top of page

GA-LA-TI (1)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Thư Phao-lô



Phần Một: ÂN ĐIỂN VÀ PHÚC-ÂM


1. NHỮNG TIN TỨC XẤU VỀ TIN MỪNG (Ga 1:1-10)


Cậu...

...bé đang đứng trước cửa nhà cố tìm cách bán cho tôi tờ tuần báo, và cậu ta ra sức thuyết phục. Cậu ấy nói, “Mỗi tuần ông chỉ tốn một phần tư đô-la thôi, và ông có một tờ báo in toàn những tin tốt!”.


Trong một thế giới đầy dẫy phiền toái, ngày càng khó tìm một “tin tức tốt” nào, do đó có lẽ dầu sao tờ báo cũng là một món hời. Đối với người đã tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Đấng Cứu Rỗi cho đời mình, “tin tức tốt” thật sự chỉ là Phúc-Âm: “Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh... Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba Ngài sống lại theo lời Kinh Thánh” (ICôr 15:3-4).

Đó là tin mừng tội nhân có thể được tha tội và đi vào thiên đàng bởi những gì Chúa Giê-xu Christ đã làm trên thập tự giá. Phúc-Âm cứu rỗi bởi tin nơi Đấng Christ là sứ điệp quan trọng nhất trong thế gian.


Sứ điệp này biến đổi cuộc đời của Phao-lô và qua ông nhiều cuộc đời khác cũng được thay đổi. Nhưng hiện giờ sứ điệp ấy đang bị công kích, và Phao-lô cố gắng binh vực chân lý của Phúc-Âm. Một số giáo sư giả đã xâm nhập vào các Hội thánh tại Ga-la-ti; các Hội thánh Phao-lô đã thành lập; dạy một sứ điệp khác những gì Phao-lô đã giảng dạy.


Khi bắt đầu đọc thơ Phao-lô gởi cho tín-hữu Ga-la-ti, bạn có thể nói ngay rằng trong thơ có một vài chỗ sai căn bản, vì Phao-lô không mở đầu bức thơ bằng sự ngợi khen Đức Chúa Trời và lời cầu thay cho các thánh-đồ như thường lệ. Ông không có thời gian! Phao-lô sắp bước vào trận chiến đấu vì chân lý của Phúc-Âm và tự do của cuộc sống Cơ-đốc.

Các giáo sư giả đang rao giảng một “Phúc-Âm” khác pha trộn giữa luật pháp và ân điển, Phao-lô không thể ngồi yên chẳng có hành động nào cả.


Phao-lô tiếp cận với tín hữu Ga-la-ti như thế nào trong cố gắng dạy họ chân lý về Phúc-Âm? Trong những câu mở đầu, sứ đồ Phao-lô thực hiện ba bước trong việc chuẩn bị cho trận chiến đấu này.


1. Phao-lô giải thích quyền hạn của mình (Ga 1:1-5)

Về cuối bức thơ, Phao-lô đối xử với tín hữu Ga-la-ti trên nền tảng lòng yêu thương (Ga 4:12-20) nhưng lúc bắt đầu bức thơ ông cẩn thận cho họ biết thẩm quyền ông nhận được từ Chúa. Phao-lô có ba nguồn thẩm quyền.


Chức vụ của ông (Ga 1:1-2).

“Phao-lô, làm sứ-đồ...” Vào ngày đầu thành lập Hội thánh, Đức Chúa Trời kêu gọi những người đặc biệt thực hiện các nhiệm vụ riêng biệt. Trong số những người ấy là các sứ-đồ. Từ ngữ này có nghĩa “người được sai phái thực hiện một sứ mạng”.

Trong lúc thi hành chức vụ trên thế gian, Chúa Giê-xu có nhiều môn-đệ ("những học trò"), và từ trong số họ Ngài chọn 12 sứ-đồ (Mac 3:13-19). Sau đó, một trong những yêu cầu cho chức vụ sứ-đồ là phải tận mắt chứng kiến sự sống lại của Chúa (Công 1:21-22; Công 2:32; Công 3:15).

Dĩ nhiên, chính Phao-lô không phải là môn-đệ cũng không là sứ-đồ trong suốt thời gian chức vụ trên thế gian của Đấng Christ, nhưng ông đã thấy Chúa sống và được Ngài giao nhiệm vụ (Công 9:1-18; ICôr 9:1).


Sự qui đạo lạ lùng và việc Phao-lô được kêu gọi trở thành sứ-đồ tạo ra một số vấn đề. Từ ban đầu, ông tách biệt với các sứ-đồ đầu tiên. Kẻ thù nói rằng vì lý do này người không phải là sứ-đồ thật. Phao-lô cẩn thận cho biết rằng ông đã được Chúa Giê-xu Christ lập làm sứ-đồ như mười hai vị sứ-đồ ban đầu. Chức vụ sứ-đồ của ông không phải do con người tuyển chọn và chấp nhận, nhưng do sự bổ nhiệm từ trên cao. Do đó, ông có thẩm quyền giải quyết các rắc rối trong các Hội thánh tại Ga-la-ti.


Nhưng trong lãnh vực chức vụ của ông, Phao-lô có được căn bản thẩm quyền thứ hai: ông đã thành lập các Hội thánh tại Ga-la-ti. Phao-lô không viết thơ này trong tư thế một người xa lạ, nhưng là người đem sứ điệp sự sống đến cho họ trong buổi đầu tiên! Bức thơ này bày tỏ lòng thương yêu của Phao-lô dành cho những tín-hữu tại đây (Ga 4:12-19). Đáng tiếc, lòng thương yêu này không được đáp lại.


Việc thành lập Hội thánh Ga-la-ti đã buộc các nhà nghiên cứu Kinh Thánh làm việc nghiêm túc trong nhiều năm. Vấn đề xuất phát từ ý nghĩa của chữ GALATI. Vài trăm năm trước Đấng Christ giáng sinh, một số bộ lạc hung tợn từ xứ Gaul (nước Pháp hiện nay) di cư vào Tiểu Á, và thành lập nên Ga-la-ti, nghĩa đơn giản là “đất nước của những người xứ Gaul”.

Khi người La-mã sắp xếp lại thế giới cổ đại, họ biến Ga-la-ti thành một phần của một tỉnh rộng lớn hơn bao gồm vài vùng khác nữa, và gọi toàn tỉnh này là Ga-la-ti, Vì vậy, ngược lại thời điểm của Phao-lô, khi có người nói về Ga-la-ti, bạn không thể biết chắc anh ta muốn nói đến đất nước Ga-la-ti nhỏ bé hoặc tỉnh rộng lớn hơn của người La-mã.


Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh chia làm hai quan điểm trước vấn đề Phao-lô viết cho các Hội thánh trong nước Ga-la-ti hay trong tỉnh Ga-la-ti. Quan điểm thứ nhất được gọi là “thuyết bắc Ga-la-ti” và quan điểm sau là “thuyết nam Ga-la-ti”.

Vấn đề không có cách giải quyết chung cuộc, nhưng bằng chứng dường như cho thấy Phao-lô đã viết cho các Hội thánh ở phía Nam của tỉnh Ga-la-ti: gồm có An-ti-ốt, Y-cô-ni, Lít-trơ, Đẹt-bơ - các Hội thánh ông đã thành lập trong chuyến hành trình truyền giáo lần thứ nhất (Công 13:1-14:28).


Phao-lô luôn luôn bày tỏ lòng yêu thương quan tâm đến những người tin đạo và ao ước ghé thăm các Hội thánh ông ta đã thành lập để làm vinh hiển Đấng Christ (Công 15:36; IICôr 11:28). Ông không vui khi dắt dẫn mọi người đến với Đấng Christ rồi bỏ mặc họ. (Để xem gương “săn sóc” của ông, hãy đọc ITês 2:1-20).


Khi nghe nói các giáo sư giả bắt đầu chiêu dụ những người qui đạo và dẫn họ đi sai đường, Phao-lô vô cùng lo lắng - và đúng vậy. Dẫu sao, dạy các tân tín-hữu cách sống cho Đấng Christ là một phần trong mệnh lệnh của Đấng Christ cũng như chinh phục họ (Mat 28:19-20).

Buồn thay, nhiều tín hữu Ga-la-ti đã trở mặt với Phao-lô, “người cha thuộc linh” trong Chúa của họ, và bây giờ chạy theo các giáo sư chủ luật, những người pha trộn Luật pháp Cựu-ước với Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời. (Chúng ta gọi những giáo sư giả này là “những giáo sư Do-thái” vì họ đang tìm cách lôi kéo người theo Chúa quay trở lại hệ thống Do-thái giáo).


Như vậy, Phao-lô đã thi hành chức vụ sứ-đồ, và đặc biệt là người sáng lập các Hội thánh Ga-la-ti. Như thế ông có thẩm quyền giải quyết các nan đề trong các Hội thánh Ga-la-ti. Nhưng Phao-lô còn có nguồn thẩm quyền thứ hai:


Sứ điệp (c.3-4). Từ lúc khởi đầu, Phao-lô nói cách rõ ràng về sứ điệp của Phúc-Âm, vì những người theo đạo Do-thái đang thay đổi sứ điệp này. Phúc-Âm tập trung vào một Con Người - đó là Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời. Con Người này đã trả giá cao - Ngài đã phó chính thân Ngài chịu chết trên thập tự giá. (Bạn sẽ khám phá ra tầm quan trọng của thập tự giá trong thư Ga-la-ti, (Ga 2:19-21; Ga 3:1,13; Ga 4:5; Ga 5:11,24; Ga 6:12-14). Đấng Christ trả giá để Ngài đạt được mục đích - giải phóng tội nhân thoát khỏi ách nô lệ.


“Tự do trong Đấng Christ” là chủ đề nổi bật nhất trong thơ Ga-la-ti. (Hãy kiểm tra chữ ách nô lệ trong Ga 2:4; Ga 4:3,9,24-25; Ga 5:1). Những người theo đạo Do-thái muốn hướng dẫn các Cơ-đốc nhân ra khỏi tự do của ân điển để trở thành nô lệ cho luật pháp. Phao-lô biết rằng ách nô lệ không phải là một phần của sứ điệp Phúc-Âm, vì Đấng Christ đã chết cho con người được tự do.


Chức vụ và sứ điệp của Phao-lô là những nguồn của thẩm quyền thuộc linh, nhưng cũng còn có:


Động cơ của ông (c.5). “Nguyền Ngài được vinh hiển đời đời!”. Các giáo sư giả không hầu việc vì sự vinh hiển của Đấng Christ, nhưng để làm vinh hiển cho riêng mình (Ga 6:12-14). Giống như các giáo sư giả ngày nay, những người theo đạo Do-thái không bận tâm chinh phục người hư mất về cho Đấng Christ.

Đúng hơn họ đang ăn cắp “chiên” của người khác và khoe khoang về con số thống kê của mình. Nhưng động cơ của Phao-lô là trong sạch và thánh thiện: ông muốn làm vinh hiển Chúa Giê-xu Christ (ICôr 6:19-20; ICôr 10:31-33).


Bây giờ Phao-lô giải thích thẩm quyền của mình. Ông đã sẵn sàng bước thứ hai cho cuộc chiến đấu vì tự do của Cơ-đốc nhân.


2. Phao-lô bày tỏ nỗi lo lắng (Ga 1:6-7)

“Tôi lấy làm lạ cho anh em đã vội bỏ Đấng gọi anh em...! ” Đây là lý do đầu tiên làm Phao-lô lo lắng: Người Ga-la-ti đang rời bỏ ân điển của Đức Chúa Trời. (Động từ trong câu cho thấy họ đang tiến hành lìa bỏ và chưa hoàn toàn bỏ hẳn).


Phao-lô không bỏ lỡ cơ hội.

Đức Chúa Trời đã gọi họ bằng ân điển của Ngài, và cứu họ thoát khỏi tội lỗi. Bây giờ họ đang lìa bỏ ân điển để trở lại với luật pháp. Họ chối bỏ tự do để tuân giữ theo luật pháp! Và quá vội thực hiện điều đó mà không hỏi ý Phao-lô, người “cha thuộc linh” của họ, hoặc để thì giờ cho Đức Thánh Linh chỉ dạy. Họ bắt đầu say mê tôn giáo Do-thái, như trẻ nhỏ chạy theo người lạ vì người ấy cho chúng kẹo ngọt.


“Ơn của Đức Chúa Trời” là chủ đề cơ bản trong bức thư này (Ga 1:3,6,15; Ga 2:9,21; Ga 5:4; Ga 6:18). Ân điển là đặc ân của Đức Chúa Trời dành cho tội nhân không xứng đáng. Chữ “ân điển” và “quà tặng” đi đôi với nhau, vì sự cứu rỗi là món quà của Đức Chúa Trời bởi ân điển Ngài (Eph 2:8-10).

Tín hữu Ga-la-ti không chỉ “thay dổi tôn giáo” hoặc “thay dổi nhà thờ” nhưng thực sự họ đang lìa bỏ chính ân điển của Đức Chúa Trời! Làm cho tình thế càng xấu hơn, họ đang lìa bỏ chính Đức Chúa Trời nguồn ân điển! Đức Chúa Trời đã kêu gọi và cứu vớt họ giờ đây họ từ bỏ Ngài để chạy theo những người lãnh đạo thế tục sẽ mang họ vào ách nô lệ của luật pháp.


Chúng ta không bao giờ được quên rằng đời sống Cơ-đốc nhân là mối tương giao sống động với Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ. Một người không thể trở thành Cơ-đốc nhân khi chỉ chấp nhận một giáo lý người ấy trở nên Cơ-đốc nhân khi thuận phục và tin nhận Đấng Christ (Rô 1:16).

Bạn không thể pha trộn ân điển với việc làm được, vì việc này loại bỏ việc kia. Cứu rỗi là món quà ân điển của Đức Chúa Trời, được Chúa Giê-xu Christ mua cho chúng ta trên thập tự giá. Chuyển từ ân điển sang luật pháp là phủ nhận Đức Chúa Trời Đấng đã cứu chuộc chúng ta.


Nhưng họ phạm một tội khác khiến Phao-lô lo lắng hơn: họ đang xuyên tạc Phúc-Âm của Đức Chúa Trời. Những giáo sư Do-thái khẳng định họ đang giảng “Phúc-Âm”, nhưng không thể có hai Phúc Âm, một tập trung vào việc làm và một tập trung vào ân điển. Phao-lô viết, “Họ không rao giảng một Phúc-Âm khác, nhưng một sứ điệp khác - một sứ điệp khác xa chân lý Phúc-Âm đến nỗi không có chút tin lành nào cả.” 

Giống như những hệ phái ngày nay, người theo đạo Do-thái bảo rằng, “Chúng ta tin Chúa Giê-xu Christ - nhưng có một số điều kỳ diệu cần thêm vào những gì chúng ta đã tin.” Dường như người nào cũng có thể “thêm” điều gì đó tốt hơn vào trong ân điển của Đức Chúa Trời!


Chữ đã dịch là “đánh đổ” trong câu 7 được dùng chỉ có ba lần trong Tân-ước (Công 2:20; Gia 4:9; Ga 1:7). Nó có nghĩa “quay mặt lại, đổi sang một cá tính đối nghịch”. Từ này có thể dịch là “quay ngược trở lại”. Nói cách khác, người Do-thái hoàn toàn thay đổi Phúc-Âm - họ đã ngoảnh mặt với Phúc-Âm và quay trở lại với luật pháp! Ở cuối bức thư này, Phao-lô giải thích thế nào luật pháp là sự chuẩn bị cho sự đến của Chúa Giê-xu Christ, nhưng người theo đạo Giu-đa đã giải nghĩa khác. Đối với họ, luật pháp và Phúc-Âm đi chung với nhau. “Nếu các ngươi chẳng chịu phép cắt bì theo lễ Môi-se, thì không thể được cứu rỗi.” (Công 15:1).


Việc “bỏ đạo và hiểu sai lệch” đang gây ra điều gì cho tín hữu Ga-la-ti? Nó làm họ bối rối (Ga 1:7). Động từ làm bối rối mang theo nó ý tưởng bối rối, lẫn lộn, và bất an. Bạn sẽ tìm thấy một số ý tưởng tác động của từ ngữ này khi xem cách nó được sử dụng ở các nơi khác. Làm bối rối mô tả những cảm xúc của môn-đồ trong thuyền giữa cơn bão (Mat 14:26).

Nó cũng mô tả những cảm xúc của Vua Hê-rốt lúc nghe một vua mới sanh ra (Mat 2:3). Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Phao-lô lo lắng cho tín hữu của ông: họ đang trải qua sự khuấy động mạnh mẽ bởi các giáo sư giả đem đến cho các Hội thánh. Ân điển luôn luôn dẫn đến sự bình an (Ga 1:3), nhưng các tín-hữu đã lìa bỏ ân điển và do đó lòng họ không được bình an.


Hãy nhớ rằng ân điển của Đức Chúa Trời bao gồm thêm nhiều điều hơn là sự cứu rỗi của con người. Chúng ta không những được cứu bởi ân điển, nhưng còn sống bởi ân điển (ICôr 15:10). Chúng ta đứng vững trong ân điển đó là nền tảng cho cuộc sống Cơ-đốc (Rô 5:1-2).

Ân điển cho chúng ta sức mạnh cần thiết để làm người lính chiến thắng (IITi 2:1-4). Ân điển giúp chúng ta chịu được đau khổ mà không than van, và còn dùng đau khổ làm sáng danh Đức Chúa Trời (IICôr 12:1-10). Khi một Cơ-đốc nhân quay khỏi sự sống bởi ân điển của Đức Chúa Trời, người ấy phải dựa vào sức riêng của mình. Điều này dẫn đến thất bại và thất vọng.

Đây là điều Phao-lô có ý muốn nói “mất ân điển rồi” (Ga 4:5) - lìa khỏi phạm vi của ân điển và chuyển sang phạm vi luật pháp, thôi nương cậy nơi các nguồn của Đức Chúa Trời và nhờ cậy sức riêng của mình.


Phao-lô lo lắng băn khoăn là điều đương nhiên. Bạn hữu trong Đấng Christ của ông đang lìa bỏ Đức Chúa Trời của ân điển, xuyên tạc ân điển của Đức Chúa Trời, trở lại sống theo xác thịt và nguồn vui riêng của mình. Họ bắt đầu cuộc sống Cơ-đốc nhân trong Đức Thánh Linh, nhưng bây giờ họ tiếp tục cậy năng lực của xác thịt (Ga 3:3).


Phao-lô đã giải thích thẩm quyền của mình và bày tỏ nỗi lắng lo của ông, bây giờ ông đi bước thứ ba:


3. Phao-lô vạch trần những đối thủ của ông (Ga 1:8-10)

“Hãy yêu thương, đừng gây chiến!” có thể là câu biểu ngữ quen thuộc, nhưng không phải lúc nào cũng thực hiện được. Bác sĩ phải vật lộn chống lại bệnh tật và tử thần các kỹ sư về vệ sinh phải chiến đấu chống lại sự dơ bẩn và ô nhiễm các nhà luật pháp phải chống lại sự bất công và tội ác. Tất cả họ tranh đấu vì điều mà họ yêu thương!

“Hỡi những kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, hãy ghét sự ác” (Thi 97:10). “Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành” (Rô 12:9). Phao-lô tiến hành cuộc chiến chống lại các giáo sư giả vì yêu mến chân lý, và vì yêu thương những người ông đã dắt dẫn đến với Đấng Christ. Giống như người cha yêu thương bảo vệ con gái của mình cho đến lúc nàng lấy chồng, Phao-lô bảo vệ tín hữu của mình kẻo họ bị quyến rũ sa vào tội lỗi (IICôr 11:1-4).


Chúng ta nhận biết giáo sư Do-thái bởi Phúc-Âm giả họ rao giảng. Trắc nghiệm chức vụ của một người không phải ở sự nổi tiếng (Mat 24:11), hoặc ở những dấu kỳ phép lạ (Mat 24:23-24), nhưng bởi lòng trung thành của người đó đối với Lời Đức Chúa Trời (Es 8:20; ITi 4:1-16; IGi 4:1-6 và lưu ý IIGi 1:5-11 khuyến cáo chúng ta không ủng hộ những người đem đến giáo lý sai lầm).

Đấng Christ đã giao phó Phúc-Âm cho Phao-lô (ICôr 15:1-8), và đến lượt ông giao phó cho các tôi tớ trung thành khác (ITi 1:11 và ITi 6:20; IITi 1:13 và IITi 2:2). Nhưng giáo sư Do-thái đã xuất hiện và thay thế Phúc-Âm bằng một Phúc-Âm khác, và vì tội lỗi này, Phao-lô tuyên bố họ bị rủa sả. Chữ ông dùng là a-na-them, có nghĩa “biệt riêng để diệt” (Đọc Công 23:14 để thấy hình ảnh minh hoạ đầy đủ về từ ngữ này) Cho dù người rao giảng là ai - một thiên sứ từ trời hay chính bản thân Phao-lô - nếu người ấy rao giảng một Phúc-Âm khác, người đó đáng bị rủa sả!


Nhưng còn có tính chất thứ hai của đối thủ Phao-lô: đó là họ thực hành những động cơ giả. Kẻ thù buộc tội Phao-lô vì thoả hiệp và “điều chỉnh” Phúc-Âm cho phù hợp với dân ngoại. Có lẽ họ bóp méo ý nghĩa của lời Phao-lô nói, “Tôi đã trở nên mọi cách cho mọi người, để cứu chuộc được một vài người không cứ cách nào” (ICôr 9:22).

Họ nói, “Khi Phao-lô ở với người Do-thái, ông sống như một người Do-thái nhưng lúc ở với dân ngoại, ông sống như người ngoại bang. Ông ta là người làm hài lòng người khác, và do đó chúng ta không thể tin cậy người được”.


Nhưng trong thực tế, chính giáo sư giả mới là người tìm cách làm vừa lòng con người.

Phao-lô viết, “Những người đó vì anh em mà sốt sắng , thì không phải là ý tốt. Họ muốn anh em lìa bỏ chúng tôi, hầu cho anh em sốt sắng vì họ” (Ga 4:17).

Về cuối thư, Phao-lô cũng cho thấy các giáo sư giả là những người thỏa hiệp, thực hành trở lại những chỉ dạy trong Cựu-ước để họ không bị dân Do-thái bắt bớ (Ga 6:12-15). Phao-lô thật sự không phải là người làm vừa lòng con người.

Chức vụ của ông không đến từ con người (Ga 1:1), sứ điệp của ông cũng không bởi con người (Ga 1:12). Vậy thì tại sao ông phải sợ con người? Tại sao ông phải cố tìm cách làm đẹp lòng con người? Lòng khao khát của ông là làm đẹp lòng Đấng Christ.


Khi Verdi cho ra đời vở ô-pê-ra đầu tiên tại Florence, nhà soạn nhạc đứng một mình trong bóng tối và đưa mắt nhìn một người trong số khán giả - đó là nhà soạn nhạc Rossini vĩ đại. Dù mọi người trong nhà hát có vỗ tay tán thưởng hay chế nhạo cũng không ảnh hưởng gì đến Verdi tất cả những gì ông muốn có là nụ cười chấp nhận từ người thầy của mình.

Đối với Phao-lô cũng vậy. Ông biết phải chịu khổ vì Phúc-Âm, nhưng sự ủng hộ hay phản đối của con người không lay chuyển ông. “Cho nên chúng ta dầu ở trong thân thể này dầu ra khỏi, cũng làm hết sức để được đẹp lòng Chúa” (IICôr 5:9). Phao-lô muốn được Đấng Christ chấp nhận.


Tôi tớ Đức Chúa Trời thường bị cám dỗ thỏa hiệp để tạo ảnh hưởng và làm vui lòng con người. Khi D.L.Moody giảng đạo tại Anh Quốc, một công nhân đến gặp ông trên bục giảng và cho ông biết một nhà quý tộc rất quan trọng đã vào trong nhà thờ.

Moody trả lời: “Nguyện buổi nhóm là một ơn phước cho ông ấy!” và ông giảng y như trước mà không tìm cách gây chú ý cho người nào.


Phao-lô không phải là nhà chính trị ông là đại sứ. Nhiệm vụ của Phao-lô không phải “chơi trò chính trị” nhưng để công bố Phúc-Âm. Mặc khác, Giáo sư Do-thái là những người thỏa hiệp ngu xuẩn, họ trộn lẫn luật pháp với ân điển, với hy vọng làm hài lòng cả người Do-thái lẫn ngoại bang, nhưng không bao giờ đòi hỏi người khác xem thử họ có làm hài lòng Đức Chúa Trời hay không.


Chúng ta đã xem xét ba bước Phao-lô lôi kéo các giáo sư giả vào trận chiến: ông giải thích thẩm quyền của mình, bày tỏ lòng lo lắng, và vạch trần các đối thủ của mình. Nhưng Phao-lô tấn công kẻ thù bằng cách nào? Ông dùng giải pháp gì để thuyết phục tín hữu Ga-la-ti tin rằng tất cả những gì họ cần là tin cậy nơi ân điển của Đức Chúa Trời? Nhìn chung suốt bức thư chúng ta thấy Phao-lô là người binh vực chủ yếu cho Phúc-Âm. Hãy dành thời gian đọc toàn bộ bức thư một lần, và khi đọc hãy chú ý ba giải pháp Phao-lô đã thực hiện.


(1). Giải pháp đầu tiên nói về bản thân ông (Ga 1:1-2:21).

Ông nhắc lại kinh nghiệm cá nhân của mình với Chúa Giê-xu Christ và sứ điệp của Phúc-Âm. Ông chỉ rõ rằng ông đã nhận từ nơi Chúa cách độc lập chớ không từ nơi 12 sứ-đồ (Ga 1:11-24), nhưng các sứ-đồ đã chấp nhận sứ điệp và chức vụ của ông (Ga 2:1-10).

Hơn nữa, Phao- lô còn binh vực cho Phúc-Âm khi Phi-e-rơ, vị sứ-đồ nổi bật, đã thỏa hiệp lần đầu tiên (Ga 2:11-21). Phần tự thuật của bức thư này chứng tỏ Phao-lô không phải là “vị sứ-đồ bắt chước”, nhưng sứ điệp và chức vụ của ông là thật đối với đức tin.


(2). Chương 3 và 4 nói về giáo lý của Chúa, và Phao-lô đưa ra một số lập luận để chứng minh rằng tội nhân đã được cứu bởi đức tin và ân điển, không bởi việc làm và luật pháp. Đầu tiên ông kêu gọi những từng trải riêng của họ (Ga 3:1-5).


(3). Sau đó ông nhắc lại Luật pháp Cựu-ước trong Ga 3:6-14 để cho thấy ngay cả Áp-ra-ham và các đấng tiên tri đã hiểu cứu rỗi là sự ban cho bởi ân điển thông qua đức tin. Đề cập đến luật pháp, bây giờ Phao-lô giải thích tại sao luật pháp được ban cho từ buổi ban đầu (Ga 3:15-4:18). Sau đó ông dùng câu chuyện Sa-ra và A-ga để minh hoạ mối liên hệ giữa luật pháp và ân điển (Ga 4:19-31).


Hai chương cuối của bức thư nhấn mạnh đến cuộc sống thực tế, khi Phao-lô chuyển từ lập luận đến ứng dụng. Những Giáo sư Do-thái cáo buộc Phao-lô hô hào phá bỏ luật pháp vì ông rao giảng Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời vì vậy trong phần này, Phao-lô giải thích mối quan hệ giữa ân điển của Đức Chúa Trời và cuộc sống thực tế của Cơ-đốc nhân.

Ông bày tỏ rằng sống bởi đức tin có nghĩa là tự do, chớ không phải nô lệ (Ga 5:1-12) tùy thuộc vào Đức Thánh Linh chớ không cậy xác thịt (Ga 5:13-26) và sống vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, chớ không vì sự ưng thuận của con người (Ga 6:11-18). Hoặc là một chuỗi hành động hoặc là điều gì khác - luật pháp hoặc ân điển - nhưng không thể cả hai được.


Thư Ga-la-ti không phải là quyển sách có thể xem nhẹ. Thơ Ga-la-ti là bản hiến chương của Martin Luther trong suốt thời gian Cải Cách. Những bài viết của Luther lần lượt đem chân lý cứu rỗi bởi đức tin đến cho tấm lòng John Wesley trong một buổi nhóm ít người tại đường Aldersgate Luân đôn vào ngày 24 tháng 5 năm 1738.

Đức Chúa Trời đã dùng chính Wesley một cách đặc biệt để làm người tiên phong dẫn đầu cơn phục hưng tại các quần đảo nước Anh, cuối cùng ông lãnh đạo thành lập Giáo hội Giám Lý. Và cơn phục hưng ấy thực sự ảnh hưởng sâu sắc đến toàn thế giới nói tiếng Anh. Khi nghiên cứu sách Ga-la-ti, chúng ta đang tham gia vào dây chuyền hành động thuộc linh để có thể mang lại kết quả phấn hưng khác cho thế giới ngày hôm nay.



 


2. ĐƯỢC SINH RA TỰ DO! (Ga 1:11-23)


“Bất cứ ai là một người thì phải không tin theo một tôn giáo nào”. Nhà văn Emerson viết như vậy, và nhiều nhà tư tưởng cũng đồng ý với ông.


Nhà phê bình nghệ thuật của Anh Quốc John Ruskin nói, “Tôi sợ sự đồng nhất. Bạn không thể tạo ra những con người vĩ đại cũng như bạn không thể chế tạo ra vàng được.”


Triết gia người Đức Schopenhauer viết, “Chúng ta đánh mất 3 phần 4 chính mình để giống như người khác.”


Francis Asbury, Giám mục đầu tiên của giáo hội Giám Lý tại Hoa Kỳ, có lần đã cầu nguyện trong buổi lễ tấn phong chấp sự, “Ôi Lạy Chúa, xin Ngài giúp cho những anh em này đừng bao giờ muốn giống như người khác.”


Dĩ nhiên, có một loại chủ nghĩa cá nhân sai trái phá hại thay vì làm cho trọn nhưng trong xã hội quen với việc trao đổi các nhiệm vụ, thật là tốt để gặp một người như Phao-lô dám là chính mình theo ý muốn Đức Chúa Trời. Nhưng tự do của ông có được trong Đấng Christ là mối đe doạ đối với những người thấy an tâm trong việc tuân giữ phép tắc.


Kẻ thù nêu lên việc Phao-lô không tuân theo tập tục của giáo hội làm bằng chứng cho rằng sứ điệp và chức vụ của ông không thực sự từ Đức Chúa Trời. Họ lý luận, “Ông ta nói rằng mình là sứ-đồ, nhưng không đứng trong truyền thống của sứ-đồ”.

Phao-lô trả lời cho sự xuyên tạc ấy trong phần này của thơ Ga-la-ti. Việc Phao-lô không theo tập tục của giáo hội là có chủ định của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chọn bày tỏ chính mình Ngài cho Phao-lô cách riêng biệt.


1. (Ga 1:11-12).

Trong c.11-12 Phao-lô khẳng định chủ đề của ông: sứ điệp và chức vụ của ông thuộc về Đức Chúa Trời. Ông không tạo ra Phúc-Âm, cũng không nhận Phúc-Âm từ nơi con người nhưng nhận Phúc-Âm từ Chúa Giê-xu Christ. Cả sứ điệp và chức vụ sứ đồ của Phao-lô đều do Đức Chúa Trời ban cho. Do đó, bất kỳ ai thêm bất cứ điều gì vào Phúc-Âm của Phao-lô người ấy đang có nguy cơ bị Đức Chúa Trời đoán phạt, vì Phúc-Âm ấy được ban cho từ trời bởi Chúa Giê-xu Christ (ICôr 15:1-11).


Đối với Phao-lô, bày tỏ quá khứ của mình và nhắc cho tín hữu Ga-la-ti nhớ cách Đức Chúa Trời đã đối đãi ông là cách tốt nhất để chứng minh quan điểm của ông.Phao-lô nói rằng các độc giả đã biết cuộc sống quá khứ của ông (Ga 1:13), nhưng rõ ràng họ không hiểu trọn ý nghĩa của những từng trải ấy. Vì vậy, Phao-lô rọi ba hình ảnh trong quá khứ của ông lên bức màn để làm bằng chứng rằng chức vụ sứ đồ và Phúc-Âm ông rao giảng thực sự từ Đức Chúa Trời.


2. Kẻ bắt bớ (Ga 1:13-14)

Phao-lô bắt đầu bằng hành vi trong quá khứ của mình là một Ra-bi Do-thái vô tín. (Để hiểu được câu chuyện sống động về những năm tháng này qua chính Phao-lô kể, hãy đọc Công 22:1-30 và Công 26:1-32, cũng như Cong 9:1-43).

Trong việc thuật lại lịch sử bản thân, Phao-lô cho biết mối quan hệ của ông với Hội thánh Ga 1:13) và với đạo Giu-đa Ga 1:14). Ông đang bắt bớ Hội thánh, làm lợi và phát triển tôn giáo Do-thái. Mọi việc “đang thuận buồm xuôi gió” với ông và ông nhanh chóng được người ta nhận ra là nhà lãnh đạo tinh thần của dân Y-sơ-ra-ên.


Thật là thú vị khi chú ý các từ ngữ được dùng miêu tả các hoạt động của Phao-lô khi ông là “Sau-lơ người Tạt-sơ” bắt bớ Hội thánh. Ông “ưng thuận” giết hại Ê-tiên (Công 8:1), và rồi tiếp tục “làm tàn hại Hội thánh” (Công 8:3): sấn vào các nhà bắt người tin Chúa bỏ tù. Chính bầu không khí ông đang hít thở nhuốm “đầy sự ngăm đe và chém giết” (Công 9:1).

Phao-lô quyết chí phá tán Hội thánh đến nỗi đồng ý giết hại tín đồ Đấng Christ (Công 22:4-5; Công 26:9-11). Ông đề cập đến những sự kiện này trong các bức thư của mình (ICôr 15:9; Phi 3:6; ITi 1:13), rất đỗi ngạc nhiên Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi một tội nhân như ông.


Thực sự Phao-lô đã nghĩ rằng Chúa Giê-xu là người mạo danh và sứ điệp cứu rỗi của Ngài là dối trá. Ông biết chắc Đức Chúa Trời đã phán qua Môi-se, nhưng làm sao có thể tin rằng Đức Chúa Trời phán qua người tên là Giê-xu ở Na-xa-rét được?

Đắm mình trong truyền thống tôn giáo Do-thái, thanh niên Sau-lơ quê ở Tạt-sơ đã bảo vệ cho đức tin của mình. Tiếng đồn là người hăng hái bắt bớ “những người theo Chúa Giê-xu” được lan ra khắp nơi (Công 9:13-14). Mọi người đều biết người học trò xuất sắc của giáo sư Ga-ma-li-ên (Công 22:3) đang trên đường trở thành người lãnh đạo có uy tín trong đức tin Do-thái.

Nếp sống tôn giáo riêng tư của ông, sự uyên bác (Công 26:23), và lòng sốt sắng chống lại những niềm tin tôn giáo xa lạ, tất cả kết hợp lại khiến ông trở thành một ra-bi trẻ được mọi người kính trọng nhất vào thời của ông.


Sau đó một việc đã xảy ra: Sau-lơ người Tạt-sơ, kẻ bắt bớ Hội thánh, trở nên Phao-lô làm chức sứ đồ rao giảng Phúc-Âm. Sự thay đổi này không xảy ra từ từ nhưng xảy ra thình lình không báo trước (Công 9:1-9). Sau-lơ trên đường đến thành Đa-mách để bách hại con cái Chúa nhưng một vài ngày sau đó ông lại ở Đa-mách giảng cho người Do-thái rằng các Cơ-đốc nhân đúng. Làm thế nào Giáo sư Do-thái giải thích được sự biến đổi thình lình này ?


Dân tộc của ông, dân Do-thái, có gây ra “sự thay đổi” khác thường của Sau-lơ không? Không thể tưởng tượng được! Người Do-thái đang khuyến khích Sau-lơ bắt bớ Hội thánh, nên việc qui đạo của ông gây bối rối cho họ.


Các Cơ-đốc nhân bị ông bắt bớ có làm nên sự biến đổi trong Sau-lơ không? Tất nhiên các tín hữu đã cầu nguyện cho ông, và rất có thể cái chết của Ê-tiên - nhất là lời chứng Ê-tiên rao ra - đã tác động đến Phao-lô cách sâu sắc (Công 22:19-20). Nhưng Các Cơ-đốc nhân chạy trốn khỏi Sau-lơ (Công 8:1,4; Công 9:10-16), và như chúng ta biết, họ không hề nghĩ rằng vị Ra-bi trẻ tuổi này sẽ trở nên Cơ-đốc nhân.


Nhưng nếu sự thay đổi lạ lùng trong đời sống Phao-lô không do người Do-thái hoặc Hội thánh, vậy thì ai làm nên điều đó? Điều đó phải đến từ Đức Chúa Trời!


Cho dù bạn có xem xét như thế nào chăng nữa, việc Phao-lô trở lại đạo là một phép lạ thiêng liêng. Theo cách con người ra bi Sau-lơ không thể nào trở nên sứ-đồ Phao-lô ngoại trừ phép lạ của ân điển Đức Chúa Trời. Và chính Đức Chúa Trời đã cứu rỗi Phao-lô cũng kêu gọi ông làm sứ-đồ, và ban cho ông sứ điệp của Phúc-Âm.

Đối với giáo sư Do-thái phủ nhận chức sứ đồ và Phúc-Âm của Phao-lô giống như phủ nhận sự trở lại đạo của ông! Chắc chắn Phao-lô đang rao giảng sứ điệp mà chính ông đã tin nhận - chân lý đã biến đổi cuộc đời ông. Nhưng không có sứ điệp nào của con người có tác động biến đổi như vậy. Phao-lô đúc kết lập luận của mình: việc làm trong quá khứ là người bắt bớ Hội thánh cộng với sự biến đổi lạ lùng mà ông từng trải chứng minh rằng sứ điệp và chức vụ của ông đến từ Đức Chúa Trời.


3. Người tin đạo (Ga 1:15-16,24)

Đã bàn về hành vi và cá tính trong quá khứ của mình, bây giờ Phao-lô giải thích việc tin Chúa của ông vì dẫu sao đây là điều quan hệ trong cuộc đời của ông.Ông nói với những người kiện cáo mình, “Tôi đã từng trải những gì tôi rao giảng cho người khác. Đây là Phúc Âm thật. Bất cứ Phúc-Âm nào khác đều giả dối cả”. Trong những câu này Phao-lô giải thích các đặc điểm trong kinh nghiệm gặp Chúa của ông.


Đức Chúa Trời đã làm điều đó (Ga 1:15a,16a).

“Đức Chúa Trời vui lòng bày tỏ Con Ngài ra trong tôi”. Bất cứ khi nào Phao-lô nói hay viết về kinh nghiệm tin Chúa, ông luôn nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời đã hành động trong ông . “Sự cứu rỗi thuộc về Chúa!” (Giôn 2:9).


Đức Chúa Trời đã làm bởi ân điển Ngài (Ga 1:15b).

Kinh nghiệm của Phao-lô nhắc chúng ta nhớ đến thanh niên Giê-rê-mi (Giê 1:4-10) và Giăng Báp-tít (Lu 1:5-17). Sự cứu rỗi bởi ân điển của Đức Chúa Trời, không bởi nổ lực hay phẩm hạnh của con người. Ân điển và sự kêu gọi (Ga 1:15b) đi đôi với nhau, vì Đức Chúa Trời chọn bất cứ ai trong ân điển, Ngài cũng kêu gọi bởi Lời của Ngài (ITês 1:4-5).

Sự mầu nhiệm trong ý muốn thiêng liêng của Đức Chúa Trời và trách nhiệm phải vâng lời của con người chưa được bày tỏ trọn vẹn cho chúng ta. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời “không muốn mọi người chết mất” (IIPhi 3:9), và chúng ta biết những người tin nhận Đấng Christ khám phá ra họ đã được “chọn trong Ngài trước khi sáng thế” (Eph 1:4).


Đức Chúa Trời đã hành động qua Đấng Christ (Eph 1:16a). Trong bức thư khác Phao- lô nói rõ ông có nhiều điều để hãnh diện lúc còn trong xác thịt (Phi 3:4-7). Ông có tôn giáo và sự công bình riêng, cùng sự danh tiếng và được mọi người nhận biết nhưng ông không có Đấng Christ! Trên đường Đa-mách, Phao-lô thấy sự công bình của ông như áo nhớp so với công bình của Đấng Christ, ông nhận ra điều mình đang thiếu mất. “Nhưng vì cớ Đấng Christ tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy.” (Phi 3:7).


Đức Chúa Trời bày tỏ Đấng Christ cho Phao-lô, trong Phao-lô và qua Phao-lô. “Tôn giáo của người Do-thái” (Ga 1:14) là những việc làm và thực hành bên ngoài nhưng đức tin trong Đấng Christ dẫn đến kinh nghiệm bên trong của sự thực hữu với Chúa. “Sự thành hình” của Đấng Christ là lẽ thật chính yếu với Phao-lô (Ga 2:20 Ga 4:19).


Đức Chúa Trời đã hành động vì ích lợi của kẻ khác (Ga 1:16b).

Đức Chúa Trời đã lựa chọn Phao-lô, không chỉ cứu rỗi ông, nhưng Ngài còn dùng ông chinh phục người khác. Trong Thánh Kinh, không hề dạy giáo lý chọn lựa với quan điểm sinh ra kiêu ngạo hay vị kỷ. Sự tuyển chọn bao gồm trách nhiệm.

Đức Chúa Trời chọn Phao-lô để rao giảng ân điển ông đã kinh nghiệm cho người ngoại bang. Chính điều này là bằng chứng cho biết Đức Chúa Trời đã cứu rỗi ông vì chắc chắn một ra bi Do-thái đầy thành kiến sẽ không bao giờ quyết định chính mình làm giáo sĩ cho dân ngoại bang! (Công 9:15; Công 15:12; Công 22:21-22; Eph 3:1-8).


Đức Chúa Trời đã hành động vì sự vinh hiển của Ngài (Ga 1:24). Là một Ra-bi Do-thái nhiệt thành, Phao-lô có tất cả vinh quang con người có thể khao khát nhưng những gì ông đang làm không dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Con người được dựng nên để làm sáng danh Đức Chúa Trời (Es 43:7), con người được cứu cũng để làm rạng danh Đức Chúa Trời (ICôr 6:19-20).

Đem lại sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời là động cơ thôi thúc cuộc đời và chức vụ của Phao-lô (Rô 11:36; Rô 16:27; Eph 1:6; Eph 3:20-21; Phi 4:20; ICôr 10:31).

Giáo sư Do-thái thích tìm vinh hiển riêng cho mình (Ga 6:11-18). Đó là lý do tại sao họ đánh cắp tín hữu của Phao-lô và dẫn họ đi lạc đường. Nếu Phao-lô quan tâm đến vinh hiển cho riêng mình, có thể ông vẫn là ra bi Do-thái và có lẽ đã trở nên người kế vị Ga-ma-li-ên rồi. Nhưng chính vinh hiển của Đức Chúa Trời đã thúc đẩy Phao-lô, và điều này phải thúc đẩy cuộc đời chúng ta nữa.


Khi Charles Haddon Spurgeon còn là một truyền đạo trẻ tuổi, cha của ông, cụ John Spurgeon, gợi ý Charles theo học đại học để có học vị. Ông được sắp xếp để gặp Tiến sĩ Joseph Angus, hiệu trưởng Đại Học Stepney ở Luân-đôn. Họ phải gặp tại nhà của ông Macmillan tại thành phố Cambridge, và Spurgeon có mặt tại đó đúng giờ hẹn.

Ông ta đợi suốt hai giờ đồng hồ, nhưng vị tiến sĩ uyên bác không bao giờ xuất hiện. Cuối cùng khi Spurgeon hỏi thăm người chủ nhà, ông mới biết tiến sĩ Angus đã đợi ông ở một phòng khác và vì có cuộc hẹn khác ông đã đi rồi. Thất vọng, Spurgeon lên đường đi giảng cho một lễ đính hôn. Trong khi đi đường ông nghe tiếng phán rõ ràng với ông, “Ngươi còn tìm việc lớn cho mình hay sao? Chớ có tìm kiếm!” (Gie 45:5).

Từ lúc ấy, Spurgeon quyết định làm theo ý muốn Đức Chúa Trời để làm vinh hiển danh Ngài và Đức Chúa Trời đã ban phước cho ông cách lạ lùng.


Phao-lô đã nêu hình ảnh chính ông là người bắt bớ và nhắc lại tính cách và hành vi của ông. Ông cũng hình dung chính mình là một tín hữu, nhắc lại việc tin Chúa của mình. Bây giờ ông nêu lên hình ảnh thứ ba.


4. Người rao giảng Phúc-Âm (Ga 1:16-23)

Phao-lô có lần tiếp xúc nào với các con cái Chúa khác sau khi tin Chúa không? Đây là câu hỏi quan trọng đối với sự biện hộ của ông. Phao-lô không gặp mặt sứ đồ nào ngay sau khi kinh nghiệm gặp Chúa trên đường đi Đa-mách. “Thì lập tức tôi chẳng bàn với thịt và máu” (Ga 1:16c).

Điều hợp lý mà Phao-lô phải làm là tự giới thiệu mình với Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem để được những người tin Chúa trước ông nâng đỡ đời sống thuộc linh. Nhưng ông đã không làm điều này - và ông quyết định đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Vì nếu ông lên Giê-ru-sa-lem, có lẽ ông đã gắn bó chức vụ với các sứ đồ khác - dành tất cả cho người Do-thái - và có thể điều này cản trở công việc của ông giữa vòng dân ngoại.


Ở đây chúng ta cần tự nhớ rằng sứ điệp Phúc-Âm dành “trước cho người Do-thái” (Công 3:26; Rô 1:16). Chức vụ của Chúa chúng ta dành cho dân tộc Y-sơ-ra- ên, và chức vụ của các sứ đồ trong những năm đầu tiên cũng như vậy (Công 1:1-7:60).

Sự chết của Ê-tiên là một bước ngoặc cho sứ điệp Phúc-Âm. Khi các tín hữu bị tản lạc, họ đem Phúc-Âm đến những nơi khác (Công 8:4; Công 11:19). Phi-líp đem Phúc-Âm đến cho người Sa-ma-ri (Công 8:1-40), và rồi Đức Chúa Trời hướng dẫn Phi-e-rơ đến giới thiệu Phúc-Âm cho người ngoại bang (Công 10:1-48).

Tuy nhiên, phần còn lại dành cho Phao-lô mang Phúc-Âm đến với dông đảo dân ngoại bang (Công 22:21-22; Eph 3:1,8), và vì lý do này Đức Chúa Trời đã biệt riêng ông ra khỏi chức vụ chủ yếu dành cho người Do-thái mà các sứ đồ đang thi hành tại Giê-ru- sa-lem.


Phao-lô không đi ngay lên Giê-ru-sa-lem. Vậy ông đã đi đâu? Ông nhắc lại các cuộc gặp gỡ và cho thấy rằng ông không có cơ hội nào để nhận lãnh sứ điệp hoặc lời kêu gọi vào chức sứ đồ từ bất kỳ ai trong các vị lãnh đạo Hội thánh. (Hãy so sánh phần này với Công 9:10-31, và nhớ rằng ngay cả những học giả Kinh Thánh xuất sắc nhất cũng không nhất trí về trình tự thời gian trong cuộc đời Phao-lô. May mắn thay, những chi tiết lịch sử không ảnh hưởng đến sự hiểu biết những gì Phao-lô đã viết: chúng ta có thể không nhất trí về thứ tự thời gian nhưng chúng ta đồng ý về thần học! )


Phao-lô đến A-ra-bi (Công 1:17b).

Việc này xảy ra sau khi ông thi hành chức vụ đầu tiên tại Đa-mách (Công 9:19-20). Thay vì “bàn với thịt và huyết”, Phao-lô tự học hỏi, cầu nguyện, suy ngẫm và gặp gỡ một mình Chúa. Có lẽ ông đã dành phần lớn thì giờ trong ba năm ở tại A-ra-bi (Ga 1:18), và rất có thể ông dành thì giờ rao giảng Phúc-Âm và lớn lên trong đời sống thuộc linh cá nhân. Các sứ-đồ đã nhận lãnh sự dạy dỗ từ nơi Chúa Giê-xu trong ba năm, và bây giờ Phao-lô có cơ hội để được Chúa dạy dỗ.

Ông trở lại Đa-mách (Ga 1:17c).

Vào thời điểm này có lẽ Phao-lô viếng thăm Giê-ru-sa-lem là hợp lý hơn, nhưng Chúa điều ông đi hướng khác. Chắc chắn sẽ là điều mạo hiểm cho Phao-lô khi ông trở lại thành phố biết ông đã trở nên tín đồ Đấng Christ. Các nhà lãnh đạo Do-thái mong đợi ông trở thành người đứng đầu chống lại Cơ-đốc giáo chắc chắn sẽ không tha cho ông. Hình như “việc dùng cái thúng” trong Công 9:23-25 (IICôr 11:32-33) xảy ra vào thời điểm này.

Việc trở lại Đa- mách và mối nguy hiểm đến tính mạng của Phao-lô là những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy các nhà lãnh đạo Do-thái giáo xem ông như kẻ thù, và do đó từng trải gặp Chúa của ông là một việc quí giá.


Sau cùng ông viếng thăm Giê-ru-sa-lem (IICôr 1:18-20). Điều này xảy ra sau ba năm ông gặp Chúa, và mục đích chính ông thăm sứ đồ Phi-e-rơ.

Nhưng Phao-lô đã trải qua một thời gian rất khó khăn để có thể tham gia thông công với Hội thánh! (Công 9:26-28). Nếu sứ điệp và chức vụ của ông ra từ các sứ đồ, điều này sẽ chẳng bao giờ xảy ra nhưng vì Phao-lô đã kinh nghiệm nơi một mình Chúa Giê-xu Christ, các sứ-đồ đã ngờ vực ông.

Ông lưu lại Giê-ru-sa-lem chỉ có 15 ngày, chỉ gặp Phi-e-rơ và Gia-cơ (em của Chúa Giê-xu). Vì vậy ông không nhận sứ điệp cũng như chức vụ nơi Hội thánh Giê-ru-sa- lem. Không đơn giản là vì ông không có thời gian và cơ hội. Phao-lô đã nhận cả hai điều trên trực tiếp nơi Chúa Giê-xu Christ.


Ông trở lại quê hương Tạt-sơ (Công 1:21-23). Một lần nữa, lời ký thuật trong sách Công-vụ giải thích lý do tại sao ông về thăm quê hương: mạng sống của ông đang bị đe doạ tại Giê-ru-sa-lem, như đã từng bị tại Đa-mách (Công 9:28-30).

Khi Phao-lô đi ngang qua xứ Sy-ri ông giảng Lời Đức Chúa Trời và khi đến thành Si-li-si, thành phố quê hương ông (Công 21:39; Công 22:3), ông bắt đầu giảng Phúc-Âm (Công 15:23). Các sử gia kết luận rằng có lẽ ông lưu lại đó bảy năm, cho đến lúc Ba-na- ba tuyển chọn ông hầu việc tại An-ti-ốt (Công 11:39-26).

Một ít tín-hữu ở Giê- ru-sa-lem biết Phao-lô, nhưng tín-hữu trong các Hội thánh xứ Giu-đê không biết ông mặc dầu họ nghe rằng bây giờ ông đang rao giảng về chính niềm tin mà có lần ông toan hủy diệt.


Dưới ánh sáng của hành vi, sự qui đạo và những lần tiếp xúc của Phao-lô, ai có thể buộc tội ông vay mượn hoặc tạo ra sứ điệp hay chức vụ cho mình? Chắc chắn ông đã nhận Phúc-Âm bởi sự tỏ ra từ nơi Chúa Giê-xu Christ. Vì vậy, chúng ta phải thận trọng về điều chúng ta làm với Phúc-Âm này, vì nó không phải là phát minh của con người nhưng chính là chân lý của Đức Chúa Trời.


Một vài nhà phê bình cáo buộc Phao-lô “đã làm hỏng Phúc-Âm đơn sơ”, nhưng sự thật đã phản bác lại lời buộc tội này. Cùng một Đấng Christ đã dạy dỗ trên đất, Ngài cũng từ trời dạy dỗ qua Phao-lô. Phao-lô không tạo ra lời giảng dạy nhưng ông đã nhận lời giảng ấy (Rô 1:5; ICôr 11:23; ICôr 15:3).

Lúc Phao-lô trở lại đạo, Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ hiện ra cho ông trong tương lai (Công 26:16), rõ ràng vì mục đích bày tỏ chân lý của Ngài cho ông. Điều này có nghĩa Đấng Christ trong bốn sách Phúc-Âm và Đấng Christ trong các thơ tín là một không có mâu thuẫn giữa Đấng Christ và Phao-lô. Khi Phao-lô viết thư cho các Hội thánh, ông đã đặt lời giảng dạy của mình ngang tầm với lời dạy của Chúa Giê-xu Christ (IITês 3:3-15). Thậm chí Sứ-đồ Phi-e-rơ gọi các thư của Phao-lô là “Kinh Thánh” (IIPhi 3:15-16).


“Những giáo sư Do-thái” thời nay, giống như thời tổ phụ của họ, khướt từ thẩm quyền của Phao-lô và tìm cách làm giảm giá trị Phúc-Âm ông đã rao giảng. Trong thời Phao-lô, sứ điệp của họ là “Phúc-Âm cộng thêm luật pháp Môi-se”. Trong thời chúng ta đó là “Phúc-Âm cộng với” nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo, các sách tôn giáo hoặc các tổ chức tôn giáo.

“Bạn không thể được cứu trừ phi ...” là sứ điệp của họ (Công 15:1) và chữ “trừ phi” thường thường bao gồm việc tham gia vào nhóm và tuân theo phép tắc luật lệ của họ. Nếu bạn can đảm đề cập đến Phúc-Âm của ân điển như Chúa Giê-xu, Phao-lô và các sứ-đồ khác đã rao giảng thì họ đáp rằng, “Nhưng Đức Chúa Trời đã cho chúng ta một khải thị mới!”


Phao-lô có câu trả lời cho họ: “Nếu bất kỳ ai truyền cho anh em một Phúc-Âm nào khác với Phúc-Âm anh em đã nhận, thì người ấy đáng bị a-na-them!” (Ga 1:9). Khi một tội nhân tin nhận Đấng Christ và được tái sinh (Gi 3:1-18), người ấy được “tự do”.

Người ấy đã được cứu rỗi - được Chúa Giê-xu Christ chuộc mua và ban cho tự do. Người ấy không còn ở trong xiềng xích tội lỗi hoặc Sa-tan, người ấy cũng không còn bị ràng buộc bởi hệ thống tôn giáo của con người (Ga 4:1-11 Ga 5:1). “Vậy nếu con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được tự do” (Gi 8:36).



 


3. CHIẾN SĨ ĐẤU TRANH CHO TỰ DO PHẦN 1 (Ga 2:1-10)


“Vùng đất này sẽ tồn tại là vùng đất của tự do bao lâu nó còn là quê hương của những người dũng cảm”

Trong cuốn sách “Nhưng Chúng Ta Đã Sanh Ra Trong Tự Do”, nhà phân tích tin tức lão luyện Elmer Davis cũng viết như vậy, và những lời thuyết phục của ông chắc chắn vang vọng tiếng nói của sứ đồ Phao-lô. Đối với Phao-lô, sự tự do thiêng liêng của ông trong Đấng Christ có giá trị hơn hẳn sự nổi tiếng hoặc ngay cả sự bảo đảm. Ông sẵn lòng chiến đấu cho sự tự do ấy.


Cuộc tranh đấu đầu tiên của Phao-lô vì sự tự do Cơ-đốc xảy ra tại Giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem (Ga 2:1-10 Công 15:1-35) lần thứ hai tại cuộc gặp gỡ riêng tư với sứ đồ Phi-e-rơ (Ga 2:11-21). Nếu Phao-lô không sẵn lòng tiến hành cuộc chiến tranh thuộc linh này, Hội thánh trong thế kỷ đầu tiên chỉ là một giáo phái của Do-thái Giáo, rao giảng một giáo lý pha trộn giữa ân điển và luật pháp.

Nhưng bởi lòng can đảm của Phao-lô, Phúc-Âm được giữ vững không bị lệ thuộc bởi việc làm theo luật pháp, và được ông mang đến cho người ngoại bang với phước hạnh lớn.


Trước khi xem ba cảnh trong vở kịch đầu tiên, Giáo hội nghị tại Giê-ru-sa-lem, chúng ta nên làm quen với những người tham dự hội nghị. Dĩ nhiên chúng ta đều biết Phao-lô là sứ-đồ nổi tiếng cho dân ngoại.


Ba-na-ba là một trong những bạn hữu thân thiết nhất của Phao-lô. Thực ra, khi Phao-lô tìm cách tham gia thông công với Hội thánh Giê-ru-sa-lem, chính Ba-na-ba là người đã mở đường cho ông (Công 9:26-28).


Tên Ba-na-ba có nghĩa “con trai của sự yên ủi”, và chúng ta thấy Ba-na-ba luôn luôn yên ủi người khác. Khi Phúc-Âm đến với dân ngoại tại thành An-ti-ốt, chính Ba-na-ba là người được phái đến để yên ủi họ trong đức tin (Công 11:19-24).


Do đó, từ những ngày đầu, tín hữu ngoại bang đã gắn bó với Ba-na-ba. Chính Ba-na-ba là người mời Phao-lô giúp đỡ chức vụ tại Hội thánh An-ti-ốt (Công 11:25-26), và hai người làm việc chung với nhau, không những trong việc dạy dỗ mà còn giúp đỡ người nghèo khó nữa (Công 11:27-30).


Ba-na-ba đồng hành với Phao-lô trong chuyến truyền giáo đầu tiên (Công 13:1-14:28) và đã nhìn thấy ơn lành của Đức Chúa Trời tuôn đổ trên Phúc-Âm họ rao giảng. Đáng chú ý chính Ba-na-ba đã khích lệ thanh niên Giăng Mác sau khi ông “rời bỏ” chức vụ và làm buồn lòng Phao-lô (Công 13:13; Công 15:36-41). Trong những năm sau đó, Phao-lô có thể khen ngợi Mác và nhận được ích lợi qua tình bạn của Mác (Côl 4:10; IITi 4:11).


Tít là tín hữu ngoại bang làm việc với Phao-lô và hình như ông đã trở nên môn-đồ Đấng Christ qua chức vụ của Phao-lô (Tit 1:4). Ông là “sản phẩm” của chức vụ Phao-lô giữa dân ngoại, và được Phao-lô đưa đến giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem làm “bằng chứng” từ các Hội Thánh Ga-la-ti. Trong những năm sau đó, Tít phụ giúp Phao-lô bằng cách đến các Hội thánh khó khăn nhất để giúp đỡ họ giải quyết nhiều nan đề. (IICôr 7:1-16; Tit 1:5).


Ba người “cột trụ” của Hội thánh ở Giê-ru-sa-lem đó là: Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ anh em của Chúa (đừng nhầm lẫn với sứ-đồ Gia-cơ, người đã bị Hê-rốt giết, (Công 12:1-2).

Chúng ta biết Phi-e-rơ qua vai trò nổi bật của ông trong các sách Phúc-Âm cũng như trong phần đầu sách Công-vụ. Chúa Giê-xu đã ban cho Phi-e- rơ “chìa khóa nước thiên đàng”, để chính ông là người mở cánh cổng đức tin cho người Do-thái (Công 2:1-47), người Sa-ma-ri (Công 8:1-40), và cho dân ngoại (Công 10:1-48).

Chúng ta cũng biết Giăng qua các sách Phúc-Âm ghi lại là một trong ba sứ-đồ “thân cận” của Đấng Christ, cùng làm việc với Phi-e-rơ trong chức vụ rao giảng Lời Đức Chúa Trời (Công 3:1).


Có lẽ cần nói thêm về Gia-cơ.

Sách Phúc-Âm ghi lại rằng Ma-ri và Giô-sép có các con khác và Gia-cơ là một trong số những người con đó (Mat 13:55; Mac 6:3). (Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu sanh ra bởi quyền phép Đức Thánh Linh, và không bởi công lệ loài người Mat 1:18-25 Lu 1:26-38).

Em trai và em gái của Chúa chúng ta không tin Ngài trong suốt thời gian Ngài thi hành chức vụ trên đất (Gi 7:1-5). Dầu vậy, chúng ta tìm thấy “anh em của Ngài” cộng tác với các tín hữu Hội thánh đầu tiên (Công 1:13-14).

Phao-lô cho chúng ta biết Đấng Christ sống lại đã hiện ra cho Gia-cơ, và điều này là bước ngoặc trong cuộc đời của ông (ICôr 15:5-7). Gia-cơ là người lãnh đạo Hội thánh đầu tiên tại Giê-ru-sa-lem (Công 15:1-41; Công 21:18). Người cũng viết thơ Gia-cơ và qua thơ ấy cùng với Công 21:18, cho biết rằng ông rất là Do-thái trong suy nghĩ của mình.


Cùng với những người này, và các “sứ-đồ cùng trưởng lão” (Công 15:4,6) có một nhóm “các anh em giả” trà trộn vào các giờ nhóm cố tìm cách lấy đi sự tự do trong Đấng Christ của tín hữu trong Hội thánh (Ga 2:4).

Chắc chắn đây là một số giáo sư Do-thái đã theo Phao-lô vào hết Hội thánh này đến Hội thánh khác để tìm cách lôi kéo tín hữu của ông.

Việc Phao-lô gọi họ là “anh em giả” cho thấy họ không phải là Cơ-đốc nhân thật, nhưng chỉ giả bộ như vậy để có thể lôi kéo nhiều người về cho mình.


Đây là thành phần các nhân vật. Chúng ta nên đọc Ga 2:1-10 kết hợp với Công 15:1-41 để có được đầy đủ các sự kiện trong câu chuyện.


1. Cảnh thứ nhất - Cuộc họp riêng tư (Ga 2:1-2)

Phao-lô và Ba-na-ba đã trở lại An-ti-ốt sau chuyến hành trình truyền giáo lần thứ nhất, họ vui mừng về cách Đức Chúa Trời đã “mở cửa đức tin cho người ngoại” (Công 14:27).

Nhưng những người Do-thái chủ luật tại Giê-ru-sa-lem bực tức về những việc họ làm vì vậy họ cũng đến An-ti-ốt dạy rằng một người ngoại bang phải trở nên người Do-thái trước khi trở thành Cơ-đốc nhân (Công 15:1).


Phép cắt bì, họ đòi hỏi nơi người ngoại bang là một nghi lễ quan trọng của người Do-thái đã được thi hành từ thời Áp-ra-ham (Sa 17:1-27). Chịu phép cắt bì có nghĩa công nhận và vâng theo toàn bộ luật pháp Do -thái. Thực ra, người Do-thái đã quên ý nghĩa thuộc linh sâu xa của nghi lễ này (Phuc 10:16; Giê 4:1-4; Rô 2:25-29), giống như một số Hội thánh ngày nay đánh mất ý nghĩa thuộc linh của phép báp-têm và xem nó như là một nghi thức bên ngoài. Cơ-đốc nhân thật đã kinh nghiệm phép cắt bì trong lòng (Côl 2:10-11) và không cần phải tuân theo bất kỳ cuộc giải phẫu nào (Phi 3:1-3).


Khi Phao-lô và Ba-na-ba trình bày với những người này về chân lý của Phúc-Âm, dẫn đến cuộc cãi lẽ dữ dội (Công 15:2). Người ta quyết định rằng tốt nhất nên đem vấn đề ra giải quyết trước mặt các bậc lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem. Chúng ta không nên nghĩ rằng “Hội nghị Giê-ru-sa-lem” này là cuộc họp đại biểu từ các Hội thánh như hội nghị các giáo phái sự thật không phải vậy.

Phao-lô, Ba-na-ba, Tít và nhiều người khác từ An-ti-ốt đại diện cho các tín hữu ngoại bang đã được cứu hoàn toàn không tuỳ thuộc luật pháp Do-thái nhưng không có đại biểu nào khác từ các Hội thánh Phao-lô đã thành lập trong xứ ngoại bang.


Khi đoàn đại biểu đến Giê-ru-sa-lem, họ gặp riêng với các lãnh đạo Hội thánh. Phao-lô không đi Giê-ru-sa-lem vì Hội thánh cử ông ông “vâng theo lời tỏ ra mà lên đó” - tức là Chúa sai ông (so sánh Ga 2:1 và Ga 1:12). Và Chúa cho ông sự khôn ngoan gặp mặt các lãnh đạo trước để họ có thể tỏ ra sự thống nhất tại các cuộc họp chung.


“Kẻo sự chạy của tôi trước kia và bây giờ hóa ra vô ích chăng” (Ga 2:2) không có nghĩa Phao-lô không chắc về sứ điệp hoặc chức vụ của ông. Cung cách trên đường đi đến hội nghị cho thấy ông không chút nghi ngờ nào (Công 15:3). Điều Phao-lô quan tâm là tương lai của Phúc-Âm giữa vòng dân ngoại, vì đây là chức vụ cụ thể của ông nhận nơi Đấng Christ.

Nếu “các vị lãnh đạo cột trụ “ủng hộ” những Giáo sư Do-thái hoặc cố tìm cách thoả thuận thì chức vụ của Phao-lô sẽ lâm nguy. Phao-lô muốn có sự chấp thuận của họ trước khi ra mắt toàn Hội thánh chung nếu không, có thể gây ra sự phân rẽ theo ba hướng.


Kết quả của cuộc hội thảo riêng tư này là gì? Các sứ-đồ và trưỡng lão chấp nhận Phúc-Âm Phao-lô rao giảng. Họ không thêm vào điều gì (Ga 2:6b) và do đó họ tuyên bố những giáo sư Do-thái là sai. Nhưng cuộc gặp riêng tư này chỉ là sự bắt đầu.


2. Cảnh thứ hai - Cuộc họp toàn thể (Ga 2:3-5)

Bác sĩ Lu-ca ghi lại Hội nghị Giê-ru-sa-lem lịch sử này (Công 15:6-21). Vài nhân chứng đưa ra lý lẽ tán thành Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời, bắt đầu bằng Phi-e-rơ (Công 15:7-11).

Chính Phi-e-rơ được Đức Chúa Trời chọn đem Phúc-Âm đến cho dân ngoại lần đầu tiên (Cong 10:1-48) và ông nhắc nhở Hội thánh rằng Đức Chúa Trời ban Đức Thánh Linh cho những kẻ tin là người ngoại bang cũng như đã ban cho người Do-thái, để không có “sự khác biệt nào”.


Đây là bài học khó khăn cho Hội thánh đầu tiên, vì trải qua bao nhiêu thế kỷ giữa người Giu-đa và dân ngoại có sự khác biệt (Le 11:43-47; Le 20:22-27). Trong sự chết của Ngài trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã phá vỡ sự ngăn cách giữa người Giu-đa và dân ngoại bang (Eph 2:11-22), để trong Đấng Christ tuyệt đối không có sự cách biệt nào (Ga 3:28). Trong bài nói chuyện với hội nghị, Phi-e-rơ nói trình bày rõ chỉ có một con đường cứu rỗi: đó là đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ.


Sau đó Phao-lô và Ba-na-ba thuật lại cho hội chúng những công việc Đức Chúa Trời đã làm giữa dân ngoại (Công 15:12), và chắc chắn đó là “bảng tường trình công cuộc truyền giáo! ”. Các “anh em giả” có mặt tại đó chắc chắn đã chất vấn Phao-lô và Ba-na-ba, nhưng hai chiến sĩ thập tự không thất bại. Phao-lô muốn “chân lý của Phúc-Âm” cứ được giảng ra giữa dân ngoại (Ga 2:5).


Dường như Tít trở thành một “trường hợp điển hình” cho quan điểm này. Tít là tín-hữu người ngoại bang chưa bao giờ chịu phép cắt bì. Tuy nhiên rõ ràng ông đã thật sự được cứu. Bây giờ nếu những giáo sư Do-thái đúng (“Nếu các ngươi chẳng chịu phép cắt bì theo lễ Môi-se, thì không thể được cứu rỗi” (Công 15:1), thế thì Tít không được cứu. Nhưng ông đã được cứu, và đưa ra bằng chứng người có Đức Thánh Linh vì vậy, những giáo sư Do-thái đã sai.


Vào lúc này, có lẽ ích lợi nếu chúng ta tìm hiểu một cộng sự khác của Phao-lô - đó là Ti-mô-thê (Công 16:1-3). Phao-lô có bất nhất khi từ chối làm phép cắt bì cho Tít, nhưng lại đồng ý làm cắt bì cho Ti-mô-thê không? Không, vì hai trường hợp khác nhau.

Trong trường hợp Ti-mô-thê, Phao-lô không chấp nhận luật pháp Do-thái để chinh phục Ti-mô-thê cho Đấng Christ. Ti-mô-thê mang hai dòng máu Giu-đa và ngoại bang, nếu thiếu sót việc cắt bì cho ông sẽ ngăn trở cho chức vụ của ông giữa dân tộc Do-thái. Tít hoàn toàn là người ngoại bang, việc ông phải chịu cắt bì sẽ cho thấy ông ta đánh mất đi điều gì đó trong kinh nghiệm Cơ-đốc của mình. Thực hiện phép cắt bì cho Tít sẽ là điều hèn nhát và thỏa hiệp không làm cắt bì cho Ti-mô-thê sẽ tạo ra những khó khăn không cần thiết cho chức vụ của ông.


Gia-cơ, người đứng đầu Hội thánh, tóm tắt các lý lẽ và kết luận vấn đề (Công 15:13-21). Là người Do-thái chính cống, Gia-cơ nói rõ rằng người ngoại bang không cần phải trở nên người Do-thái mới trở thành Cơ-đốc nhân được. Chương trình của Đức Chúa Trời cho ngày hôm nay đó là “lấy từ trong dân ngoại ra một dân cho danh Ngài”. Người Do-thái và ngoại bang được cứu cùng một cách: bởi tin đến danh Chúa Giê-xu Christ. Sau đó Gia-cơ yêu cầu Hội thánh giúp đỡ tín hữu ngoại bang không làm điều gì gây cớ vấp phạm những người Do-thái không tin, kẻo họ ngăn trở những người này được cứu. Phao-lô chiến thắng.


Quan điểm của Phao-lô thuyết phục trong cuộc họp riêng khi các nhà lãnh đạo chấp nhận Phúc-Âm của ông và cũng thuyết phục trong buổi nhóm chung cả nhóm đồng ý với Phao-lô và phản đối những giáo sư Do-thái.


Dư âm của hội nghị Giê-ru-sa-lem được nghe nhắc lại trong thư Phao-lô gởi cho tín-hữu Ga-la-ti. Phao-lô đề cập đến “ách nô lệ” (Ga 5:1), nhắc chúng ta nhớ đến lời khuyến cáo giống như vậy của Phi-e-rơ (Công 15:10). Các đề tài về tự do và nô lệ thường được nhắc lại (Ga 2:4; Ga 4:3,9,21-31; Ga 5:1), cũng như ý tưởng về phép cắt bì (Ga 2:3; Ga 5:3-4; Ga 6:12-13).


Nhiều thế kỷ về sau, các Cơ-đốc nhân ngày nay lại cần phải biết ơn về lòng kiên cường của Phao-lô và bạn đồng sự với ông đã làm để đấu tranh cho tự do của Phúc-Âm. Phao-lô quan tâm đến “chân lý của Phúc-Âm” (Ga 2:5,14), chớ không phải “sự bình an của Hội thánh”. Sự khôn ngoan Đức Chúa Trời ban cho từ trên “trước hết là thánh sạch, sau lại hòa thuận” (Gia 3:17). “Bình an bằng mọi giá” không phải là triết lý trong chức vụ của Phao-lô, cũng không nên là của chúng ta.


Kể từ thời điểm Phao-lô, kẻ thù ân điển luôn tìm cách thêm thắt vào Phúc-Âm đơn sơ của ân điển Đức Chúa Trời. Họ nói với chúng ta rằng một người được cứu bởi đức tin phải thêm vào một điều gì đó - việc lành, mười điều răn, phép báp-têm, thuộc viên Hội thánh, nghi lễ tôn giáo - Phao-lô nói rõ những thầy giáo này sai.

Thực ra, Phao-lô tuyên bố sự rủa sả trên bất kỳ ai (dầu người hay thiên sứ) rao giảng một phúc âm nào khác ngoài Phúc-Âm của Ân điển Đức Chúa Trời, với trung tâm điểm là Chúa Giê-xu Christ (Ga 1:6-9; xem ICôr 15:1-7 để hiểu định nghĩa về Phúc-Âm). Sửa đổi ý nghĩa của Phúc-Âm là một việc nguy hiểm.


3. Cảnh thứ ba - Sự khẳng định cá nhân (Ga 2:6-10)

Những Giáo sư Do-thái hy vọng làm cho các lãnh đạo Hội thánh Giê-ru-sa-lem không đồng ý với Phao-lô. Ngược lại, Phao-lô nói rõ con người và địa vị của các lãnh đạo Hội thánh không có ảnh hưởng gì đến chính bản thân ông. Đương nhiên ông kính trọng họ. Nếu không chắc chắn ông đã không hỏi riêng ý kiến họ. Nhưng ông không sợ họ hoặc tìm cách mua chuộc ảnh hưởng của họ. Tất cả những điều ông muốn họ làm là nhận biết “ân điển của Đức Chúa Trời” đang hành động trong đời sống và chức vụ của ông (Ga 2:9), và họ đã làm điều này.


Không những Hội thánh chấp nhận Phúc-Âm Phao-lô rao giảng và phản đối kẻ thù của Phao-lô, nhưng còn khích lệ chức vụ của ông và công khai nhận thấy rằng Đức Chúa Trời đã giao phó công việc của Ngài giữa dân ngoại vào tay Phao-lô. Họ không thể thêm điều gì vào sứ điệp hay chức vụ của Phao-lô, và họ không lấy bớt đi điều gì. Có sự thống nhất và hiệp ý: một Phúc-Âm sẽ được rao giảng ra cho người Do-thái lẫn người ngoại bang.


Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cũng nhận biết rằng Đức Chúa Trời đã giao các lãnh vực truyền giáo khác nhau cho nhiều người riêng biệt. Ngoài lần viếng thăm nhà Cọt nây (Công 10:1-48) và người Sa-ma-ri (Công 8:1-40), Phi-e-rơ chủ yếu tập trung chức vụ của ông giữa vòng người Giu-đa. Phao-lô đã được kêu gọi làm sứ-giả của Đức Chúa Trời cho người ngoại bang. Vì vậy, người ta đồng ý rằng mỗi người sẽ hầu việc trong lãnh vực Đức Chúa Trời giao phó cho mình.


“Phúc-Âm cho người chịu cắt b씓Phúc-Âm cho người không chịu phép cắt bì” không phải là hai sứ điệp khác nhau người ta đã đồng ý rằng chỉ có một Phúc-Âm. Đúng hơn ở đây chúng ta có hai lĩnh vực truyền giáo, một cho người Do-thái và một cho người ngoại bang. Phi-e-rơ và Phao-lô đều rao giảng cùng một Phúc-Âm, và cùng một Chúa đang hành động trong họ và qua họ (Ga 2:8), nhưng họ sẽ phục vụ cho các dân tộc khác nhau.


Điều này không có nghĩa Phao-lô không bao giờ tìm cách chinh phục người Do-thái.Trái lại, ông nặng lòng cho dân tộc của mình (Rô 9:1-3). Thực ra, khi Phao-lô đến một thành phố nào trước tiên ông tìm đến nhà hội của người Do-thái, nếu có một chỗ ở đó, ông bắt đầu chức vụ giữa dân tộc của mình. Phi-e-rơ cũng không ngăn cản việc rao giảng Phúc-Âm cho người ngoại bang. Nhưng mỗi người tập trung công việc của mình vào trong lĩnh vực được Đức Thánh Linh giao phó cho mình. Gia-cơ, Phi-e-rơ, và Giăng đi đến với người Do-thái Phao-lô đi đến người ngoại bang (Ga 2:9b, từ ngữ người ngoại đạo có nghĩa “các dân ngoại bang").


Hội nghị Giê-ru-sa-lem bắt đầu bằng một khả năng có thể chia rẽ và bất hoà nặng nề tuy nhiên hội nghị kết thúc bằng sự cộng tác và đồng lòng. “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau. Thật tốt đẹp thay” (Thi 133:1). Có lẽ ngày nay chúng ta cần thực hành cộng tác giống như vậy.


Chúng ta cần nhận ra việc Đức Chúa Trời kêu gọi con người vào trong các chức vụ khác nhau ở những nơi khác nhau tuy nhiên hết thảy đều rao giảng một Phúc-Âm và đang tìm cách cộng tác với nhau để xây dựng Hội thánh Ngài. Giữa những người biết và kính mến Đấng Christ, không thể có sự “tranh cạnh”.

Phi-e-rơ là một người vĩ đại, và có lẽ ông là sứ-đồ trưởng tuy vậy ông vui vẻ nhượng bộ Phao-lô - người mới đến - và cho phép Phao-lô tiếp tục chức vụ như Chúa đã dẫn dắt ông. Trước đây, Phao-lô giải thích sự độc lập đối với các sứ-đồ (Ga 1:1-24) bây giờ trong chương 2 ông nêu lên sự liên hệ với các sứ-đồ khác. Ông tự do, tuy nhiên người sẵn lòng thông công với họ trong chức vụ rao giảng Phúc-Âm.


Chúng ta đi từ giáo lý thần học đến hành động thực tiễn - giúp đỡ người nghèo khó (Ga 2:10). Chắc chắn những việc này phải đi chung với nhau. Gíáo lý đúng không bao giờ thay thế cho bổn phận Cơ-đốc (Gia 2:14-26). Rất thường các buổi nhóm của chúng ta bàn luận nhiều nan đề, nhưng không có kết quả trong hành động giúp đỡ cụ thể cho thế giới có nhu cầu. Phao-lô luôn luôn quan tâm đến người nghèo khó (Công 11:27-30), vì vậy ông vui mừng làm theo đề nghị của họ.


Cho dù hội nghị kết thúc bằng sự đồng tình giữa Phao-lô và các nhà lãnh đạo nhưng nó không vĩnh viễn giải quyết vấn đề. Người theo đạo Giu-đa không từ bỏ, nhưng tìm cách can thiệp vào công việc của Phao-lô và thâm nhập vào các Hội thánh ông đã thành lập. Phao-lô mang tin vui về quyết định trong hội đồng giáo hội đến cho các Hội thánh tại An-ti-ốt, Sy-ri, và Si-li-ci (Công 15:23) và các miền khác mà người đã rao giảng (Công 16:4). Nhưng giáo sư Do-thái theo chân ông (giống như những con chó kêu ăng ẳng – (Phi 3:1-3), họ bắt đầu công việc gieo rắc tại An-ti-ốt nơi họ tác động đến cả Phi-e-rơ có lợi cho công việc của họ (Ga 2:11).


Có mối ngờ vực nhỏ về việc giáo sư Do-thái đến các Hội thánh Ga-la-ti để gieo rắc mầm mống bất hòa, vì lý do này Phao-lô phải viết thư chúng ta đang nghiên cứu hiện nay. Thư này có thể được viết từ An-ti-ốt ngay sau khi Giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem, mặc dù một số học giả ấn định thời gian của nó trễ hơn và cho rằng Phao-lô viết thư này hoặc tại Ê-phê-sô hoặc tại Cô-rinh-tô. Những chi tiết lịch sử này thật quan trọng, nhưng chúng không quyết định cho sự hiểu biết về chính bức thư. Chỉ cần nói rằng có lẽ đây là thư đầu tiên của Phao-lô, và trong thư ấy chúng ta tìm thấy mọi giáo lý chính yếu mà Phao-lô tin, rao giảng và viết về trong chức vụ tiếp theo của ông.


Vở kịch đã hạ màn, nhưng màn sẽ kéo lên để phô diễn vở kịch khác. Lại lần nữa “chiến sĩ cho tự do” của Đức Chúa Trời sẽ binh vực cho chân lý của Phúc Âm, lần này trước mặt Phi-e-rơ.



 


4. CHIẾN SĨ ĐẤU TRANH CHO TỰ DO – PHẦN 2 (Ga 2:11-21)


“Cảnh giác vĩnh cửu là giá của tự do! ”

Wendell Phillips đã nói như vậy tại cuộc họp chống chính sách nô lệ ở tiểu bang Massachusetts năm 1852, tinh thần đó vẫn còn có giá trị đến ngày nay - không những trong lĩnh vực chính trị nhưng còn trong lĩnh vực tinh thần nữa. Phao-lô liều mình đem Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời đến những vùng xa xôi, và không chịu nhượng bộ cho kẻ thù của mình chiếm đoạt sự tự do của Đấng Christ khỏi ông và Hội thánh của ông. Chính sự “cảnh giác thuộc linh” này dẫn dắt Phao-lô vào cuộc chạm trán khác gây ấn tượng, lần này với sứ đồ Phi-e-rơ, Ba-na-ba và một số bạn bè của Gia-cơ. Hơn nữa vở kịch gồm có ba màn.


1. Phi-e-rơ trở lại con đường cũ (Ga 2:11-13)

Hình như sau hội nghị quan trọng mô tả trong Công 15:1-41, có lúc nào đó Phi-e-rơ từ Giê-ru-sa-lem đi An-ti-ốt. Điều đầu tiên chúng ta lưu ý là sự tự do của Phi-e-rơ lúc bấy giờ. Ông vui vẻ thông công với tất cả tín hữu, người Giu-đa cũng như người ngoại bang. “Ăn với người ngoại bang” có nghĩa là chấp nhận họ, đặt người Do-thái và ngoại bang ngang hàng như một gia đình trong Đấng Christ.


Được trưởng dưỡng như là một người Do-thái chính thống, Phi-e-rơ trải qua một thời gian khó khăn để kinh nghiệm bài học này. Chúa Giê-xu đã dạy điều đó trong lúc còn ở với Phi-e-rơ trước khi Ngài bị treo trên thập tự giá (Mat 15:1-20). Đức Thánh Linh nhấn mạnh lại điều này khi Ngài sai Phi-e-rơ đến nhà Cọt nây, thầy đội người La-mã (Công 10:1-48).

Hơn nữa, chân lý này đã được hội nghị các nhà lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem chấp thuận và thừa nhận (Công 15:1-41). Phi-e-rơ là một trong những nhân chứng quan trọng vào lúc ấy.


Nhưng trước khi phê phán Phi-e-rơ, có lẽ tốt hơn chúng ta nên xét nếp sống riêng của chúng ta để xem chúng ta thực sự vâng theo bao nhiêu giáo lý quen thuộc trong Thánh Kinh. Khi bạn nghiên cứu lịch sử Hội thánh, bạn thấy rằng, trải qua nhiều năm tín hữu chậm chạp trong việc tin và thực hành các chân lý trong đức tin Cơ-đốc ngay cả khi ngày nay chúng ta có Kinh Thánh trọn bộ.

Khi nghĩ đến sự bắt bớ và ngược đãi mà nhiều tín hữu đã chịu vì danh Đấng Christ, chúng ta lấy làm hổ thẹn. Đối với chúng ta, binh vực một giáo lý trong khi nhóm thờ phượng tại nhà thờ là một việc, còn đem nó ra thực hành trong cuộc sống thường ngày là một việc hoàn toàn khác.


Nỗi sợ của Phi-e-rơ đã đe doạ tự do của ông. Trong lúc ở tại An-ti-ốt, Hội thánh này đã được một số đồng sự của Gia-cơ đến thăm. (Bạn nhớ rằng Gia-cơ là một người Do-thái nghiêm khắc mặc dù ông là một con cái Chúa). Phao-lô không nói rằng Gia-cơ sai những người này theo dõi Phi-e-rơ, hoặc thậm chí không nghĩ rằng họ là những chức viên trong Hội thánh Giê-ru-sa-lem. Rất có thể họ thuộc về “đảng cắt bì” (Công 15:1,5) và muốn hướng dẫn Hội thánh An-ti-ốt đi vào việc tuân giữ luật pháp trong tôn giáo của họ.


Sau từng trải với Cọt nây, Phi-e-rơ đã được “kêu gọi trong sự hiện thấy” và đã binh vực cho chính mình (Công 11:1-30). Nhưng bây giờ, ông sợ hãi. Phi-e-rơ không sợ vâng theo Đức Thánh Linh khi Ngài sai ông đến nhà Cọt nây, ông cũng mạnh dạn làm chứng tại Giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem. Nhưng bây giờ Phi-e-rơ mất lòng can đảm vì sự có mặt của một vài thành viên trong nhóm “chống đối”. “Sự sợ loài người gài bẫy” (Ch 29:25).


Chúng ta giải thích nỗi sợ hãi này như thế nào? Trước tiên, chúng ta biết Phi- e-rơ là một người bốc đồng vội vàng. Ông có thể bày tỏ đức tin và lòng can đảm đáng kinh ngạc một giây phút trước đó và rồi hoàn toàn thất bại giây phút tiếp theo.Ông bước đi trên sóng biển đến với Chúa Giê-xu, nhưng rồi bắt đầu sợ hãi đến nỗi sụp chìm xuống nước. Ông tự hào nơi phòng cao rằng sẵn lòng chết với Chúa Giê-xu, rồi chối Thầy của mình ba lần. Chắc chắn Phi-e-rơ trong sách Công-vụ các sứ-đồ mạnh mẽ hơn trong bốn sách Phúc-Âm, nhưng ông chưa là người hoàn toàn - chúng ta cũng vậy! Nỗi sợ hãi của Phi-e-rơ dẫn ông đến thất bại! Ông thôi không vui vẻ dự “tiệc yêu thương” với tín hữu ngoại bang và chính ông đã tự phân rẽ với họ.


Có hai bi kịch đối với sự thất bại của Phi-e-rơ. Đầu tiên, nó biến ông thành người giả hình (nghĩa của chữ giấu diếm, che đậy). Phi-e-rơ làm ra vẻ rằng hành động của ông được thúc đẩy bởi lòng trung thành, trong khi thật sự lòng sợ hãi đã thôi thúc ông làm như vậy. Thật dễ dàng dùng “giáo lý Thánh Kinh” để che đậy sự bất tuân của chúng ta.


Bi kịch thứ hai, Phi-e-rơ dẫn những người khác cùng đi sai đường với mình. Ngay cả Ba-na-ba cũng liên luỵ đến. Ba-na-ba là một trong các nhà lãnh đạo Hội thánh An-ti-ốt (Công 11:19-26), vì vậy việc không làm theo lời Chúa ảnh hưởng to lớn trên những người khác trong mối thông công.


Giả sử Phi-e-rơ và Ba-na-ba đã thắng và hướng dẫn Hội Thánh làm theo luật pháp thì sao? Kết quả có thể ra sao? An-ti-ốt có còn tiếp tục là trung tâm truyền giáo đã gởi Ba-na-ba và Phao-lô ra đi nữa không? (Công 13:1-52). Thay vào đó có phải họ sẽ gởi “những giáo sĩ” thuộc phe ủng hộ phép cắt bì hoặc chiếm đoạt hay chia rẽ những Hội thánh Phao-lô đã thành lập không? Bạn có thể hiểu rằng vấn đề này không có tính cách riêng tư hoặc phe nhóm nó là vấn đề của “chân lý Phúc-Âm”. Và Phao-lô chuẩn bị chiến đấu vì chân lý ấy.


2. Phao-lô quở trách (Ga 2:14-21)

Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh không chắc câu chuyện giữa Phao-lô với Phi-e-rơ kết thúc ở đâu và ông tiếp tục viết thư cho người Ga-la-ti ở đâu trong phân đoạn.

Điều đó thật sự không quan trọng vì toàn phần Kinh Thánh đều bàn đến cùng một chủ điểm: tự do của chúng ta trong Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta cho rằng cả phần này trình bày lời Phao-lô quở trách Phi-e-rơ, dầu có lẽ nó đã được tóm tắt lại. Thật thú vị khi biết rằng Phao-lô xây dựng toàn bộ lời quở trách trên giáo lý. Có năm giáo lý Cơ-đốc căn bản mà Phi-e-rơ phủ nhận qua việc ông phân rẽ với tín hữu ngoại bang.


(1) Sự Hiệp Một Của Hội Thánh (Ga 2:14).

Phi-e-rơ là người Do-thái, nhưng bởi tin nơi Chúa Giê-xu Christ ông trở nên con cái Ngài. Vì là Cơ-đốc nhân, ông là một phần của Hội thánh, và trong Hội thánh tuyệt đối không có sự khác biệt nào (Ga 3:28). Chúng ta đã thấy cách Chúa dạy Phi-e-rơ bài học quan trọng này, đầu tiên tại nhà Cọt nây và sau đó tại Giáo hội nghị Giê-ru-sa-lem.


Từ ngữ Phao-lô dùng chắc chắn làm cho Phi-e-rơ ray rứt: “Anh là người Do-thái, nhưng ăn ở theo cách dân ngoại. Bây giờ anh muốn dân ngoại sống giống người Do-thái.” Sự bất nhất đó là gì?


Chính Phi-e-rơ đã phát biểu tại hội nghị Giê-ru-sa-lem rằng Đức Chúa Trời “chẳng phân biệt chúng ta với người ngoại đâu” (Công 15:9). Nhưng bây giờ Phi- e-rơ đang phân biệt. Con cái Đức Chúa Trời là một dân cho dù có thể họ bị phân chia thành nhiều nhóm khác nhau. Bất cứ hành động thực tế nào chúng ta vi phạm lời Kinh Thánh và phân biệt với anh em, chúng ta chối bỏ tính hiệp một trong thân thể Đấng Christ.


(2) Xưng Công Bình Bởi Đức Tin (Ga 2:15-16).

Đây là lần xuất hiện đầu tiên của từ ngữ “xưng công bình” quan trọng trong bức thư này, và có thể trong các thư tín của Phao-lô (nếu như chúng ta tin Ga-la-ti là thư tín Phao-lô viết đầu tiên). “Xưng công bình bởi đức tin” là khẩu hiệu của Giáo hội Cải Chánh, và thật là quan trọng để chúng ta hiểu giáo lý này.


“Làm thế nào để con người được công bình trước mặt Đức Chúa Trời?” (Giop 9:2) là câu hỏi quan trọng, vì câu trả lời quyết định những kết quả đời đời. “Người công bình sống bởi đức tin” (Ha 2:4) là câu trả lời của Đức Chúa Trời và chính chân lý này đã giải phóng Martin Luther ra khỏi sự ràng buộc và sợ hãi tôn giáo.

Chân lý này rất quan trọng đến nỗi cả ba sách Tân-ước đều giải thích cho chúng ta: Rô-ma (Rô 1:17) Ga-la-ti (Ga 3:11), và Hê-bơ-rơ (Hêb 10: 38). Thơ Rô-ma cho chúng ta biết ý nghĩa của “người công bình” thơ Ga-la-ti giải thích “sẽ sống”và thơ Hê-bơ-rơ giải thích “bởi đức tin”.


Nhưng xưng công bình là gì? Xưng công bình là việc làm của Đức Chúa Trời nhờ đó Ngài tuyên bố tội nhân tin nhận Ngài là công bình trong Chúa Giê-xu Christ. Mỗi chữ trong định nghĩa này đều quan trọng. Sự xưng công bình là hành động và không phải là một quá trình. Không có tín hữu nào “được công bình hơn” tín hữu khác.

“Vậy chúng ta đã được xưng công bình bởi đức tin một lần đủ cả, chúng ta được hoà thuận với Đức Chúa Trời” (Rô 5:1 - dịch theo nghĩa đen). Vì chúng ta được xưng công bình bởi đức tin, nên đó là công việc xảy ra tức khắc giữa tội nhân tin nhận và Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta được cứu bởi việc làm, tất nhiên sẽ có một tiến trình dần dần.


Hơn nữa, sự xưng công bình là việc làm của Đức Chúa Trời nó không do kết quả công đức của con người. “Đức Chúa Trời là Đấng xưng công bình những kẻ ấy” (Rô 8:33). Không phải bởi “việc làm theo luật pháp” tội nhân được xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng bởi việc đặt đức tin vào Chúa Giê-xu Christ. Như Phao-lô giải thích trong cuối bức thư này, luật pháp được ban cho để tố giác tội lỗi và không giải cứu con người ra khỏi tội (Rô 3:20).

Đức Chúa Trời bởi ân điển Ngài đã chất mọi tội chúng ta lên Đấng Christ - và sự công bình của Đấng Christ được kể cho chúng ta (IICôr 5:21).


Trong sự xưng nghĩa, Đức Chúa Trời kể tội nhân ăn năn là công bình Ngài không khiến người ấy trở nên công bình. (Dĩ nhiên, sự xưng công bình thật dẫn đến một cuộc đời được biến đổi, đó là những gì Gia 2:1-26 đề cập đến). Trước khi tội nhân tin nhận Đấng Christ, anh ta ở trong tình trạng TỘI LỖI trước mặt Đức Chúa Trời nhưng ngay giây phút anh ta tin nhận Chúa Giê-xu Christ, anh ta được kể là KHÔNG CÓ TỘI và không bao giờ được gọi là CÓ TỘI nữa!


Xưng công bình không chỉ là “sự tha thứ”, vì một người có thể được tha thứ nhưng sau đó đi ra phạm tội và trở nên tội lỗi. Một khi bạn được “xưng công bình bởi đức tin” bạn có thể không bao giờ bị cầm bằng là có tội trước mặt Đức Chúa Trời.


Xưng công bình cũng khác với “tha tội”, vì một can phạm được tha tội vẫn còn hồ sơ tòa án. Khi tội nhân được xưng công bình bởi đức tin, những tội lỗi trong quá khứ không còn cáo trách người ấy nữa, và Đức Chúa Trời không còn ghi nhớ tội lỗi người ấy (Thi 32:1-2; Rô 4:1-8).


Cuối cùng, Đức Chúa Trời xưng công bình cho tội nhân, chớ không cho “người tốt”. Phao-lô tuyên bố Đức Chúa Trời xưng công bình “cho người có tội” (Rô 4:5). Nguyên do hầu hết tội nhân không được xưng công bình vì không thừa nhận chính mình là tội nhân! Tội nhân là hạng người duy nhất Chúa Giê-xu Christ có thể cứu chuộc (Mat 9:9-13; Lu 18:9-14).


Khi Phi-e-rơ tự tách mình ra khỏi tín hữu ngoại bang, ông đang phủ nhận chân lý của sự xưng công bình bởi đức tin, vì ông nói, “Chúng ta là người Do-thái khác - và tốt hơn - người ngoại bang”. Tuy nhiên, cả người Do-thái và ngoại bang đều là tội nhân (Rô 3:22-23) và chỉ có thể được cứu bởi tin nơi Đấng Christ.


(3) Tự Do Khỏi Luật Pháp (Ga 2:17-18).

Tại Giáo Hội Nghị Giê-ru-sa-lem, Phi-e-rơ đã so sánh luật pháp Môi-se với ách nô lệ (Công 15:10; Ga 5:1). Bây giờ chính ông lại chịu cái ách không thể mang ấy.


Lập luận của Phao-lô giống như thế này: “Hỡi anh Phi-e-rơ, anh và tôi không tìm sự cứu rỗi nơi luật pháp chúng ta tìm thấy ơn cứu rỗi bởi đức tin nơi Đấng Christ.” Nhưng bây giờ, sau khi được cứu, anh trở lại với luật pháp! Điều này có nghĩa một mình Đấng Christ không cứu được anh nếu không chắc chắn anh đã không cần đến luật pháp. Vì vậy Đấng Christ thực sự đã khiến anh là tội nhân!


“Hơn nữa, anh đã rao giảng Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời cho người Do-thái và người ngoại bang, anh nói cho họ biết họ đã được cứu bởi đức tin chớ không bởi giữ theo luật pháp. Bởi trở lại với việc làm theo luật pháp, anh đang xây dựng những gì anh đã phá đổ! Điều này có nghĩa anh phạm tội bởi phá đổ nó để bắt đầu!”


Nói cách khác, Phao-lô đang đưa ra lý lẽ từ kinh nghiệm riêng tư của Phi-e-rơ về ân điển của Đức Chúa Trời. Trở lại với luật pháp Môi-se là chối bỏ mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho ông ta và qua ông ta.


(4) Chính Phúc-Âm (Ga 2:19-20).

Nếu một người được xưng công bình bởi việc làm của luật pháp, vậy tại sao Chúa Giê-xu Christ chịu chết? Ngài đã chết, được chôn và sống lại là những chân lý chủ yếu của Phúc-Âm (ICôr 15:1-8). Chúng ta được cứu bởi đức tin nơi Đấng Christ (Ngài chết vì chúng ta), và chúng ta sống nhờ đức tin nơi Đấng Christ (Ngài sống trong chúng ta).

Hơn nữa, chúng ta khắng khít với Ngài bởi Đức Thánh Linh đến nỗi chúng ta chết với Ngài (Rô 6:1-14). Điều này có nghĩa chúng ta chết với luật pháp. Trở lại với luật pháp Môi-se là trở lại với nghĩa địa! Chúng ta đã “được sống lại để bước đi trong đời mới” (Rô 6:4) và bởi vì sống bởi quyền năng sự sống lại của Ngài, chúng ta không cần sự “giúp đỡ” của luật pháp.


(5) Ân điển của Đức Chúa Trời (Ga 2:21).

Những giáo sư Do-thái muốn pha trộn luật pháp vào trong ân điển, nhưng Phao-lô cho chúng ta biết rằng điều này không thể được. Trở lại với luật pháp có nghĩa “bỏ qua” ân điển của Đức Chúa Trời.


Phi-e-rơ đã kinh nghiệm ân điển Đức Chúa Trời trong sự cứu rỗi của mình, và đã công bố ân điển Đức Chúa Trời trong chức vụ của mình. Nhưng ông rút lui khỏi mối tương giao Cơ-đốc với người ngoại bang, ông công khai phủ nhận ân điển của Đức Chúa Trời.


Ân điển dạy rằng, “Không có sự khác nhau nào! Tất cả chúng ta là tội nhân, và chúng ta có thể được cứu bởi đức tin nơi Đấng Christ!”

Nhưng hành động của Phi-e-rơ nói rằng, “Có sự khác biệt! Ân điển Đức Chúa Trời không có hiệu quả chúng ta cũng cần có luật pháp nữa.”


Trở lại với luật pháp làm cho thập tự giá ra vô ích: “Nếu bởi luật pháp mà được sự công bình thì Đấng Christ chịu chết là vô ích” (Ga 2:21). Luật pháp dạy HÃY LÀM! Ân điển nói ĐÃ LÀM XONG! “Mọi việc đã được trọn!” là tiếng kêu đắc thắng của Đấng Christ (Gi 19:30). “Ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu” (Eph 2:8).


Chúng ta không có sự ghi nhận nào về lời đáp của Phi-e-rơ đối với lời quở trách của Phao-lô, nhưng Kinh Thánh cho biết ông ta đã biết tội mình và lập lại mối tương giao với anh em. Chắc chắn khi bạn đọc hai thư của Phi-e-rơ (I Phi- e-rơ và II Phi-e-rơ), bạn không tìm thấy sự lệch hướng nào về Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời. Thực ra, chủ đề của Thơ Phi-e-rơ thứ nhất là “ân điển thật của Đức Chúa Trời” (Ga 5:12) và từ ngữ ân điển được dùng trong mọi chương của thư tín.

Phi-e-rơ cẩn thận chỉ ra rằng ông và Phao-lô hoàn toàn thống nhất với nhau, kẻo có ai cố tình “trộm Phi-e-rơ để trả Phao-lô” (IIPhi 3:15-16).


Hai cảnh trong vở kịch hấp dẫn này cũng kết thúc như vậy. Nhưng bức màn sân khấu vẫn chưa hạ xuống, vì còn màn thứ ba có liên quan đến bạn và tôi.


Sự Hưởng Ứng của Người Tin Chúa.

Chúng ta biết thái độ của Phi-e-rơ ra sao khi ông bị thách thức sống theo chân lý của Phúc-Âm: sợ hãi và thất bại. Và chúng ta biết thái độ của Phao-lô như thế nào khi ông thấy chân lý của Phúc-Âm đang bị sai lệch: can đảm bảo vệ. Nhưng câu hỏi quan trọng ngày hôm nay là: Thái độ của tôi đối với “chân lý của Phúc-Âm” là gì? Có lẽ đây là dịp tiện tốt để lập bảng liệt kê về chính chúng ta trước khi tiến hành nghiên cứu các chương giáo lý trong thư tín này. Hãy cho tôi đề nghị một số câu hỏi để mỗi chúng ta trả lời.


(1) Tôi đã được cứu bởi ân điển Đức Chúa Trời chưa?

Phúc-Âm cứu rỗi duy nhất là Phúc-Âm của ân điển Đức Chúa Trời như đã được bày tỏ trong Chúa Giê-xu Christ. Bất cứ Phúc-Âm nào khác là Phúc-Âm sai và phải chịu rủa sả (Ga 1:6-9). Người ta đã định nghĩa “ân điển” như là:

Sự giàu có của Đức Chúa Trời nhờ vào Đấng Christ và đó quả thật là một định nghĩa hay.


Tôi có đang tin cậy vào chính bản thân mình để được sự cứu rỗi - đạo đức của tôi, công đức của tôi, và ngay cả tôn giáo của tôi không? Nếu đúng vậy, tôi không phải là Cơ-đốc nhân, vì một Cơ-đốc nhân thật là người tin cậy một mình Đấng Christ. “Vả ấy là nhờ ân điển bởi đức tin mà anh em được cứu, đều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Eph 2:8-9).


(2) Tôi có đang cố gắng pha trộn luật pháp vào trong ân điển không?

Luật pháp có nghĩa là tôi phải làm điều gì đó để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, trong khi ân điển có nghĩa Đức Chúa Trời đã hoàn thành công việc cho tôi và tất cả điều tôi cần làm là tin nơi Đấng Christ. Sự cứu rỗi không phải nhờ đức tin nơi Đấng Christ cộng thêm điều gì: chính bởi đức tin vào một mình Đấng Christ mà thôi.

Trong khi việc nhóm lại và các hoạt động tôn giáo là điều tốt như để bày tỏ đức tin nơi Đấng Christ, nhưng các hoạt động ấy không thể thêm vào đức tin nơi Đấng Christ để bảo đảm sự sống đời đời. “Nhưng nếu bởi ơn thì chẳng phải bởi việc làm nữa: bằng chẳng, thì ơn không còn phải là ơn. Nhưng nếu là việc làm, thì chẳng phải bởi ơn nữa: bằng chẳng việc làm không còn là việc làm nữa” (Rô 11:6).


(3) Tôi có đang vui mừng trong việc tôi được xưng công bình bởi đức tin nơi Đấng Christ không?

Người ta thường nói “được xưng công bình” có nghĩa “y như thể tôi chưa hề phạm tội” và điều này đúng vậy. Sự xưng nghĩa đem đến cho tâm hồn con người sự bình an lớn lao khiến cho người ấy biết rằng mình có một địa vị thích hiệp trước mặt Đức Chúa Trời (Rô 5:1). Thử nghĩ sự công bình của Đấng Christ đã được kể cho chúng ta! Đức Chúa Trời không chỉ tuyên bố chúng ta là công bình trong Đấng Christ, nhưng Ngài còn đối xử với chúng ta y như chúng ta chẳng hề phạm tội chút nào! Chúng ta không phải sợ sự đoán phạt vì tội lỗi chúng ta đã bị đoán phạt trong Đấng Christ trên thập tự giá (Rô 8:1).


(4) Tôi có đang bước đi trong tự do của ân điển không?

Tự do không có nghĩa là buông tuồng đúng hơn là tự do trong Đấng Christ để kính yêu Ngài và làm theo mọi việc lành Ngài đã sắm sẵn cho chúng ta làm theo (Eph 2:10). Không những “tự do làm” nhưng còn “tự do không làm”. Chúng ta không còn ở trong xiềng xích của tội lỗi và luật pháp nữa. Như Phao-lô giải thích trong phần thực hành của bức thư này (Ga 5:1-26; Ga 6:1-18, chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời vì kính yêu Ngài chớ không vì luật pháp. Cơ-đốc nhân hưởng sự tự do lạ lùng trong Đấng Christ. Tôi có đang hưởng tự do ấy không?


(5) Tôi có sẵn sàng binh vực cho chân lý của Phúc-Âm không?

Điều này không có nghĩa chúng ta trở thành những thám tử Phúc-Âm theo dõi mọi nhà thờ và các lớp Trường Chúa nhật trong thành phố. Nhưng có nghĩa chúng ta không sợ hãi con người khi họ phủ nhận chân lý đã đem chúng ta đến sự sống đời đời qua Chúa Giê-xu Christ. “Tôi muốn làm đẹp lòng loài người chăng? Nếu tôi còn làm đẹp lòng loài người, thì tôi chẳng phải là tôi tớ của Đấng Christ” (Ga 1:10).


Nhiều người mà chúng ta tiếp xúc thực sự tin rằng con người được cứu bởi tin nơi Đấng Christ cộng với “làm điều thiện...giữ Mười Điều Răn...vâng theo Bài Giảng Trên Núi”, và nhiều “điều thêm vào của tôn giáo” khác nữa. Có thể chúng ta không có cùng quyền hạn sứ đồ như Phao-lô nhưng chúng ta có Lời Đức Chúa Trời và đó là trách nhiệm chúng ta phải chia sẻ chân lý.


(6) Tôi có đang bước đi theo “chân lý của Phúc-Âm” cách ngay thẳng không? (Ga 2:14).

Cách tốt nhất để binh vực cho chân lý là sống cho chân lý. Binh vực cho Phúc-Âm bằng lời nói sẽ kết quả rất ít nếu tôi sống nghịch lại với những gì tôi nói. Phao-lô giải thích cho chúng ta cách sống trong tự do bởi ân điển của Đức Chúa Trời, và vâng theo những lời dạy của Ngài thật là quan trọng cho chúng ta.


Một người mới xin việc làm được hướng dẫn cách đo những bộ phận van để bảo đảm chúng sẵn sàng cho công đoạn cuối cùng. Nhưng sau vài tiếng đồng hồ, người đốc công nghe lời than phiền rằng các bộ phận anh ta đang nhận bị lỗi. Người đốc công hỏi, “Bạn đang làm gì? Tôi chỉ cho bạn cách dùng thước đo các vật thể nhỏ rồi. Bạn đang chuyển giao qua những bộ phận quá kích cỡ!”


Người làm công trả lời, “Ồ, hầu hết các bộ phận tôi đang đo quá lớn, vì vậy tôi mở thước đo ra một chút.”


Thay đổi tiêu chuẩn sẽ không bao giờ đem lại kết quả, cả trong sản xuất lẫn trong sự hầu việc. Phao-lô giữ gìn những tiêu chuẩn của “chân lý của Phúc-Âm” - và chúng ta cũng nên như vậy.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page