top of page

LU-CA (3)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Phúc-Âm



Người...

...Pha-ri-si là những người rất chăm về luật pháp (Mat 23:2-3) nên họ có quyền hỏi Chúa Giê-xu rằng khi nào Nước Đức Chúa Trời sẽ hiện ra. Các thầy luật Do-thái thường bàn luận những vấn đề này giữa công chúng, và Chúa đã trả lời cho họ cách thoả đáng. Tuy nhiên, Ngài dùng những bài học này cốt để dạy các môn-đệ.


Ở Lu 17:20, từ “rõ ràng” được sử dụng ở đây đối chiếu với từ Hy-lạp cổ nghĩa là “có thể quan sát qua những dấu hiệu”. Từ này bao hàm ý theo dõi, rình rập hoặc sự điều tra cách khoa học. Vấn đề Chúa đưa ra đó là Nước trời sẽ không đến rõ ràng để người ta có thể biết trước khi nào nó xuất hiện hay theo dõi được diễn tiến của nó.


Câu hỏi của người Pha-ri-si đưa ra hoàn toàn chính đáng, nhưng cũng thật đáng buồn, vì Chúa đã giảng dạy giữa họ suốt 3 năm, mà họ vẫn còn ở trong sự tối tăm thuộc linh. Họ không hiểu Chúa là ai và Ngài đang tìm kiếm để hoàn thành điều gì. Quan điểm về Vương quốc mới của họ mang tính “chính trị” hơn thuộc linh, mang tính “Do-thái” hơn phổ quát. Chúa không phủ nhận rằng sẽ có một vương quốc trên đất trong tương lai, nhưng Ngài muốn nói đến tầm quan trọng của vương quốc thuộc linh mà người ta chỉ có thể vào được qua sự tái sinh (Gi 3:1-8).


Câu nói “Nước Đức Chúa trời ở trong các ngươi” đã làm cho các dịch giả Kinh Thánh và những nhà giải nghĩa phải suy nghĩ bao thế kỷ qua. Họ đưa ra nhiều giải thích. Có một điều chúng ta biết chắc, đó là Chúa không muốn nói với những người Pha-ri-si vô tín rằng họ có Nước Đức Chúa Trời trong lòng! Chúa muốn nói: “Đừng tìm kiếm Nước Trời ở bên ngoài nếu trước tiên ngay trong lòng các ngươi chưa có Nước Đức Chúa Trời” (Rô 14:17). Đồng thời Chúa muốn nói: “Ta ở giữa các ngươi là điều có ý nghĩa, vì ta là Vua. Làm sao các ngươi có thể vào Nước Trời nếu các ngươi chối bỏ Vua?” (Lu 19:38-40). Người Pha-ri-si rất quan tâm đến những biến cố tương lai nhưng lại không để ý đến những cơ hội trong hiện tại (Lu 12:54-57).


Sau khi trả lời những người Pha-ri-si, Chúa cho môn đệ biết về sự đến của Nước Đức Chúa Trời. Ngài dặn họ đừng quá nghĩ đến sự tái lâm của Ngài để rồi không làm gì cả, nhưng phải noi dấu chân Ngài. Đây là lời khuyên bổ ích cho những ai chẳng làm gì mà chỉ nghiên cứu những lời tiên tri. Hẳn chúng ta ai cũng nôn nóng chờ đợi ngày Chúa tái lâm, nhưng đồng thời chúng ta phải lo làm việc Chúa giao để gặp Ngài (Cong 1:6-11).


Trước hết, sự đến của Chúa sẽ tác động đến cả thế giới, nên thật dại dột cho những ai tin theo các tiên tri giả, cho rằng “Ngài ở đây” hoặc “Ngài ở đó!” Hơn nữa, sự đến của Chúa tựa như chớp nhoáng (Mat 24:27,30). Dù những lời tiên tri trong Kinh Thánh giúp chúng ta hiểu đặc điểm chung của thời kỳ Chúa tái lâm, nhưng không thể biết rõ ngày và giờ (Lu 12:40,46; Mat 25:13). Xem những dấu lạ rồi cố tính toán ngày giờ Chúa trở lại, thật là điều vô nghĩa!


Chúa dùng 2 biến cố thời Cựu-ước để bày tỏ sự chắc chắn và bất ngờ trong ngày Chúa trở lại: đó là biến cố trận nước lụt (Sa 6:1-8:22) và sự huỷ diệt thành Sô-đôm (Sa 19:1-38).

Trong 2 biến cố ấy, người thế gian chỉ mải mê ăn uống, cưới gả, mua bán mà chẳng hề tỉnh thức. Trong những năm trước khi nước lụt xảy ra, Nô-ê đã làm chứng cho những người lân cận nhưng lòng họ vẫn không thay đổi (IIPhi 2:5). Nô-ê cùng vợ, 3 con trai và các dâu của ông, tất cả chỉ có 8 người được cứu sống vì họ đã bước vào tàu. Phi-e-rơ xem đây như một minh hoạ về sự cứu rỗi mà Cơ-đốc nhân nhận được bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu (IPhi 3:18-22).


Nô-ê và Lót sống trong thời kỳ niềm tin con người chao đảo, đạo đức bị biến chất, chẳng khác gì với thời đại chúng ta. Trong đời Nô-ê, dân số phát triển đáng kể (Sa 6:1), sự gian ác của con người gia tăng (Sa 6:5) và bạo lực dẫy đầy trên đất (Sa 6:11,13).

Trong đời Lót, sự tham lam tột cùng của dân Sô-đôm và Gô-mô-rơ khiến Đức Chúa Trời vô cùng gớm ghiếc, đến nỗi Ngài quyết định tiêu diệt 2 thành ấy. Chỉ có Lót, 2 con gái và vợ ông (là người sau đó cũng bị hành phạt) được cứu khỏi sự đoán phạt kinh khiếp này.


Lu 17:30-36 mô tả điều sẽ xảy đến khi Chúa Giê-xu trở lại xét đoán thế gian, đánh bại kẻ thù Ngài và lập Vương quốc Ngài trên đất (Kh 19:11-20:6).

Các tín hữu của mọi thời đại có thể lưu ý những câu này như chính sự cảnh tỉnh dành cho mình nhưng chúng được áp dụng cách đặc biệt cho dân Y-sơ-ra-ên vào cuối thời đại (Mat 24:29-44). Khi Chúa đến rước Hội thánh Ngài lên trời, điều này sẽ xảy ra “trong giây phút, trong nháy mắt” (ICôr 15:52). Không ai có phần trong sự được cất lên với Chúa lại phải lo mình đang ở trên mái nhà hoặc nơi đồng ruộng hoặc muốn đem cái gì đó ra khỏi nhà! Khi Chúa trở lại, sự hiện đến của Ngài sẽ được báo trước bởi một dấu lạ từ trời (Mat 24:30-31), có lẽ một số người cố chạy về nhà để giữ cho mình cái gì. Hãy nhớ đến vợ của Lót!


Động từ “đem đi” ở Lu 17:34-36 không có nghĩa là “được đem lên trời” nhưng “bị đem đi để chịu sự phán xét” (Mat 24:36-41). Người ở lại chính là người tin Chúa sẽ được hưởng Nước Thiên đàng. Nô-ê và gia đình ông được “để lại” để hưởng một cuộc sống mới, trong khi mọi dân trên đất bị nước cuốn đi. Lót và các con được để lại trong khi dân Sô-đôm và Gô-mô-rơ bị đem đi khi lửa và diêm sanh huỷ diệt 2 thành phố này.


Hình ảnh đêm và ngày ở Lu 17:34-36 cho thấy cả thế gian sẽ chứng kiến sự tái lâm của Chúa trong vinh hiển “Kìa Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trông thấy...” (Kh 1:7).


Các môn-đệ được nghe Chúa nói về người bị đem đi và để lại 3 lần, nên họ hỏi Ngài “ở tại đâu?”, Câu trả lời của Chúa tương tự một châm ngôn: “Như chim ó tụ tập quanh xác chết, thì những kẻ hư mất sẽ bị biệt riêng ra để chịu sự đoán phạt” (xem Mat 24:28).

Cuộc chiến cuối cùng được mô tả trong Kh 19:17-21 thật giống với hình ảnh những con chim ăn thịt người chết được ăn uống no nê trên những xác chết.


Mặt khác, khi Chúa trở lại đoán phạt kẻ ác, sẽ có sự phân cách giữa người được cứu và kẻ hư mất. Dù ngày hay đêm, dù mọi người đang làm việc hay đang ngủ, sự phân cách và xét đoán này sẽ xảy ra. Những ai được cứu sẽ được ở lại để hưởng Nước thiên đàng vinh hiển, còn những kẻ hư mất sẽ bị đem đi để chịu đoán phạt.


Mặc dù lời giải thích ở những câu này trước tiên dành cho người Y-rơ-sa-ên trong thời kỳ sau rốt, nhưng cũng cho Hội Thánh Chúa thấy tầm quan trọng của tinh thần sẵn sàng khi Chúa đến. Chúng ta không nên giống vợ Lót là người quá “vương vấn” thành Sô-đôm nên đã quay lại nhìn dù đã được thiên sứ dặn trước (Sa 19:17,26). Ngày nay có nhiều người tự xưng là Cơ-đốc nhân, nhưng sự giả dối của họ sẽ bị vạch trần khi Chúa trở lại (ITês 5:1-11)! Lời Chúa dạy ở Lu 17:33 tương tự với Mat 10:39; Lu 9:24 và Gi 12:25. Đó là nguyên tắc cơ bản trong đời sống Cơ-đốc nhân. Cách duy nhất để cứu sự sống bạn, đó là chịu mất nó vì Đấng Christ và vì Phúc-Âm.


Chúa Giê-xu phác họa nền văn minh như một “xác chết thối rữa” và sẽ có một ngày phải chịu sự đoán phạt. Người tin Chúa có óc sáng suốt sẽ hiểu những biến cố xảy đến với chúng ta. Chúa vì Hội thánh, có thể trở lại bất cứ lúc nào. Vì vậy, chúng ta không cần tìm kiếm những dấu hiệu nhưng điều chúng ta có thể biết là những biến cố sắp đến sẽ cho thấy bóng của chúng. Khi những điều ấy bắt đầu xảy ra, chúng ta biết rằng ngày Chúa tái lâm đã gần kề (Lu 21:28).


Chúng ta có mong Chúa trở lại không? Chúng ta có thật sự muốn gặp Ngài không?



 


17. NHỮNG CON NGƯỜI ĐỂ HỌC VÀ NHỮNG BÀI HỌC ĐỂ HỌC (Lu 18:1-43)


Chesterfield, một chính khách người Anh đã viết: “kiến thức... có thể có được là do con người đọc và nghiên cứu những mẫu người khác nhau”.


Ông ta muốn đề cập đến “tri thức của thế gian”, nhưng điều ông ta nói cũng áp dụng cho sự hiểu biết về thuộc linh. Con người có thể học biết nhiều điều qua “sách của nhân loại” trong đời sống thường nhật, trong lịch sử, tiểu sử con người hoặc ngay cả trong tiểu thuyết.


Có nhiều “mẫu” người được nói đến trong đoạn Kinh Thánh này và mỗi mẫu người cho chúng ta một bài học. Là một thầy thuốc có lòng thương xót, Lu-ca đã viết về những góa phụ, chính khách, người Pha-ri-si, người thu thuế, trẻ con, người già, người giàu có và kẻ hành khất. Qua sắc thái phong phú của tính cách con người, tôi xin chọn ra 4 mẫu người để chúng ta cùng tìm hiểu. Qua họ, chúng ta sẽ nhận được những bài học ý nghĩa.


1. Một bà góa kiên nhẫn nài xin (Lu 18:1-8)

Lu-ca chú ý đến các bà góa nhiều hơn các sách Phúc-Âm khác (Lu 2:37-38; Lu 4:25-26; Lu 7:11-17; Lu 18:1-8 Lu 20:45-47; Lu 21:1-4).

Vào thời ấy, các góa phụ gặp khó khăn trong việc kiếm sống dù Đức Chúa Trời đã phán dạy dân sự phải chăm sóc họ (Xu 22:22-24; Phuc 14:28-29; Phuc 16:9-15; Thi 146:9; Es 1:17,23; Gie 7:6). Hội thánh ban đầu cũng rất quan tâm đến các tín hữu góa bụa (Công 6:1; ITi 5:3-10; Gia 1:27), đó là một gương tốt cho chúng ta hôm nay noi theo.


Khi suy ngẫm câu chuyện này, bạn hãy xem bối cảnh của nó. Phòng xử án không phải là một tòa nhà đẹp, nhưng chỉ là một lều trại có thể di chuyển từ nơi này sang nơi khác khi quan tòa xử án lưu động trong khu vực của ông. Quan tòa lập chương trình và ngồi xử án giữa trại, chung quanh là các trợ lý. Ai cũng có thể theo dõi diễn tiến xử án từ ở bên ngoài, nhưng chỉ có những ai được chấp thuận mới được xét án. Điều này có nghĩa là phải đút lót cho các trợ lý mới mong được quan tòa xét đơn kiện.


Bà góa này có 3 trở ngại khó vượt qua.

-Thứ nhất, vì là phụ nữ, bà bị cô thế trước pháp luật. Trong xã hội Palestine thời Chúa Giê-xu, phụ nữ không đi đến tòa án. Vì là góa phụ, bà không có chồng cùng đi đến tòa.

-Thứ ba, bà quá nghèo nên không thể “đút lót” dù muốn đi nữa. Chúng ta không lấy làm lạ khi các bà góa nghèo không luôn luôn nhận được sự bảo vệ của luật pháp như đáng phải có.


Qua bối cảnh câu chuyện, chúng ta có thể hiểu nhiều hơn về điều Chúa muốn dạy dỗ. Ngài muốn khích lệ môn-đệ phải cầu nguyện nhiều khi bày tỏ 3 sự tương phản:


(1). Cầu nguyện khác với mỏi mệt (Lu 18:1):

Nếu không cầu nguyện chúng ta sẽ mỏi mệt, đó là điều đơn giản! Từ “mỏi mệt” mô tả một người tin Chúa bị ngã lòng và hèn nhát, muốn trốn chạy. Tôi nhớ có 2 lần tôi bị mỏi mệt về thể chất và đó thật là một cảm giác tồi tệ nhất mà tôi từng trải qua. Tôi cảm thấy mình sắp “ra đi” mà chẳng làm được gì.


Có một sự liên hệ giữa Lời Chúa phán ở Lu 18:1 và ở Lu 17:37. Nếu xã hội tựa như một “xác chết” thối rữa, vậy “không khí” chúng ta đang hít thở dần dần bị ô nhiễm và chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của chúng ta. Khi cầu nguyện, chúng ta đã sử dụng “không khí tinh khiết” từ thiên đàng, giữ cho chúng ta không bị mỏi mệt.


“Cầu nguyện luôn” hoặc “cầu nguyện không thôi” nghĩa là gì? (ITês 5:17) chắc chắn đó không có nghĩa là chúng ta phải liên tục lặp lại các bài cầu nguyện, vì Chúa Giê-xu cũng đã cảnh cáo chống lại loại cầu nguyện này (Mat 6:5-15). Đúng hơn, nó có nghĩa là làm cho sự cầu nguyện trở nên tự nhiên như hơi thở vậy. Nếu không có những lúc bệnh hoạn hoặc bị ngạt thở, chúng ta hiếm khi nghĩ đến hơi thở mình. Sự cầu nguyện cũng phải trở nên một thói quen bình thường trong đời sống chúng ta, là “không khí” chúng ta cần có luôn luôn để sống.


Cầu nguyện còn vượt trên những lời của môi miệng, nó là những ước muốn của lòng chúng ta và bởi đó là những khao khát từ đáy lòng. Tấm lòng chúng ta lúc nào cũng có sự khao khát trước mặt Chúa, dù chúng ta chưa hề mở lời. Vì vậy “cầu nguyện không thôi” nghĩa là có những ước muốn thánh khiết trong ý Chúa, hầu chúng ta luôn ở trong mối liên hệ mật thiết với Cha trên trời và cầu xin những ơn phước từ Ngài.


Bạn hãy chọn lựa: bạn muốn cầu nguyện hay muốn bị mỏi mệt?


(2). Bà góa khác với những người được Đức Chúa Trời chọn: Chúa Giê-xu không nói rằng con cái Đức Chúa Trời giống bà góa này, nhưng Ngài phán điều ngược lại. Vì không như bà góa, chúng ta phải dạn dĩ trong sự cầu nguyện. Chúa lập luận từ điều nhỏ đến điều lớn hơn: “Nếu bà góa nghèo kia còn được một quan án ích kỷ chiếu cố đến, lẽ nào con cái Đức Chúa Trời lại chẳng nhận được nhiều phước hạnh từ nơi Cha trên trời là Đấng đầy lòng yêu thương?” 

Hãy suy ngẫm những tương phản này.

Trước hết, người đàn bà góa này chỉ là một người lạ, nhưng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời được Ngài chăm sóc (Lu 11:13). Người đàn bà góa không có cơ hội nào đến gần quan tòa, nhưng con cái Chúa có cơ hội dễ dàng để đến với Ngài bất cứ lúc nào khi cần được cứu giúp (Eph 2:18; Eph 3:12; He 4:14-16; He 10:19-22). Người đàn bà không bè bạn nơi tòa án, không ai giúp bà ghi vụ kiện vào sổ án.

Bà chỉ có thể đi tới lui bên ngoài trại xử, than thở và kêu cầu lớn tiếng với quan tòa. Khi người tin Chúa cầu nguyện, ngay trên thiên đàng họ có Đấng Christ là Đấng cầu thay (IGi 2:1) và là Thầy tế lễ thượng phẩm (He 2:17-18) lúc nào cũng cầu thay họ trước ngôi Đức Chúa Trời. Khi cầu nguyện, chúng ta có thể mở lời bằng cách kể ra những lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng bà góa lại không có lời hứa nào khi cố gắng thuyết phục quan tòa nghe lời kiện của mình.

Chúng ta không chỉ có những lời hứa thành tín của Đức Chúa Trời mà còn được Đức Thánh Linh giúp đỡ trong sự cầu xin của mình (Rô 8:26-27). Có lẽ sự tương phản lớn nhất, đó là bà góa đã đến tòa án của luật pháp, còn con cái Đức Chúa Trời đến trước “ngôi ơn phước” của Ngài (He 4:14-16).

Bà góa cầu xin vì sự nghèo khổ, còn chúng ta được Đức Chúa Trời dành sẵn mọi của báu đáp ứng nhu cầu chúng ta (Phi 4:19). Điểm được nêu lên thật rõ ràng nếu không cầu nguyện, tình trạng thuộc linh của chúng ta chẳng khác chi một bà góa nghèo khổ. Điều này nhắc nhở chúng ta phải cầu nguyện luôn!


(3). Quan án khác với Cha trên trời: Nếu bạn không hiểu rằng Chúa muốn đưa ra những tương phản này, bạn chắc sẽ cho rằng phải “lý luận” hay “đút lót” điều gì đó cho Đức Chúa Trời mới mong được nhậm lời cầu xin! Đức Chúa Trời không giống vị quan án, vì Ngài là một người Cha đầy lòng yêu thương luôn chú ý đến lời kêu xin của chúng ta, ban cho rời rộng, đáp ứng mỗi nhu cầu và sẵn sàng nhậm lời khi chúng ta kêu cầu Ngài.

Lý do duy nhất khiến quan án giúp bà góa, đó là vì bà có thể sẽ “làm nhức đầu” ông sẽ làm mất uy danh của ông. Đức Chúa Trời đáp lời cầu nguyện của chúng ta vì vinh hiển Ngài và vì lợi ích của chúng ta, Ngài không hề bực bội khi chúng ta đến với Ngài.


Vậy chúng ta giải thích thế nào về “sự trì hoãn” trong những sự nhậm lời, đặc biệt khi Chúa Giê-xu phán rằng Đức Chúa Trời sẽ “vội vàng xét lẽ công bình” (Lu 18:8). Hãy nhớ rằng “sự trì hoãn” của Đức Chúa Trời không phải là sự thụ động nhưng là “sự trì hoãn có dự tính”. Ngài luôn đáp lời cầu xin, bằng không thì Rô 8:28 chắc không thể có trong Kinh Thánh! Đức Chúa Trời hành động qua mọi việc trong mọi lúc, hiệp mọi sự lại để hoàn thành mục đích Ngài, khi chúng ta cầu xin theo ý Chúa (IGi 5:14-18) là lúc Ngài bắt đầu hành động. Có thể bây giờ chúng ta không hiểu được, nhưng rồi có một ngày chúng ta sẽ nhận được sự nhậm lời.


Câu hỏi ở c.8 có liên hệ với điều Chúa Giê-xu dạy ở Lu 17:22-37. “...Con người đến, há sẽ thấy đức tin trên mặt đất chăng?” Thời kỳ sau rốt sẽ không phải là thời kỳ người ta có đức tin mạnh mẽ. Có 8 người được cứu trong đời Nô-ê và chỉ 4 người thoát khỏi Sô-đôm (trong đó một người bị hư mất trên đường đi). Đoạn này giống với ý tưởng ở ITi 4:1-5 và IITi 3:1-9, vẽ lên một bức tranh u tối của thời kỳ sau rốt!


2. Người Pha-ri-si tự lừa dối mình (Lu 18:9-14)

Trong thời gian thi hành chức vụ, Chúa Giê-xu từng vạch trần sự giả hình và vô tín của người Pha-ri-si (Lu 11:39-54). Ngài mô tả họ như những con nợ của Đức Chúa Trời không có khả năng trả nợ (Lu 7:40-50), như những khách mời cố dành cho được chỗ ngồi cao nhất (Lu 14:7-14) và như những đứa con tự hào mình vâng lời cha nhưng không hề quan tâm đến nhu cầu của người khác (Lu 15:25-32). Đáng buồn thay khi người Pha-ri-si tự lừa dối mình và cho rằng Chúa Giê-xu đã nói sai về họ. Câu chuyện này minh hoạ cho bản chất họ.


Người Pha-ri-si tự dối trong sự cầu nguyện, vì ông ta cầu nguyện với chính mình và nói với Đức Chúa Trời (và bất cứ ai khác đang nghe) rằng ông là người tốt như thế nào. Người Pha-ri-si dùng sự cầu nguyện như một phương diện để có được sự tôn trọng của quần chúng, chứ không phải như một sự thờ phượng thuộc linh nhằm làm vinh hiển Đức Chúa Trời (Mat 6:5; Mat 23:14).


Người Pha-ri-si dối chính bản thân, vì cho rằng Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận ông vì những việc ông làm cùng những điều ông đã giữ. Người Do-thái phải kiêng ăn một lần trong năm vào ngày lễ chuộc tội (Le 16:29) nhưng ông đã kiêng ăn 2 lần trong một tuần. Ông dâng 1/10 mọi của cải, dù là những cây dược thảo nhỏ bé trong vườn nhà (Mat 23:23)!


Người Pha-ri-si cũng ngộ nhận về người thâu thuế cùng đứng cầu nguyện trong đền thờ. Người Pha-ri-si nghĩ rằng người thâu thuế là một đại tội nhân, nhưng khi trở về nhà, người thâu thuế được Đức Chúa Trời xưng công bình, còn người Pha-ri-si chỉ thỏa mãn ý riêng mình. “Được xưng công bình” nghĩa là được Đức Chúa Trời xem là người công bình qua sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự (Rô 3:19-4:25)


Người thu thuế cứ đấm ngực vì biết rõ nan đề lớn nhất của mình. Ông cầu xin sự thương xót của Đức Chúa Trời vì biết những trọng tội ông đã gây ra, nhưng người Pha-ri-si do thiếu hiểu biết nên cảm thấy sung sướng trong lòng. Sự kiêu ngạo, kết án người Pha-ri-si, nhưng đức tin đơn sơ của người thu thuế đã cứu ông (Lu 14:11; Es 57:15). Đây là sự lặp lại hình ảnh đứa con hoang đàng và người con cả (Lu 15:11).


3. Chúa Giê Xu với con trẻ (Lu 18:15-17)

Tương phản với hình ảnh người Pha-ri-si kiêu ngạo là những con trẻ được đem đến gần Chúa Giê-xu (Lu 18:15-17). Người Do-thái có lệ hay đem các trẻ nhỏ đến các thầy dạy luật để được chúc phước đặc biệt. Thật kỳ lạ khi các môn-đệ Chúa ngăn cản điều này. Có lẽ họ nghĩ rằng Chúa đã mệt mỏi, cần được nghỉ ngơi, hoặc có thể họ cho rằng Ngài không để ý đến trẻ con.

Suy nghĩ của họ sai lầm biết bao! Đây không phải là lần đầu tiên các môn-đệ muốn đuổi dân chúng đi. Họ muốn để đám đông bị đói khát, nhưng Chúa đã cho đoàn dân ăn (Mat 14:15). Các môn-đệ cố ngăn cản người đàn bà Ca-na-an cầu xin Chúa chữa lành bệnh con gái bà (Mat 15:24), nhưng Chúa đã nhậm lời bà. Vào thời điểm ấy, 12 sứ-đồ vẫn chưa có lòng thương xót như Thầy họ.


Chúa muốn chúng ta trở nên giống như con trẻ (chớ không phải có tính trẻ con, thiếu hiểu biết): một con trẻ hư hỏng minh hoạ cho sự hạ mình, đức tin và sự tin cậy ý thức luôn ngạc nhiên trước sự vật làm cho cuộc sống sinh động. Cách duy nhất để bước vào Nước thiên đàng là phải trở nên như một con trẻ và phải được tái sinh (Gi 3:1-16). Nếu người Pha-ri-si kiêu ngạo kia giống 1 con trẻ, hẳn ông ta đã được xưng công bình khi ra khỏi đền thờ.


4. Người trai trẻ thiếu trung thực (Lu 18:18-34)

Có lẽ vị quan trẻ này là người duy nhất trong các sách Phúc-Âm (Mat 19:20) đã đến với Chúa Giê-xu và ra đi trong tình trạng tệ hại hơn lúc anh ta đến. Tuy vậy, anh ta là người có nhiều điều tốt. Anh ta được biết đến như một người đạo đức, tin kính, sốt sắng, thành tâm và có lẽ đủ tiêu chuẩn là một thành viên trong giáo hội. Tuy nhiên anh đã từ chối đi theo Chúa Giê-xu và ra đi với tâm trạng buồn rầu vô cùng.


Điều gì đã xảy đến với anh?

Thật đơn giản: sự thiếu trung thực! Dù đã đến với đúng Người, đặt một câu hỏi chính đáng và được trả lời thỏa đáng, nhưng anh đã quyết định sai lầm. Vì sao? Vì anh không trung thực với Đức Chúa Trời hoặc với chính mình. Vì vậy anh không thể làm điều Chúa bảo. Anh là chàng trai nông nổi, nói một đằng và làm một nẻo. Hãy suy ngẫm về những lãnh vực thiếu trung thực của anh ta.


Quan điểm về Đấng Christ (Lu 18:18-19):

Những người dạy đạo được người ta gọi là Thầy, nhưng thật khác thường nếu một thầy được gọi là “nhơn lành”. Người Do-thái dành từ này cho Đức Chúa Trời (Thi 25:8; Thi 34:8; Thi 86:5; Thi 106:1).

Điều này cho thấy lý do Chúa Giê-xu hỏi người trai trẻ về ý nghĩa anh muốn dùng khi nói đến từ đó, vì nếu anh thực sự tin Chúa Giê-xu là Đấng “nhơn lành”, vậy anh phải xưng nhận Ngài là Đức Chúa Trời. Khi hỏi câu này, Chúa Giê-xu không muốn chối bỏ Thần tánh Ngài, ngược lại Ngài muốn xác nhận điều đó. Ngài muốn thử lòng người trai trẻ xem anh ta có thực sự hiểu điều mình vừa nói hay không.


Thái độ kế tiếp của người trai trẻ chứng tỏ anh ta không tin rằng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời. Nếu thực sự nghĩ rằng mình đang ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời toàn năng, vậy tại sao anh ta lại khôn khéo bàn luận về luật pháp, khoe khoang về phẩm hạnh mình và không muốn vâng theo lời Chúa chắc chắn anh biết rằng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng và biết tất cả.


Quan điểm về tội lỗi (Lu 18:20-21):

Anh ta cũng có suy nghĩ rất hời hợt về tội lỗi của chính mình. Dĩ nhiên người trai trẻ này thật lòng muốn giữ trọn luật pháp. Thực ra, đây là vấn đề khiến anh ta chạy đến với Chúa Giê-xu (Ga 3:24). Chúa không trích dẫn luật pháp trước mặt anh ta như một phương cách cứu rỗi, bởi vì sự vâng phục luật pháp không cứu được chúng ta. Ngài để luật pháp trước mặt anh ta như một chiếc gương bày tỏ tội lỗi của anh (Rô 3:19-20; Ga 2:21; Ga 3:21).


Tuy nhiên, người trai trẻ này nhìn vào chiếc gương luật pháp thấy mình chẳng có “tì vít” chi trong đời sống. Khi đưa ra điều răn kế tiếp, Chúa không trích dẫn điều răn cuối cùng “ngươi chớ tham...” (Xu 20:17). Chúa biết lòng anh ta cho nên thay vì dạy anh ta về sự tham lam, Ngài bảo anh làm một điều mà một người hà tiện chẳng làm được. Không ai được cứu bởi bố thí của cải cho kẻ nghèo, nhưng cũng không ai được cứu lại không ăn năn và từ bỏ tội lỗi mình. Người trai trẻ này bị sự tham tiền chi phối nên không thể đi theo Chúa.


Quan điểm về sự cứu rỗi (Lu 18:22-27):

Người trai trẻ này cho rằng sự sống đời đời đến với những ai làm một điều gì đó (Lu 18:18) giống như kiểu phô trương của người Do-thái (Lu 18:9-12). Nhưng khi Chúa Giê-xu bảo anh ta làm một việc, anh không vâng phục! Anh ta muốn được cứu rỗi dựa trên những điều kiện của chính mình chớ không phải của Đức Chúa Trời. Vì vậy, anh ta ra đi trong sự buồn bực tột cùng.


Các môn đệ ngạc nhiên khi Chúa Giê-xu tuyên bố rằng người giàu có rất khó được cứu.Là người Do-thái, họ tin rằng sự giàu có là dấu hiệu ơn phước từ Đức Chúa Trời.Họ nêu lý do: “Nếu người giàu khó được cứu, vậy chúng tôi đây còn hy vọng gì chăng?” John D.Rockefeller có lẽ cũng đồng tình với họ, vì ông cho rằng sự giàu có là “một sự ban cho từ trời”, có ý nghĩa như “Đây là con yêu dấu của ta, làm đẹp lòng ta”.


Không phải giàu có khiến con người không vào được thiên đàng, vì Áp-ra-ham, Đa-vít, Sa-lô-môn cũng là những người giàu có. Bị chi phối bởi của cải và nhờ cậy nơi nó, sẽ khiến người giàu khó được cứu. Của cải khiến con người có cảm giác giả tạo về sự thành công và an toàn. Khi con người thoả mãn với chính mình, sẽ không cần đến Đức Chúa Trời.


Lời nói của Phi-e-rơ trong Lu 18:28 cho thấy ông có cái nhìn đầy tính toán khi theo Chúa “Vậy thì chúng tôi sẽ được chi?” (Mat 19:27). Chúa hứa ban cho họ phước hạnh trong đời sống và phần thưởng ở đời sau. Đồng thời, Ngài cũng cho họ biết trước về sự thương khó và sự chết của Ngài sắp tới. Sao Phi-e-rơ lại có thể nghĩ đến vấn đề được mất của cá nhân khi Chúa mình sắp phải đến Giê-ru-sa-lem để chịu đóng đinh?


Câu chuyện về vị quan trẻ giàu có này là một lời khuyên cho những ai muốn theo Chúa nhưng không dám đánh đổi những giá trị khác hoặc không dám từ bỏ lối sống riêng của mình. Chúa Giê-xu không bảo mỗi người phải bán mọi của cải để bố thí cho kẻ nghèo, nhưng Ngài thật sự không hài lòng với những điều chúng ta thiếu trung thực trong đời sống mình.


5. Người ăn mày có lòng tin mạnh mẽ (Lu 18:35-43)

Ma-thi-ơ cho chúng ta biết có 2 người mù gặp Chúa Giê-xu khi Ngài ra khỏi thành Giê-ri-cô (Mat 20:29-30), nhưng Lu-ca giới thiệu cho chúng ta một người ăn mày mù tên là Ba-ti-mê kêu cầu Chúa khi Ngài đến thăm Giê-ri-cô. Có 2 thành Giê-ri-cô, một thành phố đã bị đổ nát và một thành phố mới được xây dựng cho vua Hê-rốt đại đế. Hai thành cách nhau một dặm đường. Một trong 2 người mù đã la lớn khi họ ngồi tại cửa thành mới, vì vậy không có sự mâu thuẫn nào giữa các sách (Mac 10:46).


Thời ấy, mù loà thường là một sự tàn tật vô phương cứu chữa và người mù chỉ biết đi ăn mày. Hai người này không phải bị mù từ thuở lọt lòng mẹ, vì họ cầu xin “được sáng mắt lại” (Lu 18:41) (Mat 20:34). Họ lớn tiếng nài xin Chúa bất chấp những trở ngại họ đang gặp phải: không khả năng thấy Chúa, bị đám đông chống đối, không được Chúa đáp lời ngay. Họ không muốn để Chúa đi qua mà trước tiên không nghe họ nài xin sự thương xót nơi Ngài.


Sự kiện họ gọi Chúa là “con vua Đa-vít” một danh hiệu của Đấng Mê-si-a, cho thấy 2 người Do Thái này biết Chúa có thể khiến kẻ mù được sống (Es 35:5 Lu 4:18). Chúa đáp lại đức tin họ và chữa lành họ. Thật là một sự thay đổi kỳ diệu! Từ bóng tối, họ bước qua ánh sáng. Họ đã thay đổi từ kẻ ăn mày thành người đi theo Chúa, từ khóc than đến ca ngợi Chúa. Họ cùng gia nhập vào đám đông theo Chúa đến Giê-ru-sa-lem và cất cao giọng ngợi khen Ngài.


Thật là một khác biệt rõ rệt giữa người ăn mày và vị quan trẻ (Lu 18:18-27). Những người ăn mày rất nghèo nay trở nên giàu có, trong khi vị quan trẻ kia trở nên nghèo nàn mãi mãi. Những người ăn mày không có chi để khoe khoang nên họ công khai thừa nhận nhu cầu mình. Nhưng vị quan trẻ lừa dối chính mình và khoe khoang về đạo đức mình. Anh ta không tin Chúa nên ra đi cách buồn rầu, còn những người ăn mày tin nhận Chúa, đi theo Ngài và vui mừng dâng lời ca ngợi.

“Ngài đã làm cho kẻ đói được đầy thức ngon, và đuổi kẻ giàu có về tay không” (Lu 1:53).


Những mẫu người chúng ta xem trong đoạn này khích lệ chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa Giê-xu, cho dù kẻ khác nói gì hay làm gì. Người đàn bà goá không nản lòng bởi thái độ lạnh nhạt của quan án. Người thu thuế cũng không xấu hổ trước thái độ kiêu ngạo của người Pha-ri-si. Những cha mẹ đã đem con trẻ đến với Chúa Giê-xu bất chấp thái độ ích kỷ của các sứ đồ, và những người mù chạy đến với Chúa dù đám đông bảo họ câm nín. Chúa luôn đáp lại đức tin và ban thưởng cho những ai có lòng tin cậy Ngài.


Người trai trẻ giàu có là một gương cho những ai chỉ cậy nơi đạo đức riêng để được cứu. Qua anh ta, chúng ta thấy một con người có thể đến gần sự cứu rỗi nhưng cũng có thể bỏ đi vì vô tín. John Bunyan kết thúc cuốn sách của ông mang tựa đề “Thiên lộ lịch trình” với lời khuyên: “Tôi thấy có một con đường dẫn đến địa ngục, dù từ cổng thiên đàng cũng như từ thành phố huỷ diệt”. Bạn hãy để tâm đến lời cảnh cáo ấy!



 


18. ĐẾN GIÊ-RU-SA-LEM (Lu 19:1-48)


Khi Christopher Columbus thực hiện chuyến du hành về hướng Tây năm 1492, ông giữ 2 cuốn sổ lộ trình, trong đó có một cuốn ghi sai chi tiết. Ông muốn các thuộc hạ tin rằng họ đang đến gần đất liền hơn. Rõ ràng, Columbus xem tinh thần của thuỷ thủ đoàn còn quan trọng hơn uy tín của người thuyền trưởng.


Khi Chúa Giê-xu đến Giê-ru-sa-lem, Ngài cho môn đệ biết những việc sẽ xảy đến nhưng họ không hiểu ý Ngài (Lu 18:31-34). Một số người nghĩ rằng Ngài đến Giê-ru-sa-lem để giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách thống trị của La Mã và dẫn họ vào Nước Trời. Số khác vẫn theo Chúa cốt chỉ muốn xem phép lạ Ngài sắp làm.Qua đoạn này, Lu-ca tập trung vào chính Chúa Giê-xu khi Ngài bày tỏ chính mình qua 3 công tác:


1. Đấng Christ tìm kiếm kẻ hư mất (Lu 19:1-10)

Tên Xa-chê nghĩa là “người công bình” nhưng vị quan thu thuế này không sống đúng với tên của mình. Cộng đồng tôn giáo Do-thái ở Giê-ru-sa-lem dĩ nhiên chẳng xem ông là người công bình, bởi ông không chỉ thu thuế người bản xứ mà còn làm việc cho kẻ ngoại bang ô uế! Những kẻ thu thuế vốn bị mang tiếng xấu vì đã thu tiền trội hơn quy định Càng thu được nhiều, họ càng hưởng lợi bấy nhiêu (Lu 3:12-13). Dù dưới mắt người Do-thái, Xa-chê là kẻ bội đạo, nhưng đối với Chúa Giê-xu ông là một tội nhân hư mất “quý báu”.


Thật thú vị khi xem những đổi thay của Xa-chê trong ngày hôm ấy. Tất cả là vì Chúa Giê-xu đã đến thành Giê-ri-cô.


Một người trở nên con trẻ: Ở phương Đông, hiếm có chuyện một người lớn chạy đặc biệt là một viên chức chính phủ giàu có. Vậy mà Xa-chê đã chạy ra đường như cậu bé con bám theo đoàn người, lại còn leo cả lên cây! Tò mò hẳn là tính của đa số trẻ con, ấy vậy mà trong ngày đó Xa-chê đã bị thôi thúc bởi sự tò mò.


John Calvin nói rằng: “Tính tò mò và giản dị là khởi điểm của niềm tin”. Câu nói ấy đúng với trường hợp của Xa-chê. Sao người ta tụ tập đông thế? Họ theo Chúa Giê-xu Na-xa-rét nào? Mình có cơ hội không?


Chúa Giê-xu phán: “Ai không nhận lãnh Nước Đức Chúa Trời như một đứa trẻ, thì sẽ không được vào đó” (Lu 18:17). Có lẽ hơn bất cứ điều gì, chính lòng kiêu ngạo đã khiến những người “thành công” trong cuộc sống không muốn tin cậy Chúa Giê-xu.


Người tìm kiếm đã được tìm thấy: Xa-chê muốn tìm gặp Chúa (Lu 19:3), nhưng Chúa mới chính là Đấng tìm kiếm ông (Lu 19:10). Đúng ra không tội nhân nào tìm kiếm Chúa (Ro 3:11). Khi tổ phụ chúng ta phạm tôị, họ trốn mặt khỏi Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã đến tìm họ (Sa 3:1-10). Khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên đất, Ngài tìm kiếm kẻ hư mất. Hôm nay, Đức Thánh Linh cũng tìm kiếm tội nhân qua Hội Thánh Ngài.


Chúng ta không biết Đức Chúa Trời đã hành động ra sao trong lòng Xa-chê để chuẩn bị cho ông gặp Chúa. Phải chăng Lê-vi trước đây cũng là người thu thuế, bạn của Xa-chê? (Lu 5:27-39). Lê-vi chắc đã kể cho Xa-chê nghe về Chúa Giê-xu? Lê-vi đã cầu nguyện cho Xa-chê? Hay Xa-chê đã chán nản với của cải và mong ước điều gì đó tốt đẹp hơn? Chúng ta không thể hiểu được, nhưng có có thể vui mừng vì Đấng Christ là Đấng tìm kiếm luôn luôn tìm gặp tội nhân nào mong đợi một sự đổi mới.


Con người “bé nhỏ” trở nên “cao lớn”: Người thấp bé, không có khả năng chen vào đám đông, đó không là trở ngại đối với Xa-chê. Ông tìm mọi cách khắc phục khiếm khuyết của mình khi quên đi giá trị của mình và leo lên cây. Trong ý niệm thuộc linh, chúng ta đều “thấp bé” vì “mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô 3:23) không ai đạt được tiêu chuẩn cao của Đức Chúa Trời. Chúng ta quá “thấp bé”, nên không thể vào được thiên đàng.


Thật buồn thay khi có nhiều tội nhân nghĩ rằng họ “cao lớn”. Họ “đo” bản thân bằng thước đo của “loài người”: tiền tài, địa vị, quyền thế, danh vọng. Đó là những điều “gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời” (Lu 16:15). Họ nghĩ mình có mọi thứ nhưng thực sự không có gì (Kh 3:17).


Xa-chê tin nhận Chúa Giê-xu và trở nên “con cháu thật của Ap-ra-ham” nghĩa là con của đức tin (Rô 4:12 Ga 3:7). Bạn cũng có thể đạt đến sự “cao lớn” như vậy!


Kẻ nghèo nàn trở nên giàu có: Người đời nghĩ rằng Xa-chê là kẻ giàu có, nhưng ông thực sự chỉ là một tội nhân “trắng tay” cần được Đức Chúa Trời ban cho sự sống đời đời, là sự ban cho “đắt giá” nhất trên đời. Đây là câu chuyện duy nhất trong 4 sách Phúc-Âm nói về việc Chúa Giê-xu đích thân vào nhà người khác và minh hoạ cho lời ở Kh 3:20.


Xa-chê được cứu không phải vì đã hứa làm việc thiện, nhưng vì ông đã đáp lại sự nhơn từ của Chúa bằng đức tin. Tin nhận Chúa Giê-xu, ông bày tỏ đức tin mình khi hứa sẽ đền bồi cho những ai ông làm thiệt hại. Đức tin cứu được con người còn giá trị hơn những lời thiêng liêng và cảm xúc nhiệt thành. Đức tin tạo nên một mối liên hệ sống động với Đấng Christ và khiến đời sống được đổi mới (Gia 2:14-16).


Theo luật Môi-se, nếu kẻ trộm cắp nào tự nguyện thú tội, phải bồi hoàn lại vật ăn cắp và trả thêm 1/5 giá trị của vật ấy, sau đó đem của lễ chuộc sự mắc lỗi dâng cho Chúa (Le 6:1-7). Nếu ai ăn cắp vật gì mà không thường lại được, phải trả gấp 4 lần (Xu 22:1), nếu vật ăn cắp còn ở trong tay, phải bồi hoàn gấp 2 (Xu 22:4). Xa-chê không hề tranh luận về những điều khoản của luật pháp, ông muốn trả một giá cao nhất, vì tấm lòng ông thực sự đã được đổi mới.


Con cái Đức Chúa Trời vốn rất giàu có, vì Ngài là Đấng ban “mọi phước thiêng liêng”trong Chúa Giê-xu (Eph 1:3). Chúng ta đều giàu có về sự thương xót và ân điển Đức Chúa Trời (Eph 1:3 Eph 2:4) cũng như giàu có về sự khôn ngoan thông biết của Ngài (Phi 4:19 Ro 11:33). Đó là “sự giàu có không dò được”, không ai hiểu tường tận và sự giàu có ấy chẳng bao giờ cạn kiệt (Eph 3:8).


Chủ trở nên khách: Chúa Giê-xu tự mời Ngài vào nhà Xa-chê còn Xa-chê rất hoan hỉ đón tiếp Ngài. Vui mừng là một trong những đề tài chính trong Phúc-âm Lu-ca. Từ này xuất hiện hơn hai mươi lần với những dạng khác nhau. Kinh nghiệm về sự cứu chuộc chắc chắn phải sản sinh sự vui mừng trong lòng người tin.


Xa-chê đã trở thành vị khách trong ngôi nhà của mình, vì giờ đây Chúa Giê-xu là Chủ của ông. Ông sẵn sàng vâng theo mọi điều Chúa bảo để bày tỏ một chứng cớ thật trước mọi người. Hẳn Chúa Giê-xu bị chỉ trích vì đã viếng thăm nhà kẻ thu thuế (Lu 5:27-32), nhưng Ngài không chú ý đến lời nói của họ. Những kẻ chỉ trích cũng cần được cứu rỗi, nhưng họ không muốn tin nhận Chúa.


Khi một ngày mới bắt đầu, bạn chẳng bao giờ biết nó sẽ kết thúc ra sao. Đối với Xa-chê, ngày hôm ấy đã kết thúc trong mối liên hệ đầy vui mừng với Con Đức Chúa Trời, vì ông đã là người được thay đổi với một đời sống mới. Chúa Giê-xu đang tìm kiếm những tội nhân hư mất và mong được cứu rỗi họ. Ngài đã tìm thấy bạn chưa?


2. Vị chủ thưởng công cho người trung tín (Lu 19:11-27)

Lễ Vượt Qua là thời gian gây xúc động cho dân Do-thái, nhắc họ nhớ lại sự giải cứu khỏi ách nô lệ ở Ai-cập - Lễ diễn ra hằng năm càng làm buồn lòng những kẻ khốn khổ sống dưới ách La-mã, khiến họ ao ước có một Đấng giải cứu. Dĩ nhiên, có những nhóm phá hoại như nhóm những kẻ cuồng tín, sử dụng sách lược du kích để chống lại Rô-ma. Những nhóm chính trị ủng hộ Hê-rốt đã thoả hiệp với Rô-ma, nhưng đa số dân Do-thái chống đối các đường lối đó. Họ muốn Đức Chúa Trời thực hiện những lời tiên tri trong Cựu-ước và ban cho họ một vua đã hứa.


Chúa Giê-xu biết có nhiều người mong thấy Ngài lập một vương quốc mới nên Ngài dùng câu chuyện này để giải thích mọi sự. Dĩ nhiên nhiều người khi nghe chuyện này đã liên tưởng đến biến cố trong lịch sử Do-thái xảy ra đã lâu. Khi vua Hê-rốt đại đế qua đời năm 4 TC, ông để lại xứ Giu-đê cho con trai là A-chê-lau, người phải đến Rô-ma để xin chuẩn nhận sự kế vị này. Vì không muốn A-chê-lau làm vua, dân Do-thái cử 50 người đến trình bày duyên cớ của họ trước Sê-sa Au-gút-tơ, người đã phê chuẩn sự kế vị này nhưng không ban cho A-chê-lau tước vị của “vua”.


Chúa Giê-xu giải thích rằng Nước Ngài sẽ không đến ngay lập tức, nhưng tôi tớ Chúa phải trung tín làm những việc được giao ngay bây giờ. Qua câu chuyện, bạn sẽ thấy có 3 thái độ hưởng ứng của đầy tớ đối với Chủ.


Trung tín vâng lời: Mỗi đầy tớ nhận được một khoản tiền tương đương với 3 tháng lương của người làm công, vì vậy hôm nay bạn có thể ước tính trị giá của nó. Các đầy tớ có thể dùng tiền để đầu tư kiếm lợi hoặc mua mặt hàng nào đó để bán lại có lời. Điều quan trọng là họ phải trình cho chủ nhiều hơn số tiền được giao. Làm gì với số tiền tuỳ thuộc vào mỗi người, miễn sao họ hành động chính đáng và đem lại ích lợi.


Chúng ta chỉ biết về 3 người trong số 10 đầy tớ. Người thứ nhất đã thành công, anh ta giao cho chủ thêm 10 nén bạc. Người thứ hai làm lợi ra 5 nén và cả 2 được Chủ thưởng công. Họ đều trung tín làm việc dù không được chủ hứa ban phần thưởng và không có gi đảm bảo rằng Chủ sẽ trở về, chưa kể đến việc Chủ có dành được vương quốc hay không!


Câu chuyện về các ta-lâng (Mat 25:14-30) và câu chuyện về các nén bạc tương tự nhau, nhưng không nên lẫn lộn giữa các bài học này. Trong câu chuyện này, mỗi người trong số 10 đầy tớ nhận được một khoản tiền như nhau nhưng phần thưởng khác nhau, còn trong câu chuyện về các ta lâng, các đầy tớ nhận được các khoản tiền khác nhau nhưng cùng hưởng một phần thưởng, sự hài lòng và vui mừng của Chúa (Mat 25:21).


Câu chuyện về các ta lâng dạy ta phải trung tín với những sự ban cho khác nhau khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta cơ hội hầu việc Ngài. Một số người có nhiều tài năng, vì vậy Chúa ban cho họ nhiều cơ hội. Điều quan trọng không phải khả năng của bạn được bao nhiêu, nhưng chính là mức độ trung tín của bạn ra sao khi sử dụng những gì mình có trước mặt Chúa. Người dù có ít khả năng nhất nhưng nếu trung tín cũng sẽ nhận được cùng một phần thưởng như người lãnh đạo giáo hội có khả năng nhất.


Trong câu chuyện về các nén bạc, mỗi đầy tớ được giao một khoản tiền giống nhau, có lẽ tượng trưng cho sứ điệp Phúc-Âm (ITês 2:4; ITi 1:11; ITi 6:20). Sự ban cho và khả năng của chúng ta khác nhau, nhưng công việc chúng ta làm giống nhau: rao truyền Lời Chúa khắp thế gian (ITês 1:8; IITês 3:1).

Trong ngày lễ Ngũ tuần, chỉ có 120 tín hữu nhóm lại (Công 1:15), nhưng cuối ngày có thêm 3.000 người (Công 2:41). Và không lâu sau đó lại thêm 5000 người. Đó cũng là lúc các nhà cầm quyền Do-thái vu cáo các môn đệ về tội làm cho Giê-ru-sa-lem đầy dẫy đạo Đức Chúa Trời! (Công 5:28).


Khi đề cập đến việc làm chứng, các tín hữu đều có khởi đầu giống nhau, vì vậy phần thưởng tuỳ thuộc vào sự trung tín và thành quả. Những đầy tớ trung tín được giao cai quản các thành khác nhau. Phần thưởng cho sự trung tín luôn là được giao thêm công việc! Đúng là sự khen thưởng có kèm theo sự giao phó trông coi nhiều thành! Hôm nay, cách chúng ta hầu việc Chúa sẽ giúp xác định phần thưởng và nhiệm vụ mình khi Chúa đến lập vương quốc Ngài trên đất. Ngay bây giờ, sự trung tín là bước chuẩn bị cho công tác hầu việc Chúa được đầy ơn.


Sự bất trung: Có ít nhất 1 trong 10 đầy tớ không vâng lời chủ nên mất cả nén bạc đã có. Đây cũng là nguyên tắc cơ bản trong đời sống Cơ-đốc nhân: bỏ qua cơ hội mình có đồng nghĩa với sự mất phần thưởng và đặc quyền phục vụ Chúa. Nếu không chịu sử dụng sự ban cho của Chúa theo hướng dẫn của Ngài, vậy chúng ta còn cần chi đến sự ban cho ấy? Ai cũng có thể phát triển những khả năng mình có để tôn vinh Đức Chúa Trời (Mat 13:12 Lu 8:18).


Charles Haddon Spurgeon nói: “Thật vậy, người ngay lành và trung tín luôn được ban ơn và có nhiều cơ hội phục vụ, còn kẻ bất trung càng ngày càng lún sâu trong sự tệ hại”. Chúng ta nếu không rèn luyện bản thân tốt hơn, sẽ mất những gì mình đã đạt được, vì trong niềm tin không hề có sự thụ động như vậy”.


Người đầy tớ này bất trung vì anh ta có suy nghĩ không đúng về chủ mình. Anh xem chủ như người nghiêm khắc và bất công nên không yêu mến chủ. Anh chỉ sợ chủ và sợ bản thân không làm hài lòng chủ. Sợ bị mất nén bạc khiến chủ nổi giận, anh ta giữ nén bạc ấy để ít nhất cũng có một cái gì đó trình chủ nếu chủ trở về yêu cầu “tính sổ”.

Thật đáng buồn nếu Cơ-đốc nhân bị chi phối bởi sự sợ hãi giống như tôi tớ hơn sự yêu mến tin cậy Chúa. Cơ-đốc nhân phải có sự “kính sợ Chúa” đúng nghĩa của nó, “kính sợ” là thái độ kính mến của một người con đối với cha chớ không phải sự sợ hãi của kẻ làm tôi tớ. Tấn sĩ A.W.Tozer nói: “Không điều gì huỷ hoại linh hồn hơn một quan niệm thiển cận về Đức Chúa Trời”. Hết lòng làm theo ý muốn Đức Chúa Trời mới thật là điều quan trọng! (Eph 6:6).


Sự nổi loạn: “Công dân” hay “kẻ thù” (Lu 19:14,27) được nhắc đến ở đầu và cuối câu chuyện là một phần quan trọng, vì đa số dân chúng trong đám đông ngày ấy đều thuộc 1 trong 2 trường hợp đó. Khi Chúa Giê-xu đến gần thành Giê-ru-sa-lem, chỉ sau vài ngày Ngài sẽ nghe đám đông la lớn rằng: “Chúng tôi không có vua khác chỉ Sê-sa mà thôi!” (Gi 19:15) nghĩa là “chúng tôi không muốn người này cai trị chúng tôi! ”


Đức Chúa Trời tỏ lòng nhân từ Ngài đối với dân Y-sơ-ra-ên khi ban cho họ gần 40 năm phước hạnh trước sự đoán phạt xảy đến (Lu 19:41-44). Đây cũng là lời cảnh cáo cho những ai chối từ Chúa, cả người Do-thái lẫn người ngoại, nên chúng ta phải cẩn thận! Bởi vì khi Chúa được cất lên trời, Ngài kêu gọi con người ở mọi nơi ăn năn tin nhận Ngài. Những đầy tớ trung tín vâng phục chủ vì họ tin cậy chủ và muốn làm đẹp lòng chủ. Đầy tớ bất trung không làm theo lời chủ vì chỉ sợ chủ (nhưng không có lòng yêu mến). Những công dân chống nghịch vì họ ghét vua mình (Lu 19:14), Chúa Giê-xu trích dẫn Thi 69:4 và phán với môn-đệ: “Họ ghét ta vô cớ” (Gi 15:25).


Hôm nay chúng ta đang sống trong thời kỳ của Lu 19:14-15 khi Chủ chúng ta đi vắng nhưng sẽ trở về như lời Ngài hứa. Chúng ta đều đã được giao làm một nhiệm vụ, phải trung tín cho đến khi Ngài trở lại. Vua sẽ phán gì với chúng ta khi Ngài trở lại? Đó là phần thưởng hay sự trừng phạt? “Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành” (ICôr 4:2).


3. Vị vua đem đến hoà bình (Lu 19:28-48)

Theo lịch truyền thống, những sự kiện trong tuần lễ thi hành chức vụ cuối cùng của Chúa Giê-xu xảy ra như sau:


-Chúa nhật - Vào thành Giê-ru-sa-lem trong sự ngợi khen

-Thứ hai – Dẹp sạch đền thờ

-Thứ ba - Biện luận với các chức sắc Do-thái

-Thứ tư - Nghỉ ngơi

-Thứ năm - Chuẩn bị lễ Vượt Qua

-Thứ sáu – Bị xử án và bị đóng đinh

-Thứ bảy – Nằm trong mồ mả

-Chúa nhật- Chúa sống lại từ cõi chết


Xin bạn nhớ rằng một ngày của người Do-thái đi qua ở thời điểm mặt trời lặn, vậy chiều thứ năm của chúng ta sẽ là thứ sáu của họ - đó là ngày lễ Vượt Qua.


Chuẩn bị (Lu 19:28-36): Các chủ lừa và lừa con là những gì đã được chuẩn bị sẵn cho Chúa. Công việc được thực hiện cách âm thầm vì các chức sắc tuyên bố rằng nếu ai xưng nhận Chúa Giê-xu sẽ bị rút phép thông công (Gi 9:22). Việc các chức sắc tìm phương giết Chúa quan trọng hơn cả việc chủ lừa được bảo vệ (Gi 7:1,19,25; Gi 8:37; Gi 11:47-57).


Chúng ta nghĩ về con lừa như một con vật thấp hèn, nhưng đối với người Do-thái nó là con vật được vua sử dụng (IVua 1:33,44). Chúa Giê-xu cỡi trên con lừa (Lu 19:35) trong khi những người khác đi theo. Con lừa này chưa được ai cỡi lên trước đó, giờ đây được dành cho Chúa Giê-xu. Điều này cho thấy Ngài là Đấng có quyền trên tạo vật Ngài đã dựng nên. Người ta trải áo trên đường đi, dùng lá kè đón Ngài. Đó là một phần nghi thức tiếp đón hoàng gia theo truyền thống Do-thái.


Đón mừng (Lu 19:37-40): Đây là lần duy nhất Chúa Giê-xu công khai bày tỏ chính Ngài. Ngài làm vậy với ít nhất 2 lý do.

-Trước hết, Ngài muốn làm trọn lời tiên tri bày tỏ Ngài là vua Y-sơ-ra-ên (Xa 9:9).

Chúng ta không biết có bao nhiêu người trong đám đông hiểu được điều này dù họ hưởng ứng bằng lời ca ngợi trích từ sách Thi-thiên nói về Đấng Mê-si-a (Thi 118:25-26). Chắc hẳn nhiều người đến dự lễ Vượt Qua nghĩ rằng Chúa Giê-xu sẽ đánh đuổi quân xâm lược La-mã và lập một vương quốc hùng mạnh.

-Lý do thứ 2 là Chúa muốn thúc đẩy các chức sắc Do Thái phải hành động. Họ mong bắt được Ngài sau lễ Vượt Qua (Mat 26:3-5), nhưng chính Đức Chúa Trời đã định trước rằng Con Ngài phải bị giết vào lễ Vượt Qua, bởi vì “Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi thế gian đi” (Gi 1:29; ICôr 5:7).

Mọi cố gắng để bắt Chúa trước đó đều thất bại, vì “giờ Ngài chưa đến” (Gi 7:30; Gi 8:20; Gi 13:1; Gi 17:1). Khi thấy lễ mừng long trọng này, họ biết mình phải hành động, và với sự hợp tác đầy “thiện chí” của Giu-đa, nan đề của họ đã được giải quyết (Mat 26:14-16).


Ý nghĩa của lễ mừng này là “sự bình an”. Bác sĩ Lu-ca mở đầu sách Phúc-Âm với lời loan báo của thiên sứ, “bình an dưới đất” (Lu 2:14), và đây là lễ mừng về sự “bình an trên trời”. Bởi Vua đã bị khước từ, nên không thể có bình an dưới đất, thay vào đó là sự xung đột gay gắt, dai dẳng giữa Nước Trời và vương quốc của ma quỉ (Lu 12:49-53).

Sẽ không thể có bình an trên đất, nhưng nhờ công tác của Đấng Christ trên thập giá, đã có sự hoà thuận với Đức Chúa Trời ở trên trời (Rô 5:1 Co 1:20). Lời khuyên dành cho chúng ta hôm nay là “Hãy hòa thuận lại với Đức Chúa Trời” (IICôr 5:17-21).


Lời than vãn (Lu 19:41-44): Trong khi dân chúng vui mừng, thì Chúa Giê-xu lại khóc! Đây là lần thứ hai Chúa khóc công khai trước nhiều người.

-Lần thứ nhất Ngài đã khóc trước phần mộ La-xa-rơ (Gi 11:35). Trước mộ La-xa-rơ, Ngài âm thầm khóc nhưng giờ đây Ngài cất tiếng than khóc như người khóc kẻ chết vậy. Ngài hành động giống như tiên tri Giê-rê-mi đã khóc cay đắng về sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem (Gie 9:1 Ca thương). Giô-na nhìn thành Ni-ni-ve với hy vọng nó sẽ bị hủy diệt (Gios 4:1-24 trong lúc Chúa Giê-xu nhìn Giê-ru-sa-lem và khóc vì nó đã tự huỷ diệt mình.


Dù nhìn ở bất cứ phương diện nào, Chúa cũng có nguyên nhân để khóc. Nếu nhìn ngược về quá khứ, Ngài thấy dân tộc này đã bỏ lỡ biết bao cơ hội họ có và không hề nhận thức về thời gian họ được thăm viếng. Nếu nhìn “bên trong”, Ngài thấy họ mù loà về thuộc linh. Họ cần phải biết Ngài là ai, vì Đức Chúa Trời đã ban cho họ Lời Ngài và sai những sứ giả Ngài đến để dọn đường.


Khi nhìn xung quanh, Chúa thấy hoạt động tôn giáo chẳng làm được điều gì ích lợi. Đền thờ đã trở thành “cái hang trộm cướp” và các chức sắc tôn giáo trở thành những kẻ muốn giết Ngài. Thành phố đầy dẫy những kẻ mộ đạo đến dự lễ, nhưng trong lòng mang gánh nặng tội lỗi cùng những khốn khó trong đời sống.


Khi nhìn về tương lai, Chúa khóc vì Ngài thấy sự đoán phạt khủng khiếp sắp xảy đến cho dân tộc này, thành phố này và đền thờ này. Vào năm 70 SC, quân La-mã đã kéo đến vây thành và sau 143 ngày vây hãm đã giết 600.000 người Do-thái, bắt giữ hằng ngàn người, phá huỷ đền thờ và thành phố Giê-ru-sa-lem. Vì sao mọi điều này đã xảy đến? Vì dân tộc này đã không biết Đức Chúa Trời thăm viếng họ! “Ngài đến trong xứ mình, nhưng dân mình chẳng hề nhận lấy” (Gi 1:11) “Chúng tôi không muốn người này cai trị chúng tôi” (Lu 19:14)


Lời buộc tội (Lu 19:45-48): Chúa Giê-xu trọ trong thành Bê-tha-ni qua đêm (Mac 21:17) và Ngài đến thành Giê-ru-sa-lem vào sáng sớm hôm sau. Đó cũng là lúc Ngài quở trách cây vả (Mac 11:12-14) và sau đó Ngài dẹp sạch đền thờ (Gi 2:13-22). Sân của dân ngoại là nơi duy nhất trong đền thờ được dành riêng cho họ.

Ở đó người Do-thái có thể giảng đạo cho những người lân cận vô thần và cho họ biết về một Đức Chúa Trời hiện hữu. Nhưng thay vì để dành riêng cho việc truyền giảng Lời Chúa, nơi đây đã được sử dụng như một “cái chợ tôn giáo” để những người Do-thái từ các nơi đến đổi bạc và mua bán các con sinh tế. Các thầy tế lễ cũng “dự phần” vào việc kinh doanh này và kiếm được một món lợi lớn.


Thay vì phải cầu nguyện cho dân sự, các thầy tế lễ đã “bóc lột” họ! Đền thờ đã không còn là “nhà cầu nguyện” (Es 56:7) mà trở thành “hang trộm cướp” (Gie 7:11). Campell Morgan nhắc ta nhớ rằng “hang trộm cướp” là nơi ẩn náu của kẻ cướp sau khi đã phạm tội ác. Những chức sắc tôn giáo muốn dùng sự phục vụ trong đền thánh để che đậy tội lỗi mình (Es 1:1-20). Tuy nhiên, trước khi lên án họ gay gắt, chúng ta hãy nhìn lại xem đã có bao giờ chúng ta đi nhà thờ, tham dự sự thờ phượng chỉ cốt để cho người ta biết mình là người “tin kính”?


Chúa Giê-xu ở lại trong đền thờ và xem đền thờ là nơi nhóm lại của những con người cần được giúp đỡ. Ngài chữa lành nhiều người bệnh tật, dạy họ Lời Đức Chúa Trời. Các chức sắc tôn giáo giả hình tìm cách giết Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến nên họ không thể tra tay trên Ngài. Trong những ngày kế tiếp, họ biện luận với Ngài để bắt bẻ lời Ngài (Lu 20:1-47), nhưng họ đã thất bại. Khi giờ Ngài đến, Ngài sẽ chịu để họ bắt và đóng đinh.


Con Đức Chúa Trời dạn dĩ đã để mặt Ngài “cứng như đá” khi đến Giê-ru-sa-lem. Trong tuần lễ cuối cùng thi hành chức vụ trên đất, Ngài dạn dĩ đối mặt với kẻ thù và can đảm bước lên thập tự giá chịu chết cho tội lỗi của thế gian.

Ngài vẫn đang kêu gọi chúng ta: hãy có lòng dạn dĩ!



 


19. NHỮNG VẤN ĐỀ VÀ CÂU GIẢI ĐÁP (Lu 20:1-47


Chúa Giê-xu đã cho các sứ đồ biết trước sự chống nghịch bắt bớ họ sẽ gặp khi đến Giê-ru-sa-lem. “Con người phải chịu nhiều điều khốn khổ, phải bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo bỏ ra, phải bị giết, ngày thứ ba phải sống lại” (Lu 9:22). Chúa biết rõ những điều sẽ xảy đến, Ngài không hề nao núng.


Qua đoạn này, bạn sẽ thấy 3 nhóm chức sắc tôn giáo (Lu 20:1) cùng chứng cớ họ nghịch Chúa. Họ thách thức Ngài vì Ngài đã dọn dẹp đền thờ và gọi họ là “trộm cướp”. Họ cố bắt bẻ lời ngài để vu cáo và bắt Ngài như một tội phạm. Những câu hỏi họ đặt ra cho Chúa chỉ là “trò lừa đảo”.

Từ “bỏ ra” trong Lu 9:22 (tương tự Lu 20:17) có nghĩa như “loại bỏ sau khi kiểm nghiệm”. Dân Do-thái kiểm nghiệm các chiên con dành cho lễ Vượt Qua rất cẩn thận (từ ngày mồng 10 đến ngày 14) để đảm bảo chúng không tì vít (Xu 12:1-6). Là Chiên Con của Đức Chúa Trời (Gi 1:29), Chúa Giê-xu cũng bị kẻ thù dò xét suốt tuần lễ cuối cùng. Dù đã thấy và nghe mọi điều, họ vẫn muốn “loại bỏ” Ngài. Tuy nhiên, Ngài cũng muốn dò xét họ! Khi chất vấn Ngài, họ bị Ngài đặt câu hỏi lại, và lời đáp của họ phơi bày tấm lòng tối tăm, đầy thù hận và vô tín. Những câu hỏi của Chúa nhằm vào 4 nhân vật:


1. Câu hỏi về Giăng Báp-tít (Lu 20:1-19)

Việc dọn dẹp đền thờ là sự kiện gây ấn tượng mạnh mẽ khiến dân chúng chú ý đến, cũng như khơi dậy lòng tức giận của giáo hội. Việc Chúa chọn đền thờ làm trung tâm dạy dỗ dân chúng cũng khiến một số viên chức của toà công luận phẫn nộ. Họ đặt câu hỏi “Bởi thẩm quyền nào mà thầy làm những điều này? Hay là ai đã ban cho thầy thẩm quyền ấy?”


Thẩm quyền có ý nghĩa quyết định sự thành công của một tổ chức xã hội, chính trị hay tôn giáo, không có thẩm quyền, bạn sẽ gặp trở ngại. Các thầy tế lễ cả khẳng định thẩm quyền của họ từ Môi-se, vì luật pháp chọn dòng Lê-vi hầu việc trong đền thánh. Các thầy thông giáo khẳng định thẩm quyền của họ từ các giáo sư họ học. Các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên là người đứng đầu các thị tộc, được chọn lựa do có kinh nghiệm và khôn ngoan. Những nhóm người này đều biết chắc thẩm quyền mình nên họ không ngại đối đầu với Chúa.

Họ muốn đẩy Chúa vào thế khó xử để dù Ngài trả lời thế nào đi nữa Ngài vẫn bị mắc bẫy. Nếu Chúa nói Ngài không có thẩm quyền nào, Ngài sẽ bị dân Do-thái phản đối vì đã xâm phạm đền thờ và hành động như một tiên tri. Nếu nói thẩm quyền đến từ Trời, Ngài sẽ gặp rắc rối với người La-mã, những kẻ luôn cảnh giác với những người tự xưng là Đấng Mê-si-a đặc biệt trong kỳ lễ Vượt Qua (xem Công 5:34-39; Công 21:37-39).


Bạn hãy chú ý đến phản ứng đầy khôn ngoan của Chúa khi Ngài xoay chuyển mọi vấn đề và dồn những kẻ chất vấn Ngài vào thế “phòng thủ”. Trước hết, Ngài đặt một câu hỏi (Lu 20:3-8) kế đến cho một ví dụ (Lu 20:9-16) và sau cùng Ngài trích dẫn lời tiên tri (Lu 20:17,18). Trong mọi phản ứng, Ngài vạch trần tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên.


Tội khước từ trong quá khứ (Lu 20:3-8)

Chúa nhắc về Giăng Báp-tít với 2 lý do:

-Lý do thứ nhất, Giăng đã làm chứng về Chúa Giê-xu cho dân sư tộc (Gi 1:15-34). Vì vậy việc họ chối bỏ Giăng cũng đồng nghĩa với sự chối bỏ Chúa.

-Lý do thứ hai, theo nguyên tắc thuộc linh, nếu chúng ta không vâng theo lẽ thật đã biết, thì Đức Chúa Trời không thể bày tỏ cho chúng ta lẽ thật nào khác (Gi 7:14-17). Tại sao Chúa phải trả lời câu hỏi của họ khi họ không tin lời Giăng?


Giờ đây chính các chức sắc tôn giáo mới thật là những kẻ ở thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dù trả lời ra sao, họ vẫn gặp “rắc rối” nên họ quyết định “giả câm” và chẳng nói gì. Họ gian dối khi đặt câu hỏi với Chúa và thiếu thành thật khi trả lời Ngài. Dù Chúa đã trả lời họ, vẫn không khiến lòng họ thay đổi. Nếu đã không tin thông điệp Đức Chúa Trời qua Giăng Báp-tít (Lu 7:24-30), họ cũng sẽ không tin lời của Con Đức Chúa Trời. Đó là ý chính của ví dụ Chúa nêu ra.


Tội chống nghịch trong hiện tại (Lu 20:9-16)

Những người này biết Kinh Thánh và hiểu rằng Chúa nói về “vườn nho” của Y-sơ-ra-ên (Es 5:1-7; Thi 80:8). Đức Chúa trời đã ban phước dư dật cho dân tộc này, Ngài cho họ một miền đất phì nhiêu và hấp dẫn. Ngài chỉ muốn họ vâng theo mệnh lệnh Ngài và dâng cho Ngài “hoa lợi thuộc linh” xứng đáng.


Thay vì có lòng biết ơn và vui mừng dâng lên Chúa những gì thuộc về Ngài, dân này đã phản nghịch Chúa và giết các đấng tiên tri của Ngài (Ne 9:26; Gie 7:25-26; Gie 25:4). Đức Chúa Trời đầy lòng nhẫn nhục đã sai từng tôi tớ đến với họ nhưng họ không tin theo (Mat 23:29-39). Sau cùng, Ngài sai chính Con yêu dấu của Ngài (Lu 3:22) nhưng cũng bị họ giết đi. Qua câu chuyện này, Chúa cũng báo trước về sự chết của Ngài.


Theo luật Do-thái, ai cũng có thể giữ tài sản vô chủ. Những kẻ thuê đất nghĩ rằng chủ đã chết nếu không thì ông hẳn đã đích thân đến. Nếu giết con trai của chủ, họ có thể giành lấy vườn nho cho mình. Đây chính là cách suy nghĩ của các chức sắc tôn giáo khi họ đối diện với Chúa Giê-xu (Gi 11:47-54).


Sự tàn rụi trong tương lai (Lu 20:17-18)

Chúa nhìn chăm vào họ và trích dẫn Thi 118:22. Các nhà lãnh đạo biết rằng đây là Thi-thiên nói về Đấng Mê-si-a và họ đã từng nghe dân chúng la lớn những lời ấy khi Chúa cỡi lừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem (Lu 19:38; Thi 118:22). Khi áp dụng lời Kinh Thánh cho chính mình, Chúa tuyên bố công khai Ngài là Đấng Mê-si-a. Dĩ nhiên, những “thợ xây nhà” là các chức sắc Do-thái này (Công 4:11).


Trong Cựu-ước, “đá” là biểu tượng chỉ về Đức Chúa Trời và về Đấng Mê-si-a (Sa 49:24; Xu 17:6; Xu 33:22; Phuc 32:4,15,30-31; Es 8:14; Es 28:16; ICôr 10:4). Bởi vô tín, dân Do-thái đã “ngã nhằm” Ngài và bị đoán phạt. Những ai tin nơi Chúa Giê-xu đều nhận biết Ngài là “nền” và “đá góc nhà” của Hội thánh (ICor 3:11; Eph 2:20).


 Chúa Giê-xu cũng nhắc đến Da 2:34-35,44-45

Đấng Mê-si-a được hình dung như “hòn đá đập vỡ” nghiền nát tất cả mọi thứ trên đường đi. Ngài cảnh cáo những nhân viên tòa công luận rằng họ chỉ tự huỷ diệt mình nếu lên án Ngài. Nguyên tắc này vẫn áp dụng cho hôm nay và những ai vô tín nên cẩn thận chú ý đến lời khuyến cáo này.


Khi giết Giăng Báp-tít các nhà lãnh đạo đã phạm tội nghịch với Đức Chúa Trời là Đấng đã sai ông đến, khi đóng đinh Chúa Giê-xu, họ phạm tội nghịch với Con Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu cho họ biết rằng họ vẫn được tha thứ nếu chỉ phạm tội nghịch Ngài, nhưng sẽ không có sự tha thứ nếu phạm tội nghịch cùng Đức Thánh Linh (Mat 12:24-37).

Vì sao? Bởi đó là chứng cớ cuối cùng Đức Chúa Trời bày tỏ cho dân này. Các nhà lãnh đạo Do-thái đã phạm tội gọi là “tội không thể tha thứ” khi họ chối bỏ chứng cớ về Thánh Linh của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua các sứ đồ. Việc ném đá Ê-tiên là bằng chứng về sự chống nghịch của họ (Công 7:51-60). Sau đó, Phúc-Âm của Đức Chúa Trời từ dân Do-thái đã đến với dân Sa-ma-ri (Công 8:1-40) và dân ngoại (Công 10:1-48).


Qua câu chuyện, Chúa Giê-xu bày tỏ bản chất ngấm ngầm của tội lỗi: chúng ta càng phạm tội, bản chất tội lỗi càng trở nên tệ hại hơn. Những kẻ thuê đất trong câu chuyện chỉ bắt đầu bằng hành động làm bị thương các đầy tớ nhưng sau cùng chúng đã trở thành những kẻ sát nhân! Các quan trưởng Do-thái ra lệnh giết Giăng Báp-tít, muốn Chúa Giê-xu phải bị đóng đinh và sau đó chính họ đã ném đá Ê-tiên. Họ phạm tội nghịch với Đức Chúa Trời, Con Ngài và Đức Thánh Linh -chứng cớ cuối cùng Đức Chúa Trời tỏ cùng họ.


Thật sai lầm biết bao nếu chối bỏ lời Đức Chúa Trời và không tin các tôi tớ Ngài (He 2:1-4; Gi 12:35-43)!


2. Câu hỏi về Sê-sa (Lu 20:20-26)

Chúa Giê-xu biết rằng những kẻ hỏi Ngài là do thám của người Pha-ri-si và đảng Hê-rốt (Mac 12:13), nhưng Ngài vẫn kiên nhẫn nghe và đáp lời họ. Hai nhóm người này luôn công kích nhau nhưng nay do họ có chung một “kẻ thù” nên họ phải hợp tác nhau.

Họ muốn bàn luận về vấn đề thuế và quyền hạn của La-mã, mang kích động Chúa nghịch với người Do-thái (“Hãy đóng thuế”) hoặc người La-mã (“đừng đóng thuế”). Nhưng Chúa đã đưa vấn đề này lên một mức suy nghĩ thâm thuý và buộc những kẻ do thám này phải suy nghĩ về mối liên hệ giữa Nước Trời và nước của loài người.


Nhà cầm quyền được Đức Chúa Trời lập ra nên chúng ta phải tôn trọng (Ch 8:15; Da 2:21,37-38; Rô 13:1-14; IPhi 2:11,17). Chúng ta là công dân Nước Trời (Phi 3:20) và là khách lữ hành trên đất. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa là chúng ta có thể làm ngơ đối với bổn phận trên đất của mình. Chính quyền của con người rất cần thiết cho một xã hội an ninh trật tự, vì con người vốn là tội nhân cần phải được kiểm soát.


Chúa không muốn nói rằng chúng ta “phân tán” sự trung thành của mình giữa Đức Chúa Trời và chính quyền. Vì “các quyền đều bởi Đức Chúa Trời chỉ định” (Rô 13:1) nên chúng ta phải sống như những công dân mẫu mực khi vâng phục những bậc cầm quyền theo ý Chúa.

Nếu sự vâng phục Đức Chúa Trời mâu thuẫn với loài người, vậy chúng ta phải đặt Đức Chúa Trời lên trên mọi sự (Công 4:19-20; Công 5:29), nhưng hãy hành động với thái độ khiêm nhường và yêu thương.

Dù không thể tôn trọng những người trong cơ quan, chúng ta phải tôn trọng cơ quan đó. Lời của Giê-rê-mi khuyên dân Do-thái bị lưu đày ở Ba-by-lôn cũng là một lời khuyên hữu ích đối với những “khách lữ hành” của Đức Chúa Trời hôm nay (Gie 29:4-7): “Hãy tìm sự bình an cho thành!”


Hình và hiệu của Sê-sa ở trên đồng tiền, nên nó đúng là tiền của Sê-sa. “Đóng thuế”đơn giản có nghĩa là trả cho Sê-sa những gì thuộc về ông ta. Hình ảnh Đức Chúa Trời được ấn chứng trên chúng ta nên Ngài có quyền điều khiển đời sống chúng ta, như những công dân của riêng Ngài. Chúng ta phải cố gắng trở nên những công dân gương mẫu hầu làm sáng danh Đức Chúa Trời và khiến những người chưa tin biết đến Phúc-Âm của Đức Chúa Trời và muốn trở thành Cơ-đốc nhân (IPhi 2:9-12; IPhi 3:8-17).


Thật bất hạnh cho những tín hữu có suy nghĩ sai lầm rằng càng trở thành những công dân bị chê bai, họ càng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và là chứng nhân cho Đấng Christ! Đừng làm trái với lương tâm, nhưng hãy là những người đem đến sự hoà bình chớ đừng là kẻ gây rối. Đa-ni-ên là một gương cho chúng ta noi theo (Da 1:1-21).


3. Câu hỏi về Môi-se (Lu 20:27-40)

Người Sa-đu-sê xen vào với một câu hỏi có tính giả thuyết dựa trên luật Do-thái liên quan đến lãnh vực hôn nhân (Sa 38:1-30; Phuc 25:5-10). Người Sa-đu-sê chỉ chấp nhận 5 sách của Môi-se chớ không tin có thiên sứ, các thần hay sự sống lại từ cõi chết (Công 23:8).

Họ tuyên bố rằng Môi-se không hề viết gì về những giáo lý này. Những người Sa-đu-sê thường giữ vào chức tế lễ ở Y-sơ-ra-ên, nên đó là lý do các thầy tế lễ nghịch lại lời giảng về sự sống lại của các sứ đồ (Công 4:1,2) cũng như vì sao họ muốn giết La-xa-rơ khi ông sống lại từ cõi chết (Gi 12:10-11).


Chúa bày tỏ sự sai lầm của những kẻ nghịch Ngài và cho thấy câu hỏi của họ đã giới hạn quyền năng Đức Chúa Trời và chối bỏ Lời Ngài. Sự sống lại không phải là một sự tái thiết, nhưng là sự ban cho kỳ diệu của Đức Chúa Trời khi thân thể chúng ta được đổi mới, không giống với bản chất của thân thể cũ. Phao-lô so sánh thân thể hiện tại của chúng ta với hạt giống được gieo ra, và thân thể khi sống lại với hoa và quả vinh hiển (ICôr 15:35-50).

Khi Chúa Giê-xu sống lại, Ngài vẫn có hình thể như trước khi Ngài chịu chết nhưng lại khác biệt! Các môn-đệ có thể nhận ra Ngài, ngay cả rờ Ngài Ngài có thể ăn nhưng cũng có thể đi xuyên qua cửa, thay đổi hình dạng và biến mất bất ngờ.


Cuộc sống đời sau với Chúa không chỉ là sự tiếp nối đời này ở “mức cao hơn”. Chúng ta sẽ vẫn là chính mình, có thể nhận biết nhau, nhưng sẽ không có sự chết nữa. Vì vậy sẽ không cần có sự cưới gả hay sinh con. Cơ-đốc nhân không trở thành các thiên sứ. Ở thiên đàng, chúng ta sẽ mang hình ảnh của Chúa Giê-xu và địa vị chúng ta còn cao hơn các thiên sứ nữa! (IGi 3:2). Trong Kinh Thánh các thiên sứ xuất hiện như con người, nhưng họ ở thể thần linh và không có bản năng giới tính. Về mặt này, chúng ta sẽ giống họ, không cưới gả và sinh sản trên thiên đàng.


Đức Chúa Trời há không đủ quyền năng khiến kẻ chết sống lại và ban cho họ thân thể mới phù hợp với môi trường mới sao? Nếu hôm nay Ngài có thể ban cho mọi tạo vật Ngài hình dạng khác nhau, vậy sao Ngài lại không thể ban cho con người thân thể mới khi họ sống lại” (ICôr 15:35-44). Khi làm ra vẻ “sáng suốt”, người Sa-đu-sê đã chối bỏ chính quyền năng của Đức Chúa Trời!


Chúa Giê-xu đã vượt quá lý lẽ con người khi nhắc họ nhớ lại lời Đức Chúa Trời đặc biệt là sự kiện xảy đến với Môi-se được chép ở sách Xu 3:1-22. Đức Chúa Trời xưng Ngài là Đức Chúa Trời của Ap-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Ngài chứng thực 3 vị thánh tổ này đang sống. Nếu họ sống, vậy họ hẳn đã không ở trong thể xác cũ vì họ đã chết trước đó (Gia 2:26). Phải có một thế giới thần linh thực hữu, nếu không Môi-se đã chẳng viết những lời này (Môi-se cũng xác nhận sự thực hữu của các thiên sứ: Sa 19:1,15; Sa 28:12; Sa 32:1).


Chúa Giê-xu phán rằng Xu 3:6,15,16 không chỉ dạy lẽ thật về sự sống sau khi chết mà còn về sự sống lại, không bằng lời trực tiếp như mang ý nghĩa sâu xa của những điều ấy. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của con người toàn vẹn - tâm thần, linh hồn và thân thể (ITês 5:23).

Vì Ngài đã dựng nên toàn vẹn con người, Ngài không chỉ cứu linh hồn chúng ta rồi bỏ mặc phần còn lại thuộc con người chúng ta. Bản chất vốn có trong sự sáng tạo của Ngài là quan tâm đến mọi mặt của con người. Vì vậy, Ngài không để chúng ta phải “hồn lìa khỏi xác” mãi mãi, nhưng ban cho chúng ta thân thể vinh hiển thích hợp với sự hoàn mỹ ở thiên đàng.


Một vấn đề khác, đó là mối liên hệ giữa Đức Chúa Trời với 3 vị thánh tổ này. Ngài hứa ban cho họ và con cháu họ những phước hạnh trên đất, nhưng Ngài không thể làm trọn lời hứa nếu dân sự Ngài chỉ muốn sống đời đời như những linh hồn không có xác. Có thể nào tồn tại một trời mới và đất mới vinh hiển mà không có sự vinh hiển về thể xác dành cho con cái Đức Chúa Trời?


Chúa Giê-xu xác nhận những điều người Sa-đu-sê chối bỏ: sự tồn tại của thiên sứ, sự thực hữu của đời sống sau khi chết, sự sống lại ở đời sau. Ngài xác nhận điều này dựa trên sách của Môi-se. Dĩ nhiên Ngài có thể dẫn chứng những đoạn Kinh Thánh khác nói về sự sống lại ở đời sau, nhưng Ngài đã giải đáp cho những kẻ chống nghịch Ngài dựa trên chính lý lẽ họ đưa ra. (Giop 14:14; Giop 19:25-27; Thi 16:9-10; Thi 17:15; Es 26:19; Exe 37:1-28; Da 12:2).


4. Câu hỏi về Đa-vít (Lu 20:41-47)

Khi người Pha-ri-si nhóm nhau lại, Chúa Giê-xu hỏi họ câu cuối cùng: “Về Đấng Christ, các ngươi nghĩ thể nào? Ngài là con ai?” (Mat 21:41-42). Đây là câu hỏi quan trọng dành cho mọi thời đại và mỗi cá nhân, vì sự cứu rỗi và số phận đời đời của chúng ta tuỳ thuộc vào suy nghĩ của chúng ta về Đấng Christ (IGi 2:21-25; IGi 4:1-6; IGi 5:1).


Dĩ nhiên, họ đều biết câu trả lời sẽ là “Con vua Đa-vít” dựa trên các câu Kinh Thánh ở IISa 7:13-14; Es 11:1; Gie 23:5. Đức Chúa Trời đã định trước rằng Đấng Mê-si-a phải thuộc dòng Đa-vít, sanh trong thành Đa-vít tức Bết-lê-hem (Mi 5:2). Sự kiện dân Do-thái gắn liền Chúa Giê-xu với Na-xa-rét chớ không phải Bết-lê-hem, chứng tỏ họ không thực sự tìm kiếm những sự kiện có liên quan đến sự giáng sinh của Ngài (Gi 7:40-53).


Sau đó Chúa đề cập đến Thi 110:1-6, một Thi-thiên được trích dẫn trong Tân-ước nhiều hơn của Thi-thiên khác. Thời bấy giờ, các nhà lãnh đạo tôn giáo Do-thái xem Thi 110 là đoạn Kinh Thánh Đa-vít nói tiên tri về Đấng Mê-si-a. Nếu Đấng Mê-si-a là Chúa của Đa-vít, sao Ngài có thể là Con vua Đa-vít được? Đây thật là điều khó lý giải đối với họ!


Lời giải thích duy nhất đó là: Đấng Mê-si-a là Đức Chúa Trời cũng là Con người. Vì là Đức Chúa Trời hằng hữu, Ngài được gọi là Chúa của Đa-vít, nhưng trong thân vị con người, Ngài là Con vua Đa-vít (Rô 1:3; Rô 9:4-5; Công 2:32-36; Công 13:22-23).


Vào tuần lễ cuối cùng, đoàn dân đông đã gọi Chúa là Con vua Đa-vít nhưng Ngài không quở trách họ (Mat 21:9; Mac 11:10). Khi áp dụng Thi 110:1 cho chính mình, Chúa tuyên bố chính Ngài là Đấng Mê-si-a của giao ước, là Con Đức Chúa Trời. Vậy tại sao người Pha-ri-si không tin Ngài? Bởi lòng họ cứng cỏi và mắt họ mù loà (Gi 12:37-50).

Họ không đủ con đảm thừa nhận lẽ thật, nên đã bắt bớ những những ai đặt niềm tin nơi Chúa Giê-xu. Câu hỏi Chúa đặt ra khiến họ nín lặng (Mat 22:46)và chấm dứt những cuộc chất vấn công khai ấy. Dầu vậy, họ cũng chẳng chịu thua.Vì giả hình và thiếu thành thật, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si là những kẻ nguy hiểm để gần họ, vì vậy Chúa khuyên môn đệ dân chúng cảnh giác đối với hạng người này (Lu 20:45-47; Mat 23:1-39).

“Loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (ISa 16:7; He 4:12). Các chức sắc tôn giáo chẳng hề khao khát sự thánh khiết của bản thân, chỉ muốn được nổi danh trong thiên hạ. Vì vậy, họ xúng xính trong lễ phục sang trọng, mong người ta chào hỏi và tôn trọng mình cũng như muốn ngồi chỗ “đặc biệt” trong nhà hội.


Có 2 bi kịch đáng nói ở đây.

-Trước hết, sự giả hình có chủ tâm của các thầy thông giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài để họ lừa dối và lợi dụng dân chúng. Trong những thủ đoạn kiếm tiền, thủ đoạn mang hình thức tôn giáo là điều tồi tệ nhất. Các chức sắc này đã biến đền thờ Đức Chúa Trời thành “hang trộm cướp” và biến sự quyên góp của tín đồ thành một vở kịch. Dân chúng cho rằng các chức sắc của họ là những con người yêu mến Đức Chúa Trời, thực ra hai chức sắc đó chỉ là những kẻ làm ô uế và huỷ hoại linh hồn người ta (Mat 23:13-36).


-Bi kịch thứ hai, đó là họ chối bỏ Đấng Mê-si-a và cổ vũ việc đóng đinh Ngài. Họ dẫn dắt dân tộc đi đến chỗ hư mất, vì không muốn thừa nhận tội lỗi mình cũng như không muốn hiểu Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Bạn hãy nhớ rằng những con người này là các “học giả” Kinh Thánh, vậy mà họ lại không áp dụng những lẽ thật của Kinh Thánh vào đời sống mình. Niềm tin tôn giáo của họ chẳng qua chỉ là sự tuân thủ lễ nghi bên ngoài, chớ không phải sự biến đổi ở bên trong.


Về phương diện này, theo Mat 23:33-39, một lần nữa Chúa Giê-xu đã than khóc cho những kẻ vô tín mù loà của dân tộc và khóc cho lòng cứng cỏi không tin Chúa của họ. Ngài cho họ quá nhiều cơ hội nhưng họ đều bỏ qua. Giờ thì đã quá muộn!


Hôm nay bi kịch này lại tái diễn.

Đó là lý do Đức Thánh Linh phán: “Ngày nay nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, thì chớ cứng lòng...” (He 3:7-8).

“...bao nhiêu lần ta muốn... mà các ngươi chẳng khứng!” (Mat 23:37)



 


20. CÂU HỎI VỀ TƯƠNG LAI (Lu 21:1-38)


1. Câu hỏi của các môn-đệ (Lu 21:1-7)

Giờ lại đến lượt các môn-đệ Chúa đặt câu hỏi!


Vấn đề bắt đầu lúc có một bà goá vào đền thờ dâng hiến cho Đức Chúa Trời (Lu 21:1-4). So với của cải người giàu, 2 đồng tiền của bà goá chẳng ý nghĩa gì! Nhưng Chúa Giê-xu phán rằng bà góa đã dâng nhiều hơn của cải của mọi người cộng lại. Phần dâng hiến khiêm nhường của bà goá không phải có ý nghĩa rằng chúng ta có thể dâng phần nhỏ nhất, nhưng là phần tốt nhất trong những gì chúng ta có. Khi tôn vinh “hiến cả thảy cho Ngài”, chúng ta bày tỏ rằng mọi thứ mình có thuộc về Ngài.


Khi chúng ta dâng hiến, Đức Chúa Trời nhìn thấy “sự tương xứng” hơn là “của dâng”. Con người chỉ nhìn thấy “của dâng”, nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy những gì con người còn “giữ lại”, bởi đó Ngài đánh giá được của lễ và tấm lòng chúng ta.

Winston Churchill nói rằng: “Chúng ta kiếm sống bằng những gì mình kiếm được, nhưng sống bằng những gì mình dâng hiến”. Có lẽ ông đã học được điều này từ Chúa Giê-xu (Lu 6:38) hoặc từ Phao-lô (IICôr 8:1-15).


Đền thờ được xây cất công phu và tô điểm bằng những vật trang trí đắt giá mà một bà goá nghèo không bao giờ có thể dâng được, nên các môn đệ nhắc Chúa về điều này.Tuy nhiên, Chúa không để tâm đến vấn đề đó. Ngài cho họ biết sẽ có một ngày đền thờ tráng lệ của dân Do-thái sẽ bị phá huỷ (Lu 21:5-6). Ngài cũng báo trước về sự huỷ diệt thành Giê-ru-sa-lem (Lu 19:41-44), nhưng giờ đây Ngài đặc biệt chú ý đến việc đền thờ bị phá huỷ.


Chúa Giê-xu rời khỏi đền thờ và đi đến núi Ô-li-ve. Tại đó, Phi-e-rơ, Gia-cơ và Giăng hỏi Ngài 3 câu: khi nào đền thờ sẽ bị phá huỷ? Có điềm gì chỉ về sự Chúa đến? Có điềm chi cho biết các sự đó sẽ hoàn thành? (Mac 13:3,4; Mat 24:3). Các môn đệ nghĩ rằng 3 sự kiện đó sẽ xảy ra cùng một lúc, nhưng Chúa Giê-xu giải thích các sự việc này khác nhau. Theo thực tế, đền thờ sẽ bị phá huỷ trước tiên và sau một thời gian dài Chúa sẽ trở lại để lập vương quốc Ngài trên đất (Lu 19:11-27).


Lời đáp của Chúa bao gồm những điều mà chúng ta gọi là “bài giảng trên núi Ô-li-ve”, một bài giảng về lời tiên tri kỳ diệu nhất của Ngài. Bài giảng được chép chi tiết ở sách Mat 24:1-25:46 và Mac 13:1-37. Vì Lu-ca viết cho dân ngoại nên ông đã bỏ đi một số chi tiết nói về dân Do-thái, nhưng ông vẫn giữ lại những lẽ thật quan trọng mà chúng ta cần xem xét và ứng dụng.


Hãy nhớ rằng đây là thông điệp dành cho dân Do-thái được loan ra từ môi miệng của một người Do-thái, nói tiên tri về tương lai của dân Do-thái. Mặc dù hôm nay có vài điều ứng nghiệm đối với con cái Đức Chúa Trời, nhưng lời tiên tri này nhằm vào Giê-ru-sa-lem, dân Do-thái và đền thờ. Chúa Giê-xu không bàn về sự trở lại của Ngài dành cho Hội thánh, vì sự kiện này có thể xảy đến bất cứ lúc nào và không cần có điềm báo trước (ITês 4:13-18; ICôr 15:51-58). “Người Giu-đa đòi một dấu hiệu” (ICôr 1:22) nhưng Hội thánh trông đợi Cứu Chúa mình (Phi 3:20-21).


Bài giảng tập trung vào một thời kỳ hoạn nạn khi Đức Chúa Trời trút cơn thạnh nộ trên các nước ở thế gian. Nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng thời kỳ hoạn nạn ấy sẽ bắt đầu xảy ra khi Chúa ngự đến trên không trung để cất Hội thánh Ngài lên thiên đàng (ITês 4:13-5:11). Nó sẽ đạt đến điểm đỉnh khi Chúa trở lại trên đất, vào lúc ấy Ngài đánh bại kẻ thù và lập vương quốc Ngài (Kh 19:1-20:6).


Sau đây là những ý chính trong tiến trình của bài giảng hầu giúp ích cho bạn hiểu rõ hơn:

-Nửa đầu cơn đại nạn (Mat 24:4-14; Mac 13:5-13; Lu 21:8-19)

-Giữa cơn đại nạn (Mat 24:15-28; Mac 13:14-18; Da 9:24-27).

-Nửa cuối cơn đại nạn (Mat 24:29-31; Mac 13:19-27; Lu 21:25-27).

-Lời cảnh cáo sau cùng (Mat 24:32-51; Mac 13:28-37; Lu 21:28-36)


Để trả lời câu hỏi của các môn-đệ, Chúa phán về 4 vấn đề có liên quan đến tương lai của dân Y-sơ-ra-ên.


2. Mô tả thời đại (Lu 21:8-19)

Những sự kiện Chúa phán có thể xảy đến ở bất cứ thời đại nào của Hội thánh, vì ngay từ đầu đã có những Đấng Christ giả, những biến động trên thế giới và tình trạng bắt bớ Hội thánh. Tuy vậy, những sự việc này sẽ gia tăng và khốc liệt hơn khi sự tái lâm của Chúa đến gần. Thomas Campbell, nhà thơ người Anh và là nhà giáo dục, thật có lý khi nói rằng: “Những biến cố sắp xảy đến ngả bóng của chúng ở phía trước”.


Sẽ có tình trạng “hoang tưởng” về đạo (Lu 21:8) và thậm chí con cái Đức Chúa Trời cũng rơi vào sự dỗ dành ấy. Trải bao thế kỷ, Sa-tan là đứa cám dỗ con người đi sai đường khi nó lừa dối và khiến lòng con người trở nên tăm tối (IICor 11:1-4,13-15; IICor 4:1-6). Dân Y-sơ-ra-ên đã bị các tiên tri giả dỗ dành và sa vào tội lỗi Hội Thánh cũng bị các giáo sư giả truyền đạo dối làm hại họ (IIPhi 2:1-22).


Con người vốn luôn quan tâm đến tương lai, đặc biệt khi có những sự kiện thế giới đáng lo ngại xảy ra. Vì vậy, những kẻ trục lợi trong lớp vỏ “tôn giáo” có thể bóc lột và lợi dụng họ. Mỗi thời đại đều có những kẻ mạo danh Đấng Christ hoặc tuyên bố thời điểm Chúa tái lâm. Những tiên tri giả này thường “trích dẫn” Kinh Thánh để chứng minh sự chính xác trong lời tiên đoán của họ, bất kể việc Chúa Giê-xu từng phán rõ ràng rằng không ai có thể biết thời điểm tái lâm của Ngài (Mat 24:36-44).


“Các ngươi hãy giữ, kẻo bị cám dỗ!” Đó là lời Chúa khuyên dạy và chúng ta phải ghi vào lòng. Chỉ có một cách duy nhất giữ cho chúng ta sống quân bình, đó là phải hiểu biết Kinh Thánh và vâng theo lời Đức Chúa Trời dạy dỗ (IIPhi 3:17-18). Thật dại dột và tai hại nếu chúng ta quá chú tâm đến lời tiên tri, đến nỗi lơ là đối với những vấn đề thực tiễn của đời sống Cơ Đốc nhân. Phước cho những ai sống quân bình!


Tai hoạ cũng sẽ xảy ra ở mọi nơi trên thế giới (Lu 21:9-11). Một người bạn của tôi còn giữ lại những tư liệu về các trận động đất xảy ra những năm gần đây. Một sinh viên nghiên cứu tiên tri đã liệt kê tất cả các cuộc chiến và những cuộc xâm lấn. Cả hai đều bỏ sót một chi tiết: Chúa phán rằng chiến tranh, động đất, bệnh dịch, và nạn đói không phải là những dấu hiệu Chúa tái lâm ngay. Đó chỉ là những diễn tiến của lịch sử thế giới.


Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu của sự hoạn nạn, những biến cố này sẽ gia tăng và xảy đến ở nhiều nơi. Mat 24:1-14 liệt kê chi tiết các biến cố sẽ xảy ra. Nếu so sánh với Kh 6:1-17, bạn sẽ thấy có điểm tương đồng.


Các biến cố:

-Christ giả: Mat 24:4-5 _ Kh 6:1-2

-Chiến tranh: Mat 24:6 _ Kh 6:3-4

-Đói kém: Mat 24:7 _ Kh 6:5-6

-Sự chết: Mat 24:8 _ Kh 6:7-8

-Tử đạo: Mat 24:9 _ Kh 6:9-11

-Tội ác: Mat 24:10-13 _ Kh 6:12-17


Thực ra, sách Khải huyền từ đoạn 6 đến đoạn 19 mô tả chi tiết thời hoạn nạn theo như tiến trình của Mat 24:1-51

(1). Khởi đầu cơn đại nạn, đoạn 6-9

(2). Giữa cơn đại nạn, đoạn 10-14,

(3). Nửa cuối cơn đại nạn, đoạn 15-19.


Chúa phán với con cái Ngài rằng “đừng kinh khiếp! ” . Những biến cố này ắt phải xảy đến, không ai có thể ngăn trở được. Điều này không có nghĩa là con cái Chúa sẽ phó mặc cho số phận mình không biết trước, nhưng thay vào đó, họ muốn đầu phục chương trình của một người Cha yêu thương, Đấng hiệp mọi sự lại theo “ý quyết đoán” của Ngài (Eph 1:11).


Sau cùng, sẽ có sự bắt bớ đạo mang tính tập thể (Lu 21:12-15) hoặc cá nhân (Lu 21:16-19). Dĩ nhiên, đã có tình trạng bắt bớ kể từ khi Ca-in giết A-bên (Mat 23:34-36; Công 4:1; Công 5:17; Công 6:9; Công 8:1). Chúa nói trước rằng những ai theo Ngài sẽ chịu khổ (Gi 15:18-16:4,32-33) và hôm nay lời phán ấy đã xảy ra (IITi 3:12). Nhưng sự bắt bớ trong thời kỳ sau rốt sẽ gay gắt hơn và nhiều người sẽ bỏ mình vì Chúa.


Bạn hãy để ý những lời khích lệ của Chúa Giê-xu đối với những người chịu sự bắt bớ.Trước hết, chúng ta hãy nhớ rằng khi bị bắt bớ, chúng ta đã chịu khổ vì danh Chúa (Lu 21:12) và đây là một vinh dự lớn lao của chúng ta (Cong 5:41). Điều quan trọng không ở chỗ người khác nói gì về chúng ta, nhưng quan trọng là danh Đấng Christ phải được vinh hiển.


Điều thứ hai, thời gian chịu sự bắt bớ cho chúng ta cơ hội làm chứng về Chúa (Lu 21:13-15). Các sứ đồ của Chúa đã làm chứng tốt khi họ bị bắt và bị giải đến toà công luận (Cong 4:1-5:42). Những người tử đạo và tôi tớ Chúa trải qua các thế kỷ đã noi theo gương của các sứ đồ khi liều mình vì Chúa.


Do bị công khai bắt bớ, chứng nhân của Đức Chúa Trời sẽ đứng trước những bậc quyền thế, và khi việc ấy xảy đến, họ không nên sợ hãi, vì Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ những lời cần nói. Lời hứa này không phải là cớ để các Mục sư, Truyền đạo biếng nhác hoặc các giáo viên trường Chúa nhận không muốn nghiên cứu lời Chúa! Đây là lời yên ủi khích lệ những nhân chứng trung tín của Đức Chúa Trời, biết rằng Ngài sẽ giúp họ khôn ngoan trong lời đối đáp khi cần.


Các thánh đồ không những sẽ bị sự bắt bớ từ phía nhà cầm quyền mà còn gặp phải sự chống đối của gia đình và bạn hữu. Người thân của họ sẽ theo dấu Giu-đa khi xưa, phản bội người thân yêu nào tin nơi Chúa Giê-xu. Sự ghen ghét, bắt bớ, chết chóc sẽ xảy đến với nhiều con cái Chúa suốt thời kỳ hoạn nạn. Tuy nhiên, các con cái Chúa không nên nản lòng vì Đức Chúa Trời là Đấng tể trị mọi sự, không bởi ý Ngài, không sợi tóc nào trên đầu chúng ta bị rơi rớt (Mat 10:28-31). Khi hiểu được điều này, chúng ta có thể chịu đựng sự bắt bớ và đối đầu với sự thử thách bằng đức tin và sự dạn dĩ.


Trong lúc, có nhiều Cơ-đốc nhân không bị sự bắt bớ của nhà cầm quyền và sự chống đối của gia đình. thì có những người khác đã chịu nhiều khốn khổ vì đức tin mình.Điều Chúa phán ở đây là sự khích lệ đối với họ. Một người bạn của tôi hầu việc Chúa ở Đông Au, và một tín hữu ở Poland nói với ông: “Chúng tôi đang cầu nguyện cho các bạn là những tín hữu ở phương Tây, vì các bạn sống trong điều kiện vô cùng dễ dàng. Xin Chúa giúp các bạn không rơi vào tình trạng thoả hiệp”.


Hãy nhớ rằng những sự kiện Chúa mô tả không phải là dấu hiệu cuối cùng của sự tái lâm, vì đó chỉ là những sự kiện tiếp nối dòng lịch sử của các thời đại. Tuy nhiên, khi thời kỳ Chúa đến gần, những sự việc này sẽ gia tăng cả về số lượng và cường độ của nó. Cho dù chúng ta nhìn nhận ra sao về sự tái lâm của Chúa, chúng ta hãy chú ý lời khuyên của Ngài: “Hãy giữ mình! Đừng sợ! Đừng lo lắng!”


3. Sự phá hủy đền thờ (Lu 21:20-24)

Đoạn này có vẻ đặc biệt trong cách viết của Lu-ca, không giống với Ma-thi-ơ và Mác, mặc dù trong 2 sách ấy cũng có trình bày chi tiết tương tự (Mat 24:16-21; Mac 13:14-17). Tuy nhiên, rõ ràng là Ma-thi-ơ và Mác đề cập đến những biến cố xảy ra trong thời kỳ trọng điểm của sự hoạn nạn, khi “sự tàn nát gớm ghiếc” lập ra trong đền thờ Do-thái và An-ti Christ (kẻ cai trị thế giới) sẽ khởi sự bắt bớ Y-sơ-ra-ên (Da 9:24-27; Kh 13:1-18). Chúa Giê-xu khuyên dân sự phải trốn đi, vì sự hoạn nạn lớn sẽ ập đến.


Phúc-Âm Lu-ca không đề cập đến biến cố nào xa xôi xảy ra trong thời kỳ đại nạn, nhưng đề cập đến sự kiện La-mã tàn phá thành Giê-ru-sa-lem năm 70 (tức là sau 40 năm) (Lu 19:41-44). Trong nhiều phương diện, biến cố khủng khiếp này giống như “cuộc thử trình diễn trang phục” của điều sẽ xảy đến vào nửa cuối thời kỳ đại nạn (Kh 12:7-17), khi Sa-tan trút cơn giận trên Y-sơ-ra-ên và người ngoại tin Chúa. Sử học gia Do-thái Josephus cho biết có hơn một triệu người bị quân La-mã giết hại, và trên 100.000 người bị bắt làm nô lệ khi Titus chiếm lấy thành.


Đây không phải là lần đầu Giê-ru-sa-lem “bị dân ngoại giày đạp” (Lu 21:24) vì dân Ba-by-lôn đã từng phá huỷ thành năm 586 TC, khi “các kỳ dân ngoại” bắt đầu.Giai đoạn mang đầy ý nghĩa trong chương trình của Đức Chúa Trời sẽ kết thúc khi Chúa Giê-xu tái lâm trên đất, huỷ diệt mọi quyền lực dân ngoại và lập Vương quốc công bình của Ngài (Da 2:34-36,44-45; Kh 19:11).


Các tín hữu hôm nay trông mong Chúa trở lại đều không nên áp dụng các câu 20-24 cho hoàn cảnh của chính mình. Chúa Giê-xu muốn nói về thành Giê-ru-sa-lem năm 70 SC. Mat 24:15-28 và Mac 13:14-23, Ngài phán về tình trạng Y-sơ-ra-ên trong thời kỳ giữa cơn đại nạn. Vì sự tái lâm của Chúa đối với Hội thánh Ngài sẽ xảy ra trong chớp mắt (ICor 15:52), nên không ai có thời gian về nhà hoặc lo về ngày nghỉ, hay bận nuôi con cái. Cho đến phần này của sứ điệp, Chúa Giê-xu đã nói cho các môn đệ biết thời gian đền thờ sẽ bị phá huỷ và dấu hiệu của thời kỳ cuối cùng. Giờ đây, Ngài cho họ biết về sự tái lâm của Ngài vào cuối thời kỳ đại nạn.


4. Sự tái lâm của Chúa (Lu 21:25-28)

Kh 15:1-19:21 mô tả những dấu hiệu đoán phạt khủng khiếp do Đức Chúa Trời giáng trên đất vào nửa cuối của “kỳ tai hại của Gia-cốp” (Gie 30:7). Khi những sự việc này xảy ra, tức là ngày Chúa trở lại rất gần. Các nước bị “rúng động” như những cơn sóng lớn mô tả sự xuất hiện và sự sụp đổ của các dân tộc như các lượn sóng gữa cơn bão tố (Thi 46:1-6 Kh 17:15). Đó sẽ là thời kỳ khủng khiếp, dân trên đất sẽ run rẩy khiếp sợ nhưng vẫn không ăn năn tội để tin nhận Chúa (Kh 9:20-21 Kh 16:9-11).


Mat 24:29 cho biết mặt trời và mặt trăng tăm tối, các ngôi sao trên trời sa xuống (Es 13:10 Es 34:4 Gio 2:10,31 Gio 3:15). Mat 24:30 cho biết “điềm của Con Người sẽ hiện ra trên trời. Chúng ta không biết điềm này là gì, nhưng nó sẽ làm cho các dân tộc trên đất sợ hãi. Chúa Giê-xu sẽ xuất hiện, thì mọi mắt sẽ trông thấy”Ngài (Kh 1:7). Cuối cùng, dân Y-sơ-ra-ên sẽ nhận biết Đấng Mê-si-a, ăn năn tin nhận Ngài và được cứu (Xa 12:10-14 Mac 14:61-62).


Đối với tội nhân, những điềm này gây nỗi sợ hãi khủng khiếp nhưng đối với những ai tin cậy Chúa thì đó là hy vọng trong thời kỳ đại nạn (Kh 7:1-17) vì biết rằng Chúa mình sắp tái lâm. Hôm nay, Cơ Đốc nhân trông đợi Đấng Christ chớ không phải những điềm lạ. Tuy nhiên, khi thấy bóng của những biến cố sắp xảy ra, chúng ta tin rằng sự tái lâm của Chúa đã đến gần.


Đấng Christ sẽ xuất hiện cách bất ngờ trong sự vinh hiển và đại quyền của Ngài (Lu 21:27), như hình ảnh mô tả trong Da 7:13-14, hẳn rất quen thuộc với các môn đệ. Các thiên sứ cũng báo trước rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại như cách Ngài lên trời (Cong 1:9-11) và quả thật như vậy! (Kh 1:7).


Có nhiều người không quan tâm, thậm chí nhạo báng giáo lý tái lâm của Chúa. Họ cho rằng Hội Thánh đã chờ đợi 2.000 năm qua, nhưng Chúa sao vẫn chưa tái lâm?Phi-e-rơ đáp lại sự chế giễu này qua sách IIPhi 3:1-18. Ông chứng minh rằng Đức Chúa Trời vẫn giữ lời hứa Ngài dù niềm tin chúng ta ra sao, vì Ngài tính toán thời gian không theo suy nghĩ của con người. Hơn thế, Ngài nhịn nhục hầu cho tội nhân có cơ hội ăn năn tin nhận và sẵn sàng khi Chúa đến. Đối với Hội Thánh sự trì hoãn của Chúa là một thử thách, nhưng đối với tội nhân đây là một cơ hội.


Sau khi trả lời các câu hỏi của môn đệ, Chúa muốn họ ghi nhớ lời dạy Ngài nên Ngài khuyên họ những lời sau cùng: “Hãy tự giữ lấy mình! ”, “Hãy tỉnh thức luôn! ”


5. Trách nhiệm của người tin Chúa (Lu 21:29-38)


Trong Kinh Thánh, “cây vả” thường là hình ảnh nói về dân Do Thái (Lu 13:6-10 Os 9:10). Một số người nghiên cứu Kinh Thánh giải thích rằng sự kiện Do Thái lập quốc vào ngày 15/5/1948 là “điềm” Chúa sắp tái lâm. Hẳn đây là sự kiện có ý nghĩa khi dân Do Thái giờ đây là một quốc gia độc lập sau hằng bao thế kỷ sống trong ách nô lệ. Nhưng nhóm từ “các cây khác” (Lu 21:29), được luôn thêm vào cho thấy có nhiều quốc gia có liên quan. Có lẽ Chúa Giê-xu muốn nói rằng sự nổi dậy của phong trào dân tộc chủ nghĩa trên thế giới là sự kiện đáng quan tâm.Trong những năm gần đây, hẳn chúng ta đã chứng kiến sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc và sự xuất hiện của một số quốc gia mới. Đây có thể là “điềm” cho biết sự tái lâm của Chúa đã đến gần.


Tuy nhiên, quan điểm chính ở đây là phải biết điều gì đang diễn tiến. Cây nứt lộc chỉ về mùa hạ sắp đến, vậy những điềm này xảy ra cho biết sự tái lâm của Chúa đã đến gần (Lu 12:54-57). Điều quan trọng, người tin Chúa phải biết rằng Đức Chúa Trời luôn thành tín với lời hứa của Ngài, và lời Ngài sẽ không sai trật (Gio 23:14).


Lu 21:32 nói về “thế hệ” nào? Một số người nghi ngờ về việc Chúa sẽ trở lại theo đúng nguyên văn Kinh Thánh nên nghĩ rằng cây này áp dụng cho thế hệ của các sứ đồ. Vì vậy sự tái lâm của Chúa có thể là sự giáng lâm của Đức Thánh Linh vào lễ Ngũ tuần (Cong 2:1-47) hoặc


Vào thời điểm Giê-ru-sa-lem bị tàn phá năm 70 SC! Nhưng không có điềm nào Chúa Giê-xu nói đến đã xảy ra trước hoặc trong diễn tiến của những biến cố lịch sử ấy. Cũng không điềm nào xảy ra khi Y-dơ-ra-ên được giải phóng và lập quốc.


Có lẽ Chúa muốn nói về thế hệ đang sống trên đất vào thời điểm những điềm này xảy ra. Ngài không nói rằng phải mất thời gian của một thế hệ mới hoàn tất những sự kiện này vì khi đã bắt đầu rồi thì nó xảy ra rất nhanh chóng. Từ Hy Lạp được dịch là “thế hệ” cũng có thể có nghĩa “chủng tộc” và có thể nói về dân tộc Y-sơ-ra-ên. Chúa Giê-xu đã sử dụng ý này trong Mac 8:12,38 và Mac 9:19. Chúa Giê-xu xác nhận với các môn đệ: dù dân Y-sơ-ra-ên chịu nhiều hoạn nạn nhưng dân này sẽ được Đức Chúa Trời gìn giữ nên không bị tuyệt diệt. Sa-tan muốn dân Y-sơ-ra-ên nhưng nó sẽ thất bại.


Lời khuyên thứ nhất của Chúa là “hãy tự giữ lấy mình” và lời khuyên thứ hai “hãy tỉnh thức luôn! ” (Lu 21:34-36). Dù mang ý nghĩa đặc biệt đối với dân Do Thái trong kỳ hoạn nạn, nhưng 2 lời khuyên cũng dành cho con cái Đức Chúa Trời ở mỗi thời đại. “Hãy tỉnh thức luôn” không có nghĩa là chúng ta cứ tìm kiếm những điềm lạ, nhưng có nghĩa như “Hãy cẩn thận! Đừng lơ là! ”. Hôm nay lời khuyên ấy cũng là lời cảnh tỉnh chúng ta, bởi chúng ta dễ bị “mỏi mệt” bởi những lo toan của đời này cùng những cám dỗ vật chất và thể xác (Lu 12:35-48).


Trong kỳ khó khăn, con người dễ “đầu hàng” hoàn cảnh và bắt đầu sống như người thế gian. Vì vậy, Cơ Đốc nhân sẽ đối diện với sự cám dỗ trong kỳ hoạn nạn. Chúng ta phải “tỉnh thức và cầu nguyện” hầu có thể chống lại sự cám dỗ quanh mình, vì chúng ta thảy điều muốn trong thế sẵn sàng khi Chúa trở lại. Lu 21:36 nói về việc các Cơ Đốc nhân sẽ đứng trước mặt Chúa để chịu phán xét khi Ngài trở lại và lập vương quốc Ngài (Mat 25:31-46). “Chiên” sẽ vào thiên đàng, còn “đê” sẽ bị đuổi ra ngoài. Một số con cái Chúa bị giết và chịu sự bắt bớ trong kỳ hoạn nạn, nhưng có một số được bình yên để gặp Chúa khi Ngài tái lâm trong vinh hiển.


Nếu trong kỳ khó khăn tín hữu bị cám dỗ chiều theo thế gian và xác thịt, vậy trong kỳ thuận lợi và sung túc sẽ “phải đương đầu với nhiều hiểm hoạ hơn. Hôm nay chúng ta không biết khi nào Chúa mình trở lại, nên phải luôn trung tín và sẵn sàng.


Mục sư Hội trưởng lão ở Tô-cách-lan là Robert Murray Mc Cheyne đôi khi hỏi nhiều người rằng. “Bạn có tin Chúa Giê-xu sẽ tái lâm hôm nay không?” Họ đều đáp “không”. Đoạn Mc Cheyne nói tiếp: “Vậy bạn nên chuẩn bị thì hơn, vì Ngài sẽ đến vào giờ bạn không ngờ”.

Vance Havner nói: “Tôi không chờ đợi những dấu lạ, tôi sẽ lắng nghe một âm thanh”. Đó là tiếng kèn, tiếng của Thiên sứ trưởng!”

“Lạy Đức Chúa Giê-xu, xin hãy đến!” (Kh 22:20).



 


21. TRONG PHÒNG CAO (Lu 22:1-71)


Chúa Giê-xu “quyết định đi thành Giê-ru-sa-lem” (Lu 9:51), biết rõ những điều sẽ xảy đến cho Ngài ở đó, và giờ đây những biến cố ấy sẽ đến. Đó không phải là những tai hoạ, nhưng là những việc phải được thực hiện bởi đã do Cha trên trời định trước và được Kinh Thánh Cựu Ước chép ra từ bao thế kỷ trước (Lu 24:26-27). Chúng ta chỉ có thể hạ mình trước Đấng Christ và kính yêu Ngài nhiều hơn khi biết Ngài đã dạn dĩ bước vào giai đoạn thương khó và chịu chết. Hãy nhớ rằng Ngài làm điều đó vì chúng ta!


Bữa ăn tối trong kỳ lễ Vượt Qua tại phòng cao là trọng tâm bài học của chúng ta.


1. Trước bữa ăn tối: sự chuẩn bị (Lu 22:1-13)

Theo lịch Do-thái, có 3 kỳ lễ quan trọng nhất là: Lễ Vượt Qua, Lễ Ngũ tuần và lễ Lều Tạm (Le 23:1-44). Vì vậy, hằng năm mọi người dân Do-thái đều đến Giê-ru-sa-lem dự lễ (Phuc 16:16). Lễ Vượt Qua kỷ niệm dân Y-sơ ra-ên được giải thoát khỏi Ai Cập, là thời kỳ đáng ghi nhớ và vui mừng (Xu 11:1-12:51).

Hằng ngàn người từ khắp nơi nô nức đổ về Giê-ru-sa-lem suốt kỳ lễ, điều này khiến các nhà cầm quyền La-mã lo ngại về những cuộc nổi loạn có thể xảy ra. Lễ Vượt Qua mang những hàm ý mạnh mẽ có tính chính trị, nên đây là thời điểm lý tưởng cho kẻ nào tự xưng là “Đấng Mê-si-a” tìm cách lật đổ Rô-ma. Đó cũng là lý do vua Hê-rốt và quan tổng đốc Phi-lát đại diện chính quyền Rô-ma có mặt tại Giê-ru-sa-lem, thay vì ở Tiberius và Caesarea. Họ muốn góp phần giữ an ninh ở đây!


Các lãnh đạo trong đền thờ chuẩn bị thực hiện một tội ác (Lu 22:1-6). Thật không thể ngờ rằng những con người này lại phạm vào một tội lỗi nghiêm trọng nhất trong lịch sử suốt kỳ lễ thiêng liêng nhất của dân Do-thái.

Vào lễ Vượt Qua, dân Do-thái phải dẹp mọi thứ men ra khỏi nhà mình (Xu 12:15)để nhớ rằng tổ phụ họ đã thoát khỏi Ai-cập nhanh chóng và phải ăn bánh không men. “Chúa Giê-xu cảnh cáo môn-đệ về men của người Pha-ri-si, là sự giả hình” (Lu 12:1; Mat 6:1; ICôr 5:1-8), và giờ đây chúng ta thấy sự giả hình này đang hành động.


Các chức sắc đền thờ chỉ dọn dẹp nhà cửa mình sạch sẽ, nhưng tấm lòng họ đầy sự ô uế (Mat 23:25-28). Từ lâu, họ muốn bắt và giết Chúa nhưng không có cách nào để chữa mình trước dân chúng. Giu-đa đã giải quyết nan đề thay họ. Hắn hứa sẽ giao nộp Chúa cho họ cách bí mật để tránh sự phản kháng của dân chúng. Điều cuối cùng mà toà công luận mong đợi là một cuộc nổi dậy Mê-si-a ở kỳ lễ Vượt Qua (Lu 19:11).


Sa-tan đã cám dỗ Giu-đa (Gi 13:2,27) vì anh ta chưa bao giờ thật sự tin nơi Chúa Giê-xu. Tội lỗi anh ta chưa được Chúa tẩy sạch (Gi 13:10-11) và anh ta chưa bao giờ tin nhận sự sống đời đời (Gi 6:64-71). Thế nhưng không ai trong số các sứ-đồ nghi ngờ gì về sự phản bội của Giu-đa. Chúng ta đều có cớ tin rằng Giu-đa cũng được ban cho quyền phép như các sứ-đồ khác, anh ta đã rao truyền cùng một sứ điệp và làm những phép lạ giống nhau. Điều này cho thấy một người có thể đến gần Vương quốc Đức Chúa Trời nhưng rồi vẫn có thể bị hư mất (Mat 7:21-29).


Vì sao Giu-đa phản Chúa? Chúng ta hẳn biết anh ta là một “tay trộm cắp” (Gi 12:4-6) và tiền bạc đóng vai trò quan trọng trong hành động tội ác gớm ghiếc của anh ta. Đối với tội lỗi như thế, 30 nén bạc chẳng phải là món tiền công hậu hĩnh, mà nó còn có nguyên nhân khác. Có thể qua Chúa Giê-xu, Giu-đa biết về sự cứu dành cho dân Do-thái nên đã theo Ngài và mong giữ một địa vị trong Vương quốc Ngài. Hãy nhớ rằng các sứ đồ thường bàn luận về việc ai sẽ là kẻ lớn nhất ở Nước Trời, và dĩ nhiên một kẻ tính toán như Giu-đa cũng tham gia những cuộc bàn luận quan trọng ấy.


Khi nhận ra rằng Chúa Giê-xu sẽ không lập Vương quốc Ngài nhưng phải chịu bắt bớ dưới tay các bậc cầm quyền, Giu-đa quay lưng lại với Chúa trong sự trả đũa cay đắng. Chất “men” trong đời sống Giu-đa cứ âm ỉ dậy lên cho đến khi sản sinh ra sự “gian ác độc dữ” (ICôr 5:6-8). Nếu thoả hiệp với Sa-tan, bạn sẽ phải trả một giá đắt. Vì vậy Giu-đa đã đi đến chỗ tự huỷ diệt mình (Mat 27:3-5). Sa-tan vốn là kẻ nói dối và kẻ giết người, nên nó đã tái hiện bản chất nó trong con người Giu-đa (Gi 8:44).


 Chúa Giê-xu chuẩn bị cho lễ Vượt Qua (Lu 22:7-13) Cách Chúa Giê-xu chuẩn bị cho lễ Vượt Qua chứng tỏ Ngài đã biết có những âm mưu đang được bày ra. Ngoài Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ và Giăng ra, các môn đệ không biết bữa tiệc sẽ được tổ chức ở đâu. Mãi đến khi vào Phòng cao, họ mới biết. Nếu Giu-đa biết trước, hẳn sẽ thông báo cho các bậc cầm quyền.


Phi-e-rơ và Giăng không gặp khó khăn gì khi xác định người đàn ông nào mang vò nước, vì đàn ông hiếm khi mang vò nước, đó là nhiệm vụ của phụ nữ. Cũng giống như người chủ lừa (Lu 19:28-34) người đàn ông vô danh này là một môn đệ của Chúa Giê-xu, đã chuẩn bị dọn dẹp nhà mình cho Chúa dự lễ Vượt Qua cuối cùng của Ngài.


Phi-e-rơ và Giăng sẽ chọn một chiên con không tì vít, đem đến đền thờ để giết nó. Sau đó, họ mang chiên con và các thứ cần thiết đến ngôi nhà đã hẹn trước. Ở đó, chiên con sẽ bị quay trên lửa. Bàn tiệc được dọn lên gồm có rượu, bánh không men, và rau đắng để nhắc nhở dân Do-thái về ách nô lệ triền miên đắng cay ở Ai-cập (Xu 12:1-28).


Vấn đề về thời gian là điều đáng nói ở đây.

Phải chăng các tác giả Phúc-Âm đã mâu thuẫn nhau? Theo Gi 18:28, các nhà cầm quyền Do-thái chưa dự lễ Vượt Qua và ngày Chúa Giê-xu bị bắt là “ngày sắm sửa về lễ Vượt Qua” (Gi 19:14). Nhưng Chúa và các môn đệ đã dự lễ Vượt Qua trước! Trong cuốn sách “Sự hài hòa giữa các sách Phúc-Âm” (Harmony of the Gospels - Harper & Row), Robert Thomas và Stanley Gundry đã đưa ra lời giải thích hữu lý cho vấn đề này. Thời ấy, dân Do-thái tính ngày theo 2 cách từ lúc mặt trời lặn hôm nay đến mặt trời lặn ngày hôm sau, hoặc từ mặt trời mọc hôm nay đến mặt trời mọc hôm sau. Cách tính thứ nhất theo truyền thống của người Do-thái (Sa 1:5) còn cách thứ hai của người Rô-ma mà trước đây Kinh Thánh cũng nói đến (Sa 8:22).


Nếu Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca sử dụng cách tính ngày của người Do-thái và Giăng sử dụng cách tính của người Rô-ma, vậy không hề có sự mâu thuẫn. Cách tính chồng lặp về ngày cho phép cả 2 nhóm người dự lễ cùng một ngày nhưng lại khác thứ. Các thầy tế lễ trong đền thờ cho phép dân Do-thái đem chiên con đến giết sớm hơn hoặc trễ hơn. Rõ ràng, các chức sắc Do-thái theo cách tính ngày của người Rô-ma (Gi 18:28), còn Chúa Giêxu và các môn đệ theo cách tính của dân Do-thái. Chúa chúng ta bị đóng đinh trong kỳ lễ Vượt Qua vào thời điểm các chiên con bị giết, làm trọn lời tiên tri trong Cựu-ước.


2. Trong bữa ăn tối: Lời mạc khải (Lu 22:14-16,21-38)

Các môn đệ không biết điều gì sẽ xảy đến khi họ nhóm lại ở Phòng cao, nhưng hôm ấy đã trở nên một buổi tối của sự mạc khải đau thương. Chúa Giê-xu vị chủ tiệc đã tiếp họ bằng cái hôn bình an theo truyền thống Do-thái (Ngài đã hôn Giu-đa như vậy!). Mọi người ngồi quanh bàn, Giu-đa ở bên trái Chúa và Giăng ở bên phải (Gi 13:23)


Chúa bày tỏ tình yêu Ngài (Lu 22:14-16): Chúa bày tỏ tình yêu qua lời Ngài phán và việc Ngài làm. Ngài cho các môn đệ yêu dấu biết rằng Ngài rất muốn cùng họ dự lễ Vượt Qua cuối cùng này trước khi phải chịu thương khó. Lễ Vượt Qua kỷ niệm hành trình của dân Do-thái thoát khỏi đất Ai-cập hằng thế kỷ trước. Nhưng Chúa Giê-xu sẽ thực hiện một “hành trình” vĩ đại hơn trên thập tự giá. Ngài sẽ mua chuộc sự cứu rỗi cho một thế giới tội lỗi và hư mất (Lu 9:31).


Đoạn Ngài đứng dậy, lấy khăn vấn ngang lưng mình và rửa chân cho các môn đệ kể cả Giu-đa (Gi 13:1-20). Buổi tối hôm đó, các sứ đồ biện luận nhau xem ai sẽ là lớn nhất, vì vậy họ chẳng để tâm đến bài học về sự khiêm nhường và tinh thần phục vụ này. Có lẽ Phi-e-rơ đã nhớ cảnh tượng này khi những năm sau ông khuyên mọi người “phải trang sức bằng sự khiêm nhường” (IPhi 5:5; Phi 2:1-11).


Lời Chúa trong c.16 cho thấy sẽ không có lễ Vượt Qua nào nữa trong “lịch” Đức Chúa Trời. Lễ Vượt Qua kế tiếp sẽ là bữa tiệc lớn ở Nước Trời khi Ngài trở lại trên đất để thiết lập quyền cai trị của Ngài (Lu 22:28-30; Lu 13:24-30; Mat 8:11-12). Ngài nhìn vượt trên sự thống khổ để thấy vinh hiển, vượt trên thập tự giá đã thấy mão triều thiên. Và bởi tình yêu Ngài đã dang rộng vòng tay tiếp nhận những kẻ được gọi là “bạn hữu” Ngài.


 Chúa nói trước về sự phản bội (Lu 22:21-23): Chúa đã hé mở cho môn-đệ rằng sẽ có một người trong số họ không thật tâm theo Ngài (Gi 6:66-71), nhưng giờ đây Ngài công khai nói về kẻ phản bội trước mặt họ. Tuy nhiên, Ngài làm điều này không vì các môn-đệ, mà vì Giu-đa. Ngài đã hôn Giu-đa, rửa chân cho ông ta và bây giờ lại muốn cho ông ta một cơ hội ăn năn. Thật là điều ý nghĩa khi Chúa không công khai chỉ đích danh Giu-đa là kẻ phản bội, nhưng bảo vệ Giu-đa đến giờ phút cuối cùng.


Nếu biết trước rằng Giu-đa sẽ phản bội, sao Chúa lại chọn ông ta vào vị trí quan trọng như vậy? Nếu phải có người phản bội Chúa, vậy tại sao Ngài lên án Giu-đa?Nói cho cùng, Giu-đa chỉ đơn giản làm theo ý Đức Chúa Trời và làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Cựu-ước (Thi 41:9; Thi 55:12-14; so sánh Thi 69:25 và Thi 109:8 với Công 1:15-20).


Trước khi chọn lựa 12 sứ-đồ, Chúa Giê-xu đã thức trọn đêm để cầu nguyện (Lu 6:12-16). Vì vậy chúng ta phải tin rằng, việc Giu-đa được chọn giữa các sứ-đồ là ý muốn của Đức Chúa Trời (Gi 8:29). Nhưng việc Giu-đa được chọn không quyết định số phận ông ta, đúng hơn đó chính là cơ hội để ông ta có thể chăm xem Chúa Giê-xu, tin nhận Ngài để được cứu.

Trong quyền tể trị của Đức Chúa Trời, Ngài định trước rằng Con Ngài phải bị một bạn hữu phản bội. Tuy nhiên, sự biết trước của Đức Chúa Trời không loại bỏ đến trách nhiệm và quyết định của con người. Giu-đa đã tự do quyết định điều mình làm, nên phải bị xét đoán tương xứng, dù anh ta vẫn làm trọn ý định Đức Chúa Trời (Công 2:23).


Việc các môn đệ bối rối khi nghe sự bày tỏ kỳ lạ này cho thấy họ không biết bản chất thật của Giu-đa, nên cứ thắc mắc ai trong chúng ta sẽ làm việc gớm ghiếc đó? Họ cũng không biết về những lời tiên tri trong Thi thiên và không nhớ lời Chúa phán trước rằng Ngài sẽ bị nộp vào tay kẻ thù (Mat 17:22; Mat 20:18). Nếu Phi-e-rơ thật sự biết trước điều xảy ra, có lẽ ông ta đã cho Giu-đa nếm mùi lưỡi gươm của mình!


Còn nhiều điều bí ẩn về Giu-đa chúng ta chưa biết hết nên chúng ta không nên suy đoán quá nhiều. Chắc chắn Giu-đa là một nhân chứng cho sự vô tội của Chúa Giê-xu, vì nếu có ai có thể nêu lên chứng cớ nghịch lại Ngài thì người đó chính là Giu-đa. Các nhà cầm quyền phải tìm những chứng dối để có cớ nghịch Chúa. Giu-đa thừa nhận rằng đã “nộp huyết vô tội” (Mat 27:4).


Vào thời điểm này, Giu-đa rời khỏi Phòng cao để đến với các chức sắc đền thờ, chuẩn bị bắt Chúa trong vườn, khi Giu-đa đi ra, “trời đã tối” (Lu 22:53) vì muốn phục dưới “quyền của sự tối tăm” (Lu 22:53). Than ôi, chỉ vì Giu-đa mà trời tối và mãi mãi tăm tối!


Chúa bày tỏ về tính chất thế gian của các môn đệ (Lu 22:24-30): Đây không phải là lần đầu các môn đệ phạm lỗi này (Lu 9:46-48; Mat 20:20-28; Mac 9:33-37), nhưng qua ánh sáng của lời Chúa phán và việc Chúa làm, hành động cuối cùng của họ không cớ nào để bào chữa được. Có lẽ cuộc tranh luận bắt đầu khi họ suy đoán ai sẽ phản bội Chúa, hoặc có thể giữa họ đã nảy sinh sự ganh tị về chỗ ngồi ở bàn ăn. Khi bạn quan tâm đến sự cất nhắc của bản thân, cuộc tranh luận sẽ nhanh chóng nổi lên chớ chẳng phải chờ lâu!


Chúa phải giải thích rằng cách suy nghĩ của họ giống như người ngoại chớ không giống con cái Đức Chúa Trời. Người Rô-ma đặc biệt luôn giành cho được địa vị và danh vọng, nhưng họ không phải là tấm gương cho chúng ta. Trong mọi sự, Chúa Giê-xu là tấm gương cho chúng ta noi theo, Ngài xứng đáng là mực thước của sự cao trọng thật.


“Sự cao trọng thật” nghĩa là “giống Chúa Giê-xu”, phục vụ người khác. Đầy tớ không tranh luận ai sẽ là người cao trọng nhất, vì biết mình thấp hèn nhất và người ấy nhận điều này nơi Đức Chúa Trời. Vì mọi Cơ-đốc nhân đều là người hầu việc, nên chúng ta không có cớ tranh giành danh vọng với người khác. Tiếc thay, tinh thần ganh đua này đang nổi lên trong Hội thánh hôm nay khi con người tự đề cao bản thân và chức vị mình như những “kẻ cao trọng nhất”.


Chúa kết thúc bài học về sự phục vụ bằng cách bày tỏ cho họ phần thưởng trong Nước thiên đàng (Lu 22:28-30). Dù yếu đuối thất bại, các môn đệ vẫn đứng vững và trung thành với Chúa suốt thời gian Ngài thi hành chức vụ trên đất, và Đức Chúa Trời sẽ thưởng công cho sự trung tín của họ. Hôm nay, chúng ta không nên e ngại làm những người hầu việc, vì chúng ta sẽ ngồi với Chúa trong Nước thiên đàng. Vì vậy sự hầu việc trung tín của chúng ta hôm nay chuẩn bị cho chúng ta phần thưởng trong tương lai. Chúa đưa ra ví dụ về thập tự giá và sau đó là mão triều thiên.


Chúa cho biết trước về sự chối Chúa của Phi-e-rơ (Lu 22:31-38): Thật thú vị khi lời báo trước này tiếp theo lời khiển trách về việc ai sẽ là kẻ cao trọng nhất! Bạn hình dung xem các môn đệ suy nghĩ ra sao khi họ biết rằng không những sẽ có một người trong số họ phản Ngài, nhưng Chính Phi-e-rơ người phát ngôn và lãnh tụ của họ cũng công khai chối Ngài. Nếu một người mạnh mẽ như Phi-e-rơ còn chối Chúa, vậy những môn đệ kia còn có hy vọng gì đứng vững?


Chữ “ngươi” trong Lu 22:31 là đại danh từ số nhiều Sa-tan đòi có tất cả các môn đệ để nó có thể sàng sảy họ như lúa mì. Họ đã theo Chúa trong mọi thử thách (Lu 22:28) hẳn Ngài sẽ không bỏ rơi họ trong sự thử thách. Đây là một lời cảnh cáo, cũng là sự an ủi khích lệ Phi-e-rơ và các môn đệ. Lời cầu nguyện của Chúa Giê-xu đã được Đức Chúa Trời nhậm, Phi-e-rơ ngã lòng nhưng không mất đức tin. Ông đã được phục hồi mối liên hệ với Đấng Christ và được đại dụng trong việc làm vững mạnh dân Chúa.


Sự khoe khoang có tính chủ quan của Phi-e-rơ nhắc nhở chúng ta rằng không ai trong chúng ta hiểu rõ lòng mình (Gie 17:9) và chúng ta có thể vấp ngã ở lãnh vực mà mình cho rằng mạnh mẽ nhất. Sức mạnh vĩ đại nhất của Áp-ra-ham là đức tin, nhưng ông đã yếu đức tin khi đến xứ Ai-cập và nói dối về Sa-ra (Sa 12:10-13:4). Sức mạnh của Môi-se là sự khiêm nhu (Dan 12:3) nhưng khi nổi giận ông đã nói ra những lời thiếu suy nghĩ nên không được vào xứ Ca-na-an (Dan 20:1-29). Phi-e-rơ là người can đảm nhưng sau đó đã chùn bước và chối Chúa 3 lần. “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICôr 10:12).


Từ “hối cải” ở Lu 22:32 có nghĩa là “quay trở lại”. Phi-e-rơ là kẻ được cứu, nhưng sau đó đã bắt đầu đi chệch hướng và được kêu gọi trở lại ăn năn hối cải với Chúa. Ông không bị mất món quà của sự sống đời đời, nhưng ông không vâng lời Chúa, và gây nguy hại cho địa vị làm môn đệ Ngài. Tất cả các môn dồ đều bỏ rơi Chúa, thậm chí Phi-e-rơ đã chối Ngài trước thiên hạ. Đây là bài học cho chúng ta thấy sự yếu đuối của con người.


Các môn đệ không hiểu rõ ý nghĩa của lời Chúa khuyên trong Lu 22:35-38, vì họ chỉ hiểu lời Ngài theo nghĩa đen hoàn toàn. Sự bạo động bằng gươm của Phi-e-rơ trong vườn là một bằng chứng về điều đó (Lu 22:49-51). Chúa muốn nói về một ý nghĩa rằng: “các ngươi sắp trải qua một giai đoạn hoàn toàn mới. Nếu người đời bắt ta, sẽ có một ngày họ bắt các ngươi. Nếu họ đối xử ta như kẻ tội phạm (Es 53:12), họ cũng sẽ xử các ngươi như thế. Vậy hãy sẵn sàng!”


Suốt thời gian đồng công với Chúa, các môn đệ được sai đi với quyền năng đặc biệt, được đối xử bằng tôn trọng và ưu ái (Lu 9:1; Lu 10:1). Lúc bấy giờ, Chúa Giê-xu là thầy dạy đạo rất nổi tiếng, các bậc cầm quyền không thể tấn công môn đệ Ngài.Nhưng đến lúc này “giờ Ngài đã dến” và hoàn cảnh đã thay đổi nhanh chóng.

Hôm nay, con cái Đức Chúa Trời cũng giống khách lạ trên lãnh địa kẻ thù, vì vậy chúng ta phải hầu việc Chúa bằng đức tin và lương tri được thánh hoá. Đây là lời khuyên hữu ích cho những người quá khích tự đưa mình vào chỗ nguy hiểm rồi mong đợi Chúa làm phép lạ giải cứu. Sứ đồ Phao-lô đã biết cách sử dụng “gươm”của con người như thế nào để bảo vệ mình cũng như bảo vệ Phúc-Âm của Chúa (Rô 13:1-14; Công 16:35-40; Công 21:37-40; Công 25:11).


Câu nói “có 2 thanh gươm” đây hẳn đã làm Chúa buồn lòng, vì nó chứng tỏ các môn đệ đã hiểu sai lời phán của Ngài. Lẽ nào họ lại nghĩ rằng Ngài cần được họ bảo vệ? Hoặc bây giờ Ngài sẽ lật đổ Rô-ma để lập vương quốc Ngài? “y là đủ” có nghĩa như “Đừng nói thêm về việc này nữa” (Phuc 3:26). Vương quốc Ngài được lập nên chẳng phải bởi gươm loài người (Gi 18:36-37) nhưng bởi quyền lẽ thật từ Đức Chúa Trời vì Lời Đức Chúa Trời sắc hơn gươm loài người (Eph 6:17; He 4:12).


3. Sau bữa ăn tối lễ tưởng nhớ (Lu 22:17-20)

Khi tiệc lễ Vượt Qua chấm dứt, Chúa lập một Thánh lễ mà Hội thánh gọi là “Tiệc thánh” (là tiệc thông công, hoặc “Tiệc thánh của Chúa” (ICôr 10:16; ICôr 11:20).


Lễ Vượt Qua được bắt đầu bằng lời cầu nguyện tạ ơn. Sau đó người ta uống chén rượu đầu tiên trong số 4 chén (Rượu được pha loãng với nước nên không làm cho say). Tiếp đó, người ta ăn rau đắng và hát Thi 113:1-114:8. Kế đến, họ uống chén rượu thứ 2 và ăn thịt chiên con cùng bánh không men. Sau khi uống chén rượu thứ 3, họ hát Thi 115:1-118:29. Cuối cùng, chén rượu thứ 4 sẽ được chuyền tay nhau để uống. Có lẽ chén rượu sau cùng này đã được Chúa Giê-xu sử dụng khi Ngài lập Tiệc Thánh.


Phao-lô cho biết trật tự của Tiệc Thánh trong ICôr 11:23-26. Trước tiên Chúa Giê-xu bẻ bánh không men, cảm tạ Đức Chúa Trời và trao cho các môn đệ. Ngài phán rằng bánh ấy tượng trưng cho thân thể Ngài đã tan nát vì họ. Sau đó, Ngài cầm chén, tạ ơn và phán rằng chén ấy tượng trưng cho huyết Ngài. Đây là hình thức đơn giản, sử dụng những yếu tố cơ bản trong một bữa ăn khiêm tốn của người Do-thái. Chúa Giê-xu đã thánh hóa những điều đơn sơ trong cuộc sống và sử dụng chúng để rao ra những lẽ thật thuộc linh thâm thuý.


Chúa xác định mục đích của Tiệc Thánh “...để nhớ đến ta” (ICôr 11:24-25). Đây là hình thức nhắc nhở Cơ-đốc nhân rằng chính Chúa Giê-xu đã hy sinh thân Ngài và đổ huyết ra để cứu chuộc thế giới. Trong câu chuyện của lễ Tiệc Thánh chúng ta, không có điều gì “kỳ diệu” nào xảy ra khi Chúa Giê-xu chúc phước trên bánh và chén. Bánh vẫn là bánh và chén vẫn là chén.

Hành động ăn bánh và uống chén không tạo nên một điều gì đặc biệt đối với các môn đệ. Khi dự Tiệc Thánh, chúng ta đồng nhất hoá chính mình với thân và huyết Chúa (ICôr 10:16) chớ không có nghĩa là chúng ta “nhận” chính thân thể và huyết Ngài!


Mục đích thứ 2 của Tiệc Thánh là “rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” (ICôr 11:26). Tiệc Thánh giúp ta nhớ lại những gì Chúa đã làm cho mình trên thập tự giá hầu thêm sự yêu mến và tôn quí Ngài, Tiệc Thánh còn giúp ta nhìn tới tương lai với sự tin cậy về ngày Chúa trở lại. Bởi chúng ta phải cẩn thận đừng bước vào bàn Tiệc thánh của Chúa với tội còn đó chưa ăn năn. Tiệc thánh còn là dịp tiện để chúng ta nhìn vào bên trong xem xét tấm lòng mình cũng như để xưng nhận tội lỗi mình trước Chúa (ICôr 11:27-32).


Phước hạnh thứ 3 của Tiệc Thánh là sự nhắc nhở về tính hiệp nhất của Hội Thánh: chúng ta là “một cái bánh” (ICôr 10:17). Đây là Tiệc Thánh của Chúa chớ không phải là hình thức đặc biệt của giáo phái Cơ-đốc nào cả. Mỗi khi dự Tiệc Thánh, mọi Cơ-đốc nhân đều được nhắc nhở về nhiệm vụ “dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh” (Eph 4:3).


Đối với chúng ta, nhận ơn phước thuộc linh từ Tiệc Thánh không chỉ đơn giản là việc tham dự tiệc ấy. Chúng ta phải “phân biệt thân Chúa” (ICôr 11:29), nghĩa là xem xét những lẽ thật thuộc linh vốn có nơi bánh và chén. Sự phân biệt thuộc linh này đến từ Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh khiến mọi sự này trở nên một lẽ thật khi chúng ta đứng trước bàn tiệc của Chúa.


Sau khi lập Tiệc Thánh, Chúa Giê-xu dạy môn-đệ nhiều lẽ thật mà họ cần phải biết để thi hành chức vụ Chúa giao một cách kết quả giữa thế gian đầy thù hận (Gi 14:1-16:33). Ngài cầu nguyện cho các môn-đệ (Gi 17:1-26) và cùng họ hát một Thánh ca. Sau đó rời phòng cao để đến vườn Ghết-sê-ma-nê. Giu-đa biết mọi người sẽ đến đó nên bảo các quân lính sẵn sàng bắt Ngài.


Khi xem đến đoạn này, bạn sẽ không khỏi xúc động về sự bình tĩnh và can đảm của Đấng Christ. Chính Ngài là Đấng làm chủ mọi tình thế xảy đến chớ không phải Sa-tan, Giu-đa hay Toà Công luận. Chính Ngài khích lệ các môn đệ, thậm chí Ngài còn có thể hát Thánh ca trước khi đến chịu chết trên thập giá! Isaac Watts có cùng tâm trạng với chúng ta khi bày tỏ rằng:

“Tình yêu Ngài thật quá kỳ diệu, quá thánh khiết. Đòi hỏi linh hồn tôi, sự sống của tôi cùng những gì thuộc về tôi”.


4. Vào đêm người ta bắt Chúa! (Lu 22:39-71)

Chú ý đến những hình ảnh trong câu chuyện này có lẽ là cách tốt nhất để chúng ta nắm được ý nghĩa của những bài học thuộc linh đằng sau những biến cố đau thương xảy ra vào đêm đó. Kinh Thánh tựa như cuốn truyện tranh và cũng là cuốn sách kể lại lịch sử và tiểu sử con người. Những bức tranh này có thể nói cho chúng ta biết nhiều điều. Qua đoạn này, có 6 hình ảnh giúp ta hiểu rõ về sự Thương khó và sự chết của Chúa Giê-xu Christ. Đó là: khu vườn vắng vẻ, cái chén đắt giá, cái hôn giả dối, lưỡi gươm vô dụng, gà gáy và ngôi vinh hiển.


Khu vườn vắng vẻ (Lu 22:39)

Chúa Giê-xu rời khỏi Phòng cao, đi cùng các môn đệ đến vườn Ghết-sê-ma-nê trên núi Ô-li-ve. Đây là nơi quen thuộc Ngài từng ở lại đêm khi đến Giê-ru-sa-lem (Lu 21:37). Biết rõ Chúa ở đó (Gi 8:1-2) Giu-đa đã dẫn quân lính La Mã và những quan coi đền thờ đến bắt Ngài, Đấng đã sẵn sàng phó mình vào tay họ.


Nhưng tại sao địa điểm lại là một khu vườn? Lịch sử loài người khởi đầu tại một khu vườn (Sa 2:7-25) và con người cũng bắt đầu phạm tội trong vườn (Sa 3:1-24). Với những kẻ được cứu chuộc, cả câu chuyện sẽ đạt đến điểm đỉnh trong một “thành phố vườn” nơi không còn sự hiện diện của tội lỗi (Kh 21:1-22:7). Nhưng giữa ngôi vườn nơi con người thất bại và ngôi vườn nơi Đức Chúa Trời cai trị là vườn Ghết-sê-ma-nê, nơi Chúa Giê-xu nhận chén từ tay Cha.


Giăng cho chúng ta biết rằng Chúa đã đi qua khe Xết-rôn khi đến vườn (Gi 18:1). Có lẽ Giăng nhớ lại từng trải của vua Đa-vít khi vua rời Giê-ru-sa-lem để trốn khỏi Ap-sa-lôm con trai ông (IISa 15:1-37 đặc biệt xem IISa 15:23). Cả vua Đa-vít và Chúa Giê-xu đều là những vị vua không ngôi, đồng hành với những người bạn thân nhất và bị chính dân tộc mình phản bội. Tên gọi “Xết-rôn” nghĩa là tối tăm, âm u “Ghết-sê-ma-nê” nghĩa là “máy ép ô-liu”. Hẳn những địa danh này đều có ý nghĩa.


Những hướng dẫn viên ở “Giê-ru-sa-lem hiện đại” có thể dẫn du khách đến 4 địa điểm khác nhau và tuyên bố đó là vườn Ghết-sê-ma-nê khi xưa. Có lẽ một địa điểm được nhiều người chấp nhận và quen thuộc với dân chúng là nơi nằm ngoài bức tường thành Giê-ru-sa-lem ở phía Đông, gần Nhà thờ của mọi dân tộc. Những cây ô-liu ở đó thật rất nhiều tuổi, nhưng dường như chúng không chứng kiến được thời của Chúa Giê-xu, vì dân La-mã đã huỷ phá mọi cây cối khi xâm chiếm đất Giu-đa năm 70 TC.


Vị trí của vườn Ghết-sê-ma-nê không quan trọng bằng thông điệp thuộc linh chúng ta nhận được từ những gì Chúa Giê-xu đã làm ở đó khi Ngài nếm “chén đắng” của Đức Chúa Cha. A-đam đầu tiên đã chống nghịch Đức Chúa Trời tại vườn Ê-đen nên đã đem tội lỗi và sự chết vào thế gian, nhưng A-đam sau cùng (ICôr 15:45) đã đầu phục Đức Chúa Trời tại vườn Ghết-sê-ma-nê nên đã đem sự sống và sự cứu rỗi đến cho mọi kẻ tin nhận.


Cái chén đắt giá (Lu 22:40-46)

Chúa Giê-xu để 8 môn-đệ ở lại một nơi và đem Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện (Mac 14:32-33). Đây là lần thứ 3 Ngài chia sẻ dịp tiện đặc biệt với họ. Lần thứ 1 khi Chúa gọi con gái Giai-ru sống lại (Lu 8:41-56), lần thứ 2 khi Ngài hóa hình trước mặt họ (Lu 9:28-36). Hẳn phải có một thông điệp thuộc linh ở đây!


Tấn sĩ G.Campell Morgan nhà giải kinh người Anh nêu lên, rằng mỗi trường hợp trong số này đều có liên quan đến sự chết. Ở nhà Giai-ru, Chúa Giê-xu bày tỏ chính Ngài là Đấng đắc thắng sự chết. Trên núi hóa hình, Ngài được vinh hiển qua sự chết (Ngài cùng Môi-se, và Ê-li nói về sự “vượt qua” của Ngài ở Giê-ru-sa-lem Lu 9:31). Tại khu vườn Ghết-sê-ma-nê, Ngài đầu phục sự chết. Trong số 3 sứ-đồ này, Gia-cơ là sứ-đồ chịu chết trước tiên (Công 12:1-2), Giăng chết sau cùng, Phi-e-rơ phải trải qua sự bắt bớ khủng khiếp và sau đó bị đóng đinh. Ba bài học này rất thực tế cho đời sống họ.


Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời nên Ngài biết rõ mình sẽ sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên tâm thần Ngài vẫn nếm trải sự đau đớn tột cùng khi nhìn thấy những sự việc sắp xảy đến cho mình. Lúc ấy, Ngài sẽ bị sỉ nhục, mắng nhiếc và chịu đau đớn trên thập tự giá. Hơn thế, Ngài bị định tội vì chúng ta và bị phân cách với Đức Chúa Cha. Ngài gọi từng trải này là “uống chén” (Es 51:17,22; Thi 73:10; Thi 75:8; Gie 25:15-28).


Các sách Phúc-Âm bày tỏ rằng Chúa Giê-xu cầu nguyện 3 lần về “chén” Ngài phải uống và đến với môn đệ 3 lần nhưng chỉ thấy họ ngủ. Họ chẳng để tâm gì đến thử thách và nguy hiểm ở trước mặt! Sẽ ý nghĩa với Chúa biết bao nếu có sự cầu nguyện của họ hỗ trợ khi Ngài đối diện với Gô-gô-tha (He 5:7-8).


Lu-ca là tác giả Phúc-Âm duy nhất chú ý chi tiết “mồ hôi trở nên như giọt máu lớn rơi xuống đất”. Có một hiện tượng vật lý hiếm hoi xảy ra khi dưới áp lực tâm lý nặng nề, các mạch máu nhỏ sẽ vỡ ra trong những tuyến mồ hôi, tạo nên hỗn hợp máu và mồ hôi. A-đam đầu tiên đã phạm tội trong vườn nên bị định tội “sẽ làm đổ mồi hôi trán mới có mà ăn” (Sa 3:19). A-đam sau cùng là Chúa Giê-xu đã vâng phục Cha trên trời trong khu vườn và đắc thắng tội lỗi của A-đam (Rô 5:12-21).


Lu-ca cũng là tác giả duy nhất chú ý đến công việc của thiên sứ (Lu 22:43).

Thực ra, sách Lu-ca và Công-vụ đều dành cho các Thiên sứ một vị trí quan trọng trong công tác của Chúa. Các vị ấy không thể chết thay cho chúng ta, nhưng chỉ có thể thêm sức cho Đấng Christ khi Ngài dạn dĩ nhận “chén” của Đức Chúa Cha.

Tấn sĩ George Morrison nói rằng: “Mỗi đời sống đều có một Ghết-sê-ma-nê, và mỗi Ghết-sê-ma-nê đều có thiên sứ”.

Thật là điều khích lệ cho con cái Đức Chúa Trời khi phải vật lộn với nghịch cảnh và cầu nguyện trước những quyết định đắt giá!


Cái hôn giả dối (Lu 22:47-48)

Có người nói rằng “cái hôn” tựa như “sự thu nhỏ của môi miệng bởi con tim mở rộng”. Nhưng không phải mọi cái hôn đều xuất phát từ lòng yêu thương, vì những cái hôn có thể là giả dối. Ở trường hợp của Giu-đa, cái hôn của anh ta thuộc loại đê tiện nhất trong sự giả dối và phản bội.


Thời đó, các môn đệ thường chào thầy mình bằng một cái hôn đầy kính trọng và yêu quý. Giu-đa dùng cái hôn để làm ám hiệu cho những kẻ bắt Chúa biết Ngài là ai (Mat 26:48-49). Chúa Giê-xu hằng ngày đã dạy dỗ trong đền thờ, nhưng các quan coi đền thờ không nhận ra Ngài!


Sự hiện diện của đám lính trang bị gươm giáo ấy chứng tỏ Giu-đa biết về Chúa Giê-xu quá ít. Lẽ nào Giu-đa nghĩ rằng Chúa sẽ lo chạy trốn hay ẩn nấp đâu đó trong vườn? Giu-đa hẳn tưởng rằng Chúa và các môn đệ sẽ kháng cự nếu không, anh ta đã không huy động nhiều sự giúp đỡ như vậy. Có lẽ Giu-đa sợ Chúa sẽ làm phép lạ. Nếu Ngài làm phép lạ, đám lính mang gươm giáo kia có thể làm được gì để đối phó với quyền phép của một Đức Chúa Trời toàn năng?


 Giu-đa là kẻ giả dối giống như Sa-tan vì nó đã vào lòng anh ta (Gi 13:27 Gi 8:44).

Giu-đa làm ô uế mọi thứ mình rờ đến: tên anh ta, tập thể môn đệ (Lu 6:13-16), quà dâng cho Chúa (Gi 12:1-8) và cái hôn. Giu-đa thậm chí còn xâm phạm đến buổi cầu nguyện riêng, khiến buổi ấy bị ô uế bởi sự hiện diện của mình. Anh ta đã phản bội Đấng Christ bằng một cái hôn. “Bạn hữu làm cho thương tích, ấy bởi lòng thành tín còn sự hôn hít của kẻ ghen ghét lấy làm giả nguỵ” (Ch 27:6).


Lưỡi gươm vô dụng (Lu 22:49-53)

Các môn-đệ ghi nhớ (và hiểu sai) lời Chúa phán về thanh gươm (Lu 22:35-38), vì vậy họ hỏi Ngài đây có phải là lúc dùng gươm hay không. Không chờ Chúa trả lời, Phi-e-rơ đã lao đến tấn công một người tên là Man-chu đầy tớ của thầy cả thượng phẩm (Gi 18:10,26-27).


Vì sao Phi-e-rơ hành động như vậy? Một lý do là Phi-e-rơ phải hỗ trợ những lời khoe khoang đã nói ra trong Phòng cao (Lu 22:33) và lặp lại trên đường đến vườn Ghết-sê-ma-nê (Mat 26:30-35). Phi-e-rơ đã ngủ thay vì nên cầu nguyện, nói huyên thuyên thay vì lắng nghe, khoe khoang thay vì kính sợ. Giờ đây, Phi-e-rơ lại bạo động thay vì phải đầu phục!


Phi-e-rơ đã phạm những sai lầm nghiêm trọng khi tấn công Man-chu bằng gươm. Trước tiên, Phi-e-rơ đã chống cự không đúng kẻ thù bằng vũ khí không thích hợp. Kẻ thù chúng ta không bằng xương thịt và máu huyết nên chúng ta không thể bị đánh bại bằng những vũ khí tầm thường (Eph 6:10-18; IICôr 10:3-6). Khi bị cám dỗ trong đồng vắng, Chúa Giê-xu đã đánh bại Sa-tan bằng lời Đức Chúa Trời (Mat 4:1-11). Đó cũng là vũ khí chúng ta phải sử dụng (He 4:12; Eph 6:17).

Phi-e-rơ cũng bày tỏ thái độ thiếu đúng đắn khi tin tưởng nơi một năng lực sai lầm. Trong khi Chúa Giê-xu đầu phục Đức Chúa Trời, Phi-e-rơ lại khiêu chiến! Phi-e-rơ cậy nơi cánh tay xác thịt, hành động của ông ta trong tình huống này không giống Chúa chút nào (Gi 18:36), đó cũng là lời cảnh tỉnh chúng ta hôm nay. Thế gian hư mất có thể hành động theo cách này, nhưng đó không phải là cách tôi tớ Đức Chúa Trời nên làm (IITi 2:24; Mat 12:19).


Chúa Giê-xu đã hành động cách nhân từ khi kẻ khác làm việc gian ác (Thi 103:10). Ngài bày tỏ sự nhân từ với Phi-e-rơ khi quở trách hành động quá tự tin của ông và sửa chữa lại hành động sai lầm ấy. Ngài bày tỏ lòng nhân từ đối với Man-chu một đầy tớ thấp hèn khi chữa lành tai anh ta. Ngài còn bày tỏ lòng nhân từ với cả thế giới khi vui lòng hạ mình xuống và đi đến Gô-gô-tha. Ngài đến không phải để xét đoán nhưng để cứu con người (Lu 19:10; Gi 3:17).


Phép lạ cuối cùng Chúa Giê-xu thực hiện trước khi lên thập tự giá không phải là sự kiện gây chú ý cho người khác. Có lẽ rất ít người có mặt đêm đó biết điều Phi-e-rơ và Chúa Giê-xu đã làm. Lẽ ra Chúa có thể triệu tập 12 đạo Thiên sứ (Mat 26:53), mỗi đạo Thiên sứ (6.000 thiên binh) bảo vệ cho một trong số 11 môn-đệ và một đạo Thiên sứ bảo vệ Chúa, nhưng Ngài không làm vậy. Thay vì thực hiện một kỳ công “ngoạn mục”, Ngài đã ân cần chữa lành tai của người đầy tớ vô danh và vui lòng để người ta bắt trói Ngài.


Mỗi người trong chúng ta quyết định xem mình sẽ trải qua cuộc sống trong sự giả dối như Giu-đa hoặc chiến đấu như Phi-e-rơ, hoặc đầu phục hoàn toàn ý muốn Đức Chúa Trời như Chúa Giê-xu. Liệu có phải là cái hôn, lưỡi gươm hay chén đắng?


 Gà gáy (Lu 22:54-62)

Chúa Giê-xu đã chịu đựng 6 thử thách trước khi bị đóng đinh, 3 lần trước dân Do-thái và 3 lần trước các quan chức La-mã. Trước tiên Ngài bị giải đến thầy cả thượng phẩm An-ne, là người thế lực và tiếng tăm trong nước (Gi 18:12-13). An-ne giải Ngài đến con rễ ông là Cai-phe vốn mang chức vụ thầy cả thượng phẩm (Mat 26:57). Cuối cùng, vào buổi sáng Ngài bị xét hỏi trước toà công luận để luận tội Ngài (Lu 22:66-71).


Người Do-thái không được phép giết ai (Gi 18:31-32) nên họ giải Ngài đến nhà cầm quyền Rô-ma. Trước tiên họ đưa Ngài tới quan tổng đốc Phi-lát (Lu 23:1-4). Người này cũng không muốn xét xử Ngài nên giải Ngài đến vua Hê-rốt (Lu 23:6-12), nhưng sau đó vua Hê-rốt giao Chúa lại cho Phi-lát! (Lu 23:13-25). Khi Phi-lát thấy mình không còn cách nào giải quyết việc của Chúa Giê-xu nên ông chiều ý toà công luận và kết án Chúa phải bị đóng đinh trên thập tự giá.


Ở phiên toà xét xử Chúa lần thứ 2, Ngài đối diện với thầy cả thượng phẩm Cai-phe, còn Phi-e-rơ lại chối Chúa 3 lần ở trong sân phiên toà xử án. Vì sao chuyện ấy xảy ra như vậy? Trước hết, Phi-e-rơ đã không chú tâm đến lời khuyên của Chúa (Lu 22:31-34; Mat 26:33-35), cũng không “tỉnh thức và cầu nguyện” theo lời Chúa dạy trong vườn (Mac 14:37-38). Cho rằng mình can đảm và sốt sắng, Phi-e-rơ hầu như không có sự chuẩn bị để đối phó với sự tấn công của ma quỉ?


Chúa Giê-xu bị giải đi khỏi vườn, còn Phi-e-rơ “theo Ngài xa xa” (Lu 22:54). Đây là bước tiếp theo dẫn đến sự thất bại, cho dù là nhiều bài giảng dựa trên khúc Kinh Thánh này đã phê bình Phi-e-rơ vì theo Chúa xa xa, nhưng thật ra ông không hề có ý định theo Ngài. “Chiên” bị định trước phải tan lạc và sẽ gặp lại Chúa tại Ga-li-lê (Mat 26:31-32).

Thật ra, khi bị bắt, Chúa nói với những lính canh rằng “hãy để cho những kẻ này đi” (Gi 18:8-9). Đó là dấu hiệu rõ ràng cho thấy các môn đệ không thể theo Ngài được. Phi-e-rơ và Giăng theo đám đông vào sân thầy cả thượng phẩm Cai-phe (Gi 18:15-16). Đó là một đêm lạnh lẽo (dù Chúa đổ mồ hôi), nên Phi-e-rơ đến đứng gần đống lửa (Gi 18:18), ngồi chung với các đầy tớ và lính canh (Lu 22:55). Ngồi trong lãnh địa kẻ thù, hẳn Phi-e-rơ là mục tiêu của họ (Thi 1:1). Trong khi Chúa mình đang bị quân lính sỉ nhục, Phi-e-rơ chỉ nghĩ đến bản thân (Lu 22:63-65).


Ban đầu, Phi-e-rơ bị thử thách bởi một đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm. Đầy tớ ấy nhận ra Phi-e-rơ là người từng ở với Chúa Giê-xu và là môn đệ Ngài. Phi-e-rơ chối rằng: “Hỡi người đàn bà kia, ta không biết người đó” (Lu 22:57; Mat 26:71). Phi-e-rơ bỏ ra ngoài hiên và gà gáy lần thứ nhất (Mac 14:68). Lẽ ra điều này phải khiến Phi-e-rơ cảnh tỉnh, nhưng ông cứ nấn ná ở đó.


Phi-e-rơ không thể thoát khỏi sự chú ý của nhiều người. Có một đầy tớ gái khác cũng nói rằng “Ngươi cũng thuộc về bọn đó” (Lần thứ 2 Phi-e-rơ chối rằng: “Hỡi người, ta không phải thuộc về bọn đó đâu? Khi một người bà con của Man-chu chỉ Phi-e-rơ và nói: “Ta há chẳng từng thấy ngươi ở trong vườn với người sao?” Những kẻ khác cũng đồng thanh”. Chắc thật ngươi cũng thuộc về đảng ấy, vì tiếng nói của ngươi khai ngươi ra” (vì người Ga-li-lê có giọng địa phương dễ nhận biết). Lúc này Phi-e-rơ thề: “Ta không biết người đó đâu? Ta không biết ngươi nói chi!” và tiếng gà gáy lần thứ 2 cho thấy lời bảo trước của Chúa Giê-xu đã ứng nghiệm (Mac 14:30).


Khi Chúa Giê-xu bị giải đi để chịu xét xử lần thứ 2, Ngài quay lại nhìn Phi-e-rơ. Anh mắt Ngài khiến lòng Phi-e-rơ như tan vỡ ra. Trong khi đám đông xem Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ lẻn ra ngoài và khóc lóc thảm thiết. Chính vì vấn đề đức tin của Phi-e-rơ, điều Chúa phải làm là nhìn ông, hầu có thể khiến ông trở lại ăn năn tội.


Con gà nào đó đã gáy đúng lúc trong khi mọi loài chim trong thành vẫn đang yên lặng, thật là một phép lạ! Nhưng tiếng gà gáy ấy còn mầu nhiệm hơn một phép lạ, vì nó làm ứng nghiệm lời của Chúa. Đó cũng là thông điệp đặc biệt dành cho Phi-e-rơ, giúp ông phục hồi lại địa vị mình, tiếng gà gáy đã khích lệ sứ đồ Phi-e-rơ về điều gì?


-Trước tiên, tiếng gà gáy bảo đảm với Phi-e-rơ rằng Chúa Giê-xu vẫn đang cai trị mọi sự dù Ngài ở trong tình trạng bị xem là tội nhân, bị trói và dường như bất lực trước những kẻ bắt bớ Ngài. Phi-e-rơ có thể nhớ lại chứng cớ về quyền phép Chúa tể trị trên những con cá, trên bão biển, thậm chí trên bệnh tật và sự chết. Dù Phi-e-rơ đang trong giờ phút tăm tối, Ngài vẫn là Đấng tể trị mọi sự!


-Thứ hai, tiếng gà gáy giúp Phi-e-rơ tin chắc rằng tội lỗi ông có thể được tha. Ông đã không cẩn thận chú tâm đến lời Chúa, lại còn biện luận, không vâng lời và lún sâu vào những vi phạm. Nhưng giờ đây ông đã “nhớ lại lời Chúa đã phán cùng mình” (Lu 22:61), điều này đem đến cho ông niềm hy vọng. Vì sao? Vì lời báo trước của Chúa cũng là một lời hứa tha thứ! Phi-e-rơ sẽ hối cải và làm vững chí anh em mình (Lu 22:32).


-Cuối cùng, sự nhiệm mầu của tiếng gà gáy cho Phi-e-rơ biết bình minh của một ngày mới đang bắt đầu. Đó không phải là ngày mới dành cho dân Do-thái hay cho kẻ thù của Chúa. Đó là ngày mới dành cho Phi-e-rơ khi ông ăn năn và khóc lóc đắng cay.

“Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi 51:17).

Vào buổi sáng Chúa Phục sinh, thiên sứ Đức Chúa Trời đã rao cho Phi-e-rơ một thông điệp đặc biệt để khích lệ ông (Mac 16:7) và quả nhiên Chúa đã hiện ra trước mặt Phi-e-rơ vào ngày ấy để phục hồi địa vị của ông (Lu 24:34).


Sẽ có lúc mỗi người trong chúng ta rơi vào tình trạng “chối Chúa”. Lúc ấy (bằng cách nào đó), hãy lắng nghe, “tiếng gà gáy”. Sa-tan sẽ nói với chúng ta rằng chúng ta đã thất bại, tương lai chúng ta sẽ đi đến chỗ “huỷ diệt”, nhưng đó không phải là thông điệo của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Đó chắc chắn không phải là sự kết thúc của Phi-e-rơ! Ông được tha thứ hoàn toàn hầu có thể nói trước dân Do-thái rằng “Các ngươi đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Bình” (Công 3:14). Lúc đó, Phi-e-rơ không có câu Kinh Thánh IGi 1:9 để đọc, nhưng kinh nghiệm được sự tha thứ của Chúa qua chính tấm lòng ông.


5. Ngôi vinh hiển (Lu 22:63-71)

Chúa Giê-xu không bị định tội công khai vậy mà người lại cho phép lính canh nhạo báng và nhiếc móc Ngài. Họ chế nhạo việc Ngài xưng mình là tiên tri và vua (Gi 19:1-3). Tuy nhiên, sự nhạo báng tội lỗi của họ thật sự ứng nghiệm lời phán của Chúa (Mat 20:19). Ngài là tấm gương cho cách xử thế khi kẻ ác nhạo báng đức tin chúng ta (IPhi 2:18-24).


Người ta cho rằng toà án Do-thái không có quyền biểu quyết về sự tử hình giữa đêm, nên các thầy tế lễ cả, thầy thông giáo và các trưởng lão phải tập họp lại ngay khi trời sáng. Chúng ta không biết rõ vào thời Chúa Giê-xu luật này thi hành hay chưa, tuy nhiên, phiên toà vào buổi sáng sớm của toà công luận đã giải thích vấn đề này.


Đây là giai đoạn căng thẳng ở phiên tòa giáo hội và vấn đề chính là “Có phải Chúa Giê-xu Na-xa-rét là Đấng Christ của Đức Chúa Trời không?” Họ cho rằng những lời tuyên bố của Chúa là giả dối nên định cho Ngài tội lộng ngôn. Hình phạt dành cho tội lộng ngôn là xử tử (Le 24:10-16).


Chúa biết lòng của những kẻ tố cáo Ngài, sự vô tín và bất nghĩa của họ (Lu 20:1-8). Lúc này, dù giảng dạy cho họ hay tranh luận với họ cũng chẳng ý nghĩa gì! Bởi họ muốn bác bỏ mọi chứng cớ Chúa bày tỏ (Gi 12:37-43). Chúa càng bày tỏ lẽ thật, càng cho thấy tội lỗi và sự xét đoán dành cho họ bấy nhiêu (Gi 9:39-41).


Chúa xưng Ngài “Con Người”, một danh hiệu dành cho Đấng Mê-si-a được chép trong Da 7:13-14. Ngài cũng khẳng định về quyền “ngồi bên hữu quyền phép Đức Chúa Trời” (Lu 22:69) một ám chỉ rõ ràng về Thi 110:1. Đây cũng là câu Kinh Thánh được Chúa trích dẫn khi Ngài biện luận với các lãnh đạo tôn giáo trước đó (Lu 20:41-44). Chúa đã nhìn thấy ngôi vinh hiển đằng sau sự thương khó của thập tự giá (Hêb 12:2; Phi 2:1-11).


Việc Chúa Giê-xu được ngồi bên hữu Đức Chúa Trời là một lẽ thật thường được nhắc lại nhiều lần trong Tân-ước (Hêb 1:3; Hêb 8:1; Hêb 10:12; Hêb 12:2; IPhi 3:22; Công 2:33; Công 5:31; Công 7:55-56; Rô 8:34; Eph 1:20; Co 3:1). Đó là nơi cao trọng và quyền phép. Khi tuyên bố về sự cao trọng này, Chúa Giê-xu muốn bày tỏ chính Ngài là Đức Chúa Trời. Chỉ có Lu-ca đã ghi chép câu hỏi trực tiếp ở Lu 22:70 và lời đáp trực tiếp của Chúa Giê-xu với nguyên văn “chính các ngươi nói ta là Con Ngài! họ đã sử dụng chứng cớ này khi nộp Ngài cho Phi-lát” (Gi 19:17).

Một số nhà thần học phái tự do cho rằng Chúa Giê-xu chưa từng tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời. Chẳng biết họ sẽ nói gì về phiên toà công khai này? Các lãnh đạo tôn giáo Do-thái biết điều Chúa Giê-xu muốn nói, đó cũng là lý do họ kết tội lộng ngôn cho Ngài.


Phiên toà xét xử của giáo hội giờ đây đã chấm dứt. Bước kế tiếp, họ đưa Chúa ra trước công chúng để người ta xử Ngài. Họ thuyết phục nhà cầm quyền Rô-ma rằng Chúa Giê-xu Na-xa-rét là tội nhân đáng xử chết. Con Đức Chúa Trời phải bị đóng đinh và chỉ có dân Rô-ma mới có thể làm điều đó.


Nói đến nhà cầm quyền Do-thái, trong cuốn sách “Vụ án và Sự chết của Chúa Giê-xu” (The Death of Jesus Christ) William Stalker viết: “Họ bước đi trong ánh sáng của riêng mình nhưng ánh sáng trong họ chỉ là sự tối tăm”.


Mathew Henry nhà giải nghĩa Kinh Thánh nói rằng: “Không ai mù lòa như những kẻ không muốn nhìn thấy”.

“Các ngươi đương có sự sáng, hãy tin sự sáng, hầu cho trở nên con cái của sự sáng” (Gi 12:36).



 


22. CHÚA BỊ KẾT ÁN VÀ ĐÓNG ĐINH (Lu 23:1-56)


Phiên tòa xét xử và sự chết của Chúa Giê-xu bày tỏ lòng gian ác của con người và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời. Khi con người phạm tội gớm ghiếc nhất là lúc Đức Chúa Trời bày tỏ sự nhân từ vô đối của Ngài. “Nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Rô 5:20).

Chúa Giê-xu bị đóng đinh không phải vì kẻ ác muốn giết Ngài nhưng “theo ý định trước và sự biết trước của Đức Chúa Trời” (Công 2:23). Đó là sự định trước từ buổi sáng thế (IPhi 1:20; Kh 13:8).


Khi học đến đoạn này, bạn hãy chú ý đến 6 cuộc gặp gỡ Chúa trải qua suốt những giờ phút thương khó này.


1. Chúa Giê-xu trươc mặt Phi-lát (Lu 23:1-25)

Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê từ năm 26-36 SC. Sau đó ông được triệu về Rô-ma và không còn được nhắc đến trong lịch sử La-mã nữa. Bị người Do-thái căm ghét, Phi-lát chẳng bao giờ muốn hiểu họ. Có lần ông đã chọc giận dân Do-thái khi cho giương những biểu ngữ vô thần của dân Rô-ma trong đền thờ và sai các do thám trang bị vũ khí đến đền thờ để dẹp những người Do-thái chống đối (Lu 13:1-3).


Khi xét xử Chúa Giê-xu, vị quan tổng đốc này tỏ ra do dự. Phúc Âm Giăng ghi lại 7 động tác dủa Phi-lát khi bước ra gặp dân chúng rồi trở vào thẩm vấn Chúa Giê-xu (Gi 18:29,33,38; Gi 19:1,4,9,13). Ông cố tìm sơ hở nhưng không thể được. Phi-lát là người thất bại khi thẩm vấn Chúa, 3 lần tuyên bố Ngài vô tội vậy mà vẫn để người ta đóng đinh Ngài.


Lời xác nhận của Phi-lát (Lu 23:1-5)

Các quan chức Rô-ma thường dậy sớm khi có nhiệm vụ, nhưng buổi sáng hôm ấy có lẽ Phi-lát ngạc nhiên biết mình phải giải quyết một vụ xử kiện về tội tử hình vào lễ Vượt Qua. Các quan Do-thái biết rằng luật lệ tôn giáo của họ chẳng có ý nghĩa gì đối với một quan chức La-mã, vì vậy họ đưa vào bản cáo trạng Chúa những vấn đề mang tính chất chính trị. Họ buộc Ngài 3 tội: phản quốc, chống đối việc nộp thuế cho Sê-sa và tự xưng là vua.


Phi-lát tra hỏi Chúa Giê-xu cách riêng tư về việc Ngài xưng mình là Vua, vì đây là vấn đề quyết định. Ông kết luận rằng Chúa vô tội. Ba lần trong phiên toà, Phi-lát khẳng định rõ ràng sự vô tội của Chúa (Lu 23:4,14,22). Bên cạnh lời nói của Phi-lát “ta không thấy người này có tội gì”, Bác sĩ Lu-ca đưa ra 3 chứng cớ khác về Chúa, đó là: vua Hế-rốt (Lu 23:15), Một tên cướp (Lu 23:40-43) và thầy đội La-mã (Lu 23:47).


Sự nhượng bộ của Phi-lát (Lu 23:6-12)

Dân Do-thái bác bỏ sự phán quyết của Phi-lát nên bắt đầu tố cáo Chúa nhiều hơn nữa. Khi họ nhắc đến người Ga-li-lê thì Phi-lát, một nhà chính trị lão luyện liền thấy một cơ hội chuyển Chúa Giê-xu sang chỗ khác. Ông giải Ngài đến vua Hê-rốt An-ti-ba vua chư hầu xứ Ga-li-lê, người đã giết Giăng Báp-tít và cũng nóng lòng muốn gặp Chúa Giê-xu (Lu 23:7-9). Có lẽ vị vua xảo quyệt này đã tìm cách làm hài lòng dân Do-thái.


Có lẽ vua Hê-rốt rất ngạc nhiên và hồi hộp khi quân lính giải Chúa Giê-xu vào. Tuy nhiên, càng đặt câu hỏi với Chúa, vua càng trở nên can đảm hơn! Có lẽ Chúa Giê-xu đã làm vua hài lòng bằng một phép lạ! Dù bị vua tra hỏi liên tục và bị dân Do-thái tố cáo quyết liệt, Chúa Giê-xu vẫn không nói lời nào. Hê-rốt đã làm ngưng tiếng nói của Đức Chúa Trời. Hê-rốt có ý định xét xử Chúa, nhưng chính Chúa mới là Đấng xét đoán ông.


Cuối cùng, vua Hê-rốt thật “can đảm” khi nhạo báng Chúa và cho phép quân lính mặc “áo hoa hòe” cho Ngài, loại áo được dân Rô-ma dệt cho quan chức. Vua Hê-rốt không đưa ra được lời phán quyết công khai dành cho Chúa Giê-xu, rõ ràng ông không tìm được tội lỗi đáng chết nào nơi Ngài (Lu 23:15).


Thủ đoạn này đã thực hiện được một vấn đề duy nhất: hàn gắn lại một mối quan hệ bằng hữu đã đổ vỡ. Hê-rốt biết ơn Phi-lát vì đã giúp ông gặp được Chúa Giê-xu, lại còn hỏi ý kiến của ông nữa! Việc Hê-rốt giao Chúa lại cho Phi-lát mà không đưa ra lời định tôị, có thể giải thích như sau: “Thưa Ngài Phi-lát, vì chúng ta không ở Ga-li-lê nên Ngài có quyền hành động, tôi sẽ không can dự vào. Giê-xu này là phạm nhân của Ngài, không phải của tôi. Tôi biết Ngài sẽ hành động đúng”. Chính vì 2 người cùng gặp phải một mối đe dọa chung, nên họ đã bỏ qua những hiềm thù để kết bạn trở lại.


Sự mặc cả của Phi-lát (Lu 23:13-23): Lần thứ 2 Phi-lát cho các quan trưởng Do-thái biết rằng ông không tìm thấy tội lỗi nào nơi Chúa Giê-xu. Việc vua Hê-rốt giao quyền quyết định cho Phi-lát không khiến dân Do-thái để tâm đến, vì họ vốn căm ghét Hê-rốt cũng như không ưa gì dân Rô-ma.


Nhà cầm quyền thường có lệ tha bổng một phạm nhân vào kỳ lễ Vượt Qua, nên Phi-lát muốn đưa ra một quyết định dung hoà: ông sẽ đánh đòn Chúa Giê-xu rồi tha Ngài. Hiện Phi-lát đang giam giữ một phạm nhân tên Ba-ra-ba và ông tin chắc dân Do-thái sẽ không muốn tha tên ấy. Xét cho cùng, Ba-ra-ba là một kẻ trộm cướp (Gi 18:40), kẻ giết người và là kẻ dấy loạn (Lu 23:19). Có lẽ Ba-ra-ba đã cầm đầu những kẻ Do-thái cực đoan muốn lật đổ Rô-ma lúc bấy giờ.


Bạn đừng cho rằng dân chúng trong thành Giê-ru-sa-lem được phép tụ tập lại và kêu la trước Phi-lát về huyết Chúa Giê-xu, dù lẽ dĩ nhiên một đám đông hiếu kỳ thường tụ tập lại. Chính các chức sắc tôn giáo trong nước đặc biệt là các thầy tế lễ cả (Lu 23:23) đòi Phi-lát phải đóng đinh Chúa Giê-xu. Thật không chính xác hoàn toàn nếu nói rằng những người đã tung hô “Hô-sa-na” vào Chúa nhật lễ Lá cũng là những người cuối cùng hét lên “Đóng đinh nó trên cây thập tự đi! ”vào ngày thương khó của Chúa.


Sự đầu hàng của Phi-lát (Lu 23:24-25): Phi-lát nhận ra rằng việc ông không giải quyết được tình huống này thật sự gây nên cuộc bạo đông và sự nổi dậy của dân Do Thái có thể sẽ là kết quả sau cùng trong kỳ lễ Vượt Qua. Vì vậy, ông rửa tay trước mặt dân chúng để khẳng định sự vô can của mình (Mat 27:24-25). Ông là kẻ nhượng bộ “muốn cho đẹp lòng dân” (Mac 15:15). Ba-ra-ba được tha bổng, còn Chúa Giê-xu phải bị xử chết trên thập tự giá của dân Rô-ma.


Bản tính của Phi-lát thật khó hiểu.

Ông từng tuyên bố sự vô tội của Chúa Giê-xu, nhưng vẫn cho phép người ta đánh đòn và xử chết Ngài. Phi-lát cẩn thận tra hỏi Chúa, thậm chí run sợ trước lời đáp của Ngài, nhưng lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời vẫn không thay đổi được quyết định của ông. Ông muốn được nổi tiếng hơn làm người công bình, quan tâm đến danh vọng hơn phẩm chất. Nếu Hê-rốt làm ngưng tiếng nói Đức Chúa Trời Phi-lát cũng làm nghẹt ngòi tiếng nói ấy. Có cơ hội trong tay, Phi-lát đã đánh mất nó.


2. Chúa Giê-xu và Si-môn (Lu 23:26)

Vác thập tự giá của chính mình đến trường án là nỗi tủi nhục của phạm nhân. Vì vậy khi Chúa Giê-xu rời khỏi sân Phi-lát, Ngài phải vác thập tự giá (Gi 19:17). Chúa thật sự không thể bước nổi nên quân lính phải buộc Si-môn người xứ Sy-ren vác thập tự cho Ngài (Mat 5:41). Khi theo dõi những việc Chúa chịu đựng từ khi bị bắt trong vườn, thật không khó hình dung Ngài gục ngã ra sao dưới gánh nặng trên lưng. Hơn thế: mang thập tự giá là biểu hiện của sự phạm tội, nhưng Chúa Giê-xu không hề có tội!


Hằng ngàn người Do-thái từ mọi xứ đến Giê-ru-sa-lem dự các kỳ lễ (Công 2:5-11), Si-môn đi chung với họ. Ông ta đã đi 800 dặm từ Châu Phi đến dự lễ Vượt Qua, giờ lại phải chịu nhục nhã trong một ngày lễ trọng thể nhất! Ông sẽ nói gì với gia đình khi trở về?


Chuyện xảy đến với Si-môn như một tai hoạ, đã trở nên một cơ hội kỳ diệu, đưa ông đến trong mối liên hệ với Chúa Giê-xu. (Vậy còn Si-môn kia đâu? Si-môn Phi-e-rơ, người đã thề sống chết cùng Ngài?) Có lẽ Si-môn đến thành Giê-ru-sa-lem để dự buổi lễ cầu nguyện lúc 9 giờ sáng, nhưng quân lính đã thay đổi kế hoạch của ông ta.


Chúng ta có lý do tin rằng con người Si-môn đã được thay đổi sau lần gặp gỡ Chúa Giê-xu. Mác xác nhận Si-môn là “cha A-léc-xan-đơ và Ru-phu” (Mac 15:21), đó là 2 người Mác cho rằng các độc giả Rô-ma có thể biết họ. Phao-lô gởi lời chào thăm một tín hữu tên Ru-phu ở Rô 16:13, và có thể đó là con của Si-môn người Sy-ren. Rõ ràng, Si-môn và 2 con ông là những tín hữu được nhiều người biết đến và được Hội thánh Chúa tôn trọng.


Trước khi Si-môn gặp Chúa, ông đã có niềm tin và sự tin kính. Nhưng sau khi gặp Chúa, ông nhận được lẽ thật và sự cứu rỗi. Buổi sáng ấy, ông đã có một cuộc gặp gỡ về mặt thuộc thể và thuộc linh, làm thay đổi cuộc đời ông. Đức Chúa Trời vẫn có thể sử dụng những hoàn cảnh khó khăn mà con người không ngờ đến, thậm chí những sự nhục nhã để đem con người đến với Đấng Cứu Thế.


3. Chúa Giê-xu và những phụ nữ thành Giê-ru-sa-lem (Lu 23:27-31)

Những vụ xử án công khai thường thu hút nhiều người xem, đặc biệt vụ xử án này có liên quan đến Chúa Giê-xu lại càng khiến đông người chú ý. Thêm vào sự kiện này, thành Giê-ru-sa-lem đầy những khách hành hương nên dễ tin rằng có một “đoàn dân đông lắm” (Lu 23:27) đi theo những kẻ bị kết án đến đồi Gô-gô-tha.


Trong đoàn dân, có một số phụ nữ than khóc vì cảm thông sự thương khó của Chúa và nghĩ đến tình trạng thuộc linh suy đồi của dân tộc mình. Điều này cho thấy theo các sách Phúc-Âm, không có phụ nữ nào chống đối Chúa. Chúa Giê-xu cũng chưa từng là kẻ thù của giới phụ nữ. Tấm gương của Ngài, sự dạy dỗ và trên hết sự Cứu Chuộc của Ngài đã góp phần to lớn trong việc đề cao giới phụ nữ.

Tin tức về sự Giáng sinh của Chúa được loan báo cho một trinh nữ Do-thái. Sự chết của Chúa được các người đàn bà đau khổ chứng kiến. Và tin mừng về sự Phục sinh của Chúa được rao ra trước tiên cho người đàn bà bị quỷ ám trước đó.


Chúa Giê-xu đánh giá cao sự chia sẻ của họ và dùng điều đó để dạy dỗ họ cùng chúng ta một bài học đầy ý nghĩa. Trong khi họ khóc cho cái chết của một người vô tội, Ngài lại nhìn thấy trước và đau thương cho sự huỷ diệt khủng khiếp dành cho cả dân tộc Do-thái, một sự đoán phạt hoàn toàn công bằng (Lu 19:41-44). Nhưng than ôi, phụ nữ và trẻ con lại chịu hoạn nạn nhiều nhất lịch sử đã minh chứng điều này. Quân Rô-ma cố bắt phục người Do-thái bằng cách làm cho họ bị đói Vì vậy những kẻ giữ thành đói khát phải dùng lương thực của vợ con mình, thậm chí giết người và ăn thịt cùng huyết họ.


Đất nước Y-sơ-ra-ên giống như “cây xanh” trong những năm Chúa Giê-xu hiện diện trên đất. Chính vào lúc có cơ hội và ơn phước cây xanh ấy phải kết quả. Thế nhưng dân tộc này đã chối bỏ Chúa và trở nên “cây khô” chỉ xứng đáng dành cho lửa. Đã bao lần Chúa muốn nhóm dân Ngài lại, nhưng họ không muốn. Khi kết án Chúa, chính họ đã tự kết tội mình.


Lời Chúa phán có thể được diễn giải rằng: “Nếu nhà cầm quyền Rô-ma làm điều này cho Đấng Vô tội, vậy họ sẽ còn làm gì cho các ngươi, là những kẻ tội lỗi? “Khi ngày đoán xét xảy đến, liệu các ngươi có thoát khỏi?”


4. Chúa Giê-xu và 2 kẻ trộm cướp (Lu 23:32-43)

Lời tiên tri đã báo trước rằng Con Đức Chúa Trời sẽ “bị kể vào hàng kẻ dữ” (Lu 22:37; Es 53:12). Thật vậy, 2 phạm nhân bị đóng đinh cùng Ngài là những kẻ cướp (Mat 27:38). Hai người này bị kết tội cướp của giết người.


“Chỗ Sọ” theo tiếng Aram nghĩa là “gô-gô-tha”. Có lẽ địa điểm này trông như một cái sọ người. Đồi Gô-gô-tha ở gần cửa thành Damascus ở Giê-ru-sa-lem có thể tên gọi này được biết đến đơn giản bởi những vụ thi hành án khủng khiếp.


Chúa Giê-xu bị đóng đinh khoảng 9 giờ sáng và bị treo trên thập tự đến 3 giờ chiều.Vào giữa trưa sự tối tăm bao trùm khắp đất (Mac 15:25,33). Chúa Giê-xu đã cất tiếng 7 lần suốt 6 giờ đồng hồ đau thương khủng khiếp này.

(1). “Lạy Cha, xin tha cho họ” (Lu 23:34)

(2). “Hôm nay ngươi sẽ được ở với ta trong nơi Ba-ra-đi” (Lu 23:43)

(3). “Hỡi đàn bà kia, đó là con của ngươi” (Gi 19:25-27)

(4). “Đức Chúa Trời ơi sao Ngài lìa bỏ tôi” (Mat 27:46)

(5). “Ta khát” (Gi 19:28)

(6). “Mọi việc đã được trọn” (Gi 19:30)

(7). “Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha” (Lu 23:46)


Phúc-âm Lu-ca chỉ ghi lại 3 trong 7 lời nói của Chúa: Lu 23:1,7. Lời cầu nguyện của Chúa cho kẻ thù và công tác Ngài dành cho một kẻ trộm cướp đã ăn năn, những điều này thích hợp với mục đích của Lu-ca, bày tỏ Chúa Giê-xu là Con Người cảm thông, luôn quan tâm đến những kẻ khốn khó.


Khi người ta đóng đinh Chúa trên thập tự, Ngài cứ cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu 23:34). Ngài không chỉ thực hiện điều Ngài đã dạy dỗ kẻ khác (Lu 6:27-28), Ngài còn làm ứng nghiệm lời tiên tri và “cầu thay cho những kẻ phạm tội” (Es 53:12).

Qua lời cầu nguyện của Ngài, chúng ta không nên suy đoán rằng sự dốt nát là cơ sở cho sự tha tội, cũng đừng cho rằng những ai phạm tội nghịch cùng Chúa Giê-xu tự nhiên đã được tha thứ bởi sự cầu nguyện của Chúa. Chắc chắn người Do-thái và người Rô-ma đều thiếu hiểu biết về sự kinh khiếp của tội lỗi, điều đó cũng không thể miễn tội cho họ được.

Luật pháp cho phép người lầm lỡ phạm tội được dâng của lễ chuộc tội (Dan 15:27-31; Xu 21:14; Thi 51:16-17). Sự cầu thay của Chúa Giê-xu đã “trì hoãn” được sự đoán phạt của Đức Chúa Trời trên dân tộc này suốt gần 40 năm, cho họ thêm nhiều cơ hội để được cứu (Cong 3:17-19).


Thật là một sự thần hựu khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh ở giữa 2 tên cướp, vì điều này giúp họ có cùng một cơ hội để tiếp cận với Đấng Christ. Cả 2 có thể đọc bảng viết trên thập tự “NGƯỜI NÀY LÀ VUA DÂN GIU-ĐA”. Họ có thể nhìn xem Chúa, Đấng đầy lòng nhân từ đã phó thân mình vì tội lỗi cả thế gian.


Một tên cướp lặp lại lời chế giễu của các chức sắc tôn giáo và yêu cầu Chúa tự cứu mình khỏi cây thập tự, nhưng tên cướp thứ 2 lại có suy nghĩ khác hẳn. Có lẽ anh ta có thể lý luận rằng: “Nếu người này thật sự là Đấng Christ, nếu Ngài có Vương quốc, nếu Ngài từng cứu nhiều người, vậy Ngài hẳn có thể đáp ứng nhu cầu lớn nhất của tôi là sự cứu chuộc tội lỗi. Tôi chưa sẵn sàng để chết!” Tên cướp này có can đảm, bất chấp ảnh hưởng của bạn mình, sự chế nhạo của đám đông để đặt niềm tin nơi một vị Vua đang hấp hối! Khi xem xét những trở ngại anh ta phải khắc phục, bạn sẽ thấy đức tin anh ta đáng ngạc nhiên biết bao!


Người này được cứu hoàn toàn bởi ân điển, đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời (Eph 2:8,9). Anh ta không xứng đáng nhận ân điển, cũng không tự mình có được. Sự cứu rỗi dành cho chính anh có tính chất chắc chắn, được bảo đảm bởi lời của Chúa Giê-xu. Anh hy vọng được giúp đỡ trong tương lai, nhưng Chúa Giê-xu ban cho anh sự tha thứ ngay hôm ấy, nên anh đã qua đời và đồng đi với Chúa đến Ba-ra-đi (IICôr 12:1-4).


Điều đáng chú ý ở đây, những người có mặt nơi đồi Gô-gô-tha đã làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Cưụ ước qua hành động của họ: bắt thăm chia nhau áo xống Chúa (Thi 22:18), nhạo cười Ngài (Thi 22:6-8) và cho Ngài uống giấm (Thi 69:1). Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi Ngài và tể trị mọi sự qua lời Ngài.


5. Chúa Giê-xu với Đức Chúa Cha (Lu 23:44-49)

Hãy nhớ rằng điều Chúa Giê-xu hoàn tất trên thập tự giá là công tác vĩnh cửu, có liên quan đến Đức Chúa Cha và Chúa Giê-xu. Ngài không chết như Thánh tử đạo mất lý tưởng, cũng không chỉ là một gương cho con người noi theo. Es 53:1-12 bày tỏ rằng Chúa Giê-xu không chết vì chính tội lỗi mình bởi Ngài vốn vô tội. Ngài chết thay cho tội lỗi của chúng ta. Linh hồn Ngài buồn bực vì cớ tội lỗi con người (Es 53:4-6,10-12).


Sự tối tăm trong suốt 3 giờ đồng hồ quả là một phép lạ! Đó không phải là hiện tượng nhật thực vì nó không thể xảy ra trong mùa lễ Vượt Qua khi trăng tròn. Đó là bóng tối do Đức Chúa Trời bao phủ thập tự giá khi Con Đức Chúa Trời gánh thay tội lỗi chúng ta (ICôr 5:21).

Ngay cả thiên nhiên cũng bày tỏ nỗi cảm thông với Đấng Tạo Hóa khi chính Ngài chịu thương khó và chịu chết. Khi dân Y-sơ-ra-ên ở trong Ê-díp-tô, có 3 ngày tối tăm trước lễ Vượt Qua đầu tiên (Xu 10:21). Khi Chúa Giê-xu bị treo trên thập tự, có 3 giờ đồng hồ tăm tối trước khi Chiên Con Đức Chúa Trời chết thay tội lỗi thế gian (Gi 1:29).


Cả Ma-thi-ơ (Mat 27:45-46) và Mác (Mac 15:33-34) ghi lại tiếng kêu của Chúa khi trời đất tối tăm, trích từ Thi 22:1 “Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” Sự lìa bỏ ấy là gì và cảm xúc của Chúa ra sao, chúng ta không thể hiểu rõ. Nhưng chắc hẳn nó có liên quan đến sự kiện Ngài đã trở nên tội lỗi vì chúng ta. Khi Chúa kêu lớn tiếng rằng: “mọi việc đã được trọn!” (Gi 19:30), đó là lời tuyên bố đắc thắng. Ngài đã hoàn tất công tác Cha trên trời giao phó (Gi 17:4). Công tác cứu chuộc đã được hoàn thành, mọi lời tiên tri đã được ứng nghiệm (He 9:24) và Đấng Christ giờ đây có thể yên nghỉ.


Lần cuối cùng, Ngài cầu nguyện với Cha rằng: “Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Chúa!” (Thi 31:5). Đây chính là lời cầu nguyện mà các trẻ em Do-thái cầu nguyện khi đi ngủ và điều này, cho chúng ta biết cách Chúa Giê-xu chết: tự tin, mãn nguyện và đắc thắng (Gi 10:17-18). Những ai tin Chúa Giê-xu là Đấng Christ của mình, đều có thể chết như Chúa với sự thanh thản như vậy (Phi 1:20-23; ICôr 5:1-8).


Khi Chúa trút linh hồn, bức màn trong đền thờ xé ra làm đôi “từ trên chí dưới” (Mac 15:38). Phép lạ này bày tỏ cho thầy tế lễ và dân chúng biết rằng con đường sống Đức Chúa Trời đã mở ngang qua cái màn cho những ai đến gần Ngài bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu (He 9:1-10:25). Tội nhân chẳng cần đến đền thờ trên đất, bàn thờ, của lễ hay thầy tế lễ nữa, vì mọi sự đã được trọn vẹn trong công tác đã hoàn tất của Con Đức Chúa Trời.


Lu-ca ghi lại 3 phản ứng đối với những biến cố xảy ra vào những giây phút cuối cùng trước khi Chúa tắt hơi. Thầy đội là người có nhiệm vụ thi hành án, đã xác nhận: “Thật người này là người công bình thật là Con Đức Chúa Trời” (Lu 23:47; Mac 15:39). Ông sợ hãi trước cảnh tối tăm và đất rúng động (Mat 27:54) đặc biệt trước tình trạng thương khó và chết của Chúa. Ông hẳn phải ngạc nhiên khi Chúa la lớn tiếng và trút hơi đột ngột, vì các nạn nhân bị đóng đinh thường sống yếu ớt vài ngày và không đủ sức để nói.


Dân chúng đến xem cảnh tượng này bắt đầu lê bước trở về, một số người đấm ngực vì biết mình tội lỗi (Lu 18:13). Họ có phải là những người tin Chúa? Có lẽ không phải vậy. Họ chỉ là những kẻ ngoại cuộc bị thu hút đến nơi xử án, nhưng mọi điều họ thấy và nghe đủ để họ cảm biết tội lỗi mình.


Sau cùng, các bạn hữu của Chúa đã có mặt ở đó, có cả những người đàn bà từng đi theo Chúa (Lu 8:1-3; Lu 24:22). Thật ý nghĩa khi những người đàn bà là những người sau cùng có mặt nơi thập tự giá và cũng là những người đầu tiên có mặt tại phần mộ Ngài vào buổi sáng Phục sinh.


6. Chúa Giê-xu và Giô-sép ở A-ri-ma-thê (Lu 23:50-56)

Giô-sép và bạn ông là Ni-cô-đêm (Gi 19:38-42) đều là thành viên trong hội đồng xét xử của dân Do-thái, nhưng họ đã có mặt để biểu quyết về việc xử Chúa Giê-xu. Mac 14:64 cho thấy cả hội đồng đều kết án Chúa Giê-xu, có lẽ điều ấy sẽ không xảy ra nếu Giô-sép và Ni-cô-đem có mặt hôm ấy.


Có lẽ Giô-sép và Ni-cô-đem đã biết lời Kinh Thánh Cựu-ước nói về cách Chúa Giê-xu chịu chết, nên họ muốn lo việc chôn cất cho Ngài. Ngôi mộ mới chắc hẳn là của Giô-sép, được xây trong vườn rất gần nơi thi hành án và rất xa nhà ông. Không người giàu nào lại chuẩn bị cho mình một ngôi mộ với vị trí như vậy. Đây là phần mộ dành cho Chúa chớ không phải cho Giô-sép. Có thể, 2 người này đã giấu ngôi mộ khi Chúa bị treo trên thập tự giá, chờ đến khi Ngài trút hơi. Hẳn là họ đã chuẩn bị các hương liệu và vải liệm vì họ không thể mua sắm những thứ này trong ngày lễ Vượt Qua.


Khi Chúa Giê-xu chết, Giô-sép lập tức đến Phi-lát để xin xác Ngài, còn Ni-cô-đêm ở lại đồi Gô-gô-tha để thăm dò. Họ nhẹ nhàng đem xác Ngài xuống khỏi thập tự, nhanh chóng đem Ngài đến khu vườn, ướp xác Ngài bằng các hương liệu. Đây là việc chôn cất tạm thời, họ sẽ trở lại sau ngày Sa-bát. Khi đặt Chúa vào phần mộ mới, họ đã làm ứng nghiệm lời tiên tri Es 53:9 và không để cho dân Rô-ma vất xác Ngài nơi đống rác ngoài cửa thành. Các tử tội thường không có quyền được chôn cất Tuy nhiên Đức Chúa Trời biết rằng thân thể của con Ngài phải được chôn cất với sự kính trọng và yêu mến.


Thật ý nghĩa khi thân thể này được chôn cất thích đáng, vì Đức ChúaTrời sẽ khiến Ngài sống lại từ cõi chết. Nếu có điều gì không rõ ràng minh bạch về sự chết và chôn của Chúa, có thể đã ảnh hưởng đến thông điệp và công tác Phúc-Âm (ICôr 15:1-8).


Sau 6 ngày Đức Chúa Trời hoàn tất công tác “sáng tạo cũ” Ngài nghỉ ngơi (Sa 2:1-3). Sau 6 giờ Chúa chúng ta hoàn tất công tác “sáng tạo mới” (IICôr 5:17), Ngài nghỉ ngơi trong ngày Sa-bát tại phần mộ của Giô-sép.


Tuy vậy, đó chưa phải là kết thúc của câu chuyện. Ngài sẽ sống lại!



 


23. CON NGƯỜI ĐÃ CHIẾN THẮNG (Lu 24:1-53)


Tiến sĩ John Stott nói: “Bản chất của Đạo Cơ-đốc là Đạo của sự Phục sinh. Quan niệm về sự phục sinh chính là điều quan trọng cốt lõi của Đạo. Nếu bạn bỏ nó qua một bên, Cơ-đốc giáo xem như bị hủy diệt”.


Sự Phục sinh của Chúa Giê-xu xác nhận với chúng ta rằng Ngài thật là Con Đức Chúa Trời, như Ngài đã phán (Rô 1:4). Điều này chứng minh của lễ hy sinh của Ngài thay cho tội lỗi loài người đã được chấp nhận và công tác cứu rỗi đã hoàn tất (Ro 6:4; Ga 2:20). Sự phục sinh của Chúa công bố cho chúng ta biết Ngài là Đấng xét đoán, sẽ có một ngày Ngài xét xử cả thế gian (Cong 17:30-31).


Không có gì ngạc nhiên khi Sa-tan tấn công vào lẽ thật của sự Phục sinh. Lời dối trá trước tiên nó dựng lên, đó là việc các môn đệ đến ăn cắp xác Chúa Giê-xu (Mat 28:11-15). Nhưng khó hình dung nổi các môn đệ làm việc ấy ra sao. Cửa mồ được lính canh cẩn mật (Mat 27:61-66). Hơn nữa những môn đệ còn đang khiếp sợ không thể đánh bại quân lính để mở cửa mồ lấy xác Chúa. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất là do các sứ đồ không tin rằng Chúa mình đã phục sinh! Vậy tại sao họ muốn trộm xác Ngài và dựng ra trò lừa như vậy?


Sự dối trá thứ hai cho rằng Chúa Giê-xu thực sự chưa chết trên thập tự nhưng chỉ ngất đi, và khi được đặt vào phần mộ “lạnh lẽo”, Ngài đã tỉnh lại! Chính Phi-lát và thầy đội đã kiểm tra để biết Chúa có thật sự chết hay không (Mac 15:44). Lính La-mã khi đánh gãy ống chân 2 tên cướp cũng biết rằng Chúa đã chết (Gi 19:31-34). Hơn nữa, làm sao ngôi mộ lạnh giá kia có thể thay đổi thân thể Chúa hầu Ngài có khả năng biến hoá và đi xuyên qua cửa đóng kín?


Thông điệp Phúc-Âm dựa trên nền tảng sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu (ICôr 15:1-8). Các sứ đồ được sai đi làm chứng về sự phục sinh của Ngài (Công 1:22), còn sách Công vụ tập trung vào sự sống lại của Chúa Giê-xu. Đây cũng là lý do Lu-ca kể lại những lần Chúa xuất hiện sau khi sống lại từ cõi chết. Trước tiên, Ngài hiện ra cho Ma-ri Ma-đơ-len (Gi 20:11-18), sau đó Ngài hiện ra cho những người đàn bà khác (Mat 28:9-10), hai người trên đường đến Em-ma-út (Lu 24:13-22). Chúa cũng hiện ra cho Phi-e-rơ (Lu 24:34) và cho Gia-cơ (là em cùng mẹ khác cha của Ngài) (ICôr 15:7).


Vào buổi chiều hôm đó, Ngài hiện ra trước các môn đệ (Lu 24:36-43), nhưng Thô-ma không tin lời họ kể (Gi 20:19-25). Một tuần sau đó, Ngài hiện ra cho các sứ-đồ lần nữa, đặc biệt cho Thô-ma (Gi 20:26-31). Ngài hiện ra cho 7 sứ đồ khi họ đang thả lưới ở biển Ga-li-lê (Gi 21:1-23). Trước khi thăng thiên, Ngài còn hiện ra vài lần cho các sứ đồ, dạy dỗ họ và giao nhiệm mạng cho họ (Công 1:1-12).


Khi các tín hữu biết Chúa Giê-xu đang sống, đời sống họ đã thay đổi một cách kỳ diệu.


1. Những tấm lòng bối rối: Ngài mở cửa mộ (Lu 24:1-12)

Chúng ta không rõ Chúa Giê-xu sống lại lúc mấy giờ vào ngày đầu tuần, nhưng có lẽ rất sớm. Đất rung động và thiên sứ lăn cửa mộ (Mat 28:2-4) không phải để Chúa Giê-xu bước ra, nhưng để minh chứng cho sự phục sinh của Ngài “Hãy đến xem! …Hãy đi mau nói…” là mệnh lệnh ngày Phục sinh cho Hội thánh.


Ma-ri Ma-đơ-len là người đặc biệt được Chúa cứu và đi theo hầu việc Ngài (Lu 8:2). Bà có mặt cho đến cuối cùng nơi thập tự giá (Mac 15:47) và đến mộ Chúa trước tiên. Bà đi cùng Ma-ri mẹ của Gia-cơ, Gian-nơ cùng những người đàn bà khác (Lu 24:10) hy vọng có thể hoàn tất việc chuẩn bị xác Chúa cho việc chôn cất chính thức.Tấm lòng buồn bực của họ, giờ đã biến thành niềm vui mừng khi khám phá Chúa Giê-xu đang sống.


“Ai sẽ lăn hòn đá lấp cửa mộ ra cho chúng ta” (Mac 16:3) là điều họ quan tâm. Lính La-mã không muốn phá dấu niêm phong đặc biệt chỉ vì một nhóm phụ nữ Do-thái than khóc kia! Nhưng Đức Chúa Trời giải quyết nan đề của họ: cửa mộ đã mở và không còn xác để chuẩn bị!


Lúc này có 2 thiên sứ xuất hiện Mat 28:2 và Mac 16:5 chỉ nói đến một thiên sứ người rao sứ điệp cho những người đàn bà. Sứ điệp cũng mang tính chất quở trách khi thiên sứ nhắc họ về trí nhớ kém cỏi của họ. Hơn một lần, Chúa Giê-xu cho môn đệ biết Ngài sẽ chịu thương khó, chịu chết và sống lại (Mat 16:21; Mat 17:22-23; Mat 20:17-19; Lu 9:22,44; Lu 18:31-34). Thật đáng buồn nếu con cái Đức Chúa Trời quên lời Ngài để sống một cách thất bại. Hôm nay, Thánh Linh Đức Chúa Trời vẫn giúp chúng ta nhớ lại lời Ngài (Gi 14:26).


Vâng theo nhiệm mạng, những phụ nữ này đã chạy đi rao tin cho các môn đệ, nhưng họ không tin! (Theo Mac 16:14 sau đó Chúa Giê-xu đã quở trách sự vô tín của họ). Ma-ri Ma-đơ-len bảo Phi-e-rơ và Giăng đến xem mộ (Gi 20:1-10), họ cũng chứng kiến ngôi mộ không có Chúa Giê-xu ở đó. Chứng cớ này cho thấy Chúa đã phục sinh và không có cuộc bạo động nào xảy ra.


Khi Ma-ri khóc lóc nơi phần mộ, Chúa Giê-xu hiện ra với bà (Gi 20:11-18). Thấy ngôi mộ trống và những tấm vải liệm là một việc, nhưng gặp được Chúa Phục sinh lại hoàn toan là một việc khác. Hôm nay, chúng ta không thể nhìn thấy bằng chứng ấy nơi mộ, nhưng chúng ta có lời chứng của các nhân chứng được ghi trong lời được hà hơi của Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể sống bằng đức tin trong Chúa Giê-xu và kinh nghiệm sự sống của Ngài trong chúng ta (Ga 2:20).


Hãy nhớ rằng những phụ nữ không nghĩ rằng Chúa sống. Họ quên hẳn những lời báo trước của Chúa về sự phục sinh của Ngài, nên chỉ đến phần mộ để hoàn tất việc xức dầu cho xác Chúa. Nếu cho rằng họ bị ảo giác và chỉ tưởng mình gặp Chúa, nghĩa là chúng ta chỉ lướt qua bên ngoài của chứng cớ. Chẳng lẽ nhiều người lại đều có ảo giác về một sự việc trong cùng một lúc? Chẳng hề vậy. Họ đã trở thành những nhân chứng nhiệt thành ngay cả cho những người lãnh đạo của họ rằng Chúa Giê-xu đang sống!


2. Những tấm lòng chán nản: Chúa mở mắt họ (Lu 24:13-35)

Em-ma-út là ngôi làng nhỏ cách Giê-ru-sa-lem 12 km ở phía Tây Bắc. Hai người này đi từ Giê-ru-sa-lem đến Em-ma-út, họ là những môn đệ nhụt chí, trong lúc không có lý do gì để chán nản như vậy. Họ đã nghe những người đàn bà kể lại sự việc ở ngôi mộ trống và việc Chúa đã sống lại, nhưng họ không tin. Họ hy vọng Chúa Giê-xu sẽ cứu dân Y-sơ-ra-ên (Lu 24:21) nhưng hy vọng ấy đã tiêu tan! Chúng ta có cảm giác rằng họ chán nản vì Đức Chúa Trời đã không hành động theo điều họ muốn. Họ chỉ nhìn thấy vinh hiển của Vương quốc nhưng không hiểu gì về sự thương khó.


Chúa nhân từ đồng hành với 2 người, lắng nghe câu chuyện “sôi nổi” của họ (Lu 24:17). Chắc hẳn, họ đã trưng dẫn những lời tiên tri trong Cựu-ước, cố nhớ lại những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu, nhưng họ không thể đối chiếu những lời ấy để đưa ra một lời giải thích ý nghĩa. Ngài là Đấng đắc thắng hay chiến bại? Vì sao Ngài phải chịu chết? Liệu có một tương lai hứa hẹn dành cho dân tộc này không?


Một chi tiết đầy thú vị ở Lu 24:19 khi Chúa hỏi: “Việc gì vậy?” Ngài là trung tâm của mọi sự việc xảy ra tại Giê-ru-sa-lem, nhưng giờ đây Ngài muốn hỏi chính họ những sự việc này! Chúa thật kiên nhẫn biết bao khi Ngài lắng nghe chúng ta kể cho Ngài những điều mà Ngài đã biết rõ (Rô 8:34). Chúng ta có thể “dạn dĩ” đến trước ngôi Ngài, dốc đổ lòng mình ra hầu Ngài có thể giúp chúng ta khi cần (He 4:16; Thi 62:8).


Cleopas càng nói nhiều, ông ta càng tự buộc tội mình và bạn ông về sự vô tín của họ. Họ muốn chứng cớ nào nữa? Những nhân chứng (kể các các sứ dồ) đã thấy ngôi mộ trống. Các thiên sứ rao về sự phục sinh của Chúa. Các chứng nhân đã mục kích Chúa sống và nghe Ngài nói. Đó chính là chứng cớ!


“Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Ro 10:17). Đấy là lý do Chúa Giê-xu mở lời với 2 người khi họ đến làng Em-ma-út. Nan đề thật của họ không phải ở lý trí nhưng ở tấm lòng họ (xem Lu 24:25,32,38). Có thể họ đã bàn luận vấn đề này trong vài ngày nhưng chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng. Họ cần hiểu rõ Lời Đức Chúa Trời vì vậy Chúa giúp họ hiểu rõ về Ngài. Ngài mở Kinh Thánh và mở mắt họ. Họ nhận ra rằng Chúa Giê-xu không những đang sống mà Ngài thật sự còn ở cùng họ!


Nan đề chính của họ là gì? Họ không tin mọi điều các tiên tri đã viết về Đấng Mê-si-a. Đó cũng là nan đề của dân Do-thái thời bấy giờ: họ biết Đấng Mê-si-a là Đấng Christ đắc thắng, nhưng không hiểu rằng Ngài cũng là Đầy tớ Thánh phải chịu thương khó. Khi đọc Kinh Thánh Cựu-ước, họ chỉ thấy sự vinh hiển chớ không thấy sự thương khó, thấy mão vinh hiển chớ không phải “thập tự giá”. Các giáo sư thời đó không giống như những nhà truyền giáo đầy ơn hôm nay. Họ mù loà với toàn bộ thông điệp của Kinh Thánh.


Có lẽ Chúa Giê-xu bắt đầu dạy từ Sa 3:15 là lời hứa đầu tiên về Đấng Cứu chuộc, và chỉ cho họ thấy lời hứa này qua suốt Kinh Thánh. Có lẽ Ngài dừng lại ở Sa 22:1-19 là đoạn nói về việc Áp-ra-ham dâng con một yêu dấu của mình trên bàn thờ. Hẳn Ngài cũng nói về lễ Vượt Qua, về những của lễ không xứng đáng, lễ nghi, ngày cứu chuộc, con rắn trong đồng vắng, Đầy tớ thánh ở Es 53:1-12 và những thông điệp ở Thi 22:1-30; Thi 69:1-36. Chìa khóa để hiểu Kinh Thánh là nhìn xem Chúa Giê-xu ở từng trang Kinh Thánh Ngài không chỉ dạy chúng ta lý thuyết hay lời tiên tri Ngài dạy “những lời chỉ về Ngài” (Lu 24:27) .


Hai người nói chuyện với Chúa và lắng nghe Ngài. Khi Chúa tỏ ra dường như muốn đi xa hơn một mình thì họ nài Ngài ở lại với họ. Lời Đức Chúa Trời đã chinh phục được họ, nhưng họ vẫn chưa biết Vị Khách Lạ này là ai. Họ chỉ cảm thấy được “nóng cháy” và muốn hưởng hạnh phước này đến tận cùng.


Càng nghe lời Đức Chúa Trời, họ càng muốn gắn bó và cứ ở trong lời ấy. Một tác giả Thánh ca bày tỏ rằng: “Lạy Chúa, vượt trên các trang sách thánh, con tìm kiếm Ngài”. Sự hiểu biết Kinh Thánh có thể sanh ra “kiêu căng” (ICor 8:1) nhưng nhận lẽ thật Kinh Thánh và đồng hành với Đấng Christ sẽ sanh ra một tấm lòng nóng cháy.


Chúa Giê-xu mở Kinh Thánh cho họ, và rồi mở mắt họ để họ nhận biết Ngài. Giờ đây họ hiểu rằng Ngài đang sống. Họ có chứng cớ ngôi mộ trống, những thiên sứ, các nhân chứng, Lời Kinh Thánh và về kinh nghiệm của riêng họ với Chúa. Ngài thoạt biến đi, không có nghĩa là bỏ rơi họ, vì Ngài luôn ở cùng họ dù họ không thấy Ngài. Họ sẽ lại gặp Ngài.


Chứng cớ rõ nhất cho thấy chúng ta hiểu Kinh Thánh và gặp được Chúa sống, là chúng ta nhiệt thành chia sẻ với người khác niềm vui của mình. Hai người vội vã rời Em-ma-út trở lại Giê-ru-sa-lem để cho các môn đệ biết việc họ đã gặp Chúa Giê-xu. Nhưng khi họ đến nơi, các môn đệ cùng những người khác kể cho họ rằng Chúa đã sống lại và hiện ra cùng Phi-e-rơ! Những buổi nhóm thờ phượng trong Hội thánh chúng ta sẽ khác hẳn biết bao nếu mọi người gặp nhau và chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa sống của mình! Nếu những buổi thờ phượng của chúng ta “Thiếu sức sống” có lẽ vì chúng ta chưa thật sự đồng đi và lắng nghe lời của Đấng Christ Hằng sống.


Việc bẻ bánh (Lu 24:30-35) có liên quan đến một bữa ăn, không phải Tiệc Thánh của Chúa. Như chúng ta biết các sứ đồ là những người duy nhất được Chúa dạy về Tiệc Thánh. Cho nên dường như Chúa không có ý nhắc lại Tiệc Thánh ấy lúc này. Ngài bày tỏ chính mình cho họ suốt một bữa ăn bình thường, đó là cách Ngài hành động. Chúng ta phải học cách nhìn xem Ngài qua những việc thường nhật trong cuộc sống. Tuy nhiên, khi dự Tiệc Thánh nhiều lần, chúng ta đều mong Chúa bày tỏ Ngài cho chúng ta theo một cách mới. Vì vậy chúng ta không nên hài lòng với bất cứ điều gì còn khiếm khuyết.


3. Những tấm lòng ngờ vực: Chúa mở trí họ (Lu 24:36-46)

Có quá nhiều sự việc phấn khích xảy ra ngày hôm đó có nhiều điều không thể giải thích được nên mười sứ đồ cùng những người khác gặp nhau tối hôm ấy và chia sẻ những gì họ thấy. Trong khi Cơ-lê-ô-ba cùng bạn ông kể cho nhau về chuyện Chúa Giê-xu, Ngài xuất hiện trong phòng khi mọi cửa đều đóng kín! (Gi 20:19).


Có lẽ bạn tưởng rằng các tín hữu sẽ reo mừng và dâng lời ca ngợi, nhưng họ đều sửng sốt, rụng rời và bối rối (Lu 24:37-38). Họ tưởng đã gặp! Điều xảy ra bất ngờ khiến họ hầu như không có sự chuẩn bị, dù nhiều người trong số họ đã gặp Chúa Phục sinh. Mac 16:14 cho thấy tình trạng của lòng họ đã ảnh hưởng đến việc biểu lộ sự sợ của họ.


Chúa trấn tĩnh họ. Trước tiên, Ngài chúc phước cho họ: “Bình an cho các ngươi” (Lu 24:36). Ngài cũng lặp lại lời chúc phước ấy lần nữa (Gi 20:19-21). “Đức Chúa Trời bình an” là Đấng đã khiến Chúa sống lại từ cõi chết, nên họ không có điều gì phải sợ hãi (He 13:20-21). Bởi Chúa Giê-xu đã hy sinh trên thập tự, mọi người giờ đây được “hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Rô 5:1) và vui mừng hưởng “sự bình an của Đức Chúa Trời” (Phi 4:6-7).


Điều kế tiếp khi Ngài trấn an họ, đó là cho họ xem tay chân bị đóng đinh của Ngài (Thi 22:16) để họ tin chắc Ngài không phải là một bóng ma. Các tác giả thánh ca đôi khi nhắc đến những “vết hằn” trên thân thể Ngài, nhưng sách Phúc-Âm không đề cập gì đến những vết sẹo ấy. Dấu vết của Gô-gô-tha ở trên thân thể vinh hiển của Ngài (Gi 20:24-29) và chúng vẫn còn đó (Kh 5:6,9,12). Có người nói rằng: “Giờ đây, tác phẩm duy nhất của nhân loại ở trên thiên đàng, đó là những dấu vết Gô-gô-tha trên thân thể Đấng Christ đáng tôn quý”.


Chúa đồng ăn với họ để chứng minh cho những tín hữu ngờ vực này tin rằng Ngài thật sự đang sống và hiện hữu, thậm chí Ngài còn mời họ rờ thử vào thân thể Ngài (Lu 24:39; IGi 1:1). Với tri thức hạn hẹp, chúng ta không thể giải thích được làm sao thân thể một người có xương thịt rắn chắc lại di xuyên cửa và biến hoá được. Chúng ta cũng không hiểu vì sao thân thể được vinh hiển mà vẫn còn mang những dấu vết của thập tự giá. Nhưng chúng ta biết rằng sẽ có một ngày chúng ta sẽ giống Ngài trong sự vinh hiển (IGi 3:1-2).


Lu 24:41 bày tỏ một tâm trạng bối rối: vì cớ vui mừng nên chưa tin chắc. Quả là một sự thật khó tin! Đây cũng là tâm trạng của Gia-cốp khi hay tin Giô-sép con mình vẫn còn sống (Sa 45:26-28). Dân Y-sơ-ra-ên kinh nghiệm điều này khi Đức Chúa Trời đem đến sự giải cứu cho họ (Thi 126:1-3). Chúa Giê-xu cho môn đệ biết rằng họ sẽ vui mừng khi thấy Ngài trở lại và lời hứa ấy đã được trọn (Gi 16:22).


Nguồn bình an và sự bảo đảm cuối cùng, là lời Đức Chúa Trời. Vì vậy Chúa “mở trí họ” về lời Kinh Thành ở Cựu-ước, như Ngài đã làm cho các môn đệ ở Em-ma-út. Sau cùng, các môn đệ không bị lạc hướng trong tư tưởng và suy đoán của riêng mình, nhưng nhận lấy những lẽ thật của lời Đức Chúa Trời. Hôm nay chúng ta không thể rờ được Chúa Giê-xu, và cũng không cần thiết phải làm vậy, nhưng chúng ta vẫn có thể đặt niềm tin mình trên lời Đức Chúa Trời (IGi 1:1-5).


Không chỉ giúp họ hiểu luật pháp, các tiên tri, các đoạn Thi thiên, Chúa còn nhắc họ nhớ lại những điều Ngài đã dạy dỗ họ, và giải thích cho họ những mối liên hệ đó.Giờ đây họ hiểu rằng, Ngài phải chịu thương khó, chịu chết và vì sao thập tự giá có liên quan đến những lời hứa về Vương quốc trên trời (IPhi 1:10-12). Thật là một đặc ân dành cho họ khi lắng nghe Chúa bày tỏ Lời Ngài!


4. Những tấm lòng vui mừng: Chúa mở môi miệng họ (Lu 14:47-53)

Đặc ân luôn đem đến trách nhiệm. Các môn đệ phải làm chứng về những điều Chúa đã phán và thực hiện (Cong 1:8). Người làm chứng là người nói thật những gì mình thấy và nghe (Công 4:20). Theo vài cách dùng khác nhau từ “làm chứng” được đề cập đến 29 lần trong sách Công-vụ.

Là Cơ-đốc nhân, chúng ta không phải là những quan xét hay luật sư buộc tội được sai đến để lên án thế gian. Chúng ta là những chứng nhân nói về Chúa Giê-xu và cho tội nhân hư mất biết phương cách để được cứu rỗi.


Làm sao một nhóm người bình thường có thể tin rằng họ thực hiện được nhiệm vụ như thế? Đức Chúa Trời hứa ban cho họ quyền năng (Lu 24:49; Công 1:8) và Ngài đã làm vậy. Vào ngày lễ Ngũ tuần, Thánh Linh Đức Chúa Trời đã giáng trên Hội thánh và ban cho họ quyền năng rao giảng Đạo Ngài (Công 2:1-47). Sau lễ Ngũ tuần, Đức Thánh Linh vẫn ban quyền năng lớn cho họ (Công 4:33).


Việc làm chứng không phải là điều chúng ta đã làm cho Chúa, nhưng đó là điều Ngài hành động qua chúng ta khi chúng ta đầy dẫy Đức Thánh Linh. Có một sự khác biệt lớn giữa “quảng cáo hàng hóa” với lời làm chứng trong quyền năng Thánh Linh.

Vance Havner nói rằng: “Người ta không đến với Chúa Giê-xu sau một cuộc tranh luận.”

Si-môn Phi-e-rơ đến với Chúa vì Anh-rê đã đi theo làm chứng cho ông? Chúng ta ra đi với thẩm quyền của danh Chúa, trong quyền năng Thánh Linh để rao giảng về Phúc-Âm của ân điển Ngài.


Chúng ta nên so sánh Lu 24:50-52 với Mac 16:19-20 và Công 1:9-12. Bởi vì sự thăng thiên của Chúa không là điều được chú ý trong Hội Thánh lúc đó. Bạn hãy nghĩ đến ý nghĩa của sự kiện này đối với việc Ngài lên trời và ngự trên ngôi vinh hiển! (Gi 17:5,11). Sự thăng thiên này là bằng chứng Ngài đắc thắng mọi kẻ thù và cai trị “cao hơn hết mọi quyền” (Eph 1:18-23).


Hôm nay trên thiên đàng, Chúa chúng ta đang làm công việc của Ngài như Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm của chúng ta (He 7:25,26) và là Đấng cầu thay cho chúng ta (IGi 2:1). Là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm, Ngài ban ơn phước khi chúng ta cần đối phó với thử thách và cám dỗ (He 4:14-16).

Khi chúng ta vấp ngã Ngài là Đấng Cầu thay sẵn sàng tha thứ và phục hồi địa vị chúng ta nếu chúng ta xưng nhận tội lỗi mình (IGi 1:6-10). Là Đầu Hội thánh, Ngài chuẩn bị cho chúng ta mọi điều trọn vẹn để sống cho Ngài và hầu việc Ngài trong thế gian này (He 13:20-21; Eph 4:7-16). Qua lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện, Ngài dùng Đức Thánh Linh để hành động trong chúng ta và khiến chúng ta trở nên giống Ngài hơn.


Dĩ nhiên, Ngài còn chuẩn bị một nơi trên thiên đàng cho chúng ta, là những con cái Ngài (Gi 14:1-6). Một ngày nào đó, Ngài sẽ tái lâm để đem chúng ta đi với Ngài mãi mãi.


Điều cuối cùng Chúa thực hiện, đó là: chúc phước cho những người thuộc về Ngài. Vì vậy điều trước tiên họ làm là thờ phượng Ngài! Hai điều này sẽ luôn đi đôi với nhau, vì khi chúng ta thật sự thờ phượng Ngài, Ngài sẽ ban phước cho chúng ta.Ngài không chỉ mở môi miệng các tín hữu để làm chứng về Ngài, Ngài còn mở môi họ để thờ phượng và tôn vinh Ngài!


Bác sĩ Lu-ca mở đầu Phúc-Âm bằng một hình ảnh trong đền thờ (Lu 1:8) và kết thúc Phúc-Âm giống như vậy (Lu 24:53). Tuy nhiên, có một sự khác biệt giữa thầy tế lễ vô tín và câm lặng với những thánh đồ tin cậy và vui mừng! Lu-ca đã giải thích vì sao Chúa Giê-xu đến Giê-ru-sa-lem và hoàn thành công tác cứu chuộc của Ngài.

Sách Lu-ca mở đầu và kết thúc tại thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng trong sách Công-vụ các sứ-đồ của ông đã giải thích quá trình Phúc-Âm của Đức Chúa Trời loan truyền từ Giê-ru-sa-lem đến Rô-ma.


Phải chăng Phúc-Âm cũng đang được rao ra khắp đất từ “Giê-ru-sa-lem” của bạn?



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page