nay người ta đánh giá chức vụ ra sao? Bởi tài hùng biện mạnh mẽ hay nội dung Kinh Thánh? Bởi cá tính Cơ-đốc hay những điều mà tin tức báo chí nói? Quá nhiều Cơ-đốc nhân chạy theo những tiêu chuẩn thế gian khi họ đánh giá các chức vụ, và họ cần phải chú ý đến những tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời.
“Anh hãy tự xét mình!” (IICôr 13:5-8).
Phân đoạn này là một ứng dụng của từ “bằng cớ” mà Phao-lô sử dụng ở IICôr 13:3. Phao-lô viết “Anh em đã dò xét tôi, nhưng tại sao anh em không để thời gian tự xét mình?” Tôi để ý trong chức vụ tôi rằng những ai nhanh nhảu xét đoán và lên án người khác thì chính họ thường phạm những tội lỗi tệ hại hơn. Thật ra, một cách để làm cho mình trông có vẻ tốt hơn là lên án người khác.
-Trước hết, Phao-lô cho các tín hữu Cô-rinh-tô biết rằng họ phải xét lòng mình để biết họ có thật sự được tái sinh và là những thành viên trong gia đình Đức Chúa Trời hay không. Bạn có yêu anh em mình chăng? (IGi 3:14). Bạn có thực hành sự công bình? (IGi 2:29; IGi 3:9). Bạn đã thắng hơn thế gian để sống một dời sống biệt riêng đầy tin kính chưa? (IGi 5:4). Đây chỉ là một vài thử nghiệm chúng ta có thể áp dụng vào dời sống mình để biết chắc chúng ta là con cái Đức Chúa Trời.
Ở một trong những Hội thánh tôi đã làm mục sư, chúng tôi có một thanh niên là trung tâm của mọi vấn đề trong ban thanh niên. Cậu là một nhạc sĩ có tài và là một thuộc viên của Hội thánh, tuy nhiên cậu là một nan đề.
Vào một mùa hè nọ khi cậu đi trại hè của Hội thánh, những người điều hành ban thanh niên cùng các cộng sự Hội thánh và tôi nhất trí nhau cầu nguyện cho cậu mỗi ngày. Trong một buổi nhóm, cậu đúng dậy và tuyên bố rằng cậu đã được cứu tuần lễ ấy. Cho đến thời điểm này việc cho rằng mình là Cơ-đốc nhân của cậu là giả dối. Cậu đã trải qua một sự thay đổi gây ấn tượng mạnh mẽ trong đời sống cậu, và hôm nay cậu đang hầu việc Chúa cách trung tín.
Chẳng nghi ngờ khi có nhiều vấn đề trong Hội thánh tại Cô-rinh-tô gây ra do những người đã xưng mình được cứu, nhưng chẳng bao giờ ăn năn và tin nhận Chúa Giê-xu. Ngày nay các Hội thánh của chúng ta đầy dẫy những con người như thế.
Phao-lô gọi những người đó là “kẻ đáng bị bỏ” nghĩa là “giả mạo, không đáng tin cậy sau một cuộc thử nghiệm”. Phao-lô sử dụng từ này lần nữa trong (IICôr 13:6-7) nhấn mạnh sự kiện đó là thật quan trọng cho một người biết chắc rằng mình được cứu và sẽ đến thiên đàng (IGi 5:11-13).
Trong IICôr 13:7, Phao-lô cho biết rõ ông không muốn các tín hữu Cô-rinh-tô thất bại trong cuộc thử nghiệm chỉ để chứng minh rằng ông đúng. Ông cũng không muốn họ sống những đời sống tin kính chỉ để ông có thể khoe về họ. Ông không ngại bị khinh ghét và chỉ trích vì cớ họ, bao lâu họ vâng lời Chúa. Ông không quan tâm về danh vọng riêng, vì Chúa biết lòng ông, nhưng ông quan tâm về tính cách Cơ-đốc của họ.
Điều quan trọng là chân lý của Phúc-Âm và Lời Đức Chúa Trời (IICôr 13:8). Ở đây Phao-lô đã không tuyên bố rằng tấn công chân lý hay ngăn trở chân lý là không thể được, vì những điều này đang diễn ra vào thời ấy tại Hội thánh Cô-rinh-tô.
Ông khẳng định rằng ông với các cộng sự của ông muốn chân lý được thắng hơn đạt đến họ có thể quyết định thúc đẩy chân lý, chớ không cản trở chân lý. Cuối cùng, chân lý của Đức Chúa Trời sẽ thắng hơn, vậy tại sao cố gắng chống lại nó? “Chẳng có sự khôn ngoan nào, sự thông minh nào, hay là mưu kế nào, mà chống địch Đức Giê-hô-va được” (Ch 21:30).
3. Ông khích lệ họ (IICôr 13:9-13)
Trước tiên, Phao-lô đã yên ủi các tín hữu Cô-rinh-tô bằng những lời cầu nguyện riêng của ông thay cho họ (ICôr 13:9). Từ được dịch là “ao ước” trong Bản dịch King James mang ý nghĩa của “cầu nguyện”.
Phao-lô đã cầu nguyện để họ được nên trọn vẹn, không có nghĩa là sự trọn vẹn hoàn toàn vô tội, nhưng là “sự trưởng thành về thuộc linh”. Từ này là một phần trong một nhóm từ tiếng Hy-lạp nghĩa là “được sắm sửa, được trang bị”, là một thuật ngữ y học, nó có nghĩa là “sửa lại một cái xương bị gãy, chỉnh lại một phần thân thể bị biến dạng”.
Nó cũng có nghĩa “trang bị một con tàu cho một chuyến hành trình” và “trang bị cho một quân đội để chiến đấu”. Trong Mat 4:24 từ này được dịch là “vá lưới”.
Một trong những chức vụ của Chúa phục sinh của chúng ta là chức vụ hoàn thiện dân Ngài (Hêb 13:20-21). Ngài dùng Lời Đức Chúa Trời (IITi 3:16-17) trong mối thông công của Hội thánh địa phương (Eph 4:11-16) để trang bị cho dân Ngài đời sống và sự hầu việc. Ngài cũng sử dụng hoạn nạn làm một công cụ trang bị cho chúng ta (IPhi 5:10).
Khi các Cơ-đốc nhân cầu thay cho nhau và giúp đỡ nhau cách riêng tư (Ga 6:1) ở đây “sửa lại” là cùng một từ “làm nên trọn vẹn” này, thì Chúa được tôn cao sẽ dạy dỗ Hội thánh Ngài và khiến họ trở nên xứng hợp cho chức vụ.
Sự tăng trưởng và chức vụ Cơ-đốc được quân bình không hể trong tình trạng cô lập. Có người nào đó đã nói rằng việc trưởng dưỡng một Cơ-đốc nhân không khác gì việc nuôi dưỡng một con bé. Cơ-đốc nhân thuộc về nhau và cần đến nhau. Một đứa trẻ phải lớn lên trong một gia đình yêu thương nếu muốn có được quân bình và bình thường.
Sự nhấn mạnh ngày nay về “Cơ-đốc nhân cá nhân” như là một phần cách biệt khỏi hội chúng địa phương, là sai trật và rất nguy hiểm. Chúng ta là những con chiên và chúng ta phải nhóm bầy với nhau. Chúng ta là những chi thể của cùng một thân, và chúng ta phải chăm sóc nhau.
Trong IICôr 13:10, Phao-lô đã cho các tín hữu Cô-rinh-tô sự yên ủi thứ hai – Lời Đức Chúa Trời. Phao-lô viết thư này để đáp ứng những nhu cầu tức thời của một hội chúng địa phương, nhưng chúng ta ngày nay được lợi ích từ thư tín ấy vì nó là một phần của Lời Đức Chúa Trời đã được hà hơi.
Bức thư mang một thẩm quyền gống như sự hiện diện của chính vị sứ đồ này. Ước muốn lớn lao của Phao-lô là sự vâng phục của hội chúng đối với thư tín này giải quyết được những vấn đề của họ, hầu cho ông sẽ không phải thực hiện quyền hạn khi thăm viếng họ.
Đôi lúc người dạy đạo phải phá đổ trước khi người ấy có thể gây dựng (Gie 1:7-10). Người nông dân phải nhổ cỏ dại trước khi người ấy có thể trồng những hạt giống và được vụ mùa tốt. Phao-lô đã phải đánh đổ tư tưởng sai lầm trong tâm trí các tín hữu Cô-rinh-tô (Gie; IICôr 10:4-6) trước khi ông có thể gây dựng chân lý trong lòng và trí họ. Thái độ tiêu cực của các tín hữu Cô-rinh-tô khiến Phao-lô cần thiết phải trừ khử, nhưng ước muốn lớn của ông là gây dựng.
Trong chức vụ của riêng tôi, tôi đã thực hiện xong 2 chương trình xây dựng và 2 chương trình tu sửa mặc cho mọi đòi hỏi của chúng, chương trình xây dựng đối với tôi dễ hơn nhiều. Xây dựng một kiến trúc mới trên đất chưa được cải tạo còn đơn giản hơn và ít tốn kém hơn phá đổ những bức tường và cố gắng tu sửa một toà nhà cũ. Tương tự như vậy, nhận một tín hữu mới và dạy đạo cho người ấy dễ hơn nhiều so với cố gắng thay dổi tư tưởng sai lầm của một thánh-đồ kỳ cựu. Những quan niệm sai lầm có thể “chống lại” chân lý một thời gian dài, cho đến khi Thánh Linh Đức Chúa Trời phá huỷ những bức tường trong tâm trí.
Phao-lô đã khích lệ các thánh-đồ trau dồi ân điển, tình yêu thương và sự bình an (IICôr 13:11-12), Từ được dịch là “chào” nghĩa là “ân điển”, một dạng chào hỏi thông thường thời bấy giờ. Nó cũng có thể được dịch là “sự vui mừng”. Mệnh lệnh “hãy nên trọn lành” có liên quan đến lời cầu nguyện của Phao-lô trong IICôr 13:9 và mang ý nghĩa “Hãy trưởng thành, hãy được phục hồi và thích hợp cho đời sống”. “Hãy ở trong sự an ủi tốt đẹp” nghĩa là “hãy can đảm”. Mặc cho mọi tội lỗi và những vấn đề của họ, họ có mọi quyền để được khích lệ.
“Hãy sống trong sự bình an” là một lời khuyên cần thiết, vì đã có những sự phân rẽ và bất hoà trong Hội thánh (IICôr 12:20). Nếu họ thực hành tình yêu thương và tìm cách hiệp một ý, những tranh chiến sẽ chấm dứt và họ sẽ vui hưởng sự bình an trong mối thông công của họ. Hiệp một ý không có nghĩa là chúng ta đều đồng ý mọi việc, nhưng là chúng ta đồng ý không bất hoà về những vấn đề không cần thiết.
Đức Chúa Trời của chúng ta là “Đức Chúa Trời của sự yêu thương và sự bình an” (IICôr 13:11). Thế gian bên ngoài có thể nhận biết qua cách chúng ta sống và cách chúng ta điều hành công việc Hội thánh không? “Hãy xem cách họ yêu thương nhau! ” là điều thế gian hư mất đã nói về Hội thánh đầu tiên, nhưng kể từ khi Hội thánh nhận được lời khen ấy cho đến nay đã là một thời gian dài.
Từ thời xưa, cái hôn đã từng là một dạng chào hỏi và là một cử chỉ của tình yêu cùng mối thông công. Tuy nhiên, nó đã thường được trao đổi giữa các thuộc viên cùng phái. Hội thánh đầu tiên đã dùng cái hôn của sự bình an và cái hôn của tình yêu thương như những chứng cớ của tình cảm và mối quan tâm của họ đối với nhau. Đó là một “cái hôn thánh”, được thánh hóa bởi sự tận tuỵ đối với Chúa Giê-xu Christ. Hôn các tín-hữu mới sau khi họ chịu phép báp-têm và được tiếp đón vào trong mối thông công không phải là điều lạ đối với các thuộc viên của Hội thánh ban đầu.
Mối thông công hằng ngày của dân sự Đức Chúa Trời là quan trọng đối với Hội thánh. Chúng ta phải chào hỏi nhau ở những nơi khác cũng như mối thông công của hội chúng, và chúng ta phải bày tỏ sự quan tâm lẫn nhau. Để đưa ra lời khuyên trong IICôr 13:12, Phao-lô chắc chắn đã đánh mạnh vào một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất trong Hội thánh: sự chia rẽ và sự thiếu sót của họ về mối quan tâm lẫn nhau.
Lời chúc phước cuối cùng trong IICôr 13:13 là một trong những chúc phước được yêu thích nhất trong Hội Thánh. Nó nhấn mạnh Ba Ngôi Đức Chúa Trời (Mat 28:19) và những phước hạnh chúng ta có thể nhận được vì chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời.
Ân điển của Chúa Giê-xu nhắc chúng ta về sự giáng sinh của Ngài, khi Ngài trở nên nghèo để khiến chúng ta được giàu có (Gi 3:16). Sự giao thông của Thánh Linh nhắc chúng ta về lễ Ngũ tuần, khi Thánh Linh Đức Chúa Trời ngự đến và thiết lập Hội thánh (Công 2:1-47)
Nhưng tín hữu Cô-rinh-tô lúc đó và mọi tín hữu bây giờ rất cần những phước hạnh của ân điển, tình yêu và sự giao thông. Những người theo Do-thái giáo lúc ấy, và những hệ phái ngày nay nhấn mạnh luật pháp thay vì ân điển, tính độc nhất thay vì tình yêu thương, và sự độc lập hơn là sự giao thông (mối thông công). Sự tranh cạnh trong Hội thánh Cô-rinh-tô, dẫn đến những chia rẽ, lẽ ra sẽ được giải quyết nếu dân sự chỉ sống bởi ân điển và tình yêu của Đức Chúa Trời.
Hội thánh là một phép lạ, và Hội thánh có thể được duy trì bởi chức vụ mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. Không một số lượng nào về kỹ năng, tài năng hay những chương trình của con người có thể làm cho Hội thánh đạt được điều đáng phải có. Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể thực hiện điều đó.
Nếu mỗi Cơ-đốc nhân nhờ câỵ nơi ân điển Đức Chúa Trời, bước đi trong tình yêu của Đức Chúa Trời và dự phần trong mối thông công của Thánh Linh, không bước đi trong xác thịt, vậy người ấy sẽ là một phần của lời giải đáp chớ không phải một phần của vấn đề. Người ấy sẽ sống trong sự chúc phước này – và là một sự chúc phước cho những người khác.
Hãy cầu xin Đức Chúa Trời khiến bạn trở nên mẫu Cơ-đốc nhân đó.
Hãy can đảm – và rồi hãy khích lệ người khác.
bottom of page