top of page

MA-THI-Ơ 1

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Phúc-Âm



1. VỊ VUA RA ĐỜI (Mat 1:1-2:23)


Nếu...

...một người bỗng nhiên xuất hiện và tuyên bố ông ta là vua, lập tức thiên hạ sẽ đòi hỏi bằng chứng. Quá trình bản thân như thế nào? Ai tỏ lòng kính trọng ông ta? Ông ta có thể đưa ra những minh chứng nào? Dự kiến trước những câu hỏi quan trọng này, Ma-thi-ơ đã mở đầu sách ông ta bằng câu chuyện tường thuật cẩn thận về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu Christ và các biến cố đi kèm với sự ra đời của Chúa. Ma-thi-ơ đưa ra 4 sự kiện nói về Vị Vua.


1. Huyết thống của Nhà Vua (Mat 1:1-25)

Bởi vì thành viên của hoàng gia tuỳ thuộc vào huyết thống, cho nên đối với Chúa Giê-xu xác lập quyền của Ngài trên ngôi vua Đa-vít thật là quan trọng. Ma-thi-ơ công bố nguồn gốc huyết thống của Ngài Mat 1:1-17 (cũng như nguồn gốc thần tánh của Ngài Mat 1:18-25).


Nguồn gốc nhân tánh của Ngài (Mat 1:1-17).

Đối với Người Do-thái bảng gia phả rất quan trọng, vì nếu không có gia phả họ không thể nào xác nhận tư cách thành viên trong chi phái tông tộc của mình hoặc quyền thừa kế tài sản.Bất cứ ai tuyên bố là “Con cháu Vua Đa-vít” phải chứng minh cho được điều đó.Nhìn chung người ta kết luận rằng Ma-thi-ơ công bố cây phả hệ của Chúa thông qua người cha nuôi Giô-sép, trong khi đó Lu-ca công bố dòng dõi của Ma-ri (Lu 3:23).


Nhiều người đọc Thánh Kinh bỏ qua danh sách tên tổ phụ (và trong một số trường hợp các tên ấy không thể phát âm được). Những “danh sách tên họ” này là phần quan yếu của sách Phúc-Âm. Nó cho thấy rằng Chúa Giê-xu Christ là một phần của lịch sử tất cả lịch sử Do-thái đều chuẩn bị dọn đường cho sự giáng sinh của Ngài.Trong sự quan phòng của Ngài, Đức Chúa Trời đã tể trị để hoàn thành mục đích cao cả của Ngài trong kế hoạch đưa con Ngài xuống thế gian.


Gia phả này cũng minh hoạ cho thấy ân điển kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Tìm thấy tên họ của phụ nữ trong bản gia phả của người Do Thái là điều bất thường hơn hết, bởi vì tên họ và sự thừa kế đến từ những người cha. Nhưng trong bảng danh sách phả hệ này chúng ta thấy có nhắc đến 4 phụ nữ trong lịch sử Cựu Ước: Ta-ma (Mat 1:3), Ra-háp (Ru 1:5), và Bát-sê-ba “vợ của U-ri” (Ru 1:6).


Rõ ràng Ma-thi-ơ có lược bỏ một số tên trong bảng gia phả này. Có lẽ ông ta làm điều này để cung cấp một bản tóm tắt có tính hệ thống về 3 giai đoạn trong lịch sử dân Y-sơ-ra-ên, mội giai đoạn gồm có 14 đời. Giá trị bằng số của các mẫu tự Hy-bá-lai trong chữ “Đa-vít”, là 14. Có thể Ma-thi-ơ dùng phương pháp này như một tác động phụ trợ trí nhớ để giúp người đọc nhớ được danh sách khó nhớ này.


Nhưng có nhiều người Do-thái có thể truy nguyên gốc tích gia đình của họ đến đời vua Đa-vít. Để có thể gọi Chúa Giê-xu Christ là con vua Đa-vít, người kế thừa ngôi Đa-vít thì phổ hệ loài người không chưa đủ. Đây là lý do tại sao nguồn gốc thần tánh rất quan trọng.


Nguồn gốc thần tánh của Ngài (Ru 1:18-25).

Mat 1:16,18 nói rõ ràng sự giáng sinh của Chúa Giê-xu Christ khác hẳn với bất kỳ sự ra đời nào của con trai Do Thái khác được liệt kê trong gia phả. Ma-thi-ơ chỉ rõ rằng Giô-sép không “sinh ra” Chúa Giê-xu Christ. Đúng hơn, Giô-sép là “chồng của Ma-ri”người đã sanh ra Chúa Giê-xu, được gọi là Đấng Christ. Chúa Giê-xu bởi người mẹ phần xác sinh ra mà không cần đến người cha phần xác. Điều này được gọi là giáo lý về sự giáng sinh bởi nữ đồng trinh.


Mọi em bé chào đời trên thế giới đều là một tạo vật hoàn toàn mới. Nhưng Chúa Giê-xu Christ, là Đức Chúa Trời bất biến (Gi 1:1,14), Ngài hiện hữu trước Ma-ri, Giô-sép hoặc bất kỳ tổ tiên nào của Ngài về phần xác. Nếu Chúa Giê-xu Christ được mang thai theo công lệ loài người và được sinh ra giống như bất kỳ em bé nào khác, thì Ngài không thể là Đức Chúa Trời được. Việc Ngài đến thế gian thông qua người mẹ phần xác đối với Ngài là điều cần thiết, nhưng không bởi do một người cha phần xác sinh ra. Bởi phép lạ của Đức Thánh Linh, Chúa Giê-xu đã được hoài thai trong lòng trinh nữ Ma-ri (Lu 1:26-38)


Một số người đã nêu lên thắc mắc có lẽ Ma-ri không phải là trinh nữ. Họ nói rằng trong Mat 1:23 nên dịch là “người phụ nữ trẻ”. Nhưng từ ngữ đồng trinh ở trong câu này luôn luôn có nghĩa như vậy và không thể nào dịch là “người phụ nữ trẻ”được.


Cả Ma-ri và Giô-sép đều thuộc về gia đình của Vua Đa-vít. Các lời tiên tri Cựu-ước cho biết rằng Đấng Mê-si-a sẽ do một người nữ sinh ra (Sa 3:15), thuộc dòng giống Áp-ra-ham (Sa 22:18) qua chi phái Giu-đa (Sa 49:10) và ở trong gia đình của Đa-vít (IISa 7:12-13). Bảng gia phả của Ma-thi-ơ truy ra dòng dõi thông qua Sa-lô-môn, trong khi Lu-ca lại thông qua Na-than, một người con trai khác của Đa-vít. Thật đáng cho chúng ta lưu ý Chúa Giê-xu Christ là người Do-thái duy nhất còn sống có thể thực sự chứng minh cho lời tuyên bố của Ngài về quyền thừa kế ngôi Vua Đa-vít! Tất cả các hồ sơ ghi chép khác đều bị phá huỷ khi đế quốc La-mã đánh chiếm Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sau Chúa.


Đối với người Do-thái vào thời đó, lễ hứa hôn (đính hôn) tương đương với lễ thành hôn - ngoại trừ người nam và người nữ không sống chung với nhau. Họ được gọi là “chồng và vợ”, và lúc kết thúc giai đoạn hứa hôn, việc cưới xin được hoàn tất.Nếu như người phụ nữ đã hứa hôn có thai, nàng được xem như đã phạm tội ngoại tình (Phu 22:13-21). Nhưng Giô-sép không trách phạt hoặc li dị Ma-ri khi chàng khám phá ra rằng Ma-ri đang có thai, vì Đức Chúa Trời đã cho chàng biết sự thật. Tất cả đều ứng nghiệm lời tiên tri Es 7:14.


Trước khi đi qua phần quan trọng này, chúng ta phải tra xem 3 danh xưng được chỉ định cho Con Đức Chúa Trời. Danh xưng Giê-xu có nghĩa là “Đấng Cứu Rỗi” và xuất xứ từ tên gọi theo tiếng Hê-bơ-rơ, Giô-sua ("Giê-hô-va là Sự Cứu Rỗi"). Có nhiều bé trai Do-thái mang tên Giô-sua (hoặc, theo tiếng Hy-lạp, Giê-xu)nhưng con trai Ma-ri sinh ra được gọi là “Chúa Giê-xu Christ”. Từ ngữ Christ (Cứu Thế) có nghĩa “được xức dầu” trong tiếng Hy-lạp có nghĩa tương đương là Mê-si-a. Ngài là “Chúa Giê-xu Đấng Mê-si-a”. Giê-xu là tên loài người của Ngài, Đấng Christ là tước hiệu chính thức của Ngài và Em-ma-nu-ên mô tả Ngài là ai -“Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta”. Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời. Chúng ta tìm thấy danh xưng “Em-ma-nu-ên” này trong Es 7:14 và Es 8:8.


Như vậy, Nhà Vua là một người nam Do-thái cũng là Con Thánh của Đức Chúa Trời.Nhưng, có ai đã thừa nhận vương quyền của Ngài không? Vâng, nhà chiêm tinh từ phương Đông đến và thờ lạy Ngài.


2. Tôn thờ Nhà Vua (Mat 2:1-12)

Chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta biết rất ít về những con người này. Từ ngữ được dịch “những người thông thái” (chiêm tinh) nói đến một nhóm học giả nghiên cứu các vì sao. Tước hiệu của họ cho thấy họ có liên hệ đến ma thuật, nhưng có thể họ giống các nhà chiêm tinh hơn. Tuy nhiên, sự có mặt của họ trong Kinh Thánh không có nghĩa là Thiên Chúa tán thành cho thuật chiêm tinh.


Đức Chúa Trời ban cho họ một dấu hiệu đặc biệt, một ngôi sao kỳ diệu báo tin cho họ biết Vị Vua mới ra đời. Ngôi sao lạ dẫn họ đến Giê-ru-sa-lem nơi Lời Đức Chúa Trời đã phán họ rằng Vị Vua sẽ được sinh tại Bết-lê-hem. Họ đến Bết-lê-hem, và tại đó họ thờ lạy Con Trẻ Đấng Christ.


Chúng ta không biết có bao nhiêu nhà thông thái. Do 3 của lễ được nêu trong Mat 2:11, một số người đã cho rằng có 3 vị vua từ Đông phương, dầu vậy điều này không có cơ sở chắc chắn. Nhưng khi đoàn người của họ đến Giê-ru-sa-lem, họ có đông đủ người để gây bối rối cho toàn thành phố.


Bạn hãy nhớ rằng những người thông thái này là dân ngoại bang, Từ ban đầu, Chúa Giê-xu đến để làm “Cứu Chúa của thế gian” (Gi 4:42). Các nhà thông thái này cũng là những người giàu có, và là những học giả - những nhà khoa học. Không có nhà trí thức nào đi theo ánh sáng Đức Chúa Trời ban cho lại bỏ lỡ dịp tiện thờ lạy nơi chân Chúa Giê-xu. Trong Chúa Giê-xu Christ “đã giấu kín mọi sự quí báu về khôn ngoan thông sáng” (Co 2:3). Trong Ngài hiện hữu “sự đầy dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời” (Co 2:9).


Các nhà thông thái đang tìm Vị Vua mới ra đời, nhưng vua Hê-rốt sợ hãi Vị Vua ấy và muốn tiêu diệt Ngài. Đây là Hê-rốt đại đế, được Thượng viện La-mã xưng vương do ảnh hưởng của Mark Antony. Hê-rốt là một con người độc ác và gian trá, ông không cho phép một ai, ngay cả người trong gia đình, can thiệp vào việc cai trị hoặc cản ngăn ông ta thoả mãn những ham muốn xấu xa. Là một tên giết người tàn bạo, ông ta đã sát hại vợ và hai anh rể của mình vì nghi ngờ họ có mưu làm phản. Ít nhất ông ta đã cưới vợ chín lần để thoả mãn dục vọng của mình và củng cố quyền lực chính trị của mình.


Thật chẳng ngạc nhiên gì khi Hê-rốt tìm cách giết Chúa Giê-xu, vì Hê-rốt muốn một mình mang tước vị “Vua dân Giu-đa”. Nhưng còn có lý do khác. Hê-rốt không phải là người Do Thái theo huyết thống thực sự ông ta là một người Ê-đôm, con cháu của Ê-sau. Đây là bức tranh của sự tranh giành xưa kia giữa Ê-sau và Gia-cốp xảy ra ngay trước khi cả hai chào đời (Sa 25:19-34). Đó là sự thuộc về thiêng liêng đối đầu với sự thuộc về xác thịt, thần linh đối nghịch với phàm tục.


Các nhà thông thái đang tìm kiếm Vua Hê-rốt đang chống lại Ngài các thầy tế lễ Do-thái coi khinh Ngài. Những thầy tế lễ này biết Kinh Thánh và chỉ cho người khác tìm đến Đấng Christ, nhưng chính họ không đến thờ lạy Ngài. Họ đã trích dẫn lời tiên tri Mi 5:2 nhưng không vâng theo. Họ chỉ ở cách Con Đức Chúa Trời có 5 dặm, nhưng họ không đến gặp Ngài. Những người ngoại bang tìm và thấy Ngài, nhưng người Do-thái lại không.


Câu 9 của chương 2 cho chúng ta thấy ngôi sao không hiện ra luôn luôn cho các nhà thông thái. Khi họ bắt đầu hướng đến Bết-lê-hem, họ thấy ngôi sao xuất hiện trở lại và ngôi sao dẫn họ đến nhà Chúa Giê-xu trú ngụ. Lúc bấy giờ, Giô-sép đã dời Ma-ri và con trẻ đi khỏi nơi tạm trú lúc Đức Chúa Giê-xu giáng sinh Lu 2:7). Cảnh tượng máng cỏ kết hợp với các gã chăn chiên và mấy thầy thông thái theo truyền thống lâu nay là không có thật trong Thánh Kinh vì các nhà thông thái đến thờ lạy Chúa rất lâu về sau.


Ma-thi-ơ dẫn chứng lời tiên tri thứ hai đã ứng nghiệm để minh chứng rằng Chúa Giê-xu Christ là Vua (Mat 2:5). Đã ứng nghiệm lời tiên tri về cách Ngài sinh ra và nơi chốn Ngài chào đời. Bết-lê-hem có nghĩa là “nhà bánh mì”, và đây là nơi “Bánh Hằng Sống” đến thế gian (Gi 6:48). Bết-lê-hem trong Cựu-ước có liên hệ với Đa-vít là kiểu mẫu của Chúa Giê-xu Christ trong sự đau khổ và vinh quang của Ngài.


3. Sự chống nghịch Nhà Vua (Mat 2:13-18)

'Một người' được công nhận không chỉ do bạn bè của anh ta, nhưng còn từ phía kẻ thù anh ta nữa. Hê-rốt giả vờ rằng ông ta muốn thờ lạy Vua mới sinh ra (Mat 2:8), trong khi thực sự ông ta muốn giết hại Ngài. Đức Chúa Trời báo cho Giô-sép đem Con Trẻ và Ma-ri lánh nạn qua Ai-cập. Ai-cập là nước ở kề bên. Có nhiều người Do-thái sinh sống ở đó, và các của dâng do các nhà thông thái mang đến sẽ là ngân khoản để chi trả cho việc đi lại và sinh sống tại Ai-cập. Nhưng cũng có lời tiên tri khác được ứng nghiệm, Os 11:1: “Ta gọi Con trai ta ra khỏi xứ Ai-cập”.


Hê-rốt tức giận là bằng chứng cho lòng kiêu ngạo của ông ấy ông ta không thể chấp nhận bất kỳ ai vượt trội hơn ông ta, nhất là mấy nhà thông thái ngoại bang. Điều này khiến ông ta giết hại các bé trai từ hai tuổi trở xuống tại thành Bết-lê-hem.Chúng ta không phải tưởng tượng có hàng trăm bé trai bị giết, vì không có nhiều bé trai ở lứa tuổi ấy trong một ngôi làng nhỏ như Bết-lê-hem. Ngay cả ngày hôm nay cũng chỉ có khoảng 20.000 người sinh sống tại đó. Có lẽ không hơn 20 trẻ em đã bị giết. Nhưng đương nhiên một đã là quá nhiều rồi.


Ở đây Ma-thi-ơ đưa ra đề tài thù địch, đề tài mà ông xoay quanh suốt cả sách. Ma quỉ là đứa nói dối và kẻ giết người (Gi 8:44), như vua Hê-rốt. Ông ta nói dối với các nhà thông thái và giết hại các trẻ sơ sinh. Nhưng tội ác giết người khủng khiếp này cũng là điều ứng nghiệm lời tiên tri chép trong Gie 31:15. Để hiểu được sự ứng nghiệm này, chúng ta phải ôn lại lịch sử Do-thái.


Bết-lê-hem được đề cập đến lần đầu trong Kinh Thánh có liên quan đến sự qua đời của người vợ yêu quí của Gia-cốp, bà Ra-chên (Sa 35:16-20). Ra-chên đã chết khi sinh đứa con trai mà bà đặt tên là Bên-ô-ni, “con trai của sự đau đớn tôi”, Gia-cốp đặt tên lại cho con trai mình là Bên-gia-min, "con trai tay hữu”. Cả hai tên này có liên hệ đến Chúa Giê-xu Christ, vì Ngài là “người từng trải sự buồn bực, và biết sư đau ốm” (Es 53:3), và hiện giờ Ngài là Con Đức Chúa Trời ngồi bên hữu Ngai Ngài (He 1:3 Cong 5:31). Gia-cốp đã dùng một cây trụ để đánh dấu ngôi mộ của Ra-chên nằm ở gần Bết-lê-hem.


Lời tiên tri Giê-rê-mi đã báo khoảng 600 năm trước khi Đấng Christ giáng sinh. Lời tiên tri phát sinh lúc thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm. Một số phu tù bị lưu đày đến Ra-ma trong đất Bên-gia-min, gần thành Giê-ru-sa-lem và điều này nhắc tiên tri Giê-rê-mi nhớ lại nỗi đau buồn của Gia-cốp khi Ra-chên qua đời. Tuy nhiên, bây giờ chính Ra-chên đang khóc. Ra-chên đại diện cho các bà mẹ Y-sơ-ra-ên đang khóc khi họ nhìn thấy các con trai họ đang bị bắt làm phu tù.

Dường như Ra-chên đã nói: “Tôi đã bỏ mạng sống để sinh một con trai, và bây giờ hậu tự nó không còn nữa.”


Gia-cốp nhìn thấy Bết-lê-hem như là nơi chết chóc, nhưng sự giáng sinh của Chúa Giê-xu đã khiến nơi ấy thành chốn có sự sống. Bởi vì khi Ngài đến, Ngài sẽ đem sự cứu rỗi đến cho dân Y-sơ-ra-ên và trong tương lai, Ngài sẽ thiết lập ngôi nước Ngài trên ngai Đa-vít. Y-sơ-ra-ên “Con trai của sự đau đớn tôi” một ngày nọ sẽ trở thành “con trai tay hữu”. Tiên tri Giê-rê-mi báo lời hứa của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên rằng họ sẽ trở về lại trong đất của họ (Gie 31:16-17), và lời hứa này đã ứng nghiệm. Nhưng qua tiên tri Ngài, Đức Chúa Trời đã phán lời hứa lớn hơn rằng dân Y-sơ-ra-ên sẽ được tập họp trở lại trong tương lai và ngôi nước nhà Y-sơ-ra-ên được thiết lập (Gie 31:27). Lời phán hứa này cũng sẽ được ứng nghiệm.


Ngày hôm nay rất ít người nghĩ về Bết-lê-hem là nơi chôn cất người ta nhớ về Bết-lê-hem là nơi Chúa Giê-xu Christ đã hạ sanh. Và do Ngài đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại, vì thế chúng ta có một tương lai tươi sáng phía trước chúng ta. Chúng ta sẽ sống đời đời với Ngài trong thành vinh hiển nơi không còn bóng dáng của sự chết và chốn không còn lệ rơi.


4. Sự khiêm nhu của Nhà Vua (Mat 2:19-23)

Hê-rốt băng hà năm thứ 4 trước công nguyên, điều này có nghĩa là Chúa Giê-xu sinh ra vào thời gian nào đó giữa năm thứ 6 và năm thứ 5 trước công nguyên. Không thể nào không chú ý đến sự tương tự giữa Mat 2:20 và Xu 4:19, lời kêu gọi Môi-se.

Là Con của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu ở tại Ai-cập và được gọi trở về xứ Y-sơ-ra-ên. Môi-se ra khỏi Ai-cập, trốn tránh để cứu mạng sống mình, và Đức Chúa Trời kêu gọi ông quay trở lại Ai-cập. Nhưng trong cả hai trường hợp, chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời được thành tựu. Phải có can đảm Giô-sép mới có thể đem gia đình rời khỏi Ai-cập. Với Môi-se cũng phải có lòng can đảm để trở lại Ai-cập.


Archêlaus là một trong những con trai của Hê-rốt, và Hê-rốt đã định truyền ngôi vua cho ông ta. Tuy vậy, dân Do-thái khám phá ra rằng, mặc dù ông ta có nhiều lời hứa tốt đẹp, Archêlaus vẫn là một con người độc ác như cha của mình. Vì vậy họ cử một toán đại biểu đến Rô-ma để phản đối việc phong vương cho ông ta. Hoàng đế Augustus Sê-sa đồng ý với dân Do-thái và cử Archêlaus làm tổng trấn cai trị trên nửa vương quốc của cha ông. (Có thể Chúa Giê-xu đã ghi nhớ trong trí một chi tiết nhỏ này của lịch sử Do-thái khi Ngài phán lời thí dụ về các nén bạc trong Lu 19:11-27).


Toàn bộ tình tiết trong câu chuyện là một gương mẫu tốt đẹp về cách Đức Chúa Trời dẫn dắt các con cái của Ngài. Giô-sép biết rằng ông và gia đình sống dưới sự cai trị của vua Archêlaus không có an toàn gì hơn thời gian họ đã sống dưới sự cai trị của Hê-rốt đại đế. Rất có thể khi họ đang đi hướng trở về xứ Bết-lê-hem thì nghe vua Archêlaus đang nối ngôi trị vì. Dĩ nhiên, Giô-sép và Ma-ri cầu nguyện, chờ đợi và tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời. Lương tâm bảo chúng ta dấn thân đức tin bảo chúng ta chờ đợi. Đến kỳ thuận tiện, Đức Chúa Trời phán với Giô-sép trong giấc chiêm bao, và ông ta đưa vợ cùng Con Trai nàng về Na-xa-rét, là nơi quê hương của họ từ lâu (Mat 2:19-20).


Nhưng ngay cả điều này cũng ứng nghiệm lời tiên tri! Một lần nữa, Ma-thi-ơ chỉ ra rằng từng chi tiết trong cuộc đời của Chúa Giê-xu đã được tiên báo trong Thánh Kinh. Thật là quan trọng khi lưu ý rằng Ma-thi-ơ đã không ám chỉ đến chỉ một tiên tri duy nhất trong Mat 2:23, nhưng thay vào đó Ma-thi-ơ nói ”....vậy là ứng nghiệm lời mấy đấng tiên tri đã nói rằng...” (số nhiều)


Chúng ta sẽ không tìm thấy bất cứ lời tiên tri cụ thể nào gọi Chúa Giê-xu là một “người Na-xa-rét”. Thuật ngữ Na-xa-rét là một điều sỉ nhục: “Há có vật gì tốt ra từ Na-xa-rét được sao?” (Gi 1:46). Trong nhiều lời tiên tri Cựu-ước, có nhắc đến cuộc đời thấp hèn của Đấng Mê-si-a bị chối bỏ và có thể đây là điều Ma-thi-ơ ghi nhớ trong trí (Thi 22:1-31 Es 53:2-3,8). Thuật ngữ “Na-xa-rét”được áp dụng cho cả Chúa Giê-xu lẫn người theo Ngài Cong 24:5) và Ngài thường được gọi “Giê-xu người Na-xa-rét” (Mat 21:11 Mac 14:67 Gi 18:5,7).


Nhưng có lẽ Ma-thi-ơ, bởi Đức Thánh Linh hướng dẫn, đã nhìn thấy mối liên hệ thiêng liêng giữa danh xưng “Na-xa-rét” và từ ngữ Hy-bá-lai netzer, có ý nghĩa là “một nhành hoặc chồi”. Một vài đấng tiên tri dùng tước vị này cho Chúa Giê-xu (Es 4:2 Es 11:1 Gie 23:5 Gie 33:15 Xa 3:8 Xa 6:12-13).


Chúa chúng ta lớn lên tại Na-xa-rét và gắn bó với thành phố ấy. Thực ra, kẻ thù của Ngài nghĩ rằng Ngài đã sinh ra tại đó vì họ nói rằng Ngài xuất thân từ xứ Ga-li-lê (Gi 7:50-52). Nếu như họ tra xem các hồ sơ ghi chép ở đền thờ, họ sẽ thấy Ngài đã sinh ra tại Bết-lê-hem.


Ai đã từng nghe kể về một vị vua sinh ra trong một làng thấp hèn và lớn lên ở một thành phố bị khinh miệt? Sự khiêm nhu của Vị Vua là điều chắc chắn phải được kính phục và học đòi theo (Phi 2:1-13).



 


2. CÁC LỜI CHỨNG VỀ VUA (Mat 3:1-4:25)


Khoảng thời gian 30 năm trôi qua giữa chương 2 và 3 của sách Ma-thi-ơ, suốt thời gian ấy Chúa Giê-xu sống ở Na-xa-rét và làm nghề thợ mộc (Mat 13:55 Mac 6:3). Nhưng đã đến lúc Ngài bắt đầu thi hành chức vụ giảng đạo của Ngài và chức vụ ấy sẽ hoàn tất tại Thập tự giá. Ngài vẫn còn đủ tư cách làm Vị Vua không? Điều gì đã xảy ra làm cho Ngài không còn đủ tư cách làm Vua chăng? Trong các chương 3 và 4, Ma-thi-ơ tập họp lời chứng của 5 nhân chứng biện minh cho nhân tính của Chúa Giê-xu Christ, Ngài chính là Con Đức Chúa Trời và là Vua.


1. Giăng Báp-tít (Mat 3:1-15)

Trải qua trên 400 năm, dân Do-thái không có lời của đấng tiên tri nào. Giăng đã xuất hiện và cơn phục hưng lớn xảy ra. Bạn hãy xem xét 4 sự kiện về Giăng.


Sứ điệp của Người (Mat 3:1-2,7-10). Lời rao giảng của Giăng tập trung vào sự ăn năn và Nước Đức Chúa Trời. Từ ngữ ăn năn có nghĩa là “thay đổi suy nghĩ và làm theo sự thay đổi ấy”. Giăng không bằng lòng với sự hối hận hoặc ăn năn Giăng muốn “Kết quả xứng đáng với sự ăn năn” (Mat 3:8). Một tấm lòng một cuộc đời được biến đổi phải có bằng chứng cụ thể.


Dân chúng đủ mọi hạng người đến nghe Giăng rao giảng và chứng kiến Giăng làm báp-tem. Nhiều người thâu thuế và kẻ xấu nết đến nghe với lòng khiêm nhường thành thật Mat 21:31-32), nhưng các nhà lãnh đạo giáo hội từ chối không chịu đầu phục. Họ nghĩ rằng họ tốt đủ để làm hài lòng Đức Chúa Trời nhưng Giăng gọi họ là “dòng dõi rắn lục”. Chúa Giê-xu đã diễn đạt như vậy khi Ngài đàm luận với đám đông tự cho mình là công bình (Mat 12:34 Mat 23:33 Gi 8:44).


Phái Pha-ri-si là những người theo truyền thống trong thời của họ, trong khi đó những người theo phái Sa-đu-sê thì tự do hơn (Cong 23:6-9). Những người Sa-đu-sê giàu có kiểm soát “việc buôn bán tại đền thờ” mà Chúa Giê-xu đã dẹp sạch. Hai nhóm người này thường xuyên chống đối nhau để dành quyền cai trị đất nước, nhưng đến lúc chống đối Chúa Giê-xu, người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê lại hiệp lực.


Sứ điệp của Giăng là một lời phán xét. Dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội và cần phải ăn năn, và các nhà lãnh đạo giáo hội phải làm gương trước. Cái rìu đang để kề gốc cây và nếu như cây (dân Y-sơ-ra-ên) không sanh trái tốt, nó sẽ bị chặt đi (Lu 13:6-10). Nếu như dân Y-sơ-ra-ên ăn năn, thì con đường đã được dọn sẵn để đón Đấng Mê-si-a đến.


Uy quyền của Người (Mat 3:3-4) Giăng đã làm ứng nghiệm lời tiên tri chép trong Es 40:3. Về phương diện thiêng liêng, Giăng là “Ê-li đấng tiên tri phải đến” vì người đến trong tâm thần và quyền phép của Ê-li” (Lu 1:16-17). Thậm chí Giăng ăn mặc giống như Ê-li và rao giảng cùng một sứ điệp của sự phán xét (IIVua 1:8). Giăng là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước (Lu 16:16) và là người cao trọng hơn hết thảy các vị tiên tri trong Cựu Ước (Mat 11:7-15 Mat 17:9-13).


Phép báp-tem của Người (Mat 3:5-6,11-12). Dân Do Thái làm báp-tem cho những người ngoại bang trở lại đạo, nhưng Giăng đang làm báp-tem cho người Do Thái. Phép báp-tem của ông bởi quyền phép từ trời (Mat 21:23-27)đó không phải là điều do Giăng đặt ra hoặc vay mượn. Đó là phép báp-tem của sự ăn năn, trông đợi sự đến của Đấng Mê-si-a (Cong 19:1-7). Phép báp-tem của Giăng hoàn thành hai mục đích: Chuẩn bị dân Y-sơ-ra-ên cho Đấng Christ và giới thiệu Cứu Chúa Giê-xu cho dân tộc Y-sơ-ra-ên (Gi 1:31).


Nhưng Giăng đề cập đến hai phép báp-tem khác: phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh và phép báp-tem bằng lửa (Mat 3:11). Phép báp-tem bằng Đức Thánh Linh xảy ra trong ngày Đức Thánh Linh giáng lâm (Cong 1:5), và hãy lưu ý Chúa Giê-xu không nói gì về lửa cả). Ngày nay, bất cứ khi nào một tội nhân tin nhận Đấng Christ, người ấy được sanh lại và lập tức được báp-tem bởi Đức Thánh Linh vào trong thân thể Đấng Christ, là Hội Thánh Ngài (ICo 12:12-13). Ngược lại, phép báp-tem bằng lửa ám chỉ đến sự phán xét ngày sau, như Ma-thi-ơ giải thích trong Mat 3:12.


Sự vâng lời của Người (Mat 3:13-15). Không phải Chúa Giê-xu nhận phép báp-tem vì Ngài là một tội nhân ăn năn. Ngay cả Giăng có ngăn Chúa Giê-xu, nhưng Chúa Giê-xu biết điều đó đẹp ý Cha Ngài. Tại sao Giê-xu nhận lãnh báp-tem? Thứ nhất, Ngài nhận báp-tem để chấp nhận chức vụ của Giăng. Thứ hai, Ngài tự gắn bó mình với bọn thâu thuế và người xấu nết, cũng vì chính những người ấy mà Ngài đã đến để cứu rỗi họ. Nhưng điều chính yếu là phép báp-tem Ngài nhận vẽ ra một bức tranh về phép báp-tem của Ngài trong tương lai trên thập tự giá (Mat 20:22 Lu 12:50) lúc tất cả “các luồng sóng và nước lớn” trong cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời sẽ chìm ngập lấy Ngài (Thi 42:7 Gion 2:3).


Vì vậy, Giăng Báp-tít đã làm chứng Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời và cũng là Chiên Con của Đức Chúa Trời (Gi 1:29). Bởi lời chứng của Giăng, nhiều tội nhân đã tin nhận Chúa Giê-xu Christ (Gi 10:39,42).


2. Đức Thánh Linh (Mat 3:16)

Đức Thánh Linh ngự xuống như chim bồ câu giúp Giăng nhận ra Chúa Giê-xu (Gi 1:31-34) và cũng bảo đảm với Chúa Giê-xu khi Ngài bắt đầu thi hành chức vụ rằng thánh vụ của Chúa Thánh Linh sẽ luôn luôn thuộc về Ngài (Gi 3:34). Chim bồ câu là một biểu tượng đẹp đẽ của Thánh Linh của Đức Chúa Trời trong sự thánh khiết và sứ mạng hoà bình. Chúng ta thấy chim bồ câu trong Kinh Thánh lần đầu được chép trong Sa 8:6-11. Nô-ê đã thả 2 con chim, một con quạ và một bồ câu nhưng chỉ có chim bồ câu bay trở về. Con quạ đại diện (tiêu biểu) cho xác thịt có nhiều thức ăn cho quạ ở bên ngoài tàu. Những chim bồ câu không tự làm ô uế bởi các xác chết, vì vậy chim bay trở về tàu. Bồ câu được thả ra lần thứ hai, nó bay trở về mang theo một nhành ô-li-ve, biểu tượng của sự hoà bình. Lần thứ ba, chim bồ câu không trở về nữa.


Có lẽ có một bức tranh khác nữa ở đây. Tên Giô-na có nghĩa là chim bồ câu và Giô-na cũng kinh nghiệm phép báp-tem Chúa Giê-xu dùng câu chuyện Giô-na để nói về chính Ngài trong sự chết, sự chôn và sự sống lại (Mat 12:38-40). Giô-na đã được sai đến với dân ngoại, và Chúa Giê-xu sẽ thi hành chức vụ của Ngài cho dân ngoại.


3. Đức Chúa Cha (Mat 3:17)

Đức Chúa Cha phán từ trời trong 3 dịp đặc biệt: lúc Chúa Giê-xu nhận phép báp-tem, tại trên núi hoá hình (Mat 17:3), và khi Đấng Christ gần thọ hình trên thập tự giá (Gi 12:27-30). Trong quá khứ, Đức Chúa Trời đã phán với Con của Ngài ngày nay Đức Chúa Trời đang phán dạy thông qua Con Ngài (He 1:1-2).


Tiếng phán từ trời của Đức Chúa Cha giống như sự lặp lại của Thi 2:7 - “Chúa phán cùng ta rằng, 'Người là Con Ta Ngày nay ta đã sanh Người' Cong 13:22 cho chúng ta biết rằng “sự sinh ra” này ám chỉ đến sự sống lại từ trong kẻ chết của Ngài, và không nói đến sự giáng sinh của Ngài tại Bết-lê-hem. Lời phán này phù hợp một cách hoàn hảo với từng trải báp-tem trong sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Giê-xu.


Nhưng lời phán của Đức Chúa Cha cũng gắn liền Chúa Giê-xu Christ với “Đầy tớ chịu khổ” được tiên báo trong Es 40:1-53:12. Trong Mat 12:18, Ma-thi-ơ đã trích dẫn từ Es 42:1-3, trong đó Đấng Mê-si-a - Tôi tớ được gọi là “Người mà ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.” Người Tôi Tớ mà tiên tri Ê-sai mô tả là người khiêm nhường, bị chối bỏ, chịu khốn khổ và chết và được chứng kiến sống lại trong đắc thắng. Trong lúc chúng ta nhìn thấy đất nước Y-sơ-ra-ên mờ nhạt qua một số “bài ca về người Đầy Tớ”, thì chính Đấng Mê-si-a là Chúa Giê-xu Christ được bày tỏ rõ nét nhất qua những bài ca ấy. Hơn nữa, chúng ta nhận ra được mối giao thông với Đấng Christ qua sự chết, sự chôn và sự sống lại.


Rốt lại, Lời phán của Đức Chúa Cha xác nhận mọi việc Chúa Giê-xu đã làm cho đến lúc ấy. “Những năm sống ẩn mình tại Na-xa-rét” của Ngài là thời gian mà Cha Ngài lấy làm đẹp lòng. Hiển nhiên, lời khen ngợi của Đức Chúa Cha là sự khích lệ lớn lao đối với Đức Chúa Con khi Ngài bắt đầu thi hành chức vụ của Ngài.


4. Sa-tan (Mat 4:1-11)

Từ từng trải phước hạnh thánh và cao cả Ngài nhận lãnh tại sông Giô-đanh, Chúa Giê-xu được Đức Thánh Linh đưa vào đồng vắng để chịu cám dỗ. Chúa Giê-xu không chịu ma quỉ cám dỗ để Đức Chúa Cha biết được điều gì về Con Ngài, vì Đức Chúa Cha đã chấp nhận Chúa Giê-xu trong sự thánh khiết của Ngài. Đức Chúa Giê-xu chịu cám dỗ để mọi tạo vật trên trời, dưới đất, hoặc bên dưới đất thảy đều biết rằng Chúa Giê-xu Christ là Đấng Toàn Thắng. Ngài đã vạch mặt ma quỉ và mưu chước của nó, và Ngài đã đánh bại ma quỉ. Vì Ngài đắc thắng cám dỗ, chúng ta có thể đắc thắng như Ngài.


Cũng như A-đam đầu tiên đã gặp ma quỉ, vì thế A-đam sau hết đã gặp kẻ thù (ICo 15:45). A-đam đã gặp ma quỉ trong vườn phước hựu, nhưng Chúa Giê-xu đối mặt với Ma quỉ trong đồng vắng. A-đam có đủ mọi thứ nhu cầu, nhưng Chúa Giê-xu đói khát sau 40 ngày nhịn ăn. A-đam thất bại và đưa loài người chìm đắm trong tội lỗi và sự chết. Nhưng Chúa Giê-xu chiến thắng và Ngài liên tục đắc thắng ma quỉ, cuối cùng Ngài đã chiến thắng trọn vẹn trên thập tự giá (Gi 12:31 Co 2:15).


Từng trải sự cám dỗ, Chúa chúng ta đã chuẩn bị cho Ngài để làm thầy tế lễ thượng phẩm đầy cảm thông (He 2:16-18 He 4:15,16). Biết rằng Chúa Giê-xu đối diện với kẻ thù ma quỉ trong vai trò con người, chớ không phải là Con Đức Chúa Trời thật là điều quan trọng. Lời nói đầu tiên của Ngài là “Người ta sống chẳng phải bởi chỉ nhờ bánh mà thôi...” Chúng ta không được nghĩ rằng Chúa Giê-xu đã dùng quyền năng siêu nhiên để chiến thắng kẻ thù, bởi vì đó là điều ma quỉ muốn Ngài làm. Chúa Giê-xu đã dùng các nguồn thiêng liêng có dự bị sẵn cho chúng ta ngày nay, quyền năng của Đức Thánh Linh (Mat 4:1), và quyền năng của Lời Đức Chúa Trời ("Có Lời chép rằng..."). Chúa Giê-xu không để cho ma quỉ có phần gì trong bản thể của Ngài Gi 14:30), nhưng dầu sao đi nữa sự cám dỗ của Ngài là thật. Sự cám dỗ nằm trong ý muốn của Đức Chúa Trời, và Chúa Giê-xu đến để làm theo ý muốn của Cha Ngài He 10:1-19).


Cám dỗ thứ nhất (Mat 4:1-4) ma quỉ liên hệ đến tình yêu thương của Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài.” Vì Người là Con yêu dấu của Đức Chúa Trời, tại sao Cha Người không chăm nuôi Người? Tại sao Ngài bỏ Người trong đồng vắng hiu quạnh này?” Lời cám dỗ này nghe giống như lời ma quỉ đã cám dỗ Ê-va trong Sa 3:1-24. Đó là lời gợi ý khôn khéo rằng Cha của chúng ta không yêu thương chúng ta.


Nhưng cũng có lời đề nghị khác: “Người hãy dùng quyền năng siêu nhiên để thoả mãn mọi nhu cầu của Ngươi đi”, khi chúng ta đặt những nhu cầu vật chất phía trước nhu cầu tâm linh, chúng ta phạm tội. Khi chúng ta cho phép hoàn cảnh chi phối mọi hoạt động chúng ta, thay vì đi theo ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta phạm tội. Chúa Giê-xu có thể khiến đá trở nên bánh, nhưng làm vậy thì Ngài đã thực thi quyền năng độc lập với Cha Ngài, Ngài đến để phải vâng lời Cha Ngài (Gi 5:30 Gi 6:38).


Chúa trích dẫn Phu 8:3 để đánh bại ma quỉ. Nuôi mình bằng Lời Đức Chúa Trời và vâng theo lời ấy quan trọng hơn việc chu cấp thức ăn cho cơ thể. Nói tóm lại, Lời Chuá là thức ăn của chúng ta (Gi 4:32-34).


Cám dỗ thứ hai (Mat 4:5-7) lại còn tinh vi hơn. Lần này ma quỉ cũng dùng Lời của Đức Chúa Trời. Ma quỉ có ý nói rằng “Vậy Người có ý định sống nhờ lời Kinh Thánh, thế thì hãy để ta trích dẫn cho Ngươi một câu Kinh Thánh để xem Người có vâng theo không.” Ma quỉ đưa Đức Chúa Giê-xu lên nóc đền thờ, có thể ở độ cao 500 bộ phía trên thung lũng Ki-đôn (# 150,5 mét). Kế đó ma quỉ trích dẫn từ trong Thi 91:11-12 có Lời Đức Chúa Trời hứa gìn giữ những người thuộc về Ngài. “Nếu thật sự tin Kinh Thánh, hãy nhảy xuống đi! Chúng ta hãy xem thử Cha Ngươi có gìn giữ Ngươi chăng”.


Bạn hãy lưu ý cẩn thận lời đáp của Chúa chúng ta “Cũng có lời chép rằng...” (Mat 4:7). Chúng ta không bao giờ được tách một phần Kinh Thánh ra riêng, nhưng chúng ta phải luôn luôn “dùng tiếng thiêng liêng để giải bày sự thiêng liêng” (ICo 2:13). Chúng ta có thể dùng Kinh Thánh để minh chứng cho gần như tất cả mọi sự nếu chúng ta tách riêng từng câu chữ ra khỏi nội dung chính của Kinh Thánh và biến chúng thành những lời bào chữa nguỵ biện. Ma quỉ đã khôn khéo bỏ bớt cụm từ “trong các đường lối ngươi” khi nó trích dẫn Thi 91:11. Khi con cái của Đức Chúa Trời ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Cha sẽ bảo vệ người. Ngài chăm nom những ai “ở trong đường lối của Ngài”.


Chúa Giê-xu đáp lại bằng lời Kinh Thánh trong Phu 6:16: “Ngươi đừng thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi.” Chúng ta thử Đức Chúa Trời khi chúng ta tự đặt mình vào những hoàn cảnh bắt buộc Ngài thi thố phép lạ vì cớ chúng ta. Người bị bệnh tiểu đường không chịu dùng insulin rồi biện hộ. “Chúa Giê-xu sẽ săn sóc tôi” có thể người đó đang thử Chúa. Chúng ta thử Đức Chúa Trời khi chúng ta tìm cách buộc Ngài phải hành động ngược lại với Lời của Ngài. Đối với chúng ta là người tin cậy Chúa, đọc toàn bộ Kinh Thánh, suy gẫm tất cả những lời phán của Đức Chúa Trời là điều quan trọng vì tất cả Kinh Thánh đem lại ích lợi cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. (IITi 3:16-17).


Cám dỗ thứ ba (Mat 4:8-11) đưa ra cho Chúa Giê-xu con đường tắt để vào trong vương quốc của Ngài. Chúa Giê-xu biết rằng Ngài sẽ chịu khổ và chết trước khi Ngài bước vào sự vinh hiển của Ngài (Lu 24:26 IPhi 1:11 IPhi 5:1). Nếu Ngài sấp mình xuống và thờ lạy ma quỉ chỉ một lần (đây là sức mạnh của động từ trong tiếng Hy Lạp), thì Ngài có thể hưởng mọi vinh quang mà không cần phải gánh chịu đau đớn. Ma quỉ luôn luôn muốn được thờ lạy, bởi vì ma quỉ lúc nào cũng muốn làm ra mình bằng Đức Chúa Trời (Es 14:12-14). Thờ lạy vật thọ tạo thế cho Đấng Tạo Hoá là sự dối trá đang cai trị thế giới ngày nay (Ro 1:24-25).


Không có một lối tắt nào đối với ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta muốn có phần trong sự vinh hiển, chúng ta cũng phải có phần trong sự đau đớn (IPhi 5:10). Là vua của thế gian này, ma quỉ có thể cho hết thảy mọi sự trong thế gian này cho Đấng Christ (Gi 12:31 Gi 14:30). Nhưng Chúa Giê-xu không cần điều ma quỉ cho. Đức Chúa Cha đã hứa ban cho Chúa Giê-xu Vương quốc của Ngài: “Hãy cầu Ta, Ta sẽ ban cho Con các ngoại bang làm cơ nghiệp...” (Thi 2:8). Bạn sẽ tìm thấy lời hứa giống như vậy trong Thi 22:22-31, và đây là Thi-thiên nói về thập tự giá.


Chúa của chúng ta đáp lại bằng lời Kinh Thánh trong Phu 6:13: “Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ hầu việc một mình Ngài mà thôi”. Ma quỉ không nói gì về sự hầu việc, nhưng Chúa Giê-xu biết rằng bất luận điều gì chúng ta thờ, chúng ta sẽ hầu việc điều đó, Thờ phượng và hầu việc phải đi đôi với nhau.


Ma quỉ liền bỏ đi, một kẻ thù đã bị đánh bại nhưng ma quỉ không ngừng cám dỗ Chúa Giê-xu. Chúng ta có thể dịch Lu 4:13 như sau: “Và khi ma quỉ đã cám dỗ Chúa đủ cách, nó bỏ đi chờ cơ hội khác.” Qua Phi-e-rơ, Ma quỉ lại cám dỗ Chúa từ bỏ thập tự giá (Mat 16:21-23) và qua đám đông mà Ngài đã hoá bánh nuôi ăn, Ma quỉ cám dỗ Chúa Giê-xu “làm vua” (Gi 6:15). Chiến thắng một cám dỗ không bao giờ đảm bảo thoát khỏi cám dỗ kế tiếp. Có thể nói rằng mỗi lần chúng ta kinh nghiệm chiến thắng chỉ làm cho ma quỉ càng nổ lực trong sự cám dỗ hơn.


Một điểm lưu ý trong câu chuyện kể, Lu-ca đã đảo ngược thứ tự của lần cám dỗ thứ hai và thứ ba như đã ghi lại trong Phúc Âm Ma-thi-ơ. Từ ngữ “rồi sau đó” trong Mat 4:5 dường như nói lên một tiến trình. Lu-ca chỉ dùng một liên từ đơn giản “và” và không nói cho biết ông đang diễn tả một trình tự. Kết thúc lần cám dỗ thứ ba Chúa chúng ta truyền lệnh ("Hỡi quỉ Sa-tan: Ngươi hãy lui ra")là một bằng chứng cho thấy Ma-thi-ơ đã theo thứ tự lịch sử. Không có sự trái ngược bởi vì Lu-ca không khẳng định diễn tả câu chuyện theo trình tự.


Sau khi Chúa Giê-xu đắc thắng ma quỉ, Ngài sẵn sàng để bắt đầu chức vụ của Ngài.Không người nào có quyền kêu gọi người khác làm theo mệnh lệnh trong khi người đó không tự mình tuân lệnh. Chúa chúng ta đã tự chứng tỏ Ngài là Vị Vua trọn vẹn mà vương quyền của Ngài đáng cho chúng ta chiêm ngưỡng và vâng theo. Nhưng, đúng với mục đích của mình Ma-thi-ơ có thêm một lời chứng mạnh mẽ xác nhận vương quyền của Chúa Giê-xu Christ.


5. Chức vụ quyền năng của Chúa Giê-xu Chris (Mat 4:12-25)

Ma-thi-ơ đã chỉ cho chúng ta thấy từng chi tiết trong cuộc đời của Cứu Chúa chúng ta đều được điều hướng bởi Lời Đức Chúa Trời. Cần nhớ rằng giữa sự cám dỗ kết thúc và sự kiện trong Mat 4:12 là thánh vụ được mô tả trong Gi 1:19 cho đến Gi 3:36. Chúng ta không nên nghĩ rằng Giăng Báp-tít bị bỏ vào ngục ngay sau khi Chúa Giê-xu chịu cám dỗ. Ma-thi-ơ viết sách này theo tính thời sự hơn là tính thời gian.Hãy tra cứu sự hài hoà của các sách Phúc Âm để điều nghiên diễn tiến của các sự kiện.


Trong câu 16, Ma-thi-ơ trích dẫn lời tiên tri Ê-sai (Es 9:1-2) Tiên tri viết về người dân “đi” trong nơi tối tăm, nhưng lúc Ma-thi-ơ trích dẫn nội dung ấy, tình trạng lại bi đát đến nỗi dân đang ngồi chỗ tối tăm. Chúa Giê-xu Christ đã đem ánh sáng đến cho họ. Ngài đặt trung tâm hoạt động của Ngài tại thành Ca-bê-na-um trong “xứ Ga-li-lê thuộc về dân ngoại”, một lời ám chỉ khác nói đến sứ điệp của Phúc Âm được lan tràn ra khắp đất. Tại Ga-li-lê có một giống dân tạp mà trong một chừng mực nào đó bị những người Giu-đa “thật” khinh bỉ.


Chúa Giê-xu đã đem ánh sáng của Ngài đến xứ Ga-li-lê bằng cách nào? Câu 23 cho chúng ta biết: thông qua sự đau khổ, giảng Phúc Âm của Nước Đức Chúa Trời, và chữa lành mọi thứ tật bịnh trong dân. Điểm nổi bậc này được nhắc đến thường xuyên trong Phúc Âm Ma-thi-ơ, (Mat 9:35 Mat 11:45 Mat 12:15 Mat 14:34-36 Mat 15:30 Mat 19:2). Ma-thi-ơ đã khẳng định rõ ràng Chúa Giê-xu chữa lành “mọi thứ tật bịnh” (Mat 4:23). Chẳng có trường hợp nào quá khó đối với Ngài.


Kết quả của những phép lạ lạ lùng này làm cho Chúa Giê-xu nổi danh lớn, làm cho thiên hạ khắp nơi kéo nhau rất đông đến theo Ngài. Địa danh “Si-ri” nói đến một vùng ở phía bắc xứ Ga-li-lê. “Đê-ca-bô-lơ” có nghĩa là “10 thành phố” là một địa phận được hình thành bởi 10 thành phố ban đầu do các thuộc hạ của Alecxanđơ đại đế xây dựng. Xứ Đê-ca-bô-lơ nằm phía đông bắc vùng Ga-li-lê. “Bên kia sông Giô-đanh” nghĩa là miền Bê-rê, khu vực phía đông sông Giô-đanh. Tin tức đồn ra nhanh chóng, và mọi người có bạn bè hay người trong gia đình bị đau ốm tật bịnh đều đem họ đến cho Chúa Giê-xu để Ngài chữa cho họ được lành.


Ma-thi-ơ liệt kê một số “những trường hợp bệnh tật” trong Mat 4:24. “Những bịnh tật và đau đớn” có thể bao gồm hầu hết mọi thứ tật bệnh. Dĩ nhiên Chúa chúng ta thường giải cứu con người thoát khỏi sự ám hại của ma quỉ. Từ ngữ “người điên” không có liên quan tới những người bị mất trí. Hơn nữa, nó dùng để mô tả những người bị khổ sở vì chứng động kinh (Mat 17:15). “sự tê liệt” có nghĩa là “bị liệt”.


Các phép lạ chữa lành chỉ là một phần chức vụ của Ngài trong khắp xứ Ga-li-lê vì Ngài cũng dạy dỗ và rao giảng Lời của Đức Chúa Trời nữa. Chữ “ánh sáng” đã hứa trong sách tiên tri Ê-sai là Ánh sáng Lời Đức Chúa Trời, cũng như Ánh sáng của cuộc sống vẹn lành và chức vụ đầy lòng thương xót của Ngài. Từ ngữ “rao giảng”trong các câu Mat 17:17,23 có nghĩa là “ban bố một lệnh truyền”. Chúa Giê-xu tuyên bố Tin Mừng bằng uy quyền của Ngài rằng Nước Thiên đàng đã đến gần.


Cụm từ Nước thiên đàng xuất hiện 32 lần trong sách Phúc Âm Ma-thi-ơ. Cụm từ Nước Đức Chúa Trời xuất hiện 5 lần (Mat 6:33 Mat 12:28 Mat 19:24 Mat 21:31,43). Vì lý do tôn kính danh xưng thánh của Chúa, người Do Thái không dùng chữ “Đức Chúa Trời”nhưng họ thay thế bằng chữ “trời”. Người con Trai hoang đàng đã xưng tội rằng anh ta đã phạm tội “với trời”, dĩ nhiên nghĩa là anh ta phạm tội “chống nghịch lại với Đức Chúa Trời”. Ma-thi-ơ sử dụng cụm từ Nước thiên đàng nhiều chỗ trong sách Ma-thi-ơ mà những đoạn tương ứng trong sách Mác và Lu-ca lại dùng là Nước Đức Chúa Trời.


Trong Tân Ước, từ vương quốc (nước) mang ý nghĩa “luật lệ, triều chính, quyền thế”hơn là một nơi chốn hoặc một vương quốc cụ thể. Cụm từ “Nước thiên đàng” nói đến quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Các nhà lãnh đạo Do Thái muốn có một chính khách đứng lên giải phóng họ ra khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã nhưng Chúa Giê-xu đến đem quyền cai trị tâm linh cho tấm lòng con người. Điều này không chối bỏ sự thực hữu của vương quốc trong tương lai như chúng ta đã biết.


Nhưng Đức Chúa Giê-xu không chỉ công bố Phúc Âm và dạy dỗ dân chúng về chân lý của Đức Chúa Trời, Ngài cũng kêu gọi cho Ngài một số môn đệ để Ngài có thể huấn luyện họ cho công việc của Nước Trời. Trong Mat 4:17-22, chúng ta biết về sự kêu gọi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ, và Giăng, những tấm lòng đã gặp Chúa Giê-xu và tin cậy Ngài (Gi 1:29-42). Họ đã trở lại nghề đánh cá của mình, nhưng Ngài đã đến và gọi họ từ bỏ công việc của họ và đi theo Ngài. Chúng ta có thể tìm thấy những chi tiết này trong Mac 1:16-30 và Lu 5:1-11.


Thuật ngữ “những tay đánh lưới người” không phải là mới. Trải qua nhiều thế kỷ, các triết gia Hy Lạp và La Mã đã sử dụng thuật ngữ này để miêu tả công việc của một người tìm cách để “nắm bắt” những người khác bằng cách giảng dạy và thuyết phục. “Đánh lưới người” chỉ là một trong những bức tranh nói về sự rao giảng Phúc Âm trong Kinh Thánh, và chúng ta không nên tự hạn chế chúng ta vào điều đó. Chúa Giê-xu cũng nói về người chăn tìm kiếm con chiên bị lạc mất (Lu 15:1-7), và Ngài cũng nói đến các con gặt trong cánh đồng chín vàng (Gi 4:34-38). Bởi vì 4 người đàn ông này có liên quan đến công việc đánh cá, cho nên cũng hợp lý cho Chúa Giê-xu khi Ngài sử dụng cách diễn đạt này.


Chúa Giê-xu có đến 4 và có thể là 7 người trong nhóm các môn đệ là người đánh cá chuyên nghiệp (Gi 21:1-3). Tại sao Chúa Giê-xu kêu gọi quá nhiều người làm nghề chài lưới vào công việc của Ngài? Vì một điều, những người làm nghề chài lưới là những con người bận rộn thường thường các dân chài chuyên nghiệp không ngồi chơi không. Hoặc là họ phân loại mẻ cá họ đánh bắt được, chuẩn bị cho mẻ lưới mới, hoặc là vá lưới và sữa chữa các dụng cụ đánh bắt. Đức Chúa Trời cần những con người bận rộn không hề sợ làm việc.


Người đánh cá là những con người can đảm và kiên nhẫn. Quả thật phải có lòng kiên nhẫn và tính can đảm để chinh phục người khác về cho Đấng Christ. Người đánh cá phải có kỷ năng họ phải học tập kinh nghiệm từ nơi người khác để biết tìm nơi có cá và cách đánh bắt cá. Công việc chinh phục linh hồn cũng đòi hỏi phải có kỷ năng. Người chài lưới phải cùng làm việc với nhau, công việc của Đức Chúa Trời đòi hỏi sự hợp tác. Nhưng trên hết mọi sự, nghề đánh cá đòi hỏi phải có lòng tin. Người đánh cá không thấy cá và họ không chắc rằng lưới của họ sẽ đầy cá. Công việc chinh phục linh hồn tội nhân cần lòng tin và sự lanh lợi.


Ma-thi-ơ đã giới thiệu cho chúng ta về con người của Vị Vua. Mỗi chứng nhân phải khẳng định rằng: “Đây là Con của Đức Chúa Trời, Đây là Vua trên muôn Vua”.


3. CÁC PHÉP TẮC CỦA NHÀ VUA: SỰ CÔNG BÌNH THẬT (Mat 5:1-48)

Bài giảng trên núi là một trong những sứ điệp bị hiểu sai nhiều nhất mà Chúa Giê-xu đã từng truyền dạy. Một nhóm người cho rằng đó là kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời, nếu như chúng ta có hi vọng vào Nước thiên đàng, chúng ta phải vâng theo những điều luật này. Một nhóm khác gọi bài giảng này là “bản hiến chương hoà bình thế giới” và mong mỏi mọi quốc gia trên thế giới này chấp nhận. Thậm chí có nhóm người thứ ba nói rằng bài giảng trên núi không áp dụng cho ngày hôm nay, nhưng sẽ được áp dụng tại một thời gian nào đó trong tương lai, có lẽ trong suốt thời Khổ Nạn hoặc vương quốc ngàn năm bình an.


Tôi luôn luôn cho rằng Mat 5:20 là câu chìa khoá đối với bài giảng quan trọng này.Vì Ta phán cho các ngươi rằng, nếu sự công bình của các ngươi chẳng trổi hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si, thì các ngươi chắc không vào Nước thiên đàng. Chủ đề chính là sự công bình thật. Các nhà lãnh đạo tôn giáo có sự công bình giả tạo, bên ngoài dựa theo luật pháp. Những sự công bình Chúa Giê-xu mô tả là sự công bình thật và sống động xuất phát từ bên trong, từ tấm lòng. Người Pha-ri-si quan tâm về những chi tiết trong cách xử sự, nhưng họ làm ngơ vấn đề chính yếu là bản chất. Cách xử sự phát sinh từ bản chất.


Bất cứ điều áp dụng nào mà bài giảng trên núi truyền dạy đều dành cho những vấn đề của thế giới, hoặc những diễn biến trong tương lai, bài giảng này thật có những ứng dụng đích thực cho chúng ta ngày nay. Chúa Giê-xu ban phát sứ điệp này cho từng cá nhân tín hữu, chớ không cho cả thế giới vô tín rộng lớn. Những điều dạy dỗ trong bài giảng trên núi được nhắc lại trong các thư tín Tân Ước cho Hội Thánh ngày nay. Chúa Giê-xu ban phát những lời dạy dỗ này cho các môn đệ trước nhất (Mat 5:1), và họ đã chia sẻ lại cho chúng ta.


Trong chương này Chúa Giê-xu cho ba lời giải thích về sự công bình thánh thiện, chân thật.


1. Sự công bình thật là gì (Mat 5:1-16)

Là một Giáo sư giỏi, Cứu Chúa chúng ta không bắt đầu bài giảng bằng lời quở trách tiêu cực các thầy thông giáo và người Pha-ri-si. Ngài bắt đầu bằng sự nhấn mạnh về đặc điểm công bình và những phước hạnh đem lại cho cuộc đời người tin Chúa.Người Pha-ri-si dạy rằng công bình là công việc bên ngoài, một vấn đề vâng theo điều luật và giới răn. Sự công bình có thể được đo lường bằng sự cầu nguyện, bố thí, kiêng ăn, v.v... Trong bài giảng về tám Phước Lành và những bức tranh về người tin Chúa, Chúa Giê-xu miêu tả đặc tính của Cơ Đốc nhân là tuôn chảy từ bên trong lòng.


Chúng ta hãy tưởng tượng sự chú ý của đám đông bị thu hút vào Chúa Giê-xu như thế nào khi Chúa Giê-xu phán lời đầu tiên: “Phước cho”. (Theo từ ngữ La-tinh chữ phước cho là beatus, và từ chữ này chúng ta có từ phước lành). Đây là một từ có sức thu hút mạnh mẽ đối với người nghe Chúa Giê-xu thời đó. Đối với họ nó có nghĩa là “sự vui mừng tuyệt diệu và hạnh phúc vẹn toàn”. Từ ngữ này không được dùng cho thế giới loài người nó mô tả một niềm vui mừng chỉ có nơi miên viễn. “Phước cho” ngụ ý sự thoả mãn và đầy đủ từ bên trong mà không tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh bên ngoài để được hạnh phúc. Đây là điều Đức Chúa Trời ban cho người tin cậy Ngài.


Tám Phước Lành mô tả những thái độ phải có trong cuộc sống của chúng ta ngày nay.Có 4 thái độ được bày tỏ ở đây.


Thái độ của chúng ta đối với chúng ta (Mat 5:3). Tâm linh nghèo khó có nghĩa là phải khiêm nhường, có mức độ đánh giá đúng đắn về bản thân của mình (Ro 12:3). Nó không có nghĩa lá “nghèo nàn thuộc linh” và không có nghị lực nào cả: “Nghèo khó về tâm linh” là điều đối nghịch với thái độ tự tôn tự quyết của thế gian. Đó không phải là sự khiêm nhường sai lầm khi nói, “Tôi không có giá trị gì, Tôi không thể làm được điều gì đâu” Đó là thành thật với chính mình: Chúng ta tự biết mình, tự bằng lòng với mình, và cố gắng để xứng đáng vơi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.


Thái độ của chúng ta đối với tội lỗi của chúng ta (Mat 5:4-6). Chúng ta than khóc về tội lỗi và từ bỏ nó. Chúng ta nhìn nhận tội lỗi theo cách Đức Chúa Trời và tìm kiếm sự chữa lành căn bệnh tội lỗi theo phương cách của Đức Chúa Trời. Những ai che giấu tội lỗi hoặc bênh vực cho tội lỗi chắc chắn có thái độ sai lầm. Chúng ta không chỉ khóc lóc về tội lỗi chúng ta, nhưng còn phải khiêm nhường trình lên cho Đức Chúa Trời (Lu 18:9-14 Phi 3:1-14).


Nhu mì không phải là yếu đuối, cả Môi-se lẫn Chúa Giê-xu đều là những người nhu mì (Dan 12:3 Mat 11:29). Từ ngữ dịch là “nhu mì” được người Hy Lạp dùng để tả một con ngựa đã bị chế ngự. Nó nói lên sức lực nằm trong sự kiểm soát.


Thái độ của chúng ta đối với Đức Chúa Trời (Mat 5:7-9). Chúng ta kinh nghiệm lòng thương xót của Đức Chúa Trời khi chúng ta tin nhận Chúa Giê-xu Christ (Eph 2:4-7) và Ngài ban cho chúng ta một tấm lòng tinh sạch (Cong 15:9) cùng sự hoà thuận trong lòng (Ro 5:1). Nhưng khi đã nhận được sự thương xót của Ngài, chúng ta hãy chia sẻ yêu thương của Ngài cho người khác. Chúng ta tìm cách gìn giữ tấm lòng chúng ta được tinh sạch để có thể ngắm xem Đức Chúa Trời trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta trở nên người kiến tạo hoà bình trong thế giới rối ren và là những dòng chảy lưu dẫn sự thương xót, thánh khiết và bình an của Đức Chúa Trời đến với người khác.


Thái độ của chúng ta đối với thế gian (Mat 5:10-16). Thật không dễ dàng làm một Cơ Đốc nhân tận trung. Xã hội chúng ta không phải là người bạn của Đức Chúa Trời cũng không phải là bạn của con cái Đức Chúa Trời.Cho dù chúng ta có thích hoặc không vẫn có sự nghịch thù giữa chúng ta và thế gian. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta khác với thế gian và chúng ta có những thái độ cách nhìn khác với họ. Khi chúng ta đọc bài giảng các Phước Lành, chúng ta thấy rằng bài giảng nêu ra một quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm của thế gian. Thế gian đề cao tính tự cao chớ không phải sự khiêm nhường. Thế gian ủng hộ tội lỗi, nhất là nếu bạn “trốn tránh được”. Thế gian đang gây chiến chống lại Đức Chúa Trời, trong lúc đó Đức Chúa Trời đang tìm cách giải hoà với kẻ thù của Ngài và khiến họ trở nên con cái của Ngài. Chúng ta phải chờ đợi sự vu oan buộc tội nếu như chúng ta đang sống như Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống.Nhưng chúng ta phải chắc chắn rằng sự đau đớn chúng ta chịu không do bởi sự ngu dại của chúng ta hoặc là sự không vâng lời.


2. Sự công bình thật đến bằng cách nào (Mat 5:17-20)

Chắc rằng sau khi đám đông nghe sự miêu tả của Chúa chúng ta về hạng người Đức Chúa Trời ban phước, họ tự hỏi, “Nhưng chúng ta chẳng bao giờ đạt tới được đức tính ấy. Làm thế nào chúng ta có được sự công bình này? Sự công bình đến từ đâu?” Họ phân vân không hiểu lời giảng dạy của Ngài có liên hệ thế nào đến mọi điều họ đã được dạy trong suốt cuộc đời của mình. Thế còn Môi-se và Luật Pháp thì như thế nào?


Trong Luật Pháp Môi-se, Đức Chúa Trời đã thực sự bày tỏ về tiêu chuẩn sống thánh khiết của Ngài. Người Pha-ri-si bảo vệ Luật Pháp và cố gắng tìm cách làm theo.Nhưng Chúa Giê-xu phán rằng sự công bình thật mà Đức Chúa Trời đẹp lòng phải lớn hơn vượt trội hơn sự công bình của các thầy thông giáo và người Pha-ri-si -đối với những người bình thường, các thầy thông giáo và người Pha-ri-si là những người thánh khiết nhất trong cộng đồng xã hội. Nếu họ không đạt tới tiêu chuẩn ấy, thì còn có hi vọng nào dành cho người khác ư?


Chúa Giê-xu giải thích thái độ của Ngài đối với Luật Pháp bằng cách mô tả 3 mối liên hệ có thể chấp nhận được.


Chúng ta có thể tìm cách phá đổ Luật Pháp (Mat 5:17a). Người Pha-ri-si nghĩ rằng Chúa Giê-xu đang làm điều này. Trước hết, uy quyền của Ngài không phải xuất phát từ bất kỳ nhà lãnh đạo hoặc trường học nào đã được mọi người, thừa nhận. Thay vì giảng dạy “từ những thẩm quyền” như các thầy thông giáo và người Pha-ri-si đã làm, Chúa Giê-xu giảng dạy với thẩm quyền.


Không phải chỉ trong thẩm quyền, nhưng còn qua hành động của Ngài, dường như Chúa Giê-xu bất chấp Luật Pháp. Ngài chủ động chữa lành tật bệnh cho dân chúng trong ngày Sa-bát và không để ý gì đến truyền thống phép tắt của người Pha-ri-si. Sự giao du của Chúa chúng ta cũng có vẽ ngược lại với Luật Pháp, vì Ngài kết bạn với người thâu thuế và kẻ xấu nết.


Tuy nhiên, chính người Pha-ri-si đang phá đổ Luật Pháp. Bởi những truyền thống phép tắc của họ, họ đã làm dân chúng mất đi Lời của Đức Chúa Trời và bởi cuộc sống đạo đức giả của họ, họ không tuân theo chính Luật Pháp mà họ tuyên bố bảo vệ.Người Pha-ri-si cho rằng họ đang gìn giữ Lời Đức Chúa Trời, trong khi thực sự họ đang bảo quản đóng gói Lời Đức Chúa Trời: ướp khô để Lời Chúa không còn sống động nữa. Họ chối bỏ Chúa Giê-xu Christ khi Ngài đến thế gian chứng tỏ rằng chân lý sâu xa của Luật Pháp đã không thấu vào tấm lòng của họ được.


Chúa Giê-xu phán rõ rằng Ngài đã đến để tôn vinh Luật Pháp và giúp đỡ dân sự của Đức Chúa Trời yêu mến, học tập và sống theo Luật Pháp. Ngài không chấp nhận sự công bình giả tạo của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Sự công bình của họ chỉ là sự giả dạng bên ngoài. Tôn giáo của họ là một nghi thức chết, không phải là mối tương giao sống động. Chỉ là giả tạo, tôn giáo ấy không tạo ra trong người khác sự sống. Nó chỉ làm cho họ kiêu ngạo, chớ không khiêm nhường nó đưa con người đến sự ràng buộc chớ không được tự do.


Chúng ta có thể tìm cách làm trọn Luật Pháp (Mat 5:17b). Chúa Giê-xu đã làm trọn Luật Pháp qua sự giáng sinh của Ngài bởi vì Ngài đã “sanh ra dưới Luật Pháp” (Ga 4:4). Mọi nghi thức đã qui định cho một bé trai Do Thái đều được Cha mẹ Ngài thực hiện cho Ngài. Ngài làm trọn Luật Pháp qua cuộc sống của Ngài, vì chẳng có người nào có thể buộc tội Ngài được. Trong khi Ngài không tuân theo các lề thói của những thầy thông giáo và người Pha-ri-si, Ngài luôn luôn thực hiện những mệnh lệnh của Đức Chúa Trời trong Luật Pháp. Đức Chúa Cha “đẹp lòng” Con của Ngài (Mat 3:17 Mat 17:5).


Chúa Giê-xu cũng làm trọn Luật Pháp qua sự giảng dạy của Ngài. Chính điều này đã đưa đến mâu thuẩn giữa Ngài với các nhà lãnh đạo tôn giáo. Khi Ngài bắt đầu chức vụ của Ngài, Chúa Giê-xu nhận thấy Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời bị phủ kín bởi những phép tắc và lý giải do con người đặt ra. Ngài đã đập vỡ tan lớp vỏ bọc “tôn giáo” và đem dân chúng trở lại với Lời của Đức Chúa Trời. Và rồi Ngài dạy Lời Đức Chúa Trời cho họ một cách mới mẻ và sống động - họ đã quen thuộc với “chữ” của Luật Pháp và không có phần “cốt lỏi” bên trong của cuộc sống.


Nhưng bởi sự chết và sự sống lại của Ngài Chúa Giê-xu đã làm trọn vẹn Luật Pháp. Ngài nhận lãnh sự rủa sả của Luật Pháp (Ga 3:13). Ngài đã làm xong các kiểu mẫu cùng lễ nghi của thời Cựu Ước để dân sự của Đức Chúa Trời không còn phải thực hiện theo đòi hỏi của Luật Pháp (He 9:1-10:39). Ngài bỏ qua giao ước cũ và giới thiệu Giao ước mới.


Chúa Giê-xu không phá đổ Luật Pháp bằng cách đấu tranh với Luật Pháp Ngài phá đổ Luật Pháp bằng cách làm trọn Luật Pháp. Có lẽ cần có một minh hoạ để làm sáng tỏ vấn đề này. Nếu tôi có một hạt sồi, tôi có thể phá vỡ nó bằng một trong hai cách. Tôi có thể đặt nó trên một hòn đá và dùng búa đập mạnh nó bể thành nhiều mãnh. Hoặc tôi có thể trồng nó xuống đất và để nó tự tan ra bằng cách trở thành một cây sồi.


Khi Chúa Giê-xu chết, Ngài vén bỏ bức màn của đền thờ và mở con đường đi vào nơi chí thánh (He 1:19). Ngài phá đổ bức tường ngăn cách giữa người Do Thái và người ngoại bang (Eph 2:11-13). Bởi vì Luật Pháp đã được trọn trong Đấng Christ, cho nên chúng ta không còn cần đến đền thờ do tay con người tạo nên nữa (Cong 7:48), hoặc những nghi thức tôn giáo (Co 2:10-13).


Làm thế nào chúng ta có thể làm trọn Luật Pháp? Chỉ bằng cách vâng phục Đức Thánh Linh và để cho Ngài hành động trong cuộc đời chúng ta (Ro 8:1-3). Đức Thánh Linh khiến chúng ta có thể kinh nghiệm “sự công bình của Luật Pháp” trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta sống cuộc đời hoàn toàn không có tội, nhưng điều đó có nghĩa là Đấng Christ sống cuộc đời của Ngài qua chúng ta bởi quyền năng của Đức Thánh Linh (Ga 2:20).


Khi chúng ta đọc Bài Giảng Các Phước Lành, chúng ta thấy được cá tính hoàn hảo của Chúa Giê-xu Christ. Trong khi Chúa Giê-xu không bao giờ phải khóc lóc về tội lỗi của Ngài, bởi vì Ngài là Đấng vô tội, Ngài vẫn là một người “từng trải sự buồn bực biết sự đau ốm” (Es 53:3). Ngài chẳng bao giờ đói khát sự công bình bởi vì Ngài là Con Thánh của Đức Chúa Trời, nhưng Ngài đã vui lòng làm theo ý muốn Cha Ngài và tìm cách làm trọn công việc của Ngài (Gi 4:34). Phương cách duy nhất chúng ta có thể từng trải sự công bình trong bài học Tám Phước Lành chỉ bởi quyền năng của Chúa Giê-xu Christ.


Chúng ta tìm cách giữ và dạy những điều răn ấy (Mat 5:19). Điều này không có nghĩa là chúng ta coi trọng Cựu Ước và bỏ mặc Tân Ước. Sách Cô-rinh-tô thứ nhì chương 3 bày tỏ rằng chức vụ của chúng ta thuộc về Phúc Âm giao ước mới. Nhưng có một chức vụ thích đáng của Luật Pháp (ITi 1:9) không mâu thuẫn với sứ điệp vinh hiển bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu muốn chúng ta biết nhiều hơn về sự công bình của Đức Chúa Trời, vâng theo và chia sẻ cho nhiều người khác. Luật Pháp của Đức Chúa Trời không thay đổi. Chín điều răn được nhắc lại trong các thơ tín Tân Ước và làm mệnh lệnh cho các tín hữu vâng theo. (Ngoại trừ mệnh lệnh về ngày Sa-bát, được ban bố nhằm làm dấu chỉ cho dân Y-sơ-ra-ên, (Ne 9:14).


Chúng ta không vì sợ luật pháp thấy được mà vâng theo. Chẳng phải vậy, Cơ Đốc nhân ngày hôm nay vâng theo Luật Pháp ghi trong lòng và sống bởi tình yêu. Đức Thánh Linh dạy dỗ chúng ta bằng Lời của Đức Chúa Trời và giúp chúng ta vâng theo. Tội lỗi vẫn là tội lỗi, và Đức Chúa Trời vẫn đoán phạt tội lỗi. Nói tóm lại, trong thời đại hiện nay chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc làm của chúng ta nặng hơn vì chúng ta được dạy dỗ và hiểu biết nhiều hơn.


3. Sự công bình hành động như thế nào trong đời sống hằng ngày (Mat 5:21-48)

Chúa Giê-xu lấy ra 6 điều răn quan trọng trong Luật Pháp Cựu Ước và giải thích cho dân sự của Ngài dưới ánh sáng của nếp sống mới mà Ngài đã đến để ban cho. Ngài thực hiện sự thay đổi quan trọng mà không làm đổi thay những tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Ngài đối phó với mọi thái độ cùng những ý định trong lòng con người và không chỉ bằng hành động bên ngoài. Người Pha-ri-si cho rằng sự công bình bao gồm những việc làm nhất định nào đó, nhưng Chúa Giê-xu dạy rằng sự công bình tập trung nơi thái độ của tấm lòng.


Với tội lỗi cũng như vậy. Người Pha-ri-si liệt kê một số việc làm bị kể là tội lỗi, nhưng Chúa Giê-xu giải thích do thái độ của tấm lòng mà có tội lỗi. Giận dữ là phạm tội giết người ở trong lòng sự ham muốn xác thịt là phạm tội tà dâm ở trong lòng. Người nói rằng anh ta “sống theo lời dạy của Bài giảng trên núi” có thể không nhận thấy rằng Bài giảng trên núi còn khó làm theo hơn là 10 điều răn trong Luật Pháp Môi-se.


Tội giết người (Mat 5:21-26 Xu 20:13). Tôi đã đọc thấy trên báo cứ 35 vụ tử vong tại Chicago, có một vụ do giết người gây ra, và hầu hết những vụ giết người này do “sự giận dữ” do sự tức giận giữa vòng bạn bè hoặc người thân. Chúa Giê-xu không phán rằng giận dữ dẫn đến tội giết người Ngài phán giận dữ là giết người.


Dầu có sự giận dữ thánh khiết chống lại tội lỗi (Eph 4:26), nhưng Chúa Giê-xu nói đến sự giận dữ bất khiết nghịch lại với con người. Từ ngữ Ngài dùng trong Mat 5:22 có nghĩa là “sự giận dữ chất chứa trong lòng, tâm trí un đúc ý muốn làm hại người khác”. Chúa Giê-xu mô tả một hành động tội lỗi trải qua mấy giai đoạn. Đầu tiên là nổi giận dữ vô cớ. Kế đến sự giận dữ này bộc phát thành lời:“Ra-ca - con người đần độn” Những lời này được đổ thêm dầu dẫn đến người ta mắng “Mầy là đồ điên - kẻ mất dạy! ”


Giận dữ thật là một việc làm ngu dại. Nó biến chúng ta trở thành phá hoại thay vì xây dựng. Giận dữ cướp mất khỏi chúng ta sự tự do và giam chúng ta vào trong tù ngục. Chúng ta ghét một người nào tức là trong lòng chúng ta đã phạm tội giết người IGi 3:15).


Điều này không có nghĩa là chúng ta xông ra giết người chúng ta ghét, trong tư tưởng chúng ta đã phạm tội rồi. Cảm giác tội lỗi đương nhiên không bào chữa cho hành vi phạm tội. Tội nóng giận làm chúng ta đánh mất mối tương giao với Đức Chúa Trời cũng như với anh em, nhưng nóng giận không bắt chúng ta phải ngồi tù như tội giết người. Tuy nhiên, hơn một lần người ta đã phạm tội sát nhân vì không làm chủ được tội nóng giận.


Chúng ta phải thành thật nhìn nhận tội nóng giận và xưng tội với Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy đến làm hoà với anh em của mình, và phải thực hiện ngay không chút chậm trễ. Càng kéo dài bao lâu, gánh nặng tội lỗi càng tệ hại bấy nhiêu. Chúng ta tự giam hãm mình trong cảnh tồi tệ khi chúng ta không chịu giảng hoà với anh em mình. (Để có thêm lời khuyên xem Mat 18:15-20). Có người nói cách chí lý rằng người từ chối tha thứ cho anh em phá sập chính cây cầu mà bản thân anh phải bước qua.


Tội tà dâm (Mat 5:27-30 Xu 20:14). Chúa Giê-xu khẳng định luật thánh khiết của Đức Chúa Trời, và Ngài giải thích rằng luật này dạy con người sự thánh khiết về giới tính và tội lỗi của lòng con người. Đức Chúa Trời dựng nên giới tính, và Ngài bảo vệ nó. Ngài có quyền điều hoà nó theo qui định của Ngài và trách phạt những ai chống lại giới răn của Ngài. Ngài điều hoà tình dục không vì Ngài muốn tước đoạt khỏi chúng ta, nhưng còn hơn thế nữa, chỉ vì Ngài muốn làm ơn cho chúng ta. Bất cứ khi nào Đức Chúa Trời phán, “Không được” thì Ngài có thể phán “Được”.


Tình dục bất khiết bắt nguồn từ những ham muốn trong lòng. Hơn nữa, Chúa Giê-xu không phán rằng những ham muốn tình dục giống hệt như việc làm của tình dục, và do đó một người phạm tội ngoại tình cũng là điều tự nhiên. Ham muốn và hành động không giống nhau, nhưng theo cách nói thiêng liêng, cả hai đều là một. Chữ “ngó” mà Chúa Giê-xu nói đến không phải là một thoáng nhìn tình cờ, nhưng là cái nhìn say mê có mục đích thèm khát. Có thể chấp nhận cho một người nam nhìn lướt qua một phụ nữ đẹp và công nhận rằng cô ấy đẹp, nhưng không thèm muốn cô ấy. Người đàn ông Chúa Giê-xu mô tả nhìn phụ nữ nhằm mục đích thoả mãn lòng thèm khát nhục dục chất chứa bên trong như là một sự thay thế cho hành động. Đó không phải là điều tình cờ nó được thực hiện theo kế hoạch đã sắp sẵn.


Làm thế nào chúng ta đắc thắng? Bằng cách thánh hoá những ham muốn ở trong lòng (sự thèm khát dẫn đến hành động) và làm chủ các hành động của thân thể. Rõ ràng Chúa chúng ta không nói về phẩu thuật theo nghĩa đen vì làm điều này không giải quyết được vấn đề trong lòng. Con mắt và bàn tay thường thường là hai “thủ phạm” đưa đến tội phạm tình dục, vì vậy chúng ta phải chế ngự chúng. Chúa Giê-xu phán “Hãy giải quyết lập tức và dứt khoát với tội lỗi. Đừng trì hoãn -hãy đoạn tuyệt ngay.” Phẩu thuật thiêng liêng quan trọng hơn phẩu thuật về mặt xác thịt, vì tội lỗi của thân thể dẫn đến sự hình phạt đời đời. Chúng ta hãy nghĩ đến nội dung trong Co 3:5 Ro 6:13 Ro 12:1-2 Ro 13:14.


Li dị (Mat 5:31-32). Chúa Giê-xu bàn về vấn đề này một cách chi tiết hơn trong chương Mat 19:1-12, chúng ta sẽ xem vấn đề này trong chương đó.


Thề (Mat 5:33-37 Le 19:12 Phu 23:23). Đây không phải là tội “thề độc địa”, nhưng tội dùng Lời thề để khẳng định đều chúng ta nói là đúng. Người Pha-ri-si dùng đủ mọi mưu mẹo để né tránh sự thật, và lời thề ở trên môi miệng họ. Họ tránh dùng danh thánh của Đức Chúa Trời, nhưng họ gần đụng đến danh của Ngài vì họ chỉ thành Giê-ru-sa-lem, trời, đất, hoặc một vài bộ phận của thân thể mà thề.


Chúa Giê-xu dạy cuộc trao đổi của chúng ta phải thành thật, và bản tính chúng ta cũng thành thật đến nỗi chúng ta không cần “chỗ dựa” để làm cho người ta tin chúng ta. Lời nói tuỳ thuộc vào nhân cách, và lời thề không thể bù đắp cho nhân cách kém cõi. “Hễ lắm lời vi phạm nào có thiếu nhưng ai cầm giữ miệng mình là người khôn ngoan” Ch 10:19). Một người càng lắm lời để thuyết phục chúng ta, chúng ta càng thấy nghi ngờ người đó.


Sự trả thù (Mat 5:38-42 Le 24:19-22). Từ xưa điều luật được xử theo lẽ công bằng nó ngăn con người không buộc kẻ phạm tội phải trả giá đắt hơn tội đáng phải nhận. Nó cũng tránh cho con người khỏi tư thù cá nhân. Chúa Giê-xu thay thế điều luật bằng một thái độ hãy sẵn lòng chịu đau khổ mất mát hơn là gây cho người khác đau khổ. Dĩ nhiên, Chúa ứng dụng điều này đối với những xúc phạm cá nhân, chớ không cho nhóm người, hoặc quốc gia. Người trả thù chỉ làm cho chính anh ta và người phạm tội cảm thấy buồn đau, và kết quả là một cuộc tranh chấp dai dẳng, không có bình yên.


Để “đưa má bên kia”, chúng ta phải đứng yên và không bỏ chạy. Làm điều này đòi hỏi đức tin và lòng yêu thương. Cũng có nghĩa là chúng ta sẽ bị tổn thương, nhưng bị tổn thương bên ngoài còn tốt hơn trong lòng bị đau đớn. Nhưng ý nghĩa sâu xa hơn là chúng ta nên tìm cách giúp đỡ người phạm lỗi. Chúng ta dễ bị xúc phạm, bởi vì người ta có thể tấn công chúng ta cách khác nhưng chúng ta cũng đắc thắng vì Chúa Giê-xu ở bên chúng ta, giúp chúng ta và xây dựng nhân cách của chúng ta. Các nhà tâm lý học cho chúng ta biết rằng bạo lực phát sinh từ sự yếu đuối chớ không phải mạnh mẽ. Chính con người mạnh mẽ mới có thể yêu thương và chịu đựng tổn thương người yếu kém chỉ nghĩ về mình và gây cho người khác đau đớn để tự bảo vệ mình. Anh ta gây thương tổn cho người khác rồi bỏ đi để bảo trọng mình.


Yêu kẻ thù nghịch (Mat 5:43-48 Le 19:17-18). Không có nơi nào Luật Pháp dạy ghét kẻ thù nghịch mình. Lời Kinh Thánh trong Xu 23:4-5 dạy điều ngược lại. Chúa Giê-xu vạch rõ kẻ thù chúng ta là những người rủa sả, căm ghét chúng ta và lợi dụng chúng ta một cách ích kỷ. Bởi vì tình yêu Cơ Đốc là một việc làm của lý trí, và không chỉ là cảm xúc, Ngài có quyền đòi hỏi chúng ta yêu kẻ thù nghịch mình. Sau hết, Chúa đã yêu chúng ta khi chúng ta còn là người có tội (kẻ thù nghịch Ngài) (Ro 5:10). Chúng ta có thể bày tỏ tình yêu này bằng cách chúc phước cho người rủa sả chúng ta, làm điều tốt cho họ, và cầu thay cho họ. Khi chúng ta cầu nguyện cho kẻ thù, chúng ta thấy dễ yêu thương họ hơn. Nó hút “nọc độc” ra khỏi thái độ của chúng ta.


Chúa Giê-xu đưa ra mấy lý do đối với lời khuyên dạy này.


(1). Tình yêu này là dấu chứng của sự trưởng thành, chứng tỏ rằng chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời, và không chỉ là trẻ con nữa.


(2) Giống như Đức Chúa Trời. Đức Chúa Cha chia những điều tốt của Ngài cho người chống nghịch Ngài. Câu 45 gợi ý rằng lòng yêu thương của chúng ta “tạo ra một không khí” phước hạnh dễ dàng chiến thắng kẻ thù chúng ta và khiến họ làm bạn của chúng ta. Tình yêu giống như ánh nắng và mưa mà Đức Chúa Cha ban cho một cách rộng rời.


(3) Tình yêu là lời chứng cho nhiều người. “Những gì ngươi làm có hơn kẻ khác không?” là một câu hỏi hay. Đức Chúa Trời mong đợi chúng ta sống cao hơn những người hư mất trong thế gian, những người yêu người yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Là những Cơ Đốc nhân, chúng ta phải lấy thiện báo ác như là một nguồn vốn đầu tư tình yêu thương.


Chữ trọn vẹn trong câu 48 không ám chỉ đến sự trọn vẹn vô tội, vì không thể nào có được điều đó trong cuộc sống này (mặc dù đó là mục đích tốt phải đạt tới). Nó nói đến sự hoàn thiện, trưởng thành, là con cái Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời yêu kẻ thù nghịch Ngài và tìm cách khiến họ trở nên con cái Ngài, chúng ta phải cộng tác với Ngài!


4. CÁC PHÉP TẮC NHÀ VUA: SỰ THỜ PHƯỢNG THẬT (Mat 6:1-34)

Sự công bình thật trong nước trời phải được áp dụng trong mọi chi tiết của cuộc sống mỗi ngày. Đây là điểm nhấn mạnh trong phần cuối của Bài Giảng Trên Núi.Chúa Giê-xu gắn nguyên tắc này vào trong mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng (Mat 6:1-18), trong mối liên hệ của chúng ta đối với vật chất (Mat 6:19-34), và mối tương quan của chúng ta với người khác (Mat 7:1-20).


Chúa Giê-xu cũng khuyến cáo về sự nguy hiểm của thói đạo đức giả (Mat 6:2,5,16) tội dùng tôn giáo để che đậy tội lỗi. Một người đạo đức giả không phải là người không đạt tới được lý tưởng cao xa của mình, hoặc là người thỉnh thoảng phạm tội, bởi vì tất cả chúng ta đều biết rõ những thất bại này. Người đạo đức giả sử dụng tôn giáo cách khôn khéo để che giấu tội lỗi và tăng thêm ảnh hưởng quyền lực của mình. Từ ngữ Hy Lạp dịch chữ đạo đức giả theo nguyên gốc có nghĩa là “một diễn viên mang mặt nạ”.


Sự công bình của người Pha-ri-si là giả trá và không thành thật. Họ thực hành lễ nghi tôn giáo để người đời khen ngợi, chớ không để lãnh phần thưởng của Đức Chúa Trời. Nhưng sự công bình thật phải ra từ trong lòng. Chúng ta phải tự xét lại tấm lòng mình để xem chúng ta có chân chính và thành thật trong sự phó thác cuộc sống của mình không. Trong chương này, Chúa Giê-xu áp dụng sự tra xét này ở 4 lãnh vực khác nhau trong cuộc sống.


1. Sự bố thí (Mat 6:1-4)

Bố thí kẻ nghèo, cầu nguyện, và kiêng ăn là những phép tắc trong tôn giáo của người Pha-ri-si. Chúa Giê-xu không lên án những việc làm này, nhưng Ngài báo trước chúng ta phải đoan chắc rằng lòng chúng ta ngay thẳng khi thực hiện những điều này. Người Pha-ri-si dùng của bố thí để tranh thủ thiện cảm với Đức Chúa Trời và sự chú ý của con người, cả hai động cơ đều sai. Không có số lượng bố thí nào có thể mua được sự cứu rỗi, vì sự cứu rỗi là sự ban cho của Đức Chúa Trời (Eph 2:8-9). Và sống để người ta khen ngợi mình là việc làm dại dột vì sự vinh hiển của con người ngắn ngủi (IPhi 1:24). Chính Đức Chúa Trời ban cho sự vinh hiển và khen ngợi mới thật sự giá trị.


Bản chất tội lỗi của chúng ta xảo quyệt đến nỗi có thể làm hoen ố ngay cả công việc tốt lành như việc chia sớt cho người nghèo. Nếu động cơ của chúng ta nhằm tìm kiếm sự khen ngợi của con người, chúng ta giống như người Pha-ri-si, chúng ta sẽ gợi sự chú ý đến những việc chúng ta đang làm. Nhưng nếu động cơ của chúng ta nhầm hầu việc Đức Chúa Trời trong lòng kính yêu Ngài và làm vừa lòng Ngài, lúc ấy chúng ta không tạo sự chú ý đến những gì chúng ta ban cho. Kết quả là đời sống thuộc linh của chúng ta sẽ tăng trưởng Đức Chúa Trời sẽ được sáng danh và nhiều người được giúp ích. Nhưng khi chúng ta ban cho với động cơ sai, tự chúng ta đánh mất phước hạnh và sự ban thưởng và không làm sáng danh Chúa, cho dù đồng tiền chúng ta chia sớt có thể giúp ích cho người đang thiếu thốn.


Điều này có nghĩa là bố thí công khai là việc làm sai phải không? Có phải Tất cả của bố thí phải ẩn? Không cần phải như vậy, vì mọi người trong Hội Thánh đầu tiên biết rằng Ba-na-ba đã góp khoản thu nhập của ông từ số tiền bán đất của mình (Cong 4:34-37). Khi các tín đồ đặt tiền nơi chân các sứ đồ, họ đã thực công khai. Dĩ nhiên sự khác nhau ở động cơ và cách thực hiện công việc ấy. Một hình ảnh tương phản, A-na-nia và Sa-phi-ra (Cong 5:1-11), cố dùng của dâng của mình để làm mọi người nghĩ rằng họ thiêng liêng hơn điều họ thật sự có.


2. Sự cầu nguyện (Mat 6:5-15)

Chúa Giê-xu đưa 4 điều để hướng dẫn chúng ta cầu nguyện.


Chúng ta phải cầu nguyện ở nơi kín nhiệm trước khi cầu nguyện nơi đông người (Mat 6:6). Cầu nguyện công khai trong nơi nhóm họp không có gì sai (ITi 2:1), hoặc khi tạ ơn về thức ăn (Gi 6:11) hoặc cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ (Gi 11:42-42 Cong 27:35). Nhưng nếu chúng ta cầu nguyện công khai không theo thói quen cầu nguyện ở nơi riêng tư, chúng ta đã làm sai. Người ta quan sát có thể nghĩ rằng chúng ta đang cầu nguyện trong khi chúng ta không cầu nguyện gì cả, và đây là hành động đạo đức giả. Từ được dịch là nơi kín nhiệm có nghĩa “phòng riêng”. Có thể nói đến cái phòng cất giữ đồ đạc trong nhà. Chúa Giê-xu của chúng ta đã cầu nguyện ở nơi vắng vẻ riêng tư (Mac 1:35) Ê-li-sê (IIVua 4:32)và Đa-ni-ên (Da 6:10) cũng làm như vậy.


Chúng ta phải cầu nguyện một cách thành thật (Mat 6:7-8). Điều yêu cầu được nhắc lại là không dùng “những lời lặp vô ích” vì Chúa Giê-xu và Phao-lô đã lặp lại lời cầu nguyện của mình (Mat 26:36-46 ICo 12:7-8). Một lời cầu xin trở thành “lời lặp vô ích” nếu nó chỉ là những lời nhảm nhí không xuất phát từ tấm lòng chân thành khao khát tìm kiếm và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Chỉ đọc thuộc lòng những bài cầu nguyện cũng có thể là lời lặp vô ích. Dân ngoại bang đọc thuộc những lời cầu nguyện như thế trong các cuộc tế lễ thần của họ (IVua 18:26).


Bạn tôi là tiến sĩ Robert A. Cook đã thường nói: “Hết thảy chúng ta đều có lời cầu nguyện theo thói quen trong hệ thống tổ chức của chúng ta, và một khi chúng ta bỏ lời cầu nguyện ấy, lúc ấy chúng ta mới thật sự bắt đầu cầu nguyện” Tôi để ý điều này không những lúc tôi cầu nguyện riêng một mình mà thường vào những lúc tôi hướng dẫn các giờ nhóm cầu nguyện. Với một số người, cầu nguyện giống như việc đặt chiếc kim lên dĩa máy hát và rồi quen điều đã làm. Đức Chúa Trời không nghe những lời cầu nguyện thiếu chân thành.


Chúng ta phải cầu nguyện theo ý muốn của Đức Chúa Trời (Mat 6:9-13). Bài cầu nguyện này được mọi người quen gọi là “Bài cầu nguyện của Chúa”, nhưng nếu cho tựa đề là “Bài cầu nguyện của các môn đệ” thì chính xác hơn. Thực ra, Chúa Giê-xu dạy lời cầu nguyện này để tránh cho chúng ta dùng lời lặp vô ích.Chúa Giê-xu không dạy, “Hãy cầu nguyện bằng những lời này”, Ngài dạy, “Hãy cầu nguyện như vậy”, có nghĩa là “Hãy dùng bài cầu nguyện này làm bài mẫu, chớ không là bài cầu nguyện thay thế, ”


Mục đích của lời cầu nguyện là để tung hô danh của Đức Chúa Trời, và để cầu xin Ngài giúp sức hoàn thành ý muốn của Ngài trên thế gian. Bài cầu nguyện này bắt đầu bằng những điều Đức Chúa Trời quan tâm, chớ không phải của chúng ta: Danh Thánh của Đức Chúa Trời, Nước của Ngài, và ý muốn của Đức Chúa Trời. Ông Robert Law đã nói: “Cầu nguyện là công cụ mạnh mẽ không phải để làm cho ý muốn của con người thành tựu ở trên trời, bèn là để cho ý muốn của Đức Chúa Trời thành đạt trên trần gian”. Chúng ta không có quyền cầu xin Đức Chúa Trời bất cứ điều gì không làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời, làm trì hoãn Nước Đức Chúa Trời, hoặc làm xáo trộn ý chỉ của Ngài trên đất.


Điều đáng chú ý là không có chủ ngữ số ít nào trong bài cầu nguyện này tất cả chủ ngữ đều ở số nhiều. Bắt đầu bằng “Lạy Cha chúng tôi.” Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải biết rằng chúng ta là một bộ phận trong đại gia đình con cái của Đức Chúa Trời trên khắp thế giới. Chúng ta không có quyền cầu xin cho riêng chúng ta điều gì sẽ không đem lại lợi ích cho thành viên khác của gia đình. Nếu chúng ta đang cầu xin trong ý chỉ của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời sẽ đáp lời cầu xin ban phước cho mọi con dân của Ngài bằng cách này hay cách khác.


Nếu chúng ta đặt lợi ích của Đức Chúa Trời lên trên hết, rồi sau đó chúng ta trình bày những nhu cầu của mình. Đức Chúa Trời quan tâm đến các nhu cầu của chúng ta và Ngài biết những nhu cầu ấy ngay trước khi chúng ta thưa với Ngài (Mat 6:8). Nếu điều này đúng như thế, tại sao chúng ta cầu nguyện? Bởi vì cầu nguyện là phương cách Đức Chúa Trời đã ấn định để thoả đáp những nhu cầu này (Gia 4:1-3)Cầu nguyện chuẩn bị cho chúng ta sử dụng thích hợp câu giải đáp. Nếu chúng ta biết nhu cầu của chúng ta, và nếu chúng ta trình bày nhu cầu ấy cho Đức Chúa Trời, tin cậy Ngài về sự chu cấp của Ngài, lúc ấy chúng ta sẽ làm cho câu giải đáp có giá trị hơn là nếu Đức Chúa Trời áp đặt nó trên chúng ta khi chúng ta không cầu xin.


Cầu xin cho các nhu cầu vật chất hàng ngày, cho sự tha tội, và cho sự dẫn dắt cùng sự bảo vệ khỏi điều ác là điều đúng đắn. “Xin chớ để chúng tôi bị cám dỗ” không có nghĩa là Đức Chúa Trời cám dỗ con cái của Ngài (Gia 1:13-17). Trong lời cầu xin này chúng ta xin Đức Chúa Trời hướng dẫn chúng ta để chúng ta không đi ra khỏi ý muốn của Ngài và không dính líu gì đến hoàn cảnh của sự cám dỗ (IGi 5:18), hoặc ngay cả trong hoàn cảnh thử Ngài để rồi Ngài phải giơ tay quyền năng của Ngài giải cứu chúng ta (Mat 4:5-7).


Chúng ta phải cầu nguyện, kèm theo tinh thần tha thứ cho người khác (Mat 6:14-15). Trong phần “phụ lục” cho bài cầu nguyện, Chúa Giê-xu đã khai triển phần cuối câu Mat 6:12, ”.. như chúng ta tha thứ cho những người mắc nợ chúng ta”. Về sau Ngài nhắc lại bài học này cho các môn đệ của Ngài (Mac 11:19-26). Ngài không dạy rằng con cái Chúa nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời qua việc tha thứ cho người khác vì điều này trái ngược lại với ân điển và lòng nhân từ rộng rời của Ngài. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã thật sự kinh nghiệm ơn tha tội của Ngài, chúng ta sẽ có tấm lòng sẵn sàng tha thứ cho người khác (Eph 4:32 Co 3:13) Chúa Giê-xu của chúng ta đã minh hoạ nguyên tắc này trong thí dụ về người đầy tớ không thương xót (Mat 18:21-35).


Chúng ta thấy rằng cầu nguyện là “công việc nội bộ của gia đình” ("Cha chúng tôi”..."). Nếu mỗi thành viên trong gia đình không sống hoà thuận với nhau, làm thế nào họ nói được rằng họ có mối tương giao bình thường với Đức Chúa Trời? Điều nhấn mạnh trong thơ Giăng thứ nhất chương 4 đó là chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Đức Chúa Trời bởi việc chúng ta yêu thương anh em mình. Khi chúng ta tha thứ cho nhau, chúng ta không hưởng quyền cầu xin vì đặc quyền của lời cầu nguyện là một phần trong địa vị làm con của chúng ta (Ro 8:15-16). Sự tha thứ thuộc về vấn đề thông công: Nếu tôi không ở trong mối thông công với Đức Chúa Trời, tôi không thể nào cầu nguyện linh nghiệm được. Nhưng mối thông công với anh em của tôi giúp tôi quyết định mối thông công của tôi với Đức Chúa Trời do đó, tha thứ là điều quan trọng cho sự cầu nguyện.


Bởi vì sự cầu nguyện bao gồm sự ngợi khen danh thánh của Đức Chúa Trời, sự chờ đợi Nước Đức Chúa Trời mau đến (IIPhi 3:12), và sự giúp sức hầu làm xong ý muốn của Đức Chúa Trời trên đất, cho nên người cầu nguyện không được có tội lỗi trong lòng. Nếu Đức Chúa Trời đáp lời cầu xin của một người không có lòng tha thứ, Danh của Ngài sẽ không được tôn vinh. Làm thế nào Đức Chúa Trời có thể hành động qua một người như vậy để làm cho ý muốn của Ngài được nên trên đất được?Nếu Đức Chúa Trời chu cấp các nhu cầu của anh ta, Ngài đang khuyến khích tội lỗi. Điều quan trọng của sự cầu nguyện không chỉ là nhận sự đáp lời, nhưng còn trở thành hạng người mà Đức Chúa Trời có thể tin cậy để đáp lời cầu xin.


3. Sự kiêng ăn (Mat 6:16-18)

Sự kiêng ăn duy nhất mà Đức Chúa Trời thật sự đòi hỏi dân Do Thái là nhằm ngày lễ Chuộc Tội hàng năm (Le 23:27). Người Pha-ri-si kiêng ăn mỗi ngày thứ hai và thứ năm (Lu 18:12) và làm ra vẻ để mọi người biết họ đang kiêng ăn. Đương nhiên mục đích của họ là dành sự tán thưởng của con người. Kết quả là người Pha-ri-si đánh mất phước hạnh của Đức Chúa Trời.


Kiêng ăn không có gì sai, nếu chúng ta thực hiện một cách đúng đắn và với động cơ tốt. Chúa Giê-xu đã kiêng ăn (Mat 4:3) các tín đồ của Hội Thánh đầu tiên cũng làm như vậy (Cong 13:2). Kiêng ăn giúp chế ngự lòng thèm muốn của thể xác (Lu 21:34) và giữ gìn những ưu tiên trong đời sống thuộc linh của chúng ta được ngay thẳng. Nhưng đừng bao giờ để cho sự kiêng ăn trở thành dịp cho sự cám dỗ (ICo 7:7). Nếu chúng ta lấy đi của bản thân một nhu cầu tự nhiên (như thức ăn hay ngủ) thì đó không phải là kiêng ăn. Chúng ta phải dâng đời mình cho Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài. Nếu như không dâng tấm lòng (Xa 7:1-14) thì sự kiêng ăn không có giá trị thuộc linh bền vững nào cả.


Giống như bố thí và sự cầu nguyện, sự kiêng ăn thật sự phải được thực hiện ở nơi kín nhiệm tức là giữa con cái Chúa và Đức Chúa Trời. Bộ mặt của chúng ta làm vẻ “ủ rủ” (bằng cách ra vẻ buồn rầu và chờ mong sự cảm thương và ca ngợi) sẽ làm hư đi chính mục đích kiêng ăn. Ở đây Chúa chúng ta đặt ra một nguyên tắc căn bản của sự sống thuộc linh. Không có điều nào thật sự thiêng liêng lại xâm phạm đến điều Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta trong thiên nhiên. Đức Chúa Trời thường phá bỏ một điều tốt để lập nên một điều khác. Nếu chúng ta phải làm ra vẻ đau khổ để được xem là thiêng liêng, thế thì trong cách nhìn của chúng ta về việc thiêng liêng có điều gì đã bị sai trật.


Hãy nhớ rằng đạo đức giả làm chúng ta đánh mất tính chân thật trong nếp sống Cơ Đốc. Chúng ta lấy tiếng tăm thay cho tính chất, chỉ dùng ngôn từ thay cho lời cầu nguyện thật lòng, dùng tiền bạc thay thế cho sự dâng trọn tấm lòng. Không có gì lạ khi Chúa Giê-xu so sánh người Pha-ri-si với những mồ mả được tô trắng bên ngoài, nhưng bên trong đầy sự dơ dáy (Mat 23:27-28).


Nhưng nếp sống đạo đức giả không những lấy mất đi tính chất của chúng ta, mà còn không cho chúng ta hưởng những phước hạnh thuộc linh. Thay vì được sự chấp nhận vĩnh cửu của Đức Chúa Trời, chúng ta đi nhận sự khen ngợi ngắn ngủi của con người. Chúng ta cầu nguyện, nhưng không có sự trả lời. Chúng ta kiêng ăn, nhưng con người bên trong chúng ta chẳng thấy có sự chuyển biến nào cả. Đời sống thuộc linh trở nên trống rỗng và không có sự sống. Ngay bây giờ chúng ta đánh mất ơn phước của Đức Chúa Trời, Và khi Chúa Giê-xu trở lại chúng ta cũng không nhận được phần thưởng của Đức Chúa Trời.


Đạo đức giả cũng làm chúng ta mất đi ảnh hưởng thuộc linh. Người Pha-ri-si gieo ảnh hưởng tiêu cực bất cứ điều gì họ đụng đến đều bị ô uế và hư mất. Những ai kính trọng và vâng theo lời người Pha-ri-si nghĩ rằng chính họ đang được giúp đỡ, Nhưng trong thực tế họ đang bị tổn thương.


Bước đầu tiên để chiến thắng bản tính đạo đức giả là phải thành thật với Đức Chúa Trời trong nếp sống riêng tư của chúng ta. Chúng ta đừng cầu nguyện xin bất cứ điều gì mà lòng không thật muốn như vậy nếu không thì sự cầu nguyện của chúng ta chỉ là những lời sáo rỗng. Động cơ của chúng ta phải làm hài lòng một mình Đức Chúa Trời, cho dù người ta có nói hoặc làm điều gì đi chăng nữa. Chúng ta phải vun xới tấm lòng nơi kín nhiệm. Một câu nói rất hay, “Phần quan trọng nhất của đời sống Cơ Đốc là phần chỉ một mình Đức Chúa Trời nhìn thấy mà thôi.” Khi tiếng tăm trở thành quan trọng hơn tính chất , chúng ta đã trở thành kẻ đạo đức giả rồi.


4. Sử dụng của cải của chúng ta (Mat 6:19-34)

Chúng ta quen chia cuộc sống ra làm hai phần “phần thiêng liêng” và “phần vật chất”nhưng Chúa Giê-xu không phân chia như vậy. Trong nhiều thí dụ của Ngài. Ngài dạy rõ ràng rằng một thái độ đúng đối với của cải là một dấu hiệu thuộc linh đúng đắn (Lu 12:13 Lu 16:31). Người Pha-ri-si là kẻ ham tiền và dùng tôn giáo để kiếm lợi. Nếu chúng ta có sự công chính của Chúa Giê-xu Christ trong đời sống chúng ta, chúng ta sẽ có thái độ đúng đối với của cải vật chất.


Không có nơi nào Chúa Giê-xu đề cao sự nghèo khó hoặc phê phán cách thu lợi chính đáng. Đức Chúa Trời dựng nên mọi sự, kể cả lương thực, y phục, và những kim loại quí hiếm. Đức Chúa Trời phán rằng mọi vật Ngài làm nên đều tốt lành (Sa 1:31). Đức Chúa Trời biết rằng chúng ta cần dùng những điều đó để sống (Mat 6:32). Thực ra, Ngài đã ban cho chúng ta “mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (ITi 6:17) Sở hửu của cải là điều đúng, nhưmg để của cai trị làm chủ chúng ta là điều hoàn toàn sai. Tội thờ thần tượng cũng nguy hiểm như tội đạo đức giả! Trong Kinh Thánh có nhiều câu khuyến cáo nhắc nhở chúng ta chống lại thói tham tiền (Xu 20:17 Thi 119:36 Mac 7:22 Lu 12:15 Co 3:5 Eph 5:5).


Chúa Giê-xu dạy chúng ta đề phòng tội sống vì của cải vật chất đời này. Ngài nêu ra những hậu quả xấu xa của tội tham lam và thờ thần tượng.


Kẻ tôi mọi (Mat 6:19-24). Xu hướng về vật chất sẽ bó buộc tấm lòng của chúng ta (Mat 6:19-21), tâm trí (Lý trí) (Mat 6:22-23), và ý chí (Mat 6:24). Chúng ta có thể bị vật chất trói buộc, nhưng chúng ta phải được Đức Thánh Linh buông tha và kiểm soát cuộc đời chúng ta.


Nếu tấm lòng yêu mến vật chất, và đặt lợi ích vật chất lên trên những đầu tư cho thiên đàng, kết quả chỉ là sự hư mất thảm thương. Chúng ta có thể sử dụng của cải thế gian cho công việc Đức Chúa Trời. Nhưng nếu chúng ta thâu tóm của cải vật chất cho riêng mình chúng ta sẽ mất, và tấm lòng của chúng ta sẽ hư mất theo luôn với của cải của chúng ta. Thay vì chúng ta hưởng được sự giàu có thiêng liêng, chúng ta sẽ trải qua sự nghèo ngặt và đui mù.


Cất giữ của cải ở trên trời có nghĩa là gì? Điều đó có nghĩa là sử dụng tất cả những gì chúng ta có vì cớ danh vinh hiển của Đức Chúa Trời. Chứa của cải trên trời có nghĩa là “buông lỏng không gắn chặt” với của cải vật chất của đời. Nó cũng có nghĩa là cuộc sống được đo lường bằng của báu thật trong Nước thiên đàng chớ không bởi sự giàu có tạm bợ của thế gian này.


Của cải không chỉ nô lệ tấm lòng, nhưng còn làm chủ tâm trí nữa (Mat 6:22-23). Đức Chúa Trời thường dùng con mắt để bày tỏ những thái độ của tâm trí. Nếu con mắt tập trung vào ánh sáng, thân thể có thể hoạt động di chuyển một cách hợp lý. Nhưng nếu con mắt không nhìn rõ và trông một thành hai, có thể đi lại không vững vàng. Thật rất khó tiến về phía trước trong lúc cố nhìn về cả hai phía cùng một lúc.


Nếu mục đích của cuộc sống chúng ta nhằm đạt tới của cải vật chất, thì lương tâm của chúng ta sẽ ở trong tối tăm. Nếu quan điểm của chúng ta là phục vụ Chúa và tôn vinh danh Ngài, thì sự sáng sẽ ở trong chúng ta. Nếu điều gì đáng phải là ánh sáng mà thực sự là tối tăm, lúc ấy chúng ta đang bị tối tăm cai trị và quan điểm quyết định hậu quả.


Sau hết, xu hướng về vật chất có thể bắt ý chí làm nô lệ (Mat 6:24). Chúng ta không thể phục vụ cả hai ông chủ cùng một lúc. Hoặc làm tôi Chúa Giê-xu Christ là Chúa của chúng ta, hoặc làm tôi cho tiền bạc là Ma-môn. Đó là vấn đề thuộc ý chí. “còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy do...” (ITi 6:9). Nếu Đức Chúa Trời ban cho giàu có, và chúng ta sử dụng của cải để làm vinh hiển danh Ngài, thì sự giàu có là một phước hạnh. Nhưng nếu chúng ta ước mong giàu có và sống theo cách nhìn ấy, chúng ta sẽ trả giá đắt vì những của cải ấy.


Sự làm giảm giá trị (Mat 6:25-30) Sự tham muốn không những hạ giá trị của cải chúng ta, mà còn làm giảm danh giá chúng ta nữa. Chúng ta bắt đầu lo lắng và bối rối, và điều âu lo này là điều không bình thường và thuộc về thế gian. Người chạy theo tiền tài cho rằng của cải sẽ giải quyết mọi vấn đề của anh ta. Nhưng trong thực tế, giàu có tạo thêm nhiều khó khăn hơn.Của cải vật chất cho chúng ta cảm giác bảo đảm giả tạo, nguy hiểm, và cảm giác đó dẫn đến bi kịch. Chim sẻ và hoa huệ không buồn phiền và lo lắng tuy vậy chúng hưởng được sự giàu có của Đức Chúa Trời trong những cách mà con người không thể sánh kịp. Muôn vật tuỳ thuộc vào Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời không bao giờ thiếu vật gì. Chỉ có con người đáng chết mất mới nhờ cậy nơi tiền bạc và tiền của thì luôn luôn thiếu sót.


Chúa Giê-xu phán rằng lo lắng là tội lỗi. Chúng ta có thể đề cao sự lo bằng cách gắn cho nó một số tên gọi khác - quan tâm, gánh nặng, thập tự giá phải mang - nhưng mọi kết thúc vẫn như nhau. Thay vì làm cho chúng ta sống lâu hơn, sự âu lo chỉ khiến cho cuộc sống chúng ta ngắn lại (Mat 6:27). Từ ngữ Hy Lạp dịch cụm từ “phân tâm, không định” theo nghĩa đen có nghĩa là “bị lôi kéo theo nhiều hướng khác nhau”. Lo lắng tách rời chúng ta ra. Mãi cho đến lúc con người can thiệp vào, mọi vật trong thiên nhiên đều làm việc hài hoà với nhau bởi vì mọi vật đều tin cậy nơi Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, con người đã bị tách rời ra khỏi muôn vật bởi vì con ngưòi cố tìm cách sống cuộc sống riêng của mình nhờ cậy nơi của cải vật chất.


Đức Chúa Trời nuôi nấng chim sẻ cũng như mặc áo tốt cho loài hoa ngoài đồng. Ngài sẽ chăm sóc đồ ăn đồ mặc cho chúng ta. Chính vì “đức tin ít ỏi” của chúng ta làm ngăn trở không để Ngài thực hiện đều Ngài muốn. Ngài dành ban cho chúng ta những ơn phước lớn lao nếu như chúng ta vâng phục Ngài và sống vì của cải còn lại đời đời.


Không Làm Chứng Tốt (Mat 6:31-33) Lo lắng về của cải vật chất đời này là nếp sống của người ngoại đạo. Nếu chúng ta đặt để ý muốn của Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài ưu tiên trong cuộc đời chúng ta, Ngài sẽ chăm lo cho chúng ta mọi thứ khác. Có gương chứng nào tốt đẹp hơn cho thế gian khi một Cơ Đốc nhân dám thực hành cách sống trong Mat 6:33. Thật buồn thay khi có quá nhiều người không thực hiện được điều đó.


Đánh Mất Sự Vui Thoả Trong Hiện Tại (Mat 6:34)Lo Lắng cho ngày mai không giải quyết được gì cho ngày mai cũng như hôm nay. Có thể nói, nó lấy mất đi năng lực sống của chúng ta ngày hôm nay - và có nghĩa là năng lực ngày mai chúng ta cũng kém thiếu đi. Một người đã nói rằng Cơ Đốc nhân bình thường là người đang tự đóng đinh mình giữa hai tên tội phạm: những tiếc nuối của quá khứ và những âu lo về ngày mai. Lập kế hoạch cho ngày mai và ngay cả để dành cho tương lai là điều phải lẽ (IICo 12:14 ITi 5:8). Nhưng lo lắng về việc ngày mai và để cho tương lai lấy mất đi ơn phước của ngày hôm nay đó là tội lỗi.


Trong phần Kinh Thánh này có 3 chữ vạch ra cách chiến thắng sự lo lắng đức tin


(1) (Mat 6:30), tin cậy Đức Chúa Trời thoả mãn các nhu cầu của chúng ta


(2) Cha (Mat 6:32) chúng ta biết rằng Ngài chăm sóc các con cái của Ngài và


(3) trước hết (Mat 6:33) chúng ta đặt để ý muốn của Đức Chúa Trời ưu tiên trong cuộc sống của chúng ta để danh Ngài được vinh hiển. Nếu chúng ta tin cậy nơi Cha của chúng ta và mời Ngài ngự ở vị trí đầu nhứt. Ngài sẽ chu cấp cho chúng ta mọi điều cần dùng.


Đạo đức giả và lo lắng đều là tội lỗi. Nếu chúng ta làm theo sự công bình của Nước Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tránh được các tội lỗi này và sống vì danh vinh hiển của Đức Chúa Trời.


5. CÁC PHÉP TẮC NHÀ VUA: SỰ ĐOÁN XÉT THẬT (Mat 7:1-29)

Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si mắc tội đoán xét chính bản thân họ, người khác và ngay cả Đức Chúa Trời nữa. Nếp sống đạo đức giả của họ tạo điều kiện cho sự đoán xét này. Điều này giải thích lý do Chúa chúng ta sắp xếp bài giảng quan trọng tại trên núi ngay với lời dạy về sự đoán xét. Trong lời dạy này Ngài đưa ra 3 sự đoán xét khác nhau.


1. Chúng ta tự đoán xét mình (Mat 7:1-5)

Nguyên tắc đầu tiên của sự đoán xét đó là trước hết chúng ta tự đoán xét mình. Chúa Giê-xu không cấm chúng ta đoán xét người khác vì sự suy xét cẩn thận là điều cần thiết trong đời sống Cơ Đốc nhân. Tình yêu Cơ Đốc không phải là tình yêu mù quáng Phi 1:9-10). Người nào tin mọi điều mình nghe, và chấp nhận bất cứ ai tự nhận là thiêng liêng sẽ thấy rối trí và mất đi nhiều ơn phước thiêng liêng.Nhưng trước khi đoán xét người khác, chúng ta nên tự đoán xét lấy mình. Có một vài lý do cho điều này:


Chúng ta sẽ bị đoán xét (Mat 7:1). Thì của động từ “bị đoán xét” nói lên sự đoán xét cuối cùng một lần đủ cả. Nếu chúng ta tự đoán xét mình trước hết, chúng ta đang chuẩn bị cho kỳ phán xét cuối cùng khi đối diện trước mặt Đức Chúa Trời. Người Pha-ri-si “đóng vai Đức Chúa Trời” khi họ lên án người khác nhưng họ không nghĩ rằng một ngày kia Đức Chúa Trời sẽ phán xét họ.


Chúng ta đang bị đoán xét (Mat 7:2). Phân đoạn KT tương ứng trong Lu 6:37-38 sẽ làm sáng tỏ thêm ý này. Không chỉ Đức Chúa Trời sẽ đoán xét chúng ta vào ngày cuối cùng, nhưng ngay bây giờ chúng ta cũng đang bị người đời đoán xét và chúng ta ban phát thế nào sẽ nhận lại đúng y như vậy. Cách đoán xét và mức độ đoán xét sẽ phản hồi ngay lại cho chúng ta. Chúng ta gặt những gì chúng ta đã gieo.


Chúng ta phải nhìn thấy rõ ràng để giúp người khác (Mat 7:3-5). Mục đích tự đoán xét chuẩn bị cho chúng ta sẵn sàng phục vụ người khác. Cơ Đốc nhân bắt buộc phải giúp đỡ người khác lớn lên trong ân điển. Khi chúng ta không tự xét mình, không những chúng ta làm tổn thương chính mình, chúng ta còn làm thương tổn những người chúng ta có thể rao giảng Phúc Âm cho họ. Người Pha-ri-si đoán xét và phê bình người khác để tự tôn mình tốt hơn (Lu 18:9-14). Nhưng Cơ Đốc nhân nên tự xét mình để giúp người khác trở nên tốt. Sự khác nhau là ở chỗ đó!


Hãy xem Chúa chúng ta minh hoạ cho lời dạy này. Chúa Giê-xu chọn biểu tượng con mắt bởi vì đây là cơ quan nhạy cảm nhất của thân thể con người. Bức tranh nói về một người có cây đà trong mắt đang tìm cách lấy cái rác ra khỏi mắt người khác, quả là một chuyện tức cười. Nếu chúng ta không thành thật nhìn nhận tội lỗi và xưng ra với Chúa, chúng ta tự làm đui mù và không thể thấy rõ đúng mức để giúp ích người khác. Người Pha-ri-si thấy tội lỗi của người khác, nhưng họ không nhìn thấy tội của mình.


Trong Mat 6:22-33, Chúa Giê-xu dùng hình ảnh con mắt để dạy chúng ta cách nhìn thiêng liêng về cuộc sống. Chúng ta không nên xét đoán động cơ của người khác. Chúng ta nên xem xét hành động và thái độ của họ, nhưng chúng ta không thể đoán xét động cơ của họ - vì chỉ một mình Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy tấm lòng của họ. Có khả năng một người làm việc tốt đẹp xuất phát từ động cơ xấu. Cũng có thể công việc người ấy thất bại trong khi có động cơ rất chân thành. Khi chúng ta đứng trước mặt Chúa Giê-xu Christ trong giờ phán xét cuối cùng. Ngài sẽ xem xét các việc kín giấu trong lòng và ban thưởng tuỳ theo việc chúng ta đã làm (Co 3:22-25 Ro 2:16).


Hình ảnh về con mắt dạy chúng ta một lẽ thật khác: Chúng ta phải thực hành đức yêu thương và lòng nhân hậu khi tìm cách giúp đỡ người khác (Eph 4:15). Tôi đã nhiều lần đi khám mắt, và có một lần được giải phẩu để lấy ra một vảy thép bị bắn vào mắt và tôi hiểu được sự khéo léo nhẹ nhàng của các thầy thuốc. Giống như các bác sĩ nhãn khoa chúng ta nên chăm sóc người chúng ta muốn giúp đỡ bằng tấm lòng yêu thương ân cần. Có thể gây nguy hại hơn một mảy bụi bay vào mắt nếu chúng ta đến với người khác với lòng thiếu kiên nhẫn và sự hờ hững.


Chúng ta phải tránh hai thái cực trong việc tự xét về đời sống thuộc linh. Trước hết là sự tra xét hời hợt cẩu thả. Đôi khi chúng ta tự tin quá đến nỗi bỏ qua không tra xét tấm lòng chúng ta cách chân thành và thấu đáo. Chỉ một cái nhìn thoáng vào chiếc gương soi là Lời Đức Chúa Trời chúng sẽ không nhìn thấy được tình trạng thật của mình (Gia 1:22-25).


Thái cực thứ hai là điều tôi gọi là “sự khám nghiệm liên tục”. Thỉnh thoảng chúng ta mãi mê tra xét mình đến nỗi trở nên mất quân bình. Nhưng chúng ta không nên chỉ nhìn vào chính mình, kẻo chúng ta sẽ nãn chí và thất bại. Chúng ta nên nhìn vào Chúa Giê-xu bằng đức tin của mình và hãy để Ngài thứ tha rịt lành cho chúng ta.Sa-tan là kẻ kiện cáo (Kh 12:10), và nó vui mừng khi chúng tự buộc tội và lên án chính mình.


Sau khi tự tra xét mình cách chân thành trước mặt Đức Chúa Trời, lấy đi những vật che khuất mắt chúng ta, lúc ấy chúng ta có thể giúp ích được người khác và xét đoán công việc của họ cách đúng đắn. Nhưng nếu biết trong chúng ta còn có tội lỗi mà nổ lực giúp đỡ người khác, chúng ta là những người đạo đức giả. Thực tế có thể chúng ta lấy việc chăm sóc người khác làm bình phong che đậy tội lỗi của mình. Người Pha-ri-si đã phạm tội này, và Chúa Giê-xu đã lên án họ đối với việc làm ấy.


2. Chúng ta xét đoán người khác (Mat 7:6-20)

Cơ Đốc nhân phải sử dụng khả năng phán đoán chính xác vì không phải tất cả mọi người đều là chiên cả. Một số người độc ác tham lam, một số khác là muông sói đội lốt chiên. Chúng ta là chiên của Chúa, nhưng điều này không có nghĩa chúng ta để cho người ta lừa dối chúng ta.


Lý do chúng ta phải xét đoán (Mat 7:6). Là con dân của Đức Chúa Trời, chúng ta được vinh dự nắm giữ “những đồ thánh” của Ngài. Ngài giao phó cho chúng ta những lẽ thật quí báu trong lời Đức Chúa Trời (IICo 4:7) và chúng ta phải cẩn thận giữ gìn. Không có thầy tế lễ tận tuỵ nào lại quăng thịt từ bàn thờ cho một con chó bẩn thỉu, và chỉ có người dại mới quăng hột trai trước mặt heo. Sự thật chúng ta phải đem Phúc Âm “đến cho mọi người” (Mac 16:15) trong khi đó chúng ta không được bán rẻ Phúc Âm qua sự phục vụ thiếu suy xét chín chắn. Chúng ta thấy Chúa Giê-xu từ chối không trả lời vua Hê-rốt (Lu 23:9), và cả Phao-lô cũng không chịu tranh luận với dân chúng đang chống nghịch lời Hằng Sống Cong (Lu 13:44-49).


Thế thì đoán xét không phải lý do có thể lên án người khác, nhưng chúng ta chăm sóc nâng đỡ họ. Điều lưu ý đó là Chúa Giê-xu luôn luôn chăm lo đến từng cá nhân tuỳ theo nhu cầu và tình trạng thuộc linh của họ. Ngài không dùng bài nói chuyện thuộc lòng để trò chuyện với mọi người. Ngài dạy Ni-cô-đem về sự sanh lại, nhưng Ngài phán với người đàn bà Sa-ma-ri về nước Hằng Sống. Khi các nhà lãnh đạo tôn giáo cố tìm cách bắt bẽ Ngài, Ngài không trả lời câu hỏi của họ (Mat 21:23-27). Một Cơ Đốc nhân khôn ngoan là người biết đánh giá lòng người trước khi chia sớt ngọc châu quí giá.


Những vật tốt Đức Chúa Trời ban cho chúng ta (Mat 7:7-11). Tại sao Chúa đề cập đến sự cầu nguyện vào lúc này trong sứ điệp của Ngài? Các câu Kinh Thánh này có vẻ như làm gián đoạn sứ điệp của Chúa, nhưng không phải như vậy. Bạn và tôi đều là con người có thể phạm sai lầm chúng ta đều phạm lỗi.Chỉ có Đức Chúa Trời mới có đủ thẩm quyền đoán xét chính xác. Vì vậy, chúng ta phải cầu xin và tìm kiếm sự khôn ngoan cùng sự chỉ dẫn của Ngài. “Nếu trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời...” (Gia 1:5). Sa-lô-môn vị vua trẻ tuổi biết mình thiếu sự khôn ngoan để cai trị dân Y-sơ-ra-ên, vì vậy ông đã cầu xin Đức Chúa Trời và Ngài đã ân cần trả lời (IVua 3:3). Nếu muốn có được sự phán đoán thuộc linh chúng ta phải kiên trì cầu xin, kiên trì tìm kiếm ý chỉ của Ngài, kiên trì gõ cửa dẫn đến sự phục vụ lớn hơn. Đức Chúa Trời đáp ứng nhu cầu của con cái Ngài.


Nguyên tắc hướng dẫn (Mat 7:12). Nguyên tắc này được gọi là “Luật Vàng”, một trong những câu trong Kinh Thánh bị hiểu sai nhiều nhất. Câu Kinh Thánh này không phải là ý tóm tắt toàn bộ chân lý Cơ đốc giáo, cũng không phải là kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời. Đừng tìm cách xây dựng khoa thần học trên Luật Vàng cũng như là không thể xây dựng khoa thiên văn chỉ dựa vào“Ánh sáng lấp lánh của một vì sao nhỏ”.


Lẽ thật lớn lao này là nguyên tắc phải điều hướng thái độ của chúng ta nghĩ về người khác. Luật này chỉ áp dụng cho người tin Chúa, và phải được thực hiện trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Người thực hiện Luật Vàng từ chối không chịu nói và hay làm bất cứ điều gì có hại đến bản thân và người khác. Nếu đoán xét người khác không theo nguyên tắc này, chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo và chỉ trích, và rồi tính chất thiêng liêng của chúng ta sẽ sa sút.


Thực hành Luật Vàng bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời trong cuộc đời chúng ta và giúp chúng ta có thể nâng đỡ người khác cả đến những người muốn làm hại chúng ta.


Nhưng hãy nhớ rằng thực hành Luật Vàng có nghĩa phải trả giá. Nếu chúng ta muốn Đức Chúa Trời dành điều tốt nhất cho chúng ta và người khác, nhưng những người khác chống lại ý muốn của Đức Chúa Trời, và rồi họ sẽ chống chúng ta. Chúng ta là muối, nhưng là muối xát vào vết thương. Chúng ta là ánh sáng, nhưng là ánh sáng phơi bày dơ dáy bụi bặm.


Nền tảng cho sự đoán xét (Mat 7:13-20). Vì có nhiều tiên tri giả trong thế gian, chúng ta nên cẩn thận để không bị lừa phỉnh. Nhưng điều nguy hiểm hơn hết là tự lừa đối mình. Thầy thông giáo và người Pha-ri-si đã tự lừa dối mình tin rằng họ công bình còn người khác là tội lỗi. Con người có thể biết ngôn ngữ đúng, tin những giáo lý chính xác, vâng theo bằng trí năng qui tắc mẫu mực nhưng vẫn không được cứu. Chúa Jêsus dùng hai bức tranh giúp chúng ta tự đoán xét mình và người khác.


Hai con đường (Mat 7:13-14) dĩ nhiên đây là đường dẫn đến sự sống và một đường khác dẫn đến sự hư mất. Đường rộng rãi thì dễ đi lại con đường nhiều người yêu thích. Nhưng chúng ta nên phán đoán công việc hay chức vụ thuộc linh dựa trên số thống kê đa số không phải lúc nào cũng đúng. Sự kiện “mọi người đều làm như vậy” không phải là bằng chứng cho thấy những gì họ làm là đúng.


Sự thật hoàn toàn ngược lại: con dân của Đức Chúa Trời luôn luôn là thành phần còn sót lại, một thiểu số nhỏ nhoi trong thế gian này. Chúng ta dễ dàng nhận ra được lý do: Bước đi trong con đường hẹp là sống trong khuôn phép, trong cô đơn và trả giá đắt. Chúng ta có thể bước đi trên con đường khoảng khoát và giữ lấy “gánh nặng” tội lỗi cùng lạc thú thế gian. Nhưng nếu bước đi trên con đường hẹp, chúng ta phải lột bỏ những điều ấy.


Đây là điều kiểm chứng đầu tiên: Bạn có trả giá cho việc bạn tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ không? Nếu không, đó không phải là đức tin thật. Nhiều người “tin nhận” Chúa Giê-xu Christ mà chẳng hề từ bỏ con đường rộng khoảng khoát đầy dẫy những tham dục và chè chén say sưa. Họ mang nếp sống Cơ Đốc dễ dãi không đòi hỏi họ phải gắng công ra sức thực hiện. Tuy nhiên Chúa Giê-xu phán rằng đường hẹp là đường gian nan khó khăn. Chúng ta không thể nào bước đi trên hai con đường cùng một lúc theo hai hướng khác nhau được.


Hai thứ cây (Mat 7:15-20) bày tỏ đức tin thật nơi Chúa Giê-xu Christ làm thay đổi đời sống và sanh bông trái làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Mọi vật trong thiên nhiên sinh sản theo loại của nó, và đây cũng là điều thật sự xảy ra trong lãnh vực thiêng liêng. Cây tốt sanh trái tốt, nhưng cây xấu cho trái xấu. Cây sanh trái xấu phải bị đốn và quăng vào lửa. ” Ấy vậy, các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được” (Mat 7:20).


Điều kiểm chứng thứ hai: Quyết định theo Chúa Giê-xu Christ của tôi có thay đổi cuộc đời tôi không? Những tiên tri giả giảng dạy lời giáo huấn sai trật chỉ sinh ra nếp sống công bình giả tạo (Cong 20:29). Bông trái của họ (những kết quả trong công việc của họ) chỉ là hư hoại và không thể nào tồn tại lâu dài. Chính cuộc sống của các tiên tri giả cho thấy sự sai trật của họ càng gần gủi họ chúng ta càng thấy cuộc sống và lời dạy của họ là giả dối. Họ không tôn vinh Chúa Giê-xu Christ mà chỉ tôn vinh chính mình mục đích của họ nhằm lợi dụng người khác chớ không giúp ích cho ai. Người tin theo lời giáo huấn sai trật hoặc đi theo người dạy đạo sai sẽ chẳng bao giờ kinh nghiệm được cuộc sống đổi mới. Bất hạnh thay, một số người không nhận ra điều này cho đến lúc quá muộn.


3. Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (Mat 7:21-29)

Qua phát hoạ hình ảnh hai con đường và hai loại cây, Chúa chúng ta gói gọn sứ điệp của Ngài bằng hình ảnh hai người cất nhà. Hai con đường minh hoạ sự khởi đầu của đời sống đức tin hai loại cây nói lên sự tăng trưởng và kết quả của đời sống đức tin hiện nay và hai ngôi nhà tiêu biểu cho phần kết thúc của cuộc sống đức tin này, lúc ấy Đức Chúa Trời sẽ gọi mọi vật đến mà đoán xét. Tại nơi cửa dẫn đến con đường rộng rãi khoảng khoát có những tiên tri giả tạo mọi điều kiện dễ dàng cho người ta đi vào. Nhưng ở tại cuối con đường có sự hư mất hiện ra.Sự thử nghiệm cuối cùng không phải là điều chúng ta tự nghĩ về mình, hoặc người khác có thể đến. Điều thử nghiệm sau chót đó là: Đức Chúa Trời sẽ phán gì?


Làm thế nào chúng ta có thể chuẩn bị cho kỳ đoán phạt này? Bằng cách làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời là thức thách đức tin thật nơi Chúa Giê-xu Christ. Sự thách thức thử nghiệm không phải bằng lời nói.không chỉ nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa”, và không vâng theo mệnh lệnh của Ngài.Thật dễ dàng học biết một từ ngữ tôn giáo, thậm chí nhớ thuộc lòng nhiều câu Kinh Thánh và lời thánh ca nhưng vẫn không làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Khi một người thật sự được sanh lại, người đó có Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong lòng (Ro 8:9) Chúa Thánh Linh dạy người ấy biết và làm theo ý muốn Đức Chúa Cha. Tình yêu của Đức Chúa Trời trong lòng người ấy (Ro 5:5) thúc giục người vâng phục Chúa và phục vụ người khác.


Lời nói không thể thay thế cho sự vâng lời, cả đến những hành vi tôn giáo cũng không. Giảng dạy, đuổi quỉ, và làm nhiều phép lạ có thể được linh cảm từ trên cao, nhưng những điều ấy không đảm bảo cho sự cứu rỗi. Có thể Giu-đa đã tham gia vào một vài hoặc mọi hoạt động này, nhưng Giu-đa không phải là Cơ Đốc nhân thật. Trong ngày sau rốt, quỉ Sa-tan sẽ dùng “những việc kỳ dối giả” để lừa phỉnh con người (IITe 2:7-12).


Chúng ta phải nghe lời Đức Chúa Trời và làm theo (Gia 1:22-25). Chúng ta không nên lấy nghe (hoặc học hỏi) lời Ngài làm đủ. Điều chúng ta nghe phải được kết quả trong hành động. Đây là ý nghĩa của việc xây cất nhà trên hòn đá. Chúng ta không nên nhầm lẫn hình bóng này với “nền móng” trong ICo 3:9.Thánh Phao-lô thiết lập Hội Thánh địa phương tại thành phố Cô-rinh-tô trên Chúa Giê-xu Christ khi ông rao giảng Phúc Âm và chinh phục mọi người cho Đấng Christ. Đây là nền tảng duy nhất cho một Hội Thánh.


Nền móng trong thí dụ này là sự nghe theo lời của Đức Chúa Trời - sự vâng lời là bằng chứng của đức tin thật (Gia 2:14). Hai người đàn ông trong câu chuyện có nhiều điểm chung. Cả hai đều có ao ước xây dựng một ngôi nhà. Cả hai đã xây xong nhà trông tốt đẹp và chắc chắn. Nhưng khi sự đoán xét xảy ra (cơn gió bão), một trong hai ngôi nhà bị sập. Điểm khác nhau là gì? Chắc chắn không phải chỉ là cái nhìn bên ngoài. Điểm khác biệt ở đây nằm ở cái nền: người cất nhà thành công “đào đất cho sâu” và dựng nhà mình trên nền đá vững chắc (Lu 6:48).


Nếp sống đạo giả dối sẽ tồn tại cho đến khi sự đoán xét mở ra. Đôi khi sự phán xét này là những hình thức rèn luyện đức tin. Giống như người có lòng nông cạn nhận lấy hột giống đạo (Mat 13:4-9), khi sự bắt bớ, thử luyện đến thì liền vấp phạm.Nhiều người đã xưng nhận đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ, khi cuộc sống trở nên khó khăn và gian nan thì liền chối bỏ đức tin.


Nhưng sự phán xét được nói ở đây có thể là sự phán xét ngày sau trước toà án trắng của Đức Chúa Trời. Chúng ta không nên tưởng rằng thí dụ này nói đến tất cả lời dạy chúng ta học được trong các thư tín vì Chúa đang bày tỏ một điều quan trọng: Mọi hình thức tin đạo cuối cùng rồi sẽ bị thử nghiệm trước mặt Đức Chúa Trời. Người đặt lòng tin cậy nơi Cứu Chúa Giê-xu và bày tỏ đức tin của mình trong sự vâng lời sẽ không sợ hãi. Nhà của họ được xây trên Vầng Đá, nhà ấy sẽ đứng vững vàng. Nhưng người đã tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ mà không vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ bị đoán phạt.


Chúng ta sẽ thử nghiệm hình thức tin đạo như thế nào? Có phải do sự mến mộ của nhiều người? Không phải như vậy, vì có nhiều người đi trên lối rộng và khoảng khoát dẫn đến sự hư mất. Có nhiều người nhờ cậy vào lời nói “Lạy Chúa, lạy Chúa” -nhưng không bảo đảm được sự sống đời đời. Ngay cả các hoạt động tôn giáo trong tổ chức Hội Thánh cũng không đưa đến sự cứu rỗi. Thế thì làm thế nào chúng ta tự xét đoán mình và những người xưng nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa của họ?


Hai con đường dạy chúng ta xem xét lại giá trả của việc xưng nhận Chúa. Chúng ta đã trả giá trong việc tuyên xưng đức tin nơi Chúa chưa? Thí dụ về hai loại cây dạy chúng ta rà soát lại cuộc sống chúng ta đã thật sự thay đổi chưa. Có những bông trái thánh thiện xuất phát từ đời sống chúng ta không? Và thí dụ về hai ngôi nhà nhắc nhở chúng ta rằng đức tin thật nơi Đấng Christ sẽ còn lại đời đời, không chỉ trong những cơn bão của cuộc đời, mà còn trong cả sự phán xét cuối cùng.Đoàn dân lấy làm lạ về lời giảng dạy này. Tại sao như vậy? Vì Chúa Giê-xu dạy cách có quyền phép. Các thầy thông giáo và người Pha-ri-si “dùng quyền của họ”mà giảng dạy, họ luôn luôn trích dẫn lời của các thầy dạy đạo và những nhà chuyên dạy luật pháp. Chúa Giê-xu không cần một thầy giáo nào để tăng thêm uy lực cho lời dạy của Ngài vì Ngài giảng dạy trong tư cách là Con Đức Chúa Trời.Chúng ta không thể nông nổi gạt bỏ lời dạy bảo này, vì chính Đức Chúa Trời đã phán dạy cho chúng ta. Hoặc là chúng ta nên cúi xuống trước ngôi Ngài và phục tùng quyền tể trị của Ngài, hoặc là chúng ta sẽ bị Ngài tuyên án phạt.


6. QUYỀN NĂNG CỦA VUA (Mat 8:1-9:38)

Chúng ta đã được giới thiệu về Con Người của Vua (Các chương 1-4) và các phép tắc của Vua (Các chương 5-7) và bây giờ chúng ta được nghe về quyền năng của Vua. Xét cho cùng, nếu một vị vua không có quyền hành hoàn thành bất cứ việc gì, liệu những lời chứng hoặc các phép tắc của Vua ấy có đáng tin không? Trong các chương 8-9, Ma-thi-ơ ghi lại 10 phép lạ. Các phép lạ này không được sắp xếp theo trình tự thời gian, ngoại trừ phép lạ thứ 4, bởi vì Ma-thi-ơ theo phương pháp tập trung các sứ điệp và sự kiện của riêng ông.


Tuy nhiên trước khi tìm hiểu các ví dụ này, chúng ta nên dừng lại để giải đáp câu hỏi: Tại sao Chúa chúng ta thi hành các phép lạ?


Chắc chắn Ngài muốn đáp ứng các nhu cầu của con người. Đức Chúa Trời quan tâm đến lợi ích tạm thời của con người Ngài đã dựng nên cũng như hạnh phúc đời đời của họ. Chia cắt chức vụ đối với thân thể với chức vụ đối với linh hồn là không đúng, bởi vì chúng ta phải chăm lo cả thân thể lẫn tâm linh con người (Mat 4:23-25).


Tất nhiên các phép lạ của Chúa là những bằng cớ thêm vào để xác quyết cho lời tuyên bố của Ngài là Đấng Mê-si-a của dân Y-sơ-ra-ên. “Người Giu-đa xin một dấu hiệu” (ICo 1:22). Trong khi đó tự các phép lạ không phải là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời đã sai một người đến thế gian (quỉ Sa-tan cũng có thể thực hiện phép lạ (IITe 2:9), các phép lạ chỉ tăng thêm sức mạnh cho lời tuyên bố của Ngài, nhất là bản tính thánh khiết và công việc của Ngài. Trong trường hợp của Chúa Giê-xu Christ, các phép lạ Ngài làm ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu Ước (Es 29:18-19 Es 35:4-6). Mat 8:17 nhắc chúng ta nhớ đến Es 53:4 và chính Chúa Giê-xu Christ trong Mat 11:1-5 cũng đưa Giăng Báp-tít đến với những lời hứa trong Cựu Ước. Những “dấu kỳ phép lạ” xảy ra giống như vậy sẽ là lời chứng cho người theo Ngài trong đời sống chức vụ của họ (Mat 10:8 He 2:1-4).


Kèm theo lòng thương xót và lời chứng của Ngài, lý do thứ ba Ngài thực hiện phép lạ đó là: Ngài mong muốn bày tỏ chân lý cứu rỗi cho mọi người. Các phép lạ là “những bài giảng bằng hành động”. Ngay cả Ni-cô-đem cũng bị thu hút bởi các phép lạ ấy (Gi 3:1-2). Không bỏ công khi lưu ý đến 5 phép lạ được thi thố tại thành phố Ca-bê-na-um, tuy vậy cả thành phố khước từ Ngài (Mat 11:21-23). Ngay cả dân tộc Y-sơ-ra-ên khước từ Ngài đã ứng nghiệm lời tiên tri Cựu Ước (Gi 12:37-41). Giống như sự đoán phạt giáng trên dân Ai Cập trong thời Môi-se, các phép lạ của Chúa là những án phạt trong dân Y-sơ-ra-ên, vì dân sự phải chấp nhận sự việc và quyết định. Các nhà lãnh đạo tôn giáo định rằng Chúa Giê-xu đang làm việc cho quỉ Sa-tan (Mat 9:31-34 Mat 12:24).


Một điều chắc chắn là: Chúa Giê-xu không thực hiện phép lạ để “thu hút đám đông”.Lúc nào Ngài cũng tránh xa đám đông. Lần này đến lần khác, Chúa Giê-xu dạy những người Ngài đã chữa lành không được tỏ việc ấy cho ai (Mat 8:4,18 Mat 9:30 Lu 8:56). Ngài không muốn dân chúng tin Ngài chỉ trên nền tảng các phép lạ (Gi 4:46-54). Đức tin phải đặt nền tảng trên Lời của Ngài (Ro 10:17).


Các phép lạ trong những chương sách này được ghi lại thành 3 nhóm, xen giữa là một biến cố liên quan đến chức phận môn đệ. Ma-thi-ơ không cho độc giả của ông biết tại sao ông dùng cách sắp xếp này, nhưng chúng ta sẽ đi theo cách thức này. Để giúp chúng ta nắm vững một số bài học thuộc linh, tôi đã mô tả đặc điểm nhấn mạnh cho từng phần.


1. Ân điển cho người bị xã hội khinh bỉ (Mat 8:1-22)

Người bị phung, kẻ ngoại bang và phụ nữ là những người bị nhiều người Giu-đa nhất là người Pha-ri-si xem là đáng bị nguyền rủa. Nhiều người Pha-ri-si cầu nguyện mỗi sáng như vầy “Tôi dâng lời cảm tạ tôi là người đàn ông chớ không phải là đàn bà, là người Giu-đa chớ không phải dân ngoại bang, một người tự do chớ không phải kẻ nô lệ.”


Người phung được sạch (Mat 8:1-4). Có nhiều nỗi đau khổ Kinh Thánh kể cùng hạng như bệnh phung. Chứng bệnh chết người này buộc nạn nhân phải sống cách ly với người khác và la to “ô uế! ô uế! ” khi có ai đó đến gần, để họ khỏi bị ô uế. Việc người phung chạy đến với Chúa Giê-xu và vi phạm luật lệ là một chứng cớ bày tỏ lòng tin chắc Chúa Giê-xu sẽ chữa lành cho ông.


Bệnh phung là hình ảnh của tội lỗi Es 1:5-6). Những lời chỉ dạy cho các thầy tế lễ chép trong Le 13:1-59 giúp chúng ta hiểu được bản chất của tội lỗi: Tội lỗi ăn sâu vào trong da (Le 13:3) nó ăn lan (Le 13:7) tội lỗi làm cho người bị ô uế và phải sống một mình (45-46) và chỉ dành cho lửa (52,57).


Khi Chúa Giê-xu rờ đến người phung, Ngài mang lấy sự ô uế của người bị phung nhưng Ngài cũng truyền sức sống của Ngài cho người phung nữa. Đây không phải là cách Ngài đã làm cho chúng ta trên thập tự giá khi Ngài gánh thay tội lỗi chúng ta sao? (IICo 5:21). Người phung không thắc mắc khả năng chữa lành bệnh của Ngài người phung chỉ tự hỏi liệu Ngài có sẵn lòng không. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời sẵn lòng cứu giúp. Ngài là “Đức Chúa Trời, Cứu Chúa chúng ta, Ngài muốn cho mọi người được cứu rỗi...” (ITi 2:3-4). Đức Chúa Trời “không muốn cho một người nào bị chết mất" (IIPhi 3:9).


Chúa Giê-xu truyền lệnh cho người được chữa lành bệnh phung không được nói cùng ai nhưng phải đến gặp thầy tế lễ để họ chứng nhận rằng mình đã được chữa lành và được hội nhập trở lại xã hội. Nghi thức này được mô tả trong sách Le 14:1-57 và là một hình ảnh đẹp trong công tác của Chúa Giê-xu Christ đối với tội nhân. Con chim đổ huyết hình bóng về sự chết của Đấng Christ con chim được thả ra hình bóng về sự sống lại của Ngài. Bỏ con chim vào trong chậu hình bóng về sự trở nên người khi Ngài mang lấy hình hài con người để có thể chết thay cho chúng ta. Dùng huyết bôi trên lỗ tai, ngón tay cái và ngón chân làm hình bóng về đức tin cần phải có của cá nhân tin vào sự chết của Ngài. Dầu đổ ra trên huyết nhắc chúng ta nhớ đến Thánh Linh của Đức Chúa Trời, Đấng vào ngự trong lòng kẻ tin nhận Đấng Christ.


Người được chữa lành bịnh phung không vâng lời Chúa Giê-xu Christ anh ta kể cho mọi người nghe về điều Chúa đã làm cho mình (Chúa Giê-xu Christ dạy chúng ta rao ra cho mọi người nghe, và chúng ta lại giữ yên lặng) Mac 1:45 cho chúng ta biết rằng lời làm chứng của người được chữa lành bịnh phung khiến Chúa Giê-xu phải lánh khỏi thành phố nhưng đám đông đến theo Ngài.


Đầy tớ thầy đội được chữa lành (Mat 8:5-13). Thầy đội là một sĩ quan chỉ huy 100 quân trong binh đội La Mã. Mỗi thầy đội được nhắc đến trong các sách Phúc Âm và Công-vụ-các-sứ-đồ là người mẫu mực có tư cách và tinh thần trách nhiệm cao, và viên thầy đội này cũng là người như vậy. Sự việc ông lo lắng đến đứa đầy tớ thấp hèn cho thấy lòng tốt của ông. Từ ngữ “bịnh bại” nói đến một dạng bại liệt.


Dường như mọi điều đó có liên quan đến viên thầy đội làm ngăn trở ông không đến cùng Chúa Giê-xu được. Ông ta là một người lính chuyên nghiệp, còn Chúa Giê-xu là người hiền hoà. Ông ta là người ngoại bang, Chúa Giê-xu là người Do Thái. Nhưng người lính này có một điều ủng hộ ông: ông ta là người có đức tin lớn. Viên thầy đội này hiểu rằng Chúa Giê-xu là Đấng có quyền cũng giống như chính ông ta. Điều Chúa Giê-xu Christ làm là Ngài truyền lời phán và bệnh tật vâng lệnh Ngài giống như cách người lính vâng mệnh lệnh của chỉ huy. Một chi tiết chúng ta đáng lưu ý, chỉ có những ai chịu thuận phục quyền hành mới có quyền thực thi quyền hành.


Các sách Phúc Âm ghi lại có đến 2 lần Chúa Giê-xu ngạc nhiên: ở đây, Ngài lấy làm lạ bởi đức tin lớn của viên thầy đội ngoại bang và trong Mac 6:6, Ngài lấy làm lạ bởi sự không tin của người Giu-đa. Ma-thi-ơ ghi lại hai phép lạ “dành cho người ngoại bang": phép lạ này và phép lạ chữa lành con gái của người đàn bà Ca-na-an (Mat 15:21-28). Trong cả hai trường hợp, Chúa đánh giá cao đức tin của họ. Đây là lần đầu cho thấy người Giu-đa không tin nhưng người ngoại bang lại tin. Hơn nữa, ở cả hai phép lạ này, Chúa chúng ta chữa lành từ xa. Đây là điều nhắc nhở chúng ta về địa vị thuộc linh của người ngoại bang, “cách xa” (Eph 2:12).


Bà gia Phi-e-rơ được chữa lành (Mat 8:14-17). Bà ta đang nằm trên giường đau rét và Phi-e-rơ cùng Anh-rê thưa với Chúa Giê-xu về điều bà cần khi họ vào nhà sau giờ thờ phượng tại nhà hội (Mac 1:29). Phụ nữ không nắm giữ vị trí cao trong dân Y-sơ-ra-ên, và cũng đáng ngờ lắm sẽ có một người Pha-ri-si để mắt đến nhu cầu trong gia đình của Phi-e-rơ. Chúa Giê-xu đã nắm tay và chữa lành cho bà, rồi bà chổi dậy hầu việc Chúa và người khác.


Đây dường như là một “phép lạ nhỏ” nhưng kết quả thật lớn vì sau khi mặt trời lặn (lúc chấm dứt ngày Sa-bát), cả thành phố nhóm lại trước cửa và Ngài thoả đáp mọi nhu cầu của họ (Mac 1:32-34). Ơn phước trong gia đình phải dẫn đến phước hạnh nơi cộng đồng. Sự thay đổi trong cuộc đời một phụ nữ đã dẫn đến phép lạ trong đời sống của nhiều người.


Ma-thi-ơ nhìn thấy điều này đã được ứng nghiệm lời tiên tri Es 53:4. Xin bạn lưu ý Chúa Giê-xu hoàn tất lời tiên tri này ngay trong cuộc sống của Ngài chớ không phải trên thập tự giá. Ngài đã mang sự đau ốm và bệnh tật của con người trong suốt chức vụ của Ngài trên thế gian. Nói rằng có “sự chữa lành để chuộc tội” và mọi kẻ tin đều có “quyền” đòi hỏi điều đó là sự diễn dịch sai Kinh Thánh. IPhi 2:24 ứng dụng chân lý này đối với ơn tha thứ mọi tội lỗi chúng ta mà Ngài gánh thay trên thập tự giá. Tội lỗi và bệnh tật luôn đi đôi với nhau (Thi 103:3), bởi vì bệnh tật là hậu quả của tội lỗi của A-đam và cũng là hình ảnh minh hoạ của tội lỗi. Nhưng Đức Chúa Trời không bị bắt buộc chữa lành hết mọi bệnh tật. Ngài buộc phải cứu mọi tội nhân xưng nhận danh Ngài.


Phần chuyển tiếp đầu tiên về “chức phận môn đệ” (Mat 8:18-22). Bởi vì đoàn dân đông theo Chúa Giê-xu, và chưa có sự chống đối xảy ra, nên nhiều người muốn theo Ngài làm môn đệ. Tuy nhiên, họ không trả giá cho việc làm môn đệ của mình. Nhóm từ “Con người” được dùng lần đầu trong sách Ma-thi-ơ là danh xưng dành cho Chúa Giê-xu. Đây là tứơc hiệu Mê-si-a và vương quyền của nhà vua chép trong sách tiên tri Da 7:13. Mat 8:22 có thể hiểu như thế này, “Hãy để những người chết phần tâm linh lo mai táng người chết của họ”.Chúa Giê-xu không đòi hỏi người đàn ông tỏ ra thiếu kính trọng cha của ông ta (người đang sống), nhưng Ngài yêu cầu ông ta phải có những ưu tiên đúng đắn trong cuộc sống. Rao giảng Phúc Âm và đem sự sống đến cho người chết tâm linh là điều tốt đẹp hơn là ngồi đợi cho đến khi cha của bạn qua đời và chôn cất ông ta.


2. Bình an cho người bối rối (Mat 8:23-34)

Những người được nhắc đến trong 3 phép lạ này đều cần sự bình an, và Chúa Giê-xu đã ban cho họ sự bình an ấy.


Bình an trong cơn bão (Mat 8:23-27). Biển Ga-li-lê có chiều dài độ 13 dặm và rộng khoảng 8 dặm. Những cơn bão dữ tợn thình lình nổi lên trên biển là chuyện bình thường. Chúa Giê-xu biết chắc cơn bão sắp xảy đến và chắc chắn Ngài có thể ngăn không cho cơn bão xảy ra. Nhưng Ngài đã cho phép xảy ra để dạy cho các môn đệ Ngài bài học về quyền năng của Ngài.


Cơn bão nổi lên vì họ vâng lời Chúa chớ không phải vì bất tuân (như Giô-na). Chúa Giê-xu ngủ vì Ngài yên nghỉ trong ý muốn của Cha Ngài, đây là điều các môn đệ nên làm. Thay vào đó, họ bắt đầu hoảng sợ và trách cứ Chúa không quan tâm.Ma-thi-ơ muốn đưa ra cho độc giả của ông bức tranh tương phản giữa “ít đức tin”của các môn đệ và “đức tin lớn” của viên thầy đội.


Bình an trong chốn đông người (Mat 8:28-34). Đây là vụ gây rối để lại ấn tượng rõ nét nhất. Chúng ta thấy được những gì quỉ Sa-tan đối đãi với con người, nó làm con người mất đi sự tỉnh táo và tự chủ, gieo rắc sợ hãi vào trong lòng con người, khiến con người đánh mất niềm vui gia đình và bè bạn, và (nếu nó có thể làm) buộc con người nhận lấy án phạt đời đời.Chúng ta cũng thấy xã hội đối xử với con người đáng thương ấy: giam hãm, cô lập, doạ dẫm anh ta, nhưng xã hội không thể nào thay đổi anh ta được. Và bạn hãy xem Chúa Giê-xu có thể làm gì cho người đàn ông mà trọn cuộc đời ở trong xiềng xích nô lệ và vật lộn không ngừng. Điều Chúa Giê-xu đã làm cho 2 người bị quỉ ám này, Ngài cũng sẽ thực hiện cho bất cứ ai cần đến Ngài.


Chúa Giê-xu Christ đã đến với họ. thậm chí còn bất chấp cả bão tố. Đây là ân điển của Đức Chúa Trời. Ngài đã giải bày cho họ bằng quyền năng của Lời Ngài. Ngài phục hồi trí khôn, quan hệ xã hội và tâm tình phục vụ cho họ. Chuyện kể trong Mac 5:1-21 cho thấy một trong số người được chữa lành đã xin được làm môn đệ của Chúa. Nhưng thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu của ông ta, Chúa Giê-xu sai ông ta trở về nhà để làm chứng nhân cho Ngài. Cơ Đốc nhân phải bắt đầu hầu việc phục vụ tại nhà.


Có 3 lời cầu xin nằm trong sự kiện này:


(1) Các quỉ kêu nài Chúa Giê-xu cho chúng nhập vào bầy heo,


(2) dân chúng xin Ngài lìa khỏi thành phố, và


(3) một người đã khỏi bị quỉ ám xin Ngài cho ông ở lại với Ngài (Mac 5:18-20). Chúa Giê-xu đáp lời cầu xin của các quỉ và dân chúng, nhưng Ngài không chấp nhận lời cầu xin của người được cứu khỏi quỉ.


Chúng ta có thể xây dựng một “đức tin bằng lời nói” theo như lời của ma quỉ. (Ma quỉ cũng có đức tin, xem Gia 2:19). Ma quỉ tin vào sự hiện hữu của Đức Chúa Trời và thần tánh của Chúa Giê-xu Christ cũng như sự phán xét có thật trong tương lai.Ma quỉ cũng tin vào lời cầu xin. Ma quỉ biết Chúa Giê-xu Christ có quyền cho chúng nhập vào bầy heo.


Sự việc quỉ Sa-tan làm hại 2.000 con heo không đáng so sánh với việc Chúa Giê-xu giải phóng hai người đàn ông thoát khỏi ách ma quyền. Đức Chúa Trời sở hữu mọi vật (Thi 50:10-11) và Ngài có thể sử dụng theo ý Ngài muốn. Chúa Giê-xu coi con người cao trọng hơn heo hoặc chiên (Mat 12:12). Ngài đem bình an đến cho cuộc đời của những người đàn ông này và toàn cộng đồng dân chúng mà từ lâu họ lâm phải cảnh đau khổ buồn phiền.


3. Bình an trong tâm hồn (Mat 9:1-8)

Chúa đã tỏ bày chính mình Ngài có quyền trên tật bệnh và bão tố, nhưng Ngài có thể làm gì đối với tội lỗi? Sự tê liệt là chứng bại liệt dần dần. Người đàn ông này không thể tự mình làm được gì, nhưng may mắn anh ta có 4 người bạn có lòng yêu thương, đức tin và hi vọng. Họ mang anh ta đến với Chúa Giê-xu và không để cho điều gì cản trở lối đi của họ. Tình trạng bại liệt của người đàn ông có phải do tội lỗi của anh ta không? Chúng ta không biết được. Nhưng chúng ta biết được rằng Chúa Giê-xu giải quyết vấn đề tội lỗi trước. Vì đây là nhu cầu bức thiết nhất.


Qua phép lạ này chúng ta không nên kết luận mọi tật bệnh đều phát sinh từ tội lỗi hoặc hiểu cách máy móc tha thứ có nghĩa là chữa lành tật bệnh. Một vị mục sư của tôi thường nói: “Đức Chúa Trời có thể chữa lành mọi tật bệnh trừ chứng bệnh cuối cùng”. Thanh tầy tấm lòng của người bị bại quan trọng hơn việc chữa lành thân thể của ông. Người trước bị đau bại trở về nhà với một thân thể khoẻ mạnh và tấm lòng được làm hoà với Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Trời ta đã phán, những kẻ gian ác không hưởng được sự bình an” (Es 57:21).


4. Chức phận môn đệ (Mat 9:9-17)

Phần chuyển tiếp thứ hai “về chức phận môn đệ”. Chúng ta đã đề cập đến sự kêu gọi của Ma-thi-ơ trong chương thứ nhất của sách này. Chúng ta chỉ cần nhận xét 4 hình ảnh trong chức vụ của Ngài mà Chúa Giê-xu bày tỏ trong sứ điệp này. Là một Bác sĩ, Ngài đến chữa lành tâm linh cho tội nhân bệnh hoạn. Là một Chàng rể, Ngài đến ban cho niềm vui thiên thượng. Cuộc đời của Cơ Đốc nhân là yến tiệc chớ không phải tang chế. Hình ảnh tấm vải nhắc chúng ta rằng Ngài đến đem cho chúng ta tâm linh vẹn lành, Ngài không đến để “chắp vá sửa chữa chúng ta” và rồi lại để chúng ta rách nát. Hình ảnh bầu da đựng rượu dạy chúng ta Ngài ban cho chúng ta tâm linh đầy tràn. Tôn giáo của người Giu-đa là một bầu da cũ sẽ bị nứt rách nếu rượu mới là Phúc Âm của Chúa đổ đầy vào. Chúa Giê-xu không đến để khôi phục lại luật pháp Môi-se hoặc trộn lẫn luật pháp với ân điển. Ngài đến mang lại một nếp sống mới.


5. Hàn gắn những tấm lòng tan vỡ (Mat 9:18-38)

Trong phần này Ma-thi-ơ ghi lại 4 phép lạ liên quan đến 5 con người.


Một gia đình tan vỡ (Mat 9:18-19,23-26). Ắt hẳn Giai-ru thấy khó khăn lắm khi ông tìm đến với Chúa Giê-xu, bởi vì ông là người Giu-đa sùng đạo và là nhân vật lãnh đạo trong nhà hội. Nhưng lòng yêu thương đứa con gái sắp chết thôi thúc Giai-ru tìm đến xin Chúa Giê-xu giúp đỡ, cho dù các nhà lãnh đạo tôn giáo đang chống đối Ngài. Khi Giai-ru đến gặp Chúa Giê-xu, con gái của ông đang hấp hối. Sự chậm trễ vì người đàn bà được chữa lành đã tạo cho “kẻ thù sau cùng” có cơ hội thực hiện công việc của nó. Các bạn bè của Giai-ru đến bảo cho ông ta biết con gái ông đã chết.


Chúa Giê-xu nhanh chóng trấn an Giai-ru và cùng đi với ông ta. Thực tế, sự chậm trễ đó giúp cho đức tin của Giai-ru mạnh mẽ thêm lên, vì ông thấy đức tin yếu ớt của người đàn bà đã chữa lành cuộc đời của bà. Chúng ta phải học tập tin cậy Chúa Giê-xu Christ và lời hứa của Ngài cho dù chúng ta cảm thấy ra sao, cho dù người ta có nói gì đi chăng nữa, và hoàn cảnh có ra thế nào. Quang cảnh tại nhà ắt đã làm cho Giai-ru sợ hãi, tuy vậy Chúa Giê-xu nắm quyền kiểm soát và đỡ bé gái từ kẻ chết sống lại.


Một hi vọng tan vỡ (Mat 9:20-22). Mac 5:26 cho chúng ta biết người phụ nữ này đã đến với nhiều thầy thuốc, nhưng không ai cứu được bà.Bạn hãy tưởng tượng nổi tuyệt vọng xâm chiếm lòng bà như thế nào. Mọi hi vọng của bà đều tan biến. Do bệnh băng huyết này, bà bị kể là ô uế (Le 15:25), điều này chỉ làm cho nàng thêm vô vọng. “Trôn áo” nói đến những cái tua nơi các chéo áo mà người Do Thái mang trên y phục của họ để nhắc họ nhớ họ là dân sự của Đức Chúa Trời (Dan 15:37-41 Phu 22:12).


Thật là thú vị khi hai con người đối nghịch nhau - Giai-ru và người phụ nữ gặp nhau nơi chân Chúa Giê-xu. Giai-ru là một nhà lãnh đạo Do Thái bà là phụ nữ không ai biết đến và không có chút thanh danh hoặc tài sản nào. Giai-ru là người lãnh đạo nhà hội, trong khi bà không thể thờ phượng vì nổi khổ của mình. Giai-ru đến cầu xin cho con gái của ông ta người phụ nữ đến vì nhu cầu của chính mình. Con gái của Giai-ru đã sống khoẻ mạnh 12 năm rồi chết, người đàn bà bị bệnh 12 năm và bây giờ được chữa lành. Giai-ru cầu xin công khai - mọi người đều biết người phụ nữ kín đáo bày tỏ đức tin của mình - chỉ có Chúa Giê-xu hiểu lòng bà. Cả Giai-ru và người đàn bà đều tin cậy Chúa Giê-xu Christ và Ngài đáp ứng nhu cầu của họ.


Có thể Giai-ru đã tức giận người đàn bà, bởi vì bà đã không để cho Chúa Giê-xu đến kịp trước lúc con gái ông ta chết. Nhưng vấn đề thật sự của ông ta không phải là người phụ nữ, nhưng là chính ông ta: Ông ta cần có đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Chúa Giê-xu đòi người đàn bà làm chứng lại việc đã xảy ra cho mình (xem bản tường thuật trong sách Mác) vì lợi ích của bà ta lẫn của Giai-ru. Điều Đức Chúa Trời vùa giúp người khác phải khích lệ chúng ta tăng thêm lòng tin cậy Ngài. Trong sự cầu nguyện chúng ta không nên nghĩ về mình nhiều quá đến nỗi không thể trông cậy nơi Chúa, vì biết rằng Ngài chẳng bao giờ chậm trễ.


Lòng tin của người đàn bà này gần như mê tín. tuy nhiên Chúa Giê-xu đã khen ngợi và chữa lành cho bà. Chúng ta phải “rờ tìm Đấng Christ” nơi nào chúng ta có thể tìm được, ngay cả phải bắt đầu nơi trôn áo của Ngài. Người Pha-ri-si làm cho các tua áo của họ dài ra để làm ra vẻ thiêng liêng hơn, nhưng họ thiếu đi quyền năng chữa bệnh (Mat 23:5). Có nhiều người khác cũng rờ đến viền áo của Cứu Chúa Giê-xu và họ được chữa lành (Mat 14:34-36).


Khi cụ James Simpson, người phát minh ra chất thuốc mê sắp qua đời, một người bạn đã nói với ông ta rằng: “Ông sẽ sớm yên nghỉ nơi bóng cánh của Ngài”. Nhà khoa học đáp “Tôi không biết tôi có thể làm điều đó không, nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã nắm được viền áo của Ngài.” Không phải đức tin mạnh mẽ của chúng ta cứu chúng ta bèn là lòng tin nơi Đấng Christ quyền năng.


Những thân thể khuyết tật (Mat 9:27-34). Chúng ta không biết lý do những người này bị mù. Mù loà là một vấn nạn nhức nhối trong xã hội phương đông thời bấy giờ. Các phần ký thuật cho thấy Chúa Giê-xu đã chữa lành cho ít nhất 6 người mù, và mỗi trường hợp đều khác nhau. Hai người mù này biết Chúa Giê-xu Christ là con vua Đa-vít (Mat 1:1) và một mực theo Ngài vào đến trong nhà. (Đương nhiên họ có bạn bè giúp dẫn đường cho họ). Chúa Giê-xu Christ đã khen ngợi đức tin của họ. Lời xưng nhận “Lạy Chúa, được” đã đem đến cho họ quyền năng chữa bệnh và họ đã được sáng mắt trở lại.


Sự mù loà là hình ảnh của sự ấu trĩ thuộc linh và vô tín (Mat 15:14 Es 6:10 Ro 11:25). Tội nhân phải sanh lại mới thấy được Nước Đức Chúa Trời (Gi 3:3). Và người tin Ngài phải gắng sức lớn lên trong đức tin nếu không đời sống thuộc linh của người ấy sẽ trở thành mù loà. (IIPhi 1:5-9).


Phép lạ cuối trong chương sách này nói đến một trường hợp bị quỉ ám (Mat 9:32-34). Trong khi chúng ta biết có sự khác biệt giữa bệnh tật và những hành động quỉ ám, ma quỉ cũng có quyền gây ra những đau khổ bệnh tật về thể xác. Ở đây, ma quỉ đã làm cho người đàn ông bị câm. Bạn hãy nghĩ đến sự thiệt thòi của con người tật nguyền này lớn làm sao. Chúa Giê-xu chữa lành cho ông ta và dân chúng thừa nhận rằng đây là một chuyện mới xảy ra trong dân Y-sơ-ra-ên.


Nhưng các bậc lãnh đạo tôn giáo không công nhận Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a. Và họ đã giải thích các phép lạ của Ngài như thế nào? Họ nói rằng Chúa Giê-xu cậy phép chúa quỉ mà trừ quỉ. Họ lập lại ý như vậy ở một lần khác và Chúa Giê-xu đã bác bỏ lời nhận định ấy (Mat 12:22). Trong sự vô tín, của họ người Pha-ri-si đang đùa giỡn trong tay quỉ Sa-tan.


Phần chuyển tiếp thứ ba về “chức phận môn đệ” (Mat 9:35-38). Không những Chúa Giê-xu chữa lành tật bệnh Ngài còn giảng dạy nữa. Nhưng Ngài không thể làm việc một mình - Ngài cần người khác giúp đỡ Ngài. Ngài yêu cầu các môn đệ cầu xin Đức Chúa Trời sai thêm con gặt đến trong mùa mình. Không lâu sau đó chính các môn đệ bước vào chức vụ rao giảng, dạy dỗ về Nước Đức Chúa Trời và chữa lành các thứ tật bệnh (Mat 10:142). Cũng vậy, khi chúng ta cầu nguyện theo lệnh của Ngài, chúng ta sẽ thấy điều Ngài đã chứng kiến, cảm nhận điều Ngài đã từng trải và làm điều Ngài đã thực hiện. Đức Chúa Trời sẽ làm phong phú cuộc đời chúng ta khi chúng ta tham gia vào mùa gặt đã chín vàng (Gi 4:34-38).


7. SỨ GIẢ CỦA VUA (Mat 10:1-42)

Chỉ bởi Chúa Giê-xu Christ mới có thể hoàn thành công tác cứu rỗi, và Ngài đã một mình thi hành công tác ấy. Nhưng công tác truyền rao ơn cứu rồi này cần đến sự cộng tác của tôi con Ngài là người đã tin nhận và được Ngài ban cho ơn cứu rỗi.Nhà vua cần sứ giả để truyền các mệnh lệnh - và Ngài vẫn luôn cần đến họ. “Ta sẽ sai ai đi, ai sẽ đi cho chúng ta?” (Es 6:8). Chúng ta cầu xin cho các con gặt không thôi vẫn chưa đủ (Mat 9:36-38). Chúng ta phải chuẩn bị mình sẵn sàng phục vụ Ngài.


Trước khi Chúa Giê-xu sai sứ giả của Ngài đi ra thi hành chức vụ, Ngài ban sứ điệp “Phong chức” để khích lệ và chuẩn bị cho họ bước vào công trường của Ngài.Trong lời giảng dạy này, Vua có một số điều phán với tất cả tôi con của Ngài trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Nếu không nhận ra điều này, chúng ta sẽ không có cách nào hiểu được sứ điệp của chương sách này.


1. Những chỉ dẫn cho các sứ đồ thời xưa (Mat 10:1-15)

“Môn đồ” là học trò, người đi theo thầy và học cái khôn của thầy mình. Chúa Giê-xu có nhiều môn đệ, một ít trong số họ là “Những kẻ theo đóm ăn tàn”, và một số đã thực sự thay đổi (Gi 6:66). Từ trong đám đông người theo Ngài, Chúa Giê-xu đã chọn một nhóm nhỏ 12 người và Ngài gọi họ là “sứ đồ”. Danh từ này có nguồn gốc từ chữ apostello trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “sai đi thi hành một sứ mạng”.Người Hy Lạp dùng để nói đến các đại diện tâm phúc của nhà vua, những sứ giả thay quyền vua thực hiện công việc triều đình. Xem thường sứ giả của nhà vua là có ý đồ phản loạn.


Một người muốn làm sứ đồ của Chúa Giê-xu phải hội đủ những phẩm chất nhất định.Người ấy phải chứng kiến Chúa Giê-xu Christ sống lại (ICo 9:1) và từng sống với Ngài (Cong 1:21-22). Người ấy được Chúa lựa chọn (Eph 4:11). Các sứ đồ đặt nền móng của Hội Thánh (Eph 2:20) và rồi họ qua đi. Trong khi mọi kẻ tin đều được sai đi làm sứ giả cho Chúa (Gi 20:21 Gi 17:18), thì ngày hôm nay chẳng ai có quyền đòi hỏi chức sứ đồ vì chẳng ai trong chúng ta chứng kiến Chúa Giê-xu đã sống lại (IPhi 1:8).


Các sứ đồ đầu tiên đã được Chúa Giê-xu Christ ban năng quyền đặc biệt để làm phép lạ. Các phép lạ này là một phần trong “những lời chứng chính thức” của họ (Cong 2:43 Cong 5:12 IICo 12:12 He 2:1-4). Họ đã chữa lành người bệnh (điểm lưu ý người bệnh nói đến ở đây bao gồm tất cả mọi tật bệnh), làm sạch kẻ phung, đuổi quỉ, và kêu kẻ chết sống lại. Bốn sự phục vụ này giống với những phép lạ mà Chúa Giê-xu đã làm trong các chương 8 và 9. Ở một mức độ nhất định các sứ đồ đại diện cho Chúa và mở mang công việc của Ngài.


Sứ mạng của Chúa Giê-xu Christ giao cho 12 sứ đồ không phải là sứ mạng của chúng ta ngày nay. Ngài sai phái họ chỉ riêng cho dân Do Thái. “Trước cho người Giu-đa” là một kiểu mẫu lịch sử, vì “Sự Cứu Rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:22). Mười hai vị sứ giả này rao bảo Nước Trời đã đến gần y như Giăng Báp-tít (Mat 3:2) và chính Chúa Giê-xu đã làm (Mat 4:17). Buồn thay, người Giu-đa đã chối bỏ Chúa Giê-xu Christ cùng các sứ giả của Ngài, bởi vậy Nước Đức Chúa Trời bị cất khỏi họ (Mat 21:43).


Các sứ đồ tuỳ thuộc nơi sự tiếp đãi của người khác khi họ thi hành chức vụ từ thành này đến thành khác. Vào thời ấy một thành phố từ chối không tiếp khách là vi phạm phép tắc giao tế. Tuy nhiên, các sứ giả chỉ lưu lại với những người “xứng đáng”, những người tin nhận Chúa Giê-xu Christ và nhận lấy sứ điệp bình an và tha thứ của Ngài. Các vị sứ giả không được thoả hiệp. Nếu thành nào từ chối không nghe lời họ, các sứ giả phải cảnh cáo họ và rời khỏi. Phủi bụi nơi chân là hành động của sự phán xét (Cong 13:51).


Chúng ta không biết “chiến dịch rao giảng Phúc Âm” này kéo dài bao lâu. Chính Chúa Giê-xu đi ra rao giảng (Mat 11:1), và sau đó họ trở về thuật lại cho Chúa những việc họ đã làm (Lu 9:10), Mac 6:7 cho chúng ta biết Chúa Giê-xu đã sai họ đi ra thành từng đôi, điều này giải thích tại sao tên của họ được liệt kê theo từng đôi ở các câu 2-4. Kh 21:14 cho chúng ta biết tên của 12 sứ đồ được khắc trên các tường thành của thiên đàng. Dĩ nhiên, tên của Ma-thia sẽ được thay thế cho tên Giu-đa (Cong 1:26). Trong khi chúng ta có thể rút ra được những bài học thuộc linh trong chương sách này, chúng ta không nên áp dụng những lời chỉ dạy này cho đời sống chúng ta. Sứ mạng của Chúa giao cho chúng ta bao gồm “khắp thế gian” (Mat 28:19-20), không chỉ dành cho nước Do Thái. Chúng ta rao giảng Phúc Âm cứu ân của Đức Chúa Trời (Cong 20:24).


Sứ điệp rao báo của chúng ta là “Chúa Giê-xu Christ đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta” và chúng ta không nói đến “Nước Trời đến gần”. Vua Nước Trời đã đến Ngài đã chịu thương khó, chịu chết và đã sống lại từ trong kẻ chết. Hiện nay Ngài ban sự cứu rỗi cho mọi kẻ tin Ngài.


2. Những lời chỉ dẫn cho các môn đệ trong tương lai (Mat 10:16-23)

“Không khí” của phân đoạn này khác với phân đoạn trước. Ở đây Chúa phán về sự bắt bớ, nhưng chúng ta không nghe nói về sự đau khổ của 12 sứ đồ trong suốt thời gian họ ra đi. Chúa Giê-xu cũng nói đến chức vụ cho dân ngoại (Mat 10:18). Thánh Linh của Đức Chúa Trời chưa được ban xuống cho họ, nhưng Chúa Giê-xu nói về Chúa Thánh Linh sẽ đặt lời của Ngài trong môi miệng họ. (Mat 10:20). Mat 10:22 cho biết có sự bắt bớ ghen ghét khắp thiên hạ tuy nhiên các sứ đồ chỉ thực hiện nhiệm vụ trong lãnh thổ của họ mà thôi. Sau cùng, Mat 10:23 cho biết về sự tái lâm của Chúa, và đương nhiên các sự kiện này cũng xảy ra trong tương lai. Thật khó tránh khỏi kết luận cho rằng các lời chỉ dạy này ứng dụng cho các chứng nhân tại một thời điểm nào đó trong tương lai.


Vậy lúc nào những việc ấy xảy ra? Ở góc độ nào đó, một số sự kiện này đã xảy ra trong sách Công-vụ-các-sứ-đồ dầu Chúa Giê-xu Christ chưa trở lại vào lúc ấy. Và chức vụ trong sách Công-vụ-các-sứ-đồ không giới hạn trong vòng “các thành dân Y-sơ-ra-ên” (Mat 10:23). Dường như thời gian được mô tả trong phần này tương đương với thời gian khổ nạn mà Chúa Giê-xu Christ miêu tả trong “Câu chuyện tại Núi Ô-li-ve” của Ngài (Mat 24:1-25:46). Thật ra, lời phán “ai bền lòng cho đến cuối cùng thì sẽ được cứu” Mat 10:22) là một phần trong lời tiên tri của Chúa (Mac 13:13 Mat 24:13). Điều này không nói đến một người tự giữ mình được cứu, nhưng người đó chịu được sự bắt bớ và trung tín với Chúa.


Nếu những lời chỉ dạy này xảy ra trong thời kỳ khổ nạn sắp đến, chúng ta dễ hiểu tại sao Chúa Giê-xu đề cập nhiều về sự ghen ghét và bắt bớ. Thời kỳ khổ nạn là thời gian chống đối. Tôi tớ của Đức Chúa Trời giống như chiên đi giữa bầy muông sói. Họ cần có “tinh thần bền bĩ và tấm lòng mềm mại”. Sự chống đối này sẽ xảy ra nơi nhà hội, (Mat 10:17), trước các nhà cầm quyền (Mat 10:18) và ngay cả tại gia đình (Mat 10:21).


Trong lúc người tin đạo tản lạc khắp đất đang trải qua những bắt bớ điều đó cho thấy sự chống đối sẽ trải rộng khắp thế gian. “Tôn giáo” luôn luôn bắt bớ người tin đạo chân thật. Ngay cả sứ đồ Phao-lô cũng bắt bớ Hội Thánh khi ông còn là Sau-lơ tại Tạt-sơ. Lịch sử Hội Thánh cho biết “tổ chức tôn giáo” không có Phúc Âm cứu rỗi của Chúa Giê-xu Christ đã không ngừng chống đối bất cứ ai dám làm chứng nhân cho Chúa Giê-xu một cách mạnh mẽ.


Mat 10:18 dạy rằng chính quyền cũng sẽ ủng hộ chương trình bắt bớ này. Các lời tiên tri trong Kinh Thánh dạy chúng ta rằng trong ngày cuối cùng chính quyền và tôn giáo sẽ kết hiệp với nhau để thống trị thế giới. Khải-huyền chương 13 mô tả một thời gian trong kỳ đại nạn kẻ cai trị thế giới (Kẻ địch lại Đấng Christ) sẽ bắt buộc thế giới thờ lạy nó và ảnh tượng của nó. Nó sẽ cầm quyền trên tôn giáo, kinh tế, và chính trị khắp thế giới và nó sẽ dùng cả 3 lực lượng này để bắt bớ những người trung tín với lẽ thật.


Cũng sẽ có sự băng hoại trong tình yêu gia đình và lòng chung thuỷ. “Vô tình” là một trong những dấu hiệu thời kỳ cuối cùng (IITi 3:3). Chúa Giê-xu trích dẫn Mi 7:6 để chứng minh điều này (Mat 10:21). Ba nền nếp mà Đức Chúa Trời đã thiết lập trong thế gian này là gia đình, chính quyền và Hội Thánh. Trong ngày sau rốt, thay vì ủng hộ lẽ thật cả ba lại chống đối lẽ thật.


Những kỳ đại nạn cũng là dịp thuận tiện. Người tin đạo sẽ làm chứng trước mặt các bậc cầm quyền và các vua (Mat 10:18). Kẻ thù của họ sẽ tìm cách làm cho họ sa ngã nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời sẽ dạy cho các chứng nhân điều họ phải nói.Tín hữu ngày hôm nay không được dùng các lời dạy trong Mat 10:19-20 làm lời biện hộ cho việc không chịu học hỏi Lời Kinh Thánh để chuẩn bị cho việc làm chứng, dạy dỗ hoặc rao giảng. Những câu Kinh Thánh miêu tả một tình trạng khẩn cấp đó không phải là kiểu mẫu của Đức Chúa Trời cho chức vụ ngày hôm nay. Ngay trong thời các sứ đồ, Đức Thánh Linh ban sứ điệp cho họ khi họ đối mặt với kẻ thù nghịch (Cong 4:8). Sứ mạng đặc biệt này của Đức Thánh Linh sẽ rõ ràng trong suốt thời kỳ đại nạn.


Kỳ đại nạn sẽ là thời gian chống đối bách hại và cũng là dịp thuận tiện nhưng đó cũng là kỳ thuận phục. Các sứ giả nhà vua phải “bền lòng cho đến cuối cùng” và trung tín trong chức vụ của họ, dù họ phải mất mạng sống mình. Mặc dầu bị gia đình gây đau đớn, từ bỏ, bị bắt bớ kiện cáo từ thành này đến thành khác, bị giải nộp đến trước mặt các cấp lãnh đạo, tôi con của Chúa phải trung thành với Ngài. Đức Chúa Trời sẽ sử dụng họ làm chứng nhân chinh phục linh hồn người khác. Kh 7:1-8 cho thấy có 144.000 sứ giả trong dân Y-sơ-ra-ên sẽ mang Lời của Đức Chúa Trời đi rao giảng khắp đất trong suốt thời kỳ đại nạn và kết quả có vô số người không ai đếm được sẽ đến cùng Chúa Giê-xu Christ (Kh 7:9).


Rất có thể những lời phán dạy trong Mat 10:1-42 sẽ rất quí báu và ý nghĩa cho các sứ giả rao báo tin mừng trong suốt thời gian ấy. Ngày nay chúng ta có thể rút ra nhiều bài học từ những lời dạy này, cho dù ý nghĩa của lời dạy ấy được áp dụng cho các tôi con của Đức Chúa Trời trong tương lai. Cho dù hoàn cảnh của chúng ta có khó khăn như thế nào, chúng ta cũng có thể tận dụng sự chống đối làm cơ hội làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể tin cậy Thánh Linh của Đức Chúa Trời giúp chúng ta nhớ lại điều Chúa đã dạy chúng ta (Gi 14:26). Thay vì trốn tránh hoặc tìm một nơi an nhàn hơn, chúng ta có thể “bền lòng cho đến cuối cùng, vì biết rằng Đức Chúa Trời sẽ vùa giúp chúng ta và chăm nom chúng ta.


3. Những lời chỉ dạy cho các môn đệ trong hiện tại (Mat 10:24-42)

Trong khi Lời Chúa trong khúc Kinh Thánh này xảy ra cho tôi con Chúa trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử Thánh Kinh, đối với Hội Thánh ngày nay những chân lý ấy có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Điểm nhấn mạnh ở đây là “Đừng sợ” (c.26,28,31). Nỗi sợ hãi mà Chúa Giê-xu đã phán dạy được giải thích trong các câu Mat 10:32-33: do xưng nhận Chúa Giê-xu Christ ra trước mặt thiên hạ. Đức Chúa Trời không có “chức vụ hầu việc bí mật”. Sự công khai xưng nhận đức tin nơi Đấng Christ là bằng chứng của sự cứu rỗi (Ro 10:9-10). Có nhiều lý do tại sao chúng ta không dám công khai xưng nhận Đấng Christ. Chúng ta hãy cùng xem xét những lý do tìm thấy trong Mat 10:1-42.


Đau đớn là điều đó có thể xảy ra (Mat 10:24-25). Người ta đã bắt bớ Chúa Giê-xu Christ khi Ngài thi hành chức vụ trên thế gian, vậy tại sao chúng ta mong đợi điều gì khác? Chúng ta là môn đệ của Ngài, và môn đệ “không hơn” thầy của mình. Người ta đã nói rằng Chúa Giê-xu cùng hội với quỉ Sa-tan (Bê-ên-xê-bun: chúa quỉ chủ nhà) do vậy họ sẽ gọi những người theo Ngài cùng một cách như vậy. Tuy nhiên, chúng ta nên xem đó là dịp tốt để chịu khổ vì danh của Ngài và cùng Ngài chịu khổ (Cong 5:41 Phi 3:10).


Đức Chúa Trời sẽ bày mọi điều ra dưới ánh sáng (Mat 10:26-27). Kẻ thù của Chúa Giê-xu Christ dùng những phương cách dối trá và gian xảo để chống lại Phúc Âm của Ngài. Những người tin đạo thật sống và làm chứng về Chúa cách công khai và mạnh mẽ. Chúng ta không có gì phải che đậy. “Ta chẳng từng nói kín giấu điều gì” Chúa Giê-xu phán (Gi 18:20). Nhưng người là chứng dối cáo tội Ngài trong lúc Ngài xử án, nhưng Đức Chúa Trời biết rằng tại điều đó lẽ thật được bày tỏ ra. Chúng ta không có gì phải sợ vì một ngày kia Đức Chúa Trời sẽ phơi bày những điều kín giấu trong lòng người (Ro 2:16) và đoán xét những việc kín nhiệm ấy. Công việc của chúng ta không phải làm đẹp, lòng người ta, nhưng là rao báo sứ điệp của Đức Chúa Trời. Chúng ta không sợ sự xét đoán của con người ngày hôm nay bởi vì chúng ta đang sống trong ánh sáng công lý của sự phán xét ngày sau của Đức Chúa Trời.


Chúng ta chỉ sợ một mình Đức Chúa Trời (Mat 10:28). Tất cả những gì người ta có thể làm là giết thân thể và nếu thân thể của người tin Chúa bị giết, linh hồn của họ được về ở với Đức Chúa Trời. Nhưng Đức Chúa Trời có quyền huỷ diệt cả thân thể lẫn linh hồn trong hoả ngục. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời sẽ không đoán phạt con cái của Ngài (Ro 8:1 Gi 5:24). Martin Luther cảm nhận được lời dạy dỗ này và ông viết:


Của cải và người thân yêu sẽ ra đi,


Cả cuộc sống rối ren này cũng vậy


Thân xác này có thể bị bỏ,


Nhưng lời Đức Chúa Trời vẫn hằng còn


Nước Ngài còn đến đời đời.


Người kính sợ một mình Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi bất kỳ ai hoặc nhóm người nào. Sự kính sợ Đức Chúa Trời xoá tan mọi nỗi sợ hãi.


Đức Chúa Trời chăm sóc con cái Ngài (Mat 10:29-31). Chúng ta không mất nhiều tiền để mua chim sẻ bán ngoài chợ. Nếu so sánh những câu này với Lu 12:6, chúng ta khám phá thấy giá chim sẻ rẽ đến nỗi người bán cho thêm người mua một con! Nhưng Đức Chúa Trời biết lúc nào con chim sẽ rơi xuống đất và Ngài có ở đó. Nếu Đức Chúa Trời chăm nuôi chim sẻ cách lạ lùng như vậy, há Ngài không chăm sóc người hầu việc Ngài sao? Ngài tất sẽ làm điều ấy.Đối với Đức Chúa Trời, chúng ta còn giá trị hơn nhiều con chim sẻ.


Đức Chúa Trời quan phòng mọi chi tiết trong cuộc đời chúng ta. Ngay cả tóc trên đầu chúng ta Ngài đã đếm cả rồi - Ngài không “đếm” chung chung nhưng Ngài đếm từng sợi một. Đức Chúa Trời nhìn thấy chim sẻ rơi xuống đất, và Ngài nhìn thấy từng sợi tóc trên đầu mỗi một con cái Ngài rụng xuống. Khi Ngài bảo bọc con cái Ngài, Ngài bảo vệ đến từng sợi tóc (Lu 21:18). Chúng ta không có gì sợ hãi khi Đức Chúa Trời đang thực hành sự chăm sóc kỳ diệu của Ngài trên chúng ta.


Đấng Christ tôn vinh những ai xưng nhận danh Ngài Mat (Lu 10:32-33). Xưng nhận danh Ngài không có nghĩa chỉ nói bằng môi miếng, nhưng còn thể hiện trong nếp sống đạo nữa. Đó là miệng xưng “Chúa Giê-xu Christ là Chúa” và lòng vâng phục Ngài và làm theo ý muốn Ngài. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau.


Chúa Giê-xu có hai nhiệm vụ đặc biệt ở trên trời. Là thầy Tế Lễ Thượng Phẩm, Ngài ban ân điển cho chúng ta và cứu chúng ta tránh khỏi tội lỗi. Là Đấng biện hộ, Ngài tha thứ và chữa lành chúng ta khi chúng ta phạm tội (IGi 2:1-2). Công lao của chức vụ cầu thay của Ngài bên hữu Đức Chúa Trời không tuỳ thuộc vào sự thành tín của chúng ta, vì Ngài là thành tín còn chúng ta thì không (IITi 2:12-13). Nhưng chức vụ của Ngài ở trên trời đem lợi ích cho những người trung tín với Ngài. Khi Đấng Christ xưng nhận chúng ta trứơc mặt Đức Chúa Cha, Ngài đảm bảo chúng ta có phần trong sự hi sinh của Ngài trên thập tự giá. Khi Ngài chối bỏ chúng ta trước mặt Cha Ngài, chúng ta không có phần gì trong ân điển cứu chuộc của Ngài. Lỗi tại nơi chúng ta, chớ không bởi Ngài.


Nhưng có một điều khác nữa liên quan đến chúng ta. Một ngày kia chúng ta sẽ ứng hầu trước ngai đoán xét của Ngài để nhận lãnh mọi điều mình đã làm (IICo 5:10 Ro 14:10). Nếu chúng ta chối Ngài, chúng ta sẽ mất phần thưởng và sự vui mừng khi nghe Ngài phán “Được lắm”. Chắc thật, bất kỳ ai chối Ngài trên thế gian có thể được Ngài tha thứ khi biết ăn năn. Phi-e-rơ đã chối Chúa 3 lần, ông đã được Chúa tha thứ và phục hồi địa vị làm con của Ngài.


Chúng ta không thể nào tránh khỏi tranh chiến (Mat 10:34-39). Chúng ta đã một lần phó thác cuộc đời cho Chúa Giê-xu Christ và xưng nhận danh Ngài, tất nhiên chúng ta là một bộ phận trong cuộc chiến. Chúng ta không gây chiến mà là Đức Chúa Trời tuyên chiến với quỉ Sa-tan (Sa 3:15). Trong đêm Chúa Giê-xu giáng sinh, các thiên sứ rao báo: “bình an trên đất” (Lu 2:14). Nhưng dường như Chúa Giê-xu phủ nhận chân lý này. “Ta đến không phải đem sự bình an mà là đem gươm giáo” Mat 10:34). Nếu như dân Y-sơ-ra-ên tiếp nhận Ngài, Ngài đã ban bình an cho họ rồi. Nhưng người ta đã chối bỏ Ngài, và kết quả là “gươm giáo”. Thay vì có “bình an trên đất”, chỉ có “bình an ở trên trời” (Lu 19:38). Ngài đã làm nên hoà bình bởi huyết Ngài đã đổ ra trên thập tự giá (Co 1:20) để con người có thể phục hoà với Đức Chúa Trời và hoà thuận với nhau.


Phương cách duy nhất để người tin Chúa thoát khỏi tranh chiến đó là chối bỏ Đấng Christ và thay đổi lời làm chứng của mình, và điều này là tội lỗi. Và rồi người đó sẽ chống nghịch Chúa và chống nghịch chính mình. Chúng ta sẽ bị người thân cận chúng ta hiểu nhầm và vu oan Tuy vậy chúng ta đừng để điều này ảnh hưởng đến lời chứng của chúng ta. Thật là quan trọng khi chúng ta chịu khổ vì cớ Chúa và sự công bình của Ngài, chớ không phải vì bản thân chúng ta quá khó để người khác sống chung với. Giữa “sự vấp phạm về thập tự giá” (Ga 5:11) và các Cơ Đốc nhân gây vấp phạm có sự khác nhau.


Mỗi Cơ Đốc nhân phải quyết định dứt khoát một lần đủ cả yêu kính Chúa Giê-xu Christ, hằng ngày vác thập tự giá và theo Ngài. Tình yêu trong câu Mat 10:37 là động cơ để vác thập tự giá trong Mat 10:38. “Vác thập tự giá” không có nghĩa là mang một dấu hiệu trên ve áo hoặc dán một cái nhãn trên xe hơi của chúng ta.Vác thập tự giá có nghĩa là xưng nhận Chúa Giê-xu Christ và vâng phục Ngài cho dù có buồn thảm và đau đớn. Có nghĩa là chúng ta chết với Chúa mỗi ngày. Nếu Chúa bị treo trên thập tự giá vì tội chúng ta, thì ít nhất chúng ta có thể vác thập tự thay cho Ngài.


Mat 10:39 giới thiệu cho chúng ta chỉ có 2 sự chọn lựa: giữ gìn sự sống mình hoặc hi sinh sự sống mình. Không có lập trường hàng hai. Nếu chúng ta giữ gìn lợi ích riêng của chúng ta, chúng ta sẽ thua ngược lại làm chết bản ngã của mình và sống cho ích lợi của Ngài, chúng ta sẽ thắng. Bởi vì sự tranh chiến thuộc linh không thể tránh khỏi trên thế gian, thì tại sao chúng ta không làm chết bản ngã và để cho Đấng Christ đắc thắng cho chúng ta và trong chúng ta? Rốt lại, sự tranh chiến thật sự xảy ra ở bên trong - sự tư kỷ đối đầu với sự hi sinh.


Chúng ta có thể làm nguồn phước hạnh cho nhau (Mat 10:40-42). Không phải mọi người đều chối bỏ lời làm chứng của chúng ta. Có nhiều người sẽ tiếp đón chúng ta và nhận lãnh ơn phước. Xét cho cùng chúng ta là những sứ giả của Nhà Vua. Vua của chúng ta sẽ đảm bảo chắc chắn rằng họ được phần thưởng về những gì họ đã làm. Khi người ta tiếp đón chúng ta, họ tiếp đón Nhà Vua bởi vì chúng ta là đại sứ của Ngài. Hãy đọc IISa 10:1-19 để làm thí dụ về những gì xảy ra khi người ta xử tệ với đoàn tuỳ tùng của Nhà Vua.


Tuy nhiên ơn phước không phải tự nhiên mà có được. Phước hạnh có được tuỳ nơi thái độ của chủ nhà. Nếu chủ nhà tiếp đãi sứ giả như một vị tiên tri (người phát ngôn cho Đức Chúa Trời), thì ông ta sẽ nhận phần thưởng còn nếu ông ta chỉ tiếp đãi Sứ giả như một người công bình, ông ta nhận một phần thưởng khác. Nhưng ngay cả một cốc nước lạnh chúng ta lấy lòng thành thật ban cho, chúng ta cũng nhận được phần thưởng.


Bạn hãy nhớ rằng chủ đề của phần cuối chương này nói về chức phận môn đệ, chớ không chức phận con. Chúng ta trở nên con cái Đức Chúa Trời bởi tin nơi Chúa Giê-xu Christ chúng ta là môn đệ khi chúng ta trung tín theo Ngài và vâng theo ý muốn của Ngài. Chức phận con không thay đổi, nhưng chức phận môn đệ thay đổi khi chúng ta bước đi với Đấng Christ. Ngày nay cần có nhiều môn đệ trung tín, những người biết học tập nơi Chúa và sống cho Ngài.


Điều này đưa chúng ta đến phần kết thúc của nội dung chính yếu đầu tiên của sách Ma-thi-ơ, SỰ MẠC KHẢI CỦA NHÀ VUA. Chúng ta đã nhìn thấy Con Người của Ngài (Các chương 1-4), Các Phép Tắc của Ngài (Các chương 5-7) và Quyền Phép của Ngài (Các chương 8-10). Dân tộc sẽ đáp lại sự mạc khải này như thế nào?


8. VUA BỊ CHỐNG ĐỐI (Mat 11:1-12:50)

Mọi chứng cứ đã được bày tỏ. Giăng Báp-tít đã giới thiệu Nhà Vua cho dân tộc. Chúa Giê-xu đã hé mở cho thấy con người, phép tắc và quyền phép của Ngài. Giờ đây là lúc các bậc lãnh đạo đất nước đưa ra quyết định của họ. Thay vì chấp nhận Ngài, họ bắt đầu phản đối chống lại Ngài. Có 4 lĩnh vực chống đối được nêu ra trong 2 chương này.


1. Sự nổi loạn chống lại tiên tri của Ngài (Mat 11:1-30)

Sự giải thích (Mat 11:1-15). Giăng Báp-tít bị bỏ tù trong ngục Machaerus bởi vì ông đã thẳng thắn tố cáo Hê-rốt, vua chư hầu đã lấy vợ của em trai mình là Hê-rô-đia làm vợ. (Lu 3:19-20). Dường như các nhà lãnh đạo Do Thái phải phản đối vua Hê-rốt và tìm cách trả tự do cho Giăng, nhưng họ không làm gì cả. Thái độ của họ đối cùng Giăng phản ánh lòng của họ đối với Chúa Giê-xu, vì Giăng Báp-tít đã chỉ Chúa Giê-xu cho mọi người và ngợi khen Ngài.


Chúng ta thật dễ dàng cảm thông với Giăng Báp-tít khi ông bị đau đớn trong ngục.Giăng Báp-tít là người quen sống nơi đồng vắng, và bây giờ bị giam cầm trong bốn vách tường.. Giăng Báp-tít là người năng động, rao giảng về Nước Đức Chúa Trời cách đầy ơn giờ đây ông phải im lặng. Giăng Báp-tít rao báo về sự phán xét, và sự phán xét ấy đang dần dần đến với ông (Mat 3:7-12). Giăng Báp-tít chỉ nghe kể lại một phần chức vụ của Chúa Giê-xu và ông không thể nhìn thấy trọn vẹn bức tranh đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu.


Chúa chúng ta đã trả lời cho Giăng Báp-tít cách khéo léo và đầy lòng nhân từ. Ngài nhắc cho Giăng Báp-tít nhớ các lời tiên tri trong Cựu Ước nói về chức vụ của Đấng Mê-si-a (Es 29:18-19 Es 35:4-6). Các môn đệ của Giăng đã trình lại mọi điều Chúa Giê-xu đang làm (Lu 7:18), nhưng Chúa Giê-xu phán bảo họ “chỉ cho Giăng thấy lần nữa”. Giăng Báp-tít đã đến trong tâm thần và quyền năng của Ê-li (Lu 1:17), và chính Ê-li cũng có những ngày yếu đuối sờn ngã. Chúa Giê-xu bảo đảm với Giăng Báp-tít rằng Ngài đang làm trọn ý chỉ của Cha Ngài.


Sau khi trả lời cho Giăng Báp-tít, Chúa Giê-xu khen ngợi ông. Giăng không phải là “người giảng đạo nổi tiếng” đáp ứng được thị hiếu của đám đông, ông cũng không phải là cây sậy thay đổi theo chiều gió. Giăng là người can đảm vạch ra tội lỗi, một người cao trọng nhất trong các đấng tiên tri. Sự kiện Giăng được đặc ân công bố về Đấng Mê-si-a-a đã tạo cho ông một địa vị quan trọng. Chức vụ của Giăng đánh dấu cao điểm của luật pháp và các đấng tiên tri.


Có hàm ý gì khi nói Giăng Báp-tít là “Ê-li đấng phải đến” (Mat 11:14). Người đến trong tâm thần và quyền phép của Ê-li (Lu 1:17), người cũng ăn mặc và thi hành chức vụ như Ê-li (Mat 3:4 IIVua 1:7,8). Giống như Ê-li, Giăng rao giảng sứ điệp về sự phán xét cho dân tộc bội đạo Y-sơ-ra-ên. Chức vụ của Giăng đã được báo trước (Es 40:3) và ông làm cho ứng nghiệm lời tiên tri ấy. Nhưng trong Ma 4:5 nói tiên tri về sự đến của Ê-li “trước ngày lớn và đáng sợ của Đức Giê-hô-va chưa đến”. “Ngày của Đức Giê-hô-va” ở đây là thời kỳ khổ nạn sẽ đến trên khắp đất (Mat 24:15). Nhưng chẳng có sự phán xét nào theo sau chức vụ của Giăng Báp-tít. Tại sao như vậy?


Giăng sửa soạn một dân tộc cho Chúa Giê-xu và giới thiệu Chúa Giê-xu cho họ (Lu 1:15-17 Gi 1:29-34). Nếu như dân chúng nhận lãnh lời chứng của Giăng và tiếp nhận Đấng Mê-si-a, thì Giăng đã làm ứng nghiệm lời tiên tri theo nghĩa đen.Nhưng thay vào đó, các lời tiên tri được ứng nghiệm theo ý nghĩa thuộc linh trong đời sống của những người tin theo Chúa. Chúa Giê-xu cắt nghĩa rõ điều này trong Mat 17:10-13. Nhiều sinh viên Kinh Thánh tin rằng Ma 4:5 sẽ được ứng nghiệm theo đúng nguyên văn khi Ê-li đến với vai trò là một trong “hai người làm chứng” đã được nói đến trong Kh 11:1-19.


Dân chúng rất kính trọng Giăng (Mat 21:26), nhiều người trong số họ đã ăn năn và nhận lãnh báp-tem nơi Giăng. Nhưng các nhà lãnh đạo tôn giáo không công nhận Giăng, điều này chứng tỏ tấm lòng vô tín và cứng cỏi của họ. Thay vì trở nên như trẻ thơ và tự hạ mình, các nhà lãnh đạo bày tỏ sự ấu trĩ và cứng cỏi của họ, giống như trẻ con, bĩu môi la lối vì chúng không đạt được điều chúng muốn. Thí dụ trong Mat 11:16-19 nói lên tình trạng thuộc linh của các nhà lãnh đạo giáo hội, và buồn thay ngày hôm này có nhiều tấm lòng vô tín như vậy.


Sự lên án (Mat 11:16-24). Tìm thấy chữ khốn nạn trên môi miệng Chúa Giê-xu quả là điều bất thường. Từ này có nghĩa là sự phán xét, nhưng nó cũng gồm tóm sự thương tiếc và buồn rầu. Thảm thương thay cho những thành phố này xem nhẹ cơ hội nghe thấy Đấng Thánh của Đức Chúa Trời để được cứu. Các thành phố Ty-rơ và Si-đôn thuộc về dân ngoại, những thành phố Sô-đôm và Gô-mô-rơ thờ lạy hình tượng sẽ ăn năn nếu họ nhìn thấy các phép lạ mà Chúa Giê-xu và các môn đệ của Ngài đã làm. Ca-bê-na-um là thành “đã được cao tới trời” bởi vì thành ấy có Đấng Mê-si-a sinh sống tại đó. Tuy nhiên thành ấy càng có nhiều đặc quyền thì càng lãnh lấy trách nhiệm và sự đoán phạt lớn lao hơn.Năm trong số 10 phép lạ ghi lại trong Mat 8:1-9:38 được Chúa thực hiện tại Ca-bê-na-um.


Sự mời gọi (Mat 11:25-30). Tại sao các bậc lãnh đạo giáo hội chống đối Giăng và Chúa Giê-xu? Bởi vì họ (các nhà lãnh đạo) cho mình là thiêng liêng khôn ngoan và không muốn trở nên những em bé khiêm nhường thật thà. Có sự khác biệt rất lớn giữa những đứa trẻ hư đốn trong ví dụ (Mat 11:16-19) và các con trẻ dễ bảo trong lời khen ngợi này. Đức Chúa Cha bày tỏ chính Ngài cho Đức Chúa Con, và Đức Chúa Con lại bày tỏ chính mình Ngài cùng Cha Ngài cho những ai sẵn lòng đến tiếp nhận Con Đức Chúa Trời làm chủ đời mình. Những câu KT này nói lên cả quyền tể trị của Đức Chúa Cha lẫn trách nhiệm của tội nhân. Lời mời gọi này được tóm tắt trong 3 mệnh lệnh.


“Hãy đến”. Các thầy biệt lập (người Pha-ri-si) đều nói “Hãy làm” và tìm cách khiến dân chúng làm theo luật pháp Môi-se và các truyền thống. Nhưng chúng ta chỉ tìm thấy sự cứu rỗi đích thực nơi một người đó là Chúa Giê-xu Christ. Đến với Chúa có nghĩa là tin cậy Ngài. Lời mời này dành cho những ai mệt mỏi và nặng gánh ưu tư. Đây chính là sự cảm nhận của những ai đang ở dưới ách chủ nghĩa luật pháp của người Pha-ri-si (Mat 23:4 Cong 15:10).


“Nhận lấy”. Đây là một từng trải sâu đậm. Chúng ta đến với Chúa Giê-xu Christ bởi đức tin, Ngài cho chúng ta được yên nghỉ. Khi nhận lấy ách của Ngài và học theo Ngài, chúng ta sẽ tìm được yên nghỉ, đó là sự yên nghỉ của thuần phục và vâng lời. Thứ nhất được “hoà thuận với Đức Chúa Trời” (Ro 5:1), thứ hai có “sự bình an của Đức Chúa Trời” ngự trị trong lòng (Phil 4:6-8). Trong thời của Chúa “gánh lấy ách” nghĩa là trở nên môn đệ của Ngài. Từ “dễ chịu” có nghĩa “vừa vặn” Ngài có chiếc ách hoàn toàn thích hợp cho đời sống và nhu cầu của chúng ta (IGi 5:3).


“Hãy đọc”. Hai mệnh lệnh đầu miêu tả thời kỳ quyết định trong cuộc đời khi chúng ta tìm đến và thuận phục Chúa Giê-xu Christ nhưng bước tiếp theo này đi vào một quá trình. Càng học biết nhiều về Chúa Giê-xu, chúng ta càng tìm thấy được sự bình an sâu xa trong tâm hồn, bởi vì chúng ta càng tin cậy nơi Đấng Christ. Lời mời gọi này dành cho “tất cả mọi người” - không chỉ dành cho dân Y-sơ-ra-ên mà thôi (Mat 10:5-6).


2. Sự chống nghịch các phép tắc của Ngài (Mat 12:1-21)

Chúa Giê-xu có dụng ý vi phạm các phép tắc ngày Sa-bát một đôi lần. Ngài dạy dân chúng rằng luật pháp bề ngoài không bao giờ cứu họ và khiến họ nên thánh được sự công bình thật phải ra từ tấm lòng. Nguyên ngữ Sa-bát theo tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “nằm nghỉ hay nghỉ ngơi”, điều này giải thích tại sao Ma-thi-ơ đưa ra những mâu thuẫn về Ngày Sa-bát ở tại đây. Chúa Giê-xu ban sự yên nghỉ cho tất cả người sẽ tìm đến với Ngài, không có sự yên nghỉ nào trong việc tuân thủ các lễ nghi tôn giáo,


Chúng ta làm đúng luật pháp khi thoả mãn cơn đói tại nơi đồng ruộng của người lân cận chúng ta (Phu 23:24-25). Nhưng làm điều đó trong ngày Sa-bát là vi phạm luật theo truyền thống của thầy thông giáo và người Pha-ri-si vì hành động đó có nghĩa là làm việc. Chúa Giê-xu đưa ra lời giải đáp gồm có 3 phần.


Ngài dẫn chứng một vị vua (Mat 12:3-4). Chỉ các thầy tế lễ mới được phép ăn bánh thánh, tuy nhiên vua Đa-vít và đoàn tuỳ tùng của vua đã ăn bánh ấy. Tất nhiên Con vua Đa-vít có quyền ăn bông lúa mì nơi đồng ruộng của Cha Ngài. Và nếu như vua Đa-vít phá bỏ luật pháp và không bị định tội, chắc chắn Chúa Giê-xu cũng có thể phá bỏ lề thói của con người và Ngài không có tội (ISa 21:1).


Ngài dẫn chứng các thầy tế lễ (Mat 12:5-6). Các thầy tế lễ phải dâng nhiều của lễ thiêu trong ngày Sa-bát (Dan 28:9-10), và họ không bị kết tội. Thực tế, sự phục vụ của họ nằm trong sự vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời đã ban cho. Điều này cho thấy truyền thống của con người về ngày Sa-bát là sai, vì chúng nghịch lại với luật pháp của Đức Chúa Trời.


Ngài dẫn chứng một đấng tiên tri (Mat 12:7). Câu KT là lời trích từ Os 6:6, và cũng là lời trích Chúa Giê-xu đã dùng (Mat 9:13). Luật Sa-bát được ban bố cho dân Y-sơ-ra-ên làm dấu chứng về mối tương giao của dân sự với Đức Chúa Trời (Ne 9:12-15 Exo 20:9-11 Exo 31:13-17). Nhưng điều luật ấy cũng là hành động nhân từ dành cho cả người lẫn súc vật, cho họ và súc vật được nghỉ ngơi mỗi tuần. Bất kỳ giáo luật nào đi ngược lại với ân sủng và sự chăm sóc của Thiên Chúa cũng rất đáng nghi ngờ. Đức Chúa Trời muốn có lòng nhân từ, chớ không muốn của lễ tôn giáo. Ngài muốn có lòng yêu thương chớ không muốn chủ nghĩa luật pháp. Người Pha-ri-si nghĩ rằng họ hy sinh vâng giữ luật Sa-bát nghĩa là họ đang hầu việc Đức Chúa Trời. Khi lên án Chúa Giê-xu Christ và các môn đệ Ngài, họ nghĩ rằng họ đang bênh vực cho Đức Chúa Trời. Những người giữ gìn luật lệ giáo hội ngày nay quả giống họ làm sao.


Bạn lưu ý rằng Chúa Giê-xu đã dẫn chứng đấng tiên tri, thầy tế lễ, và vị vua vì Ngài là Đấng Tiên Tri, Thầy Tế Lễ và Nhà Vua. Bạn cũng chú ý 3 lần Chúa Giê-xu dùng câu “lớn hơn": là Thầy Tế Lễ , Ngài “lớn hơn đền thờ” (Mat 12:6) là Đấng tiên tri, Ngài “lớn hơn Giô-na” (Mat 12:41) là Nhà Vua, Ngài “Lớn hơn Sa-lô-môn” (Mat 12:42).


Trong lời tuyên bố chính Ngài là “Chúa ngày Sa-bát”, Chúa Giê-xu thực sự khẳng định sự đồng đẳng với Đức Chúa Trời vì Đức Chúa Trời đã thiết lập ngày Sa-bát (Sa 2:1-3). Và rồi Ngài chữa lành người teo tay để chứng minh cho lời tuyên bố này.Thật buồn khi các bậc lãnh đạo giáo hội sử dụng người đàn ông và sự tật nguyền của ông ta làm vũ khí chống lại Chúa Giê-xu. Nhưng Chúa không sợ sự hăm doạ của họ. Không làm điều thiện trong ngày Sa-bát (hoặc bất cứ ngày nào khác) cũng giống như làm điều ác. Chúa Giê-xu lập luận, rằng một nông dân có thể săn sóc súc vật của mình vào ngày Sa-bát, thế thì chúng ta không nên chăm sóc con người được làm nên bởi hình ảnh của Đức Chúa Trời sao?


Họ phản ứng lại lời thách thức mạnh mẽ này bằng cách tìm mưu giết Ngài. Họ đã cáo Ngài phạm tội lộng ngôn khi Ngài chữa lành cho người đau bại (Mat 9:1-8), và lên án thiếu sự cách biệt khi dùng bữa chung với các bạn của Ma-thi-ơ (Mat 9:11-13). Nhưng hành động này còn tệ hại hơn nữa. Họ cho Chúa Giê-xu cố tình vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời. Ngài đã làm việc trong ngày Sa-bát bởi việc gặt lúa và chữa lành người bệnh.


Khi thấy họ căm ghét ngài, Chúa Giê-xu bỏ đi nơi khác. Ngài không công khai chống lại kẻ thù nghịch, nhưng Ngài làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Es 42:1-4. Kẻ thù của Ngài chỉ là cây sậy đã gãy, ngọn đèn gần tàn. Hãy lưu ý đến chi tiết dân ngoại được đề cập đến hai lần, đây là lời nói bóng khác mà Ma-thi-ơ dùng để nói đến dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ Vua mình và Nước Đức Chúa Trời sẽ đến với dân ngoại.


Sự rút lui của Chúa vào thời điểm này là lời báo trước cho “sự thôi công việc của Ngài” được mô tả trong Mat 14-20 Trong suốt thời gian ấy, Chúa Giê-xu tránh gây bất đồng trực tiếp với kẻ thù Ngài để Ngài có thể theo đúng “chương trình của Ba Ngôi Đức Chúa Trời” và bị đóng đinh trên thập tự giá. Hơn nữa, trong suốt thời gian ấy, Ngài dạy dỗ các môn đệ Ngài và chuẩn bị họ trước khi Ngài chịu đóng đinh trên thập tự.


3. Chống lại quyền lực của Ngài (Mat 12:22-37)

Lời buộc tội (Mat 12:22-24). Người đàn ông được mang đến với Chúa Giê-xu chắc chắn đang ở trong tình trạng tồi tệ, vì ông ta bị mù, không nói được và bị quỉ ám, Chúa Giê-xu chữa lành cho người, một điều mà người Pha-ri-si không làm được. Họ cáo giác Ngài nhờ năng quyền của quỉ để trừ quỉ chớ không bởi quyền năng của Đức Chúa Trời. Họ không đồng ý với nhận định của Ni-cô-đem về các phép lạ của Ngài Gi 3:2).


Câu giải đáp (Mat 12:25-30). Chúa Giê-xu phán rằng lời nói của họ không có căn cứ và phi lý. Tại sao quỉ Sa-tan chống lại chính nó? Chúa Giê-xu khẳng định quỉ Sa-tan có một vương quốc, vì nó là chúa của thời đại này (Mat 4:8-9 Gi 12:31). Ngài cũng phán rằng quỉ Sa-tan có “nhà”, nhà ở đây muốn nói đến thân thể của người đàn ông mà nó ám (Mat 12:33-44). Nếu quỉ Sa-tan trừ quỉ Sa-tan, thì nó đang chống lại chính mình, chia rẻ nước của nó và phá hoại nhà mình.


Sự cáo buộc của người Pha-ri-si cũng vô căn cứ từ quan điểm của họ, mặc dù họ không thấy điều đó. Có mấy thầy trừ quỉ là người Giu-đa (Cong 19:13-16) đã thành công. Họ đã dùng quyền phép nào để trừ quỉ? Nếu dùng quyền của quỉ Sa-tan họ liên minh với quỉ. Dĩ nhiên, không có người Pha-ri-si nào chấp nhận lời kết luận ấy.


Chúa Giê-xu có quyền đuổi quỉ vì trước hết Ngài đã đắc thắng Sa-tan, chúa của các quỉ. Sự đắc thắng của Ngài bởi quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời ("ngón tay của Đức Chúa Trời”: (Lu 11:20) chớ không bởi quyền của một quỉ nào. Điều này có nghĩa Đức Chúa Trời là Đấng thắng hơn Sa-tan, và họ phải quyết định chọn đứng ở phía nào. Không thể nào có sự thoả hiệp. Hoặc chúng ta ở về phía Đức Chúa Trời hoặc chúng ta chống nghịch Ngài.


Lời khuyên bảo (Mat 12:31-37). Chúa Giê-xu cảnh cáo rằng lời nói của họ chứng minh sự độc ác trong lòng họ.Tội chống nghịch Đức Thánh Linh không phải là vấn đề của lời nói lời nói tuôn ra chỉ là “trái” của tấm lòng tội lỗi. Nếu lòng chứa đầy sự tốt đẹp, sự tốt lành ấy sẽ tuôn tràn qua môi miệng và làm ích cho nhiều người khác. Nhưng nếu tấm lòng chất chứa tội lỗi, từ môi miệng sẽ tuôn chảy những điều xấu xa làm hại đến người nói lẫn kẻ nghe.


Nhưng tội “phạm đến Đức Thánh Linh” là tội gì? Ngày nay chúng ta có phạm tội ấy không? Nếu có thì như thế nào? Chúa chúng ta phán rằng Đức Chúa Trời sẽ tha thứ những lời nói phạm đến Con Người nhưng Ngài không tha lời nói phạm thượng đến Đức Thánh Linh. Điều này có phải Đức Thánh Linh quan trọng hơn Chúa Giê-xu Christ, Con của Đức Chúa Trời không? Hoàn toàn không phải như vậy. Chúng ta thường nghe người ta nói phạm đến danh của Đức Chúa Trời hoặc của Chúa Giê-xu Christ, nhưng hiếm khi nghe nói đến danh Đức Thánh Linh. Làm thế nào Đức Chúa Trời tha thứ những lời nói phạm đến danh Con Ngài mà lại không tha thứ cho lời nói phạm đến Đức Thánh Linh?


Rõ rằng tình trạng này chỉ tồn tại trong thời gian Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên thế gian. Chúa Giê-xu không khác với bất kỳ người Giu-đa nào (Es 53:2). Nói phạm đến Chúa Giê-xu Christ có thể được tha thứ trong khi Ngài còn sống trên thế gian. Nhưng khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời giáng lâm trong ngày lễ ngũ tuần làm bằng chứng Chúa Giê-xu là Đấng Christ và Ngài đang sống, chối bỏ lời chứng của Đức Thánh Linh là dứt khoát không tin Ngài. Hậu quả chỉ là sự đoán phạt.


Khi các bậc lãnh đạo giáo hội chối bỏ Giăng Báp-tít, họ đang chối bỏ Đức Chúa Cha là Đấng đã sai phái Giăng Báp-tít. Khi họ chối bỏ Chúa Giê-xu, họ đang chối bỏ Đức Chúa Con. Nhưng khi họ không chấp nhận chức vụ của các sứ đồ, họ đã khước từ Đức Thánh Linh - và đến đây không còn phương cách nào khác. Chẳng có lời chứng nào nữa. Tội chối bỏ ấy không thể nào tha thứ được.


Nhóm từ “lời hư không” trong Mat 12:36 có nghĩa là “những lời vô ích”. Nếu Đức Chúa Trời phán xét “lời nói nhỏ nhặt” của chúng ta, Ngài sẽ đoán xét những lời nói cố ý của chúng ta như thế nào? Chính bởi cuộc chuyện trò vào những lúc không gìn giữ chúng ta để lộ cá tính thật của mình.


Ngày nay có “tội không thể tha thứ” nào không? Vâng có, tội chối bỏ Chúa Giê-xu Christ đến cùng, Chúa Giê-xu phán mọi tội đều được thứ tha (Mat 12:31). Tội tà dâm, tội giết người, tội phạm thượng, và các tội khác đều được Ngài tha thứ Tất cả tội lỗi vừa nêu đều có thể được tha thứ. Nhưng Đức Chúa Trời không thể tha thứ cho tội chối bỏ Con Ngài. Chính Đức Thánh Linh là Đấng làm chứng về Chúa Giê-xu Christ (Gi 15:26) và Ngài cũng là Đấng tuyên án tội nhân hư mất (Gi 16:7-11).


4. Chống lại nhân tính của Ngài (Mat 12:38-50)

“Người Giu-đa đòi phép lạ” (ICo 1:22). Đòi phép lạ là bằng chứng của sự vô tín. Họ muốn Ngài chứng tỏ cho thấy Ngài là Đấng Mê-si-a. Chúng ta tự hỏi không biết còn bằng chứng nào nữa để cho họ. Nếu tra xem lời Kinh Thánh, và thành tâm tìm hiểu cuộc đời của Chúa Giê-xu, họ sẽ kết luận rằng “Đây là Con Đức Chúa Trời”.Nhưng đối với Chúa Giê-xu, cho họ một dấu hiệu sẽ là việc làm sai. Tất nhiên Ngài đã thoả mãn cho lòng vô tín của họ và cho phép họ đặt ra các tiêu chuẩn cho đức tin. Cho dù Ngài có làm phép lạ nào đi nữa, điều đó cũng chẳng làm họ vừa lòng.


Chúa Giê-xu đưa ra ba điểm để trả lời cho thách thức của họ.


Ngài nhắc lại lịch sử của họ (Mat 12:39-42). Tiên tri Giô-na là người Giu-đa được sai đến với dân ngoại, và nữ vương Sê-ba là người ngoại bang đã đến thăm vua Sa-lô-môn là người Giu-đa (IISu 9:1-12). Do sự đố kỵ giữa người Giu-đa và dân ngoại bang, việc nhắc đến dân ngoại ở đây ắt làm cho người Pha-ri-si tức giận. Nhưng chúng ta đã biết trong nhiều dịp khác hoặc Chúa Giê-xu hoặc Ma-thi-ơ có đề cập đến dân ngoại bang.


Giô-na là một phép lạ cho dân thành Ni-ni-ve bởi vì ông đã từng trải (trong bụng con cá lớn) sự chết, sự chôn và sự sống lại. Phép lạ duy nhất về Chúa Giê-xu ban cho dân sự của Ngài là sự chết, sự chôn và sự sống lại. Các sứ điệp trong 7 chương đầu của sách Công-vụ tập trung vào sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ, chớ không nói về sự chết của Ngài trên thập tự giá. Dân Giu-đa trong thời đó tin rằng Ngài đã chết, vì vậy sự sống lại là đề tài chính của cuộc chuyện trò (Lu 24:18). Nhưng họ không tin Ngài đã sống lại (Mat 28:11-15). Trong Cong 2:1-7:60 Đức Thánh Linh bày tỏ cho dân Y-sơ-ra-ên lời chứng đầy đủ rằng Chúa Giê-xu đang sống. Đây là phép lạ duy nhất mà họ cần.


Chúa Giê-xu cao trọng hơn Giô-na về nhiều phương diện. Nhân tính của Ngài lớn hơn vì Giô-na chỉ là con người. Ngài lớn hơn Giô-na trong sự vâng lời vì Giô-na không vâng lời Đức Chúa Trời và bị Ngài quở phạt. Chúa Giê-xu đã chết thực sự trong khi Giô-na “nằm trong” bụng con cá lớn. Chúa Giê-xu đã sống lại từ trong kẻ chết bởi quyền năng của Ngài. Giô-na thi hành chức vụ chỉ tại một thành phố trong lúc Chúa Giê-xu hi sinh đời mình cho toàn thế giới. Hẳn nhiên Chúa Giê-xu cao trọng hơn Giô-na về tình yêu thương của Ngài vì Giô-na không yêu thương dân thành Ni-ni-ve - ông ta muốn họ phải chết. Sứ điệp của Giô-na cứu dân Ni-ni-ve thoát khỏi cơn đoán phạt ông ta là sứ giả của cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời.Sứ điệp của Chúa Giê-xu là sứ điệp của ân điển và ơn cứu rỗi. Khi chúng ta tin nhận Chúa Giê-xu Christ, chúng ta không chỉ được cứu khỏi cơn đoán phạt, nhưng chúng ta còn nhận được sự sống dư dật, đời đời.


Chúa Giê-xu cũng lớn hơn vua Sa-lô-môn trong sự khôn ngoan, giàu có và công tác của Ngài. Nữ hoàng Sê-ba đã ngạc nhiên về những điều bà chứng kiến trong vương quốc của vua Sa-lô-môn nhưng những điều chúng ta có được trong Nước Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ còn trổi vượt hơn sự vinh hiển của vua Sa-lô-môn. Ngồi chung bàn với Chúa Giê-xu, nghe lời Ngài dạy, và cùng chia sẻ những phước hạnh của Ngài là điều thoả thích hơn nhiều khi viếng thăm và thán phục một kinh đô nổi tiếng, cho dù đó là đế đô của vua Sa-lô-môn.


Bài học chính rút ra từ bài học lịch sử này là: Dân thành Ni-ni-ve sẽ làm chứng nghịch lại các nhà lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, vì họ đã ăn năn lúc nghe sứ điệp của Giô-na rao giảng. Nữ hoàng Sê-ba cũng sẽ lên án họ, vì bà đã từ xa đi đến đặng nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn. Tuy nhiên các bậc cầm quyền Do Thái không chịu nghe sự khôn ngoan của Chúa Giê-xu Christ Đấng đang ngự ngay chính giữa họ. Dịp tiện càng lớn, án phạt càng nặng. Sự bi thảm trong lịch sử Y-sơ-ra-ên đó là đầu tiên dân sự chối bỏ những người giải cứu họ, nhưng họ phải chấp nhận trong lần thứ hai. Sự thật này hoàn toàn đúng với trường hợp của Giô-sép, Môi-se, vua Đa-vít, các đấng tiên tri (Mat 23:29) và Chúa Giê-xu Christ.


Ngài thấy tấm lòng của họ (Mat 12:43-45). Chúng ta nên nối ý những câu này với Mat 12:24-29. “Nhà” của Sa-tan là thân thể của người bị quỉ ám.Kinh Thánh cho thấy rõ tà ma không có nơi nương thân và chúng tìm các thân thể để vào trú ngụ (Mat 8:28-31). Khi tà ma ra khỏi, cuộc đời người đàn ông được thay đổi trở nên tốt đẹp hơn nhưng đời sống của người đó vẫn còn trống trải. Khi quỉ trở lại, nó mang theo nhiều quỉ khác nữa và cuộc đời của người ấy kết thúc trong thảm kịch.


Bài học ứng dụng quan trọng nhất phải dành cho dân Y-sơ-ra-ên, nhất là dòng dõi thời Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên thế gian. Một dân tộc đã được dẹp bỏ hình tượng tà thần đã gây đau khổ cho họ trong thời Cựu Ước. Nhưng sự cải cách không chưa đủ. Cải cách có thể làm cho sạch nhưng không thể làm cho đầy. Đáng lý ra dân Y-sơ-ra-ên đã nhận ơn cứu rỗi và được đầy dẫy đời sống tâm linh.Nhưng thay vào đó, họ từ chối Ngài và kết cuộc là sự hư mất.


Cũng có bài học ứng dụng cho cá nhân. Lau dọn nhà sạch sẽ chưa đủ chúng ta phải mời người đến thuê nhà ngay. Người Pha-ri-si hãnh diện về “nhà sạch” của họ, nhưng tấm lòng của họ trống rỗng. Chỉ có tôn giáo, hoặc sự cải cách sẽ không đem đến sự cứu rỗi. Ắt hẳn phải có sự tái sinh, nhận Chúa Giê-xu Christ vào lòng (Kh 3:20).


Ngài chối bỏ sự tôn trọng của họ (Mat 12:46-50). Ngay cả gia đình về phần xác của Chúa Giê-xu cũng không hiểu trọn vẹn về Ngài và chức vụ của Ngài (Gi 7:1-5). Một số bạn bè của Ngài cho Ngài bị điên (Mac 3:21). Nhưng Đức Chúa Giê-xu không muốn sự vinh hiển đến từ loài người. Chúa Giê-xu nhấn mạnh đến gia đình của Đức Chúa Trời trong khi Ngài không tỏ ra thiếu kính trọng đối với gia đình về phần xác của Ngài.


Lưu ý cách dùng từ “hễ ai” (Mat 12:50) của Ngài. Điều này tương ứng với lời mời ân cần của Ngài trong Mat 11:28-30 mà Ngài đã khích lệ mọi người đến tin nhận Ngài. Nếu cả đất nước không công nhận Ngài, thì ít nhất các cá nhân trong nước - và giữa vòng dân ngoại cũng có thể tin nhận Ngài. Nhưng điều gì sẽ xảy ra cho vương quốc của lời hứa?



bottom of page