top of page
1. HÃY NGHE PHÚC-ÂM (Lu 1:1-80)
Tác giả: Người từng viết cuốn sách chứa nhiều tin tốt lành cho mọi người, ấy là bác sĩ Lu-ca. Ông trình bày thông điệp quan trọng: “Bởi Con Người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu 19:10). Ông giới thiệu về Chúa Giê-xu Christ, Con Người đầy lòng thương xót đã đến giữa tội nhân, yêu thương, giúp đỡ và chết thay cho họ.
Qua...
...sách Phúc-âm này, bạn sẽ gặp nhiều người: đoàn dân, đàn ông, phụ nữ, trẻ con, người nghèo, kẻ giàu, tội nhân lẫn thánh đồ. Đây là sách chứa một thông điệp dành cho mọi người, bởi Lu-ca nhấn mạnh một đặc điểm chung về Chúa Giê-xu và sự cứu rỗi của Ngài. “…một Phúc-âm sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân” (Lu 2:10).
Bác sĩ Lu-ca chỉ được nhắc đến 3 lần trong Thánh Kinh Tân-ước: Co 4:14 IITi 4:11 Phi 1:24. Ông viết sách Công-vụ và đồng hành với Phao-lô (so sánh Lu 1:1-4 với Cong 1:1), chú ý những từ “chúng ta” ở Cong 16:10-17 Cong 20:4-15 Cong 21:1-18 Cong 27:1-28:16.
Có thể ông là người ngoại theo học nghề thầy thuốc nên không có gì ngạc nhiên khi ông mở đầu sách bằng câu chuyện chi tiết về sự ra đời của 2 con trẻ “đặc biệt” và nhấn mạnh về sự cảm thông của Đấng Christ đối với người bất hạnh! Ông viết sách bằng tinh thần nghiêm túc của một sử gia và tấm lòng bác ái của người thầy thuốc.
Phúc-âm Lu-ca được viết cho Thê-ô-phi-lơ (“người yêu của Đức Chúa Trời”), có lẽ là một quan chức La-mã tin Chúa Giê-xu và bây giờ cần được củng cố niềm tin. Thê-ô-phi-lơ có thể đã tìm kiếm lẽ thật sau khi nghe về Phúc-âm, vì Lu 1:4 viết “để ông biết những điều mình đã học là chắc chắn”.
Cuộc đời và thông điệp của Chúa Giê-xu gây ảnh hưởng lớn nên có nhiều sách viết về Ngài, nhưng không phải mọi sách đều đáng tin cậy. Lu-ca viết sách này cốt để người đọc biết một sự kiện chính xác về cuộc đời, chức vụ và thông điệp của Chúa Giê-xu. Lu-ca thận trọng thu thập các sự kiện, chứng cứ, lắng nghe người giảng đạo và chủ yếu có sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh (Gi 3:31 Gi 19:11) – Ấy chính là sự hà hơi của Thánh Linh Đức Chúa Trời trên thông điệp của ông.
Qua đoạn 1, Lu-ca cho ta biết thể nào thông điệp kỳ diệu từ Đức Chúa Trời đã đến với mọi tầng lớp khác nhau và được hưởng ứng ra sao. Bạn sẽ thấy có 4 thái độ hưởng ứng khác biệt:
1. Vô tín (Lu 1:5-25)
Có một ngày thật đen tối đến với dân tộc Y-sơ-ra-ên. Dân sự không nhận được lời tiên tri nào từ Đức Chúa Trời trong 400 năm kể từ lúc Ma-la-chi nói về tiên tri Ê-li (Ma 4:5-6). Những người lãnh đạo thuộc linh thời bấy giớ bị bắt bớ bởi truyền thống cố hữu, sự bại hoại của xã hội và bởi bạo chúa Hê-rốt - kẻ từng xử tử một trong chín (hoặc mười) người vợ mình không cần biết lý do chính đáng. Dẫu ngày ấy đen tối ra sao, Đức Chúa Trời vẫn luôn có những con người biết dấn thân và vâng phục.
• Thầy tế lễ trung tín (Lu 1:5-7).
Xa-cha-ri (“Đức Giê-hô-va nhớ đến”) và Ê-li-xa-bét (nghĩa là “Đức Chúa Trời là giao ước tôi”) là cặp vợ chồng tin kính thuộc dòng tế lễ. Các thầy tế lễ được phân thành 24 ban thứ (ISu 24:1-31) và mỗi thầy tế lễ sẽ hầu việc trong đền thờ suốt 2 tuần lễ trong năm. Dù quanh họ dẫy đầy sự vô tín, Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét vẫn trung tín vâng theo lời Đức Chúa Trời trong cách sống mẫu mực.
Nỗi khổ duy nhất của họ là không có con nối tự nên đã kiên trì cầu nguyện cho nan đề này. Họ đâu ngờ Đức Chúa Trời sẽ nhậm lời (họ) và ban cho họ không phải một thầy tế lễ, nhưng là một tiên tri! Đó không phải là tiên tri bình thường, vì con họ sẽ là sứ giả dọn đường cho Đấng Rất Cao!
• Thầy tế lễ kinh hãi (Lu 1:8-17).
Theo lệ, các thầy tế lễ bắt thăm để xem ai sẽ lãnh nhiệm vụ gì và Xa-cha-ri được chọn để dâng hương trong nơi thánh. Vinh dự đặc biệt này dành cho thầy tế lễ chỉ một lần duy nhất trong đời. Việc dâng hương được thực hiện khoảng 3 giờ chiều mỗi ngày, trước của lễ buổi sáng và sau của lễ buổi chiều. Có lẽ, Xa-cha-ri được dâng hương vào buổi chiều.
Nếu để ý, chắc bạn sẽ thấy Đức Chúa Trời thường nói với con cái Ngài cũng như kêu gọi họ lúc họ đang bận rộn với công việc thường nhật. Chẳng hạn, Môi-se và Đa-vít đang chăn chiên, Ghi-đê-ôn đang đập lúa, Phi-e-rơ cùng các bạn chài đang vá lưới lúc Chúa Giê-xu gọi họ. Thật khó điều khiển chiếc xe khi máy của nó không hoạt động!
Chúng ta bận rộn - chính là lúc Đức Chúa Trời khởi sự dẫn dắt chúng ta. Lu-ca nói về các thiên sứ 23 lần trong Phúc Âm này, thực ra, có rất nhiều thiên sứ (Kh 5:11)chứ không chỉ 2 thiên sứ thường được nói đến trong Kinh Thánh như Mi-ca-ên và Gáp-ri-ên (Da 10:13,21 Da 12:1 Giu 1:9 Kh 12:7 Da 8:16 Da 9:21 Lu 1:19,26). Khi Thiên sứ Gáp-ri-ên xuất hiện bên bàn thờ xông hương, Xa-cha-ri rất hoảng sợ vì sự hiện diện của Thiên sứ có thể là sự đoán phạt của Chúa.
Lời phán “Đừng sợ! ” được ghi lại nhiều lần trong Phúc Âm Lu-ca (Lu 1:13,30 Lu 2:10 Lu 5:10 Lu 8:50 Lu 12:7,32). Bạn hình dung xem, hẳn Xa-cha-ri xúc động biết bao khi nghe rằng vợ chồng ông sẽ có một con trai! “Sự vui mừng” cũng là chủ đề chính trong Phúc Âm Lu-ca, được nhắc đến ít nhất 19 lần. Tin tức tốt lành thực sự đem đến “sự vui mừng”!
Thiên sứ Gáp-ri-ên cho Xa-cha-ri biết phải dặt tên con trẻ là Giăng (nghĩa là “Đức Giê-hô-va hay thương xót”) và dâng nó cho Đức Chúa trời để làm một Na-xi-rê trọn đời (Dan 6:1-21). Con trẻ này sẽ đầy dẫy Đức Thánh Linh trước khi ra đời (Lu 1:41), sẽ là tiên tri của Đức Chúa Trời nói cho dân Y-sơ-ra-ên biết về Con Độc Sanh (Gi 1:15-34). Đức Chúa Trời sẽ dùng chức vụ của Giăng để khiến lòng nhiều người trở lại cùng Chúa của họ như tiên tri Ê-sai đã báo trước (Es 40:1-5).
Thầy tế lễ thiếu đức tin (Lu 1:18-22). Có lẽ bạn nghĩ rằng sự hiện diện của thiên sứ cùng với thông điệp từ Đức Chúa Trời có thể củng cố niềm tin của Xa-cha-ri. Tiếc thay, không phải vậy. Thay vì tin nơi Đức Chúa Trời, thầy tế lễ này chỉ nhìn thấy thực trạng của chính mình và vợ, rồi cho rằng chuyện sinh con không thể xảy ra. Ông cần có sự bảo đảm nào đó, có thể là một dấu hiệu từ Đức Chúa Trời chứ không chỉ ở lời nói suông của Gáp-ri-ên một sứ giả của Đức Chúa Trời.
Dĩ nhiên đây là sự vô tín điều Đức Chúa trời không thể chấp nhận. Xa-cha-ri thực sự đang chất vấn Đức Chúa trời về khả năng thực thi lời hứa của Ngài! Ông há dễ quên điều Đức Chúa Trời đã làm cho Ap-ra-ham và Sa-ra sao? (Sa 18:9-15 Ro 4:18-25). Phải chăng ông cho rằng những giới hạn về thể chất của chính mình có thể ngăn trở Đức Chúa Trời toàn năng? Tuy nhiên trước khi quá phê phán Xa-cha-ri, chúng ta nên nhìn lại chính mình xem đức tin của chúng ta đang ở mức độ nào.
Đức tin đáng được chúc phước, nhưng sự vô tín phải bị lên án vì vậy Xa-cha-ri bị câm (có thể điếc - Lu 1:62) cho đến khi lời tiên tri được thực hiện. “Ta đã tin, cho nên ta nói” (IICo 4:13), nhưng Xa-cha-ri không tin nên ông không thể nói được. Đức Chúa Trời quả đã ban cho ông một “dấu hiệu” đặc biệt chỉ mình ông biết, hầu ông có thể sống với dấu hiệu ấy suốt 9 tháng sau đó.
Thầy tế lễ được ưu ái. Xa-cha-ri chắc đã trải qua thời gian căng thẳng để hoàn thành tuần lễ nhiệm vụ của mình, chẳng phải vì tật nguyền, nhưng vì xúc động mãnh liệt (Lu 1:23-25). Ông hầu như không thể chờ đợi được nữa, mong sao trở về “miền núi” (Lu 1:39) nơi ông sống để thuật cho vợ nghe về tin mừng này.
Đức Chúa Trời thành tín với lời hứa của Ngài: Ê-li-xa-bét mang thai một con trai ở tuổi già. “Chẳng có sự gì là khó quá cho Ngài cả” (Gie 32:17). Có thể thấy sự ngạc nhiên và tính tò mò của những kẻ khác buộc Ê-li-xa-bét phải ẩn mình, nhưng vẫn ca ngợi Chúa về sự thương xót của Ngài. Bà không chỉ có một con trai nhưng sự ra đời của con bà là chứng cớ Đấng Mê-si-a sắp đến! Quả là những ngày vui mừng!
2. Bày tỏ niềm tin (Lu 1:26-38)
Khi Ê-li-xa-bét mang thai được 6 tháng, Thiên sứ Gáp-ri-ên một lần nữa loan tin về sự ra đời của con trẻ kế tiếp cho nữ đồng trinh Ma-ri ở Na-xa-rét. Ít ra, Thiên sứ này đã xuất hiện ở những nơi khác nhau đến với những con người khác nhau: cụ già, thiếu phụ, thầy tế lễ, con cháu Đa-vít, kẻ vô tín, người tin kính, đền thờ, Giê-ru-sa-lem, Na-xa-rét.
Người dân trong vùng Giu-đê rất khinh thường người Do Thái ở Ga-li-lê, họ tuyên bố rằng họ sẽ vi phạm luật pháp nếu tiếp xúc với những người ngoại này (Mat 4:15). Họ đặc biệt khinh khi người ở Na-xa-rét (Gi 1:45-46). Dầu vậy bởi An điển, Đức Chúa Trời đã chọn một nữ đồng trinh từ Na-xa-rét xứ Ga-li-lê để làm mẹ Đấng Mê-si-a của lời hứa.
Khi sự kiện này xảy đến với Ma-ri, người ta thiên về 2 thái cực: hoặc quá ca tụng bà đến nỗi Chúa Giê-xu chỉ chiếm vị trí phụ (Lu 1:32), hoặc không để tâm đến bà và thiếu sự tôn trọng đối với bà (Lu 1:48). Khi Ê-li-xa-bét đầy dẫy Đức Thánh Linh đã gọi bà là “Mẹ Chúa tôi” (Lu 1:43), lý do đó đủ để thấy bà đáng được tôn trọng.
Ta biết gì về Ma-ri? Nàng là nữ đồng trinh Do Thái thuộc đại tộc Giu-đa, con cháu vua Đa-vít (Es 7:14). Nàng đã hứa hôn với người thợ mộc ở Na-xa-rét tên là Giô-sép (Mat 13:55) và rõ ràng cả hai đều rất nghèo (Lu 2:24 Le 12:8). Giữa vòng dân Do Thái thời bấy giờ, hứa hôn cũng có tính chất ràng buộc như hôn nhân và chỉ có thể chấm dứt bằng cách ly hôn. Thực ra, người nam và người nữ thời đó đã được gọi là “vợ chồng” trước khi tiến tới hôn nhân (so sánh Mat 1:19 và Lu 2:5). Vì những người nữ Do Thái lấy chồng rất sớm, nên có thể khi Thiên sứ hiện đến với Ma-ri, nàng là thiếu nữ mới lớn.
Sự ngạc nhiên của Ma-ri (Lu 1:26-33). Đọc kỹ lời chào mừng của Thiên sứ Gáp-ri-ên, bạn có thể hiểu rõ lý do Ma-ri bối rối sợ sệt. “Hỡi người được ơn, mừng cho ngươi Chúa ở cùng ngươi” Nhiều cổ bản Hy Lạp không có câu: “ngươi có phước trong đám đàn bà” (mà bạn tìm thấy ở đây trong Lu 1:42). Vì sao Thiên sứ đến chào mừng Ma-ri? Bà được ơn Đức Chúa Trời ở phương diện nào? Chúa ở cùng bà ra sao?
Lời đáp của Ma-ri bày tỏ sự khiêm cung thành tâm của bà trước Đức Chúa Trời. Bà thực sự chưa bao giờ mong gặp Thiên sứ để nhận những đặc ân thiên thượng ấy. Bà không có gì lạ thường”. Để những điều này phải xảy đến cho bà. Nếu bà khác biệt với tất cả những người nữ Do Thái khác như một số nhà thần học tuyên bố, có lẽ lúc ấy bà sẽ nói với thiên sứ rằng: “Ô, thời điểm đã đến! Ta đang đợi ngươi đây! ” Không phải vậy, mọi sự xảy đến thật quá ngạc nhiên đối với bà.
Thiên sứ Gáp-ri-ên báo cho bà tin mừng: bà sẽ làm mẹ Đấng Mê-si-a của lời hứa, Đấng bà sẽ đặt tên là Giê-xu (“Đức Giê-hô-va là sự cứu rỗi” Mat 1:21). Bạn hãy để ý rằng Thiên sứ Gáp-ri-ên khẳng định cả thần tánh và nhân tánh của Chúa Giê-xu:là Con Ma-ri Ngài là Con Người, là Con của Đấng Rất Cao (Lu 1:32), Ngài là Con Đức Chúa Trời (Lu 1:35). “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta (nhân tánh của Ngài) tức là một con trai ban cho chúng ta (thần tánh Ngài). ..” (Es 9:5). Lời xác nhận này chỉ về sự vĩ đại của Con (Lu 1:15) chứ không phải của mẹ. Ngài sẽ là một Vị Vua nối ngôi Đa-vít và cai trị Y-sơ-ra-ên đời đời! Nếu giải thích theo nghĩa đen lời Gáp-ri-ên nói trong Lu 1:30-31, ta cũng phải giải thích theo nghĩa đen lời Thiên sứ ấy nói trong Lu 1:32-33. Vị này muốn nói đến giao ước Đức Chúa Trời lập với Đa-vít (IISa 7:1-29) và vương quốc của Ngài hứa với dân Y-sơ-ra-ên (Es 9:1-7,11-12,61,66 Gie 33:1-26).
Chúa Giê-xu đến thế gian để cứu rỗi con người, đồng thời thực hiện lời hứa Đức Chúa Trời đối với tổ phụ dân Do Thái (Ro 15:8). Hôm nay, Ngài đang ngự trên Thiên đàng (Cong 2:29-36) không phải trên ngôi Đa-vít. Sẽ có một ngày, Ngài tái lâm để lập vương quốc công bình trên đất và làm trọn những lời hứa này.
Sự thuận phục của Ma-ri (Lu 1:34-38). Bà biết điều sẽ xảy đến nhưng không rõ bằng cách nào. Câu hỏi của bà trong câu 34 không phải chứng cớ của sự vô tín (Lu 1:18). Ngược lại, đó chính là sự bày tỏ đức tin. Bà tin vào lời hứa Đức Chúa Trời, nhưng không hiểu cách hành động của Ngài. Làm sao trinh nữ có thể sinh con?
Trước tiên Gáp-ri-ên giải thích rằng sự kiện này là một phép lạ do Thánh Linh Đức Chúa Trời hành động. Giô-sép chồng hứa của Ma-ri không phải là cha đứa trẻ (Mat 1:18-25), dù theo luật pháp Chúa Giê-xu được công nhận là con trai Giô-sép (Lu 3:23 Lu 4:22 Gi 1:45 Gi 6:42). Có thể ai đó nghĩ rằng Ma-ri không chung thuỷ với Giô-sép và Chúa Giê-xu là “con ngoại tình” (Gi 8:41). Đây là nỗi đau Ma-ri phải mang suốt đời (Lu 2:35).
Tiên sứ Gáp-ri-ên cho biết rõ rằng con trẻ sinh ra sẽ là “Con Thánh” không mang bản chất tội lỗi của con người. Chúa Giê-xu là Đấng chẳng biết tội lỗi (IICo 5:21), chưa từng phạm tội (IPhi 2:22) và trong Ngài không có tội lỗi (IGi 3:5). Thân thể được sắm sẵn cho chính Ngài bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời (He 10:5), Đấng “che phủ” Ma-ri dưới bóng mình. Từ “che phủ” này được áp dụng cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở nơi Chí Thánh trong đền tạm và đền thờ của người Do Thái (Xu 40:35). Tử cung Ma-ri đã trở thành nơi chí thánh cho Con Đức Chúa Trời!
Thiên sứ chấm dứt thông điệp với lời khích lệ Ma-ri: Ê-li-xa-bét người bà con của bà cũng đang chịu thai, chứng tỏ “không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được”. Đức Chúa Trời đã phán với Ap-ra-ham lời tương tự khi cho ông biết về sự ra đời của I-sác (Sa 18:14). Đức Chúa Trời chúng ta có thể làm được mọi sự, điều này được chứng minh qua Gióp (Giop 42:2) Giê-rê-mi (Gie 32:17), Chúa Giê-xu (Mat 19:26). Đức Chúa Trời thực hiện chương trình Ngài bằng quyền năng của Lời phán Ngài (Thi 33:9).
Đáp ứng đức tin của Ma-ri là thuận phục, hiến dâng bản thân để trở thành một đầy tớ sẵn sàng cho “tôi tớ Đức Chúa Trời”. Bà kinh nghiệm ơn Đức Chúa Trời (Lu 1:30), tin nơi Lời Ngài nên bà được Đức Thánh Linh sử dụng để thực hiện ý muốn Đức Chúa Trời. “Tôi tớ” là chức phận thấp nhất được Ma-ri sử dụng để bày tỏ mức độ bà tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Bà hoàn toàn thuộc về Chúa: thể xác (Lu 1:38), linh hồn (Lu 1:46) và tâm thần (Lu 1:47). Thật là một tấm gương đáng để chúng ta noi theo! (Ro 12:1-2).
3. Vui mừng (Lu 1:39-56)
Khi Ma-ri biết mình sắp làm mẹ và người bà con Ê-li-xa-bét sẽ sinh con trong vòng 3 tháng, bà muốn đi thăm Ê-li-xa-bét để cùng chia sẻ niềm vui.”Sự vui mừng” là chủ đề chính của phân đoạn này, bạn sẽ thấy có 3 người vui mừng trong Chúa.
Trước tiên là sự vui mừng của Ê-li-xa-bét (Lu 1:39-45). Khi Ma-ri bước vào nhà, Ê-li-xa-bét nghe lời chào của bà, liền được Thánh Linh cảm động để nói ra lý do Ma-ri đến. Lời nói nơi môi miệng bà sử dụng nhiều lần từ “phước”. Để ý rằng bà không nói Ma-ri có phước “trên hết” những người nữ, nhưng nói Ma-ri có phước “trong đám” người nữ, và thật sự như thế.Trong khi đó, chúng ta không muốn quy cho Ma-ri những điều chỉ thuộc về Đức Chúa Trời, cũng không muốn đánh giá thấp vị trí của bà trong chương trình Đức Chúa Trời.
Điều Ê-li-xa-bét muốn nhấn mạnh là đức tin của Ma-ri: “Phước cho người đã tin” (Lu 1:45). Chúng ta được cứu “nhờ ân điển, bởi đức tin” (Eph 2:8,9). Ma-ri kinh nghiệm quyền năng Đức Chúa Trời bởi bà đã tin nơi Lời phán của Ngài.
Kế đến là sự vui mừng của Giăng - con trẻ sắp sinh ra (Lu 1:41,44). Có thể đây chính là thời điểm Giăng được đầy dẫy Đức Thánh Linh như lời Thiên sứ báo trước (Lu 1:15). Ngay cả trước khi ra đời, Giăng đã vui mừng trong Chúa Giê-xu, và tiếp tục vui mừng suốt thời gian thi hành chức vụ trên đất (Gi 3:29-30). Là Giăng Báp-tít ông có đặc quyền lớn lao, được nói về Đấng Cứu Thế cho dân tộc Do Thái.
Người vui mừng thứ ba là Ma-ri (Lu 1:46-56). Niềm hân hoan tràn ngập khiến bà bật lên lời ca tụng Chúa. Đầy dẫy Đức Thánh Linh sẽ khiến chúng ta có thể vui mừng ngợi khen Chúa trong cuộc sống (Eph 5:18-20) và sự đầy dẫy Lời Chúa cũng khiến chúng ta vui mừng như thế (Co 3:16-17). Bài ca của Ma-ri chứa đựng những lời trích dẫn được chép trong Thánh Kinh Cựu Ước, đặc biệt ở sách thi thiên và bài ca của An-ne trong ISa 2:1-10.Ma-ri giấu Lời Chúa trong lòng và biến nó thành bài ca.
Bài ca này được gọi là “Bài ca của trinh nữ Ma-ri” (The Magnificat), Tiếng La-tinh ở Lu 1:46 ghi rằng “Magnafiticat anima mea Dominum” (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa). Niềm khao khát mãnh liệt của bà là được ca tụng Chúa, không phải chính mình. Bà sử dụng những từ “Ngài đã...” nhiều lần khi kể lại những ơn phước Ngài đã ban cho ba người.
Điều Đức Chúa Trời đã làm cho Ma-ri (Lu 1:46-49). Trước tiên, Ngài cứu rỗi bà (Lu 1:47). Điều này cho thấy Ma-ri là một tội nhân giống như chúng ta, cần phải tin nhận Chúa để được sự sống đời đời. Không chỉ cứu rỗi bà, Đức Chúa Trời còn chọn bà làm mẹ Đấng Christ (Lu 1:48). Ngài “đoái đến” bà, nghĩa là Ngài lưu tâm đến bà và ban ơn cho bà. Không có gì ngạc nhiên nếu Ngài chọn một ai khác, nhưng Ngài đã chọn Ma-ri! Đức Chúa trời thật đã bày tỏ ân điển Ngài trên bà (ICo 1:26-28).
Đức Chúa Trời không chỉ lưu tâm đến Ma-ri, Ngài còn bày tỏ quyền năng Ngài trên bà (Lu 1:49). Ma-ri không thể không ngợi khen “Đấng toàn năng đã làm các việc lớn cho tôi” (Lu 8:39 ISa 12:24 IISa 7:21-23 Thi 126:2-3). Ma-ri tin Đức Chúa Trời và đầu phục ý muốn Ngài, nên Ngài đã thực hiện một phép lạ trong cuộc đời bà và sử dụng bà để đưa Đấng Cứu Thế vào trần gian.
Điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta? (Lu 1:50-53). Trong khổ thơ kế tiếp, Ma-ri nhắc đến tất cả những người kính sợ Chúa trải các đời. Chúng ta đều được Chúa thương xót và kinh nghiệm sự cứu giúp của Ngài. Ma-ri kể ra 3 nhóm người được Đức Chúa Trời thương xót: người bất lực (Lu 1:51), người khiêm nhường (Lu 1:52) và người đói khát (Lu 1:53).
Người dân thời bấy giờ hầu như đều bất lực trước công lý và dân quyền. Họ đói khát, bị hà hiếp và bị nhụt chí (Lu 4:16-19), vô phương chống lại quy lệ này. Tổ chức bí mật của những nhà ái quốc cực đoạn Do Thái gọi là “những kẻ cuồng tín” đã dùng bạo lực để chống đối La Mã, nhưng các hoạt động của họ chỉ làm cho thực trạng càng thêm tồi tệ.
Ma-ri thấy Chúa đảo lộn tất cả mọi sự: người yếu đuối truất phế kẻ mạnh, người khiêm nhường đuổi kẻ kiêu ngạo, những người tầm thường được tôn cao, người đói khát được no đủ, kẻ giàu có về tay không. An điển của Đức Chúa Trời hành động ngược với tư tưởng và quy lệ của thế gian (ICo 1:26-28). Hội Thánh cũng giống như những nhóm người đã tụ tập quanh Vua Đa-vít (ISa 22:2).
Điều Đức Chúa Trời đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên (Lu 1:54-55). “Ngài sẽ cứu dân mình ra khỏi tội” (Mat 1:21). Dẫu ở tình trạng thiếu thốn cơ cực, dân Y-sơ-ra-ên vẫn là tôi tớ Đức Chúa Trời, Ngài sẽ giúp họ thực hiện ý muốn Ngài. Đức Chúa Trời bảo vệ dân Y-sơ-ra-ên, Ngài sẽ nhớ lại sự thương xót và thực hiện lời hứa Ngài (Thi 98:1-3 Sa 12:1-3 Sa 17:19 Sa 22:18 Sa 26:4 Sa 28:14).
Ma-ri ở với Ê-li-xa-bét cho đến khi Giăng ra đời, sau đó bà trở lại Na-xa-rét. Vào lúc này, việc Ma-ri có thai có thể dễ nhận ra và miệng đời đã bắt đầu xầm xì.Suy cho cùng bà xa gia đình đã 3 tháng và người ta có thể thắc mắc vì sao bà ra đi vội vã như thế? Lúc ấy Đức Chúa Trời đem tin mừng đến cho Giô-sép và chỉ dẫn ông những gì phải làm (Mat 1:18-25).
4. Ngợi khen (Lu 1:57-80)
Đức Chúa Trời ban phước dồi dào trên Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét. Ngài ban cho họ một con trai như Ngài đã hứa. Họ đặt tên con là “Giăng” theo lời Đức Chúa Trời. Dân Do Thái xem con trẻ như sự ban cho của Đức Chúa Trời và “là cơ nghiệp bởi Đức Giê-hô-va mà ra” (Thi 127:3-5 Thi 128:1-3). Thật như vậy! Họ không theo tập tục của dân ngoại bang vô thần bằng cách giết con mình hoặc bỏ rơi chúng. Chỉ riêng con số 1.500.000 thai nhi bị phá bỏ hằng năm ở Nước Mỹ đủ để bạn thấy chúng ta đã đi xa khỏi luật pháp Đức Chúa Trời chừng nào rồi.
Tiến sĩ E.T.Sullivan nói rằng: “Sức mạnh vĩ đại nhất trên thế giới không phải là những trận động đất hay sấm sét - mà chính là những con trẻ”.
Theo lệ, con trai sẽ được đặt tên theo cha hay người trong gia đình. Khi Ê-li-xa-bét khẳng định tên con là Giăng, bà con hàng xóm đều lấy làm lạ. Xa-cha-ri viết trên tấm bảng: “Giăng là tên nó” và đồng ý như vậy. Tức thì Đức Chúa Trời mở miệng ông. Bài ca tụng của Xa-cha-ri cho chúng ta 4 bức tranh xinh đẹp có ý nghĩa về sự hiện diện của Chúa Giê-xu trên thế gian:
Cửa ngục tù rộng mở (Lu 1:68): Từ “cứu chuộc” có nghĩa như giải thoát bằng cách trả một giá “Có thể dùng để nói đến việc thả tù nhân, hoặc giải phóng nô lệ. Chúa Giê-xu Christ đến thế gian để giải thoát cho những kẻ bị giam cầm (Lu 4:19), cứu những ai trong xiềng xích tội lỗi và sự chết (Eph 1:7 IPhi 1:18-21).
Bức tranh thắng trận (Lu 1:69-75): Trong Kinh Thánh “sừng” là biểu tượng của sức mạnh và chiến thắng (IVua 22:11 Thi 89:17,24). Đây là bức tranh mô tả một đội quân sắp bị thất thủ, nhưng sau đó có sự cứu giúp đã đánh bại kẻ thù. Ở bức tranh trước, những kẻ bị cầm được tha. Nhưng ở bức tranh này, kẻ thù bị đánh bại hoàn toàn nên không thể bắt giữ thêm tù nhân nào. Nó có nghĩa là toàn thắng của con dân Đức Chúa Trời.
Sự cứu chuộc (Lu 1:69,71) mang ý nghĩa “khoẻ khoắn, mạnh mẽ”. Dù kẻ bị giam cầm ở tình trạng nào đi nữa, Đấng cứu chuộc vẫn đem đến cho họ một sự mạnh mẽ, vững vàng thuộc linh. Khi tin nhận Chúa Giê-xu Christ là Đấng Cứu Thế, bạn được giải thoát khỏi quyền Sa-tan để bước vào Vương quốc của Đức Chúa Trời, được cứu rỗi và được tha thứ (Co 1:12-14).
Đấng Cứu Thế từ đâu đến? Ngài sinh ra từ nhà Đa-vít (Lu 1:69) là Vị Vua chiến thắng mọi kẻ thù. Đức Chúa Trời phán trước rằng Đấng Cứu Thế sẽ là người Do Thái (Sa 12:1-3), dòng Giu-đa (Sa 49:10) con cháu Đa-vít (IISa 7:12-16), sanh trong thành Đa-vít (Bết-lê-hem) (Mi 5:1). Cả Ma-ri và Giô-sép cũng thuộc dòng Giu-đa (Lu 1:27 Mat 1:20). Sự hiện diện của Đấng Cứu Thế trên trần gian vốn gắn liền với giao ước Đức Chúa Trời lập cùng dân Ngài (Lu 1:72) và được các tiên tri báo trước (Lu 1:70).
Hãy nhớ rằng chiến thắng này là kết quả của sự thánh hoá và tinh thần hầu việc (Lu 1:74-75). Đức Chúa Trời giải thoát chúng ta không phải để chúng ta đi theo ý riêng mình (vì đó sẽ lại là xiềng xích) nhưng làm theo ý muốn Ngài và vui mừng trong sự tự do Ngài ban.
Bức tranh của “sự tha nợ” (Lu 1:76-77)“Tha tội” nghĩa là cất đi , xoá đi món nợ. Chúng ta đều mắc nợ Đức Chúa Trời -vì phạm luật pháp Ngài và không sống theo tiêu chuẩn Ngài (Lu 7:40-50). Hơn thế nữa chúng ta bị phá sản thuộc linh không thể trả nỗi món nợ. Nhưng Đức Chúa Giê-xu đã đến và trả nợ thay cho chúng ta (Gi 1:29 Thi 103:12).
Bức tranh “buổi bình minh của một ngày mới” (Lu 1:78-79). Bình minh nghĩa là lúc mặt trời mọc. Chúa Giê-xu đến khi mọi người đang ở nơi tối tăm, trong bóng sự chết cùng sự khốn khó vây quanh. Nhưng Ngài đem đến sự sáng, sự sống và bình an. Đây là buổi bình minh của một ngày mới bởi Đức Chúa Trời đã bày tỏ lòng thương xót vô biên của Ngài (Mat 4:16).
Thầy tế lễ Xa-cha-ri không nói được suốt 9 tháng, nhưng ông đã bù đắp sự yên lặng bấy lâu ấy khi bật lên bài ca tụng này cho Đức Chúa Trời! Ông vui mừng khôn xiết vì con ông được Đức Chúa Trời chọn để dọn đường cho Đấng Christ (Es 40:1-3 Ma 3:1). Giăng là tiên tri của Đấng Rất Cao (Lu 1:76), rao cho dân Y-sơ-ra-ên biết về Con của Đấng Rất Cao (Lu 1:32) Đấng được hoài thai trong tử cung Ma-ri bởi quyền năng Đấng Rất Cao (Lu 1:35).
Thay vì hưởng một cuộc sống an nhàn với tư cách thầy tế lễ, Giăng sống nơi đồng vắng, nghiêm khắc với bản thân về thuộc linh lẫn thuộc thể, chờ đợi ngày Đức Chúa Trời sai ông dọn lòng dân Y-sơ-ra-ên đón Đấng Christ. Những người như Si-mê-ôn và An-ne (Lu 2:25-38) đã chờ đợi ngày này từ nhiều năm. Ngày ấy sẽ chóng đến!
Hôm nay Đức Chúa Trời đang kêu gọi chúng ta tin nhận Phúc Âm của Ngài. Những ai tin đều kinh nghiệm sự vui mừng trong Ngài vẫn mong muốn ngợi khen Ngài. Nếu chỉ nói Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế, có lẽ vẫn chưa đầy đủ ý nghĩa. Chúng ta phải đồng thanh với Ma-ri rằng: “Tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi” (Lu 1:47)
2. CHÚA ĐÃ ĐẾN (Lu 2:1-52)
Đoạn 2 này có lẽ là đoạn quen thuộc và được ưa chuộng nhất trong sách Lu-ca. Vào đêm Giáng sinh hằng năm, tôi và vợ tôi thường đọc chung 21 câu đầu của đoạn này.Giờ đây các con đã khôn lớn, chúng tôi vẫn đọc... Câu chuyện xảy ra đã lâu, nhưng sao cứ mới mẻ khiến con cái Đức Chúa Trời chẳng bao giờ chán đọc!
Bác sĩ Lu-ca giới thiệu với chúng ta 3 nét đại cương về những năm trên đất của Đức Chúa Giê-xu Christ:
1. Hài nhi mới sinh (Lu 2:1-20)
“Yếu như một em bé” là một lối nói thông thường lại không thể áp dụng được với Hài nhi Giê-xu trong máng cỏ.Theo cách nói của con người là Ngài yếu như bất cứ em bé nào, nhưng đối với cõi trời Ngài là trung tâm quyền lực.
Sự Giáng sinh của Hài nhi Giê-xu đã khiến Giô-sép và Ma-ri đến thành Bết-lê-hem (Lu 2:1-7). Sê-sa Au-gút-tơ cai trị thời bấy giờ, nhưng chính Đức Chúa Trời đã thực hiện chương trình Ngài khi sử dụng sắc lệnh của Sê-sa để đưa Giô-sép và Ma-ri đi 80 dặm từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem, hầu Lời Ngài được ứng nghiệm. Vì mục đích quân sự và thuế, cứ 14 năm một lần Rô-ma lại có cuộc điều tra dân số. Mỗi người nam Do Thái phải trở về quê quán mình để khai họ tên, nghề nghiệp, tài sản và gia đình. Khi Ma-ri nói: “xin sự ấy xảy ra cho tôi như lời người truyền! ” (Lu 1:38) cũng là lúc cuộc đời bà góp phần vào sự ứng nghiệm của lời tiên tri. Đức Chúa Trời phán rằng Đấng Christ sẽ là một Con Người, không phải thiên sứ (Sa 3:15 He 2:16), là người Do Thái chứ không phải người ngoại (Sa 12:1-3 Dan 24:17). Ngài thuộc dòng Giu-đa (Sa 49:10), con cháu vua Đa-vít (IISa 7:1-17), sanh bởi một nữ đồng trinh (Es 7:14) trong hành Bết-lê-hêm, tức thành Đa-vít (Mi 5:2).
Mọi sự đã ứng nghiệm như lời Kinh Thánh, như vậy Sê-sa hoàn toàn không biết mình đã đóng một vai trò quan trọng. A.T.Pièrson từng nói: “Lịch sử là câu chuyện của Ngài”.Tổng thống James A. Garfield lại gọi lịch sử là “cuộn sách tiên tri được mở ra”. Khi lời Chúa chiếm hữu đời sống chúng ta, những biến cố lịch sử sẽ giúp chúng ta làm trọn ý muốn Ngài. Ngài phán: “Ta sẽ tỉnh thức, giữ lời phán ta đặng làm trọn” (Gie 1:12).
Ma-ri và Giô-sép tuy là vợ chồng, nhưng họ không ăn ở cùng nhau cho đến khi Chúa Giê-xu sinh ra, Ma-ri chỉ là “vị hôn thê” của Giô-sép (Mat 1:18-25). Có lẽ đối với Ma-ri, cuộc hành trình này thật là một thử thách đối với bà, nhưng bà vui mừng được thực hiện ý muốn Đức Chúa Trời và điều chắc chắn là bà cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi tránh được những lời đàm tiếu ở Na-xa-rét.
Các bà mẹ thời đó bọc trẻ sơ sinh bằng một giải vải dài để tay chân chúng được cứng cáp và an toàn “Máng cỏ” được nói đến ở Lu 2:7,12,16 có thể là máng ăn của gia súc hoặc khoảng đất được vào lại để nuôi gia xúc. Ngày nay khi qua vùng Đất Thánh (The Holy Land), bạn sẽ thấy những máng gia súc bằng đá thời xưa, có lẽ Hài nhi Giê-xu đã nằm trong một máng cỏ như thế. Nhiều học giả cho rằng Chúa chúng ta sinh ra trong một hang đá, nơi ẩn náu của thú vật, không phải là chuồng gỗ như bạn thấy ngày nay.
“Bết-lê-hem”nghĩa là “nhàbánh” nơi Giáng sinh lý tưởng của Đấng được gọi là “Bánh của sự sống” (Gi 6:35). Bết-lê-hem - di sản lịch sử quí báu bao gồm sự qua đời của Ra-chên và sự sinh ra của Bên-gia-min (Sa 35:16-20 Mat 2:16-18), hôn nhân của Ru-tơ, những kỳ công của Đa-vít. Đáng chú ý là tên Bên-gia-min “Con trai tay hữu” và tên Đa-vít (“người yêu dấu”). Cả hai tên này được áp dụng cho Chúa chúng ta, vì Ngài là Con yêu dấu (Lu 3:22) tại bên hữu Đức Chúa Trời (Thi 110:1).
Sự Giáng sinh của Chúa Giê-xu tác động đến các Thiên sứ trên trời (Lu 2:8-14). Hẳn các vị ấy sửng sốt biết bao khi thấy Đấng Sáng tạo giáng sinh như một vật thọ tạo! Ngôi Lời đã trở nên một con trẻ yên lặng! Lời giải thích rõ ràng nhất về sự kiện này được viết trong IICo 8:9. Đáp ứng tốt nhất của tấm lòng chúng ta phải được thể hiện qua sự ngợi khen của tấm lòng chúng ta là kinh ngạc và tôn thờ. “Sự mầu nhiệm của sự tin kính là lớn lắm: Đấng đã được tỏ ra trong xác thịt...” (ITe 3:16).
Lời công bố đầu tiên về sự giáng sinh của Đấng Christ được thiên sứ chuyển đến cho những người chăn chiên vô danh. Tại sao là những người chăn chiên mà không phải các thầy tế lễ hay các học giả tôn giáo? Khi đến với những người chăn chiên, Thiên sứ bày tỏ cho họ biết ân điển của Đức Chúa Trời đối với loài người. Họ thật sự là những kẻ bị ruồng bỏ trong Y-sơ-ra-ên. Công việc của họ không những khiến họ bị ô uế về mặt nghi thức mà còn cầm chân họ không đến được đền thờ trong vài tuần lễ liền nên không thể thực hiện nghi thức tinh sạch được. Đức Chúa Trời không gọi người giàu có hay kẻ thế lực, Ngài gọi người nghèo khổ và kẻ thấp hèn (ICo 1:26-29 Lu 1:51-53).
Đấng Christ đã đến với tư cách “Người Chăn Chiên hiền lành” (Gi 10:1-30) và “Chiên Con Đức Chúa Trời” gánh thay tội lỗi thế gian (Gi 1:29). Có thể những người chăn chiên này đang canh giữ bầy chiên được dùng làm của tế lễ trong đền thờ.Điều này rất có ý nghĩa khi tin mừng về Người Chăn Chiên và Chiên Con của Đức Chúa Trời được loan báo trước tiên cho những kẻ chăn khiêm nhường này.
Những người chăn chiên đâu dễ bị đánh lừa! Họ là những con người thực dụng, ít khi làm việc gì bằng trí tưởng tượng. Nếu họ nói rằng họ đã thấy Thiên sứ, đi tìm và gặp Đấng Christ, bạn chắc sẽ tin. Đức Chúa Trời đã chọn những kẻ lao khổ để làm những chứng nhân đầu tiên nói cho mọi người biết: Con Đức Chúa Trời đã đến thế gian!
Trước tiên, một thiên sứ (Gáp-ri-ên?) loan tin mừng, sau đó muôn vàn thiên sứ đồng thanh ngợi khen Đức Chúa Trời. Từ hằng bao thế kỷ, đây là lần đầu tiên, sự vinh hiển Đức Chúa Trời đã tái hiện trên đất. Nếu các gã chăn can đảm kia còn sợ hãi về những điều mắt thấy tai nghe, bạn càng có cơ sở biết chắc đây là sự thật!
“Đừng sợ! ” là một trong những chủ đề chính của câu chuyện Giáng sinh này (Lu 1:13,30,74 Mat 1:20). Nguyên văn thiên sứ nói rằng: “Đừng sợ chi, vì này ta báo cho các ngươi một Phúc Âm, sẽ là một sự vui mừng lớn cho muôn dân” Thiên sứ dùng từ có nghĩa là “công bố tin lành một từ được Lu-ca sử dụng trong cả Phúc Âm và Công vụ. Ta thấy Lu-ca nhấn mạnh về một Phúc Âm cho cả thế giới, cho mọi người chứ không riêng gì dân Do Thái.
Phúc Âm ấy là gì? Đức Chúa Trời không sai một tinh binh, một quan án hay một nhà cải cách, nhưng Ngài ban xuống một Đấng Christ để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của nhân loại. Đó là thông điệp hoà bình cho một thế giới từng nếm trải quá nhiều mùi chiến tranh. Hiệp ước hoà bình của Rô-ma (Roman Peace) được nhiều người biết đến có hiệu lực từ năm 27 TC, thế nhưng “không có chiến tranh” đâu có nghĩa là “có hoà bình”.
Triết gia trường phái khắc kỷ Epictetus nói rằng: “Hoàng đế có thể đem hoà bình đến cho xứ sở bị chiến tranh, nhưng không thể đem hoà bình đến cho lòng giận dữ, sầu khổ, đố kỵ. Ông không thể ban sự bình an trong tâm hồn mà con người khao khát hơn cả sự hoà bình bề ngoài”.
Từ Do Thái “shalom” (hoà bình) có nghĩa vượt trội hơn một hiệp định ngưng bắn, đình chiến trong các trận chiến trong cuộc sống. Nó có nghĩa như: khoẻ mạnh, hạnh phúc, thịnh vượng, an ninh, toàn vẹn, hoàn hảo. Nó có liên quan đến con người nhiều hơn hoàn cảnh. Cuộc sống vốn khó khăn, xưa nay vẫn thế. Thuế cao, nạn thất nghiệp gia tăng, đạo đức con người cứ xuống dốc, bộ máy quân sự được kiểm soát chặt chẽ, Luật pháp La Mã, triết học Hy Lạp và cả Do Thái giáo cũng không thể đáp ứng được nhu cầu trong tâm hồn con người. Chính lúc ấy, Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến thế gian!
Trong sự taọ dựng vũ trụ thiên sứ đã ca ngợi Đức Chúa Trời (Giop 38:7), giờ đây họ lại ngợi khen Ngài vào khởi điểm của sự tạo dựng mới. Mục đích của kế hoạch cứu rỗi là “để ngợi khen Đức Chúa Trời” (Eph 1:6,12,14). Vinh hiển Đức Chúa Trời từng ngự trong đền tạm (Xu 40:34) và đền thờ (IISu 7:1-3), nhưng đã vắng bóng một thời gian dài bởi tội lỗi dân sự (ISa 4:21 Exo 8:4 Exo 9:3 Exo 10:4,18 Exo 11:22-23). Giờ đây, vinh hiển của Đức Chúa Trời lại tái hiện trên đất trong thân vị Con Ngài (Gi 1:14). Máng cỏ thấp hèn kia lại là nơi chí thánh bởi Chúa Giê-xu đã ngự vào!
Sự Giáng sinh của Chúa Giê-xu đã lôi cuốn các gã chăn chiên ngoài đồng (Lu 2:15-20). “Chúng ta hãy tới thành Bết-lê-hem”, lời nói này chứng tỏ họ đang ở xa Bết-lê-hem. Tuy vậy, họ vẫn chấp nhận lên đường tìm Đấng Christ mới sinh ra. Hẳn họ phải nhờ người khác chăn hộ đàn chiên khi vội vã đến Bết-lê-hem.Halford Luccock gọi hành trình này là “Sự vội vã của Giáng sinh đầu tiên”, dĩ nhiên chẳng giống với việc đổ xô mua hàng vào dịp Giáng sinh như chúng ta thấy ngày nay!
Động từ thấy ở Lu 2:16 nghĩa là “đã gặp được sau khi tìm kiếm”. Các gã chăn chiên biết điều họ đang tìm kiếm: “một con trẻ bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ”. Và họ đã gặp Ngài! Họ thờ lạy Ngài, ngợi khen về ân điển, sự nhân từ cùng sự mầu nhiệm Ngài đã bày tỏ cho họ.
Những gã chăn chiên ấy là những gương tốt cho chúng ta noi theo hôm nay. Họ đã đón nhận thông điệp từ Đức Chúa Trời bằng đức tin, hưởng ứng bằng thái độ vâng phục nhanh chóng. Sau khi gặp Con Trẻ, họ loan báo tin mừng cho người khác: “Làm sáng danh và ngợi khen Đức Chúa Trời”. Họ thật đã thế chỗ các Thiên sứ! (Lu 2:13-14) Sau đó, họ trở lại với công việc thường nhật của mình. Công việc chẳng có gì thay đổi, nhưng giờ đây họ là những con người được đổi mới!
Có lẽ vì lý do nào đó, những gã chăn chiên không được phép làm chứng trước pháp luật. Tuy vậy, Đức Chúa Trời đã sử dụng những gã chăn chiên hèn mọn để làm chứng nhân đầu tiên, minh chứng rằng lời tiên tri đã ứng nghiệm, Đấng Christ đã sinh ra. Các Thiên sứ chưa từng kinh nghiệm được ân điển của Đức Chúa Trời vì vậy họ không thể làm chứng như chúng ta. Nói cho người khác về Đấng Christ là nghĩa vụ cấp bách và là đặc quyền lớn lao. Tín hữu chúng ta phải trung tín!
2. Con trẻ (Lu 2:21-38)
Đến đây bác sĩ Lu-ca cho ta thấy có 3 cuộc gặp gỡ quan trọng trong đền thờ Giê-ru-sa-lem: Con trẻ Giê-xu gặp Môi-se (Lu 2:21-24), Si-mê-ôn (Lu 2:25-35) và An-ne (Lu 2:36-38).
Môi-se (Lu 2:21-24). Ta thấy từ “luật pháp” được nhắc đến 5 lần trong Lu 2:24-40. Chúa Giê-xu đến để giải phóng dân Ngài khỏi sự trói buộc của luật pháp, nhưng Ngài “sanh ra dưới luật pháp” và vâng phục luật pháp (Ga 4:1-7). Ngài không đến để phá bỏ luật pháp nhưng để làm trọn luật pháp (Mat 5:17,18).
Cha mẹ Chúa Giê-xu vâng theo luật pháp bằng cách cho con trẻ chịu phép cắt bì sau khi sinh 8 ngày. Đó là dấu hiệu của giao ước Đức Chúa Trời lập cùng Ap-ra-ham (Sa 17:1-27), mỗi người nam phải chịu phép cắt bì để bày tỏ niềm tin. Người Do Thái rất tự hào mình là dân của giao ước Đức Chúa Trời, họ đã ngạo nghễ gọi những người ngoại là - ‘người không chịu cắt bì” (Eph 2:11-12). Tiếc thay, phép cắt bì đã trở thành một nghi thức trống rỗng cho vô số người Do Thái, vì họ không nhận thức được một chân lý thuộc linh quan trọng hàm chứa trong đó (Phu 10:15-20 Ro 2:28-29). Donald Grey Barnhouse, một vị Mục sư kiêm tác giả ở Philadelphia nói rằng: “Phép cắt bì Ngài chịu là sự thương khó đầu tiên Ngài gánh thay ta”. Phép cắt bì tượng trưng cho công việc Đấng Christ thực hiện trên thập tự giá để đối phố với bản tánh tội lỗi của chúng ta (Co 2:10-11 Phi 3:1-3 Ga 6:15). Vâng lời Đức Chúa Trời, Ma-ri và Giô-sép đặt tên Ngài là GIÊ-XU, nghĩa là “Đức Giê-hô-va là sự cứu rỗi” (Mat 1:21).
Phép cắt bì chỉ là nghi thức đầu tiên. Khi con trẻ được 40 ngày Ma-ri và Giô-sép phải đến đền thờ để làm lễ chuộc tội như đã được mô tả trong Le 12:1-8. Họ cũng phải “chuộc ” con trẻ vì là con đầu lòng của Ma-ri (Xu 13:1-12). Họ phải trả 5 siếc-lơ để chuộc “Đấng Cứu chuộc” Đấng một ngày kia sẽ cứu chúng ta bằng huyết báu Ngài (IPhi 1:18,19). Của lễ đơn sơ họ dâng lên chứng tỏ họ quá nghèo, không thể dâng nổi một con chiên con (IICo 8:9). Nhưng chính Chúa Giê-xu Ngài là Chiên Con!
Mối liên hệ giữa Chúa chúng ta với luật pháp đóng vai trò quan trọng trong nhiệm mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài sanh ra dưới luật pháp (Ga 4:4), mặc dù lên án những truyền thống tôn giáo của con người, Ngài vẫn vâng phục trọn vẹn luật pháp của Đức Chúa Trời (Gi 8:46). Ngài mang sự rủa sả của luật pháp vì chúng ta (Ga 3:13 và buông tha chúng ta khỏi ách nô lệ (Ga 5:1).
Si-mê-ôn (Lu 2:25-35). Cũng như Xa-cha-ri và Ê-li-xa-bét, Si-mê-ôn và An-ne là những người trung tín còn sót lại trong dân Do Thái nôn nả tìm kiếm Đấng Christ (Ma 3:16). Vì Si-mê-ôn sẵn sàng mong muốn được chết (Lu 2:29) nên người ta thường nghĩ rằng ông rất già, nhưng không có chỗ nào trong Kinh Thánh chứng tỏ điều ấy. Người ta cho rằng lúc ấy ông được 113 tuổi, nhưng đó cũng chỉ là lời truyền khẩu.
“Sự yên ủi của Y-sơ-ra-ên” nghĩa là hy vọng về Đấng Mê-si-a. Một trong những lời cầu nguyện theo truyền thống của dân Do Thái là: “Xin cho con nhìn thấy sự yên ủi của Y-sơ-ra-ên”. Lời cầu nguyện ấy của Si-mê-ôn được nhậm khi ông gặp Chúa Giê-xu Christ trong đền thờ. Ông là người được Thánh Linh Đức Chúa Trời dắt dẫn, được dạy dỗ bởi Lời Ngài, vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời. Vì vậy, ông được đặc quyền nhìn thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đối với con người được nhìn thấy sự cứu rỗi (tức Chúa Giê-xu Christ) trước khi qua đời thật có ý nghĩa biết bao!
Qua Lu 2:29-32, ta thấy đáp ứng của Si-mê-ôn khi gặp Chúa Giê-xu. Đây là bài ca Giáng sinh thứ năm và cuối cùng trong sách Lu-ca (Ê-li-xa-bét Lu 1:42-45 Ma-ri Lu 1:46-56 Xa-cha -ri Lu 1:67-79 các Thiên sứ Lu 2:13-14). Trước hết, đây là một bài ca thờ phượng, ông chúc tụng Đức Chúa Trời vì đã giữ lời hứa Ngài và ban Đấng Christ. Ông nức lòng ngợi khen Đức Chúa Trời bởi Ngài ban cho ông đặc ân được nhìn thấy Đấng Christ.
Bài ca của ông cũng là một bài ca cứu rỗi: “Vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài” (Lu 2:30). Giờ đây, ông sẵn sàng được chết! “Sự qua đời” theo tiếng Hy Lạp mang nhiều ý nghĩa, mỗi ý nghĩa đều cho ta biết về sự chết của người tin Chúa. Nó có nghĩa như: giải thoát tù nhân, nhổ neo một con tàu và ra khơi, hạ trại (IICo 5:1-8 Mat 11:28-30). Con cái Đức Chúa Trời chẳng hề khiếp hãi sự chết thể xác, bởi nó giúp ta thoát khỏi những gánh nặng của đời này và dắt ta vào cõi phước hạnh của đời sau.
Bài ca của Si-mê-ôn cũng là bài ca truyền giáo, một điều bất thường đối với người Do Thái mộ đạo trong đền thờ. Si-mê-ôn thấy sự cứu rỗi lớn lao này sẽ được loan truyền cho dân ngoại. Chúa Giê-xu phục hồi sự vinh hiển cho Y-sơ-ra-ên và đem ánh sáng đến cho dân ngoại hầu mọi người đều được cứu (Lu 2:10). Hãy nhớ rằng sự thương xót của Đấng Christ đối với cả thế gian là một trong những chủ đề chính của Phúc Âm Lu-ca.
Si-mê-ôn dứt lời khen ngợi và bắt dầu nói tiên tri (Lu 2:34-35). Trong lời tiên tri này chứa đựng 3 hình ảnh có ý nghĩa: Hòn đá, dấu lạ và thanh gươm.
“Đá”là hình ảnh về Đức Chúa Trời trong Thánh Kinh Cựu Ước (Sa 49:24 Thi 18:2 Thi 71:3 Phu 32:31). Đấng Christ sẽ là “Đá góc nhà bị bỏ ra” (Thi 118:22 Lu 20:17-18 Cong 4:11) và dân Y-sơ-ra-ên sẽ vấp ngã vì cớ Ngài (Es 8:14 Ro 9:32). Vì cớ Chúa Giê-xu, nhiều người trong Y-sơ-ra-ên sẽ bị lên án và được rỗi. Đến hôm nay, dân Y-sơ-ra-ên vẫn vấp ngã bởi cớ thập tự giá (ICo 1:23), họ không hiểu rằng Chúa Giê-xu chính là Hòn đá của họ (IPhi 2:1-6).
“Dấu lạ” nghĩa là “phép lạ”, không thiên nhiều về sự bày tỏ quyền năng, nhưng có ý nghĩa như “sự mạc khải về chân lý trên trời”. Trong Phúc Âm Giăng, những phép lạ của Chúa Giê-xu được gọi là “dấu lạ” vì chúng bày tỏ những chân lý đặc biệt về Ngài (Gi 20:30,31). Chúa Giê-xu chính là phép lạ của Đức Chúa Trời. Vậy mà thay vì ca tụng Ngài, con người đã chống đối và phạm thượng Ngài. Sự Giáng sinh của Ngài là một phép lạ, thế nhưng con người đã vu cáo và nói hành sự kiện đó (Gi 8:41). Họ cho rằng những phép lạ Ngài làm bởi quyền phép của Sa-tan (Mat 12:22-24), phẩm cách Ngài đáng ngờ (Gi 8:48,52 Gi 9:16,24). Họ nhạo báng sự chết của Ngài (Thi 22:6-8 Mat 27:39-44) và làm chứng dối về sự sống lại của Ngài (Mat 27:62-66). Hôm nay con người vẫn nói hành về sự tái lâm của Ngài (IIPhi 3:1-18).
Cách con người nói về Chúa Giê-xu là bằng chứng những gì họ suy ghĩ trong lòng.Ngài không chỉ là “Đá cứu rỗi”, “Đá phán xét” (Da 2:34,45) nhưng còn là “Đá gây cớ vấp phạm” phơi bày bản chất con người.”Về Đấng Christ, các ngươi nghĩ thể nào?” (Mat 22:42) vẫn luôn là câu hỏi ý nghĩa nhất để mọi người trả lời (IGi 4:1-3).
Hình ảnh “thanh gươm” chỉ dành riêng cho Ma-ri, nói về sự đau khổ, buồn rầu bà phải mang lấy khi làm mẹ Đấng Christ. (Điều này cho thấy có lẽ khi Chúa Giê-xu khởi sự chức vụ Ngài 30 năm sau, Giô-sép đã chết, nếu không ông hẳn phải được nhắc đến). “Thanh gươm” theo tiếng Hy Lạp là loại gươm lớn như Gô-li-át đã sử dụng (ISa 17:51), “đâm thấu” có nghĩa luôn đâm xuyên qua.
Trong suốt đời sống và chức vụ của Chúa, Ma-ri thực sự từng trải càng lúc càng nhiều hơn về sự buồn rầu cho đến một ngày khi bà đứng bên thập tự giá để chứng kiến Chúa chịu đau đớn và tắt hơi (Gi 19:25-27). Chúng ta không đánh giá thấp sự dấn thân của Ma-ri, nhưng nỗi đau riêng của bà không thể góp phần gì trong công tác cứu chuộc của Đấng Christ. Chỉ mình Ngài mới có thể chết thay cho tội lỗi của thế gian (ITi 2:5-6).
Ma-ri và Giô-sép hiểu được kế hoạch vĩ đại của Đức Chúa Trời đối với Con Trẻ kỳ diệu này ở mức độ nào? Chúng ta không thể biết được, nhưng chắc chắn ta biết Ma-ri ghi nhớ mọi điều và suy nghĩ trong lòng (Lu 2:19,51). Ma-ri tìm kiếm một khuôn thước nào đó hầu có thể giúp bà hiểu ý muốn Đức Chúa Trời. Đôi lúc bà không hiểu ý Ngài (Mac 3:31-35), nên càng thêm buồn rầu. Ma-ri được nhắc đến lần cuối cùng trong Kinh Thánh khi bà ở Phòng Cao cầu nguyện với các tín hữu khác (Cong 1:14).
An-ne (Lu 2:36-38). Tên bà nghĩa là “ân điển”, bà là một goá phụ cao tuổi có đời sống tin kính. Trong Phúc Âm Lu-ca có 43 chi tiết nói về phụ nữ và có 3 goá phụ được nhắc đến trong số 12 goá phụ trong Kinh Thánh (Lu 2:36-40 Lu 7:11-15 Lu 21:1-4 Lu 18:1-8). Hiểu được tấm lòng của một thầy thuốc qua cách trình bày của Lu-ca thật không khó!
Thời ấy, các goá phụ chẳng được sống bình yên. Họ thường bị quên lãng, bị hà hiếp mặc dù đây là vấn đề có trong điều răn của luật pháp (Exe 22:25 Phu 10:17-18 Phu 14:29 Es 1:17). An-ne dâng mình hầu việc Đức Chúa Trời, kiêng ăn và cầu nguyện. Bà rời khỏi đại tộc và A-se, ở luôn trong đền thờ, chờ đợi Đấng Mê-si-a của lời hứa Đức Chúa Trời (ITi 5:3-16). Đức Chúa Trời định thời gian luôn hoàn hảo chính xác. An-ne chợt đến vừa khi Si-mê-ôn ngợi khen Chúa về Con Trẻ Giê-xu, nên bà cũng dự phần vào bài ca! Ôi, tôi thích được nghe những vị cao tuổi này hát ngợi khen Chúa trong đền thờ biết bao! Sự ngợi khen của họ được Thánh Linh cảm động và được Đức Chúa Trời hài lòng. Không chỉ ngợi khen, An-ne còn loan tin mừng này cho những người tin kính khác đang đợi trông sự cứu chuộc của Y-sơ-ra-ên.Niềm hoan hỉ bắt đầu lan rộng khi ngày càng có nhiều người nghe Phúc Âm.
An-ne là nữ tiên tri, bà được sự ban cho đặc biệt để rao truyền và giải nghĩa thông điệp từ Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh cũng có các nữ tiên tri khác như:Mi-ri-am (Xu 15:20), Đê-bô-ra (Cac 4:4) Hun-đa (IIVua 22:14) Nô-a-đa (Ne 6:14), vợ của Ê-sai (Es 8:3). Nhà truyền giáo Phi-líp cũng có 4 người con gái là nữ tiên tri (Cong 21:8-9).
3. Thời niên thiếu (Lu 2:39-52)
Sau khi làm trọn mọi điều của luật pháp. Ma-ri và Giô-sép trở về Na-xa-rét là quê hương của Chúa Giê-xu cho đến khi Ngài bắt đầu thi hành chức vụ. Có nhiều người Do Thái cũng mang tên Giê-xu (Giô-suê) nên Chúa Giê-xu được biết như “Đức Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét” (Cong 2:22). Môn đồ của Chúa Giê-xu được gọi là nhóm “người Na-xa-rét” (Cong 24:5 Mat 2:23). Kẻ thù Ngài đã nhạo báng tên Ngài và thậm chí quan toà Phi-lát đã cho treo tên Ngài trên thập tự (Mat 27:37). Tuy vậy, Chúa Giê-xu không hổ thẹn dùng tên này khi Ngài từ trời phán xuống cho Sau-lơ (Phao-lô) (Cong 22:8). Chúa Giê-xu Christ đã cất lên tận thiên đàng và làm vinh hiển điều con người cho là thấp hèn!
Chúa Giê-xu đã làm gì suốt những năm tháng ẩn dật tại Na-xa-rét. Bác sĩ Lu-ca thuật lại rằng cậu bé Giê-xu này đã phát triển về thể chất, trí tuệ, tâm linh, cách ứng xử (Lu 2:40-52). Khi hiện thân làm người, Con Đức Chúa Trời đã từ bỏ mọi quyền hạn của Ngài để đầu phục Cha trên trời cách trọn vẹn (Phi 2:1-11). Có những lẽ mầu nhiệm sâu xa ở đây không ai có thể hiểu hoặc giải thích đầy đủ được, chúng ta chỉ có thể đón nhận bằng đức tin mà thôi.
Trong hình hài một cậu bé, Chúa Giê-xu không thực hiện bất kỳ phép lạ nào. Phép lạ đầu tiên Ngài làm là hoá nước thành rượu (Gi 2:1-11). Ngài lao động cùng với Giô-sép trong trại mộc (Mat 13:55 Mac 6:3) và vẫn tiếp tục công việc sau khi Giô-sép qua đời. Trong những năm tháng đó, Ma-ri và Giô-sép đã có với nhau những người con khác (Mat 13:55-56 Gi 7:1-10), vì “cho đến khi” trong Mat 1:25 chứng tỏ rằng đôi vợ chồng này đương nhiên đã có những quan hệ thể xác bình thường.
Phúc Âm Lu-ca chỉ cho ta một câu chuyện về những năm thiếu thời của Chúa Giê-xu.Giô-sép và Ma-ri là những người Do Thái mộ đạo, luôn dự lễ Vượt Qua hằng năm ở Giê-ru-sa-lem. Người nam Do Thái được đòi hỏi phải đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Đức Chúa Trời 3 lần trong năm (Phu 16:6), nhưng không phải mọi người đều đủ chi phí để đi đến đó. Nếu phải chọn một lễ thờ phượng, họ thường chọn lễ Vượt Qua là lễ quan trọng nhất theo lịch Do Thái.
Người ta đi dự các lễ thờ phượng này theo từng nhóm, phụ nữ và trẻ con đi trước, đàn ông và thanh niên theo sau. Bà con cùng cả làng đi chung và trông chừng bọn trẻ cho nhau. Ở tuổi 12, cậu bé Giê-xu dễ dàng tách khỏi nhóm người này để đi với nhóm khác, vẫn không bị lạc. Giô-sép tưởng cậu bé Giê-xu đi với Ma-ri và những trẻ em khác trong lúc Ma-ri lại cho rằng Ngài đi với Giô-sép và những người đàn ông khác, hoặc với một người bà con.
Họ từ Giê-ru-sa-lem trở về được một ngày đường mới hay Chúa Giê-xu vắng mặt. Họ phải mất một ngày đường trở lại Giê-ru-sa-lem và một ngày nữa mới tìm gặp Ngài.Suốt 3 ngày này, Ma-ri và Giô-sép rất “buồn bực” (Lu 2:48 “khó nhọc”). Điều này cũng được mô tả qua sự lo lắng của Phao-lô đối với dân Y-sơ-ra-ên hư mất (Ro 9:2) cũng như nỗi khốn khổ của những linh hồn hư mất nơi Âm phủ (Lu 16:24-25).
Chúng ta lưu ý thấy cách diễn đạt của Lu-ca trong Lu 2:43 “Giô-sép và mẹ Ngài” mang ý nghĩa sự giáng sinh đồng trinh trong lúc cách diễn đạt “cha con và mẹ” trong Lu 2:48 cho thấy Giô-sép được chấp nhận như cha pháp lý của Chúa Giê-xu. Nếu dùng Lu 2:48 để bác bỏ sự Giáng sinh đồng trinh của Ngài thì thật là một sự suy diễn quá đáng!
Chúa Giê-xu có ở trong đền thờ trọn thời gian ấy hay không, chúng ta không thể biết.Hẳn ở đó rất an toàn vì Cha trên trời luôn bảo vệ Ngài. Chúng ta thấy khi Giô-sép và Ma-ri gặp được Ngài, Ngài đang ở giữa mấy thầy thông thái để lắng nghe và hỏi. Các thầy đều ngạc nhiên về sự khôn ngoan đối đáp của cậu bé Giê-xu.
Lời trách yêu của Ma-ri được cậu bé Giê-xu đáp lại với vẻ kính trọng lẫn ngạc nhiên: “Cha mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao?” (Lu 2:49). Chúa Giê-xu đã khẳng định chức phận làm Con thiêng thượng và nhiệm vụ Ngài phải làm theo ý Cha trên trời.
Từ “phải” thường được Chúa chúng ta sử dụng: “Ta phải rao Tin Lành” (Lu 4:43) “Con người phải chịu nhiều điều khốn khổ” (Lu 9:22) “Con người phải bị treo lên Gi 3:14. Ngay cả ở tuổi 12 Chúa Giê-xu đã được thúc đẩy bởi sự ràng buộc thiên thượng để thực hiện ý Cha.
Vì Chúa Giê-xu “khôn ngoan càng thêm” (Lu 2:52), chúng ta không biết lúc ấy Ngài hiểu được kế hoạch kỳ diệu của Đức Chúa Trời ở mức độ ra sao. Đừng cho rằng ở tuổi 12 Chúa Giê-xu có thể thông suốt mọi sự.Nhưng chắc chắn rằng Ngài đã lớn lên trong sự thông hiểu những lẽ mầu nhiệm ấy khi giao thông với cha trên trời và được Đức Thánh Linh dạy dỗ.
Dĩ nhiên, Ma-ri và Giô-sép không hiểu gì cả! Đây là một phần nỗi đau do “thanh gươm” Si-mê-ôn đã nói trước (Lu 2:35), và chắc chắn nỗi đau ấy sẽ tiếp diễn khi cậu bé Giê-xu trưởng thành. Những năm sau, suốt thời gian Chúa Giê-xu thi hành chức vụ, gia đình đã không hiểu Ngài (Lu 8:19-21 Gi 7:1-5).
Chúa Giê-xu - Ngài là một tấm gương tuyệt diệu cho người trẻ tuổi noi theo. Ngài lớn lên trong sự phát triển toàn diện (Lu 2:52), không hề xao lãng bất cứ nhiệm vụ gì trong đời sống. Điều ưu tiên của Ngài là làm theo ý muốn Cha trên trời (Mat 6:33). Ngài biết lắng nghe (Lu 2:46) và đặt câu hỏi chính đáng. Ngài học cách lao động và vâng phục cha mẹ.
Cậu bé Giê-xu đã lớn lên trong một gia đình đông con, ở một thành thấp hèn, được nuôi dưỡng bởi nhưng thân nghèo khó. Do Thái giáo ở thời kỳ nguội lạnh, chính quyền La Mã cai trị trong xứ, xã hội đầy đau khổ lọc lừa. Dầu vậy, khi Ngài rời Na-xa-rét 18 năm sau đó, Cha trên trời đã có thể phán về Ngài: “Ngươi là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường” (Lu 3:22).
Nguyện Cha trên trời cũng có thể nói với chúng ta như thế.
3. ĐÂY LÀ CON CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Lu 3:1-4:44)
Napoleon Bonaparte nói rằng: “Nếu Socrates bước vào phòng này, chúng ta phải đứng dậy bày tỏ sự tôn trọng đối với ông. Nhưng nếu Chúa Giê-xu bước vào, ta phải sấp mình xuống thờ lạy Ngài”.
Bác sĩ Lu-ca hẳn cũng đồng tình với viên tướng người Pháp nổi tiếng này, vì ở hai đoạn đầu của Phúc Âm ông chứng tỏ Chúa Giê-xu Christ ở Na-xa-rét thực sự là Con Đức Chúa Trời. Hãy để ý đến những chứng nhân ông đưa ra, tất cả những người này đều tuyên bố rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời.
1. Giăng Báp-tít (Lu 3:1-20)
Giăng Báp-tít xuất hiện khi nào. Giăng Báp-tít xuất hiện sau thời gian 400 năm dân Y-sơ-ra-ên không được nghe lời tiên tri nào (Lu 3:1-2). Sự hiện diện của ông nằm trong tính toán hoàn hảo của Đức Chúa Trời, vì mọi sự có liên quan đến Con Đức Chúa Trời luôn đúng ngày giờ. (Ga 4:4 Gi 2:4 Gi 13:1). Năm thứ 15 đời Sê-sa Ti-bê-rơ là năm 28 hoặc 29 SC.
Trong Gi 3:1-2 Lu-ca nhắc đến 7 người: Sê-sa, quan tổng đốc, 3 vua chư hầu và 2 thầy tế lễ cả thượng phẩm. Không ai trong số họ nhận được Lời phán Đức Chúa Trời. Trái lại, thông điệp của Đức Chúa Trời đã đến với Giăng Báp-tít, một tiên tri Do Thái khiêm nhường!
Giăng Báp-tít xuất hiện thế nào. Giăng cũng giống như tiên tri Ê-li về phong cách và y phục (Lu 1:17 Mat 3:4 IIVua 1:8), ông đi qua miền cận sông Giô-đanh, giảng dạy và làm phép báp-tem cho mọi người. Ông rao giảng về sự đến của Nước Trời (Mat 3:3 và giục lòng mọi người ăn năn. Hằng thế kỷ trước dân Y-sơ-ra-ên đã vượt qua sông Giô-đanh để nhận miền đất hứa. Giờ đây Đức Chúa Trời kêu gọi họ ăn năn tội lỗi để bước vào Vương quốc thuộc linh của Ngài.
Cần nhớ rằng ngoài việc giảng dạy đề kháng tội lỗi Giăng cũng rao truyền Phúc Âm.Giăng tuyên bố Chúa Giê-xu là “Chiên Con Đức Chúa Trời” (Gi 1:29) và kêu gọi mọi người tin nhận Ngài. Giăng chỉ là người phù rể trong “tiệc cưới”, còn Chúa Giê-xu mới chính là “Chàng Rể” (Gi 3:25-30). Giăng vui mừng vì có cơ hội giới thiệu mọi người cho Đấng Christ và rồi lui vào hậu trường.
Điểm đặc biệt trong chức vụ của Giăng là làm phép báp-tem (Gi 1:25-28 Lu 20:1-8). Phép báp-tem chẳng có gì lạ đối với người dân Do Thái, bởi người Do Thái vẫn làm báp-tem cho người ngoại cải đạo. Nhưng Giăng lại làm báp-tem cho chính người Do Thái, thật là điều không bình thường! Cong 19:1-5 giải thích rằng phép báp-tem của Giăng hướng về sự đến của Đấng Mê-si-a, còn phép báp-tem của Cơ Đốc quay lại với công tác cứu chuộc đãhoàn tất của Đấng Christ.
Tuy nhiên, có điều còn vượt hơn phép báp-tem của Giăng. Đó là phép báp-tem mà Đấng Christ sẽ thực hiện (Lu 3:16). Ngài sẽ làm phép báp-tem cho người tin nhận bằng Thánh Linh, và điều này được bắt đầu vào ngày Lễ Ngũ tuần (Cong 1:5 Cong 2:1-4). Hôm nay, khi một tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu, người ấy sẽ được báp-tem bởi Đức Thánh Linh để hiệp làm một thân trong Đấng Christ (ICo 12:13).
“Báp-tem bằng lửa là gì? Đó chẳng phải là những “lưỡi lửa” ở lễ Ngũ tuần, vì lưỡi lửa qua đầu người không thể được gọi là một phép báp-tem. Dấu hiệu “lửa” Giăng sử dụng trong Lu 3:9,17 cho thấy ông muốn nói về sự đoán phạt chứ không phải là phước hạnh. Vào năm 70 SC, dân tộc này đã nếm trải một báp-tem bằng lửa khi hoàng đế Titus và quân đội La Mã dày xéo Giê-ru-sa-lem, làm mọi người bị tan lạc. Tất cả những kẻ vô tín cũng sẽ nếm mùi báp-tem của sự đoán phạt trong hồ lửa đời đời (Kh 20:11-16).
Tại sao Giăng Báp-tít xuất hiện (Lu 3:4-20). Những minh hoạ trong đoạn này sẽ giúp ta hiểu chức vụ Đức Chúa Trời giao phó cho Giăng.
Khởi đầu chức vụ, Giăng Báp-tít là “tiếng kêu la trong đồng vắng” (Lu 3:4 Es 40:1-5 Gi 1:23). Ông giống như sứ giả đi trước đoàn diễu hành của Hoàng gia để dọn đường tiếp đón nhà vua. Về thuộc linh, dân Y-sơ-ra-ên đang sống trong “đồng vắng” của sự vô tín, những con đường dẫn đến lẽ thật thuộc linh đã bị cong quẹo và xuống cấp, sự sa ngã của chức tế lễ (thay vì chỉ có một thầy tế lễ cả, vậy mà đã có 2 thầy tế lễ cả), sự giả hình về pháp luật của các học giả tôn giáo và người Pha-ri-si đã làm suy yếu thuộc linh của dân tộc này. Họ thực sự cần được nghe tiếng nói từ Đức Chúa Trời và Giăng chính là tiếng nói đáng tin cậy ấy.
Nhiệm vụ của Giăng là dọn lòng người tiếp Đấng Christ và bày tỏ cho họ về Ngài (Lu 1:16-17,76,77 Gi 1:6-8,15-34). Ông khiển trách tội lỗi và rao truyền sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, vì nếu không có sự nhận biết về tội lỗi, sẽ không có sự hối cải.
Giăng cũng được so sánh với người nông dân đốn chặt những cây vô dụng (Lu 3:9) và tách lúa mì khỏi trấu (Lu 3:17). Giống như những tội nhân thuộc linh hôm nay, nhiều người Do Thái nghĩ rằng họ được định sẵn ở thiên đàng đơn giản chỉ vì họ là con cháu Áp-ra-ham (Gi 8:31-34 Ro 4:12-17 Ga 3:26-29). Giăng nhắc nhở họ rằng Đức Chúa Trời xét mọi sự đến tận gốc, và không khoan nhượng với kẻ chỉ mang danh nghĩa tôn giáo chứ không hề sanh trái tốt. Trong kỳ phán xét cuối cùng, người tin Chúa thật (lúa mì) sẽ được Đức Chúa Trời nhóm lại, còn tội nhân hư mất (trấu) sẽ bị đốt nơi hồ lửa.
Trong Lu 3:7, Giăng mô tả những tội nhân công bình riêng như loài rắn trườn ra khỏi đám cỏ vì có một ngọn lửa đang đến gần. Chúa Giê-xu cũng từng so sánh người Pha-ri-si với loài rắn lục (Mat 23:33), vì sự công bình riêng và lòng vô tín đã khiến họ trở thành con cái ma quỉ (Gi 8:44-45 Kh 20:2). Bi thảm thay, những người lãnh đạo tôn giáo đã từ chối thông điệp của Giăng và không muốn chấp nhận phép báp-tem của Giăng (Lu 20:1-8). Không những họ không được hưởng thiên đàng mà còn làm gương xấu và dạy dỗ người ta sai lẽ thật, ngăn trở kẻ khóc bước vào thiên đàng.
Giăng Báp-tít cũng là một người thầy (Lu 3:12). Ông không chỉ giảng đạo trước công chúng, mà còn có một nhiệm vụ riêng đối với dân tộc, cho họ biết cách bày tỏ niềm tin (Lu 3:10-14). Ông khuyên họ đừng ích kỷ nhưng phải chia sẻ phước hạnh với người khác (Cong 2:44-45 Cong 4:32-37).
Cả những người thâu thuế cũng đến với Giăng để được khuyên nhủ. Họ bị những người Do Thái khinh ghét vì họ làm việc cho người La Mã và thường “moi” tiền dân chúng. Lu-ca nhấn mạnh vấn đề Chúa Giê-xu làm bạn với những người thâu thuế (Lu 5:27 Lu 15:1-2 Lu 19:1-10). Giăng không khuyên họ phải chấm dứt công việc, nhưng khuyên họ phải làm việc cách lương thiện.
Tương tự như vậy, quân lính cũng không bị lên án bởi nghề nghiệp của họ. Hơn thế, Giăng khuyên họ phải tự kiềm chế, không dùng quyền hạn mình có để tư lợi. Có lẽ họ là những quân nhân Do Thái có sự gắn bó với đền thờ hoặc với toà án của một trong những quan cai trị Do Thái. Dường như lính La Mã không bao giờ học hỏi ở một tiên tri Do Thái để được sự khuyên răn!
Giăng trung tín trong chức vụ mình, dọn lòng người và cho họ biết về Đấng Christ. Ông khẳng định Giê-xu là “Chúa” (Lu 3:4) và là Con Đức Chúa Trời (Gi 1:34). Do đã can gián vua Hê-rốt về việc quan hệ với Hê-rô-đia, ông đã bị vua cầm tù và cuối cùng bị xử trảm. Dầu vậy, ông đã trung tín hoàn tất nhiệm mạng Đức Chúa Trời giao phó và đã dọn lòng người gặp Đấng Christ - Con Đức Chúa Trời.
2. Đức Chúa Cha và Đức Thánh Linh (Lu 3:21-38)
Ngày kia, sau khi mọi người đã chịu báp-tem, Chúa Giê-xu cũng đến sông Giô-đanh để chịu báp-tem. Lúc đầu, Giăng chối từ (Mat 3:13-15), bởi ông biết rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét là Con của Đức Chúa Trời không cần ăn năn tội lỗi. Vậy tại sao Con thánh khiết của Đức Chúa Trời lại chịu báp-tem?
Trước tiên, Chúa Giê-xu đồng nhất hoá với tội nhân bằng phép báp-tem hầu có thể cứu họ. Phép báp-tem này cũng là sự khởi đầu chức vụ Ngài (Cong 1:21-22 Cong 10:37-38). Lúc ấy Ngài khoảng 30 tuổi (Lu 3:23), giống như những người Do Thái dòng Lê-vi bắt đầu chức vụ họ ở tuổi 30 (Dan 4:3,35). Lời Chúa cho ta biết lý do chính Chúa Giê-xu chịu báp-tem “vì chúng ta nên làm cho trọn mọi việc công bình như vậy” (Mat 3:15). Phép báp-tem ấy được thực hiện thế nào? Nó được mô tả qua phép báp-tem trong Nước Chúa Giê-xu chịu tại sông Giô-đanh. Nhiều học giả Kinh Thánh đã thừa nhận rằng phép báp-tem theo Tân Ước được thực hiện bởi sự ngâm mình toàn thân trong nước. Đó là hình ảnh về sự chết, chôn và sống lại. Phép báp-tem Chúa Giê-xu chịu trong nước là hình ảnh về công tác cứu chuộc của Ngài (Lu 12:50 Mat 20:22). Chính bởi phép báp-tem của sự đau đớn trên thập tự giá, Đức Chúa Trời đã “làm cho trọn mọi việc công bình”. (Từ “chúng ta” trong Mat 3:15 không có nghĩa là Chúa Giê-xu và Giăng. “Chúng ta” ý muốn nói đến Đức Chúa Cha, Con và Đức Thánh Linh).
Khi Chúa Giê-xu lên khỏi mặt nước, Đức Chúa Cha từ trời phán xuống và nhận Chúa Giê-xu là Con yêu dấu của Ngài. Đức Thánh Linh hiện đến với Chúa Giê-xu trong hình dạng chim bồ câu. Những ai phủ nhận Chúa Ba Ngôi thật khó lòng giải nghĩa được sự kiện này.
Đây là lần đầu tiên trong 3 sự kiện được ghi lại khi Đức Chúa Cha từ trời phán xuống. Lần thứ hai xảy ra khi Chúa Giê-xu hoá hình (Lu 9:28-36) và lần thứ 3 xảy ra vào tuần lễ cuối cùng trước khi Chúa Giê-xu lên thập tự (Gi 12:28).
Lu-ca là người duy nhất đề cập đến việc Chúa Giê-xu đang cầu nguyện và đây chỉ là một trong nhiều lần cầu nguyện khác (Lu 5:16 Lu 6:12 Lu 9:18,28,29 Lu 11:1 Lu 23:34,46). Là Con người toàn vẹn. Chúa Giê-xu phụ thuộc vào Cha trên trời để đáp ứng các nhu cầu của Ngài. Đó chính là lý do Ngài cầu nguyện.
Lu-ca tạm dùng câu chuyện ở đây và cho chúng ta biết về gia phổ Chúa Giê-xu. Theo Ma-thi-ơ, gia phổ này (Mat 1:1-17) được bắt đầu từ Áp-ra-ham đến Chúa Giê-xu, còn Lu-ca lại bắt đầu gia phổ từ Chúa Giê-xu ngược về A-đam. Ma-thi-ơ nói về gia phổ của Giô-sép, là cha nuôi theo luật pháp của Chúa Giê-xu. Lu-ca lại nói về gia phổ của Ma-ri, mẹ Ngài. Câu 23 có thể được giải thích: Khi Chúa bắt đầu chức vụ, Ngài độ 30 tuổi, là con Giô-sép. Giô-sép là con Hê-li, Hê-li là tổ tiên của Ma-ri. Ma-ri không được chú ý đến vì phụ nữ không được kể tên trong các gia phổ chính thức, mặc dù Ma-thi-ơ đã kể ra 4 người (Lu 1:3,5,16).
Khi kể gia phổ ở đoạn này, Lu-ca muốn nhắc người đọc nhớ rằng Con Đức Chúa Trời cũng là Con người, được sinh ra trên thế gian và có những nhu cầu, nan đề của con người. Vì Giô-sép và Ma-ri thuộc dòng Đa-vít nên những gia phổ này chứng minh rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét có quyền hợp pháp nối ngôi Đa-vít (Lu 1:32-33).
3. Sa-tan (Lu 4:1-13)
Cả kẻ thù cũng thừa nhận Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. “Nếu ngươi là Con Đức Chúa Trời” (Lu 4:3,9) - không phải là một giả định, nhưng là một sự xác nhận.Câu ấy có nghĩa “vì sự kiện ngươi là Con Đức Chúa Trời”. Sa-tan biện luận “Sao ngươi lại đói? Ngươi có thể biến đá thành bánh kia mà! ” Sa-tan muốn Chúa Giê-xu bất tuân ý muốn Cha trên trời bằng cách cậy quyền năng mình để làm theo ý riêng.
Vì sao Chúa Giê-xu chịu cám dỗ? Một lý do đó là Cha trên trời hài lòng về Ngài (Lu 3:22). Ngài thực sự là Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha (Gi 8:29). Qua sự cám dỗ, Ngài cũng vạch trần mưu chước kẻ thù và dạy chúng ta cách đắc thắng khi bị cám dỗ. Từng trải này giúp Chúa chúng ta chuẩn bị cho chức vụ hiện tại. Ngài là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm hay thương xót của chúng ta, hầu cho ta có thể đến với Ngài và cầu xin sự giúp đỡ khi cần để chiến thắng cám dỗ (He 2:16-18 He 4:14-16). A-đam đầu tiên bị cám dỗ trong khu vườn xinh đẹp và đã thất bại. Nhưng A-đam sau cùng bị cám dỗ trong đồng vắng hiểm trở đã chiến thắng (Mac 1:13).
Hôm nay chúng đang sẵn có nguồn sức mạnh thuộc linh Chúa Giê-xu từng sử dụng khi Ngài đương đầu và đánh bại Sa-tan, đó là: sự cầu nguyện (Lu 3:21), tình yêu của Cha trên trời (Lu 3:22), quyền năng Đức Thánh Linh (Lu 4:1) và Lời Đức Chúa Trời (“vì có chép rằng...”). Hơn nữa, chúng ta còn có Đấng Christ đang cầu thay cho ta nơi Thiên đàng, Ngài từng đánh bại hoàn toàn kẻ thù. Sa-tan cám dỗ chúng ta làm điều tồi tệ nhất, nhưng Đức Chúa Trời có thể dùng những hoàn cảnh khó khăn này để đem đến cho chúng ta điều tốt đẹp nhất. Cám dỗ là vũ khí Sa-tan dùng để đánh bại chúng ta, nhưng nó cũng có thể trở thành công cụ để Đức Chúa Trời gây dựng chúng ta (Gia 1:1-8,13-17).
Trong lời cám dỗ đầu tiên, Sa-tan cho rằng có điều gì đó không ổn đối với tình yêu của Cha trên trời, vì “Con yêu dấu” của Ngài đang bị đói! Trong những năm tháng dân Y-sơ-ra-ên bị đói trong đồng vắng, Đức Chúa Trời đã ban bánh từ trời cho họ. Như vậy, chắc chắn Chúa Giê-xu cũng có thể dùng quyền phép của chính ngài để nuôi và cứu sống Ngài. Sa-tan khôn khéo sử dụng phương cách nó từng nói với Ê-va khi xưa: “Đức Chúa Trời đang giấu ngươi điều gì! Tại sao ngươi không thể ăn mọi cây trong vườn? Nếu Ngài thực sự yêu ngươi, Ngài hẳn sẽ chia sẻ mọi điều với ngươi! ”
Sự cám dỗ lần này còn tinh vi hơn cả sự cám dỗ Ê-va khi xưa, bởi Sa-tan muốn Chúa Giê-xu phân cách thuộc thể khỏi thuộc linh. Trong đời sống Cơ Đốc nhân, ăn cũng là một hành động thuộc linh, chúng ta có thể ngợi khen Đức Chúa Trời qua thức ăn hằng ngày (ICo 10:31 Ro 14:20-21). Những khi ta xếp loại cho từng lãnh vực khác nhau của đời sống mình bằng các nhãn hiệu “thể chất”, “vật chất”, “tài chánh”, hoặc “thuộc linh”, chắc chắn ta đã đặt Chúa ra ngoài những lãnh vực đúng ra phải thuộc về Ngài. Đấng Christ phải là đầu mọi sự, nếu không Ngài chỉ là vô nghĩa (Mat 6:33). Thà bị đói trong ý muốn Đức Chúa Trời còn hơn thoả mãn theo ý riêng!
Khi Chúa chúng ta trích dẫn Phu 8:3, Ngài nhấn mạnh từ “loài người”. Là Con Đức Chúa Trời hằng sống, Ngài có quyền làm mọi sự. Nhưng vì là Con Người khiêm nhường, Ngài chỉ có quyền làm điều Cha trên trời muốn (xem kỹ Gi 5:17,30 Gi 8:28 Gi 10:17-18 Gi 15:10,15). Là “tôi tớ”, Chúa Giê-xu không sử dụng thần tính để đạt những mục đích tư kỷ (Phi 2:5-8). Vì là con người, Ngài cũng biết đói, nhưng Ngài tin Cha trên trời có thể đáp ứng nhu cầu Ngài theo giờ Cha định và theo cách riêng của Chúa.
Bạn và tôi cũng cần bánh cho thân thể mình (Mat 6:11), nhưng ta đừng sống chỉ nhờ bánh thuộc thể không thôi, ta cũng cần lương thực cho “con người bên trong” để đáp ứng nhu cầu tâm linh của mình. Lương thực ấy chính là Lời Đức Chúa Trời (Gie 15:16 Thi 119:103 IPhi 2:2). Sự tiêu hoá dành cho thân thể, nhưng sự suy gẫm dành cho linh hồn. Khi ta đọc Lời Đức Chúa Trời và suy gẫm lời ấy, ta sẽ nhận được “sức khoẻ thuộc linh” và sức mạnh cho “con người bên trong” hầu có thể vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời.
Chúng ta không rõ vì sao Lu-ca thay đổi thứ tự giữa lần cám dỗ thứ hai và thứ ba, nhưng vì ông không tuyên bố những sự kiện này được viết theo thứ tự, nên ông không hề mâu thuẫn với Mat 4:1-11. Những từ “bèn”, “lại” (Mat 4:5,8) cho thấy thứ tự cám dỗ theo sách Ma-thi-ơ là đúng. Dường như trong thứ tự cám dỗ của sách Lu-ca, có một ý tương tự với ý của IGi 2:16 sự mê tham của xác thịt (đá thành bánh), mê tham của mắt (các nước thế gian và sự vinh hiển) và sự kiêu ngạo của đời (gieo mình xuống từ nóc đền thờ). Tuy nhiên, cũng không có gì chắc chắn Lu-ca có ý như vậy.
Cha trên trời hứa ban cho Con mọi nước trên thế gian (Thi 2:7-8) nhưng trước tiên Con phải chịu đau đớn và chết (Gi 12:23-33 Kh 5:8-10). Sự thương khó phải đi trước sự vinh hiển (Lu 24:25-27). Kẻ thù lại hứa cho Ngài các nước thế gian này nếu Ngài quỳ lạy nó, điều này sẽ ngăn trở Ngài bước lên thập tự giá (Mat 16:21-23). Sa-tan lúc nào cũng muốn chiếm vị trí Đức Chúa Trời để được kẻ khác thờ phượng (Es 14:13-14).
Là vua thế gian này, Sa-tan hiện có một số quyền lực được Đức Chúa Trời cho phép (Gi 12:31 Gi 14:30). Sẽ có một ngày nó sẽ chia sẻ quyền lực mình với Antichrist là kẻ cai trị thế giới trong một thời kỳ ngắn (Kh 13:1-18). Điều Sa-tan hứa ban cho Chúa Giê-xu là điều có giá trị, nhưng điều kiện của nó không thể chấp nhận được, và Đấng Christ đã chối từ.
Một lần nữa, Chúa Giê-xu lại trích dẫn Lời Đức Chúa Trời trong Phu 6:13. Sa-tan chẳng nói gì về sự hầu việc, nhưng Chúa Giê-xu biết rằng khi chúng ta thờ phượng điều gì, chúng ta sẽ hầu việc cho điều đó. Hầu việc Chúa là tự do thật, nhưng hầu việc Sa-tan là xiềng xích kinh khiếp. Khuôn mẫu của Đức Chúa Trời là:bắt đầu bằng sự đau đớn trong lúc khuôn mẫu của Sa-tan khởi đầu bằng sự vinh hiển và kết thúc bằng vinh hiển và kết thúc bằng sự đau đớn. Sa-tan muốn chúng ta đánh đổi giá trị đời đời để nhận lấy sự tạm bợ và chọn “con đường dễ đi”
Trong đời sống Cơ Đốc nhân, không có “con đường tất”, cũng không có phương cách dễ dàng để đạt chiến thắng và trưởng thành về thuộc linh. Nếu Con toàn vẹn của Đức Chúa Trời còn phải treo thân trên thập tự trước khi Ngài có thể ngự ngôi vinh hiển, vậy môn đệ Ngài đừng mong một lối sống dễ dàng hơn thế! (Lu 9:22-26 Cong 24:22).
Sa-tan muốn chất vấn tình yêu của Đức Chúa Cha khi nó cám dỗ Chúa Giê-xu hoá đá thành bánh. Nó chất vấn sự hy vọng của Chúa Giê-xu khi hứa hiến cho Ngài cái vương quốc trần gian phía bên này thập tự giá (He 12:1-3). Sa-tan đặt vấn đề về sự thành tín của Đức Chúa Cha khi cám dỗ Chúa Giê-xu gieo mình từ nóc đền thờ xuống để chứng minh rằng Cha sẽ giữ lời hứa (Thi 91:11-12). Do đó, kẻ thù đã tấn công vào ba đức tính cơ bản của đời sống Cơ Đốc nhân: đức tin, hi vọng, tình yêu thương.
Nóc đền thờ có thể là đỉnh cao ở phía Đông Nam đền thờ, phía trên trũng Kidron.Sa-tan có thể cám dỗ chúng ta ngay trong “Thành Thánh” ở nơi cao nhất của đền thánh! Theo gương Chúa Giê-xu, Sa-tan cũng quyết định trưng dẫn Kinh Thánh, nó chọn Thi 91:11-12. Dĩ nhiên nó đã trưng dẫn sai lời hứa và hơn thế còn cắt đi nhóm từ “trong các đường lối ngươi”.
Khi một con cái Chúa sống theo ý muốn Đức Chúa Trời, người ấy có thể biết chắc sự bảo vệ và chăm sóc của Cha trên trời. Nhưng nếu người ấy cố tình chọn lấy những khó khăn rồi trông chờ Đức Chúa Trời giải cứu, vậy có nghĩa là người ấy đang thử Đức Chúa trời (Xu 17:1-7). Chúng ta thử Đức Chúa Trời khi “buộc” Ngài phải hành động ngược lại với Lời Ngài. Thật nguy hiểm thay khi thử sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời, dù Ngài thực sự là Đấng nhẫn nhục và nhân từ!
Chúa Giê-xu trả lời: “Cũng có lời chép rằng:...” (Mac 4:7) Ngài trưng dẫn Phu 6:16 Ngài cân nhắc giữa Lời Kinh Thánh này với lời Kinh Thánh khác để bày tỏ rõ ràng ý muốn Đức Chúa Trời. Nếu bạn tách các câu Kinh Thánh khỏi ngữ cảnh của nó, hoặc các phân đoạn khỏi sự mạc khải chung của Kinh Thánh, bạn có thể chứng minh hầu hết bất cứ điều gì từ Kinh Thánh. Hầu hết các hệ phái sai lạc đều cho rằng đã dựa trên những những sự dạy dỗ của Kinh Thánh. Khi chúng ta làm tìm kiếm mạng lịnh bằng cách góp nhặt các câu Kinh Thánh rải rác đây đó, nghĩa là chúng ta không sống bằng đức tin. Chúng ta chỉ đang sống bằng cơ hội và đang thử Chúa.“Phàm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi” (Ro 14:23), và “đức tin đến bởi” sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Ro 10:17).
Chúa ra khỏi đồng vắng với tư cách người chiến thắng, thế nhưng Sa-tan không chịu đầu hàng. Nó luôn tìm mọi cơ hội hòng cám dỗ Đấng Christ không làm theo ý Đức Chúa Cha. Andrew Bonar thật có lý khi nói rằng: “Chúng ta hãy cảnh giác sau chiến thắng cũng như trước chiến trận”!
4. Kinh Thánh (Lu 4:14-30)
Những sự kiện được ghi chép trong sách Gi 1:19-4:45 xảy ra ở thời điểm này nhưng Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca đã không ghi lại. Họ đi ngay vào chức vụ của Chúa ở Ga-li-lê, riêng Lu-ca đã tường thuật việc Chúa Giê-xu trở về quê hương Ngài ở Na-xa-rét. Giờ đây quyền năng của Giê-xu ở Na-xa-rét đã đồn ra cách rộng rãi.Gia đình, bạn hữu và người lân cận cũng nôn nóng muốn gặp để nghe tiếng Ngài.
Chúa Giê-xu có thói quen dự lễ thờ phượng chung. Tín hữu chúng ta hôm nay nên học theo thói quen tốt ấy (He 10:24,25). Ngài có thể biện luận rằng hoạt động tôn giáo đang xuống cấp, hoặc Ngài không cần ai chỉ dẫn. Nhưng Ngài không làm thế, vào ngày Sa-bát Ngài vẫn tìm đến nơi cầu nguyện.
Một buổi thờ phượng tiêu biểu ở nhà hội mở đầu bằng sự cầu xin ơn phước Đức Chúa Trời, sau đó đến phần đọc bài tín điều truyền thống Hê-bơ-rơ (Phu 6:4-9 Phu 11:13-21), cầu nguyện, phần đọc những đoạn quy định trong sách Luật Pháp và sách Các Tiên Tri. Người đọc sẽ dẫn giải Kinh Thánh Hê-bơ-rơ bằng tiếng Aram.
Tiếp theo là bài giảng luận ngắn do một do người trong hội chúng hoặc một ra-bi được mời (Cong 13:14-16). Nếu có mặt thầy tế lễ, buổi thờ phượng sẽ chấm dứt bằng lời chúc phước. Nếu không, một trong những thuộc viên sẽ cầu nguyện và buổi nhóm chấm dứt.
Chúa Giê-xu được yêu cầu đọc Kinh Thánh và giảng luận. Ngài đọc Es 61:1,2 và chọn đoạn này làm đầu đề cho bài giảng của Ngài. Đoạn Kinh Thánh này được các thầy dạy luật Do Thái giải thích có liên quan đến Đấng Mê-si-a và mọi người trong nhà hội đều biết. Bạn tưởng tượng xem họ bàng hoàng biết bao khi Chúa Giê-xu dạn dĩ tuyên bố rằng đoạn Kinh Thánh ấy được chép về Ngài, và Ngài phán rằng Ngài đến để đánh dấu “năm lành” của Chúa. Đây là “năm hân hỉ” được chép trong Le 25:1-12. Mỗi năm thứ bảy là năm Sa-bát của dân tộc, năm để cho đất được nghỉ. Năm thứ 50 (sau 7 kỳ năm Sa-bát) được biệt ra làm “Năm hân hỉ”. Mục đích chính của năm đặc biệt này là để điều chỉnh qui lệ kinh tế: tôi tớ được trả tự do để trở về quê quán mình, sản nghiệp bán đi sẽ được trả về cho nguyên chủ, mọi nợ nần được xoá. Đất bị bỏ hoá khi con người và súc vật, nghỉ ngơi và vui mừng trong Chúa.
Chúa Giê-xu đã áp dụng điều trên vào đời sống chức vụ Ngài không theo ý nghĩa chính trị hay kinh tế, nhưng theo ý nghĩa thuộc thể và thuộc linh. Ngài thực sự đem Phúc Âm của sự cứu rỗi đến cho tội nhân hư mất và cứu vớt những kẻ khốn khổ bị hà hiếp. Ngài đã giải phóng nhiều người khỏi bóng tối và xiềng xích của ma quỉ, bệnh tật. Thật vậy, đây chính là “một năm hân hỉ thuộc linh” đối với dân tộc Y-sơ-ra-ên!
Vấn đề ở đây chính là sự vô tín của những người nghe Ngài. Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con Ma-ri và Giô-sép, một thanh niên đã lớn lên từ thành phố nơi họ ở. Hơn thế, họ muốn Chúa thực hiện ở Na-xa-rét những phép lạ Ngài từng thực hiện tại Ca-bê-na-um, nhưng Ngài từ chối. Đó là ý nghĩa của câu “Hỡi thầy thuốc, hãy tự chữa lấy mình!”
Lúc đầu, họ ca ngợi cách dạy dỗ của Ngài, Nhưng không bao lâu lại trở mặt đối địch cùng Ngài. Vì sao? Bởi Ngài bắt đầu nhắc họ rằng ân điển Đức Chúa Trời cũng dành cho dân ngoại. Tiên tri Ê-li chẳng viếng thăm bất cứ goá phụ Do Thái nào nhưng chỉ giúp cho một goá phụ ngoại bang ở Si-đôn (IVua 17:8-16) và người thừa kế ông là Ê-li-sê đã chữa lành bệnh phung cho một người ngoại xứ Sy-ri (IIVua 5:1-15). Thông điệp ân điển từ Đức Chúa Trời là một đòn nặng giáng vào tính độc quyền cao ngạo của những người trong hội chúng Do Thái, nên họ không muốn ăn năn tội. Bạn hình dung xem, chính “Cậu bé” Giê-xu ngày nào của xứ sở này đang tuyên bố rằng dân Do Thái được cứu bởi ân điển giống như người ngoại.
Mọi người rất giận dữ, họ có ý định giết Ngài. Thánh Augustine nói rằng: “Họ thích lẽ thật khi nó làm rạng danh họ, nhưng họ căm ghét lẽ thật khi nó lên án họ! ”Đó là suy nghĩ của nhiều người trong giáo hội hôm nay, họ chỉ muốn “các lời đầy ơn lành” (Lu 4:22) nhưng không muốn đối diện với lẽ thật (Gi 1:17).
Bất chấp sự vô tín của dân Na-xa-rét. Thánh Kinh tuyên bố rằng Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét là Con Đức Chúa Trời. Những ai không cần Ngài và khước từ “năm lành của Chúa”sẽ có một ngày phải đối diện với “ngày báo thù của Đức Chúa Trời chúng ta” (Es 61:2). Ý nghĩa thay khi Chúa Giê-xu ngưng đọc tại chính chỗ này!
5. Ma quỉ (Lu 4:31-44)
Chúa Giê-xu rời Na-xa-rét xuống thành Ca-bê-na-um (Mat 4:13-16), đây là quê quán của Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng. Ngài thường dạy dỗ trong nhà hội và khiến mọi người lấy làm lạ về sự dạy dỗ có quyền của Ngài (Mat 7:28,29). Họ càng ngạc nhiên hơn về quyền phép của Ngài đối với tà ma.
Sao một người bị tà ma ám có thể ngồi trong nhà hội? Người ấy không biết rằng Chúa cũng ở đó sao? Chúa không muốn ma quỉ làm chứng về Ngài, nên Ngài bảo nó yên lặng và đuổi nó ra khỏi người bệnh. Dĩ nhiên, ma quỉ biết Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời (Lu 4:34,41) nên nó rất run sợ (Gia 2:19).
Sau đó, Ngài ra khỏi nhà hội, vào nhà Si-môn Phi-e-rơ. Tại đây Ngài đã chữa lành cơn rét của bà gia Si-môn. Mặt trời lặn là lúc ngày Sa-bát đã qua, nghĩa là có thể chữa bệnh được. Người ta đem đến nhà Phi-e-rơ nhiều kẻ đau bệnh để xin Chúa cứu chữa. Một lần nữa Ngài quở nặng ma quỉ, không cho nó tỏ Ngài là Con Đức Chúa Trời.
Hẳn Chúa rất mỏi mệt sau một ngày đầy ắp công việc, nhưng Ngài thức dậy rất sớm để cầu nguyện lúc tờ mờ sáng (Mac 1:35). Ngài có được sức mạnh và quyền năng trong chức vụ chính bởi sự cầu nguyện. Chúng ta cũng phải cầu nguyện như thế!
4. CHÚA GIÊ-XU ĐẤNG BIẾN ĐỔI MỌI SỰ (Lu 5:1-39)
Chúa Giê-xu luôn quan tâm đến từng con người. Dù dạy dỗ trước đám đông, nhưng thông điệp của Ngài cốt dành cho từng cá nhân, và Ngài cũng để thì giờ giúp đỡ họ cách riêng tư. Mục đích của Ngài là muốn biến đổi con người họ, hầu họ sẽ có thể ra đi chia sẻ thông điệp “tha thứ” của Ngài cho những người khác. Trong đoạn này, Lu-ca mô tả những cuộc gặp gỡ của Chúa với 4 nhân vật và những đổi thay họ kinh nghiệm được do tin cậy nơi Ngài.
1. Phi-e-rơ: Từ thất bại đến thành công (Lu 5:1-11)
Sự kiện này không giống với sự kiện mô tả trong Mat 4:18-22 và Mac 1:16-20. Theo hai sách đó, Phi-e-rơ và Anh-rê đang bận thả lưới. Nhưng theo sách Lu-ca, họ đã đánh cá cả đêm nhưng không được chi nên phải giặt lưới (nếu lưới không giặt và phơi khô, sẽ bị mục và rách). Chúa Giê-xu đã tuyển 4 người này trước đó và, họ đồng hành với Ngài đến Ca-bê-na-um và Ga-li-lê (Mac 1:21-39), nhưng rồi họ đã trở lại với nghề cũ. Giờ đây, Chúa muốn gọi họ dành trọn đời sống cho chức vụ môn đệ Ngài.
Có lẽ trong số môn đệ Chúa, có ít nhất 7 người làm nghề chài lưới (Gi 21:1-3). Bạn nên biết rằng những người đánh cá này nói chung có những phẩm chất khiến họ dễ thành công trong sự hầu việc Chúa. Can đảm, dám nghĩ dám làm, kiên trì, dứt khoát với công việc giữa biển cả, họ cũng có thể có một đức tin lớn. Họ phải sẵn sàng làm việc với nhau và giúp đỡ nhau (vì họ dùng lưới chứ không dùng câu). Họ phải trau dồi tay nghề, những kỹ năng cần thiết để tiến hành công việc nhanh chóng, hiệu quả.
Nếu thả lưới cả đêm mà không được gì, có lẽ tôi sẽ bán lưới mình chứ chẳng muốn giặt để rồi phải chuẩn bị lần nữa! Nhưng những người đánh cá chân thật này không chịu bỏ cuộc. Phi-e-rơ vẫn tiếp tục làm việc trong khi Chúa Giê-xu dùng thuyền ông làm nơi dạy dỗ cho đoàn dân đông trên bờ. Tiến sĩ J.Wernon McGee nói rằng: “Mỗi bục giảng đều là một thuyền đánh cá, là chỗ ban phát lời Chúa và cố gắng lưới cá! ”
Lời yêu cầu của Chúa Giê-xu còn mang một khía cạnh khác: Phi-e-rơ là một “thính giả bị bắt buộc” khi ông ngồi trong thuyền nghe lời Chúa. “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Ro 10:17). Trong một thời gian ngắn nữa, Phi-e-rơ sẽ phải bày tỏ đức tin, và Chúa Giê-xu đang chuẩn bị cho ông. Trước tiên, Ngài bảo: “Ra khỏi bờ một chút”.Và khi Phi-e-rơ đã sẵn sàng, Ngài ra lệnh: “Hãy chèo ra ngoài sâu, thả lưới mà đánh cá”. Nếu không vâng theo mệnh lệnh đầu tiên dường như vô nghĩa, Phi-e-rơ chắc không bao giờ có thể dự phần vào một phép lạ.
Phi-e-rơ chắc rất ngạc nhiên khi Chúa Giê-xu nắm quyền điều khiển chiếc thuyền và những người trên thuyền. Nói cho cùng Chúa Giê-xu chỉ là một người theo nghề thợ mộc (Mac 6:31 mà các thợ mộc thì biết gì về nghề đánh cá? Vấn đề mà ai cũng biết là tại biển Ga-li-lê người ta đánh cá vào ban đêm tại vùng nước cạn chớ không phải vào ban ngày ở chỗ nước sâu! Điều Chúa bảo Phi-e-rơ làm thật mâu thuẫn với những gì ông biết và kinh nghiệm, nhưng ông vẫn vâng theo. Chìa khoá vấn đề chính là niềm tin nơi Lời Chúa của Phi-e-rơ: “dầu vậy, tôi cũng theo lời thầy” (Lu 5:5). Từ được dịch là : “thầy” Lu 5:5 chỉ có Lu-ca dùng và nó có nhiều nghĩa khác nhau. Tất cả đều có liên quan đến quyền lực: vị tổng tư lệnh. Quan toà, thị trưởng, viện trưởng đại học. Phi-e-rơ sẵn sàng phục tùng mệnh lệnh Chúa, dù không hiểu mọi điều Chúa làm. Và bạn nên nhớ rằng, có một đám đông đang dòm ngó quanh bờ!
Cách người ta đáp ứng với sự thành công cho thấy bản chất thật của họ. Thay vì tuyên bố mẻ cá lớn này thuộc về mình, Phi-e-rơ và Anh-rê lại gọi đồng bạn mình đến để cùng dự phần. Chúng ta không phải là những “nguồn tích trữ”, nhưng là những “dòng phước hạnh” chia sẻ cho người khác những gì Đức Chúa Trời đã ban cho ta cách rộng rời.
2. Từ đau bệnh đến lành mạnh (Lu 5:12-16)
Đây là người cần được thay đổi vì anh ta mắc bệnh phung. Đối với người Do Thái, có nhiều chứng bệnh ngoài da bị liệt vào loại bệnh phung, cũng như bệnh Hansen ngày này. Dù y học ngày nay không ngừng phát triển, vậy mà ước tính có khoảng 10 triệu người trên thế giới mắc bệnh phung. Có một dạng bệnh phung huỷ hoại các dây thần kinh khiến bệnh nhân không hề cảm thấy đau đớn. Sự lây nhiễm bắt đầu hình thành và phát triển cho đến khi các tế bào bị thoái hoá, chân tay bị biến dạng và cuối cùng có thể bị rớt ra.
Nhiệm vụ của thầy tế lễ Do Thái là kiểm tra dân sự để biết họ có mắc bệnh phung hay không? (Le 13:1-59). Người nào nhiễm bệnh sẽ bị cô lập và không thể hoà nhập với cộng đồng bình thường cho đến khi được định là “tinh sạch”. Chứng bệnh phung cũng bị Ê-sai ví như một hình ảnh của tội lỗi (Es 1:4-6). Những chỉ dẫn chi tiết trong Le 13:1-14:57 cho thấy có nhiều điểm liên quan đến nghi thức nhiều hơn là duy trì sức khoẻ chung.
Giống như tội lỗi, vít phung nằm sâu hơn da (Le 13:3) nên không thể chữa bằng những phương pháp “bên ngoài” (Gie 6:14). Nó ăn lan cũng như tội lỗi (Le 13:7-8) và gây ô uế (Le 13:44-45). Do ô uế, người mắc bệnh phải bị cô lập ngoài “trại quân” (Le 13:46). Ngày kia, những tội nhân hư mất cũng sẽ bị cô lập nơi địa ngục! Người bị phung giống như “người đã chết” (Dan 12:12) và áo quần vương vết phung phải bị thiêu trong lửa (Le 13:52). Thật ý nghĩa thay đối với tội nhân hư mất nhờ cậy Chúa Giê-xu để thoát khỏi “những vết phung! ”
Người phung này không chỉ “cần” được thay đổi, mà anh ta thực lòng “muốn” được thay đổi. Người phung bị buộc phải cách ly, nhưng lần này anh ta quyết định “phá lệ”và đến với Chúa Giê-xu cách riêng tư. Qua sách Phúc Âm, Lu-ca chứng minh rằng Chúa Giê-xu là bạn của những kẻ bị ruồng bỏ, họ có thể đến với Ngài để được cứu giúp. Người phung này đã hạ mình trước Chúa và cầu xin sự thương xót.
Bởi ân điển và quyền năng Đức Chúa Trời, người bệnh đã được lành! Thực ra, khi Chúa Giê-xu “giơ tay rờ đến người ấy”, nghĩa là chính Ngài bị ô uế! Đây là hình ảnh cao đẹp về điều Chúa Giê-xu đã làm cho tội nhân hư mất: “Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đưc Chúa Trời” (IPhi 2:24 IICo 5:21). Ngài không chỉ muốn mọi người được cứu (ITi 2:4 IIPhi 3:9), nhưng Ngài có thể cứu được mọi người (He 7:25) và ngay bây giờ Ngài có thể làm được điều ấy (IICo 6:2).
Chúa Giê-xu dặn người được chữa lành đi gặp thầy tế lễ và vâng theo những qui tắc về “lễ làm sạch bệnh phung” được chép trong Le 14:1-32. Lễ này là hình ảnh về công tác của Chúa Giê-xu qua sự thành nhục thể, sự chết và sự sống lại của Ngài. Tất cả điều này đều thực hiện “trên nước chảy” đó là biểu tượng về Thánh Linh Đức Chúa Trời. Của lễ này nhắc nhở ta rằng chính Chúa Giê-xu đã chết thay chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi.
Chúa Giê-xu cấm người này bày tỏ cho kẻ khác về việc Ngài làm, nhưng anh ta đã làm chứng nhiệt tình về Ngài (Chúa Giê-xu kêu gọi chúng ta làm chứng cho mọi người, vậy mà chúng ta lại nín lặng! ). Vì chứng cớ này, vô số người đã đến với Ngài để được cứu giúp, và Ngài đã giúp họ tận tình. Tuy nhiên, Ngài chẳng có cảm xúc gì với đoàn dân đông này, bởi Ngài biết đa số họ chỉ muốn xem quyền năng chữa bệnh của Ngài chứ không cần sự cứu rỗi của Ngài. Ngài thường tách khỏi đám đông và lánh đi nơi yên tĩnh khác để cầu nguyện, xin sự giúp sức của Đức Chúa Cha. Thật là một gương mẫu để mọi con cái Đức Chúa Trời noi theo.
3. Từ tội lỗi đến được tha (Lu 5:17-26)
Chúa Giê-xu trở lại thành Ca-bê-na-um, có lẽ vào nhà Phi-e-rơ. Đoàn dân đông nhóm lại xem Ngài chữa bệnh và nghe Ngài dạy dỗ. Có một chi tiết mới được lưu ý: một số chức sắc tôn giáo từ Giê-ru-sa-lem đến để dò xét điều Chúa làm. Họ có quyền làm vậy, vì nhiệm vụ của các trưởng lão là phải ngăn cản tiên tri giả dẫn dụ dân sự đi sai lạc (Phu 13:1-18 Phu 18:15-22). Họ từng chất vấn Giăng Báp-tít (Gi 1:19-34) và bây giờ họ lại muốn dò xét Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét.
Vì đây là lần đầu tiên các thầy luật và người Pha-ri-si được nhắc đến trong Phúc Âm Lu-ca, nên biết về họ cũng là điều có ích cho ta. Từ “Pha-ri-si” theo ngôn ngữ gốc Hê-bơ-rơ nghĩa là “phân cách tách ra”. Có lẽ các thầy dạy luật và người Pha-ri-si phát triển từ chức vụ của thầy tế lễ E-xơ-ra, người đã dạy dân sự phải vâng theo luật Môi-se và phân cách khỏi những dân tộc ngoại đạo quanh họ (Exo 9:1-10:44 Ne 8:1-9:38). Các thầy dạy luật và người Pha-ri-si rất khao khát hiểu biết, phát huy luật pháp Đức Chúa Trời và áp dụng vào đời sống thường nhật.
Tuy nhiên, hành động của họ chẳng mấy chốc trở nên quá hình thức. Các chức sắc đã đặt lên vai dân sự quá nhiều gánh nặng đến nỗi họ khó lòng “hầu việc Đức Giê-hô-va cách vui mừng (Thi 100:2). Hơn thế, có nhiều người Pha-ri-si là kẻ giả hình, họ không thực hành những điều họ dạy kẻ khác (Mat 15:1-20 Mat 23:1-36). Qua bài giảng trên núi (Mat 5:1-7:29), Chúa Giê-xu đã vạch trần sự nông cạn của những người dòng Pha-ri-si. Ngài giải thích rằng “sự công bình thật” là vấn đề thuộc tấm lòng, chứ không chỉ ở hình thức tôn giáo bên ngoài.
Các thầy dạy luật và người Pha-ri-si đã chọn một thì giờ thuận lợi để tham dự một trong những buổi nhóm họp của Chúa Giê-xu, bởi quyền năng Đức Chúa Trời bày tỏ cách lạ lùng khi Chúa Giê-xu chữa lành người đau bại. Nếu chứng bệnh phung minh hoạ cho sự sa đoạ và ô uế của tội lỗi, chứng đau bại này là hình ảnh của sự tê liệt mà chính tội lỗi sản sinh ra trong một đời sống. Nhưng Chúa Giê-xu còn muốn làm hơn việc chữa bệnh cho người này. Ngài muốn tha tội cho anh ta và dạy đám đông một bài học về sự tha tội.
Kẻ bại liệt không thể đến được với Chúa Giê-xu, nhưng anh ta may mắn có 4 người bạn hữu giúp anh đến với Ngài. Bốn người bạn ấy là những tấm gương về cách phải làm gì cho người khác và giúp những tội nhân khốn khổ đến với Đấng Christ.trước hết, tin họ rằng Chúa Giê-xu sẽ chữa lành người bại (Lu 5:20), đó là đức tin được Đức Chúa Trời hài lòng. Tình yêu họ dành cho người bại đã hiệp sức họ lại, hầu cho không gì có thể khiến họ nản lòng, dù có cả một đám đông án ngữ trước cửa. Xa-chê cũng ở trong hoàn cảnh tương tự (Lu 19:3). (Đám đông cứ cản đường những người khao khát gặp Chúa, thật bi thảm thay! ) Không vào nhà được, họ trèo lên mái nhà, dỡ ngói, dòng người bệnh và giường nhỏ xuống ngay trước mặt Chúa!
Lẽ ra Chúa chỉ cần chữa bệnh người bại và cho anh ta về, nhưng Ngài dùng cơ hội này để giảng một bài học về tội lỗi và sự tha thứ. Nói với người bệnh rằng:“Tội ngươi đã được tha” dĩ nhiên dễ hơn câu nói “Ngươi hãy đứng dậy mà đi”. Vì sao? Bởi không ai có thể chứng minh tội lỗi người ấy thực sự được tha hay chưa! Chúa Giê-xu đã dùng phương pháp khó hơn để chữa lành người bại, đó là điều mọi người tại nơi đó có thể làm chứng.
Phải chăng bệnh tật của người ấy là kết quả của tội lỗi? Chúng ta không biết chắc, nhưng có thể là vậy (Gi 5:1-14). Sự chữa lành thân thể anh ta là bằng chứng về sự chữa lành thuộc linh bên trong. Chúa Giê-xu đã khiến các thầy thông giáo và người Pha-ri-si sửng sốt khi Ngài tuyên bố về quyền chữa bệnh và tha tội. Dân chúng từng biết về quyền năng dạy dỗ và đuổi quỉ của Ngài (Lu 4:32,36), nhưng giờ đây Ngài cũng tuyên bố về quyền tha tội. Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si không thể phủ nhận quyền năng chữa bệnh của Ngài, nhưng họ dò xét lời tuyên bố tha tội của Ngài. Lời ấy chẳng khác nào sự lộng ngôn, vì chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể tha tội. Chúa Giê-xu có thể bị ném đá vì lời tuyên bố này, bởi Ngài muốn nói rằng: chính Ngài là Đức Chúa Trời!
Trong Lu 5:24, lần đầu tiên ta thấy Lu-ca sử dụng danh hiệu Con người, từ này được nhắc lại suốt Phúc Âm Lu-ca 23 lần. Những người nghe Chúa dạy dỗ đã quen với danh xưng này. Tiên tri Ê-xê-chi-ên sử dụng từ này hơn 80 lần. Đa-ni-ên cũng dùng danh xưng này để nói về Đấng Mê-si-a (Da 7:13,18). “Con người” là danh xưng Chúa muốn dùng cho chính Ngài, được nhắc lại ít nhất 82 lần trong các sách Phúc Âm. Đôi lúc Chúa dùng danh xưng “Con Đức Chúa Trời” (Mat 27:43 Lu 22:70 Gi 5:25 Gi 9:45 Gi 10:36 Gi 11:4), nhưng “Con người được dùng nhiều hơn. Dân Do Thái lẽ đương nhiên đều biết danh hiệu này nói về Đấng Mê-si-a, nhưng danh hiệu ấy còn gắn bó Ngài với những tội nhân Ngài đến cứu vớt (Lu 19:10). Giống như Ê-xê-chi-ên “Con người” của Cựu Ước, Chúa Giê-xu là Đấng “ngồi tại nơi họ ngồi” (Exe 3:15).
Sự lành bệnh xảy ra tức thì khiến mọi người ngợi khen Đức Chúa Trời. Người bệnh không những được chữa lành, anh ta còn kinh nghiệm được sự tha thứ và khởi đầu một cuộc đời mới. Những phép lạ của Chúa không chỉ bày tỏ thần tính và lòng thương xót của Ngài đối với những kẻ khốn khổ, mà còn nêu bật những bài học thuộc linh quan trọng về sự cứu rỗi. Các phép lạ ấy là những “bài học thực tiễn” để dạy cho những người mù loà về tâm linh biết điều Đức Chúa Trời có thể làm cho họ, chỉ khi họ tin nơi Con Ngài.
4. Từ con người cũ trở thành con người mới (Lu 5:27-39)
Khi Chúa gọi Lê-vi, Ngài đã thực hiện 3 điều: cứu một linh hồn hư mất, thu nhận một môn đệ mới, tạo cơ hội để giải thích chức vụ Ngài cho các bạn hữu của Lê-vi, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si. Sự kiện này có thể đã xảy ra ngay sau khi Chúa chữa lành người bại vì những người Pha-ri-si và các thầy thông giáo vẫn còn ở đó (Lu 5:17). Có thể lúc này Chúa dặt cho Lê-vi một tên mới:“Ma-thi-ơ, tặng phẩm của Đức Chúa Trời” (Lu 6:15 Mat 9:9).
Ma-thi-ơ ngồi tại sở thâu thuế, có nhiệm vụ đánh thuế các mặt hàng buôn bán. Vì giá thuế luôn thay đổi và không rõ ràng, nên người gian dối dễ dàng biển thủ cho riêng mình. Cho dù nhân viên thuế nào làm việc trung thực đi nữa, anh ta vẫn bị người Do Thái khinh ghét vì đã làm ô uế bản thân khi phục vụ cho ngoại bang. Giăng Báp-tít chứng minh rằng bản chất của sự thâu thuế không có gì tội lỗi cả (Lu 3:12-13), nên chúng ta cũng không có cớ gì cho rằng Ma-thi-ơ là “kẻ cắp”. Tuy nhiên đối với dân Do Thái, Lê-vi là kẻ có tội. Chúa Giê-xu bị nghi ngờ có liên quan với anh ta và bạn hữu tội nhân của anh ta. Chúng ta không rõ Ma-thi-ơ biết Chúa ở mức độ nào. Tình bạn giữa Chúa với Phi-e-rơ và đồng bạn ông giúp Ngài có được mối liên lạc với những thương gia ở Ca-bê-na-um này, và chắc chắn Ma-thi-ơ đã nghe Chúa giảng đạo ở bờ biển. Ma-thi-ơ nhanh chóng vâng theo tiếng gọi của Chúa, bỏ hết mọi sự và theo Ngài. Ông quá đỗi vui mừng về sự cứu rỗi của Ngài đến đỗi gọi nhiều bạn hữu đến để cùng chia sẻ (Lu 15:6,9,23).
Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si chỉ trích Chúa Giê-xu vì họ không hiểu thông điệp và chức vụ Ngài. Chúa không dễ rập khuôn theo lối sống đạo truyền thống của họ. Thật là bất hạnh khi các chức sắc tôn giáo bảo thủ đề kháng với điều đang đổi thay và không muốn hiểu những việc mới mẻ Đức Chúa Trời đang thực hiện. Để giúp họ hiểu rõ điều này. Chúa Giê-xu đưa ra 4 ví dụ minh hoạ về công việc Ngài đang làm:
Thầy thuốc (Lu 5:31,32): Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si xem Ma-thi-ơ và đồng bạn ông như những kẻ tội lỗi đáng bị lên án, nhưng Chúa Giê-xu lại xem họ như các con bệnh thuộc linh cần được thầy thuốc cứu giúp. Thật ra, Chúa đã minh hoạt điều này khi làm sạch người phung và chữa lành người bại liệt. Tội lỗi giống như một căn bệnh, khởi đầu từ một vết nhỏ khó phát hiện, sau đó nó âm thầm tiến triển, huỷ hoại sức khoẻ ta, và cuối cùng sẽ giết chết chúng ta nếu không kịp thời chữa trị. Thật bi thảm khi bệnh hoạn giết chết thân thể con người, nhưng còn khủng khiếp hơn khi tội lỗi kết án linh hồn nơi hoả ngục!
Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si “có tài” chẩn đoán nhu cầu kẻ khác mà không biết mình đang mù loà trong nhu cầu của bản thân, vì họ cũng là tội nhân như bao người khác. Họ “ra dáng” công bình bề ngoài, nhưng bề trong đã sa đoạ (Mat 23:25-28). Có thể họ không phải là những “đứa con hoang đàng” mắc tội về thể xác, nhưng thực sự là những “người anh cả” mắc tội về phần thuộc linh (Lu 15:11-32 IICo 7:1).
Khi tôi viết đến chỗ này, có một cú điện thoại của một phụ nữ từ Canada người bất đồng với chức vụ phát thanh của tôi và không ngừng lên án chúng tôi là những “tên chính thống xét đoán”. Tôi dùng lời Chúa cố giải thích với bà, nhưng bà vẫn phản đối. Bà cho rằng không có địa ngục nào cả và tôi không có quyền rao giảng về điều đó. Khi tôi trưng dẫn Kinh Thánh, bà liền cúp máy. Tất cả mọi điều tôi có thể làm lúc ấy là ngưng mọi sự để cầu thay cho bà bằng một tấm lòng nặng nề.
Bước đầu tiên để có thể chữa được căn bệnh tội lỗi, đó là chúng ta phải thừa nhận rằng mình có một nhu cần và phải làm một điều gì cho nhu cầu đó (Gie 6:14). Nhưng tôi tớ Đức Chúa Trời đã cho chúng ta biết lẽ thật về tội lỗi, sự chết và hoả ngục, đồng thời đưa ra một giải pháp duy nhất: niềm tin nơi Chúa Giê-xu tôn giáo của các thầy luật và người Pha-ri-si không thể đem đến cho Ma-thi-ơ và đồng bạn ông sự trông cậy, chỉ có Chúa Giê-xu mới làm được điều này! Chúa Giê-xu thật là một thầy thuốc đại tài! Ngài đến với chúng ta bằng tình yêu, chọn lựa và cứu vớt chúng ta khi chúng ta tin cậy nơi Ngài. Chính Ngài sẽ “thanh toán đơn thuốc” thay ta. Sự chuẩn đoán của Ngài luôn chính xác và sự chữa trị của Ngài thật hoàn hảo, trọn vẹn. Chẳng còn gì nghi ngờ, Ma-thi-ơ quá vui mừng và muốn chia sẻ tin mừng này với đồng bạn!
Chàng rể (Lu 5:33-35) : Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si không chỉ tức giận vì cớ đồng bạn của môn đệ Chúa mà còn vì cớ thấy họ vui mừng được theo Chúa và làm bạn với những người khác. Dường như những người Pha-ri-si này chẳng hề kinh nghiệm sự vui mừng trong nếp sống đạo của họ (Mat 6:16 Lu 15:25-32). Chúa Giê-xu là người “từng trải sự buồn bực” (Es 53:3) nhưng cũng là Đấng “đầy dẫy sự vui mừng” (Lu 10:21 Gi 15:11 Gi 17:13).
Lễ cưới của người Do Thái kéo dài một tuần lễ, đó là thời gian vui mừng và tiệc tùng. Với hình ảnh này Chúa Giê-xu muốn nói với những kẻ phê phán rằng: “Ta đến để biến cuộc đời thành một lễ cưới, chứ không phải một đám tang. Nếu ngươi biết Chàng Rễ, ngươi mới có thể dự phần trong niềm vui của Người”. Ngài phán rằng sẽ có ngày Chàng Rể “bị đem đi”, Ngài muốn nói đến sự thương khó và sự chết. Đồng thời, cũng có một cớ để vui mừng, vì sẽ có nhiều tội nhân ăn năn.
Sự kiêng ăn thường được thấy trong Cựu Ước, nhưng không có chỗ nào trong Tân Ước qui định về vấn đề đó. Tuy nhiên, gương kiêng ăn của các tiên tri và Hội Thánh đầu tiên thực sự có ý nghĩa đối với tín hữu hôm nay! Lời Chúa trong Mat 6:16-18 cho thấy chúng ta sẽ kiêng ăn (“khi” chứ không phải “nếu”), và các đoạn như Cong 13:1-3 Cong 14:23 chứng tỏ kiêng ăn là thói quen của Hội Thánh ban đầu (ICo 7:5 IICo 6:5 IICo 11:27).
Chiếc áo (Lu 5:36): Chúa Giê-xu đến không phải vá lại chiếc áo cũ, Ngài đến để ban phát chiếc áo mới. Người Pha-ri-si thừa nhận rằng Do Thái giáo không thể hoàn hảo mọi đàng, có lẽ họ hy vọng Chúa sẽ cộng tác với họ để khôi phục lại tôn giáo cũ kỹ này. Nhưng Chúa cho họ thấy sự ngu dại của cách nghĩ này khi Ngài so sánh chiếc áo cũ với chiếc áo mới. Nếu bạn xé một miếng áo mới vá vào áo cũ, bạn sẽ làm hỏng cả hai chiếc áo. Ao mới bị rách còn áo cũ có miếng vải mới không xứng với nó, khi đem giặt áo cũng sẽ bị rách trở lại. Trong Kinh thánh, những chiếc áo đôi khi cũng được dùng để minh hoạ về tư cách và phẩm chất con người (Co 3:8-17). Ê-sai viết về “chiếc áo của sự công bình” (Es 61:10 IICo 5:21) lên án tư tưởng cho rằng được cứu là do công đức riêng (Es 64:6). Nhiều người đang mang một tôn giáo “chắp vá” do họ tự tạo, chớ không muốn tin cậy nơi Đấng Christ để được chiếc áo cứu rỗi Ngài ban bởi ân điển!
Bầu rượu (Lu 5:37-39): Nếu chứa rượu chưa lên men vào bầu da cũ dễ vỡ, hơi men sẽ làm vỡ bầu da, cả rượu và bầu đều sẽ bị hư.Sự sống mới của Đức Thánh Linh không thể bị bức ép trong “bầu da cũ” của Do Thái giáo. Chúa Giê-xu bày tỏ rằng niềm tin cổ xưa của người Do Thái đã “cũ kỹ”và không lâu sẽ được thay thế (He 8:13). Đa số người Do Thái đều thích những điều xưa cũ, và khước từ những gì mới mẻ. Cho đến năm 70 SC, người La Mã đã dày xéo Giê-ru-sa-lem và đền thờ, làm tản lạc dân sự. Đó là sự kiện khiến Do Thái giáo được mô tả trong sách Luật đi đến kết thúc. Ngày nay, người Do Thái không có thầy tế lễ, đền thờ, bàn thờ nên không thể thực hiện nghi lễ tôn giáo như tổ phụ họ từng làm (Os 3:4).
Mọi điều thuộc về luật lễ nghi đã được Chúa Giê-xu thực hiện. Vì vậy hôm nay chẳng cần phải có của lễ, thầy tế lễ, đền thờ hay lễ nghi. Mọi con cái Đức Chúa Trời chính là các thầy tế lễ dâng của lễ thuộc linh cho Chúa (IPhi 2:5,9). Các điều khoản luật pháp đã được thay thế bởi những điều trong lòng người, đó là nơi Thánh Linh Đức Chúa Trời đặt để lời Ngài và khiến chúng ta trở nên giống Chúa Giê-xu (IICo 3:1-3,18). Chúa Giê-xu vẫn là Đấng “làm mới lại hết thảy muôn vật” (Kh 21:5). Là thầy thuốc, Ngài ban cho tội nhân cuộc sống mới và sức mạnh thuộc linh. Là Chàng Rể, Ngài đem đến tình yêu và sự vui mừng. Ngài ban cho chúng ta chiếc áo công bình và rượu “của Thánh Linh (Eph 5:18 Cong 2:13). Cuộc đời là một lễ hội, không phải là nạn đói hay một đám tang. Chúa Giê-xu là Đấng duy nhất có thể thay đổi mọi sự trong cuộc đời chúng ta.
5. CÓ GÌ MỚI NÀO? MỌI SỰ ĐỀU MỚI! (Lu 6:1-49)
Hơn một năm, Chúa Giê-xu dạy dỗ và chữa bệnh khắp nơi được nhiều người biết đến, đoàn dân theo Ngài rất đông. Nhưng bây giờ là thời điểm Ngài chuẩn bị cho các môn đệ và tuyên bố về vương quốc. Trong đoạn này, chúng ta thấy Chúa Giê-xu lập nên 3 thực thể thuộc linh mới để thay thế cho những gì không thể sử dụng được trong niềm tin của dân Do Thái: một ngày Sa-bát mới, một nước mới, và một ân phước mới trong Vương quốc thuộc linh mới.
1. Một ngày Sa-bát mới (Lu 6:1-11)
Tính thiêng liêng của ngày thứ bảy là một phần đặc biệt trong niềm tin của dân Do Thái. Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên luật về ngày Sa-bát tại núi Si-nai (Ne 9:13,14) và xem như một dấu đời đời giữa Ngài với dân sự (Xu 20:8-11 Xu 31:12-17). Từ “Sa-bát” có nghĩa là “nghỉ ngơi” và có liên quan đến việc Đức Chúa Trời tạm nghỉ sau 6 ngày sáng tạo trời đất (Sa 2:2-3). Một số thầy dạy luật giảng rằng: Đấng Mê-si-a không thể xuất hiện trước khi dân Y-sơ-ra-ên đã giữ ngày Sa-bát cách trọn vẹn vì vậy vâng theo luật này là điều rất ý nghĩa đối với cá nhân và quốc gia.
Nếu gọi Chủ nhật là “ngày sa-bát” tức là đã nhầm lẫn ngày đầu tiên với ngày thứ bảy cũng như ý nghĩa của mỗi ngày. Ngày Sa-bát là ngày nhắc nhở sự hoàn tất “công việc sáng tạo cũ” của Đức Chúa Trời, còn Ngày của Chúa (Chúa Nhật) nhắc nhở về công tác hoàn tất của Ngài trong “sự sáng tạo mới” (IICo 5:21 Eph 2:10 Eph 4:24). Ngày Sa-bát nói về sự nghỉ ngơi sau khi làm việc và có liên hệ với luật pháp, còn Ngày của Chúa nói về sự nghỉ ngơi trước khi làm việc và có liên hệ với ân điển. Chúa nhật là kỷ niệm ngày Chúa phục sinh từ kẻ chết, cũng như sự Giáng lâm của Đức Thánh Linh và “ngày khai sinh” của Hội Thánh đầu tiên (Cong 2:1-47).
Hội Thánh ban đầu nhóm lại vào ngày thứ nhất trong tuần (Cong 20:7 ICo 16:1-2). Tuy nhiên có số tín hữu Do Thái vẫn giữ ngày Sa-bát, điều này dẫn đến sự chia rẽ. Phao-lô đề cập vấn nạn này trong thơ tín Ro 14:1-15:3, và đưa ra những nguyên tắc thúc đẩy quyền tự do và sự hiệp một trong Hội Thánh. Phao-lô luôn chứng minh rằng việc giữ những ngày lễ đặc biệt không liên quan gì đến sự cứu rỗi (Ga 4:1-11 Co 2:8-17). Chúng ta được cứu khỏi tội chẳng phải bởi đức tin “kèm theo” việc giữ ngày Sa-bát. Chúng ta được cứu chỉ bởi đức tin trong Đấng Christ mà thôi!
Bởi những luật lệ khắt khe và nặng nề, người Pha-ri-si và các thầy thông giáo đã biến ngày Sa-bát thành một gánh nặng, không còn là một ngày phước hạnh như điều Đức Chúa Trời muốn nên Chúa Giê-xu đã thách thức cả giáo lývà quyền lực của họ.Ngài từng tuyên bố về “năm hân hỉ” (Lu 4:19), giờ đây Ngài cũng tuyên bố về một ngày Sa-bát mới, Ngài chữa lành người què ngay trong ngày Sa-bát nên các chức sắc tôn giáo quyết định giết Ngài (Gi 5:16,18). Bây giờ Ngài lại vi phạm luật Sa-bát của họ thêm 2 lần nữa.
Trong đồng lúa (Lu 6:1-5): Theo luật pháp, người Do Thái được phép ăn trong vườn nho, vườn cây hoặc ruộng lúa của người lân cân, miễn sao không bỏ vào giỏ riêng mình và không sử dụng lưỡi hái (Phu 23:24-25). Các môn đệ Chúa vì đói nên đã bứt bông lúa mì, vò trong tay và ăn. Theo các thầy thông giáo, họ đã phạm luật Sa-bát bởi hành động nói trên, vì họ đang gặt hái, sảy hạt và chuẩn bị thức ăn! (Lu 6:1)
Luôn “vạch lá tìm sâu” hòng chỉ trích, người Pha-ri-si hỏi Chúa vì sao Ngài cho phép môn đệ vi phạm luật Sa-bát (Lu 6:2). Đây là lần thứ hai họ xúc phạm Ngài, họ chắc rằng có đủ chứng cớ để nói nghịch Ngài. Thật đáng thương cho họ! Sự nô lệ cho những nguyên tắc tôn giáo đã khiến họ mù loà, không thấy bản chất đúng của luật pháp cũng như sự hiện diện của Chúa, Đấng ban luật pháp này cho họ. Chúa không tranh luận với họ (Lu 6:3,4). Ngài hướng họ về Lời Đức Chúa Trời (ISa 21:1-6).
Bánh trần thiết gồm 12 ổ, mỗi ổ tượng trưng cho một chi phái Y-sơ-ra-ên. Bánh được đặt trên bàn trong nơi thánh của đền tạm sau đó là đền thờ (Xu 25:23-30 Le 24:5-9), vào mỗi ngày Sa-bát và chỉ có các thầy tế lễ mới được phép ăn. Đa-vít và những người theo ông đã ăn những ổ bánh này và dân Do Thái sẽ lên án vị vua vĩ đại của Y-sơ-ra-ên ra sao đây? Có thể họ biện luận rằng: “Ông ấy là người được Đức Chúa Trời xức dầu”. Nhưng đó chính là điều Chúa Giê-xu tuyên bố về chính Ngài (Lu 4:18). Ngài không chỉ là Đấng chịu xức dầu của Đức Chúa Trời, Ngài còn là Chúa của ngày Sa-bát! Khi phán lời này, Ngài muốn tuyên bố rằng chính Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời, vì chỉ có Chúa mới làm nên ngày Sa-bát.Nếu Chúa Giê-xu là Chúa ngày Sa-bát thì Ngài có quyền làm mọi điều Ngài muốn trong ngày ấy. Bạn có thể biết chắc rằng người Pha-ri-si không thể không hiểu ý nghĩa Chúa mốn nói!
Đức Chúa Trời luôn quan tâm về sự đáp ứng nhu cầu con người hơn bảo vệ những nguyên tắc tôn giáo. Đa-vít và những người theo ông thà có sức lực để hầu việc Đức Chúa Trời, còn hơn phải chết vì mục đích của một luật lệ tạm thời! Đức Chúa Trời muốn lòng thương xót hơn của lễ (Mat 12:7 Os 6:6). Dĩ nhiên, người Pha-ri-si có cái nhìn về luật pháp thật khác biệt (Mat 23:23).
Trong nhà hội (Lu 6:6-11): Người Pha-ri-si biết Chúa Giê-xu dạy dỗ trong nhà hội vào ngày Sa-bát, nên họ cũng ở đó để xem xét Ngài và tìm dịp cáo Ngài (Lu 6:6,7). Họ không biết người teo tay cũng ở đó sao? Phải chăng họ “đặt” anh ta sẵn ở đó? Chúng ta không thể biết và Chúa Giê-xu có lẽ không quan tâm đến điều này. Ngài thoả đáp nhu cầu anh ta bằng tấm lòng thương xót và chữa lành cho anh ta. Thay vì phải chờ đợi vài giờ nữa để ngày Sa-bát trôi qua hoặc có thể chữa bệnh cho người này ở nơi kín đáo, nhưng Chúa công khai chữa bệnh nhanh chóng. Đây chính là sự phản đối có chủ ý về những tập tục ngày Sa-bát.
Trong đồng lúa mì, lời biện giải của Chúa dựa trên Kinh Thánh Cựu Ước, nhưng trong nhà hội Ngài biện luận dựa trên bản chất luật Sa-bát của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ban luật ấy để giúp đỡ dân sự, chẳng phải để làm khổ họ. “Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải ngày Sa-bát mà dựng nên loài người” (Mac 2:27). Ai trong nhà hội cũng muốn cứu một con chiên trong ngày Sa-bát, vậy tại sao không thể cứu một con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời? (Mat 12:11-12). Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đã biến sự ban cho của Đức Chúa Trời thành “một ách nặng nề” không ai mang nổi! (Cong 15:10 Ga 5:1).
Phép lạ này cho thấy quyền năng của đức tin trong Lời Chúa. Chúa Giê-xu ra lệnh cho người bệnh làm chính hành động ngoài khả năng anh ta, nhưng anh vẫn vâng theo! “Không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được” (Lu 1:37). Những mạng lịnh của Đức Chúa Trời luôn là những điều Ngài có thể giúp con người thực hiện được.
Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si vô cùng tức giận. Chắc rằng việc thờ phượng Đức Chúa Trời trong nhà hội sáng hôm ấy chẳng dem lại ích lợi gì cho họ. Họ giận dữ đến nỗi đã hiệp với phe Hê-rốt (là những người Do Thái ủng hộ Hê-rốt)lập mưu giết Chúa (Mac 3:6). Ngài biết ý tưởng họ (c.8 Mat 12:15) nên lánh ra bờ biển Ga-li-lê, dạy dỗ cho đoàn dân và lên núi cầu nguyện một mình.
Chúa Giê-xu là Đấng ban “sự yên nghỉ thuộc linh” bất tận trong lòng người (Mat 11:28-30). Không giống như “ách khó chịu” của luật pháp, ách Chúa Giê-xu thật “dễ chịu và nhẹ nhàng” khi một tội nhân tin nhận Đấng Christ, người ấy được làm hoà với Đức Chúa Trời vì tội lỗi đã được tha (Ro 5:1-11). Khi đầu phục Đấng Christ trong cuộc sống hằng ngày, người ấy vui hưởng “sự bình an của Đức Chúa Trời” trong lòng và trí mình (Phi 4:6-7).
2. Một Nước mới (Lu 6:12-19)
Chúa Giê-xu thức trọn đêm để cầu nguyện vì Ngài chuẩn bị chọn lựa 12 sứ đồ trong số nhiều môn đệ theo Ngài. “Môn đồ” là người theo học, còn “sứ đồ” là sứ giả được chọn ra có nhiệm vụ đặc biệt. Chúa có nhiều môn đệ (Lu 10:1) nhưng chỉ có 12 sứ đồ được chọn.
Tại sao Ngài phải cầu nguyện cả đêm? Ngài biết rằng sự chống nghịch Ngài đang đến gần và cuối cùng Ngài sẽ phải bước lên thập tự giá. Vì vậy Ngài cầu xin có thêm sức mạnh để đương đầu với con đường trước mặt. Ngài muốn có sự chỉ dẫn của Đức Chúa Cha trong việc chọn lựa 12 sứ đồ, vì tương lai Hội Thánh tuỳ thuộc vào họ.Nên nhớ rằng có một trong số 12 sứ đồ phản Ngài và Ngài đã biết người ấy là ai ngay từ đầu (Gi 6:64). Chúa chúng ta có những cảm xúc thật của con người (Lu 22:41-44 He 5:7-8), và qua sự cầu nguyện, Ngài đã thực hiện sự lựa chọn khó khăn này.
Tên các sứ đồ được nói đến trong Mat 10:1-4 Mac 3:16-19 Cong 1:13. Trong mọi danh sách, tên Phi-e-rơ luôn đứng đầu còn Phi-e-rơ ở cuối. Giu-đe trong Cong 1:13 là Giu-đe con Gia-cơ, còn gọi là Tha-đê trong Mac 3:18. Một người có hai hay nhiều tên cũng là điều bình thường.
Khi Anh-rê dẫn Si-môn đến Chúa Giê-xu, Ngài đặt tên Si-môn là Phi-e-rơ (đá) (Gi 1:40-42). Ba-thê-lê-my chính là Na-tha-na-ên Gi 1:45-49. Si-môn khác trong nhóm có biệt danh là Xê-lốt. Biệt danh này có thể bao gồm hai ý. Ông này có thể thuộc nhóm ái quốc cuồng nhiệt được biết đến như “những kẻ cuồng tín”, mục đích họ nhằm giải phóng Y-sơ-ra-ên khỏi sự chuyên chế của La Mã. Họ sử dụng mọi phương tiện sẵn có, kể cả hành hung và giết người để đạt được mục đích. Có thể từ “xê-lốt” theo từ gốc Hê-bơ-rơ là “qanna” có ý nghĩa như “cuồng nhiệt, sốt sắng vì danh Đức Chúa Trời”. Si-môn được biết đến vì sự sốt sắng về danh Đức Chúa Trời hay vì tư cách hội viên của một nhóm đấu tranh bằng bạo lực, ta không thể biết, có lẽ vì cả hai.
Chúng ta không biết chắc nguồn gốc của từ “Ích-ca-ri-ốt”. Nó có thể có nghĩa là “người ở Kê-ri-ốt” một thị trấn ở miền nam Giu-đa (Gio 15:25). Một số người liên hệ từ ấy với từ Aramaic “seqar” nghĩa là “sự dối trá”. Như vậy, Giu-đa là “kẻ dối trá”. Giải thích theo địa lý có lẽ hợp lý hơn.
Thật là một nhóm người thú vị! Họ minh hoạ cho điều Phao-lô viết ở ICo 1:26-29 và là sự yên ủi đối với chúng ta hôm nay. Xét cho cùng, nếu Đức Chúa Trời có thể dùng họ, Ngài không thể dùng chúng ta sao? Có lẽ 7 người trong số họ làm nghề đánh cá (Gi 21:1-3). Một người làm nghề thâu thuế, 4 người còn lại là những người không ai biết gì về nghề nghiệp của họ. Họ là những con người bình thường có những tính cách khác nhau. Nhưng Chúa Giê-xu đã kêu gọi họ đến với Ngài để học hỏi nơi Ngài và ra đi vì Ngài (Mac 3:14).
Tại sao Chúa chọn 12 sứ đồ? Vì có 12 chi phái trong Y-sơ-ra-ên và Chúa Giê-xu muốn tạo ra những hạt nhân mới cho một dân tộc mới (IPhi 2:9 Mat 21:43). Những tín hữu đầu tiên là người Do Thái vì Phúc Âm đến với người Do Thái trước tiên (Ro 1:16 Cong 13:46). Sau đó dân ngoại cũng được thêm vào Hội Thánh qua sự làm chứng của những tín hữu Do Thái bị tản lạc và qua chức vụ của Phao-lô, sứ đồ cho dân ngoại. Trong Hội Thánh, không còn sự phân biệt người Do Thái với người ngoại, vì tất cả đều là một trong Chúa Giê-xu (Ga 3:28).
Sau khi chọn ra 12 sứ đồ và trước khi rao bài giảng lớn này, Chúa đã dành thời gian chữa bệnh nhiều người. Điều ngày thật có ý nghĩa! Nó bày tỏ quyền năng và sự thương xót của Ngài đồng thời nhắc ta về những người hầu việc vừa được chọn lựa của Ngài. Công việc họ là chia sẻ tình yêu và quyền năng của Chúa cho một thế giới khốn khó. Ước tính có khoảng 300 triệu dân trên thế giới vào thời Chúa Giê-xu, nhưng hôm nay đã có hơn 5 tỉ dân, 4/5 là những quốc gia kém phát triển.Quả là một thách thức cho Hội Thánh Chúa!
3. Một ơn phước mới (Lu 6:20-49)
Bài giảng này có lẽ là một bản thâu gọn “Bài giảng trên núi” (Mat 5:1-7:29), dù có một số học giả cho rằng đây là hai sự kiện khác nhau, nhưng Lu-ca đã bỏ bớt những phần trong bài giảng không gây thích thú cho độc giả người ngoại. Nếu cả hai là cùng một sự kiện thì việc Phi-e-rơ cho rằng bài giảng được thực hiện ở “trên núi” (Mat 5:1), trong khi Lu-ca thì nói ở “đồng bằng” Lu 6:17), vẫn không tạo ra một vấn đề gì. Tiến sĩ P.A.Carson cho biết từ Hy Lạp được dịch là “đồng bằng”có thể có nghĩa là “một cao nguyên ở miền núi”.
Chúa Giê-xu vào vùng núi cùng các môn đệ. Sau một đêm cầu nguyện Ngài đi xuống một nơi bằng phẳng, chọn ra 12 sứ đồ, chữa lành nhiều kẻ bệnh tật và rồi giảng bài giảng này. Qua bài giảng, Ngài bày tỏ ý nghĩa của một đời sống phước hạnh
Đối với đa số dân Do Thái, “ơn phước” gợi lên hình ảnh của sự trường thọ, giàu sang, gia đình khoẻ mạnh, vựa lẫm đầy ắp và kẻ thù bị thất bại. Giao ước Đức Chúa Trời lập cùng dân Y-sơ-ra-ên bao gồm những ơn phước về vật chất và thuộc thể tương tự như vậy (Phu 28:1-68 Giop 1:1-12 Ch 3:1-10), vì đây là cách Đức Chúa Trời dạy dỗ và kỷ luật họ. Tóm lại, họ là “con trẻ” trong đức tin và cách chúng ta dạy dỗ con trẻ thường bằng sự thưởng phạt. Khi Chúa Giê-xu đến, giai đoạn “con trẻ” của Y-sơ-ra-ên đã chấm dứt, họ phải trưởng thành trong sự hiểu biết về chương trình của Đức Chúa Trời (Ga 4:1-6).
Chúa Giê-xu muốn dạy dỗ cho môn đệ Ngài, cùng đoàn dân (Lu 6:27,49), bởi chính 12 sứ đồ phải từ bỏ nhiều điều trước khi có thể hầu việc Ngài cách kết quả. Hơn thế, họ phải hy sinh mọi điều để theo Ngài (Lu 5:11,28) và đương nhiên họ sẽ tự hỏi “chúng tôi sẽ được chi?” (xem Mat 19:27). Qua bài giảng này, Chúa bày tỏ rằng đời sống hạnh phước thật không đến từ “sự được gì” hay “làm gì” nhưng từ chính bản thể con người, đặc biệt là bản tính giống Đức Chúa Trời.
Bài giảng này không phải là Phúc Âm và không ai có thể lên Thiên đàng bởi làm theo bài giảng trên núi. Tội nhân hư mất không thể vâng phục Đức Chúa Trời hằng sống. Họ phải được tái sanh trước hết để nhận lãnh sự sống từ Đức Chúa Trời (Gi 3:1-7,36).
Bài giảng này cũng không phải là một “hiến pháp” đối với vương quốc Đức Chúa Trời sẽ lập trên đất một ngày nào đó (Lu 22:30 Mat 20:21). Bài giảng trên núi có giá trị ứng dụng vào cuộc sống hôm nay, nó bày tỏ đức tính thánh khiết chúng ta cần phải có khi làm con cái Đức Chúa Trời giữa thế gian. Hẳn Chúa mô tả một tình trạng sống hoàn toàn khác với sự sống nơi vương quốc vinh hiển, bởi nó chỉ chứa toàn nước mắt, khổ sở, bắt bớ, đói khát, cùng sự giả hình của các thầy dạy luật.
Mục đích của Chúa là nhắm vào thái độ của chúng ta: đối với hoàn cảnh (Lu 6:20-26), con người (Lu 6:27-38), bản thân (Lu 6:39-45) và đối với Đức Chúa Trời (Lu 6:46-49). Ngài nhấn mạnh 4 đức tính cần thiết để có hạnh phước thật: đức tin nơi Chúa, tình yêu tha nhân, thành thực với chính mình, và vâng phục Đức Chúa Trời.
Đối với hoàn cảnh (Lu 6:20-26): Cuộc sống của người dân thời bấy giờ rất khó khăn và hoàn cảnh họ không mong gì khá hơn. Ngày hôm nay cũng thế, nhiều người cho rằng hạnh phước đến từ của cải vật chất, địa vị xã hội cao quý, hoặc hưởng thụ những thú vui và danh vọng có thể mua được bằng đồng tiền. Bạn hình dung xem, họ ngạc nhiên biết bao khi nghe Chúa Giê-xu mô tả bản chất hạnh phước hoàn toàn khác hẳn điều họ mong đợi! Họ vừa khám phá rằng nhu cầu thiết yếu của họ không phải là một sự thay đổi hoàn cảnh sống nhưng là sự thay đổi trong mối liên hệ với Đức Chúa Trời và trong nhận thức về cuộc sống của họ.
Chúa không hề dạy rằng nghèo khổ, đói khát, bắt bớ, than khóc tự nó là những phước hạnh. Nếu vậy, Ngài đã không bao giờ thực hiện tất cả những gì Ngài đã thực hiện để làm diụ nỗi đau khổ của kẻ khác. Hơn thế, Ngài muốn bày tỏ những thái độ “bên trong” chúng ta phải có nếu muốn kinh nghiệm được phước hạnh của đời sống Cơ Đốc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm những gì chúng ta có thể để giúp đỡ người khác về phương diện vật chất (IGi 3:16-18 Gia 2:15-17), nhưng phải nhớ rằng không điều gì có thể thay thế được mối liên hệ cá nhân với Đức Chúa Trời!
Ma-thi-ơ trình bày rõ ràng “Phước cho những kẻ có lòng khó khăn... Phước cho những kẻ đói khát sự công bình...” (Mat 5:3,6). Chúa không đề cao sự khốn khó về vật chất, nhưng kêu gọi những tấm lòng khốn khó ăn năn xưng nhận ra sự nghèo nàn thuộc linh bên trong (Lu 18:9 Phi 3:4-14). Người khiêm nhường là đối tượng cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Es 57:15 Es 66:2 IPhi 5:6). Nếu bạn so sánh những phước lớn này với Es 61:1-3 và Lu 4:18, bạn sẽ hiểu rằng Chúa muốn nói về tình trạng thuộc linh chứ không phải những hoàn cảnh bên ngoài. Ma-ry đã bày tỏ nhận thức này qua bài ca tụng của bà (Lu 1:46-55).
Chính Chúa Giê-xu sẽ trải qua sự bắt bớ (Lu 6:22) nên môn đệ Ngài cũng bị bắt bớ như vậy. Làm sao có thể vui mừng khi chúng ta bị kẻ khác bắt bớ? Trong hoàn cảnh ấy, bạn hãy luôn nhớ rằng chịu khổ vì danh Chúa là một đặc ân (Phi 3:10). Khi chúng ta bị đối xử giống như hoàn cảnh của Chúa, đó là bằng chứng chúng ta đang bắt đầu sống như Chúa. Điều đó thật đáng khích lệ! Các thánh đồ của mọi thời đại cũng từng bị đối đãi như thế, nên chúng ta vẫn còn may mắn hơn họ. Đức Chúa Trời hứa ban phần thưởng đặc biệt cho những ai trung tín theo Ngài vì vậy điều tốt đẹp nhất vẫn chưa đến!
Bốn nỗi bất hạnh ấy nói lên cùng một lẽ thật: Bạn muốn hưởng điều gì trong cuộc sống, bạn phải trả giá cho điều đó. Nếu bạn muốn có ngay của cải, sự no đủ, niềm vui, và danh vọng, bạn có thể đạt được. Nhưng giá phải trả chính là tất cả những gì bạn sẽ nhận. Chúa không nói rằng những điều đó sai quấy, nhưng Ngài phán chỉ hài lòng với những điều đó là sự đoán xét của chính nó.
HH.Farmer nói rằng: “Đối với Chúa Giê-xu thì điều đáng sợ trong việc thủ đắc những giá trị sai lầm trong cuộc sống và theo đuổi những gì không chính đáng không phải là bạn bị rơi vào tình trạng thất vọng não nề mà là vẫn thong dong không phải là bạn không đạt được điều mong muốn mà là đạt được” Khi con người hài lòng với những điều nhỏ bé trong cuộc sống, thay vì tìm kiếm điều tốt nhất, khi ấy những thành công của họ thêm vào chẳng khác chi những thất bại. Họ đã bị phá sản về mặt tâm linh nên không nhận thức được điều này.
Cuộc đời được xây dựng trên bản tính, bản tính được xây dựng trên những quyết định.Nhưng quyết định lập nền trên các giá trị và những giá trị ấy phải được đức tin chấp nhận. Môi-se đã tạo những quyết định làm thay đổi cuộc đời trên căn bản những giá trị mà người đời cho là rồ dại (He 11:24-29), nhưng Đức Chúa Trời hài lòng với đức tin của ông. Cơ Đốc nhân luôn vui mừng với những gì Chúa ban cho (ITi 6:17) vì người ấy sống trong sự nhận biết những giá trị vĩnh cửu.
Đối với con người (Lu 6:27-38): Chúa Giê-xu phán rằng những ai sống cho giá trị vĩnh cửu đều sẽ gặp khó khăn rắc rối với những người trong thế gian. Cơ Đốc nhân là “muối của đất” và “ánh sáng của thế gian” (Mat 5:13-16), có lúc muối ấy làm “day dứt” kẻ khác và ánh sáng phô bày tội lỗi. Tội nhân căm ghét chúng ta, tránh né hoặc xua đuổi ta (Lu 6:22), sỉ nhục (Lu 6:28), ức hiếp (Lu 6:29), và vu cáo chúng ta (Lu 6:30). Đây là điều chúng ta phải lường trước (Phi 1:29 IITi 3:12).
Vậy ta phải đối xử với kẻ thù ra sao? Chúng ta phải yêu thương, giúp đỡ và cầu nguyện cho họ. Giận dữ chỉ nuôi dưỡng thêm lòng oán ghét mà thôi, “vì cơn giận của người không làm nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (Gia 1:29). Chúng ta không thể làm được điều này bằng sức riêng của mình nếu không nhờ quyền năng của Thánh Linh (Ro 5:5 Ga 5:22-23).
Chúng ta không nên xem những lời răn này như một “chuỗi luật lệ” buộc phải thi hành.Những lời răn ấy nói lên thái độ của con người được bày tỏ một cách tích cực khi những người khác tiêu cực, rộng rãi khi người khác ích kỷ. Tất cả nhằm tôn vinh Đức Chúa Trời. Đây là một sự bày tỏ tinh thần chứ không phải một nhiệm vụ bắt buộc. Chúng ta phải có khôn ngoan để biết khi nào cần “đưa má kia cho kẻ khác vả” cũng như khi nào cần phải bày tỏ quyền hạn mình (Phi 1:9-11 Gi 18:22-23 Cong 16:35-40).
Ở đây có hai nguyên tắc rõ rệt: Chúng ta muốn người ta làm cho mình thể nào, hãy làm cho người khác thể ấy (Lu 6:31) điều này cho thấy chúng ta muốn nhận được những điều thuộc linh tốt nhất cho mình và chúng ta phải có lòng thương xót như Cha trên trời (Lu 6:36). Điều quan trọng không phải chúng ta được minh oan trước mặt kẻ thù, nhưng bản tánh chúng ta phải càng trở nên giống Chúa (Lu 6:35). Đây là phần thưởng tuyệt vời mà bất cứ ai cũng có thể nhận được, nó có giá trị lớn lao vượt hẳn của cải vật chất, thú vui, danh vọng (Lu 6:24-26). Những điều ấy ngày kia sẽ thành hư vô, nhưng bản chất con người sẽ còn lại đời đời.Chúng ta phải tin Mat 6:33 và làm theo bằng quyền năng của Thánh Linh.
Câu Lu 6:37,38 nhắc rằng chúng ta sẽ gieo gì gặt nấy và số lượng gặt tuỳ mức độ gieo. Nếu xét đoán kẻ khác, ta sẽ bị xét đoán. Nếu tha thứ, ta sẽ được tha thứ.Nếu lên án, ta sẽ bị lên án (Mat 18:21-35). Chúa không nói về sự xét đoán đời đời, Ngài chỉ nói đến cách chúng ta được đối xử ở đời này. Nếu sống để “ban phát”, chắc chắn rằng chúng ta được “nhận”. Nhưng nếu sống để “thâu tóm”. Chắc rằng ta sẽ “mất hết”. Nguyên tắc này không chỉ đúng với việc chúng ta ban phát tiền bạc vật chất, nhưng cũng đúng với tinh thần chúng ta quên mình phục vụ kẻ khác.
Đối với bản thân (Lu 6:39-45): Có 4 hình ảnh nổi bật qua phân đoạn này dạy chúng những bài học quan trọng về chức vụ. Trước hết, là môn đệ Chúa Giê-xu, chúng ta phải biết chắc mình đã thấy rõ đủ để có thể hướng dẫn người khác trên bước đường thuộc linh. Có những người mù lại có một cảm quan về phương hướng bén nhạy, nhưng dĩ nhiên chẳng có một ai sử dụng họ làm phi công hay hướng dẫn viên vùng hoang dã! Chúa muốn nói đến những người Pha-ri-si, là kẻ dẫn dân sự đi sai đường (Mat 15:14 Mat 23:16). Nếu ta xem mình là người hướng dẫn “tài ba” nhưng không nhận ra sự mù loà của mình, chúng ta chỉ có thể đưa kẻ khác xuống hố mà thôi (Ro 2:17-22).
Câu 40 nhắc nhở rằng chúng ta không thể dẫn dắt kẻ khác đến nơi ta chưa từng qua, và chúng ta cũng không trọn vẹn như Chúa được. Thực ra, càng rèn luyện để trở nên giống Chúa, ta càng nhận ra sự khiếm khuyết của mình. Đây là lời cảnh tỉnh lòng kiêu ngạo, vì không có điều gì làm mù loà con người như lòng kiêu ngạo.
Tiếp theo hình ảnh về “mắt”, Chúa dạy rằng chúng ta phải thấy rõ đủ mới có thể giúp kẻ khác nhìn rõ hơn. Dĩ nhiên giúp một anh em lấy “cái rác” gây đau nhức ra khỏi mắt không có gì sai trái, miễn sao chúng ta có thể thấy rõ điều mình đang làm. Đám đông có lẽ đã cười nhạo khi Chúa mô tả một “bác sĩ nhãn khoa” bị “một cây đà” vướng trong mắt, lại chữa cho một bệnh nhân chỉ vướng “cái rác” trong mắt!
Điều nhấn mạnh ở đây là sự thực lòng với chính mình và đừng trở thành kẻ giả hình.Thật dễ dàng giúp một anh em mắc lỗi lầm, chỉ có vậy ta mới hòng “khoả lấp” tội lỗi mình! Người luôn chỉ trích kẻ khác lại là người luôn phạm điều tệ hại hơn trong cuộc sống.
Hình ảnh minh hoạ về “cây” nhắc ta rằng “trái” luôn luôn đúng với bản chất của cây.Cây táo sanh trái táo, nào phải trái cam! Người tốt cũng bày tỏ sự tốt lành, không phải điều xấu xa. Những người tin nhận Chúa dù đã từng phạm tội, nhưng chứng cớ về lời nói và việc làm của họ luôn làm sáng danh Đức Chúa Trời. Trong chức vụ, những tôi tớ nào trung tín với Chúa sẽ tái sản sinh chính họ qua những con người thành tâm với Chúa (IITi 2:2),
Hình ảnh cuối cùng là “kho chứa” dạy ta rằng điều gì từ môi miệng ra tuỳ thuộc vào những gì chứa trong lòng. Lòng người như một “kho chứa, điều chúng ta nói ra bày tỏ những gì đã sẵn có trong lòng. Một người xin lỗi rằng: “Tôi thật sự không nghĩ vậy! ”, nhưng bạn anh ta đáp: “Anh đã nghĩ thế, nếu không, anh đâu nói ra! ”
Chúng ta phải thành thực với chính mình, thừa nhận những điểm mù loà trong đời sống mình. Những trở ngại làm mờ tầm nhìn của ta phải được khắc phục và chỉnh đốn.Khi ấy Đức Chúa Trời mới có thể sử dụng ta để giúp đỡ kẻ khác mà không đắt họ đi lầm lạc.
Đối với Đức Chúa Trời (Lu 6:46-49): Ở đoạn này, Chúa nói về sự vâng phục. Nghe lời Chúa và gọi Ngài là “Chúa” như vậy chưa đủ, chúng ta phải vâng theo những gì Ngài truyền. Chúng ta như những “thợ xây nhà”, phải xây cách khôn ngoan, “Xây nền trên vầng đá” nghĩa là vâng theo mệnh lệnh Chúa qua Lời Ngài. “Cất nhà trên đất không xây nền”giống như chỉ hầu việc Đấng Christ bằng môi miệng chứ không vâng theo ý muốn Ngài. Giống như chúng ta muốn xây một ngôi nhà chắc chắn, nhưng nếu không có nền, nhà ấy không thể tồn tại lâu. Giông tố ở đây không phải là sự xét đoán sau cùng nhưng là những thử thách trong cuộc sống sẽ đến với mọi Cơ Đốc nhân đã tuyên xưng đức tin. Không phải bất cứ ai tự nhận mình biết Chúa đều có một kinh nghiệm thật về sự cứu rỗi. Có thể họ rất sốt sắng trong Hội Thánh, hoặc trong những tổ chức tôn giáo, nhưng nếu họ chưa được cứu bởi đức tin, như vậy họ không có nền tảng cho đời sống mình. Khi những khó khăn chợt đến, thay vì ngợi khen Chúa, họ sẽ bỏ Ngài, Ngôi nhà chứng cớ của họ bị sụp đổ.
Nếu không bởi Đức Thánh Linh, không ai có thể xưng Chúa Giê-xu là “Chúa” (ICo 12:3 Ro 8:16). Nếu Đấng Christ ở trong lòng chúng ta, môi miệng chúng ta sẽ phải xưng nhận Ngài và làm chứng về Ngài cho người khác (Ro 10:9-10). Nếu chúng ta “châm rễ và lập nền trong Ngài” (Co 2:7), chúng ta sẽ sinh những bông trái tốt và ngôi nhà chúng ta cũng sẽ chịu được bão tố. Có thể chúng ta sẽ phạm những lỗi lầm và gặp thất bại, nhưng chứng cớ vững chắc trong cuộc sống chúng ta sẽ bày tỏ Đấng Christ và tôn vinh Ngài.
Đây là “ơn phước mới” Chúa Giê-xu muốn ban cho dân Ngài. Hôm nay, Ngài cũng muốn ban cho chúng ta. Chúng ta có thể kinh nghiệm được phước hạnh từ trời và những ơn phước thật mà chỉ có Ngài mới có thể ban cho. Nền tảng của mọi sự này là đức tin cứu rỗi trong Chúa Giê-xu Christ, như tấn sĩ H. A. Ironside từng nói: “Chúng ta không thể có sự sống này nếu trước tiên nó không thuộc về chúng ta”.
6. THƯƠNG XÓT BẰNG HÀNH ĐỘNG (Lu 7:1-50)
Sự thương xót từng được định nghĩa là “nỗi đau của bạn trong lòng tôi”. Đó là nỗi đau Chúa Giê-xu hẳn đã cảm nhận khi Ngài thi hành chức vụ từ nơi này sang nơi khác. Chỉ trong đoạn này thôi Chúa đã đối diện với những nỗi bất hạnh của người đầy tớ sắp chết, bà goá đau khổ, một tiên tri đang hoang mang và một tội nhân ăn năn và Ngài giúp đỡ tất cả. Nếu yêu cầu “Uỷ ban cứu trợ” quyết định xem ai sẽ xứng đáng được cứu giúp, chúng ta chẳng biết ai sẽ được chọn!
Chúa Giê-xu giúp tất cả, bởi vì lòng thương xót không có sự cân nhắc: chỉ có sự phục vụ! Benard Clairvaux nói rằng: “Công lý chỉ luôn tìm kiếm những công đức, nhưng lòng thương xót chỉ lưu tâm đến nhu cầu”. Chính bởi sự thương xót chớ không phải công lý ấy đã thúc đẩy Vị thầy thuốc vĩ đại đến “không phải để gọi kẻ công bình hối cải, nhưng gọi kẻ tội” (Lu 5:32). Chúng ta hãy gặp 4 con người đau khổ và xem sự đáp ứng của Chúa đối với nhu cầu của họ.
1. Người đầy tớ: Chúa đáp ứng đức tin (Lu 7:1-10)
Qua các sách Phúc Âm và sách Công vụ, các thầy đội La Mã được nhắc đến như những con người có đạo đức. Thầy đội trong đoạn này là một gương điển hình. Các trưởng lão Do Thái chẳng yêu mến gì người La Mã nói chung cũng như lính La Mã nói riêng. Tuy nhiên, họ vẫn giới thiệu thầy đội với Chúa Giê-xu. Thầy đội này rất mến dân Do Thái ở Ca-bê-na-um, thậm chí còn xây cho họ một nhà hội. Ông yêu người đầy tớ mình và không muốn nó chết. Ông không phải là người khắc kỷ, lạnh lùng với nỗi khổ của kẻ khác. Ông quan tâm đến mọi người, cả đến đứa đầy tớ thấp hèn đang hấp hối vì cơn bại liệt (Mat 8:6).
Đoạn kể súc tích ở Mat 8:5-13 không hề mâu thuẫn với phần tường thuật đầy đủ hơn ở sách Lu-ca. Bạn hữu của thầy đội thay ông đến gặp Chúa Giê-xu và thay Chúa trở về báo tin cho ông. Khi một phát thanh viên tường thuật lại lời phát biểu của Tổng thống hoặc Thủ tướng tại Quốc hội hoặc Nghị viện. Thông điệp này không nhất thiết phải được thực hiện bởi chính các vị ấy, nó có thể do những nhân viên đại diện loan báo, nhưng người ta xem như đã nhận thông điệp này từ chính vị Tổng thống hoặc Thủ tướng ấy.
Chúng ta không chỉ cảm kích về tình yêu cao cả của thầy đội mà còn khâm phục sự khiêm nhường đáng quý của ông. Bạn nghĩ xem, một viên chức La Mã lại thú nhận với vị thầy Do Thái nghèo nàn ràng ông không xứng đáng tiếp Người vào nhà mình! Người La Mã vốn không quen bày tỏ lòng khiêm nhường, đặc biệt trước mặt dân Do Thái.
Tính cách khiến Chúa cảm động nhất chính là đức tin của thầy đội này. Sách Lu-ca ghi lại 2 trường hợp khiến Chúa ngạc nhiên. Tại Ca-bê-na-um này, Ngài ngạc nhiên về đức tin của một người ngoại. Ở Na-xa-rét, Ngài ngạc nhiên về sự vô tín của dân Do Thái (Mac 6:6). Có một người khác được Chúa cho rằng có “đức tin lớn” đó là người đàn bà xứ Ca-na-an có con gái bị quỉ ám đã được Chúa chữa khỏi (Mat 15:28). Đáng chú ý là ở 2 trường hợp trên, Chúa đều chữa bệnh từ xa (Eph 2:11-13 Thi 107:20).
Đức tin của thầy đội thật đặc biệt. Xét cho cùng, ông chỉ là một người ngoại vốn vô thần. Ông là quân nhân La Mã, đã học cách tự xoay sở không cần ai giúp đỡ. Ta cũng không có chứng cớ nào nói rằng ông đã nghe qua bài giảng của Chúa. Có lẽ ông biết quyền năng chữa bệnh của Chúa từ quan thị vệ là người có con trai được Chúa chữa bệnh từ xa (Gi 4:46-54). Quân lính ông có thể kể cho ông về những phép lạ Chúa đã làm, vì người La Mã luôn tiếp cận với những sự kiện trong cuộc sống người Do Thái.
Từ có ý nghĩa trong Lu 7:8 là “cũng” (cũng có trong Mat 8:9). Thầy đội đã nhận ra điểm tương tự giữa cách ông ra lệnh cho quân lính với cách Chúa Giê-xu ra lệnh chữa bệnh. Chúa Giê-xu và thầy đội đều có quyền hạn của mình và có thể thực hiện quyền hạn ấy. Tất cả những gì họ cần làm là nói một lời thì mọi sự sẽ xảy ra.Thầy đội bày tỏ một đức tin thật tuyệt vời! Tất nhiên đức tin ấy khiến Chúa phải ngạc nhiên.
Nếu thầy đội La Mã này là người hiểu biết rất ít về thuộc linh, còn có đức tin nơi Lời Chúa như vậy, đức tin chúng ta càng phải lớn hơn thế! Chúng ta hôm nay có một cuốn Kinh Thánh trọn bộ để đọc và học hỏi, cũng như lịch sử Hội Thánh suốt 2.000 năm qua đã khích lệ chúng ta. Vậy mà chúng ta lại phạm tội “vô tín” (Mac 4:40) hoặc “ít đức tin” (Mat 14:31). Ta phải cầu xin: “Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con! ” (Lu 17:5)
2. Bà goá: Chúa đáp ứng trước nỗi tuyệt vọng (Lu 7:11-17)
Thành Na-in cách Ca-bê-na-um khoảng 25 dặm, phải đi mất một ngày. Nhưng Chúa vẫn đến đó dù không có sự yêu cầu. Vì dân Do Thái chôn người chết nội trong ngày (Phu 21:23 Cong 5:5-10), có lẽ Chúa Giê-xu và các môn đệ đến cửa thành vào buổi chiều trong ngày đứa con trai này chết. Hôm ấy, tại cửa thành xảy ra 4 cuộc gặp gỡ đặc biệt.
Trước hết là cuộc gặp gỡ giữa 2 đám đông. Chúng ta thật ngạc nhiên về kế hoạch của Đức Chúa Trời khi Chúa Giê-xu gặp đám tang ấy ngay lúc họ đang tiến về nghĩa trang. Chúa đã sống theo một giờ giấc thiêng liêng vì Ngài vâng phục ý muốn Cha Ngài (Gi 11:9 Gi 13:1). Đấng Christ giàu lòng thương xót luôn cứu giúp khi chúng ta cần Ngài (He 4:16).
Thật là một sự khác biệt rõ rệt giữa đám đông theo Chúa và đám đông theo bà goá với đứa con trai đã chết, Chúa Giê-xu cùng các môn đệ vui mừng trong ơn phước Đức Chúa Trời, nhưng bà goá và đồng bạn lại than khóc vì đứa con trai đã chết. Chúa Giê-xu đang tiến về cửa thành, trong khi những kẻ than khóc đang tiến đến nghĩa trang!
Về mặt thuộc linh, mỗi người chúng ta cũng đang thuộc một trong hai đám đông này.Nếu tin nhận Chúa Giê-xu, bạn đang tiến đến cửa thành (He 11:10,13-16 He 12:22). Nếu đang “chết trong tội lỗi” bạn đang tiến gần nghĩa trang và chịu sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời (Eph 2:1-3 Gi 3:36). Bạn phải tin nhận Chúa Giê-xu để được tái sinh từ kẻ chết (Eph 2:4-10 Gi 5:24).
Kế đến là cuộc gặp gỡ giữa hai con một. Một người đang sống nhưng đã được định trước sẽ chịu chết, người kia đã chết nhưng sẽ được định cho sống. Thuật ngữ “Con Độc Sanh” nói về Chúa Giê-xu nghĩa là “chỉ có một”. Ngài không phải là “con” theo nghĩa như tôi là đứa con hiện diện trên đời qua sự hoài thai và sinh ra. Vì Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời hằng hữu, Ngài mãi mãi tồn tại! Danh hiệu “Con Đức Chúa Trời” nói lên bản tính thiêng liêng thánh khiết của Đấng Christ và mối liên hệ của Ngài với Đức Chúa Cha, là Đấng Ngài đầu phục và hạ mình xuống từ cõi vĩnh hằng. Ba ngôi của Đức Chúa Trời đều bình đẳng, nhưng mỗi ngôi có vai trò hành động cụ thể?
Thứ ba, đó là cuộc gặp gỡ giữa hai người chịu khổ. Chúa Giê-xu, Con người gánh mọi khổ đau của kẻ khác có thể dễ dàng đồng cảm với nỗi đau trong một xã hội không có sự quan tâm đến các goá phụ. Điều gì đã xảy đến với bà! Chúa cảm nhận nỗi đau do tội lỗi và sự chết đem đến cho thế gian, nên Ngài đã xoa dịu nỗi đau ấy.
Cuối cùng là cuộc gặp gỡ giữa hai kẻ thù. Bởi Chúa Giê-xu đã đối diện với sự chết là “kẻ thù sau cùng” (ICo 15:26). Khi bạn chứng kiến những đau đớn khổ sở dẫy đầy trên thế gian, sự chết thực sự là một kẻ thù. Chỉ có Chúa Giê-xu mới có thể giúp chúng ta đắc thắng sự chết (ICo 15:51-58 He 2:14-15). Chúa chỉ phán một lời, cậu bé này liền sống lại và khoẻ mạnh. Hai bằng chứng cho thấy cậu bé thực sự sống lại: “ngồi dậy và khởi sự nói” (Lu 7:5a)
Cậu bé nằm trên cái cáng, không phải trong quan tài đóng kín, nên cậu dễ dàng ngồi dậy. Cậu nói gì, chúng ta không biết, nhưng chắc hẳn cậu rất vui mừng. Thật là một hành động dịu dàng khi Chúa Giê-xu giao cậu bé lại cho người mẹ đang vui sướng. Hình ảnh này nhắc ta về sự kiện sẽ xảy đến khi Chúa tái lâm. Khi ấy, chúng ta sẽ đoàn tụ với những người thân yêu đã khuất trong sự ngợi khen Đức Chúa Trời (ITe 4:13-18).
Hưởng ứng của dân chúng là ngợi khen Đức Chúa Trời và xem Chúa như vị tiên tri dân Do Thái từng mong đợi (Phu 18:15 Gi 1:21 Cong 8:22-23). Phép lạ này nhanh chóng được đồn ra. Người ta háo hức mong gặp Ngài, người theo Ngài càng đông hơn (Lu 8:4,19,40).
3. Giăng Báp-tít: Chúa đáp ứng cho sự nghi ngờ (Lu 7:18-35)
Sự hoang mang (Lu 7:18,20): Giăng đã bị cầm tù vài tháng (Lu 3:19,20) nhưng ông biết Chúa đang thi hành chức vụ vì môn đệ ông luôn thông báo lại với ông mọi việc. Chắc Giăng rất khó chịu vì vốn quen với cuộc sống hoang dã, nay lại bị giam trong ngục. Dĩ nhiên ông phải chịu một sự căng thẳng về thể xác và tinh thần, bởi những chuỗi ngày chờ đợi chẳng lấy gì làm dễ chịu. Các nhà cầm quyền Do Thái không can thiệp cho Giăng và dường như Chúa Giê-xu cũng không giúp gì cho ông. Nếu Ngài đến để giải thoát kẻ bị cầm (Lu 4:19), vậy Giăng là đối tượng trước tiên để Ngài giải cứu
Không có gì lạ khi những người lãnh đạo thuộc linh trải qua thời gian ngờ vực và không biết chắc. Môi-se muốn thoát khỏi gánh gặng (Dan 11:10-15) và Ê-li, Giê-rê-mi cũng vậy (IVua 19:1-21 Gie 20:7-9,14-18). Cả Phao-lô cũng nếm trải sự thất vọng (IICo 1:8-9).
Có sự khác biệt giữa nghi ngờ và vô tín. Sự nghi ngờ là vấn đề của tâm trí (khả năng lý luận): Chúng ta không thể hiểu được điều Đức Chúa Trời hành động và lý do Ngài hành động. Sự vô tín chính là vấn đề thuộc về ý chí: chúng ta khước từ không tin Lời Đức Chúa Trời và không vâng theo những vì Ngài bảo ta làm. Oswald Chambers nói rằng: “Sự nghi ngờ luôn là dấu hiệu của người đang sai lầm nó có thể là dấu hiệu người ấy đang suy nghĩ”. Trong hoàn cảnh của Giăng, vấn đề đặt ra không phải là sự vô tín nhưng là sự nghi ngờ phát sinh từ tình trạng căng thẳng về thể chất và tinh thần. Bạn và tôi có thể nhìn lại chức vụ Chúa Giê-xu để hiểu điều Ngài làm, nhưng Giăng không có lợi điểm đó. Giăng rao truyền về sự xét đoán, nhưng Chúa đang thi hành công việc của tình yêu và lòng thương xót.Giăng báo trước về Nước Trời đang đến gần, nhưng không có chứng cớ nào cho điều đó. Ông bày tỏ Chúa Giê-xu là “Chiên Con Đức Chúa Trời” (Gi 1:29). Như vậy, hẳn Giăng đã hiểu phần nào về sự hy sinh của Chúa, nhưng sự hy sinh ấy có liên quan gì đến Vương quốc được hứa ban cho Y-sơ-ra-ên? Ông hoang mang về chương trình Đức Chúa Trời và vai trò của ông trong đó. Tuy vậy, bạn đừng xét đoán Giăng quá gay gắt, vì các tiên tri cũng từng hoang mang về những điều này (IPhi 1:10-12).
Lời khẳng định (Lu 7:21-23):Chúa không giảng cho hai người này về vấn đề thần học hay lời tiên tri. Ngài chỉ bảo họ xem những gì Ngài đã làm cho mọi kẻ bệnh tật và chữa lành họ ra sao.Chắc chắn đây chính là những khả năng của Đấng Mê-si-a của lời hứa (Es 29:18-19 Es 35:4-6 Es 42:1-7). Ngài không lập nên vương quốc chính trị nhưng vương quốc Đức Chúa Trời đã hiện diện tại đó trong quyền năng. Từ Hy Lạp được dịch là “vấp phạm” còn mang nghĩa “xúc phạm”. Nguyên thuỷ từ này được để chỉ về một “miếng mồi” trong bẫy. Giăng có nguy cơ mắc sai lầm khi quan tâm về điều Chúa không làm. Ông đang vấp ngã vì Chúa mình và chức vụ Ngài. Chúa Giê-xu dịu dàng bảo ông giữ vững đức tin, vì Chúa của ông biết điều Ngài đang làm.
Ngày nay, nhiều người đang chỉ trích Hội Thánh vì đã không “thay đổi thế giới” và giải quyết các vấn nạn về kinh tế, chính trị, xã hội. Họ quên rằng Đức Chúa Trời đang thay đổi thế giới qua từng cá nhân. Lịch sử chứng minh rằng Hội Thánh thường dẫn đầu về công tác từ thiện. Tuy nhiên, công việc chính của Hội Thánh là đưa dắt tội nhân hư mất đến với Đấng Christ. Mọi sự khác chỉ là vấn đề phụ mà thôi. Rao giảng Phúc Âm phải luôn là nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh.
Lời khen ngợi (Lu 7:24-30): Điều chúng ta nghĩ về mình hoặc người khác nghĩ về chúng ta không quan trọng bằng những điều Đức Chúa Trời đang nghĩ. Đợi những người đưa tin đi khuất, Chúa Giê-xu mới đề cao nhiệm vụ của Giăng trước công chúng, đồng thời cáo trách những tấm lòng cứng cỏi không tin nơi chức vụ Giăng. Giăng không phải là con người thoả hiệp, cũng không phải là cây sậy bị gió rung” (Eph 4:14). Ông không phải là người nổi tiếng có nhiều bạn bè giàu sang hoặc hưởng những thú vui của cải. Giăng không phải là con người do dự hay yếu đuối, dù con người có làm gì đối với ông cũng chẳng hề gì Giăng không chỉ là một tiên tri mà là một tiên tri có chức vụ nói tiên tri! (Es 40:3 Ma 3:1). Là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, Giăng được đặc quyền làm sứ giả của Đức Chúa Trời rao ra Đấng Mê-si-a cho dân Y-sơ-ra-ên.
“Trong Nước Đức Chúa Trời kẻ rất nhỏ còn lớn hơn Giăng” nghĩa là gì? Ý nghĩa của câu này nói về địa vị chứ không phải bản chất hay chức vụ. Giăng là sứ giả của Vua thiên đàng rao rề Nước Trời. Ngày nay những ai tin nhận Chúa đều là công dân Nước Trời và là bạn hữu của Vua Trời (Gi 15:15). Chức vụ của Giăng đánh dấu một bước ngoặc trong lịch sử dân tộc ông và trong kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời (Lu 16:16)
Câu Lu 7:29-30 là lời của Chúa Giê-xu, không phải lời giải thích của Lu-ca (Mat 21:32). Đó là giải đáp cho những ai từng hỏi “Nếu là một tiên tri lớn, sao Giăng lại bị cầm tù?” Giăng bị cầm tù bởi chính sự vô tín của các chức sắc tôn giáo. Những con người đơn sơ đã tiếp nhận thông điệp từ Giăng và chịu phép báp-tem của ông, đó là chứng cớ họ ăn năn tội lỗi mình. Họ nhìn biết Đức Chúa Trời, nghĩa là đồng tình với điều Chúa phán về họ (Thi 51:4). Nhưng các chức sắc tôn giáo chỉ nhìn thấy “cái tôi” thay vì nhìn biết Đức Chúa Trời, vì vậy họ chối từ Giăng và thông điệp của ông.
Lời kết án (Lu 7:31-35): Chúa ví thế hệ đó với những người còn tính chất trẻ con, không phải giống như con trẻ, họ chẳng hài lòng điều gì cả. Có lẽ Ngài muốn nói đến các thầy thông giáo và người Pha-ri-si. Giăng rao giảng về sự xét đoán nghiêm khắc, họ lại cho rằng “người mắc quỉ dữ”. Chúa Giê-xu hoà nhập với quần chúng rao giảng thông điệp vui mừng về sự cứu rỗi, họ cũng cho rằng “Ay đó là người ham ăn mê uống bạn với người thâu thuế và kẻ có tội” Họ không muốn có “tang tóc” cũng chẳng cần “tiệc cưới”, vì không có gì làm hài lòng họ cả.
Những kẻ muốn trốn tránh sự thật về bản thân mình đều tìm sơ hở để chỉ trích người rao giảng. Đây là một phương cách họ biện hộ cho bản thân. Nhưng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời chẳng thể bị cản trở bởi những lý luận của “kẻ hiểu biết và người khôn lanh”. Điều đó được bày tỏ qua cuộc đời đổi mới của những ai tin nhận Ngài. Đây là cách sự khôn ngoan thật được chứng minh.
4. Người đàn bà có tội: Chúa đáp ứng trước tình yêu (Lu 7:36-50)
Chúa Giê-xu không chỉ hưởng ứng lòng hiếu khách của những người thâu thuế và kẻ có tội, nhưng cũng hưởng ứng lời mời của những người Pha-ri-si nữa. Họ cũng cần có lời Đức Chúa Trời, dù họ có nhận thức được điều đó hay không. Chúng ta tin rằng lời mời của Si-môn là lời mời chân thành, không có mục đích nào khác khi mời Chúa vào nhà. Nếu có thì kế hoạch của ông chẳng đem lại kết quả gì mong muốn, bởi ông đã được học hỏi về chính mình nhiều hơn điều muốn biết.
Người đàn bà ăn năn (Lu 7:36-38): Thời bấy giờ những người ngoại cuộc thường lảng vảng quanh những bữa tiệc để xem những “người nổi tiếng” và nghe họ nói chuyện. Mọi cửa đều mở, nên người ngoài có thể vào phòng tiệc và nói chuyện với khách. Đây là lý do người đàn bà có thể đến gặp Chúa Giê-xu. Ngài không ở phía sau những cánh cửa đóng chặt. Thời đó, phụ nữ không được mời vào buổi tiệc.
Các thầy Do Thái không nói chuyện với phụ nữ công khai, cũng không ăn chung bàn với họ. Người đàn bà này không được tiếp đón tại nhà Si-môn và người Pha-ri-si. Tội lỗi bà không bị kể ra ở đây, nhưng chúng ta có thể hiểu rằng bà là người phụ nữ đứng đường và bị mang tiếng xấu.
Bạn đừng lẫn lộn sự việc này với một sự việc tương tự nói về Ma-ri ở thành Bê-tha-ni (Gi 12:1-8), cũng đừng nhầm người đàn bà này với Ma-ri-Ma-đơ-len (Lu 8:2 Mac 16:9) như nhiều vẫn nghĩ. Người đàn bà này nhận mình là tội nhân, điều đó chứng minh rằng bà đã ăn năn. Nếu bạn xem lại trình tự các sự việc trong xét sự hoà hợp của các sách Phúc Âm, bạn sẽ thấy trước khi sự kiện này xảy ra, Chúa từng ân cần mời gọi: “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ (Mat 11:28). Có lẽ đó chính là lúc người đàn bà này ăn năn tội và tin nhận Đấng Christ. Những giọt lệ ăn năn, thái độ khiêm cung và món quà quí giá của bà đã bày tỏ một tấm lòng được đổi mới.
Người chủ nhà hay chỉ trích (Lu 7:39-43):Si-môn thật lo ngại cho bản thân và cho những vị khách mời của mình. Dân chúng cho rằng Chúa Giê-xu là Đấng Tiên tri lớn (Lu 7:16), nhưng Ngài thật sự không bày tỏ sự sáng suốt của một tiên tri nếu Ngài cho phép một người đàn bà tội lỗi rờ chân mình, vậy chắc Ngài chỉ là kẻ lừa dối.
Nan đề thật của Si-môn chính là sự mù loà của ông. Ông không thể hiểu bản thân mình, cũng không hiểu về Chúa Giê-xu và người đàn bà này. Ông dễ dàng nói: “Bà ta là kẻ có tội! ”, nhưng khó nói rằng: “Tôi cũng là kẻ có tội! ” (Lu 18:9-14). Chúa chứng minh rằng Ngài thực sự là một tiên tri khi đọc được tư tưởng Si-môn và cho ông ta biết nhu cầu của chính ông.
Ví dụ Chúa đưa ra không đề cập đến lượng tội lỗi trong đời người, nhưng nói về “nhận thức tội lỗi” trong lòng người. Phạm tội ở mức độ nào mới bị gọi là “tội nhân”? Si-môn và người đàn bà đều là tội nhân. Si-môn phạm tội về thuộc linh đặc biệt là lòng kiêu ngạo, còn người đàn bà phạm tội về thể xác (IICo 7:1). Tội lỗi người đàn bà được mọi người biết đến, nhưng chẳng ai thấy tội lỗi nơi Si-môn ngoại trừ Đức Chúa Trời. Si-môn bị bại hoại về mặt thuộc linh cũng như người đàn bà tội lỗi này, nhưng bản thân ông không nhận ra điều đó.
Sự tha tội là món quà ân điển của Đức Chúa Trời, món nợ tội đã được Chúa Giê-xu gánh thay (Eph 1:7 IPhi 1:18,19). Người đàn bà đã nhận được sự cứu rỗi vô điều kiện của Đức Chúa Trời nên bà tự do bày tỏ tình yêu của mình đối với Ngài.Si-môn khước từ sự ban cho của Đức Chúa Trời nên vẫn chưa được tha thứ. Ông không chỉ mù loà đối với bản thân nhưng còn mù loà về người đàn bà này cũng như về vị khách cao trọng của mình!
Đấng Christ đầy lòng tha thứ (Lu 7:44-50):Người đàn bà có tội trong công việc còn Si-môn có tội thiếu sót Ông không phải là người chủ nhà đối đãi tử tế cùng Chúa Giê-xu. (Để so sánh, hãy xem Áp-ra-ham ở Sa 18:1-8). Mọi điều Si-môn bỏ qua lại chính là những gì người đàn bà này thực hiện một cách hoàn hảo!
Có 2 điều lầm lẫn ta cần tránh khi giải nghĩa Lời Chúa. Trước hết, ta không nên kết luận rằng người đàn bà được cứu do những giọt nước mắt và món quà của bà.Chúa Giê-xu đã phán rõ. Đức tin bà đã cứu bà (Lu 7:50), không có lượng việc lành nào có thể trả cho sự cứu rỗi (Tit 3:4-7). Chúng ta cũng đừng nghĩ rằng tội nhân được cứu bởi tình yêu hoặc bởi tình yêu Đức Chúa Trời dành cho họ, hoặc bởi tình yêu của họ dành cho Ngài. Đức Chúa Trời yêu cả thế gian (Gi 3:16), vậy mà thế gian vẫn chưa được cứu hết thảy. “Vả ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa trời. Ay chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình” (Eph 1:8,9). Ân điển chính là tình yêu đã trả một giá, giá ấy là sự chết của Con Đức Chúa Trời trên thập tự.
Chúa Giê-xu không chối từ những giọt lệ và bình dầu thơm của người đàn bà, vì việc làm của bà bày tỏ một đức tin”. Nếu ai nói mình có đức tin, nhưng không có việc làm, thì ích chi chăng?” (Gia 2:14-26). Chúng ta được cứu chẳng phải do đức tin”kèm theo” việc làm, nhưng được cứu bởi đức tin “dẫn đến” việc làm. Người đàn bà vô danh này bày tỏ lẽ thật trong Ga 5:6 “Trong Đức Chúa Giê-xu, điều có giá trị... tại đức tin hay làm ra bởi sự yêu thương vậy”.
Làm sao người đàn bà này biết tội mình đã được tha? Chính Chúa Giê-xu đã phán với bà như vậy. Làm sao chúng ta biết hôm nay chúng ta đã được tha tội? Đức Chúa Trời cho chúng ta biết điều đó qua Lời Ngài. Mời bạn xem một số câu Kinh Thánh sau đây: Es 1:18 Es 43:25-26 Es 55:6,7 Cong 13:38-39 Ro 4:7-8 Eph 4:32 He 8:12.Bạn từng hiểu rõ ý nghĩa ân điển của Đức Chúa Trời, không ngần ngại đón nhận sự tha thứ trọn vẹn vô điều kiện của Ngài và vui mừng khi nhận được sự tha thứ ấy.
Dĩ nhiên, thật bất ngờ đối với những kẻ chỉ trích khe khắt tại bữa ăn hôm ấy khi họ nghe Chúa Giê-xu phán: “Tội lỗi người đàn bà này nhiều lắm, đã được tha hết”. Khi phán lời ấy, Ngài đang tuyên bố chính Ngài là Đức Chúa Trời (Lu 5:21). Ngài là Đức Chúa Trời, cũng là Đấng chết thay cho tội lỗi của người đàn bà này. Những lời tha thứ Ngài phán ra thật quý báu, bởi Ngài đã trả một giá rất đắt trên thập tự.
Người đàn bà này được cứu ra sao? Bà ăn năn tội lỗi mình và đặt niềm tin nơi Chúa Giê-xu. Làm sao bà biết chắc mình đã được tha thứ? Lời Chúa bảo đảm cho bà điều ấy. Chứng cớ nào cho thấy bà được cứu? Tình yêu của bà dành cho Đấng Christ bày tỏ qua sự dâng hiến thành kính cho Ngài. Lần đầu tiên trong cuộc đời, bà được làm hoà với Đức Chúa Trời (Lu 7:50). Nói theo nghĩa đen là “hãy đi vào sự bình an”, vì bà đã rời khỏi phạm vi đối nghịch với Đức Chúa Trời và giờ đây vui hưởng sự bình an với Ngài (Ro 8:7-8 Ro 5:1).
Chúa Giê-xu đã thực hiện một phép lạ lớn khi chữa lành người đầy tớ của thầy đội.Ngài còn làm một phép lạ lớn hơn khi khiến đứa con trai của bà goá sống lại.Qua đoạn này Ngài đã thực hiện một phép là kỳ diệu nhất khi cứu người đàn bà khỏi tội lỗi và đổi mới bà. Phép lạ của sự cứu rỗi là một phép lạ kỳ diệu nhất trong mọi phép lạ, vì nó đáp ứng nhu cầu to lớn nhất, đem lại những kết quả kỳ diệu nhất (là những kết quả còn đời đời) và phải trả cái giá đắt nhất.
Si-môn là kẻ “mù loà”, đối với người đàn bà và chính mình. Ông biết quá khứ bà, nhưng Chúa biết tương lai bà. Tôi không biết đã có bao nhiêu kẻ có tội bị ruồng bỏ nhưng tìm được sự cứu rỗi qua lời làm chứng của người đàn bà này trong Phúc Âm Lu-ca. Nhưng bà giúp chúng ta tin rằng Chúa có thể chọn bất cứ tội nhân nào và khiến người ấy trở nên con cái Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, sự tha thứ của Đức Chúa Trời không có tính áp đặt: chúng ta có quyền chối bỏ ân điển Ngài. Vào năm 1830, một người tên George Wilson bị bắt vì tội ăn cắp bưu phẩm và bị xử treo cổ. Sau một thời gian, Tổng thống Andrew Jackson ký lệnh tha anh ta, nhưng phạm nhân này lại khước từ! Các nhà chức trách cảm thấy khó xử. “Nên tha bổng hay treo cổ Wilson đây?”
Họ hỏi ý kiến Chánh án John Marshall và được ông quyết định: “lệnh tha chỉ là một mảnh giấy, giá trị của nó tuỳ thuộc vào sự đón nhận của kẻ được tha. Nếu bị khước từ, đó không phải là lệnh tha nữa. Vậy Wilson phải bị treo cổ! ”.
Nếu bạn chưa từng đón nhận “lệnh tha” của Đức Chúa Trời, bây giờ chính là lúc bạn phải tin nhận để được tha thứ.
7. NHỮNG BÀI HỌC VỀ ĐỨC TIN (Lu 8:1-56)
Một trong những chủ đề chính ở đoạn 8 là làm thế nào để có đức tin và áp dụng nó vào đời sống. Ở phân đoạn đầu, Chúa dạy dỗ môn đệ dưa trên nền tảng đức tin đến từ sự tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời vào lòng. Ở phần kế tiếp, Ngài đưa họ vào những “cuộc trắc nghiệm” để biết mức độ tiếp thu của họ. Chúng ta đều thích học Kinh Thánh, nhưng lại muốn tránh những cuộc thi thường đến sau khi học! Tuy nhiên, chính qua những thử thách của cuộc sống, đức tin sẽ thực sự tăng trưởng và chúng ta càng gần gũi với Đấng Christ hơn.
H.L.Mencken một viên chủ bút hoài nghi người Mỹ định nghĩa niềm tin như “một sự tin tưởng phi lý vào điều không thể xảy ra”. Còn Mark Twain lại cho rằng niềm tin là “sự tin tưởng vào điều bạn biết rõ là không phải như vậy”. Dĩ nhiên những người này muốn nói về sự “mê tín” chứ không phải niềm tin. Vì niềm tin của Cơ Đốc nhân dựa trên những nền tảng vững chắc.
Bất cứ ai cũng đều sống bởi niềm tin nơi một điều gì đó hay một người nào đó. Sự khác nhau giữa người tin Chúa và người ngoại không phải ở chỗ người này có niềm tin hoặc người kia không có. Cả hai điều có niềm tin, chỉ khác nhau ở đối tượng của niềm tin, vì niềm tin chỉ có ý nghĩa khi có đối tượng để tin. Cơ Đốc nhân là người đặt niềm tin mình nơi Chúa Giê-xu trên cơ sở Lời Đức Chúa Trời.
1. Lời dạy về việc nghe Lời Chúa (Lu 8:1-21)
Chúa tiếp tục chức vụ giảng lưu hành của Ngài tại Ga-li-lê, có các môn đệ và những người đàn bà tin kính theo giúp đỡ Ngài. Các thầy dạy luật Do Thái thường nhận quà của những người tỏ lòng biết ơn và có lẽ mấy đàn bà này đã chịu ơn nhiều từ chức vụ của Chúa Giê-xu. Những người lãnh đạo Hội Thánh thời Tân Ước được sự hỗ trợ vật chất từ bạn hữu và các Hội Thánh khác (IITi 1:16-18 Phi 4:15-17). Phao-lô thì tự lo cho mình qua việc làm (IITe 3:6-10).
Từ “nghe” được sử dụng nhiều lần trong phân đoạn này. “Nghe” có nghĩa là hiểu và tiếp nhận về mặt thuộc linh. “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đức Chúa Trời được rao giảng” (Ro 10:17). Nhớ điều này, ta có thể hiểu được 3 lời khuyên Chúa dạy môn đệ.
Nghe và tiếp nhận đạo (Lu 8:4-15): Người gieo giống đầu tiên là Chúa Giê-xu, nhưng người gieo giống cũng tượng trưng cho mọi con cái Đức Chúa Trời là người rao ra lời Ngài (Gi 4:35-38). Hạt giống là lời Đức Chúa Trời, vì (giống) như hạt giống, lời ấy có sức sống và quyền năng (He 4:12), có thể sinh ra bông trái thuộc linh (Ga 5:22-23). Tuy vậy, hạt giống ấy chẳng đem lại ích lợi gì nếu không được gieo ra (Gi 12:24). Khi một người nào đó nghe và hiểu Lời Chúa, lúc ấy hạt giống thực sự đã gieo vào lòng người nghe.Kết quả sau đó sẽ phụ thuộc vào tính chất của “đất”.
Chúa Giê-xu gọi ví dụ này là “ví dụ về kẻ gieo giống” (Mat 13:18), hay còn gọi là “ví dụ về đất”. Hạt giống không có đất sẽ không có kết quả, đất không được gieo giống là đất vô dụng. Lòng người tựa như mảnh đất, nếu được chuẩn bị đúng mức, có thể tiếp thu hạt giống của Lời Đức Chúa Trời và đem lại một mùa thâu hoạch dồi dào!
Chúa mô tả về 4 loại khác nhau của lòng người, trong đó có 3 tấm lòng chẳng sanh kết quả gì. Chứng cớ của sự cứu rỗi là “ bông trái” chớ không chỉ nghe hoặc tuyên xưng đức tin trong Đấng Christ là đủ. Chúa Giê-xu đã nói rõ điều này trong “Bài Giảng Trên Núi” (Lu 6:43-49 Mat 7:20).
Đất cứng (Lu 8:5,12): tượng trưng cho người nghe đạo nhưng sau đó bị ma quỉ cướp đi “hạt giống”. Lòng người cứng cỏi ra sao? Bên “lề đường là con đường tắt dẫn đến cánh đồng lớn chia thành những lô đất nhỏ. Đường bờ ruộng là con đường chạy qua cánh đồng phân chia cánh đồng thành những thửa ruộng. Bước chân người qua lại làm cho đất trở nên cứng. Bất cứ điều gì “tai nghe mắt thấy” đều được ghi vào lòng, vì vậy hãy cẩn thận kẻo có kẻ “dẫn dụ lòng bạn”.
Đất đá sỏi (Lu 8:6,13) đại diện cho người nghe đạo sốt sắng và hưởng ứng nhanh chóng với Lời Chúa, nhưng sau đó sự quan tâm của họ giảm sút dần cho đến khi không sống theo Lời Chúa nữa (Gi 8:31-32). Ở nhiều vùng tại xứ Thánh (The Holy Land), bạn sẽ thấy tầng đá vôi bên dưới được phủ lên bởi một lớp đất mỏng, chồi non có thể mọc lên nhưng rễ không đâm sâu và mặt trời làm nó héo khô. Mặt trời tượng trưng cho thử thách đến với mọi người xưng mình là Cơ Đốc nhân để thử nghiệm đức tin họ. Mặt trời có ích cho những cây có rễ. Khó khăn, bắt bớ có thể khiến rễ của Cơ Đốc nhân thật bám sâu hơn, nhưng cũng phơi bày sự nông cạn của Cơ Đốc nhân giả.
Đất có gai (Lu 8:7,14): là người nghe đạo nhưng không ăn năn và chẳng từ bỏ những điều gây trở ngại cho mùa gặt. Ở đây có đủ đất để cây cắm rễ, nhưng lại không đủ diện tích cho cây phát triển và sinh quả. Cây bị nghẹt ngòi nên không sinh trái.Chính “sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời này” như cỏ dại lẫn trong vườn khiến đất không sinh lợi gì cả. Người có “lòng nghẹt ngòi” là người đã đến gần sự cứu rỗi nhưng vẫn chưa sinh “trái của sự trọn lành”.
Đất tốt (Lu 8:8,15): mới thật sự sinh bông trái. Đó là người nghe Lời Đức Chúa Trời, hiểu và tiếp nhận vào lòng. Họ được cứu và bày tỏ sự cứu rỗi qua đời sống kết quả (ITe 2:13 IPhi 1:22-25). Không phải ai cũng sinh bông trái giống nhau (Mat 13:8), nhưng mọi người tin Chúa thật sẽ sinh trái theo đời sống thuộc linh.Trái đó có thể là: đem người khác đến với Đấng Christ (Ro 1:13), dâng hiến cho công việc Đức Chúa Trời (Ro 15:25-28), làm việc lành (Co 1:10), bày tỏ phẩm chất Cơ Đốc nhân (Ga 5:22-23) hoặc ngợi khen Đức Chúa Trời (He 13:15).
Ví dụ này chứng tỏ Chúa không xúc động vì có nhiều người theo Ngài. Ngài biết đa số họ không thực sự muốn “nghe” Đạo và tiếp nhận vào lòng. Ngài lấy ví dụ này cốt để khích lệ môn đệ trong chức vụ sắp tới của họ và khích lệ chúng ta hôm nay. Khi xem lại mức độ tiến triển về phương diện bồi linh, truyền giảng, làm chứng theo kế hoạch trong một tháng hay một năm, bạn sẽ thắc mắc không biết vì sao mùa gặt “thất thu” đến thế. Lỗi không do người gieo giống hay hạt giống, vấn đề là do đất gieo. Lòng người sẽ không quy phục Đức Chúa Trời, không muốn ăn năn và tiếp nhận Đạo để được cứu rỗi.
Mục sư A.W.Tozer cho rằng: “Đức tin trước tiên đến với tai người nghe chớ không phải cái đầu hay cân nhắc”. Đức tin không phải là vấn đề về chỉ số thông minh hay trình độ học vấn, đó là vấn đề về sự dọn lòng khiêm nhường để tiếp nhận lẽ thật từ Đức Chúa Trời (Gia 1:19-21). Người hiểu biết hay kẻ khôn ngoan đều mù loà trước những lẽ thật mà những con trẻ có thể hiểu cách dễ dàng (Mat 11:20-26)!
Nghe và bày tỏ Đạo (Lu 8:16-18): Môn đồ bối rối vì Chúa dùng những ví dụ này để dạy họ, nên đã yêu cầu Ngài giải thích (Lu 8:9-10 Mat 13:10-17). Lời đáp của Chúa dường như muốn nói rằng Ngài dùng những ví dụ này để giấu đám đông về lẽ thật, nhưng ngược lại, điều Ngài giảng dạy qua các ví dụ ấy cũng là lẽ thật và Lu 8:5-8 làm rõ điều này. Lời dạy dỗ của Ngài là ánh sáng cần phải được thắp lên và soi ra hầu tội nhân có thể được cứu.
Từ thí dụ có nghĩa là “đặt bên cạnh”. Thí dụ là một câu chuyện nhằm dạy một điều mới bằng cách đặt chân lý bên cạnh một điều quen thuộc. Mọi người đều biết hạt giống và đất, nên “Bài giảng về người gieo giống” khiến họ quan tâm. Những ai bàng quan hoặc kiêu ngạo sẽ nhún vai cho rằng không quan trọng. Những ví dụ của Chúa đã thu hút sự chú ý của những kẻ thờ ơ, bàng quan và thức tỉnh những người quan tâm.
Một thí dụ bắt đầu như một hình ảnh quen thuộc đối với người nghe. Nhưng khi bạn xem kỹ hình ảnh ấy, nó sẽ trở nên “một chiếc gương” để bạn nhìn thấy chính mình trong đó, cũng có nhiều kẻ không thích nhìn thấy bản thân mình. Điều đó giải thích lý do có một số người nghe Lời Chúa rất tức giận vì những ví dụ này, thậm chí tìm cách giết Ngài. Nếu chúng ta nhìn nhận mình là tội nhân khốn khó muốn được cứu giúp, khi ấy “chiếc gương” trở nên “cửa sổ” để ta thấy Đức Chúa Trời và ân điển Ngài. Để hiểu và áp dụng ví dụ cách có ích đòi hỏi ta phải có sự thành tâm và lòng khiêm nhường, nhưng nhiều người nghe Lời Chúa không có 2 phẩm chất này.
Nghe và hiểu Lời Chúa là điều rất cần thiết, vì chúng ta có nhiệm vụ phải chia sẻ Lời Ngài cho kẻ khác. Những ai tiếp nhận hạt giống của Lời Chúa đều sẽ trở nên người gieo giống, người đem ánh sáng, người rao truyền Lẽ thật của Đức Chúa Trời (ITe 1:5-8). Nếu giữ điều ấy cho riêng mình, chúng ta sẽ mất hết, nhưng nếu chia sẻ ra, chúng ta sẽ nhận lãnh nhiều hơn nữa.
Nghe và làm theo Đạo (Lu 8:19-21): Ma-ri mẹ Chúa Giê-xu cùng các anh em Ngài lo lắng về Ngài và rất muốn gặp Ngài (Mat 13:55-56 Cong 1:14). Bạn hữu Ngài đều cho rằng Ngài đã “mất trí khôn” (Mac 3:21), có lẽ gia đình Ngài cũng đồng tình với họ. Nhân cơ hội này Chúa giảng một bài học thuộc linh khác: Là thành viên trong “gia đình thuộc linh” của Ngài còn quan trọng hơn bất cứ mối liên hệ con người nào, vì nó dựa trên sự vâng theo lời Đức Chúa Trời. “Nghe” Lời Chúa chưa đủ, ta còn phải “gìn giữ” Lời Ngài (Lu 8:15).
Trong một loạt bài giảng luận ở đài phát thanh, tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc làm theo Lời Chúa và áp dụng vào đời sống (Gia 1:22-25). Tôi nhắc nhở các thính giả rằng chúng ta rất dễ tự hào mình là người “thuộc linh”, vì chúng ta từng nghe hết Mục sư này đến Mục sư khác, ghi chép cẩn thận, nhưng chẳng bao giờ thực sự áp dụng điều đã học. Chúng ta đang tự lừa dối mình!
Có một thính giả nói rằng lời giảng của tôi khiến bà tức giận, nhưng sau đó bà đối diện với sự thật và thấy rằng: bà chỉ là “người nghe” chớ không phải “người làm theo” Lời Chúa. Bà bắt đầu nghe bài giảng qua đài phát thanh ít hơn, nhưng nghe chú tâm hơn và áp dụng điều đã nghe. Bà viết: “Phương pháp học Kinh Thánh mới này đã thay đổi tôi. Kinh Thánh trở nên một cuốn sách mới mẻ đối với tôi và đời sống tôi đã đổi mới! ”
Là môn đệ Chúa, chúng ta phải lưu tâm đến điều mình nghe (Mac 4:24) và cách chúng ta nghe (Lu 8:18) vì chúng ta phải chịu trách nhiệm trước mặt Đức Chúa Trời về điều này. Lắng nghe những điều chân thật với thái độ thiếu nghiêm túc hoặc những điều giả dối cũng sẽ cướp đi lẽ thật và phước hạnh của chúng ta. Nếu ta trung tín nghe và chia sẻ Lời Chúa, Ngài sẽ ban thêm cho chúng ta. Nhưng nếu không soi ra sự sáng, chúng ta sẽ mất những gì mình đang có. Nghe Lời Đức Chúa Trời thật sự là một vấn đề nghiêm túc!
2. Trắc nghiệm về sự ghi nhớ Lời Chúa (Lu 8:22-56)
Sau khi Chúa đã phán những “ví dụ về Nước Đức Chúa Trời” (Mat 13:1-52) các môn đệ có lẽ cảm thấy mình như những nghiên cứu sinh trong “Trường Đức tin”! Giờ đây, họ hiểu ra những lẽ mầu nhiệm đã ẩn giấu đối với các thầy thông giáo và cả những tiên tri thời Cựu Ước. Điều họ đã không nhận ra (và chúng ta cũng vậy) đó là đức tin phải được trắc nghiệm trước khi có thể được nhìn nhận. Đây là bài học về lẽ thật thuộc linh, nhưng áp dụng lẽ thật vào từng trải của cuộc sống lại là một vấn đề hoàn toàn khác biệt.
Sa-tan chẳng hề quan tâm đến mức độ học Kinh Thánh của chúng ta khi chúng ta không sống theo lẽ thật đã học. Nếu lẽ thật chỉ nằm trong trí tuệ, lẽ thật đó mới chỉ là lý thuyết và không bao giờ ghi vào lòng người ngoại trừ nó được áp dụng bằng ý chí. “Lấy lòng tốt lành làm theo ý muốn Đức Chúa Trời” (Eph 6:6) là điều Đức Chúa Trời mong mỏi ở con cái Ngài. Sa-tan biết rằng lẽ thật có tính chất “lý thuyết” chẳng có gì nguy hiểm, chỉ có lẽ thật được “thực hành” mới đáng sợ!
Bạn hãy nhìn xem Chúa Giê-xu khi Ngài đối diện 4 thách thức đức tin và đắc thắng ra sao. Hôm nay, những người tin theo Ngài cũng đối diện với những thách thức đó và có thể đắc thắng bởi đức tin.
Nghịch cảnh (Lu 8:22-25): Chúa Giê-xu đã mỏi mệt sau một ngày dài giảng đạo, Ngài đi ngủ khi thuyền rời Ca-bê-na-um sang bờ bên kia. Trước khi ngủ, Ngài dặn môn đệ và đó cũng là lời báo trước: “Hãy qua bên kia hồ”. Lẽ ra, lời này đã khích lệ và giục lòng mạnh mẽ đối với môn đệ Ngài suốt thời gian bão nổi lên, nhưng đức tin họ thật kém cỏi (Mat 8:26).
Khi đoàn du lịch chúng tôi nhổ neo đi từ Ti-bê-ri-át đến Ca-bê-na-um, tôi hỏi người hướng dẫn rằng có bao giờ anh gặp cơn bão giữa biển Ga-li-lê chưa. Anh trợn mắt đáp: “Ồ, tôi mong chuyện đó chẳng bao giờ xảy đến với mình! ” Đó là tình trạng những cơn gió mạnh đột ngột thổi xoáy vào biển hồ ở độ sâu 600 feet dưới mực nước biển! Khi luồng khí lạnh và nóng gặp nhau tại lòng chảo thiên nhiên này cơn bão chắc chắn sẽ nổi lên.
Các môn đệ sợ hãi, nhưng Chúa Giê-xu thì không! Ngài vẫn ngủ trong niềm tin rằng Cha trên trời đang nắm trọn quyền kiểm soát (Thi 89:8,9). Quá kinh hãi các môn đệ đánh thức Ngài, xin Ngài cứu họ. Danh hiệu “thầy” được dùng ở đây cũng giống như danh hiệu Phi-e-rơ đã dùng trong Lu 5:5. Dĩ nhiên vấn đề của họ không phải là bão tố bên ngoài mà là sự vô tín trong họ. Thật ra sự vô tín của họ nguy hiểm bội phần hơn cơn bão!
Từ “quở (trách)” thường được Chúa Giê-xu dùng khi đối phó với ma quỉ (Lu 4:35,41 Lu 9:42). Có thể Sa-tan đã núp sau cơn bão dữ dội này với cố gắng huỷ diệt Chúa Giê-xu hay ít ra cũng cản bước Ngài đến với những người bị quỉ ám tại Ga-đa-ra. Nhưng chỉ bởi lời phán Chúa đã khiến gió và biển yên lặng. Thường thì sau khi gió lặng biển vẫn còn động trong nhiều giờ. Nhưng trong trường hợp này mọi sự đều yên lặng tức khắc và cứ giữ nguyên như vậy (Thi 148:8).
Các môn đệ đã thất bại qua cuộc trắc nghiệm đức tin này vì họ không ghi nhớ Lời Chúa rằng Ngài sẽ qua bờ bên kia. Chúng ta có thể nói rằng đức tin không phải là sự tin tưởng bất chấp mọi hoàn cảnh. Nó chính là sự vâng lời bất chấp mọi cảm xúc và hậu quả. Các môn đệ nhìn quanh chỉ thấy mối nguy hiểm và chăm vào sự sợ hãi mà không hướng niềm tin để nhìn thấy Đức Chúa Trời. Đức tin và sự sợ hãi không thể tồn tại trong một tấm lòng.
Một phụ nữ đã nói với D.L.Moody rằng: “Tôi đã tìm thấy một lời hứa kỳ diệu! ” rồi bà trích dẫn Thi 56:3: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa”. Moody đáp: “Tôi xin nhắc bà một lời hứa khác” và ông trích dẫn Es 12:2 “Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi”.
Sa-tan (Lu 8:26-39): Có 2 người bị quỉ ám đến gặp Chúa Giê-xu khi Ngài đến Ga-đa-ra (Mat 8:28), nhưng có một người vừa thấy Ngài đã la inh ỏi. Cả 2 đều ở trong tình trạng đáng thương: loã lồ, sống nơi mồ mả, dữ tợn, nguy hiểm, là mối đe doạ cho mọi người trong vùng và bị một “quân đoàn quỉ” khống chế. (Quân đoàn La Mã có khoảng 6.000 người! ) Sa-tan là kẻ trộm chỉ đến để huỷ diệt và cướp đi những gì tốt lành của người thuộc về nó (Gi 10:10). Không có quyền lực nào của con người hay sự ràng buộc có thể điều khiển hoặc thay đổi những kẻ nô lệ cho ma quỉ. Họ chưa có hy vọng nơi Đấng Christ.
Ma quỉ cũng có niềm tin (Gia 2:19) nhưng không phải là đức tin cứu được người khác. Chúng tin rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời có quyền trên chúng.Chúng tin vào sự đoán phạt trong tương lai (Mat 8:29) và nơi đau đớn đời đời mà chúng sẽ bị Chúa giam (Lu 8:31). Ma quỉ cũng tin nơi sự cầu nguyện và chúng xin Chúa đừng khiến chúng xuống vực sâu. Chúng xin được nhập vào bầy heo và được Chúa chấp nhận.
Lẽ nào Chúa Giê-xu lại có quyền để cho quân đoàn quỉ tiêu diệt bầy heo 2000 con, điều có thể khiến các chủ heo phá sản? Đức Chúa Trời là chủ của muôn vật (Thi 50:10-11) nên Ngài có thể quyết định điều gì theo ý Ngài. Hơn nữa, hai con người này còn đáng giá hơn bầy heo kia (Mat 12:12). Lẽ ra những người ở đây phải cảm ơn Chúa vì Ngài đã trừ khỏi làng họ 2 hiểm hoạ này, nhưng ngược lại, họ xin Ngài lìa khỏi xứ họ! Thật là một sự thay đổi hoàn toàn ở 2 con người này. Có lẽ bạn nghĩ những người chứng kiến phép lạ này sẽ mời Chúa ở lại để chữa lành cho những kẻ khác. Nhưng rõ ràng đồng tiền đối với họ còn quan trọng hơn sự thương xót nên họ đã xin Ngài lìa khỏi đó.
Người được Chúa chữa khỏi quỉ ám xin được ở với Ngài và hầu việc Ngài. Con người vừa mới được đổi mới ấy có một khao khát thật đáng quí biết bao! Anh ta có suy nghĩ thuộc linh sâu sắc hơn mọi người khác. Dù chưa có sự chuẩn bị làm môn đệ Chúa, nhưng anh ta có thể hầu việc Ngài với tư cách là một chứng nhân cho Ngài, khởi đầu từ gia đình cho đến bà con và bằng hữu người ngoại. Chúa Giê-xu không muốn những người Do Thái được chữa lành rao ra công việc Ngài, nhưng lại bảo người ngoại thuật cho kẻ khác điều Ngài làm cho họ và đó là ý muốn Ngài.
Bệnh tật (Lu 8:40-48): Khi Chúa trở lại Ca-bê-na-um, dân chúng đều mong đợi Ngài, đặc biệt có một người đàn ông và một đàn bà gặp chuyện đau buồn đến xin Ngài cứu giúp. Sự khác biệt giữa 2 người này thật đáng chú ý, vì nó cho thấy những người đến nhờ cậy Chúa ở những tầng lớp xã hội khác nhau. Người đàn ông tên Giai-ru, nhưng người đàn bà lại vô danh.Giai-ru là người thuộc giai cấp thượng lưu giàu có, còn người đàn bà thuộc giai cấp thấp hèn và đã tốn hết tiền của để chạy chữa căn bệnh của bà. Người đàn ông cầu xin Chúa chữa cho con gái mình, người đàn bà hy vọng bản thân mình được chữa lành, cả 2 đều sấp mình nơi chân Chúa. Giai-ru hưởng 12 năm sống hạnh phúc với đứa con gái nhỏ của mình, nhưng giờ đây ông sắp phải mất nó. Người đàn bà trải qua 12 năm khổ sở vì bệnh tật, giờ đây chỉ mong sao được khoẻ mạnh. Bà có một nhu cầu giấu kín, một gánh nặng đeo đuổi bà suốt 12 năm. Gánh nặng ấy ảnh hưởng đến sức khoẻ khiến bà sống vất vả, nó cũng tác động đến tinh thần bà vì bệnh mất huyết khiến bà bị ô uế về mặt hình thức nên không thể dự phần trong sinh hoạt tôn giáo (Le 15:19-22). Bà ở trong tình trạng ô uế, cơ cực, chán nản, tuyệt vọng. Nhưng bà đã đến với Chúa Giê-xu và nhu cầu bà được đáp ứng. Đức tin bà dường như có vẻ “mê tín” nhưng Chúa tôn trọng về đức tin đó. Bà biết Chúa từng chữa lành cho kẻ khác nên cũng muốn Ngài chữa cho mình. Bà có thể viện nhiều lý do - đám đông chen lấn quanh Chúa chữa trị 12 năm rồi chẳng khá gì, bà không phải là người quan trọng Chúa đang trên đường đến chữa cho con gái Giai-ru. Nhưng bà quyết không để bất cứ điều gì ngăn cản con đường bà đến với Chúa.
Áo choàng của người đàn ông Do Thái thường có 4 tua màu xanh ở các chéo áo, hình thức này nhắc nhở họ phải vâng theo mệnh lệnh Đức Chúa Trời (Dan 15:37-40 Phu 22:12). Người Pha-ri-si làm theo luật này quá mức, muốn cho người khác thấy “sự thánh thiện” của họ (Mat 23:5). Chúng ta không biết vì sao người đàn bà quyết định rờ trôn áo Chúa Giê-xu, nhưng Ngài biết có ai đó đã dùng niềm tin rờ áo Ngài và được lành bởi quyền phép Ngài. Sự lành bệnh xảy ra tức thì và thật hoàn hảo!
Vì sao Chúa muốn người đàn bà làm chứng giữa công chúng? Điều này không khiến bà bẽ bàng sao? Hoàn toàn không phải thế. Việc bắt đầu với sự xưng nhận công khai là vì lợi ích cho bà. Đây là dịp tiện để bà xưng nhận Đấng Christ và tôn vinh Đức Chúa Trời. Nếu bà lẩn khuất giữa đám đông, chắc đã không thể gặp Chúa cách riêng tư hoặc nghe những lời đảm bảo và yên ủi của Ngài (Lu 8:18) Lời xưng nhận của bà cũng là sự khích lệ đối với Giai-ru, người sắp biết tin về cái chết của con gái mình. (Có lẽ ông trách cứ người đàn bà này vì đã trì hoãn thời gian) 12 năm đau khổ của bà đã chấm dứt. Chúa Giê-xu chữa lành bà, Ngài cũng sẽ giúp Giai-ru. Bà là chứng cớ về quyền năng của đức tin. Thật vậy, bà không bày tỏ một “đức tin vĩ đại” nhưng Chúa vẫn đẹp lòng và chữa lành bệnh tật bà.
Tóm lại, chứng cớ của người đàn bà này như một sự quở trách đối với đám đông. Bạn có thể là thành phần thuộc đám đông ấy, và chẳng bao giờ hưởng phước hạnh của sự gần Chúa Giê-xu! “Lấn ép” Ngài là một việc còn “rờ đến Ngài” bằng đức tin là một việc khác. Đức tin ta có thể chưa mạnh mẽ, nhưng ta có một Đấng Christ quyền năng, Ngài sẽ đáp ứng nhu cầu chúng ta dù chỉ bởi “một cái rờ” tại trôn áo Ngài!
Ông James Simpson - nhà phát minh chất cloroform, lúc hấp hối được một người bạn yên ủi: “Chẳng bao lâu anh sẽ được yên nghỉ nơi lòng Chúa”. Simpson khiêm tốn đáp: “Chẳng biết tôi có thể hay không, nhưng tôi nghĩ, tôi đã nắm được trôn áo Ngài”.
Sự chết (Lu 8:49-56): Người cai nhà hội là người có tuổi đời thâm niên chịu trách nhiệm trong những lễ thờ phượng và lo về các tiện nghi trong nhà hội. Ông lo về việc sắp xếp người cầu nguyện, đọc Kinh Thánh và giảng luận. Ông là người đứng đầu các trưởng lão nhà hội và là người tiếng tăm, giàu có. Để xin Chúa giúp đỡ, ông đã phải hết sức khiêm nhường hạ mình và dạn dĩ đến với Ngài. Bởi lúc bấy giờ các chức sắc tôn giáo muốn lập mưu giết Ngài.
Khi Giai-ru ra khỏi nhà, đứa con gái bệnh quá nặng, ở tình trạng hấp hối. Khi Chúa rời đám đông đi cùng với Giai-ru, đứa con gái đã chết. Người nhà Giai-ru nghĩ rằng Chúa chỉ có thể chữa người còn sống, nên họ khuyên Giai-ru từ bỏ ý định xin cứu giúp và về nhà. Nhưng Chúa đã yên ủi người cha quẫn trí này bằng một lời đầy hy vọng.
Cảnh tượng tại nhà Giai-ru có thể làm nản lòng bất cứ ai! Những kẻ khóc mướn có mặt sẵn tại đó, họ khóc lóc, kể lể đủ điều. Bà con và người lân cận xúm quanh.Người Do Thái thời bấy giờ sẵn sàng đóng góp thời gian, công sức để phô bày hoặc chia sẻ đau khổ của họ. Xác chết sẽ được chôn nội trong một ngày, ngay sau khi được tắm rửa và xức dầu.
Chúa chủ động trong hoàn cảnh này và bảo đám đông thôi than khóc vì đứa con gái chỉ ngủ chớ không chết. Dĩ nhiên, đứa con gái này thật đã chết, vì linh hồn đã lìa khỏi xác (Lu 8:55 Gi 2:26). Tuy nhiên đối với Chúa, “chết” chỉ là “ngủ”. Hình ảnh này thường được dùng trong Tân Ước để mô tả sự chết của những người tin Chúa (Gi 11:11-14 Cong 7:59-60 ICo 15:51 ITe 4:13-18). “Ngủ” là kinh nghiệm bình thường không làm chúng ta sợ, nhưng chúng ta cũng không nên sợ sự chết. Đó là lúc thân xác ngủ chớ không phải linh hồn, vì linh hồn của người tin Chúa sẽ ở cùng Đấng Christ (Phi 1:20-24 IICo 5:6-8). Khi sống lại, thân thể sẽ thức dậy và được vinh hiển, con cái Đức Chúa Trời sẽ mang hình ảnh giống Đấng Christ (IGi 3:1-2).
Những kẻ than khóc cười nhạo Chúa Giê-xu vì họ biết đứa con gái đã chết, và chết là chấm dứt tất cả. Nhưng họ không nhận biết Chúa là “sự sống lại và sự sống” (Gi 11:25-26). Ngài chẳng từng khiến con trai bà goá sống lại đó sao? Ngài chẳng kể cho Giăng Báp-tít về người chết được sống lại sao? (Lu 7:22). Rõ ràng những kẻ than khóc không tin các chứng cớ đó và họ cho rằng Chúa Giê-xu chẳng biết gì!
Chúa bảo tất cả ra ngoài! Đối với Ngài, hoàn cảnh này thật tế nhị và có ý nghĩa nên Ngài không thể để cho những kẻ vô tín chứng kiến. Ngài chỉ cho Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng và cha mẹ đứa con gái cùng Ngài vào phòng nơi đứa con gái nằm.Ngài cầm tay đứa con gái và phán bằng tiếng Aram:”Ta-bi-tha-cu-mi! ” con ơi, hãy chờ dậy! Đây không phải là câu thần chú, nhưng là mệnh lệnh từ Chúa của sự sống và sự chết (Kh 1:17,18). Linh hồn đã hoàn lại nơi thể xác đứa con gái, nó ngồi dậy và bắt đầu đi lại trong phòng. Chúa bảo cha mẹ cho đứa con gái ăn, vì có lẽ suốt thời gian bệnh đứa con gái chẳng ăn được gì. Chúa cũng dặn họ đừng loan tin này ra, nhưng tin đã đồn ra khắp cả xứ! (Mat 9:26).
Sự sống lại là bức tranh về phương cách Chúa Giê-xu cứu những tội nhân hư mất và khiến họ sống lại từ sự chết thuộc linh (Gi 5:24 Eph 2:1-10). Các sách Phúc Âm ghi được 3 sự sống lại, dù Chúa đã khiến nhiều người khác sống lại. Ở mỗi trường hợp, người được khiến sống lại đều có bằng chứng của sự sống: Đứa con trai của bà goá bắt đầu nói (Lu 7:15) con gái Giai-ru đi lại và ăn uống, La-xa-rơ được giải thoát khỏi mớ vải liệm (Gi 11:44). Khi một tội nhân hư mất được sống lại từ kẻ chết, bạn có thể thấy điều đó qua hành động người ấy nói, đi đứng, ăn uống, trang phục (Co 3:1) Bạn không thể che giấu được sự sống!
Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng cùng đi với Chúa Giê-xu và chứng kiến 3 trường hợp đặc biệt, và đây là trường hợp thứ nhất. Trường hợp thứ hai xảy ra ở núi Hoá hình (Lu 9:28). Trường hợp thứ ba xảy ra tại vườn Ghết-sê-ma-nê (Mac 14:33). Campbell Morgan cho rằng mỗi sự kiện đều có liên quan đến sự chết và qua những từng trải đó ba môn đệ đã nhận được những bài học quý báu về Chúa Giê-xu và sự chết.
Tại nhà Giai-ru, họ biết rằng Chúa Giê-xu là Đấng đắc thắng sự chết. Trên núi Hoá hình, họ khám phá rằng Ngài sẽ được vinh hiển qua sự chết. Và tại vườn Ghết-sê-ma-nê họ hiểu rằng Ngài bị nộp cho sự chết! Gia-cơ là người đầu tiên trong số 12 môn đệ chịu chết (Cong 12:1-2), Giăng chết sau cùng và sự chết của Phi-e-rơ cũng được Chúa Giê-xu bảo trước (Gi 21:18-19 IIPhi 1:13-21). Ba người ấy cần phải học những bài học này, và chúng ta ngày hôm nay cũng vậy.
bottom of page