top of page

MÁC 2

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Phúc-Âm



8. NHỮNG ĐIỀU NGHỊCH LÝ TRONG SỰ DẠY DỖ CỦA NGƯỜI TÔI TỚ (Mac 10:1-52)


Là...

...một Giáo sư đại tài, Chúa chúng ta dùng nhiều phương pháp khác nhau để chia sẻ Lời Đức Chúa Trời: các biểu tượng, các phép lạ, các kiểu mẫu, các ẩn dụ, câu châm ngôn, và những điều nghịch lý. Một sự nghịch lý là một câu nói dường như mâu thuẫn với chính nó nhưng lại diễn tả một lẽ thật hoặc nguyên lý hợp lô-gíc.

“Khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” là một điều nghịch lý (IICor 12:10 xin cũng xem IICor 6:8-10). Có nhiều khi cách tốt nhất để nêu lên một chân lý là dùng sự nghịch lý và chương này mô tả Chúa chúng ta đang làm y như vậy. Ngài đã có thể giảng những bài thật dài nhưng thay vào đó, Ngài lại dạy chúng ta năm bài học quan trọng có thể được diễn tả trong năm câu nói ngắn gọn xúc tích, có tính cách nghịch lý.


1. Hai sẽ trở nên một (Mac 10:1-12)

Chúa Giê-xu hoàn tất chức vụ của Ngài tại Ga-li-lê, rời khỏi Ca-bê-na-um, và đến địa phận bên kia sông Giô-đanh, vẫn còn đang trên đường đến thành Giê-ru-sa-lem (c.32). Vùng này do Hê-rốt An-ti-ba cai quản, điều này có thể giải thích vì sao những người Pha-ri-si đã cố gài bẫy Ngài bằng cách nêu một câu hỏi về việc ly dị. Xét cho cùng, Giăng Báp-tít đã bị giết hại vì ông rao giảng chống lại cuộc hôn nhân tội lỗi của Hê-rốt (Mac 6:14-29).


Nhưng câu hỏi mưu mẹo của họ không chỉ liên quan tới chính trị, vì việc ly dị là một đề tài gây ra sự tranh luận rất lớn giữa vòng những ra bi Do-thái. Dù Chúa Giê-xu trả lời ra sao đi nữa, chắc hẳn Ngài đã làm một số người phật ý, và điều này có thể tạo nên cơ hội để bắt giữ Ngài. Những động từ cho thấy là những người Pha-ri-si “cứ tiếp tục hỏi Ngài, ” như thể họ hy vọng khiêu khích Ngài nói một điều gì đó có tính cách buộc tội.


Vào thời đó có hai quan điểm xung đột nhau về việc ly dị, và bạn tán thành quan điểm nào tùy thuộc vào cách bạn diễn giải cụm từ một sự ô uế nào đó trong Phu 24:1-4. Những môn đệ của Ra bi Hillel hoàn toàn phóng khoáng trong cách diễn giải của họ và cho phép một người nam ly dị vợ mình vì bất cứ lý do gì, kể cả việc làm khét thức ăn. Nhưng trường phái của Ra bi Shimmai thì nghiêm khắc hơn nhiều và dạy rằng những từ một sự ô uế nào đó chỉ nhằm nói đến tội lỗi diễn ra trước khi kết hôn. Nếu một người chồng mới lấy vợ khám phá rằng vợ mình không còn đồng trinh, thì người ấy có thể ly dị nàng.


Như vẫn thường làm, Chúa Giê-xu không quan tâm đến những cuộc tranh luận đang diễn ra và tập trung sự chú ý vào Lời Đức Chúa Trời, trong trường hợp này, là Luật pháp của Môi-se trong Phuc 24:1-4. Khi nghiên cứu phân đoạn này, điều quan trọng là cần lưu ý hai sự kiện.

- Trước tiên, chính người nam ly dị vợ, chớ không phải người vợ ly dị chồng vì phụ nữ không có quyền này tại xứ Y-sơ-ra-ên. (Phụ nữ La-mã thì có quyền ly dị.)

- Thứ nhì, “tờ giấy ly dị” chính thức được trao cho người vợ để công bố thân phận của nàng và để đảm bảo với bất cứ người chồng tương lai nào rằng nàng thực sự được tự do để tái hôn. Ngoài việc cho nàng tờ giấy ly dị này, yêu cầu duy nhất khác là nàng không được trở về với người chồng ban đầu nếu người chồng thứ nhì lại ly dị nàng. Giữa vòng những người Do-thái, vấn đề không phải là, “Một người vợ đã bị ly dị có thể kết hôn một lần nữa không?” bởi vì việc tái hôn được cho phép và thậm chí được mong đợi như vậy. Vấn đề lớn là, “Những lý do hợp pháp để một người nam ly dị vợ là gì?”


Luật pháp Môi-se không cho tội ngoại tình là lý do để ly dị vì tại Y-sơ-ra-ên, những người nam và người nữ phạm tội ngoại tình đều bị ném đá cho đến chết (Phuc 22:22; Le 20:10; Gi 8:1-11). Bất kỳ điều gì Môi-se muốn nói đến qua câu “một sự ô uế nào đó” trong Phuc 24:1 điều đó không thể nào là tội ngoại tình được.


Chúa Giê-xu giải thích rằng Môi-se đã ban luật định về sự ly dị vì cớ tình trạng tội lỗi của tấm lòng con người. Luật pháp bảo vệ người vợ bằng cách ngăn trở người chồng không được hấp tấp ly dị nàng và ngược đãi nàng như một món đồ đạc trong nhà không được ưa chuộng, thay vì đối xử với nàng như một con người. Không có tờ giấy ly dị, một phụ nữ có thể dễ dàng trở nên một người bị xã hội ruồng bỏ và bị đối xử như một kỵ nữ. Không người nam nào mong muốn cưới nàng, và nàng sẽ bị bỏ rơi không ai bảo vệ và phải chịu nghèo túng cơ cực.


Bằng cách ban bố điều răn này cho Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời không đang tán đồng việc ly dị hay thậm chí đang cổ vũ việc đó. Đúng hơn, Ngài đang tìm cách ngăn trở nó và khiến cho những người nam phải gặp khó khăn hơn khi đuổi vợ mình đi. Ngài đặt ra những quy luật thích đáng xoay quanh việc ly dị hầu cho những người vợ sẽ không trở thành nạn nhân của những ý thích bốc đồng nơi những người chồng.


Kế đó Chúa đem họ trở về xa hơn thời Môi-se đến phần ký thuật của Sự Sáng tạo đầu tiên (Sa 1:27; Sa 2:21-25). Xét cho cùng, buổi ban đầu, chính Đức Chúa Trời đã thiết lập hôn nhân và Ngài có quyền đặt ra các luật lệ. Theo Thánh Kinh, hôn nhân là giữa một người nam và một người nữ, chớ không phải hai người nam hoặc hai người nữ và mối quan hệ trong hôn nhân là thánh khiết và bền chặt. Đó là sự hiệp một thân thiết nhất trong dòng dõi loài người, vì hai người trở nên một thịt. Điều này không đúng đối với một người cha và con trai hoặc một người mẹ và con gái, nhưng đúng đối với một người nam và vợ mình.


Trong khi yếu tố thuộc linh có tầm quan trọng sống còn trong hôn nhân, điều nhấn mạnh ở đây là hôn nhân là một sự hiệp nhất về thể xác: hai người trở nên một thịt, chớ không phải một tâm linh. Vì hôn nhân là một sự hiệp nhất về thể xác, nên chỉ có nguyên nhân thuộc thể mới có thể phá vỡ nó được – hoặc là sự chết (Ro 7:1-3) hoặc là sự gian dâm (Mat 5:32; Mat 19:9). Mác không kể đến “điều khoản ngoại lệ” tìm thấy trong Ma-thi-ơ, nhưng ông cũng không nói rằng sự chết phá vỡ sự hiệp nhất trong hôn nhân.


Một cách riêng tư, Chúa đã giải thích vấn đề rõ hơn cho các môn đệ Ngài đang thắc mắc, những người mà đến lúc này đã tin chắc rằng lập gia đình là một việc nguy hiểm. Tái hôn sau khi ly dị, trừ ra vì lý do tà dâm, sẽ khiến người ấy thành ra phạm tội ngoại tình, và đây là một việc nghiêm trọng. Hãy lưu ý là Chúa Giê-xu bao gồm cả những người nữ trong lời cảnh cáo của Ngài, điều này chắc chắn nâng cao địa vị của họ trong xã hội và đem lại cho họ sự bình đẳng về trách nhiệm với nam giới. Các ra bi rất có thể đã không tiến xa đến như vậy.


Mac 10:9 cảnh cáo chúng ta rằng loài nguời không thể nào phân rẽ những kẻ đã được kết hợp trong hôn nhân, nhưng Đức Chúa Trời thì có thể. Vì Ngài đã thiết lập hôn nhân, nên Ngài có quyền đặt ra các luật lệ. Một cuộc ly dị có thể hợp pháp dựa theo các luật lệ của chúng ta nhưng vẫn không phải lẽ trong cái nhìn của Đức Chúa Trời. Ngài mong đợi những người đã kết hôn thực hành tinh thần dấn thân đối với nhau (c.7) và chân thật đối với nhau. Quá nhiều người xem ly dị như “một phương cách dễ dàng để giải quyết vấn đề, ” và không xem trọng những lời họ đã thề hứa với nhau và với Chúa.


2. Những người trưởng thành sẽ giống như con trẻ (Mac 10:13-16)

Trước tiên là hôn nhân, kế tiếp là con cái sự nối tiếp thật hợp lý. Không giống như nhiều “người hiện đại” ngày nay, những người Do-thái vào thời đó xem con cái như một phước hạnh chớ không phải một gánh nặng, một báu vật từ Đức Chúa Trời chớ không phải một của nợ (Thi 127:1-128:6). Việc son sẻ đem đến cho hai vợ chồng sự buồn rầu và nhục nhã.


Các bậc cha mẹ có tục lệ đem con cái mình đến cho các ra bi để được chúc phước, và vì vậy thật hợp lý khi họ đem các con trẻ đến cùng Chúa Giê-xu. Một số còn bồng ẵm trên tay (Lu 18:15), trong khi một số khác đã biết đi và Ngài tiếp đón tất cả những con trẻ này.


Tại sao các môn đệ quở trách dân chúng và cố giữ không cho con trẻ đến gần Chúa Giê-xu? (Mat 15:23 Mac 6:36 để có thêm những thí dụ khác về việc tỏ ra cứng lòng của các môn đệ.) Có lẽ họ cho rằng họ đang làm ơn cho Ngài bằng cách giúp Ngài không phải phí phạm thời giờ và sức lực. Nói cách khác, họ không xem con trẻ là quan trọng! Thái độ của họ thật đáng ngạc nhiên, vì Chúa Giê-xu đã dạy họ phải tiếp đón các con trẻ trong danh Ngài và cẩn thận không được gây cho bất cứ ai trong bọn chúng vấp ngã (Mac 9:36). Một lần nữa, họ quên đi những gì Ngài đã dạy dỗ họ.


Cụm từ rất không hài lòng (giận) là quá nhẹ. Chúa chúng ta thật sự nổi giận khi Ngài công khai quở các môn đệ của mình vì đã ngăn trở Ngài. Kế đó Ngài tuyên bố rằng con trẻ là những ví dụ về Nước thiên đàng tốt đẹp hơn là những người trưởng thành. Chúng ta bảo con trẻ hãy xử sự như những người trưởng thành, nhưng Chúa Giê-xu bảo những kẻ trưởng thành hãy bắt chước theo con trẻ!


Con trẻ là một mẫu mực theo những cách thức nào? Trong sự phụ thuộc vào những người khác cách khiêm nhường, tính dễ tiếp thu, sự chấp nhận chính mình và địa vị của chúng trong cuộc sống. Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu đang phán về một đứa trẻ không hư hỏng, chớ không phải một đứa trẻ đang cố gắng hành động như một người lớn. Một đứa trẻ thích thú nhiều điều nhưng chỉ có thể giải thích rất ít. Con trẻ sống bằng đức tin. Bởi đức tin chúng chấp nhận số phận của mình, tin cậy người khác sẽ chăm sóc chúng và giúp đỡ chúng.


Chúng ta bước vào Nước của Đức Chúa Trời bởi đức tin, giống như các con trẻ: bất lực, không thể nào tự cứu lấy mình, hoàn toàn nhờ cậy vào sự thương xót và ân điển của Đức Chúa Trời. Chúng ta hưởng được Nước Đức Chúa Trời bởi đức tin, tin rằng Đức Chúa Cha yêu thương chúng ta và sẽ chăm lo cho những nhu cầu hàng ngày của chúng ta. Một đứa trẻ làm gì khi nó bị thương tích hoặc gặp một vấn đề gì? Nó kể ngay cho Cha và Mẹ mình! Thật là một tấm gương cho chúng ta noi theo trong mối tương quan giữa chúng ta với Cha Thiên thượng của mình! Vâng, Đức Chúa Trời muốn chúng ta trở nên như con trẻ, chớ không phải trẻ con!


Ở đây không hề có gợi ý là Chúa Giê-xu làm phép báp-tem cho những con trẻ này, vì thậm chí Chúa Giê-xu cũng chẳng làm phép báp-tem cho người nào (Gi 4:1-2). Nếu các môn đệ đã từng quen với việc làm phép báp-tem cho trẻ con, thì chắc hẳn họ sẽ không đuổi đoàn dân đông đi. Chúa Giê-xu đã bồng những con trẻ quý báu này trong vòng tay yêu thương của Ngài và chúc phước cho chúng – và đó chắc hẳn là một phước hạnh lớn biết bao!


3. Những kẻ đầu sẽ trở nên rốt (Mac 10:17-31)

Trong số tất cả những người đã từng đến dưới chân Chúa Giê-xu, đây là người duy nhất bỏ đi với tình trạng tồi tệ hơn khi mới đến. Vậy mà người này đã có quá nhiều đặc ân! Đó là một chàng trai trẻ (Mat 19:22) rất đỗi giàu có. Chàng được những người khác tôn trọng, vì giữ một chức quan nào đó, có lẽ tại một tòa án địa phương (Lu 18:18). Chắc hẳn chàng có tư cách và đạo đức, và trong lòng chàng khát khao những điều thuộc linh khiến chàng phải chạy đến với Chúa Giê-xu và quì dưới chân Ngài. Về mọi mặt, đây là một chàng trai lý tưởng và khi Chúa Giê-xu nhìn thấy chàng thì yêu mến.


Với tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình, chàng trai trẻ này lại rất nông cạn trong cái nhìn của mình về những điều thuộc linh. Chắc hẳn chàng đã có một quan điểm cạn cợt về sự cứu rỗi, vì chàng cho rằng mình có thể làm một điều gì đó để có được hoặc xứng đáng hưởng sự sống đời đời. Đây là một niềm tin phổ biến vào thời đó giữa vòng những người Do-thái (Gi 6:28), và cũng rất phổ biến ngày nay. Hầu hết những người chưa được cứu nghĩ rằng Đức Chúa Trời một ngày kia sẽ cộng các việc lành và các việc xấu của họ lại và nếu các việc lành của họ nhiều hơn các việc xấu, họ sẽ được vào thiên đàng.


Bên cạnh phương pháp dùng các việc lành để đạt đến sự cứu rỗi này là một quan điểm nông cạn về tội lỗi, về con người, về Kinh Thánh, về Chúa Giê-xu Christ, và về sự cứu rỗi. Tội lỗi là sự phản loạn chống nghịch lại một Đức Chúa Trời thánh khiết. Đó không chỉ là một hành động đó là một thái độ bên trong tôn cao con người và coi thường Đức Chúa Trời. Phải chăng chàng trai trẻ này thực sự nghĩ rằng mình có thể làm một vài việc lành về tôn giáo và tính sổ mình với một Đức Chúa Trời thánh khiết?


Chàng trai trẻ này có một cái nhìn nông cạn về Chúa Giê-xu Christ. Chàng gọi Ngài là “Thầy nhân lành, ” nhưng chúng ta có ấn tượng rằng chàng đang cố gắng tâng bốc Chúa vì các ra bi Do-thái không cho phép áp dụng từ nhân lành với họ. Chỉ có Đức Chúa Trời là nhân lành, và từ này phải được dành riêng cho một mình Ngài thôi. Chúa Giê-xu không phủ nhận Ngài là Đức Chúa Trời đúng hơn, Ngài đang khẳng định điều đó. Ngài chỉ muốn chắc chắn rằng chàng trai này thực sự biết điều mình đang nói và sẵn sàng chấp nhận những trách nhiệm liên quan tới.


Điều này giải thích vì sao Chúa Giê-xu hướng sự chú ý của chàng trai này vào Luật pháp của Môi-se: Ngài muốn chàng nhìn thấy chính mình là một tội nhân quì trước một Đức Chúa Trời thánh khiết. Chúng ta không thể được cứu khỏi tội lỗi bởi việc giữ Luật pháp (Eph 2:8-10; Ga 2:16-21). Luật pháp là một tấm gương soi cho chúng ta thấy mình ô nhơ thế nào, nhưng tấm gương không thể nào rửa sạch chúng ta được. Một mục đích của Luật pháp là đem tội nhân đến với Đấng Christ (Ga 3:24), giống như trong trường hợp của chàng trai này. Luật pháp có thể đem tội nhân đến với Đấng Christ, nhưng Luật pháp không thể nào làm cho tội nhân được giống Đấng Christ cả. Chỉ ân điển mới có thể làm điều đó mà thôi.


Vị quan trẻ không nhìn thấy chính mình là một tội nhân bị kết án trước mặt Đức Chúa Trời thánh khiết. Chàng có một cái nhìn cạn cợt về Luật pháp của Đức Chúa Trời, vì chàng đo lường sự vâng lời chỉ bởi những việc làm bên ngoài chớ không bởi những thái độ bên trong. Đối với những việc làm của chàng, chàng không chỗ trách được (Phi 3:6) nhưng thái độ bên trong của chàng không phải là không đáng chê trách, vì chàng trai này tham lam. Chàng có thể đã giữ một số Điều răn, nhưng lại vấp phải Điều răn sau cùng: “Ngươi chớ tham lam!” Tham lam là một tội lỗi đáng sợ nó tinh tế và khó nhận ra, thế nhưng nó có thể khiến cho một người phá vỡ tất cả những điều răn khác.

“Vì sự tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác” (ITi 6:10).


Nhìn vào chàng trai trẻ này, bạn sẽ kết luận rằng chàng ta có đủ mọi thứ, nhưng Chúa Giê-xu phán rằng chàng đang thiếu một điều: một đức tin sống động nơi Đức Chúa Trời. Tiền bạc là thần của chàng chàng tin cậy nó, tôn thờ nó, và nhờ nó mà có được mọi sự. Đạo đức và tư cách tốt đẹp của chàng chỉ che đậy một tấm lòng tham lam mà thôi.


Những lời chỉ dẫn của Chúa chúng ta trong Mac 10:21 không nhằm áp dụng cho mọi người mong muốn trở nên môn đệ Ngài, vì Chúa Giê-xu đang nói đến những nhu cầu cá biệt của vị quan trẻ giàu có này. Chàng ta giàu có, vì thế Chúa Giê-xu phán bảo chàng bán hết tài sản mình và ban phát cho kẻ nghèo khó. Chàng là một quan chức, vì thế Chúa Giê-xu bảo chàng phải vác cây thập tự và theo Ngài, và đó là một từng trải của sự hạ mình. Chúa Giê-xu hứa ban cho chàng món quà của sự sống đời đời, nhưng chàng gạt bỏ sự ban tặng ấy.

Thật khó mà nhận lãnh một món quà khi tay bạn luôn bị buộc chặt quanh tiền bạc và những gì tiền bạc có thể mua được. Từ Hy-lạp được dịch là “rầu rĩ, buồn bã” nói lên hình ảnh của những đám mây đen vần vũ. Chàng trai bước ra khỏi ánh mặt trời và đi vào một cơn bão táp! Chàng muốn được hưởng sự cứu rỗi theo những giới hạn mình đặt ra, và cuối cùng đầy thất vọng.


Các môn đệ lấy làm đau buồn trước lời tuyên bố của Chúa về của cải, vì hầu hết người Do-thái đều cho rằng việc có nhiều của cải là chứng cớ về sự chúc phước đặc biệt của Đức Chúa Trời. Nhiều người ngày nay vẫn còn giữ mãi sai lầm này, bất chấp sứ điệp của sách Gióp, gương mẫu của Đấng Christ, và các sứ đồ, và lời dạy dỗ rõ ràng của Tân-ước. Trong trường hợp của chàng trai trẻ này, của cải chàng có đã cướp mất khỏi người phước hạnh lớn lao nhất của Đức Chúa Trời, đó là sự sống đời đời. Ngày nay, của cải tiếp tục làm cho nhiều người giàu trở nên nghèo và những kẻ đầu trở nên rốt (ICôr 1:26-31).


Tiền bạc là một tôi tớ tuyệt diệu nhưng là một ông chủ đáng kinh khiếp. Nếu bạn có tiền bạc, hãy biết ơn Chúa và sử dụng nó cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời nhưng nếu tiền bạc làm chủ bạn, hãy cẩn thận! Thật tốt khi có những thứ mà tiền bạc có thể mua được, miễn là bạn đừng đánh mất những gì tiền bạc không thể nào mua được. Sự lừa dối của của cải đã làm cho mảnh đất lòng của chàng trai trẻ này quá nghẹt ngòi đến độ chàng không thể nhận lãnh hạt giống tốt của Lời Đức Chúa Trời để được cứu rỗi (Mat 13:22). Một ngày kia chàng sẽ thu hoạch một mùa gặt cay đắng biết bao!


Tuy nhiên, phản ứng của Phi-e-rơ cho thấy là trong chính tấm lòng của ông có một vài vấn đề chưa được sáng tỏ. “Vậy thì chúng tôi sẽ được chi?” (Mat 19:27). Câu nói này bộc lộ một quan điểm thương mại về đời sống Cơ-đốc nhân: “Chúng tôi đã từ bỏ mọi sự vì cớ Chúa giờ đây, chúng tôi sẽ nhận được gì để bù đắp lại?” Hãy đối chiếu những lời của Phi-e-rơ với những câu nói của ba bạn Hê-bơ-rơ trong Da 3:16-18, và với lời chứng sau đó của Phi-e-rơ trong Công 3:6. Chắc hẳn ông đã trải qua một quá trình dài từ chỗ “Tôi sẽ nhận được gì?” đến “Những gì tôi có, tôi sẽ ban cho! ”


Chúa Giê-xu xác quyết với các môn đệ Ngài rằng không người nào đi theo Ngài sẽ phải mất những gì thực sự quan trọng, hoặc trong đời này hoặc trong đời hầu đến. Đức Chúa Trời sẽ ban thưởng cho mỗi người. Tuy nhiên, chúng ta phải biết rõ động cơ của mình là đúng đắn: Vì cớ Ta và vì cớ Phúc-Âm” (Mac 8:35).

R.J. LeTourneau, nhà tư bản công nghiệp Cơ-đốc nổi tiếng của thế kỷ trước đã từng nói, “Nếu bạn ban cho vì điều đó có lợi, thì nó sẽ chẳng mang lại lợi lộc đâu!” Nếu chúng ta hy sinh chỉ để nhận lãnh một sự ban thưởng, phần thưởng ấy sẽ chẳng bao giờ đến cả.


Hãy lưu ý là Chúa Giê-xu cũng hứa “những sự bắt bớ” nữa. Ngài đã bảo trước với các môn đệ những việc cả người Do-thái lẫn các dân ngoại sẽ làm cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem, và giờ đây Ngài cho họ biết rằng họ sẽ có phần trong sự bắt bớ.Đức Chúa Trời làm cho các phước hạnh cân xứng với những chiến trận, qua đó giúp những con trai và con gái của Ngài được trở nên trưởng thành hơn.


Đối với công chúng, vị quan giàu có đứng đầu và các môn đệ nghèo khó đứng cuối. Nhưng Đức Chúa Trời nhìn mọi việc từ viễn cảnh của cõi đời đời – và những kẻ đầu trở nên rốt trong khi những kẻ rốt lại trở nên đầu! Những ai tự cho mình là đầu sẽ là rốt trước mắt Đức Chúa Trời, nhưng những ai tự cho mình là rốt sẽ được ban thưởng như là đầu! Thật khích lệ biết bao cho các môn đệ chân thật vậy!


4. Đầy tớ sẽ là kẻ cai trị (Mac 10:32-45)

Họ vẫn đang hướng đến Giê-ru-sa-lem, và Chúa Giê-xu vẫn đang dẫn đường họ. Khi Mác tường thuật lại cuộc hành trình của Cứu Chúa đến đồi Gô-gô-tha, chắc hẳn ông đã suy gẫm nhiều về “Những Bài ca của Người Đầy Tớ” trong Es 42:1-53:12.

Và, “Vì Chúa Giê-hô-va sẽ giúp ta, nên ta chẳng bị mắc cở: vậy ta làm cho mặt ta cứng như đá, vì biết mình sẽ chẳng có điều chi xấu hổ” (Es 50:7). Chúng ta không thể không thán phục lòng can đảm của Tôi Tớ Đức Chúa Trời khi Ngài tiến bước lên đồi Gô-gô-tha, và chúng ta càng phải yêu quý Ngài hơn biết bao vì Ngài đã làm điều đó vì cớ chúng ta.


Chúng ta phải cố gắng để hiểu sự bối rối và khiếp sợ của những kẻ theo Ngài, vì đây là một từng trải khó khăn đối với họ chớ không phải là những điều họ đã hoạch định hay trông mong chút nào. Mỗi một lời tuyên bố mới về sự chết của Ngài chỉ làm tăng thêm sự bối rối của họ. Trong hai lời tuyên bố đầu tiên (Mac 8:31 Mac 9:31), Chúa Giê-xu đã cho họ biết trước những điều sẽ xảy ra nhưng hiện nay Ngài cho họ biết nỗi khổ hình của Ngài sẽ diễn ra nơi đâu – trong thành thánh Giê-ru-sa-lem! Trong lời tuyên bố thứ ba này, Ngài cũng nói đến phần mà các dân ngoại sẽ dự vào trong sự thương khó và sự chết của Ngài, và lần thứ tư, Ngài hứa rằng Ngài sẽ sống lại (xin lưu ý Mac 9:9). Ngài đã báo cho các môn đệ biết chân lý, nhưng họ không thể nào hiểu nổi điều đó.


Trong ánh sáng của lời Chúa tuyên bố về sự chết của Ngài, chúng ta ngượng ngùng và xấu hổ khi đọc đến việc Gia-cơ và Giăng cầu xin được ngồi bên hữu và bên tả Ngài. Làm thế nào họ và mẹ của họ (Mat 20:20-21) lại có thể nhẫn tâm và ích kỷ đến như vậy? Phi-e-rơ đã đáp lại lời tuyên bố đầu tiên của Ngài bằng cách tranh cãi với Ngài sau lời tuyên bố thứ hai, các môn đệ đáp lại bằng cách tranh luận giữa vòng họ về việc ai là lớn nhất (Mac 9:30-34). Những người này dường như mù lòa trước ý nghĩa của thập tự giá.


Thực ra, Sa-lô-mê và hai con trai bà đang đòi những lời hứa Chúa Giê-xu đã truyền phán là, trong nước tương lai, các môn đệ sẽ ngồi trên mười hai ngôi với Cứu Chúa Giê-xu. (Xin xem Mat 19:28. Vì Mác đang viết đặc biệt cho các dân Ngoại, ông không kể đến lời hứa này.)


Về phần họ cần phải có một lượng đức tin lớn để đòi hỏi lời hứa này, đặc biệt vì Chúa Giê-xu vừa mới nhắc nhở họ về sự chết sắp xảy đến cho Ngài. Cả ba người đều thuận ý với nhau (Mat 18:19), và họ có Lời phán của Ngài để khích lệ họ, vì thế không có lý do gì Chúa Giê-xu lại không ban cho họ điều họ cầu xin.


Ngoại trừ một việc: họ đang cầu xin cách vị kỷ, và Đức Chúa Trời không đáp lại những lời cầu nguyện vị kỷ (Gia 4:2-3). Nếu Ngài đáp lời, thì đó chỉ Ngài có thể kỷ luật chúng ta và dạy chúng ta cách thức cầu xin trong ý muốn Ngài (Thi 106:15; IGi 5:14-15). Gia-cơ, Giăng, và Sa-lô-mê đã không nhận ra rằng phải trả một giá nào đó để nhận được sự đáp lời cầu xin. Để ban cho họ điều họ cầu xin, Chúa Giê-xu phải chịu khổ và chịu chết. Tại sao Ngài lại phải trả một giá lớn lao như thế chỉ để họ có thể hưởng được sự ngồi trên ngôi mà chẳng trả giá gì? Đó có phải là cách để tôn vinh Đức Chúa Trời chăng?


Chúa Giê-xu so sánh việc Ngài sắp chịu khổ và chịu chết với việc uống một chén đắng (Mac 14:32-36) và việc từng trải một phép báp-tem (Lu 12:50 Thi 41:7 Thi 69:2,15). Đó sẽ là một từng trải đau thương – thế mà Gia-cơ và Giăng lại nói họ sẽ có thể cùng nếm trải điều đó với Chúa Giê-xu! Họ ý thức rất ít những gì mình đang nói, vì vào những năm sau đó họ sẽ thực sự dự phần trong phép báp-tem và trong chén đắng ấy. Gia-cơ sẽ là người đầu tiên trong số các môn đệ bị tuận đạo (Cong 12:1-2), và Giăng sẽ từng trải sự bách hại lớn lao.


Vì lời cầu xin của họ được thúc đẩy bởi sự khôn ngoan thuộc về đất, chớ không phải sự khôn ngoan từ trời, Gia-cơ và Giăng đã khơi dậy lòng căm tức của các môn đệ khác và đem đến tình trạng bất hòa chia rẽ cho cả nhóm (Gia 3:13-4:1). Chắc hẳn hai người không vui vì họ đã không nghĩ đến việc cầu xin cho được làm đầu! Một lần nữa, Chúa Giê-xu cố gắng dạy dỗ họ việc trở nên một “người quan trọng”trong Nước Đức Chúa Trời có nghĩa gì (Mac 9:33-37).


Giống như nhiều người ngày nay, các môn đệ đang phạm sai lầm của việc học theo những tấm gương sai trật. Thay vì học theo gương Chúa Giê-xu, họ lại đang ao ước sự vinh quang và uy quyền của những bậc cầm quyền La-mã, là những người yêu thích địa vị và quyền hành. Trong khi không có gì sai trật với việc mong mỏi sự vĩ đại, chúng ta phải thận trọng cách chúng ta định nghĩa “sự vĩ đại” như thế nào và tại sao chúng ta lại muốn có được nó. Chúa Giê-xu phán, “Hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người” (Mac 10:43-44).


Mẫu mực của Đức Chúa Trời trong Thánh Kinh là một người trước hết phải là một đầy tớ trước khi Đức Chúa Trời cất nhắc người ấy lên thành một người cai trị. Điều này đúng với Giô-sép, Môi-se, Giô-suê, Đa-vít, Ti-mô-thê, và cả đến Chính mình Chúa chúng ta nữa (Phi 2:1-11). Nếu chúng ta không biết vâng theo các mệnh lệnh như thế nào, thì chúng ta không có quyền ra lệnh. Trước khi một người hành sử thẩm quyền, người ấy phải biết việc vâng phục thẩm quyền có ý nghĩa ra sao. Nếu Chúa Giê-xu Christ đã theo mẫu mực này trong việc hoàn tất công tác cứu chuộc vĩ đại, thì chắc chắn không có khuôn mẫu nào khác để chúng ta noi theo cả.


5. Những kẻ nghèo trở nên giàu (Mac 10:46-52)

Một đoàn dân đông trên đường đi dự lễ Vượt Qua theo Chúa Giê-xu và các môn đệ Ngài đến thành Giê-ri-cô, cách Giê-ru-sa-lem chừng mười tám dặm. Thực ra có hai thành tên Giê-ri-cô: thành cũ hiện nay đã đổ nát, và thành mới cách đó một dặm nơi Đại đế Hê-rốt và những kẻ kế nghiệp ông xây dựng một cung điện mùa đông thật hoang phí. Điều này có thể giúp giải thích điều có vẻ mâu thuẫn giữa Mac 10:46 và Lu 18:35.


Có hai người ăn xin mù đang ngồi bên đường (Mat 20:30), một trong hai người tên là Ba-ti-mê. Cả Mác và Lu-ca đều tập trung vào người vì người lớn tiếng hơn người kia. Hai người ăn mày đã nghe tin là Giê-xu người Na-xa-rét, Đấng Chữa bệnh, đang đi ngang qua họ cố hết sức mình để thu hút sự chú ý của Ngài hầu cho họ có thể nhận được sự cứu giúp đầy thương xót của Ngài và được chữa lành.


Trước tiên, đám đông cố tìm cách bắt họ phải im lặng, nhưng khi Chúa Giê-xu dừng lại và cho đòi hai người đến, đám đông lại khích lệ họ! Những người tuyệt vọng không để cho đám đông ngăn họ đến với Chúa Giê-xu (Mac 5:25-34). Ba-ti-mê quăng bỏ áo ngoài để nó sẽ không làm vướng chân ông, và vội vàng chạy đến Chúa. Chắc hẳn một số người đi dự lễ hoặc các môn đệ đã giúp đỡ ông.


“Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?” có vẻ như một câu hỏi lạ kỳ để hỏi một người mù. (Cũng câu hỏi này Ngài đã hỏi Gia-cơ, Giăng, và Sa-lô-mê, c.36.) Nhưng Chúa Giê-xu muốn tạo cơ hội để người mù này nói lên ý kiến và bày tỏ đức tin của riêng ông. Ông thật sự tin Chúa Giê-xu có thể làm gì cho mình?


Khi Ba-ti-mê gọi Chúa Giê-xu là “Chúa, ” ông dùng danh xưng Ra-bô-ni, có nghĩa là “Thầy của tôi.” Người duy nhất khác trong các sách Phúc-Âm dùng từ này là Ma-ri (Gi 20:16). Người ăn xin đã hai lần gọi Ngài là “Con vua Đa-vít, ” một danh xưng của dân Do-thái chỉ về đấng Mê-si-a, nhưng “Ra-bô-ni” là một từ bày tỏ đức tin cá nhân.


Ma-thi-ơ cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu động lòng thương xót và rờ vào mắt họ (Mat 20:34), và lập tức họ được chữa lành. Do lòng biết ơn Chúa Giê-xu, hai người đã nhập vào đoàn người đi dự lễ và khởi sự hướng về Giê-ru-sa-lem, theo chân Chúa Giê-xu. Đây là phép lạ chữa bệnh sau cùng được ký thuật trong Mác, và chắc hẳn nó phù hợp với chủ đề “Người Tôi Tớ” của sách Mác. Chúng ta nhìn thấy Chúa Giê-xu Christ, Tôi Tớ Chịu Khổ của Đức Chúa Trời, đang trên đường bước lên thập tự giá, thế mà Ngài cũng đã dừng chân để hầu việc hai người ăn xin mù! Tình yêu của Ngài, sự thương xót của Ngài, và ân điển của Ngài sâu rộng biết dường nào!



 


9. NGƯỜI TÔI TỚ TẠI GIÊ-RU-SA-LEM (Mac 11:1-12:44)


Giê-ru-sa-lem vào mùa lễ Vượt Qua là sự vui mừng của những người Do-thái và là nỗi thất vọng của những người La-mã. Hàng ngàn người Do-thái mộ đạo từ khắp nơi trên thế giới sẽ đến Thành Thánh, lòng tràn đầy hứng khởi và nhiệt thành dân tộc. Dân cư thành Giê-ru-sa-lem tăng lên hơn gấp ba lần trong suốt kỳ lễ, khiến cho quân lính La-mã cần phải cảnh giác canh phòng đặc biệt. Họ sống với khả năng là một số người thuộc đảng cách mạng Do-thái nhiệt thành có thể tìm cách giết chết một viên chức La-mã hoặc khích động một cuộc nổi dậy, và luôn luôn có thể xảy ra những cuộc tranh luận giữa vòng các nhóm tôn giáo Do-thái khác nhau.


Người Tôi Tớ của Đức Chúa Trời bước vào cảnh trạng này với không đầy một tuần còn lại trước khi Ngài sẽ bị đóng đinh bên ngoài những bức tường thành. Trong phân đoạn này, chúng ta thấy Tôi Tớ của Đức Chúa Trời đang thi hành chức vụ trong ba vai trò chính thức khác hẳn nhau.


1. Vị vua - tôi tớ (Mac 11:1-11)

Trên con đường Chúa Giê-xu đi, khách lữ hành sẽ đến Bê-tha-ni trước và kế đó là làng Bê-pha-giê, cách Giê-ru-sa-lem chừng hai dặm. Địa điểm này ở độ cao khoảng 2.600 bộ (khoảng 870m), và từ đó bạn có một cảnh quang ngoạn mục của Thành Thánh. Chúa sắp làm một việc mà trước đây Ngài chưa bao giờ làm, một việc mà Ngài đã nhiều lần cảnh cáo những người khác không được làm cho Ngài: Ngài sắp cho phép những kẻ theo Ngài bày tỏ công khai lòng tôn kính đối với Ngài.


Chúa Giê-xu sai hai người trong các môn đệ đến làng Bê-pha-giê để lấy con lừa con mà Ngài cần cho sự kiện này. Đa số người ngày nay nghĩ đến một con lừa chỉ như một con vật khiêm tốn mang gánh nặng, nhưng vào thời đó, nó được xem là một con vật thích hợp cho một vị vua dùng (IVua 1:33). Chúa chúng ta cần con vật này để Ngài có thể làm trọn lời tiên tri về đấng Mê-si-a tìm thấy trong Xa 9:9. Mác không trích dẫn câu này hay nhắc đến nó vì ông đang viết chủ yếu cho các độc giả người Ngoại.


Trong việc làm trọn lời tiên tri này, Chúa Giê-xu hoàn thành hai mục đích:


(1)Ngài công bố Chính Ngài là Vua Y-sơ-ra-ên và là Đấng Mê-si-a


(2)Ngài cố tình thách thức những nhà lãnh đạo tôn giáo. Điều này khiến cho âm mưu chính thức dẫn đến việc bắt giữ Ngài, xét xử Ngài và đóng đinh Ngài biến thành hành động. Những nhà lãnh đạo Do Thái đã quyết định không bắt giữ Ngài trong suốt kỳ lễ, nhưng Đức Chúa Trời đã định đoạt cách khác. Chiên Con của Đức Chúa Trời phải chịu chết vào lễ Vượt Qua.


Nhiều người Do Thái yêu nước từ đoàn người đi dự lễ nôn nóng gia nhập vào cuộc diễu hành công bố Chúa Giê-xu là Vua, là Con vua Đa-vít nhân danh Chúa mà đến. Những vị khách từ vùng Ga-li-lê nổi bật nhất trong cuộc diễu hành, cùng với những người đã chứng kiến việc kêu La-xa-rơ từ kẻ chết sống lại (Gi 12:12-18). Đôi khi bạn nghe nói rằng chính đoàn người đã la to “Hô-sa-na! ” vào Chúa Nhật lễ Lá cuối cùng cũng đã gào thét “Hãy đóng đinh Hắn! ” vào Thứ Sáu Tuần thánh, nhưng điều này không đúng. Đám đông mong muốn Ngài bị đóng đinh phần lớn đến từ xứ Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem, trong khi những người Do Thái vùng Ga-li-lê thì cảm thương với Ngài và chức vụ của Ngài.


Khi tiếp đón một vị vua, người ta thường có tục trải áo ngoài của mình trên đường, rồi rải thêm những nhành cây lên trên (IIVua 9:13). Tiếng la “Hô-sa-na! ” có nghĩa là “Xin hãy cứu ngay giờ này! ” và xuất xứ từ Thi 118:25-26. Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu biết rằng dân chúng đang trích dẫn từ một thi thiên nói về đấng Mê-si-a (hãy liên hệ Thi 118:22-23 với Mat 21:42-44 và Cong 4:11), nhưng Ngài cho phép họ cứ làm điều đó và la to như vậy. Ngài đang công khai khẳng định địa vị Con vua Đa-vít của Ngài.


Những người La Mã đang nghĩ gì khi họ nhìn xem cuộc diễu hành có không khí lễ hội này? Xét cho cùng, người La Mã rất thành thạo về những cuộc diễu hành và những buổi lễ hội trọng thể. Chúng ta gọi sự kiện này là “Sự Vào thành cách Khải hoàn, ” nhưng không người La Mã nào lại muốn dùng từ đó. Một “Cuộc Khải hoàn của La Mã” theo nghi thức quả là một cảnh tượng ngoạn mục! Khi một vị tướng La Mã trở về La Mã sau một cuộc toàn thắng kẻ thù, vị ấy được tiếp đón bằng một cuộc diễu hành với tất cả những nghi thức vô cùng trọng thể. Trong cuộc diễu hành vị tướng ấy sẽ trưng bày những chiến lợi phẩm của mình và các tù nhân có tiếng mình đã bắt được. Vị tướng thắng trận cưỡi một cỗ xe ngựa bằng vàng, các thầy tế lễ đốt hương để tôn vinh ông, và dân chúng la to tên ông và ca tụng ông.Cuộc diễu hành kết thúc tại hý trường nơi dân chúng tiêu khiển bằng cách xem các tù nhân đánh nhau với những con thú dữ. Đó là một “Cuộc Khải hoàn của La Mã.”


“Sự Vào thành Khải hoàn” của Chúa chúng ta không giống như thế chút nào, nhưng đó là một cuộc khải hoàn y như vậy. Ngài là Vị Vua và Cứu Chúa đã được xức dầu của Đức Chúa Trời, nhưng chiến thắng của Ngài có tính cách thuộc linh chớ không phải về quân sự. Một vị tướng La Mã phải giết ít nhất 5.000 địch quân để xứng đáng với một Cuộc Khải hoàn nhưng trong vài tuần lễ, Phúc Âm sẽ “chinh phục” khoảng 5.000 người Do Thái và biến cải cuộc đời họ (Cong 4:4). “Cuộc khải hoàn” của Đấng Christ sẽ là chiến thắng của tình yêu đối với hận thù, chân lý đối với lỗi lầm, và sự sống đối với sự chết.


Sau khi nhìn vào khu vực đền thờ nơi Ngài sẽ trở lại ngày hôm sau, Chúa Giê-xu đã rời khỏi thành và trải qua đêm tại làng Bê-tha-ni, nơi an toàn hơn và yên tĩnh hơn. Chắc hẳn Ngài đã dành thời gian để cầu nguyện với các môn đệ Ngài, cố gắng chuẩn bị họ cho tuần lễ đầy gay go đang chờ phía trước.


2. Vị quan tòa - tôi tớ (Mac 11:12-26)

Việc Chúa quở cây vả và dẹp sạch đền thờ cả hai đều là những hành động có tính cách tượng trưng để minh họa tình trạng thuộc linh đáng buồn của dân tộc Y-sơ-ra-ên.Bất chấp nhiều đặc quyền và cơ hội ban cho mình, Y-sơ-ra-ên về bề ngoài thì không kết quả (cây vả) và bề trong thì lại bại hoại (đền thờ). Chúa Giê-xu không thường xuyên hành động trong sự đoán xét (Gi 3:17), thế mà đến một lúc đây lại là điều duy nhất Đức Chúa Trời có thể làm (Gi 12:35-41).


Rủa sả cây vả (Mac 11:12-14,20-26). Cây vả ra lá vào tháng Ba hoặc tháng Tư và rồi bắt đầu ra trái vào tháng Sáu, và ra đợt thứ nhì vào tháng Tám và có thể một đợt thứ ba vào tháng Mười Hai. Sự hiện diện của lá có nghĩa là sự hiện diện của trái cho dù trái đó là “sót lại” từ mùa trước. Điều quan trọng là trong thí dụ này, Chúa Giê-xu không có sự hiểu biết đặc biệt để hướng dẫn Ngài Ngài đã phải đi đến cây vả và tự mình xem xét mọi việc.


Nếu Ngài có quyền năng để làm cây vả chết đi, tại sao Ngài không dùng quyền năng ấy để khiến nó sống lại và làm cho nó ra trái? Ngoài việc làm cho bầy heo chết đuối (Mac 5:13), đây là thí dụ duy nhất của Chúa chúng ta dùng đến phép lạ diệu kỳ của Ngài để hủy diệt một sinh vật trong thiên nhiên. Ngài làm điều này vì Ngài muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.


Trước tiên là bài học về sự thất bại: Y-sơ-ra-ên đã thất bại không thể kết quả cho Đức Chúa Trời. Trong Cựu Ước, cây vả được gắn liền với dân tộc Y-sơ-ra-ên (Gie 8:13 Ne 3:12 Os 9:10). Giống như cây vả Chúa chúng ta đã rủa sả, Y-sơ-ra-ên “không có gì ngoài ra lá.” Hãy lưu ý là cây vả đã khô “đến tận rễ” (Mac 11:20). Ba năm trước, Giăng Báp-tít đã đặt một cái búa kề rễ cây (Mat 3:10), nhưng những nhà lãnh đạo tôn giáo không hề chú ý sứ điệp của người. Hễ khi nào một cá nhân hoặc một nhóm tín hữu “khô hạn” về tâm linh, thì thường là từ gốc rễ. Có thể có nhiều lá được người ta ngưỡng mộ, nhưng không có trái để mọi người có thể hưởng được.


Các môn đệ có lẽ liên hệ phép lạ này với ẩn dụ mà Chúa Giê-xu đã phán dạy vài tháng trước đó (Lu 13:1-9), và họ sẽ nhìn thấy trong phép lạ này một bức tranh sống động về sự đoán xét của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Họ cũng có thể nhớ lại Mi 7:1-6 nơi đấng tiên tri công bố rằng Đức Chúa Trời đang tìm kiếm “trái vả đầu mùa” từ dân sự Ngài. Đấng Christ vẫn đang tìm kiếm kết quả từ dân sự Ngài, và đối với chúng ta không kết quả tức là tội lỗi (Gi 15:16). Chúng ta phải cẩn thận vun xới rễ thuộc linh của mình chớ không nghỉ yên trên “lá” mà thôi.


Chúa Giê-xu cũng dùng phép lạ này để dạy chúng ta một bài học về đức tin. Sáng hôm sau, khi các môn đệ thấy cây vả đã chết, Chúa Giê-xu bèn phán, “Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời, ” có nghĩa là “Hãy luôn tin cậy Đức Chúa Trời hãy sống trong một thái độ nương cậy nơi Ngài.” Trong hình ảnh của người Do Thái, một ngọn núi biểu thị một điều gì mạnh mẽ và không thể dời đi được, một vấn đề ngăn chặn đường đi (Xa 4:7). Chúng ta chỉ có thể dời những ngọn núi này bởi việc tin cậy Đức Chúa Trời mà thôi.


Dĩ nhiên, đây không phải là bài học duy nhất Chúa Giê-xu từng dạy về sự cầu xin và chúng ta phải cẩn thận chớ tách rời nó khỏi phần còn lại của Thánh Kinh. Sự cầu xin phải trong ý muốn của Đức Chúa Trời (IGi 5:14-15), và người cầu xin phải đang ở trong sự yêu thương của Đức Chúa Trời (Gi 15:7-14). Sự cầu xin không phải là một biện pháp khẩn cấp chúng ta hướng đến khi gặp một nan đề. Sự cầu nguyện thật là một phần của mối tương giao thường xuyên của chúng ta với Đức Chúa Trời và một phần của sự thờ phượng Đức Chúa Trời.


Chúng ta cũng không nên diễn giải Mac 11:24 là, “Nếu các ngươi hết sức cầu nguyện và thật lòng tin, Đức Chúa Trời bị buộc phải đáp lại những lời cầu xin của các ngươi, cho dù các ngươi cầu xin điều gì đi nữa.” Loại đức tin ấy không phải là đức tin nơi Đức Chúa Trời đúng hơn, đó không là gì cả ngoài ra đức tin nơi đức tin, hoặc đức tin nơi cảm xúc. Đức tin thật nơi Đức Chúa Trời dựa trên Lời Ngài (Ro 10:17 Gi 15:7), và Lời Ngài bày tỏ ý muốn của Ngài cho chúng ta. Có người đã từng nói rằng mục đích của sự cầu nguyện không phải là để ý muốn con người được thực hiện trên thiên đàng, mà là để ý muốn Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất này.


Sự cầu nguyện thật bao gồm sự tha thứ cũng như đức tin. Tôi phải ở trong mối tương giao với cả Cha tôi trên trời lẫn anh em tôi dưới đất nếu Đức Chúa Trời sẽ đáp lại những lời cầu xin của tôi (Mat 5:21-26 Mat 6:14-15 Mat 18:15-35). Từ đầu tiên trong “Lời Cầu nguyện của Chúa” là chúng tôi – Lạy Cha chúng tôi ở trên trời”chớ không phải “Lạy Cha tôi ở trên trời.” Mặc dầu Cơ Đốc nhân có thể cầu nguyện trong nơi riêng tư, nhưng không Cơ Đốc nhân nào từng cầu nguyện một mình cả vì tất cả dân sự của Đức Chúa Trời đều là một phần của đại gia đình trên toàn thế giới hiệp nhất lại để tìm kiếm phước hạnh của Đức Chúa Trời (Eph 3:14-15). Sự cầu nguyện kéo chúng ta đến gần với nhau.


Chúng ta không kiếm được phước hạnh của Đức Chúa Trời bởi việc tha thứ cho nhau. Tinh thần tha thứ của chúng ta là một chứng cớ rằng tấm lòng chúng ta trọn lành trước mặt Đức Chúa Trời và chúng ta muốn vâng theo ý muốn Ngài, và điều này khiến Đức Chúa Cha có thể nghe chúng ta và nhậm lời chúng ta (Thi 66:18). Đức tin hành động bởi tình yêu thương (Ga 5:6). Nếu tôi có đức tin nơi Đức Chúa Trời, tôi cũng sẽ có tình yêu thương đối với anh em mình nữa.


Dẹp sạch đền thờ (Mac 11:15-19). Chúa Giê-xu đã dẹp sạch đền thờ trong suốt chuyến viếng thăm vào lễ Vượt Qua đầu tiên của Ngài (Gi 2:13-22), nhưng kết quả chỉ nhất thời thôi. Chẳng bao lâu sau, các nhà lãnh đạo tôn giáo lại cho phép những kẻ đổi bạc và những người mua bán trở lại. Các thầy tế lễ nhận được phần lợi nhuận của mình, và, xét cho cùng, những dịch vụ này là một sự tiện lợi đối với những người Do Thái hành hương đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng. Hãy giả định một người Do Thái từ nước khác đến, mang theo con sinh tế của chính mình, và sau đó khám phá rằng nó bị khước từ vì cớ một tì vít nào đó thì sao? Tỉ lệ tiền luôn thay đổi, vì thế những người đổi ngoại tệ đang làm ơn cho các khách hành hương, ngay cho dù những người lái buôn đang kiếm một số tiền lời thật lớn.Thật dễ dàng để họ hợp lý hóa toàn bộ công việc làm ăn này.


“Nơi họp chợ tôn giáo” này được dựng lên trong Phần Sân dành cho các dân ngoại, là nơi duy nhất người Do Thái đáng lý ra phải đang bận lo công tác truyền giáo nặng nề của mình. Nếu một người Ngoại đến viếng thăm đền thờ và nhìn thấy những gì người Do Thái đang làm trong danh của Đức Chúa Trời chân thật, người ấy sẽ không bao giờ muốn tin những điều họ dạy dỗ. Người Do Thái không thể cho phép có các thần tượng bằng gỗ và đá trong đền thờ của họ, nhưng đã có những thần tượng tại đó y như vậy. Phần Sân dành cho các dân ngoại lẽ ra phải là một nơi để cầu nguyện, nhưng nó lại là một nơi để bóc lột và trục lợi.


Mác đặc biệt đề cập tới những người bán bồ câu. Bồ câu là một trong số rất ít của tế lễ mà những người nghèo có thể sắm sửa (Le 14:22). Đó là của tế lễ Giô-sép và Ma-ri đã đem đến khi họ dâng con trẻ Giê-xu trong đền thờ (Lu 2:24). Cả đến những người nghèo cũng là nạn nhân của những kẻ buôn bán tại đền thờ, và điều này tự nó chắc hẳn đã làm cho Chúa Giê-xu đau lòng, vì Ngài luôn thương xót kẻ nghèo khổ (Mac 12:41-44).


Chúa Giê-xu đã trích dẫn hai câu Thánh Kinh để bênh vực cho những việc Ngài làm – Es 56:7 và Gie 7:11. Cùng lúc đó, Ngài đã vạch trần tội lỗi của những nhà lãnh đạo tôn giáo. Những người Do Thái xem đền thờ chủ yếu là một nơi để dâng tế lễ, nhưng Chúa Giê-xu thì thấy đó là một nơi để cầu nguyện. Sự cầu nguyện thật tự nó đã là một tế lễ dâng lên cho Đức Chúa Trời rồi (Thi 141:1-2). Chúa Giê-xu đã có một cái nhìn thuộc linh về tôn giáo của người Do Thái, trong khi những nhà lãnh đạo thì đề xướng một quan điểm có tính cách truyền thống đã bị rối rắm bởi những luật lệ và phép tắc.


Campbell Morgan chỉ rõ rằng “một cái hang trộm cướp” là nơi bọn trộm cướp chạy đến khi chúng muốn ẩn trốn. Những thầy tế lễ cả và những thầy thông giáo đang sử dụng đền thờ và những dịch vụ tôn giáo của đền thờ để “che đậy” tội lỗi và sự giả hình của mình. Cả hai tiên tri Ê-sai (Es 1:10-17) và Giê-rê-mi (Gie 7:1-16) đều đã cảnh cáo dân sự trong thời của họ rằng sự hiện diện của đền thờ vật chất không hề bảo đảm sự chúc phước từ Đức Chúa Trời. Chính những gì dân sự làm tại đền thờ xuất phát từ tấm lòng họ mới thật sự quan trọng. Cả dân tộc đã không chú ý đến lời cảnh cáo của các đấng tiên tri, họ cũng không chú ý đến lời cảnh cáo của Chúa chúng ta nữa.


Khi những thầy thông giáo và những thầy tế lễ cả nghe thuật về những việc làm của Chúa chúng ta, họ luôn cố tìm cách để bắt Ngài (Mac 14:1-2). Giu-đa sẽ giải quyết vấn đề này cho họ. Trước khi chúng ta vội vàng lên án những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái về tội lỗi của họ, chúng ta cần phải xem xét những công tác hầu việc Chúa của chính mình để xem liệu chúng ta có thể đang biến sứ điệp Phúc Âm thành một món hàng mua bán chăng. Những người ngoại trong xã hội chúng ta đang sống có cho rằng những tòa nhà thờ của chúng ta là những ngôi nhà cầu nguyện không? Tất cả các dân tộc có được tiếp đón tại đó chăng? Là những thuộc viên trong Hội Thánh chúng ta có đến nhà thờ vào những ngày Chúa nhật hầu cố gắng che đậy tội lỗi của mình không? Chúng ta “đi nhà thờ” để giữ tiếng tăm mình hay để thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa Trời? Nếu Cứu Chúa Giê-xu sẽ hiện đến trong ngôi nhà thờ phượng của chúng ta, Ngài sẽ thực hiện những đổi thay nào?


3. Đấng tiên tri - tôi tớ (Mac 11:27-12:44)

(Mac 11:27-33)


Vào những ngày sau đó, những người đại diện tổ chức tôn giáo và chính trị bất ngờ tấn công Chúa Giê-xu khi Ngài giảng dạy tại đền thờ, cố gắng hết sức mình để gài bẫy Ngài bằng những câu chất vấn của họ. Ngài trả lời bốn câu hỏi, và rồi đặt cho họ một câu hỏi khiến họ im lặng mãi mãi.


Câu hỏi về quyền năng (Mac 11:27-12:12). Là những người bảo vệ chính thức của Luật pháp, các thành viên thuộc toà công luận vừa có quyền vừa có trách nhiệm phải điều tra bất cứ ai tự xưng là được Đức Chúa Trời sai đến và việc đó bao gồm cả Chúa Giê-xu (Phu 18:15-22). Tuy nhiên, những người này không có đầu óc cởi mở và động cơ chân thật. Họ không đang tìm kiếm chân lý họ đang tìm kiếm chứng cớ để diệt Ngài đi (Mac 11:18). Chúa Giê-xu biết điều họ đang làm, vì thế Ngài đối diện lời chất vấn của họ bằng một câu hỏi khác và phơi bày sự giả hình của họ.


Tại sao lại đưa họ quay trở về với Giăng Báp-tít? Vì một lý do rất chính đáng: Đức Chúa Trời không dạy chúng ta chân lý mới mẻ nếu chúng ta khước từ chân lý Ngài đã bày tỏ rồi. Nguyên tắc căn bản này được bày tỏ trong Gi 7:17 “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì sẽ biết đạo lý Ta có phải là bởi Đức Chúa Trời hay là Ta nói theo ý Ta.” “Sự vâng lời là tiếng nói của sự hiểu biết thuộc linh, ” nhà truyền đạo người Anh F.W. Robertson đã nói. Những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã không chấp nhận những điều Giăng dạy dỗ, vì thế tại sao Đức Chúa Trời cần phải phán dạy thêm điều gì với họ nữa? Nếu họ đã vâng theo sứ điệp của Giăng, thì rất có thể họ đã vui mừng quy phục quyền năng của Đấng Christ, vì Giăng đã đến để giới thiệu đấng Mê-si-a cho dân tộc này.


Những nhà lãnh đạo Do Thái đã rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan do chính mình gây ra. Họ không đang hỏi “Điều gì đúng?” hay “Điều gì phải lẽ?” mà lại hỏi “Điều gì an toàn?” Đây là cách đặt vấn đề của những kẻ giả hình ưa thích làm đẹp lòng đám đông. Đó chắc hẳn không phải là cách đặt vấn đề của Chúa Giê-xu (Mac 12:14) hay của Giăng Báp-tít (Mat 11:7-10). Chúa Giê-xu không từ chối trả lời câu hỏi của họ Ngài chỉ không chịu chấp nhận và tán thành sự giả hình của họ. Ngài không đang tránh né vấn đề Ngài đang rất trung thực.


Trước khi họ có cơ hội thoát khỏi nơi đó, Ngài kể cho họ một ẩn dụ cho thấy tội lỗi của họ đang dẫn họ đi đến đâu. Họ đã để cho Giăng Báp-tít bị giết hại, nhưng chẳng bao lâu nữa họ sẽ đòi đóng đinh Con Đức Chúa Trời!


(Mac 12:1-44)


Vườn nho là một hình ảnh quen thuộc của Y-sơ-ra-ên (Es 5:1-7 Thi 80:8-16). Theo Le 19:23-25, một người làm vườn sẽ không ăn trái cho đến năm thứ năm, mặc dầu chúng ta không chắc người Do Thái đang vâng giữ luật định này vào thời đó. Để không mất những quyền hợp pháp của mình đối với tài sản, người chủ phải nhận sản vật nơi các tá điền, ngay cho dù đó chỉ là một ít rau mọc giữa những hàng cây hoặc giữa những cây nho. Điều này giải thích vì sao các tá điền không chịu nộp cho chủ bất cứ hoa lợi gì: họ muốn đoạt vườn nho cho riêng mình. Điều đó cũng giải thích vì sao người chủ tiếp tục sai các đầy tớ đến cùng họ đó hoàn toàn là một vấn đề liên quan đến thẩm quyền và quyền sở hữu.


Nếu Mac 12:2-5 bao gồm ba năm không được ăn trái, thì chính vào năm thứ tư mà người Con yêu dấu đã được sai đến. Đây là năm mà trái được dâng lên cho Đức Giê-hô-va (Le 19:24), và điều này khiến cho việc sai người Con đến lại có ý nghĩa hơn.Nếu các tá điền có thể tiêu diệt người con kế tự, họ sẽ có trọn quyền san đoạt tài sản vì thế họ quăng người con ra ngoài (xin xem He 13:12-13) và giết người.Họ muốn bảo vệ quyền lợi riêng của mình và thậm chí muốn giết người để hoàn thành mục đích gian ác của mình (Gi 11:47-53).


Kế đó Chúa Giê-xu đã hỏi, “Vậy thì chủ vườn nho sẽ làm thế nào?” Những nhà lãnh đạo trả lời câu hỏi này trước hết và bởi đó đã tự kết tội mình (Mat 21:41), và rồi Chúa Giê-xu đã nhắc lại câu trả lời của họ như một lời tuyên án trang nghiêm từ đấng Phán Xét. Nhưng trước khi họ có thể kháng cáo, Ngài đã trích dẫn điều họ biết là một lời tiên tri về Đấng Mê-si-a trong Thi 118:22-23. Chúng ta đã gặp cùng Thi thiên này lúc Ngài vào thành cách khải hoàn (Mac 11:9-10). “Hòn đá” là một biểu tượng nổi tiếng chỉ về Đấng Mê-si-a (Xu 17:6 Da 2:34 Xa 4:7 Ro 9:32-33 ICo 10:4 IPhi 2:6-8). Người Tôi Tớ-Đấng Đoán Xét đã công bố một lời tuyên án gấp đôi: họ không chỉ khước từ Con, nhưng họ cũng đã chối bỏ Hòn Đá nữa! Chỉ có thể có một hậu quả dành cho họ mà thôi – đó là sự phán xét (Mat 22:1-14).


Câu hỏi liên quan đến trách nhiệm (Mac 12:13-17). Một sự đe dọa chung buộc hai kẻ thù phải liên kết với nhau, đó là những người Pha-ri-si và những người thuộc đảng Hê-rốt. Những kẻ thuộc đảng Hê-rốt ủng hộ gia đình của Hê-rốt cũng như là những người La Mã là kẻ ban cho họ thẩm quyền để cai trị. Tuy nhiên, những người Pha-ri-si xem đảng Hê-rốt là những kẻ gian ác chiếm đoạt ngôi của vua Đa-vít vì, xét cho cùng, Hê-rốt là một người Ê-đôm chớ không phải một người Do Thái. Những người Pha-ri-si cũng phản đối loại thuế thân mà những người La Mã đã đánh trên Giu-đa, và họ căm ghét chính sự hiện diện của La Mã trên xứ sở họ.


Sự liên minh tạm thời của họ là một cái bẫy khôn ngoan, vì cho dù Chúa Giê-xu trả lời câu hỏi của họ ra sao đi nữa, thì Ngài vẫn gặp rắc rối hoặc với La Mã hoặc với đảng Hê-rốt! Nhưng Chúa Giê-xu đã chuyển cuộc tranh luận từ lãnh vực chính trị sang lãnh vực nguyên tắc và khiến những kẻ giả hình phải rơi vào bẫy của chính họ. Chúng ta có thể nêu câu trả lời của Chúa đại khái như thế này: “Hình của Sê-sa được khắc trên những đồng tiền của người, vì vậy chúng phải được đúc bởi thẩm quyền của người. Sự kiện các ông sở hữu những đồng tiền này và dùng chúng cho thấy rằng các ông nghĩ chúng có một giá trị nào đó. Vì thế, các ông đang chấp nhận thẩm quyền của Sê-sa, nếu không các ông sẽ không dùng tiền của người! Nhưng đừng quên rằng các ông đã được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và do đó cũng phải sống dưới thẩm quyền của Đức Chúa Trời nữa.”


Có lần tôi trao đổi thư từ ngắn với một người phản đối lời giải thích của tôi về Ro 13:1-14. Ông ta nói rằng mọi nhà cầm quyền đều thuộc về ma quỷ và Cơ Đốc nhân không được khuất phục trước thẩm quyền của “các thế lực đang cai trị.” Tôi chỉ cho ông thấy rằng ngay việc ông dùng dịch vụ thư tín của nước Mỹ đã là một sự chấp nhận thẩm quyền của nhà nước rồi. Tiền bạc ông dùng mua giấy và tem cũng đến từ “các thế lực đang cai trị.” Đối với vấn đề đó, chính sự tự do ông có để phát biểu ý kiến của mình là một cái quyền được đảm bảo bởi chính nhà cầm quyền vậy!


Từ ngữ dịch là “trả lại” trong Mac 12:17 có nghĩa là “trả một món nợ, hoàn lại.”Chúa Giê-xu xem những loại thuế là món nợ của người công dân đối với nhà cầm quyền để trả cho các dịch vụ được thực hiện. Ngày nay những dịch vụ này sẽ bao gồm, trong số nhiều điều khác, hỏa hoạn và sự che chở của cảnh sát, quốc phòng, lương bỗng của các viên chức điều hành những công việc của nhà nước, những chương trình đặc biệt lo cho người nghèo và những người bị thiệt thòi về quyền lợi, v. v. . . Cá nhân người công dân Cơ Đốc có thể không tán đồng với cách thức nhà nước sử dụng tất cả số tiền nộp thuế của mình, và người ấy có thể biểu lộ điều đó bằng tiếng nói và lá phiếu của mình, nhưng người ấy phải chấp nhận sự kiện là Đức Chúa Trời đã lập nên nhà cầm quyền vì cớ lợi ích của chúng ta (Ro 13:1-14 ITi 2:1-6 IPhi 2:13-17). Ngay cho dù chúng ta không thể tôn trọng những người trong chức vụ, chúng ta vẫn phải tôn trọng chức vụ đó.


Câu hỏi về cõi đời đời (Mac 12:18-27). Đây là chỗ duy nhất trong sách Mác đề cập tới những người thuộc phe Sa-đu-sê. Nhóm người này chỉ chấp nhận Luật pháp Môi-se là có thẩm quyền về mặt tôn giáo đối với họ vì thế, nếu một giáo điều nào không thể được năm sách đầu của Cựu Ước bảo vệ thì họ sẽ không chấp nhận giáo điều đó. Họ không tin vào sự hiện hữu của linh hồn, sự sống sau sự chết, sự sống lại, sự phán xét sau cùng, các thiên sứ, hay ma quỷ (Cong 23:8). Đa số những người Sa-đu-sê là những thầy tế lễ và giàu có. Họ tự cho mình là “những nhà quý tộc tôn giáo” của Do Thái giáo và có khuynh hướng xem thường mọi người khác.


Họ đặt ra một câu hỏi có tính cách giả thuyết cho Chúa Giê-xu, dựa trên luật lệ về hôn nhân được chép trong sách Phu 25:7-10. Người đàn bà này có cả thảy bảy người chồng trong suốt cuộc đời bà, tất cả đều là anh em của nhau, và tất cả những người chồng này đều đã chết. Họ lập luận rằng, “Nếu như có một sự sống lại trong tương lai, thì bà này phải sống đời đời với cả bảy người chồng! ” Đây dường như là một lý lẽ hoàn hảo, như hầu hết những lý lẽ dựa trên những tình huống có tính cách giả thuyết.


Những người Sa-đu-sê cho rằng mình khôn ngoan, nhưng chẳng bao lâu Chúa Giê-xu đã cho thấy họ ngu dốt về hai điều: quyền năng của Đức Chúa Trời và chân lý của Thánh Kinh. Sự sống lại không phải là việc hoàn trả sự sống trở lại như chúng ta hiểu đó là việc bước vào một sự sống mới khác biệt hẳn. Chính Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo dựng các thiên sứ và ban cho họ tính chất riêng, cũng có thể ban cho chúng ta thân thể mới chúng ta sẽ cần đến cho sự sống mới ở trên trời (ICo 15:38tt). Chúa Giê-xu không phán rằng chúng ta sẽ trở nên các thiên sứ hoặc giống như các thiên sứ về mọi mặt, vì con cái Đức Chúa Trời thì cao trọng hơn các thiên sứ (Gi 17:22-24 IGi 3:1-2). Ngài phán rằng trong thân thể sống lại của chúng ta, chúng ta sẽ không có phái tính như các thiên sứ và vì thế hôn nhân sẽ không còn tồn tại nữa. Trong Nước đời đời, nơi thân thể mới của chúng ta trở nên toàn hảo và không có sự chết, sẽ không còn cần đến hôn nhân, sự sinh sôi nẩy nở, và sự duy trì nòi giống nữa.


Những người Sa-đu-sê cũng ngu dốt về Thánh Kinh. Họ tự cho là chấp nhận thẩm quyền của Môi-se, nhưng họ không chịu lưu ý là Môi-se đã dạy sự tiếp nối của sự sống sau cái chết. Một lần nữa, Chúa chúng ta đã trở lại với Thánh Kinh (Mac 2:25 Mac 10:19 Mac 12:10), trong trường hợp này trở lại đoạn Kinh Thánh về bụi gai cháy (Xu 3:1-22). Đức Chúa Trời không phán cùng Môi-se rằng Ngài đã là (thời quá khứ)Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Ngài phán, “Ta là (thời hiện tại) Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, và Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” Các vị tộc trưởng vẫn đang sống khi Đức Chúa Trời phán những lời này với Môi-se do đó, Môi-se thực sự dạy rằng có sự sống sau cái chết.


Câu hỏi liên quan đến thứ tự ưu tiên (Mac 12:28-34). Người thách thức kế tiếp là một thầy thông giáo vốn cũng là một người Pha-ri-si (Mat 22:34-35). Những thầy thông giáo đã quyết định rằng người Do Thái bị buộc phải vâng giữ 613 giới luật trong Luật pháp, 365 giới luật tiêu cực và 248 giới luật tích cực. Một trong những điều họ ưa thích thực hành nhất là tranh luận điều nào là lớn nhất trong các điều răn thiên thượng này.


Chúa trích dẫn Phu 4:4-5, sự công xưng đức tin hệ trọng mà ngay đến ngày nay những người Do Thái sùng kính vẫn đọc thuộc lòng mỗi sáng và tối. Nó được gọi là “Kinh Shema” xuất phát từ chữ đầu tiên của lời công xưng vốn có nghĩa là “nghe.” Kế đó Ngài trích dẫn Le 19:18 là câu nhấn mạnh tình yêu thương đối với kẻ lân cận mình. Chúa Giê-xu biến tình yêu thương trở nên điều quan trọng nhất trong cuộc sống, vì “yêu thương là sự làm trọn Luật pháp” (Ro 13:8-10). Nếu chúng ta yêu Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ kinh nghiệm tình yêu thương của Ngài trong lòng mình và sẽ bộc lộ tình yêu thương ấy với những người khác. Chúng ta không sống bằng các luật lệ mà bằng những mối tương quan, một mối tương quan khắng khít với Đức Chúa Trời giúp chúng ta có thể có một mối tương quan khắng khít với những người khác.


Khi bắt đầu cuộc đối thoại này, thầy thông giáo chỉ là công cụ của những người Pha-ri-si là kẻ đang cố gắng tìm chứng cớ chống lại Chúa Giê-xu (Mat 22:35). Nhưng sau khi nghe câu trả lời của Chúa chúng ta, thầy thông giáo này đứng đó và dám khen ngợi lời đáp của Ngài. Lời Chúa phán đã chạm đến lòng của thầy này và ông đang bắt đầu có một sự thông hiểu thuộc linh sâu xa hơn đối với đức tin mà trước đó ông cho rằng mình đã hiểu. Ngay cả Thánh Kinh Cựu Ước cũng đã dạy rằng có nhiều điều đối với tôn giáo Do Thái hơn là việc dâng của lễ và tuân giữ các luật lệ (ISa 15:22 Thi 51:16-17 Thi 141:1-2 Gie 7:22-23 Os 6:6 Mi 6:6-8).


Khi một người “chẳng cách xa Nước Đức Chúa Trời” thì điều đó có nghĩa gì? Nó có nghĩa là người ấy đang đối diện chân lý cách chân thành chớ không quan tâm đến việc bênh vực cho một “đường lối đảng phái” nào hay cả đến những thành kiến cá nhân. Nó có nghĩa là người ấy đang thử nghiệm đức tin của mình bởi những gì Lời của Đức Chúa Trời phán chớ không phải những gì một số nhóm tôn giáo đòi hỏi.Những người gần với Nước Trời có can đảm ủng hộ cho những gì đúng, ngay cho dù họ phải mất một số bạn bè và tạo nên một số kẻ thù mới.


Câu hỏi liên quan đến sự nhận diện (Mac 12:35-37). Giờ đây đến lượt Chúa chúng ta nêu lên những câu hỏi, và Ngài tập trung vào câu hỏi quan trọng nhất trong tất cả: Đấng Mê-si-a là ai? “Về Đấng Christ, các ngươi nghĩ thế nào? Ngài là Con ai?” (Mat 22:42). Đây là một câu hỏi quan trọng hơn nhiều so với những câu hỏi kẻ thù của Ngài đã hỏi Ngài, vì nếu chúng ta nhầm lẫn về Chúa Giê-xu Christ, chúng ta cũng nhầm lẫn về sự cứu rỗi. Điều này có nghĩa là chúng ta đi đến chỗ kết án linh hồn của chính mình (Gi 3:16-21 Gi 8:24 IGi 2:18-23).


Chúa Giê-xu trích dẫn Thi 110:1 và bảo họ giải thích làm thế nào con của Đa-vít lại cũng có thể là Chúa của Đa-vít được. Những người Do Thái tin rằng đấng Mê-si-a sẽ là con của Đa-vít (Gi 7:41-42), nhưng cách duy nhất con của Đa-vít cũng có thể là Chúa của Đa-vít nếu đấng Mê-si-a là Đức Chúa Trời đến trong thân xác con người. Dĩ nhiên, câu trả lời là sự hoài thai diệu kỳ và sự sanh hạ bởi nữ đồng trinh của Chúa chúng ta (Es 7:14 Mat 1:18-25 Lu 1:26-38).


(Mac 12:38-44). Phân đoạn này kết thúc bằng hai lời cảnh cáo của Chúa: một lời cảnh cáo đối với sự kiêu ngạo của những thầy thông giáo (Mac 12:38-40) và một lời cảnh cáo đối với sự kiêu ngạo của những kẻ giàu (c.41-44). Nếu một người “quan trọng” chỉ vì bộ đồng phục người ấy mặc, danh hiệu người ấy mang, hay chức vụ người ấy giữ, thì “tầm quan trọng” của người ấy là giả tạo. Chính tính cách của một người khiến cho người ấy có giá trị, và không ai có thể ban cho bạn tính cách được: bạn phải tự mình phát huy nó khi bạn bước đi với Đức Chúa Trời.


Có mười ba cái rương hình loa kèn xung quanh những bức tường của Phần Sân dành cho Các Bà, và tại đây người ta bỏ tiền dâng của mình vào. Những người giàu phô trương nhiều qua việc dâng tiền của họ (Mat 6:1-4), nhưng Chúa Giê-xu khước từ họ và những thứ họ dâng. Điều quan trọng không phải là phần của dâng mà chính là tỉ lệ dâng: những kẻ giàu dâng hiến từ của dư thừa mình có, nhưng người đờn bà góa nghèo đã dâng hết của mình có. Đối với những người giàu, những thứ họ dâng là một sự đóng góp nhỏ nhoi, nhưng đối với người đờn bà góa này, phần dâng của bà là sự hiến dâng chân thật của trọn đời sống bà.


Cách sống kiêu ngạo và việc dâng hiến kiêu ngạo là những tội lỗi chúng ta phải tránh xa bằng mọi giá. Thật đáng buồn là những nhà lãnh đạo đã nương vào một hệ thống tôn giáo mà chẳng bao lâu sẽ không còn tồn tại nữa. Thật lạ lùng là những người bình dân lại vui sướng lắng nghe Chúa Giê-xu và vâng theo Lời phán của Ngài.


Bạn thuộc về nhóm người nào?


10. NGƯỜI TÔI TỚ TIẾT LỘ TƯƠNG LAI (Mac 13:1-37)

(Mac 13:1-5). Những người Do Thái tự hào về đền thờ của họ, bất chấp sự kiện là nó được xây cất bởi gia đình của Hê-rốt để xoa dịu những người Do Thái. Chúa Giê-xu đã đánh giá đền thờ này (Mac 11:15-17), nhưng các môn đệ Ngài bị thu hút bởi sự nguy nga tráng lệ của cấu trúc đền thờ. Hãy tưởng tượng họ đau buồn biết bao khi Chúa Giê-xu báo trước cho họ rằng tòa nhà họ rất ưa thích ngắm nhìn này một ngày kia sẽ bị phá đổ. Những nhà lãnh đạo Do Thái đã làm cho nó ô uế Chúa Giê-xu sẽ rời khỏi nơi đó và để nó ra hoang phế (Mat 23:38) những người La Mã sẽ tàn phá nó.


Khi đã tách xa khỏi những đoàn dân đông, các môn đệ của Chúa Giê-xu hỏi Ngài khi nào biến cố quan trọng này sẽ diễn ra và điều gì sẽ xảy đến để cho thấy chẳng bao lâu nó sẽ ứng nghiệm. Những câu hỏi của họ biểu lộ rằng việc am hiểu lời tiên tri của họ vẫn còn hoàn toàn mơ hồ. Họ cho rằng sự hủy phá đền thờ xảy ra đồng thời với thời kỳ cuối cùng và sự trở lại của Chúa (Mat 24:3). Nhưng câu hỏi của họ tạo cho Chúa Giê-xu cơ hội để rao giảng một sứ điệp tiên tri thường được gọi là “Bài giảng trên Núi Ô-li-ve” (Mat 24:1-25:46 Lu 21:5-36).


Khi chúng ta nghiên cứu bài giảng quan trọng này, chúng ta phải tuân theo những nguyên tắc chỉ đạo thực tiễn. Trước tiên, chúng ta phải nghiên cứu bài giảng này trong ánh sáng của phần còn lại trong Thánh Kinh, đặc biệt là sách Đa-ni-ên. Những lời Thánh Kinh có tính cách tiên tri hòa hợp nhau nếu chúng ta xem xét tất cả những gì Đức Chúa Trời đã mạc khải.


Thứ nhì, chúng ta phải nhìn thấy sự áp dụng thực tiễn của bài giảng này. Chúa Giê-xu không giảng bài giảng này để thỏa mãn sự hiếu kỳ của các môn đệ Ngài, hoặc thậm chí để làm sáng tỏ ý nghĩ mơ hồ của họ. Ít nhất bốn lần Ngài đã phán “Hãy giữ mình! ” (Mac 13:5,9,23,33) và Ngài kết thúc lời giảng dạy bằng lời khuyên, “Hãy tỉnh thức! ” Trong khi việc nghiên cứu bài giảng này có thể giúp chúng ta hiểu tận tường hơn những biến cố trong tương lai, chúng ta không được phạm sai lầm trong việc định ra ngày giờ đó! (c.32)


Thứ ba, khi nghiên cứu, chúng ta phải ghi nhớ “bầu không khí Do Thái” của bài giảng. Bài Giảng trên Núi Ô-li-ve phát sinh từ một số câu hỏi do bốn người Do Thái nêu lên cho một ra bi Do Thái, về tương lai ngôi đền thờ của người Do Thái.Những lời cảnh cáo về “Những Christ giả” sẽ đặc biệt liên quan đến người Do Thái (c.5-6,21-22), lời cảnh cáo về tòa án và những cuộc xét xử của người Do Thái (c.9) cũng vậy. Người Do Thái đặc biệt hiểu rõ việc nhắc đến “đấng tiên tri Đa-ni-ên” và lời khuyên phải trốn khỏi xứ Giu-đê (c.14).


Cuối cùng, chúng ta phải nhớ rằng chương này mô tả một khoảng thời gian được xem là “Thời kỳ Tai họa” (c.19,24 Mat 24:21,29). Các tiên tri trong Cựu Ước đã viết về giai đoạn này và gọi đó là “kỳ tai hại của Gia-cốp” (Gie 30:7), một ngày thạnh nộ (So 1:15-18), và một thời kỳ giận dữ và sửa phạt (Es 26:20-21). Như chúng ta sẽ thấy, chính tiên tri Đa-ni-ên là đấng ban cho chúng ta “chìa khóa, ”để giúp chúng ta hiểu thấu đáo hơn sự liên tục của các biến cố.


Trong Mac 13:1-37, Chúa Giê-xu mô tả ba giai đoạn trong thời kỳ Tai họa này: (1) giai đoạn khởi đầu (c.5-13), (2) giai đoạn giữa (c.14-18), và (3) các biến cố dẫn đến giai đoạn cuối cùng (c.19-27). Kế đó Ngài kết thúc bằng hai ẩn dụ giục giã tín đồ phải tỉnh thức và giữ mình (c.28-37). Sách Phúc Âm theo Ma-thi-ơ thì chi tiết hơn nhưng có những nét chính cơ bản giống nhau: sự khởi đầu của các tai họa (Mat 24:4-14), giai đoạn giữa của Thời kỳ Tai họa (Mat 24:15-28), và giai đoạn cuối cùng (Mat 24:29-31), sự áp dụng diễn đạt bằng ẩn dụ để kết thúc (Mat 24:32-44).


Tôi phải vạch ra rằng nhiều người nghiên cứu lời tiên tri tin rằng tín đồ trong thời kỳ hiện nay của Hội Thánh sẽ được Đấng Christ cất về trời trước khi Thời Kỳ Tai Họa bắt đầu (ITe 4:13-5:11 Kh 3:10-11). Vào lúc chấm dứt Thời kỳ Tai họa, họ sẽ trở lại trên đất cùng với Đấng Christ và được đồng trị với Ngài (Kh 19:11-20:6). Tôi đồng ý với cách giải nghĩa này nhưng tôi không biến nó thành một cuộc thử nghiệm tính chất chính thống hay tính chất thuộc linh.


1. Nửa giai đoạn đầu của thời kỳ tai họa (Mac 13:5-13)

Câu trọng tâm nằm ở cuối câu Mac 8: “đó là đầu sự khốn khổ mà thôi.” Từ được dịch là “những sự khốn khổ” có nghĩa là “cơn đau đẻ, ” ám chỉ rằng thế gian lúc bấy giờ sẽ giống như một người đờn bà trong cơn đau đẻ (Es 13:6-8 Gie 4:31 Gie 6:24 Gie 13:21 Gie 22:20-23 ITe 5:3). Cơn đau đẻ sẽ đến thình lình, gia tăng dần, và đưa đến một thời kỳ khốn khổ và tai họa kinh khiếp cho toàn thế giới.


(A)“Đừng để bị lừa dối.” Chúa Giê-xu liệt kê những điều không được xem là “các dấu hiệu” của việc Ngài đến. Đúng hơn, chúng là những dấu hiệu cho thấy rằng “cơn đau đẻ” của Thời kỳ Tai họa chỉ mới bắt đầu. Những dấu hiệu này là: sự thành công của các Christ giả (c.5-6), các dân tộc dấy nghịch nhau (c.7-8), những sự náo động của cõi thiên nhiên (c.8b), và những sự bách hại tôn giáo (c.9-13). Những dấu hiệu này đã luôn xảy ra với chúng ta, nhưng vì cớ những biến cố này được ví sánh với “cơn đau đẻ, ” Chúa chúng ta có thể đang phán rằng sự gia tăng nhanh chóng của những sự kiện này sẽ rất đáng kể.


Các đấng Mê-si-a giả. Những trang sách sử đầy những câu chuyện đáng buồn về các đấng Mê-si-a giả, các tiên tri giả, cùng những tín hữu hăng say nhưng bị lừa dối của họ. Chúa Giê-xu cảnh cáo về các tiên tri giả (Mat 7:15-20), như Phao-lô đã làm (Cong 20:28-31), và Giăng cũng vậy (IGi 4:1-6). Có một điều gì đó trong bản chất con người yêu thích một lời giả dối và không chịu tin những bài học đắc giá trong quá khứ. Mark Twain đã nói rằng một lời nói dối chạy quanh khắp thế giới trong khi chân lý đang bắt đầu mang giày Những kẻ mù lòa thuộc linh thật dễ nghe theo những nhà lãnh đạo nổi tiếng và khờ khạo chấp nhận những giải pháp sai lầm cho các vấn đề trong đời sống biết bao. Chúa Giê-xu cảnh cáo các môn đệ Ngài đừng để bị lừa dối bởi những kẻ phỉnh gạt này, và lời cảnh cáo ấy có thể áp dụng ngày nay.


Những Xung đột về Chính trị. Ngài cũng cảnh cáo chúng ta đừng bối rối bởi những cuộc xung đột chính trị giữa vòng các dân tộc. Đế quốc La Mã đã tận hưởng một phương sách hòa bình suốt nhiều năm, nhưng điều đó sẽ chẳng kéo dài. Khi đế quốc này suy tàn và chủ nghĩa dân tộc phát triển, điều không thể tránh được là các dân tộc sẽ xung đột nhau. “Đế Quốc La Mã Hòa bình” sẽ không bao giờ tồn tại nữa.


Những Tai Ương. Chiến tranh thường để lại sự đói kém tiếp nối theo sau (IIVua 25:2-3 Exe 6:11). Sự đói kém cũng do việc con người lạm dụng môi trường sống, hoặc nó có thể do Đức Chúa Trời đem đến như một sự đoán phạt (IVua 17:1). Thường xuyên có những trận động đất, và một số xảy ra là chứng cớ của sự thạnh nộ từ Đức Chúa Trời (Kh 6:12 Kh 8:5 Kh 11:13 Kh 16:18). Vì những tai ương do nhiều nguyên nhân gây ra, nên thật nguy hiểm khi biến chúng thành “những dấu hiệu của các thời kỳ”cách giáo điều cứng nhắc.


(B)“Đừng ngã lòng! ” Các tín đồ không những phải giữ mình và tránh những kẻ phỉnh gạt, nhưng họ cũng phải tự giữ mình (Mac 13:9-13). Tại sao? Vì họ sẽ đối diện sự chống đối và bắt bớ ngày càng gia tăng từ nhà cầm quyền (cc. 9-11) lẫn từ những kẻ lân cận mình (c. 12-13). Điều quan trọng là các tín đồ biết dùng những từng trải này như những cơ hội để làm chứng cho Chúa Giê-xu Christ. Sự bắt bớ sẽ bắt đầu tại các tòa án Do Thái ở địa phương, nhưng nó sẽ chuyển lên các tòa án cao hơn, nơi những nhà cầm quyền và các vua sẽ ngồi xét xử. Bạn có thể thấy sự việc diễn tiến tương tự được ký thuật trong sách Công vụ các Sứ đồ (Cong 4:1-5:42 7:1-60 Cong 12:1-25 Cong 16:1-40 Cong 21:1-28:31).


Nhưng sự bắt bớ sẽ chỉ đưa đến kết quả là sự công bố đạo Chúa khắp nơi! Các tín đồ sẽ chịu khổ vì cớ Ngài và theo cách đó sẽ công bố Phúc Âm của Ngài. “Chúng tôi càng gia tăng gấp bội bất cứ khi nào chúng tôi bị các ông tàn hại, ” Tertullian đã nói với những kẻ bắt bớ mình. “Huyết của những Cơ Đốc nhân là hạt giống đạo! ” Trong khi tôi không nghĩ rằng việc đem Phúc Âm đến cho mọi dân tộc (Mac 13:10) là một điều kiện cho việc trở lại của Chúa chúng ta, đó chắc chắn là mệnh lệnh của Đấng Christ cho dân sự Ngài (Mat 28:19-20). Sự “cuối cùng” ở đây có nghĩa là “sự cuối cùng của thời kỳ, ” tức là thời kỳ tai họa.


Đối với những “người bình dân” này thật không dễ dàng khi phải đối diện với tòa án, các bậc cầm quyền, và các vua nhưng Chúa Giê-xu đoan chắc với họ rằng Đức Thánh Linh sẽ hành động qua họ bất cứ khi nào họ có cơ hội để làm chứng (Mac 13:11). Phân đoạn này không nên được dùng như một lời bào chữa hay một chỗ nương tựa cho những nhà truyền đạo không được chuẩn bị cẩn thận. Đó là một sự khích lệ đối với tất cả mọi tín đồ thành thật muốn làm chứng cho Đấng Christ và tôn vinh Ngài (Gi 14:26 Cong 4:8). Nếu chúng ta đang bước đi trong Thánh Linh, chúng ta sẽ không gặp khó khăn trong việc làm chứng cho Đấng Christ khi cơ hội đến (Gi 15:26-27).


Chúng ta có thể hiểu được sự bắt bớ của nhà cầm quyền, nhưng tại sao bạn bè và những người thân trong gia đình lại tạo nên khó khăn cho các tín đồ? (Mi 7:4tt Gi 15:18-27). Bạn sẽ cho rằng các gia đình người Do Thái đặc biệt trung thành với nhau. Nhưng đức tin Cơ Đốc bị cả người Do Thái lẫn các dân ngoại xem là dị giáo và một sự phạm thượng. Mỗi ngày hai lần, những người Do Thái chính thống đều khẳng định, “Hỡi Y-sơ-ra-ên! hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai! ” (Phu 6:4). Người Do Thái nào nói “Chúa Giê-xu là Chúa! ” đã phạm tội lộng ngôn và đáng bị xử tử. La Mã trông mong các công dân của mình tuyên xưng “Sê-sa là chúa! ” hoặc phải gánh chịu hậu quả. Do đó, các gia đình và bạn hữu sẽ bị giằng xé giữa lòng trung thành với “đức tin lâu đời”của họ và dân tộc họ, với sự hết lòng đối với những người thân yêu của mình.


Nguyên nhân thực sự của việc bắt bớ được nêu trong Mac 13:13, “vì cớ danh Ta.” Nếu chúng ta đồng nhất hóa với Chúa Giê-xu Christ, chúng ta có thể trông mong thế gian đối xử với chúng ta theo cách nó đã đối xử với Ngài (Gi 15:20tt). Bạn có thể thuộc về đủ loại giáo phái huyền bí ngày nay mà chẳng phải chịu nhiều sự chống đối từ gia đình và bè bạn, nhưng giây phút bạn xưng nhận danh Chúa Giê-xu và chia sẻ Phúc Âm, người ta sẽ bắt đầu chống đối bạn. Danh của Ngài vẫn còn bị con người ghen ghét.


Đừng hiểu câu 13 là một điều kiện để được cứu, vì nó áp dụng chủ yếu cho các chứng nhân trong suốt Thời kỳ Tai họa. Dù một người sống trong thời kỳ nào đi nữa, nếu người ấy thật sự được sanh lại, Đức Chúa Trời sẽ yêu mến người (Gi 13:1 Ro 8:35-38) và gìn giữ người (Gi 10:27-29 Ro 8:29-34). Vì “sự cuối cùng” trong Mac 13:7 có nghĩa là “sự cuối cùng của thời kỳ, ” điều đó có thể là điều được nói đến trong câu 13. Trong suốt Thời kỳ Tai họa, các tín đồ thật sẽ chứng tỏ đức tin bằng sự trung tín của mình. Họ sẽ không chịu khuất phục trước những áp lực vô thần của tà giáo (Kh 13:1-18).


2. Giai đoạn giữa của thời kỳ tai họa (Mac 13:14-18)

Cụm từ “sự tàn nát gớm ghiếc” ra từ Sách Đa-ni-ên và ám chỉ việc các dân ngoại làm ô uế đền thờ của người Do Thái bởi việc thờ lạy hình tượng. Đối với người Do Thái, tất cả các thần tượng đều là một sự gớm ghiếc (Phu 29:17 IIVua 16:3). Đền thờ Do Thái giáo đã bị ô uế vào năm 167 T.C, bởi vua Sy-ri là Antiochus IV (cũng gọi là “Epiphanes, ” nghĩa là “vinh quang”) khi ông ta rưới huyết của con heo trên bàn thờ. Sự kiện này đã được báo trước trong Da 11:31. Đền thờ cũng bị ô uế bởi người La Mã vào năm 70 S.C. khi họ chiếm giữ và hủy phá thành Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, những biến cố này chỉ là những sự thấy trước của “sự tàn nát gớm ghiếc” cuối cùng được tiên đoán trong Da 9:27 và Da 12:11.


Để hiểu Da 9:24-27 chúng ta phải nhớ rằng lịch Do Thái dựa vào một loạt những con số bảy. Ngày thứ bảy trong tuần là ngày Sa-bát, và tuần lễ thứ bảy sau lễ Vượt Qua đem đến lễ Ngũ Tuần. Tháng thứ bảy đem đến lễ Thổi Kèn, Ngày Đại lễ Chuộc Tội, và lễ Lều Tạm. Năm thứ bảy là năm Sa-bát, và sau bảy năm Sa-bát là đến Năm Hân Hỉ.


Đa-ni-ên nhìn thấy bảy tuần lễ, hay khoảng thời gian bảy năm, đã được định cho người Do Thái và cho thành thánh của họ là Giê-ru-sa-lem. Khoảng thời gian 490 năm này bắt đầu với sắc lệnh của vua At-ta-xét-xe vào năm 445 T.C. cho phép người Do Thái trở về xứ sở và xây dựng lại thành Giê-ru-sa-lem (Exo 1:1-4). Tại sao thành này phải được xây dựng lại? Bởi vì 483 năm sau (7 x 69), Đấng Mê-si-a sẽ hiện đến tại thành này và phó sự sống Ngài vì cớ những kẻ có tội.


Giờ đây chúng ta phải làm một số bài toán đơn giản. Hầu hết các sử gia đều đồng ý rằng Chúa Giê-xu giáng sinh vào năm 5 T.C. vì Đại đế Hê-rốt lúc bấy giờ vẫn còn sống, và ông qua đời vào Tháng Ba, năm 4 T.C. Nếu Chúa chúng ta chịu chết vào khoảng tuổi 33, lúc đó sẽ vào khoảng năm 27 hoặc 28 S.C., và khi sắc lệnh này được ban hành thì sẽ là 483 năm sau năm 445 T.C.!


Chúng ta đã tính được 483 trong số 490 năm của Đa-ni-ên, nhưng còn về bảy năm còn lại thì sao? Da 9:27 quy chúng vào thời kỳ Tai Họa mà chúng ta đang nghiên cứu. (Xin lưu ý là Da 9:26 cũng tiên đoán sự hủy phá thành Giê-ru-sa-lem – bởi tay người La Mã, những nhà chú giải kết luận vậy – nhưng hai biến cố này không được lẫn lộn.) “Kỳ tai họa của Gia-cốp” sẽ kéo dài bảy năm.


Nhưng điều gì báo hiệu sự khởi đầu của thời kỳ bảy năm kinh khiếp này? Việc ký kết của một giao ước giữa dân tộc Y-sơ-ra-ên và “vua hầu đến” (Da 9:26). “Vua” này là kẻ độc tài thế giới sắp đến mà chúng ta thường gọi là “Antichrist.” Trong Sách Khải huyền, hắn được gọi là “Con Thú” (Kh 13:1-14:20). Hắn sẽ đồng ý bảo vệ Y-sơ-ra-ên khỏi nhiều kẻ thù của họ trong bảy năm, và sẽ cho phép người Do Thái xây dựng lại đền thờ của họ và khôi phục lại nghi thức tế lễ và các của lễ cổ xưa của họ. Người Do Thái đã chối bỏ Đấng Mê-si-a thật của mình nhưng sẽ chấp nhận một đấng Mê-si-a giả (Gi 5:43). Tuy nhiên, sau ba năm rưởi, Antichrist sẽ phá vỡ giao ước này, xâm chiếm đền thờ, dựng ảnh tượng của chính mình lên, và buộc thế giới phải thờ lạy Sa-tan (Kh 13:1-18 IITe 2:1-12). Đây là “sự tàn nát gớm ghiếc” của Đa-ni-ên, và nó sẽ mở ra nửa thời kỳ Tai họa sau cùng, một thời kỳ được mệnh danh là “Cơn Đại Nạn” (Mat 24:21). Hãy chú ý trong Mac 13:14 phần trong ngoặc đơn của Mác là dành cho các độc giả vào một thời kỳ trong tương lai, chớ không phải những thính giả khi Chúa Giê-xu rao giảng sứ điệp này. Sứ điệp này sẽ có ý nghĩa đặc biệt đối với họ khi họ nhìn thấy những biến cố này xảy ra.


Chúa Giê-xu ban một lời cảnh cáo đặc biệt cho các tín đồ Do Thái tại Giê-ru-sa-lem và xứ Giu-đê: “Hãy trốn khỏi thành càng nhanh càng tốt! ” Lời cảnh cáo tương tự này có thể áp dụng khi La Mã tấn công thành Giê-ru-sa-lem vào năm 70 S.C. (Xin xem Lu 21:20-24 và hãy nhớ rằng Da 9:26 đã tiên đoán sự xâm chiếm này.) Những điều xảy ra vào năm 70 S.C. báo trước những điều sẽ xảy ra trong giai đoạn giữa của Thời Kỳ Tai Họa. Tiến Sĩ Harry Rimmer đã từng nói, “Những biến cố sắp đến giăng bóng của chúng trước. Ngay đằng trước có ngày hôm qua! ” Những lời cảnh cáo trong Mac 13:14-18 không áp dụng cho tín đồ ngày nay, nhưng chúng thực sự nhắc nhở chúng ta rằng dân sự Đức Chúa Trời trong mọi thời đại phải nhận biết Lời tiên tri và được chuẩn bị để vâng lời Đức Chúa Trời vào bất cứ lúc nào.


3. Nửa giai đoạn cuối của thời kỳ tai họa (Mac 13:19-37)

Trong Sách Khải huyền, nửa giai đoạn cuối của Thời Kỳ Tai Họa được gọi là “cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời” (Kh 14:10,19 Kh 15:1,7 Kh 16:1,19 Kh 19:15). Trong suốt thời gian này, Đức Chúa Trời sẽ đoán xét thế gian và chuẩn bị dân Y-sơ-ra-ên cho sự hiện đến của đấng Mê-si-a. Đó sẽ là một thời kỳ đoán xét cao nhất mà thế gian chưa bao giờ chứng kiến hoặc sẽ từng được chứng kiến một lần nữa. Trong sự đoán xét này, Đức Chúa Trời sẽ thực hiện các mục đích của Ngài và chuẩn bị cho sự hiện đến của Đấng Đắc Thắng (Kh 19:11tt).


Ngay cả trong cơn thạnh nộ của Ngài, Đức Chúa Trời vẫn nhớ lại sự thương xót (Ha 3:2) và vì cớ những kẻ Ngài đã chọn, Ngài giảm bớt những ngày của Thời kỳ Tai họa. (Những “kẻ được chọn” ám chỉ dân Y-sơ-ra-ên và các dân ngoại trở lại tin trong suốt Thời Kỳ Tai họa. Xin xem Kh 14:1-20) “Giảm bớt các ngày ấy” có nghĩa là Ngài giới hạn chúng là ba năm rưỡi đã định và dừng lại đúng thời hạn.


Sự lừa dối của Sa-tan sẽ tiếp tục cho đến cuối cùng, và các Christ giả cùng các tiên tri giả sẽ dẫn người ta đi lạc đường. Trên thực tế, thậm chí chúng sẽ làm các phép lạ nữa (Mat 7:21-23 IITe 2:9-12 Kh 13:13-14). Những phép lạ này sẽ lừa dối mọi người đến nỗi ngay cả những kẻ được chọn cũng sẽ bị cám dỗ tin vào những lời dối gạt của chúng. Tự chúng, các phép lạ này không phải là một dấu chứng của sự kêu gọi và sự phê chuẩn từ thiên thượng (Phu 13:1-5). Sự thử nghiệm cuối cùng là Lời của Đức Chúa Trời.


Thời kỳ Tai Họa sẽ lên cao điểm với sự xuất hiện của những dấu hiệu kinh hãi trên trời và sự hỗn loạn khắp nơi trên đất (Lu 21:25-26). Những dấu hiệu này, đã được các đấng tiên tri báo trước (Es 13:10 Es 34:4 Gio 2:10 Gio 3:15), sẽ mở đường cho sự hiện đến của Chúa Giê-xu Christ trên đất này. Đó sẽ là một sự tỏ lộ của vinh hiển lớn lao Ngài (Da 7:13-14 Mac 8:38) khi Ngài đến để thiết lập sự cai trị của Ngài trên đất (Cong 1:11 Kh 1:7).


Mac 13:27 mô tả sự tụ họp lại của dân Y-sơ-ra-ên từ các dân tộc mà họ đã bị tản lạc khắp thế giới (Phu 30:3-6 Es 11:12 Gie 31:7-9). Họ sẽ nhìn thấy đấng Mê-si-a và tin cậy Ngài, và cả dân tộc sẽ được lập lại trong sự thánh khiết và vinh hiển (Xa 12:9-13:1 14:4-11). Việc có một tương lai vinh hiển cho dân Y-sơ-ra-ên được Phao-lô nêu lên trong Ro 11:1-36.


Chúa Giê-xu không muốn các môn đệ Ngài quá bị thu hút vào những lời tiên tri về tương lai đến nỗi họ sẽ sao lãng trách nhiệm của mình trong hiện tại vì thế Ngài kết thúc Bài Giảng trên Núi Ô-li-ve bằng hai ẩn dụ. (Mat 25:1-46 có thêm ba ẩn dụ khác – những người nữ đồng trinh, các ta lâng, và sự chia chiên với dê ra trong ngày phán xét sau cùng.) Hãy lưu ý rằng ẩn dụ đầu tiên (Mac 13:28-31)chú trọng việc biết rằng sự hiện đến của Ngài đã gần kề, trong khi ẩn dụ thứ hai nhấn mạnh việc không biết thời gian Ngài trở lại. Liệu điều này có mâu thuẫn không? Không mâu thuẫn chút nào, vì hai ẩn dụ được phán với hai nhóm người khác nhau – ẩn dụ thứ nhất phán với các thánh đồ của Thời kỳ Tai Họa, và ẩn dụ thứ hai, với tất cả các tín đồ thuộc mọi thời đại.


Cây vả có một sự gắn bó đặc biệt với dân tộc Y-sơ-ra-ên (xin xem Mac 11:12-14, nhưng hãy lưu ý là Lu 21:29 thêm vào “và các cây khác”). Hầu hết các loại cây tại xứ Palestine lá thường xanh và không thay đổi theo mùa. Cây vả thì không như thế nó là một trong những cây ra lá muộn nhất vào mùa xuân, vì vậy các chồi non của nó là một dấu hiệu cho biết mùa hạ thật gần rồi.


Là tín đồ Cơ Đốc ngày nay, chúng ta không đang tìm kiếm “những dấu hiệu” về sự hiện đến của Ngài chúng ta đang tìm kiếm chính Ngài! Nhưng những người sống trong suốt Thời Kỳ Tai Họa sẽ có thể nhìn thấy những việc này xảy ra và sẽ biết rằng việc hiện đến của Ngài gần rồi. Sự biết chắc này sẽ giúp họ chịu đựng (Mac 13:13) và trở thành những chứng nhân đắc lực.


Chúng ta nghĩ đến một “thế hệ” như một nhóm người sống vào cùng một thời trong lịch sử. Nhưng Chúa Giê-xu đang ám chỉ “thế hệ” nào trong câu 30? Không phải là thế hệ lúc ấy đang sống tại xứ Giu-đê, bởi lẽ họ không nhìn thấy “tất cả mọi điều này” thật sự xảy ra. Có lẽ Ngài muốn nói đến thế hệ đang sống trong Thời kỳ Tai Họa. Nhưng vì Thời Kỳ Tai Họa chỉ trải qua bảy năm, tại sao lại đề cập đến cả một thế hệ? Vì vấn đề đó, vài thế hệ khác nhau cùng sống chung trong suốt mọi giai đoạn của lịch sử.


Từ Hy Lạp được dịch là “thế hệ” cũng có thể có nghĩa là “dòng dõi, dòng họ, gia đình.” Vào nhiều dịp, Chúa Giê-xu đã dùng từ này để ám chỉ dân tộc Do Thái (Mac 8:12,38 Mac 9:19) và đó có thể là cách Ngài dùng từ này trong Mac 13:30. Dân tộc được chọn, tuyển dân của Đức Chúa Trời, sẽ được bảo toàn cho đến cuối cùng và Đức Chúa Trời sẽ làm trọn những lời Ngài đã hứa với họ. Lời Ngài sẽ không bao giờ qua đi (Gios 21:45 IVua 8:56 Mat 24:35). Là tín đồ chúng ta không dựa vào các dấu hiệu chúng ta nương trên Lời bất biến của Ngài, “lời chắc chắn của các đấng tiên tri” (IIPhi 19-21).


Ẩn dụ về Cây Vả cảnh cáo các thánh đồ trong Thời kỳ Tai Họa phải tỉnh thức và nhận biết “những dấu hiệu của các thời kỳ.” Nhưng Ẩn dụ về Người Quản gia cảnh tỉnh tất cả chúng ta ngày nay (Mac 13:37) phải thức canh, vì chúng ta không biết lúc nào Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về trời (ICo 15:51-52). Giống như người quản gia trong câu chuyện, trước khi Chúa từ biệt chúng ta về trời, Ngài ban cho mỗi chúng ta công tác để thực hiện. Ngài trông mong chúng ta trung tín trong lúc Ngài vắng mặt và đang làm việc khi Ngài trở lại. Lời khuyên nhủ của Ngài là “Hãy giữ mình, tỉnh thức và cầu nguyện.”


Từ “tỉnh thức” có nghĩa là tỉnh táo, cảnh giác, không đang ngủ. Tại sao chúng ta phải tỉnh thức? Vì không ai biết được khi nào Chúa Giê-xu Christ sẽ trở lại.Khi còn ở tại thế trong sự hạ mình, Chúa Giê-xu không biết ngày hoặc giờ nào Ngài sẽ trở lại. Cả đến thiên sứ cũng không biết được. Thế gian chưa được cứu nhạo báng chúng ta vì chúng ta cứ tiếp tục giữ mãi “hy vọng phước hạnh” này, nhưng Ngài sẽ trở lại như Ngài đã hứa (IIPhi 3:1-18). Nhiệm vụ của chúng ta là trung tín và hầu việc Ngài, chớ không phải nghiên cứu hay bàn cãi về những chi tiết còn kín nhiệm của lời tiên tri.


Sự tỉnh thức không liên quan gì đến việc lên thiên đàng. Đó thuần túy chỉ là việc làm đẹp lòng Ngài, nghe lời khen ngợi đầy yêu thương của Ngài, và nhận lãnh sự ban thưởng của Ngài (Mat 25:14-30). Ở đây không ám chỉ là, khi Chúa Giê-xu trở lại, Ngài sẽ chỉ đem những kẻ trung tín về trời và để những kẻ khác lại trên đất để gánh chịu Thời Kỳ Tai Họa. Gia đình của Ngài chỉ là một, và Ngài hiện đang sắm sẵn một chỗ ở cho tất cả những kẻ thuộc về gia đình đó, cả đến những người không xứng đáng nhất (Gi 14:1-6). Chúng ta lên thiên đàng vì cớ ân điển của Ngài, chớ không phải vì sự trung tín hay những việc lành của mình (Eph 2:8-10).


Những Cơ Đốc nhân đã đọc sách Phúc Âm của Mác cuối cùng phải đối diện sự bắt bớ kinh khiếp của La Mã (IPhi 4:12tt), và sứ điệp đặc biệt này chắc hẳn đã đem lại sự yên ủi và sức mạnh cho họ. Xét cho cùng, nếu Đức Chúa Trời có thể giúp đỡ dân sự Ngài làm chứng trong suốt Cơn Đại Nạn, là sự bắt bớ kinh khiếp hơn hết, thì chắc chắn Ngài đã có thể làm cho vững mạnh các thánh đồ trong Đế Quốc La Mã khi họ đối diện sự thử thách khốc liệt xảy đến với mình.


Trong khi Cơ Đốc nhân ngày nay sẽ không từng trải những sự khốn khổ mô tả trong chương này, chúng ta sẽ được dự phần trong sự bắt bớ và tai họa trong thế gian này trước khi Chúa trở lại (Gi 16:33 Cong 14:22). Nhưng những lời cảnh cáo của sứ điệp này trong Mac 13:1-37 có thể được ứng dụng trong đời sống riêng của chúng ta: “Hãy giữ mình kẻo có ai lừa dối các ngươi chăng” (c. 5,23) “Hãy giữ mình để các ngươi không ngã lòng và bỏ cuộc” (c.9) “Hãy giữ mình, tỉnh thức và cầu nguyện” (c.33).


“Điều mà Ta nói cùng các ngươi, Ta cũng nói cho mọi người: Hãy tỉnh thức! ” (Lu 13:37).


11. NGƯỜI TÔI TỚ CHỊU KHỔ (Mac 14:1-15:20)

Trong lúc hàng ngàn người hành hương đi dự lễ Vượt Qua đang sửa soạn cho những thú vui trong kỳ lễ, Chúa Giê-xu lại đang chuẩn bị cho sự thử thách của việc xét xử và đóng đinh Ngài. Ngài đã kiên quyết đi đến thành Giê-ru-sa-lem (Lu 9:51), thế nên Ngài cũng kiên quyết làm theo ý chỉ của Đức Chúa Cha. Người Tôi Tớ đã “vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi 2:8).


Hãy theo bước chân Ngài trong suốt những ngày giờ của tuần lễ cuối cùng, và rồi bạn sẽ kinh ngạc khi nhìn thấy những phản ứng của đủ mọi hạng người đối với Chúa Giê-xu Christ.


1. Tại Bê-tha-ni - được tôn quý (Mac 14:1-11)

Sự kiện này diễn ra sáu ngày trước lễ Vượt Qua, tức vào ngày Thứ Sáu trước khi Chúa Vào thành cách Khải hoàn (Gi 12:1). Bằng cách đặt câu chuyện này giữa những lời tường thuật về âm mưu bắt giữ Chúa Giê-xu, Mác đối chiếu sự dối gạt của Giu-đa và những nhà lãnh đạo với lòng yêu kính và trung thành của Ma-ri. Sự xấu xa của tội lỗi họ khiến cho vẻ đẹp của sự hy sinh nơi bà càng có ý nghĩa hơn.


Cả Mác lẫn Ma-thi-ơ đều không nêu tên người phụ nữ này, nhưng Giăng cho chúng ta biết rằng đó chính là Ma-ri tại làng Bê-tha-ni, chị em của Ma-thê và La-xa-rơ (Gi 11:1-2). Ma-ri được nhắc đến ba lần trong chuyện kể của các sách Phúc Âm và mỗi lần, bà đều ngồi dưới chân Chúa Giê-xu (Lu 10:38-42 Gi 11:31-32 Gi 12:1-8). Ma-ri có một mối thâm giao với Chúa khi bà ngồi dưới chân Ngài và lắng nghe Lời Ngài. Bà là một gương mẫu tốt đẹp cho tất cả chúng ta noi theo.


Việc Ma-ri xức dầu cho Chúa không nên bị nhầm lẫn với một sự kiện tương tự được ghi lại trong Lu 7:36-50. Người phụ nữ vô danh trong nhà của Si-môn người Pha-ri-si là một kỵ nữ đã được biến đổi đang biểu lộ lòng yêu kính của mình đối với Đấng Christ vì cớ Ngài đã khoan nhân tha thứ cho những tội lỗi của ba. Trong nhà của Si-môn người được chữa lành bệnh phung, Ma-ri đã biểu lộ lòng yêu kính của mình đối với Đấng Christ vì Ngài sắp phải lên thập tự giá để chịu chết thế cho bà.Bà sửa soạn cho việc chôn xác Chúa khi bà xức dầu cho đầu Ngài (Mac 14:3) và chân Ngài (Gi 12:3). Bà bày tỏ lòng yêu mến đối với Chúa Giê-xu trong khi Ngài vẫn đang còn sống.


Bà đã dâng lên cho Chúa là một lễ vật thật đắc giá. Dầu cam tùng hương được nhập từ Ấn Độ, và một chai dầu nguyên rất có thể trị giá tương đương với tiền thu nhập một năm của một người lao động bình thường. Ma-ri dâng hiến cách thật hào phóng và đầy lòng yêu thương. Bà không hổ thẹn khi công khai bày tỏ lòng yêu kính của mình đối với Đấng Christ.


Hành vi tôn kính Chúa của bà đem lại ba kết quả. Trước hết, cả nhà đều sực nức hương thơm của dầu cam tùng (Gi 12:3 xin cũng lưu ý IICo 2:15-16). “Hương thơm thuộc linh” luôn tỏa ngát trong nhà nào mà Chúa Giê-xu được yêu mến và tôn thờ.


Thứ nhì, các môn đệ, do Giu-đa dẫn đầu, lên án Ma-ri vì đã phí phạm tiền của mình! Thoạt nghe thì Giu-đa có vẻ sùng kính vô cùng khi nói về những người nghèo khổ, nhưng thực tế hắn chỉ muốn chiếm đoạt số tiền cho bản thân mình! (Gi 12:4-6). Ngay cả trong Phòng Cao, sáu ngày sau đó, các môn đệ vẫn cho rằng Giu-đa quan tâm đến việc cứu giúp những người nghèo thiếu (Gi 13:21-30). Thật thú vị là từ ngữ được dịch là “phí phạm” trong Mac 14:4 lại được dịch là “sự hư mất” trong Gi 17:12 và áp dụng cho Giu-đa! Giu-đa đã lên án Ma-ri vì “phí phạm tiền, ”nhưng hắn lại bỏ phí cả đời mình!


Thứ ba, Chúa Giê-xu khen ngợi Ma-ri và chấp nhận quà tặng đầy ý nghĩa của bà. Ngài biết tấm lòng của Giu-đa và hiểu vì sao các môn đệ khác lại làm theo gương xấu của hắn. Ngài cũng biết tấm lòng của Ma-ri và vội vàng bênh vực cho bà (Ro 8:33-39). Dù cho những người khác có thể nói gì về sự thờ phượng và hầu việc của chúng ta, điều quan trọng nhất là chúng ta làm đẹp lòng Chúa. Sự kiện những người khác hiểu lầm và phê phán chúng ta không thể khiến chúng ta thôi bày tỏ lòng yêu mến của mình đối với Đấng Christ. Điều chúng ta cần nên quan tâm là sự tán đồng của Ngài mà thôi.


Khi Ma-ri dâng hiến điều tốt nhất của mình dưới chân Chúa Giê-xu, bà khiến cho một “làn sóng phước hạnh” bắt đầu và liên tục dâng trào cho đến ngày nay. Bà là một nguồn phước cho Chúa Giê-xu khi bà san sẻ lòng yêu kính của mình, và bà là một nguồn phước cho gia đình mình khi hương thơm lan tỏa ra. Nếu không vì cớ Ma-ri thì ngôi làng Bê-tha-ni của bà có lẽ đã không còn được nhớ đến. Hội Thánh ban đầu đã được phước khi nghe thuật lại việc làm này của bà và, vì cớ những lời ký thuật trong ba sách Phúc Âm, Ma-ri đã trở nên một nguồn phước cho cả thế giới –và vẫn còn là nguồn phước cho đến ngày nay! Lời báo trước của Chúa chắc chắn đã được ứng nghiệm.


Ma-ri dâng hiến điều tốt nhất của mình bởi đức tin và lòng yêu thương Giu-đa dâng điều xấu nhất của hắn trong sự vô tín và lòng ghen ghét. Hắn đã giải quyết vấn đề làm thế nào những nhà lãnh đạo Do Thái có thể bắt giữ Chúa Giê-xu mà không gây ra một cuộc bạo động trong suốt kỳ lễ. Hắn đã bán Thầy mình với giá của một tên nô lệ (Xu 21:32), hành động bội phản thấp hèn nhất trong lịch sử.


2. Trong phòng cao - bị phản bội (Mac 14:12-26)

Chiên con lễ Vượt Qua được chọn vào ngày thứ mười của tháng Nisan (khoảng Tháng Ba, tháng Tư của chúng ta), được xem xét kỹ xem có tì vít gì không, và rồi bị giết chết vào ngày thứ mười bốn của tháng này (Xu 12:3-6). Con chiên phải bị giết chết trong khuôn viên đền thờ và bữa tối được ăn trong phạm vi giới hạn của thành Giê-ru-sa-lem. Đối với người Do Thái, lễ Vượt Qua là để kỷ niệm một chiến thắng trong quá khứ, nhưng Chúa Giê-xu lập nên một bữa ăn mới để kỷ niệm sự chết của Ngài.


Phi-e-rơ và Giăng lo liệu chuẩn bị bữa ăn tối (Lu 22:8). Thật không khó khi nhận ra một người nam xách vò nước vì phụ nữ thường làm công việc này. Người này có phải là cha của Giăng Mác không? Có phải Chúa Giê-xu ăn lễ Vượt Qua trong một phòng cao tại nhà của Giăng Mác không? Đây là những sự phỏng đoán thú vị, nhưng chúng ta không có bằng chứng để có thể khẳng định chúng. Tuy nhiên, chúng ta thật sự biết rằng nhà của Giăng Mác là một nơi nhóm họp thông công của các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem (Cong 12:12).


Lễ Vượt Qua đầu tiên gồm có thịt chiên quay, bánh không men, và cá với rau đắng (Xu 12:8-10). Con chiên nhắc người Do Thái nhớ đến huyết được bôi lên mày cửa tại xứ Ai Cập để giữ cho thiên sứ không giết chết con đầu lòng của họ. Bánh nhắc họ nhớ đến việc họ hối hả rời khỏi xứ Ai Cập (Xu 12:39), và rau đắng nói đến nỗi khổ của họ khi còn là nô lệ của Pha-ra-ôn. Vào một lúc nào đó trong những thế kỷ nối tiếp, người Do Thái đã thêm vào nghi thức này việc uống bốn chén rượu nho pha với nước.


Vì đối với người Do Thái một ngày mới bắt đầu khi mặt trời lặn, nên khi Chúa Giê-xu cùng các môn đệ họp nhau tại Phòng Cao là vào ngày Thứ Sáu. Đây là lễ Vượt Qua cuối cùng của Ngài, và vào hôm ấy, Ngài sẽ làm trọn ý nghĩa của lễ Vượt Qua bằng cách chết trên cây thập tự như Chiên Con không tì vít của Đức Chúa Trời (Gi 1:29 ICo 5:7 IPhi 2:21-24).


Giữa Mac 14:17,18 là những chi tiết về việc rửa chân các môn đệ và bài học về sự khiêm nhường (Gi 13:1-20). Theo sau bài học ấy, Chúa Giê-xu trở nên rất đỗi buồn bực và cho biết là một trong các môn đệ là kẻ phản bội. Lời tuyên bố này khiến tất cả các môn đệ đều sửng sốt trừ ra Giu-đa, là kẻ đã biết rằng Chúa Giê-xu đang nói về mình. Cho đến giây phút cuối cùng, Chúa Giê-xu vẫn không tỏ lộ cho các môn đệ khác biết chân tướng của kẻ phản bội Ngài, vì Ngài muốn cho Giu-đa mọi cơ hội để xoay khỏi tội lỗi. Ngài thậm chí cũng đã rửa chân cho Giu-đa nữa! Giá mà Phi-e-rơ đã biết sự thật về Giu-đa, thì có thể lắm ông đã giết hắn đi.


Một số người cố gắng bênh vực cho Giu-đa bằng cách lập luận rằng hắn phản bội Chúa Giê-xu để thúc bách Ngài bày tỏ năng quyền của mình và lập nên nước Do Thái.Những người khác cho rằng hắn không là gì cả ngoài ra là một kẻ tôi tớ đã ngoan ngoãn làm trọn Lời phán của Đức Chúa Trời. Giu-đa không phải là một kẻ tuận đạo cũng không phải là một người máy. Hắn là một con người có trách nhiệm đã tự mình có những quyết định riêng nhưng, trong khi làm như vậy, đã làm ứng nghiệm Lời Đức Chúa Trời. Hắn không thể nào được xem như một anh hùng (“Xét cho cùng, phải có một người nào đó phản bội Chúa Giê-xu! ”) hoặc một nạn nhân đáng thương của sự tiền định thật tàn nhẫn. Giu-đa bị hư mất vì nguyên do tương tự như hàng triệu người đang hư mất ngày nay: hắn không ăn năn các tội lỗi mình và tin nơi Chúa Giê-xu Christ (Gi 6:64-71 Gi 13:10-11). Nếu bạn chưa từng được sanh lại, thì một ngày kia bạn sẽ ước ao là mình đừng được sanh ra trên đời thì hơn.


Không ai trong các môn đệ khác thực sự nghĩ chính mình sẽ là kẻ phản bội, vì câu hỏi của họ hàm ý một câu trả lời phủ định: “Không phải là tôi, phải không?” Những môn đệ này đã thường tranh cãi nhau về việc ai trong vòng họ là người lớn nhất, nhưng giờ đây họ lại đang bàn luận xem ai trong họ là kẻ hèn hạ nhất. Để làm cho vấn đề tệ hại hơn, Chúa Giê-xu phán rằng kẻ phản Ngài thậm chí đã từng ngồi chung bàn ăn bánh với Ngài! Ở Đông phương, bẻ bánh với một người nào đó có nghĩa là bước vào một hiệp ước của tình bằng hữu và tin cậy lẫn nhau. Đó sẽ là một hành động phản bội đê tiện nhất nếu cùng bẻ bánh và rồi phản bội lại chủ mình. Tuy nhiên, ngay đến điều này cũng là sự ứng nghiệm Lời Đức Chúa Trời đã phán (Thi 41:9).


Giu-đa đang ngồi trong chỗ danh dự bên tả Chúa chúng ta, trong khi Giăng đang nghiêng người bên hữu Ngài (Gi 13:23). Khi Chúa Giê-xu đưa cho Giu-đa miếng bánh đã nhúng trong rau đắng, đó là hành động của một người chủ đối với một người khách đặc biệt. Ngay đến điều này cũng không khiến cho lòng Giu-đa tan vỡ, vì sau khi Giu-đa cầm lấy miếng bánh, Sa-tan liền chiếm hữu lòng hắn. Giu-đa bèn rời khỏi Phòng Cao để đi sắp đặt lần chót việc bắt Chúa Giê-xu. Nhưng cả đến lúc đó các môn đệ cũng không biết sự thật về Giu-đa (Gi 13:27-30) và họ sẽ không khám phá ra sự thật này cho đến khi họ gặp lại hắn sau đó trong Vườn Ghết-sê-ma-nê.


Sau khi Giu-đa đi rồi, Chúa Giê-xu thiết lập điều mà các Cơ Đốc nhân thường gọi là “Bữa Tiệc của Chúa” hay “lễ Tiệc Thánh.” (Từ lễ Tiệc Thánh ra từ một từ ngữ Hy Lạp có nghĩa là “cảm tạ.”) Sau khi uống chén thứ ba của lễ Vượt Qua, Chúa Giê-xu lấy một trong những ổ bánh không men, chúc phước, bẻ ra, và nói với các môn đệ, “Đây là thân thể Ta.” Đoạn Ngài lấy chén thứ tư cũng là chén cuối cùng của lễ Vượt Qua, chúc phước, và ban chén ấy cho họ, nói rằng, “Đây là huyết Ta” (ICo 11:23-26).


Bánh và rượu nho là hai món thông thường được dùng hầu như trong mỗi bữa ăn, nhưng Chúa Giê-xu ban cho chúng một ý nghĩa mới mẻ lạ lùng. Khi Chúa Giê-xu phán “Đây là thân thể Ta” và “Đây là huyết Ta, ” Ngài không hóa bánh hoặc rượu nho ra thành bất cứ món gì khác đi. Khi các môn đệ ăn bánh, đó vẫn là bánh khi họ uống rượu nho, đó vẫn là rượu nho. Tuy nhiên, Chúa ban một ý nghĩa mới cho bánh và rượu, hầu cho, từ giờ phút ấy trở đi, họ sẽ dùng bánh và rượu để kỷ niệm sự chết của Ngài.


Vậy thì, Chúa Giê-xu đã hoàn tất điều gì bởi sự chết Ngài? Trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã làm trọn Giao ước Cũ và thiết lập một Giao ước Mới (He 9:1-10:39). Giao ước Cũ đã được thông qua bởi huyết của các con sinh tế, nhưng Giao ước Mới được thông qua bởi huyết của chính Con Đức Chúa Trời. Giao ước Mới trong huyết Ngài sẽ thực hiện những gì các của lễ trong Giao ước Cũ không thể nào làm trọn – cất tội lỗi đi và tẩy sạch tấm lòng và lương tâm của người tín đồ. Chúng ta không được cứu khỏi tội lỗi mình bởi việc tham gia vào một nghi thức tôn giáo, nhưng bởi việc tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của mình.


Mệnh lệnh của Chúa chúng ta là, “Hãy làm điều này để nhớ đến Ta” (ICo 11:24-25). Từ ngữ được dịch là “nhớ” hàm nhiều ý nghĩa hơn là “tưởng nhớ, ” vì bạn có thể làm một điều gì đó để tưởng nhớ một người đã qua đời – thế nhưng Chúa Giê-xu vẫn đang sống! Từ này có ý nói đến một sự dự phần hiện tại trong một biến cố quá khứ. Vì Chúa Giê-xu vẫn đang sống, khi chúng ta kỷ niệm lễ Tiệc Thánh, bởi đức tin chúng ta được thông công với Ngài (ICo 10:16-17). Đây không phải là một kinh nghiệm “có tính cách ma thuật” do bánh và chén tạo nên. Đó là một từng trải thuộc linh đến từ việc chúng ta nhận biết rõ Đấng Christ và ý nghĩa của lễ Tiệc Thánh (ICo 11:27-34).


Điều cuối cùng Chúa Giê-xu và các môn đệ Ngài đã làm tại Phòng Cao là hát thơ thánh kỷ niệm lễ Vượt Qua dựa trên Thi 115:1-118:29. Hãy hình dung việc Chúa chúng ta ca hát khi thập tự giá đang chờ đợi mình chỉ vài giờ sau đó!


3. Trong vườn - bị lìa bỏ (Mac 14:27-52)

Trên đường đến Vườn Ghết-sê-ma-nê (“bàn ép dầu”), Chúa Giê-xu cảnh cáo các môn đệ rằng hết thảy họ đều sẽ lìa bỏ Ngài nhưng Ngài liền quả quyết với họ rằng Ngài sẽ gặp lại họ tại xứ Ga-li-lê sau khi Ngài sống lại. Thậm chí Ngài cũng trích dẫn Xa 13:7 – “Ta sẽ đánh kẻ chăn, thì bầy chiên sẽ tan lạc” – để hỗ trợ cho lời cảnh cáo của Ngài. Tâm trí và tấm lòng của họ không thể nào nhận lãnh hay ghi nhớ những lời phán của Ngài, vì ba ngày sau đó, họ đã không tin những lời tường thuật về sự sống lại của Ngài! Và chính thiên sứ cũng phải đặc biệt nhắc nhở họ hãy đến xứ Ga-li-lê để gặp Ngài (Mac 16:6-7). Nếu họ đã lắng nghe lời Ngài phán và tin lời ấy, thì rất có thể họ đã tránh được nhiều nỗi lo âu và Phi-e-rơ rất có thể đã không chối Chúa.


Câu trích dẫn từ Xa-cha-ri cho các môn đệ biết phải làm gì khi những người Do Thái đến bắt Chúa Giê-xu: tản lạc đi! Thực ra, chính vào giờ phút Ngài bị bắt, Chúa Giê-xu đã phán, “Hãy để cho những kẻ này (các môn đệ) đi” (Gi 18:8). Nói cách khác, “Các ngươi hãy đi khỏi đây! ” Tôi đã từng đọc nhiều bài giảng hùng biện trách Phi-e-rơ vì đã “theo Chúa xa xa, ” nhưng họ hoàn toàn bỏ quên điểm chính yếu. Ông không có nhiệm vụ phải đi theo chút nào! Nếu ông đã vâng theo lời Chúa, thì rất có thể ông đã không dùng gươm mình tấn công một người và cũng đã không chối Chúa ba lần.


Phi-e-rơ dường như khó mà áp dụng các mệnh lệnh của Chúa Giê-xu cho chính mình. Các môn đệ khác có thể lìa bỏ Ngài, còn Phi-e-rơ vẫn sẽ trung thành và, nếu cần thiết, sẽ đồng tù đồng chết với Ngài. Dĩ nhiên, các môn đệ khác đã lặp lại lời nói khoác của Phi-e-rơ vì thế ông không phải là người tự tin duy nhất trong cả nhóm. Cuối cùng, tất cả nhóm họ đều đã thất bại.


Khi sắp trải qua nỗi đau thương, hầu hết mọi người đều mong muốn có ai đó bên cạnh mình, cùng giúp san sẻ gánh nặng với mình. Thường xuyên trong chức vụ mục sư của tôi, tôi đã từng ngồi với những người tại bệnh viện, chờ đợi vị bác sĩ giải phẫu cho biết kết quả. Là một con người hoàn toàn, Chúa Giê-xu mong được có người bên cạnh khi Ngài đối diện với thập tự giá, và Ngài đã chọn Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng, những người đã cùng đi theo Ngài đến nhà của Giai-ru (Mac 5:37) và lên trên Núi Hóa Hình (Mac 9:2). Ba kinh nghiệm này tương đương với Phi 3:10 “Cho đến nỗi tôi được biết Ngài (Núi Hóa Hình), và quyền phép sự sống lại của Ngài (nhà của Giai-ru), và sự thông công thương khó của Ngài” (Vườn Ghết-sê-ma-nê).


Sự chiến đấu của Chúa chúng ta trong Vườn Ghết-sê-ma-nê chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của những gì sẽ xảy đến với Ngài trên thập tự giá Ngài sẽ trở nên tội lỗi vì chúng ta (IICo 5:21) và gánh lấy sự rủa sả của Luật pháp (Ga 3:13). Không phải sự đau đớn về thể xác hầu như đã khiến Ngài chìm ngập trong “đau khổ và buồn rầu, ” mà là sự chờ đợi việc bị Cha Ngài lìa bỏ (Mac 15:34). Đây là “chén đắng” mà Ngài sẽ uống (Gi 18:11). Theo He 5:7-9, Ngài đã nài xin để được cứu, không phải “khỏi sự chết” mà là ra khỏi sự chết đó là, được sống lại từ trong kẻ chết và Đức Chúa Cha đã nhậm lời cầu xin của Ngài.


“A-ba”là một từ trong tiếng A-ram có nghĩa là “cha.” Nó biểu lộ mối quan hệ thân thiết giữa Chúa chúng ta với Cha Ngài. Các tín đồ ngày nay có lẽ sẽ không dùng danh xưng này trước mặt mọi người, nhưng nó thực sự thuộc về chúng ta vì chúng ta thuộc về Ngài (Ro 8:15 Ga 4:6). Xin lưu ý là Chúa Giê-xu không bảo Đức Chúa Cha phải làm gì Ngài hoàn toàn tin cậy nơi ý chỉ của Đức Chúa Trời. Ba lần Ngài đã cầu nguyện về vấn đề này, và mỗi lần Ngài đều vâng phục ý muốn của Cha mình trong sự đầu phục đầy yêu thương.


Ba môn đệ đang làm gì? Họ đang ngủ! Và Phi-e-rơ đã thề rằng ông sẽ cùng chết với Chúa mình – thế nhưng ông thậm chí đã không thể tỉnh thức với Ngài! Chúa Giê-xu đã quở trách các môn đệ và cảnh tỉnh họ nhẹ nhàng biết bao! “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” là lời khuyên thường được lặp đi lặp lại trong Thánh Kinh (Ne 4:9 Mac 13:33 Eph 6:18 Co 4:2). Nó có nghĩa là, “Hãy tỉnh táo khi bạn cầu nguyện! Hãy giữ cặp mắt thuộc linh của bạn mở ra, vì kẻ thù đang ở gần! ”


Lần thứ ba Chúa chúng ta trở lại chỗ các môn đệ đang ngủ gục, Ngài phán, “Bây giờ các ngươi ngủ và nghỉ ngơi ư? Thôi (Đã đủ rồi), giờ đã tới rồi” (Mac 14:41). Đó chính là giờ Chúa phải chịu hy sinh, khi Ngài sẽ chịu chết vì cớ tội lỗi của thế gian. Vào giây phút đó, Giu-đa và kẻ trông coi đền thờ đến để bắt Chúa Giê-xu, và Giu-đa đã hôn Chúa Giê-xu nhiều lần như dấu hiệu cho biết Ngài chính là kẻ cần bắt giữ. Thật giả hình biết bao!


Sự kiện Giu-đa đem theo một toán đông người cầm gươm và gậy như thế cho thấy rằng cả hắn lẫn các nhà lãnh đạo tôn giáo đều thật sự không hiểu về Chúa Giê-xu.Chúng cho là Chúa Giê-xu sẽ tìm cách lẩn trốn, hoặc là những kẻ theo Ngài sẽ chống cự lại, hoặc là có thể Ngài sẽ làm một phép lạ. Những lời Chúa chúng ta phán trong Mac 14:49 chứng tỏ Ngài đang nắm quyền điều khiển, vì chúng đã có thể bắt Ngài nhiều lần trước đó, trừ ra việc giờ Ngài chưa đến.


Phi-e-rơ đã làm một việc dại dột bằng cách tấn công Man-chu (Gi 18:10), vì chúng ta không chiến đấu trong chiến trận thuộc linh với những vũ khí thuộc thể (IICo 10:3-5). Ông đã dùng không đúng vũ khí, vào một thời điểm sai trật, nhằm mục đích sai trật, với động cơ sai trật. Nếu Chúa Giê-xu không chữa lành cho Man-chu, thì rất có thể Phi-e-rơ cũng đã bị bắt nữa và có thể đã có bốn cây thập tự trên đồi Gô-gô-tha rồi.


Vào lúc này, các môn đệ đều lìa bỏ Chúa Giê-xu và chạy trốn, kể cả một thanh niên vô danh đã vào trong vườn và đã chứng kiến việc bắt giữ Ngài. Đây có phải là Giăng Mác không? Chúng ta không biết, nhưng vì Sách Phúc Âm Mác là sách duy nhất trong bốn Sách Phúc Âm ký thuật lại sự kiện này, nên tác giả có thể lắm đang viết về chính mình. Nếu Phòng Cao ở trong nhà của Giăng Mác, thì có lẽ Giu-đa đã dẫn quân lính đến đó trước hết. Giăng Mác có thể đã vội vã khoác áo ngoài vào và đi theo đám người này tới vườn. Quân lính có thể thậm chí đã cố tìm cách bắt ông, vì thế ông đã chạy trốn.


Các môn đệ bị tản lạc và Người Tôi Tớ giờ đây đơn độc một mình, “nhưng Ta không ở một mình, vì Cha ở cùng Ta” (Gi 16:32). Chẳng bao lâu, cả đến Cha Ngài cũng sẽ lìa bỏ Ngài!


4. Tại dinh thầy cả thượng phẩm - bị chối bỏ (Mac 14:53-72)

Cả xử án Do Thái lẫn xử án La Mã đều gồm ba giai đoạn. Việc xử án Do Thái trước hết do An-ne, nguyên là thầy cả thượng phẩm, xét xử (Gi 18:13-24). Kế đó chuyển đến tòa công luận để nghe những lời chứng (Mac 14:53-65), và rồi chuyển đến một buổi họp vào lúc sớm mai để lấy ý kiến cuối cùng cho việc định tội (Mac 15:1). Chúa Giê-xu kế đó được giải nộp cho Phi-lát (Mac 15:1-5 Gi 18:28-38), Phi-lát nộp Ngài cho Hê-rốt (Lu 23:6-12), đoạn Hê-rốt trả Ngài về cho Phi-lát (Mac 15:6-15 Gi 18:39-19:6). Phi-lát nhượng bộ trước tiếng la hét của đám đông và giao Chúa Giê-xu để đem đi đóng đinh.


Vào lúc quân lính tới dinh của thầy cả thượng phẩm, Phi-e-rơ và Giăng, không chú ý đến những lời cảnh cáo lặp đi lặp lại của Chúa, đã đi theo đám đông và thậm chí đã vào tận sân trong. Đêm ấy Chúa Giê-xu đã đổ mồ hôi “như những giọt máu lớn” (Lu 22:44), nhưng Phi-e-rơ thì đang lạnh và ngồi bên ngọn lửa của kẻ thù! Cả hai môn đệ không thể nào chứng kiến sự xét xử cụ thể, nhưng ít ra họ cũng đủ gần để nhìn thấy kết quả (Mat 26:58 Gi 18:15).


Sau khi tra hỏi và xúc phạm đến Chúa Giê-xu, An-ne trao Chúa Giê-xu lại cho con rể mình là thầy cả thượng phẩm Cai-phe. Tòa công luận đã nhóm họp lại và những kẻ làm chứng đã sẵn sàng. Cần thiết phải có hai người chứng trước khi bị cáo có thể bị công bố là có tội và đáng phải chết (Phu 17:6). Nhiều kẻ đã làm chứng nghịch cùng Chúa Giê-xu, nhưng vì họ không đồng ý nhau, nên lời chứng của họ không có giá trị. Thật đáng buồn biết bao khi một nhóm nhà lãnh đạo tôn giáo lại khuyến khích dân chúng làm chứng dối, và ngay trong suốt một mùa lễ thánh đặc biệt như vậy!


Suốt thời gian kiện cáo giả dối này, Chúa chúng ta không nói lời nào (Es 53:7 IPhi 2:23). Nhưng khi thầy cả thượng phẩm bắt Ngài thề, Chúa Giê-xu phải đáp lời, và Ngài làm chứng rõ ràng rằng Ngài thật sự là Con Đức Chúa Trời. Danh hiệu “Con người” chỉ về đấng Mê-si-a (Da 7:13), và các thành viên của hội đồng hiểu chính xác điều Chúa Giê-xu đang nói: Ngài đang tự xưng là Đức Chúa Trời đến trong thân xác con người! Dĩ nhiên, lời xưng nhận này là lộng ngôn đối với những người Do Thái, và họ công bố Ngài có tội và đáng phải chết. Vì Tòa Công Luận thông thường không bỏ phiếu về những vụ án tử hình vào ban đêm, nên hội đồng nhóm họp lại sớm mai hôm sau và công bố lời kết án chính thức (Mac 15:1).


Trong lúc Chúa Giê-xu đang bị chế nhạo và lăng nhục, Phi-e-rơ đang ở sân trong bên dưới, cố tìm cách thoát khỏi sự nhận diện của mọi người. Nếu ông đã chú ý những lời cảnh cáo của Chúa, rất có thể ông đã tránh được sự cám dỗ và không chối Thầy mình ba lần. Ông là một sự cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta, vì, xét cho cùng, nếu một sứ đồ đã từng bước đi với Đấng Christ lại chối Chúa của mình, thì chúng ta có thể làm được gì trong những hoàn cảnh tương tự? Các tín đồ La Mã đọc Sách Phúc Âm của Mác chắc chắn học được nhiều điều từ lời tường thuật này, vì chẳng bao lâu chính mình họ cũng sẽ bước vào lò lửa bách hại.


Trước hết, một trong những đầy tớ gái của thầy cả thượng phẩm nói với Phi-e-rơ, và ông chối không biết gì về Chúa Giê-xu. Rồi gà gáy. Một người tớ gái khác chỉ Phi-e-rơ ra cho một số người đứng gần bên, và một lần nữa Phi-e-rơ lại chối không biết Chúa Giê-xu. Cuối cùng, một người kết tội ông cũng đã từng là một trong các môn đệ, và một số kẻ đứng gần cũng nói vào như vậy nhưng Phi-e-rơ kiên quyết chối không hề biết Chúa Giê-xu, và thậm chí còn rủa mà thề nữa. Tức thì gà gáy lần thứ hai và lời báo trước của Chúa đã ứng nghiệm (xin xem Mac 14:30).


Tuy nhiên, không phải tiếng gà gáy đã cáo trách Phi-e-rơ, mà chính là việc ông nhớ lại lời Đấng Christ đã phán. Lúc nào Lời Chúa cũng xuyên thấu vào lòng và đem đến sự ăn năn thật. Phi-e-rơ suy nghĩ về những điều Chúa Giê-xu đã phán và những việc bản thân ông đã làm và rồi, trên đường đến nơi Phi-lát xử án, Chúa Giê-xu đã xây mặt lại ngó Phi-e-rơ. Chắc hẳn đó là một cái nhìn đầy yêu thương, nhưng tình yêu thương đã bị thương tổn (Lu 22:61). Tấm lòng ông tan vỡ, Phi-e-rơ vội vã đi ra ngoài và khóc lóc đắng cay.


Trước khi đoán xét Phi-e-rơ quá nghiêm khắc, chúng ta cần xét lại đời sống của chính mình. Bao nhiêu lần chúng ta đã chối Chúa và đánh mất cơ hội chia sẻ Phúc Âm với những người khác? Liệu chúng ta có nói khi cần phải lắng nghe, tranh cãi khi cần phải vâng lời, ngủ nghỉ khi cần phải cầu nguyện, và chiến đấu khi cần phải chịu phục tùng, giống như Phi-e-rơ không? Ít ra Phi-e-rơ đã đau buồn vì tội lỗi của mình và khóc lóc về những tội lỗi ấy, và Chúa đã thực sự tha thứ cho ông. Sau khi sống lại, Chúa Giê-xu đã gặp gỡ Phi-e-rơ cách riêng tư (Lu 24:34) kế đó Chúa Giê-xu đã giúp Phi-e-rơ xưng nhận tội lỗi mình trước mặt mọi người khi Ngài gặp lại các môn đệ tại xứ Ga-li-lê (Gi 21:1-25).


5. Tại trường án của Phi-lát - bị kết tội (Mac 15:1-20)

Ngay khi buổi họp buổi sớm mai vừa xong, và lời tuyên án đã chính thức được ghi lại, những nhà lãnh đạo Do Thái giải Chúa Giê-xu nộp cho Tổng Đốc La Mã là Phi-lát.Tổng Đốc thường ở tại Sê-sa-rê, nhưng ông ta có lệ đến tại Giê-ru-sa-lem mỗi năm để dự lễ. Sự hiện diện của ông ta làm hài lòng một số người Do Thái, và ông ta cũng có thể sẵn sàng ra tay nếu có biến động gì xảy ra giữa vòng hàng ngàn người lũ lượt kéo về Giê-ru-sa-lem. Các tổng đốc La Mã xử án vào buổi sớm mai, vì thế ông ta đã hoàn toàn sẵn sàng khi chúng đem tù nhân đến.


Hội đồng Do Thái phải làm cho Phi-lát tin rằng Chúa Giê-xu đã phạm tội tử hình và do đó đáng phải chết (Gi 18:31-32). Bất chấp sự thối nát về chính trị của mình, nhiều viên chức La Mã có một sự nhận thức rõ về công lý và đã cố gắng xét xử công bình với các phạm nhân. Hơn nữa, Phi-lát không thực sự ưa thích người Do Thái và không hề có ý định ủng hộ họ chút nào. Ông ta biết rằng những nhà lãnh đạo Do Thái không quan tâm đến việc nhìn thấy công lý được thi hành điều họ thật lòng mong muốn là sự báo thù (Mac 15:10).


Giăng thuật lại cho chúng ta những chi tiết đầy đủ nhất về việc xét xử của người La Mã, và khi bạn kết hợp những phần ký thuật của bốn sách Phúc Âm, bạn khám phá rằng Phi-lát đã nhiều lần phát biểu ông ta không thấy Chúa Giê-xu có tội lỗi gì cả (Gi 18:38 Lu 23:14 Gi 19:4 Lu 23:22 Mat 27:24). Vấn đề của ông ta là ông thiếu sự can đảm để bênh vực cho điều mình tin. Ông ta muốn tránh một cuộc nổi loạn (Mat 27:24), vì thế ông ta “muốn cho đẹp lòng dân” (Mac 15:15). Phi-lát không hỏi, “Làm thế có đúng không?” Thay vào đó, ông ta đã hỏi, “Làm thế có an toàn không? Có hợp với dân chúng không?”


Hội đồng Do Thái chỉ có một tội tử hình để họ có thể trình lên cho Phi-lát: Chúa Giê-xu đã tự xưng là vua và Ngài đã khích động dân chúng. Họ cố tìm cách gán cho Ngài là một nhà cách mạng nguy hiểm đang ngấm ngầm làm suy yếu uy quyền của La Mã. Khi Phi-lát tra gạn Chúa Giê-xu, Ngài chỉ lặng thinh, nhưng các thầy tế lễ cả cứ kiện cáo Ngài và cố tìm cách làm cho viên tổng đốc mất dần sự nhẫn nại.


Phi-lát nghĩ là ông ta có thể tránh né sự quyết định bằng cách giao Chúa Giê-xu cho Hê-rốt, vua xứ Ga-li-lê (Lu 23:6-12), nhưng Hê-rốt chỉ sai giải Chúa Giê-xu trả lại cho Phi-lát sau khi nhạo báng Ngài. Kế đó viên tổng đốc để cho dân chúng trọn quyền chọn lựa – Giê-xu người Na-xa-rét, hay Ba-na-ba, kẻ giết người và nổi loạn – vì nghĩ rằng chắc hẳn sự sáng suốt sẽ thắng hơn và họ sẽ xin tha cho Chúa Giê-xu. Nhưng các thầy tế lễ cả đã cẩn thận xui giục đám đông (Mac 15:11), và họ đã xin tha cho Ba-na-ba và đóng đinh Chúa Giê-xu.


Tiếp đó viên tổng đốc đã thử một mưu mẹo thứ ba: ông ta sai đánh đòn Chúa Giê-xu, hy vọng là hình ảnh tên tù đang chịu đau đớn phần nào sẽ gợi lên sự thương xót nơi họ (c.15 Gi 19:1tt). Nhưng kế hoạch này không kết quả gì dân chúng càng kêu gào hơn đòi đóng đinh Ngài. Viên tổng đốc đầu hàng và giao Chúa Giê-xu để đem đi đóng đinh.


Kế đó là sự nhạo báng đầy sỉ nhục của quân lính, khi chúng đánh Ngài, nhổ trên Ngài, và cúi xuống giả bộ tôn kính Ngài cách chế giễu. Bọn lính La Mã chắc chắn sẽ cười nhạo người Do Thái nào tự xưng là vua! “Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi! ” (Gi 19:12-15). Chúa chúng ta yên lặng chịu đau đớn và không kháng cự lại, một bài học mà các độc giả của Mác sẽ cần phải học khi họ đối diện sự bách hại chính thức sau đó (IPhi 2:21-24).


Nhưng con người chưa làm trọn những điều tồi tệ nhất của họ đối với Con Đức Chúa Trời.Giờ đây họ sẽ đem Ngài ra phía ngoài thành và đóng đinh Ngài trên một cây thập tự, và Người Tôi Tớ sẽ chịu chết vì cớ tội lỗi của chính những kẻ đang đóng đinh Ngài.


12. NGƯỜI TÔI TỚ HOÀN TẤT CÔNG VIỆC MÌNH (Mac 15:21-16:20)

Cecil Rhodes dâng hiến đời mình cho sự mở rộng của nước Anh tại Nam Phi, cộng thêm việc tạo lập một gia tài bằng kim cương. Khi qua đời ông chưa đầy năm mươi tuổi, và những lời cuối cùng của ông là, “Những việc đã làm xong thì quá ít, những điều cần phải làm thì lại quá nhiều.”


Chúa Giê-xu đã nói với Đức Chúa Cha “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4). Thật tuyệt biết bao nếu tất cả chúng ta đều có thể trình dâng công việc mình như vậy khi chúng ta đạt đến đích hành trình của cuộc sống. Việc nhận biết rằng chúng ta đã hoàn tất công việc Ngài và tôn vinh danh Ngài chắc chắn sẽ khiến chúng ta nhìn lại đàng sau với sự cảm tạ và hướng tới trước với sự nôn nóng và mong đợi.


Bốn sự kiện được mô tả trong phân đoạn cuối của sách Mác này đem lại cho chúng ta đỉnh cao của nội dung Phúc Âm và nền tảng lịch sử cho sứ điệp của Phúc Âm (ICo 15:1-8).


1. Sự chết của người tôi tớ (Mac 15:21-41)

Ba giờ đặc biệt được đề cập tới trong phân đoạn này của sách Mác: giờ thứ ba (c.25), giờ thứ sáu (c.33), và giờ thứ chín (c.33-34). Người Do Thái tính giờ từ Mac 6:00 sáng và Mac 6:00 tối, vì thế giờ thứ ba tức là Mac 9:00 sáng, giờ thứ sáu tức giữa trưa, và giờ thứ chín tức Mac 3:00 chiều. Mác theo hệ thống giờ của người Do Thái, trong khi Sứ đồ Giăng thì dùng giờ của La Mã trong sách Phúc Âm của mình. Điều này có nghĩa là “giờ thứ sáu” trong Gi 19:14 là Gi 6:00 sáng.


Giờ thứ ba (Mac 15:21-32). Theo luật định, tội nhân phải vác cây thập tự của mình, hoặc ít nhất là thanh gỗ đứng của cây thập tự, đến nơi hành hình, và Chúa Giê-xu không được miễn trừ. Ngài rời khỏi trường án của Phi-lát vác theo cây thập tự của mình (Gi 19:16-17), nhưng Ngài không thể nào vác tiếp được vì thế quân lính “bắt” Si-môn thành Sy-ren vác cây thập tự thay cho Ngài. Các viên chức La Mã có quyền “cưỡng bách” người ta phải phục dịch, và cách họ sử dụng quyền hạn này làm cho người Do Thái căm tức (Mat 5:41).


Khi suy xét tất cả những điều mà Chúa chúng ta đã gánh chịu từ lúc Ngài bị bắt, hẳn bạn không lấy làm ngạc nhiên khi thấy sức lực Ngài cạn kiệt. Thực ra, “Ngài đã có thể sai 10.000 thiên sứ đến, ” thế nhưng Ngài sẵn lòng gánh chịu đau đớn vì cớ chúng ta. Có một mục đích cao cả hơn đàng sau hành động này: nạn nhân vác cây thập tự vì người ấy đã bị thấy là có tội, nhưng Chúa chúng ta thì không hề phạm tội. Chúng ta là những người có tội, và Si-môn đã vác cây thập tự đó vì cớ chúng ta. Si-môn Phi-e-rơ nói khoác rằng ông sẽ đồng tù đồng chết với Chúa Giê-xu (Lu 22:33), nhưng chính Si-môn người Sy-ren, chớ không phải Si-môn Phi-e-rơ, lại là người đến để phụ giúp Thầy.


Một trong những bức thư thân tình gửi cho mẹ ông, Harry Truman đã viết, “Con đã đến Tòa Bạch Ốc để gặp Tổng Thống và khám phá rằng chính Con là Tổng Thống.” Si-môn đã đến Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt Qua (Cong 2:10 Cong 6:9), và cuối cùng ông đã gặp được Chiên Con lễ Vượt Qua! Chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng Si-môn tin nơi Đấng Christ và trở về nhà đưa hai con trai mình đến với Chúa. Chắc hẳn các độc giả La Mã của Mác đều biết A-léc-xan-đơ và Ru-phu (Ro 16:13), và có lẽ họ cũng đã biết Si-môn.


Gô-gô-tha là một từ Hy-bá-lai có nghĩa là “cái sọ, ” mặc dù không nơi nào trong nguyên văn giải thích vì sao chỗ này lại có tên gọi ấy. Các du khách đến Xứ Thánh ngày nay được đưa đến thăm đồi “Gô-gô-tha của xứ Gordon, ” là nơi thật sự có hình dạng của một cái sọ, nhưng các hướng dẫn viên cũng chỉ ra một địa điểm hợp lý khác trong Nhà thờ của mộ thánh. Chúng ta không biết vị trí chính xác nơi Chúa chúng ta đã bị đóng đinh, và điều đó cũng không phải là quan trọng. Ngài đã bị đóng đinh bên ngoài thành, nơi bị chối bỏ (He 13:12-13), và Ngài đã chịu chết vì cớ tội lỗi của thế gian.


Theo thông lệ thì các nạn nhân sẽ được cho uống một thứ chất lỏng làm cho mê đi để giúp làm giảm bớt cơn đau (Ch 31:6), nhưng Chúa chúng ta từ chối không chịu uống.Về một mặt, Ngài muốn hoàn toàn làm chủ ý thức mình khi Ngài làm theo ý chỉ của Đức Chúa Cha và hoàn tất công tác cứu chuộc. Ngài sẽ chịu trọn vẹn sự đau đớn của mình vì cớ chúng ta và không muốn đi con đường tắt. Ngài từ chối uống chén cảm thương để Ngài có thể uống chén đắng của tội lỗi con người (Mat 26:36-43). Thật là một gương mẫu cho chúng ta noi theo khi chúng ta làm theo ý muốn Đức Chúa Trời và chia sẻ “sự thông công trong sự thương khó của Ngài” (Phi 3:10).


Không tác giả Phúc Âm nào mô tả cho chúng ta việc đóng đinh, mà điều đó cũng chẳng cần thiết nữa. Mục đích của họ không phải là gợi cho chúng ta lòng thương xót mà là xác quyết đức tin của chúng ta. Nhiều người trong số các độc giả của họ có thể đã chứng kiến những cảnh đóng đinh, vì thế bất cứ chi tiết nào cũng sẽ không cần thiết. Việc đóng đinh là một việc làm thật đáng ghê tởm đến độ nó không được đề cập tới trong xã hội văn minh, không hơn gì ngày nay chúng ta bàn đến phòng hơi ngạt hay ghế điện chút nào. Đủ để nói, việc đóng đinh là một trong những hình thức kinh khiếp nhất dành cho cái chết từng được con người nghĩ ra.Hãy đọc Thi 22:1-31 để hiểu thấu một số nỗi đau thương mà Chúa chúng ta phải gánh chịu khi Ngài bị treo trên cây thập tự.


Nạn nhân thường mang một tấm bảng công bố tội phạm của mình. Phi-lát đã viết lên tấm bảng mà Chúa Giê-xu mang và sau đó nó được treo lên trên cây thập tự:Giê-xu người Na-xa-rét, là Vua dân Giu-đa.” Các nhà lãnh đạo Do Thái phản đối, nhưng Phi-lát ít nhất là một lần đã giữ vững lập trường của mình (Gi 19:19-22). Có thể là nội dung của tấm bảng này trước hết đã khơi dậy những hy vọng của tên trộm cướp có lòng ăn năn (Lu 23:39-43). Có thể hắn ta đã lý luận: “Nếu tên Ngài là Giê-xu, thì Ngài chính là một Đấng Christ. Nếu Ngài ra từ Na-xa-rét, thì Ngài sẽ đồng nhất hóa với những kẻ bị khước từ (Gi 1:46). Nếu Ngài có một vương quốc, thì có lẽ còn có chỗ cho mình! ”


Quân lính tại nơi hành hình không chỉ đang làm bổn phận mình, nhưng chúng cũng đang làm ứng nghiệm lời tiên tri khi chúng bắt thăm chia nhau áo xống của Chúa (Thi 22:18). Sự kiện Con Đức Chúa Trời vô tội bị đặt ở giữa hai tên tội phạm cũng làm ứng nghiệm lời tiên tri (Es 53:12 và xin xem Lu 22:37). Từ ngữ dùng cho “những tên trộm” được diễn tả là kẻ trộm cướp trong Gi 18:40 nhằm ám chỉ Ba-ra-ba, vì thế có lẽ hai tên này là đồng bọn trong phe nổi loạn của hắn.


Dường như không thể tin được rằng những nhà lãnh đạo tôn giáo lại ghen ghét Chúa Giê-xu đến nỗi thậm chí họ đi ra tận đồi Gô-gô-tha để nhạo báng Ngài. Thomas Carlyle gọi sự nhạo báng là “ngôn ngữ của ma quỉ, ” và trong trường hợp này, định nghĩa đó chắc hẳn là đúng. Những kẻ ăn không ngồi rồi đi ngang qua chỉ quá hăng say bắt chước theo gương xấu của những người lãnh đạo mình, vì thế bên cạnh sự đau thương Chúa chúng ta còn phải gánh chịu sự chế giễu của họ. Họ chế báng Ngài là Tiên tri (Mac 15:29), là Đấng Christ (c.31), và là Vua (c. 32). Câu nói châm biếm của họ “Hắn đã cứu kẻ khác! ” có thể đã khích lệ một tên trộm cướp tin nơi Ngài. Tên trộm cướp này có thể đã lý luận, “Nếu Ngài đã cứu những kẻ khác, thì Ngài cũng có thể cứu mình! ” Vì thế Đức Chúa Trời cũng dùng cả cơn giận của loài người để ngợi khen Ngài (Thi 76:10).


Giờ thứ sáu (Mac 15:33). Vào giữa trưa, một sự tối tăm lạ lùng đã bao phủ khắp đất, và mọi Tạo vật đều cảm thương với Đấng Tạo hóa khi Ngài chịu đau đớn. Đây thực sự là một phép lạ chớ không phải một hiện tượng thiên nhiên nào đó, chẳng hạn như một cơn bão cát hay một hiện tượng nhật thực.Không thể nào có hiện tượng nhật thực trong suốt thời kỳ trăng tròn vào lễ Vượt Qua. Bằng sự tối tăm này, Đức Chúa Trời đang phán với dân chúng một điều gì đó.


Về một mặt, người Do Thái chắc chắn sẽ nhớ đến lễ Vượt Qua đầu tiên. Tai vạ thứ chín tại xứ Ai Cập là một sự tối tăm trong ba ngày, tiếp theo sau là tai vạ cuối cùng, sự chết của con đầu lòng (Xu 10:22-11:9). Sự tối tăm tại đồi Gô-gô-tha là một lời tuyên bố rằng Con Đầu lòng và Yêu Dấu của Đức Chúa Trời, Chiên Con của Đức Chúa Trời, đang phó mạng sống Ngài vì cớ tội lỗi của thế gian. Đó cũng là một lời tuyên bố rằng sự phán xét sắp đến và con người cần phải sửa soạn cho sự phán xét này.


Giờ thứ chín (Mac 15:34-41). Chúa chúng ta đã thốt lên bảy câu nói trên thập tự giá, ba câu nói trước khi sự tối tăm bao phủ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu 23:24) “Hôm nay ngươi sẽ được ở với Ta trong nơi Ba-ra-đi” (Lu 23:43) và “Hỡi đờn bà kia, đó là con của ngươi! . . . Đó là mẹ ngươi! ” (Gi 19:26-27). Khi sự tối tăm đến, trên thập tự giá của Ngài hoàn toàn lặng yên, vì đó là lúc mà Ngài bị khiến trở nên tội lỗi vì cớ chúng ta (IICo 5:21).


Vào giờ thứ chín, Chúa Giê-xu biểu lộ sự thống khổ của linh hồn Ngài khi từ trên thập tự giá Ngài kêu lên, “Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Thi 22:1). Sự tối tăm tiêu biểu cho sự đoán phạt Chúa Giê-xu từng trải khi Đức Chúa Cha lìa bỏ Ngài. Như vẫn thường xảy ra, dân chúng không hiểu lời phán của Ngài họ cho là Ngài đang gọi tiên tri Ê-li. Không chỉ có sự tối tăm bao phủ khắp đất, nhưng cả sự tối tăm trong tâm trí và tấm lòng của dân chúng (IICo 4:3-6 Gi 3:16-21 Gi 12:35-41).


Kế đó Chúa Giê-xu nói, “Ta khát” (Gi 19:28), và hành động tử tế của tên lính khi đưa cho Ngài uống một ngụm giấm (Thi 69:21) thêm sức để Ngài thốt lên hai câu tuyệt diệu nữa: “Mọi việc đã được trọn! ” (Gi 19:30) và “Hỡi Cha, tôi giao linh hồn lại trong tay Cha” (Lu 23:46 Thi 31:5). Chúa Giê-xu đã không bị giết chết Ngài sẵn lòng phó sự sống mình vì cớ chúng ta (Gi 10:11,15,17-18). Ngài không phải là một kẻ tuận đạo Ngài là một tế lễ tự nguyện vì cớ tội lỗi của thế gian.


Hai biến cố nổi bật đã xảy ra lúc Ngài tắt hơi: có một trận động đất (Mat 27:51), và bức màn trong đền thờ bị xé làm hai. Bức màn đã phân cách con người với Đức Chúa Trời, nhưng giờ đây, nhờ sự chết của Ngài, Chúa Giê-xu đã mở ra cho toàn thế giới một “con đường sống và mới” (He 10:12-22 Gi 14:6). Đã từng có một cơn động đất tại núi Si-na-i khi Luật pháp được ban bố (Xu 19:16-18), nhưng giờ đây Luật pháp đã được làm trọn trong Chúa Giê-xu Christ và sự rủa sả của nó đã được cất đi (Ro 10:4 Ga 3:10-14). Qua sự hy sinh của Ngài, Chúa Giê-xu đã trả giá cho sự tự do khỏi Luật pháp, và cả sự tự do khỏi toàn bộ hệ thống tế lễ nữa.


Thật thú vị khi đọc lời chứng của thầy đội La Mã, đặc biệt khi bạn suy nghĩ là lời phát biểu của ông ta đã có thể khiến ông gặp phiền phức với người Do Thái và người La Mã. Việc Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời là một trong những chủ đề quan trọng của sách Mác (Mac 1:1,11 Mac 3:11 Mac 5:7 Mac 9:7 1 Mac 4:61-62). Điều này khiến cho địa vị tôi tớ của Ngài càng có ý nghĩa hơn (Phi 2:1-11).


Thật cảm động khi quan sát những người đờn bà đứng gần bên thập tự giá cho đến giờ phút chót. Giăng cũng đã có mặt tại đó, nhưng ông đã đưa Ma-ri, mẹ của Chúa, về nhà riêng của mình để có thể chăm sóc cho bà (Gi 19:25-27). Những người đờn bà trung tín là những người cuối cùng tại thập tự giá vào ngày Thứ Sáu và là những người đầu tiên nơi phần mộ vào ngày Chúa nhật. Thật tương phản với các môn đệ đã từng khoác lác rằng họ sẽ chết vì Ngài! Hội Thánh của Chúa Giê-xu Christ thật chịu ơn sự hy sinh và tận hiến của những người nữ đầy lòng tin.


2. Việc chôn cất người tôi tớ (Mac 15:42-47)

Người Do Thái phân biệt hai buổi tối: “buổi chiều tối, ” từ 3 đến Mac 6:00, và “buổi tối, ”sau Mac 6:00, khi ngày mới bắt đầu. Điều này giải thích vì sao cả Ma-thi-ơ (Mat 27:57) và Mác đều có thể gọi buổi chiều muộn ngày Thứ Sáu là “buổi tối.” Điều quan trọng là nơi hành hình phải nhanh chóng được dẹp sạch, vì ngày Sa-bát của người Do Thái sắp bắt đầu, và ngày Sa-bát đó là một “ngày trọng thể” vì cớ lễ Vượt Qua (Gi 19:31).


Đức Chúa Trời có một thành viên của Tòa Công luận rất giàu có là Giô-sép A-ri-ma-thê người này sẵn sàng lo cho thi hài Chúa Giê-xu (Mat 27:57). Người này được sự trợ giúp của Ni-cô-đem, cũng là một thành viên của hội đồng (Gi 19:38-42). Chúng ta không được nghĩ rằng hai người này bất ngờ quyết định chôn xác Chúa Giê-xu, vì việc họ làm đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng.


Trước tiên, Giô-sép đã phải chuẩn bị ngôi mộ trong một khu vườn gần nơi Chúa Giê-xu chịu chết. Ngôi mộ này có lẽ không phải dành cho bản thân Giô-sép, vì một người giàu có sẽ không thể chọn được chôn gần một nơi hành hình. Hai người này cũng phải có thật nhiều hương liệu (Gi 19:39), và điều này không thể nào thực hiện được khi các cửa hiệu đều đã đóng cửa để dự lễ Vượt Qua. Và tất cả mọi việc này phải được thực hiện mà không để cho hội đồng hay biết.


Dường như rõ rệt là Đức Chúa Trời đã sắm sẵn hai người này và hướng dẫn họ trong những việc họ làm. Ni-cô-đem đã đến gặp riêng Chúa Giê-xu (Gi 3:1-16) và thậm chí đã bênh vực Ngài trước hội đồng (Gi 7:45-53). Tôi tin rằng Giô-sép và Ni-cô-đem đã cùng tra cứu Thánh Kinh với nhau và, được dẫn dắt bởi Đức Thánh Linh, đã khám phá rằng Chiên Con sẽ chịu chết tại lễ Vượt Qua. Có thể là họ đang ẩn nấp trong ngôi mộ mới khi Chúa Giê-xu chịu chết. Thật là một vấn đề đơn giản đối với Giô-sép khi đến gặp Phi-lát để xin phép lấy xác Chúa Giê-xu, và đối với Ni-cô-đem khi canh giữ xác Ngài cho đến khi chính thức được phép tháo xác Ngài xuống. Nếu hai người này đã không hành động cách dạn dĩ, thì thân xác Chúa Giê-xu có thể đã bị vất bỏ như rác rưởi rồi.


Điều quan trọng là thân xác Ngài phải được chuẩn bị cho việc chôn cất hầu cho những tấm vải liệm xác Ngài có thể được bỏ lại trong phần mộ (Gi 20:1-10). Cũng vậy, cách thức Ngài được chôn chứng tỏ rằng Chúa Giê-xu thật sự đã chết trên thập tự giá, vì những viên chức La Mã rất có thể đã không cho phép tháo xác Ngài khỏi thập tự giá nếu không có bằng chứng là Chúa Giê-xu đã chết rồi.


3. Sự sống lại của người tôi tớ (Mac 16:1-18)


Chúa Giê-xu Christ đã “bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta” (Ro 4:25). Một Cứu Chúa đã chết không thể nào cứu được ai. Sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ từ trong kẻ chết là một phần quan trọng của sứ điệp Phúc Âm y như sự chết hy sinh của Ngài trên thập tự giá (ICo 15:1-8). Thực vậy, trong Sách Công vụ, Hội Thánh làm chứng chủ yếu về sự sống lại của Ngài (Cong 1:22 Cong 4:2,33).


Sự sống lại chứng minh rằng Chúa Giê-xu Christ quả thật như lời Ngài tự nhận, Ngài chính là Con Đức Chúa Trời (Ro 1:4). Ngài đã báo trước cho các môn đệ rằng Ngài sẽ sống lại từ trong kẻ chết, nhưng họ đã không hiểu thấu được ý nghĩa của chân lý này (Mac 9:9-10,31 Mac 10:34). Ngay cả những người đờn bà đến nơi mộ phần từ lúc tờ mờ sáng cũng không trông mong gặp được Ngài đang sống. Thực thế, họ đã mua các thứ hương thơm để hoàn tất việc xức dầu cho xác Ngài mà Giô-sép và Ni-cô-đem đã làm quá vội vàng.


Khi kết hợp những lời tường thuật trong các sách Phúc Âm, bạn có được thứ tự khả dĩ sau đây về những sự hiện ra của Chúa phục sinh vào ngày đầu tiên trong tuần lễ ấy:


(1) với Ma-ri Ma-đơ-len (Gi 20:11-18 Mac 16:9-11)


(2) với những người đờn bà khác (Mat 28:9-10)


(3) với Phi-e-rơ (Lu 24:34 ICo 15:5)


(4) với hai người trên đường về Em-ma-út (Mac 16:12 Lu 24:13-32)


(5) với mười người trong các môn đệ trên Phòng Cao (Mac 16:14 Gi 20:19-25).


Trời vẫn còn mờ mờ khi Ma-ri Ma-đơ-len, Ma-ri mẹ của Gia-cơ, Sa-lô-mê, và Gian-nơ (Lu 224:10) khởi sự đi đến mộ Chúa (Gi 20:1) và họ đến đó vào lúc mờ sáng (Lu 24:1). Điều ngạc nhiên đầu tiên của họ là nhìn thấy hòn đá đã lăn ra khỏi cửa mộ (Mat 28:2-4) để họ có thể bước vào trong mộ. Điều ngạc nhiên thứ hai là việc gặp gỡ hai thiên sứ trong phần mộ (Lu 24:4 Mác chỉ tập trung vào một thiên sứ)và điều ngạc nhiên thứ ba là việc nghe lời các thiên sứ truyền lại. Tất nhiên những người đờn bà đã kinh ngạc biết bao!


Lời truyền lại của các thiên sứ là Chúa Giê-xu không có ở đó: Ngài đã sống lại từ kẻ chết, và Ngài hiện đang đi trước họ đến xứ Ga-li-lê nơi Ngài sẽ gặp lại họ.Những người đờn bà là những sứ giả đầu tiên loan báo sứ điệp Phục sinh vinh hiển! Xin lưu ý là có một từ khích lệ đặc biệt dành cho Phi-e-rơ (Mac 16:7), và xin hãy nhớ là Mác đã viết sách Phúc Âm của mình với sự trợ giúp của Phi-e-rơ.


Ma-ri Ma-đơ-len chạy đi báo cho Phi-e-rơ và Giăng những điều bà đã khám phá (Gi 20:2-10), và rồi bà nấn ná nơi cửa mộ sau khi họ đã đi khỏi. Chính vào lúc đó Chúa Giê-xu đã hiện ra cho bà (Gi 20:11-18). Qua cuộc đối thoại của bà với Chúa Giê-xu, dường như là Ma-ri chưa hoàn toàn hiểu được những điều hai vị thiên sứ vừa nói, nhưng bà là tín đồ đầu tiên nhìn thấy Đấng Christ phục sinh. Mac 16:8 có thể nêu lên ý là tất cả những người đờn bà đều trốn đi, nhưng câu 9 nói rõ rằng chính mình Ma-ri đã gặp Chúa Giê-xu.


Sau khi hiện ra cho Ma-ri, Chúa Giê-xu đã gặp những người đờn bà khác khi họ đang trên đường đi báo cho các môn đệ cuộc nói chuyện của họ với Chúa Giê-xu (Mat 28:9-10). Vào lúc đầu, những người đờn bà này vừa vui mừng vừa sợ, nhưng sau khi gặp Đấng Christ phục sinh, họ tìm gặp các môn đệ và chia sẻ tin mừng đó (Mat 28:8). Nghe sứ điệp là một việc còn gặp gỡ Đấng Christ phục sinh cách cá nhân lại hoàn toàn là một việc khác. Khi bạn gặp gỡ Ngài, bạn có một điều gì đó để chia sẻ với những người khác.


Điểm nhấn mạnh trong Mac 16:9-14 là sự vô tín của các môn đệ là những kẻ đang than khóc thay vì vui mừng trước tin mừng ấy. Phải chăng vì họ có thành kiến đối với lời chứng của những người đờn bà? Có lẽ vậy, vì lời chứng của một người nữ không được tòa án Do Thái chấp nhận. Nhưng ngay cả khi hai môn đệ ở làng Em-ma-út làm chứng lại, không phải tất cả mọi người đều tin. Hãy đối chiếu Mac 16:13 với Lu 24:33-35. Rõ ràng là có sự chia rẽ trên Phòng Cao cho đến khi chính mình Chúa Giê-xu hiện ra với họ.


Nhưng khi Ngài hiện ra, Ngài quở trách họ về sự không tin do lòng họ cứng cỏi (Mac 6:52 Mac 8:17). Ngài đang vạch ra rằng những lời chứng về sự sống lại của Ngài có thể và cần phải được tin cậy. Cụm từ “Mười một người” trong Mac 16:14 chỉ nhằm nói đến các “Sứ đồ, ” vì vào lúc đó chỉ có mười người đang ngồi ăn với nhau, vì Thô-ma đang vắng mặt (Gi 20:19-25).


Trước khi Ngài thăng thiên bốn mươi này sau đó, Chúa đã ban nhiều mệnh lệnh cho những kẻ theo Ngài (Gi 20:21 Gi 21:15-17 Mat 28:18-20 Lu 24:27-29 Cong 1:4-8). Mệnh lệnh Mác rao truyền có lẽ là một phần của Đại Mệnh lệnh mà Chúa Giê-xu đã truyền phán trên một hòn núi tại xứ Ga-li-lê (Mat 28:16-20).


Trong mệnh lệnh này, Chúa Giê-xu vạch ra sứ điệp và chức vụ của chúng ta, và rồi hỗ trợ cho mệnh lệnh ấy bằng những ủy nhiệm thư mà chỉ một mình Ngài mới có thể ban cho. Sứ điệp đó là nội dung của Phúc Âm, Tin tức Tốt lành về sự cứu rỗi bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Chức vụ đó là chia sẻ sứ điệp này cho toàn thế giới.


Việc đọc Mac 16:15-16 cách nông cạn sẽ đưa ra giả thuyết là tội nhân phải chịu báp-tem để được cứu, nhưng sự giải nghĩa sai trật này biến mất khi bạn lưu ý rằng điểm nhấn mạnh là niềm tin. Nếu một người không tin, người ấy bị kết tội, ngay cho dù người ấy đã chịu báp-tem rồi (Gi 3:16-18,36). Điều trông mong trong Hội Thánh ban đầu là các tín đồ sẽ chịu báp-tem (Cong 2:41 Cong 10:44-48).


Khi Đức Chúa Trời ra lệnh cho Môi-se thách thức Pha-ra-ôn tại Ai Cập, Ngài ban cho ông các phép lạ đặc biệt để thi hành như là những ủy nhiệm thư từ thiên thượng, chứng mình rằng ông được sai đến bởi Đức Chúa Trời (Xu 4:1-9). Điều này cũng đúng đối với một số đấng tiên tri (IVua 18:1-46 IIVua 2:14-25). Các sứ đồ cũng được ban cho những “dấu lạ” đặc biệt để làm cho vững mạnh sứ điệp họ rao giảng ra (He 2:3-4 IICo 12:12 Cong 19:11-12). Tự chúng, các phép lạ không chứng minh rằng một người đã được Đức Chúa Trời sai đến, vì sứ điệp cũng phải phù hợp với Lời của Đức Chúa Trời (IITe 2:1-17 Kh 13:1-18).


Hầu hết các dấu lạ kể ra ở đây đã thật sự xảy ra vào thời các sứ đồ và được ghi lại trong Sách Công-vụ. Điều gần gũi nhất chúng ta có đối với việc bắt rắn là kinh nghiệm của Phao-lô tại cù lao Man-tơ (Cong 28:3-6), nhưng chúng ta không có sự ký thuật nào trong Kinh Thánh về việc người nào uống giống chi độc và vẫn còn sống. Hẳn là Đức Chúa Trời đã thực hiện nhiều điều diệu kỳ cho những người thuộc riêng về Ngài mà chúng ta không hề biết, nhưng chúng ta sẽ học biết về những điều đó trên thiên đàng.


Thật đáng buồn khi những người có thiện chí nhưng không được dạy dỗ lại đòi những dấu lạ này cho cá nhân mình và rồi chết vì cớ rắn cắn hay ngộ độc. Dĩ nhiên, lời bào chữa là họ không có đủ đức tin! Nhưng phàm làm điều chi không bởi đức tin thì điều đó là tội lỗi (Ro 14:23) do đó, lẽ ra họ đã không nên làm điều đó trước tiên.


Người nào bắt rắn chỉ để chứng tỏ đức tin của mình tức đang bị khuất phục trước chính sự cám dỗ Sa-tan đem đến cho Chúa Giê-xu trên nóc đền thờ (Mat 4:5-7): “Hãy gieo mình xuống đi và xem thử Đức Chúa Trời có sẽ giữ gìn Ngươi chăng, ” Sa-tan nói với ngụ ý. Nó muốn chúng ta “phô trương” đức tin của mình và ép buộc Đức Chúa Trời thi hành những phép lạ không cần thiết. Chúa Giê-xu từ chối thử Đức Chúa Trời, và chúng ta cần phải theo gương Ngài. Đúng vậy, Đức Chúa Trời chăm sóc con cái Ngài khi, trong ý muốn Ngài, họ đang rơi vào những nơi nguy hiểm nhưng Ngài không bị buộc phải chăm lo cho chúng ta khi chúng ta ngu dại ra khỏi ý muốn của Ngài. Chúng ta được kêu gọi để sống bởi đức tin, chớ không phải tình cờ, và để tin cậy Đức Chúa Trời, chớ không phải để thử Ngài.


4. Sự thăng thiên của người tôi tớ (Mac 16:19-20)

Theo một cách thức nổi bật, Phúc Âm của Mác tương đương với “đoạn Kinh Thánh về người Tôi Tớ” vĩ đại trong Phi 2:1-11.


Ngài đã đến như một người Tôi Tớ (Phi 2:1-7) –Mac 1:1-13:37


Ngài đã chết trên cây thập tự (Phi 2:8) – Mac 14:1-15:47


Ngài đã được tôn cao cách hiển vinh (Phi 2:9) – Mac 16:1-20


Cả Phao-lô và Mác đều nhấn mạnh nhu cầu đối với dân sự Đức Chúa Trời là phải rao giảng sứ điệp ra cho tất cả các dân tộc (Phi 2:10-11 Mac 16:15-16), và có thêm lời xác quyết rằng Đức Chúa Trời hành động trong họ và qua họ (Phi 2:12-13 Mac 16:19-20).


Sự thăng thiên của Chúa chúng ta đánh dấu sự hoàn tất của chức vụ Ngài trên đất và sự bắt đầu của chức vụ mới của Ngài trên trời với tư cách Thầy Tế lễ Thượng Phẩm và Đấng Cầu thay cho dân sự Ngài (He 7-10 IGi 2:1-3). “Bên hữu Đức Chúa Trời” là vị trí nói lên sự tôn trọng và uy quyền (Thi 110:1 IPhi 3:22). Chúa chúng ta giống như Mên-chi-xê-đéc, Vua của sự Công Bình và Vua của sự Bình An (Sa 14:17-19 He 7:2).


Một trong những chức vụ của Ngài trên thiên đàng là ban quyền năng để dân sự Ngài có thể làm thành ý muốn của Ngài (He 13:21). Thật thích hợp là Phúc Âm của người Tôi Tớ cần phải kết thúc với sự nhắc đến công tác này, y như thật thích hợp đối với Ma-thi-ơ, Phúc Âm của Vị Vua, khi kết thúc với sự nhắc đến thẩm quyền lớn lao của Ngài. Bởi Thánh Linh Ngài, Chúa mong muốn hành động trong chúng ta (Phi 2:12-13), với chúng ta (Mac 16:20), và vì cớ chúng ta (Ro 8:28).


Các sứ-đồ và các đấng tiên tri đã lập nền cho Hội thánh (Eph 2:20), vì thế công tác của họ đã hoàn tất và các dấu lạ của chức vụ sứ đồ đã ngưng. Nhưng Chúa vẫn không ngừng hành động, và Ngài vẫn đang hành động trong và qua dân sự Ngài để cứu một thế giới đang hư mất. Chúa Giê-xu người Tôi Tớ - người Con của Ngài đã về trời, nhưng Ngài vẫn còn dân sự Ngài trên đất này là những người có thể trở nên những tôi tớ của Ngài, nếu như họ muốn.

Thật là một đặc ân được có Chúa đang hành động với chúng ta!


Chúng ta có một cơ hội và nghĩa vụ lớn lao biết bao được đem Phúc-Âm đến cho toàn thế giới!

“Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, nhưng để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mac 10:45).

Bạn đang hầu việc – hay bạn đang mong đợi người khác hầu việc mình?



bottom of page