top of page

KHẢI-HUYỀN (1)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Sách Lời Tiên Tri



1. QUYỂN SÁCH RẤT ĐẶC BIỆT (Kh 1:1-20)


Nhà...

...văn trào phúng Mỹ Josh Billings nói, “Đừng bao giờ nói tiên-tri, vì nếu bạn nói sai, mọi người sẽ không quên được còn nếu bạn nói đúng, chẳng ai nhớ đều bạn nói cả”.


Trải qua các thế kỷ, nhiều lời tiên-tri được nói ra rồi qua đi tuy nhiên sách tiên-tri do sứ-đồ Giăng viết vào thời gian gần cuối thế kỷ thứ nhất vẫn còn tồn tại với chúng ta. Lúc còn bé, tôi đã đọc và kinh ngạc về tất cả những gì ghi trong sách. Ngay cả đến hôm nay, sau nhiều năm tìm tòi nghiên cứu, sứ-điệp và những điều mầu nhiệm lạ lùng vẫn còn thu hút tôi.


Trong Khải-huyền chương 1, sứ-đồ Giăng giới thiệu sách và cho chúng ta những dữ kiện quan trọng để đánh giá và hiểu lời tiên-tri này.


1. Tiêu đề (Kh 1:1a).

Chữ đã dịch là khải-thị có nghĩa là “vén bức màn”. Chúng ta có từ tiếng Anh là apocalyspe, chẳng may ngày nay từ này đồng nghĩa với sự hỗn độn và thảm họa. Động từ của chữ này có nghĩa “mở ra, tiết lộ, bày tỏ”. Trong sách này, Đức Thánh Linh vén bức màn để chúng ta có thể chiêm ngưỡng Đấng Christ vinh hiển trên trời và nhìn thấy chương trình đời đời của Ngài được ứng nghiệm trên thế gian.


Nói cách khác, Khải-huyền là sách mở trong đó Đức Chúa Trời tiết lộ kế hoạch và chương trình của Ngài đối với Hội thánh. Khi Đa-ni-ên viết xong lời tiên-tri, ông được lệnh “niêm phong các lời đã viết và đóng ấn quyển sách” (Đa 12:4) nhưng sứ-đồ Giăng được lệnh ngược lại: “Chớ niêm phong những lời tiên-tri trong sách này” (Kh 22:10).

Tại sao như vậy? Từ đồi Gô-gô-tha, Sự sống lại, và Sự giáng lâm của Đức Thánh Linh, Đức Chúa Trời đã dẫn vào “những ngày cuối cùng” (Hêb 1:1-2) và Ngài sắp làm ứng nghiệm các mục đích Ngài đã giấu kín trong thế gian này. “Thời giờ đã gần rồi” (Kh 1:3; Kh 22:10).


Lời tiên-tri của Giăng chủ yếu nói về Chúa Giê-xu Christ, chớ không cho biết những sự kiện trong tương lai. Bạn không được phân ly Con người (Chúa Giê-xu Christ) ra khỏi lời tiên-tri, vì không có Con người, chẳng có lời tiên-tri nào được ứng nghiệm. Tiến sĩ Merrill Tenney viết, “Đối với lời tiên-tri Ngài không phải là ngẫu nhiên nhưng Ngài là chủ đề chính của lời tiên-tri”.

Trong Kh 1:1-3:22, chúng ta nhìn thấy Chúa Giê-xu Christ là Thầy Tế Lễ - Nhà Vua thật cao trọng đang chăm sóc các Hội thánh.

Trong Kh 4:1-5:14, Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời được vinh hiển trên trời, đang ngự trên ngôi. Trong Kh 6:1-18:24, Đấng Christ là Quan Án của cả thế gian và trong Kh 19:1-21 Ngài là Vua trên muôn vua trở lại trần gian trong chiến thắng. Sách kết thúc bằng việc Tân Lang tiếp rước Tân Nương của Ngài, là Hội thánh, vào trong nước trời vinh hiển.


Bạn làm bất cứ điều gì khi nghiên cứu sách này, hãy cố gắng biết rõ hơn về Cứu Chúa của bạn.


2. Trước giả (Kh 1:1-2,4,9; Kh 22:8)

Đức Thánh Linh dùng sứ-đồ Giăng cống hiến cho chúng ta biết ba án văn khải-thị: Sách Phúc-âm Giăng, Ba thư tín và Sách Khải-huyền. Chương trình của Ngài có thể được sắp xếp như sau:


- Phúc-âm Giăng:

- Các thư tín:

- Khải-huyền:

Tin, Kh 20:31

Bảo đảm IGi 5:13

Sẵn sàng, Kh 22:20

Nhận được sự sống

Bày tỏ sự sống

Ban thưởng sự sống

Sự cứu rỗi

Sự nên thánh

Sự tể trị

Đấng tiên-tri

Thầy Tế lễ

Nhà Vua

Sứ-đồ Giăng viết Khải-huyền khoảng năm 95 sau Chúa, trong thời trị vì của hoàng đế La-mã Titus Flavius Domitian. Hoàng Đế đã ra lệnh mọi người dân phải thờ lạy ông ta như là “Chúa và Đức Chúa Trời”, các Cơ-đốc nhân và người Giu-đa không chịu vâng theo chiếu chỉ của vua đã dẫn đến cơn bắt bớ dữ dội. Truyền thuyết kể lại rằng chính Domitian đã đày sứ-đồ Giăng đến đảo Bát-mô, một thuộc địa hình phạt của đế quốc Rô-ma nằm ngoài khơi vùng Tiểu Á. Do địa điểm nơi Giăng bị lưu đày, có lẽ chúng ta không ngạc nhiên khi thấy chữ biển xuất hiện hai mươi sáu lần trong sách này.


Trong thời gian Đấng Christ thi hành chức vụ trên đất, Giăng và anh mình là Gia-cơ xin Chúa Giê-xu ban cho chỗ đặc biệt cao trọng bên ngôi của Ngài. Chúa phán với họ rằng họ sẽ hưởng các ngôi cao ấy sau khi dự phần trong sự thương khó của Ngài. Gia-cơ là vị sứ-đồ đầu tiên tử đạo (Công 12:1-2) Giăng là sứ-đồ qua đời cuối cùng, nhưng người đã chịu đau khổ trên đảo Bát-mô trước khi chết (Mat 20:20-23).


Chúa truyền đạt nội dung trong sách này cho tôi tớ Ngài bằng cách nào? Theo Kh 1:1-2, Đức Chúa Cha tỏ cho Đức Chúa Con, sau đó Đức Chúa Con chia sẻ lại cho các sứ-đồ, qua trung gian “thiên-sứ của Ngài.” Đôi khi chính Đấng Christ chuyển đạt thông tin cho Giăng (Kh 1:10) đôi khi là một trưỡng lão (Kh 7:13) và thường là do một thiên-sứ (Kh 17:1; Kh 19:9-10). Đôi lúc “một tiếng phán từ trời” bảo Giăng phải nói và làm (Kh 10:4). Sách này từ Đức Chúa Trời gởi đến cho Giăng, cho dù phương tiện truyền đạt có là gì đi nữa nhưng tất cả đều được hà hơi bởi Thánh Linh.


Chữ tỏ ra thật quan trọng nó có nghĩa “bày tỏ qua dấu hiệu”. Trong Khải-huyền, danh từ của chữ này được dịch là điềm (Kh 15:1), dấu lớn (Kh 12:1,3), và phép lạ (Kh 19:20). Đây là chữ được dùng trong sách Phúc-âm Giăng nói về các phép lạ của Chúa Giê-xu Christ, vì các phép lạ Ngài làm là những sự kiện mang sứ-điệp thuộc linh sâu sắc hơn là sự tỏ bày về quyền năng. Khi nghiên cứu Khải-huyền, bạn sẽ thấy vô số biểu tượng, trong số đó có liên quan đến Cựu-ước.


Tại sao Giăng dùng biểu tượng? Trước tiên, đây là loại “mật mã thiêng liêng” chỉ những người gặp Đấng Christ cách riêng tư mới có thể hiểu được. Nếu giới chính quyền Rô-ma nào tìm cách dùng Khải-huyền làm bằng chứng chống lại Cơ-đốc nhân, sách sẽ gây rối trí và làm họ càng khó hiểu hơn.

Nhưng lý do mạnh mẽ hơn đó là biểu tượng không suy yếu theo thời gian. Sứ-đồ Giăng có khả năng vẽ nên “những hình ảnh” trong khải tượng của Đức Chúa Trời và tập hợp tất cả lại thành một loạt những sự kiện kỳ thú để an ủi khích lệ các thánh-đồ đang chịu bắt bớ đau khổ trải qua các thế kỷ. Tuy nhiên, bạn không nên kết luận rằng việc Giăng dùng biểu tượng chứng tỏ các biến cố đã mô tả là không có thật. Chúng có thật!


Lý do thứ ba cho biết tại sao Giăng dùng biểu tượng: Biểu tượng không chỉ chuyển tải thông tin, nhưng còn truyền đạt những giá trị và làm nẩy sinh những cảm xúc. Có thể sứ-đồ Giăng đã viết, “Một nhà độc tài sẽ cai trị thế giới”, nhưng thay vào đó ông lại mô tả con thú. Biểu tượng nói nhiều hơn danh xưng “nhà độc tài”. Thay vì giải thích hệ thống của thế giới, Giăng chỉ giới thiệu “Thành phố Ba-by-lôn” lớn và tương phản với “ky nữ” là “cô dâu”. Chính danh xưng “Ba-by-lôn” truyền đạt chân lý thuộc linh sâu sắc cho người đọc có kiến thức về Cựu-ước.


Tuy nhiên, để hiểu các biểu tượng do Giăng viết, chúng ta phải cẩn thận không được cho phép trí tưởng tượng của chúng ta đi lang thang. Các biểu tượng của Kinh Thánh phù hợp với toàn bộ mạc khải trong Kinh Thánh.

Một số biểu tượng được giải thích (Kh 1:20; Kh 4:5; Kh 5:8) số khác được hiểu theo biểu tượng trong Cựu-ước (Kh 2:7,17; Kh 4:7) và một số biểu tượng không có lời giải thích nào cả (“hòn đá trắng” trong Kh 2:17).

Có gần 300 ý liên quan đến Cựu-ước tìm thấy trong sách Khải-huyền! Điều này cho thấy chúng ta phải bám sát những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ khi giải thích, nếu không chúng ta sẽ hiều sai lệch sách tiên tri quan trọng này.


3. Người đọc (Kh 1:3-4)

Trong khi nguyên bản sách này được gởi cho bảy Hội thánh điạ phương trong Tiểu Á, Giăng cho biết rõ rằng bất kỳ tín-hữu nào cũng có thể đọc và được phước (Kh 1:3). Thực ra, Đức Chúa Trời đã hứa ban phước đặc biệt cho người đọc và làm theo sứ-điệp chép trong sách. (Động từ đọc có nghĩa “đọc lớn tiếng”.

Sách Khải-huyền đầu tiên được đọc lớn tiếng trong các giờ thờ phượng của Hội thánh địa phương.)

Sứ đồ Phao-lô đã gởi các thư tín cho bảy Hội thánh: Rô-ma, Cô-rinh-tô, Ga-la-ti, Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se, và Tê-sa-lô-ni-ca - và bây giờ sứ đồ gởi một sách cho bảy Hội thánh khác nhau. Ngay phần đầu sách, vị sứ-đồ đã có một sứ-điệp của Đấng Christ cho mỗi Hội thánh.


Sứ-đồ Giăng không gởi sách tiên-tri này cho các Hội thánh để thỏa mãn trí tò mò của họ về tương lai. Con cái Đức Chúa Trời đang trải qua cơn bắt bớ khốc liệt và họ cần lời an ủi. Khi nghe đọc sách này, sứ điệp trong sách sẽ cho họ sự mạnh mẽ và trông cậy.

Nhưng hơn nữa, sứ-điệp sẽ giúp họ tra xét lại đời sống mình (và của mỗi Hội thánh địa phương) để quyết định phải sửa chữa ở lãnh vực nào. Họ không chỉ nghe đọc lời Chúa, nhưng cũng gìn giữ lời ấy - tức là, gìn giữ như kho tàng và thực hành điều đã nghe. Phước hạnh sẽ đến không chỉ bởi việc nghe nhưng còn bởi việc làm theo nữa. (Gia 1:22-25).


Thật xứng đáng khi biết có đến bảy “phước hạnh” ghi trong Kh 1:3; Kh 14:13; Kh 16:15; Kh 19:9; Kh 20:6; Kh 22:7,14. Số bảy là con số quan trọng trong sách này vì là dấu hiệu của sự trọn vẹn. Trong Khải-huyền, Đức Chúa Trời phán dạy với chúng ta cách Ngài sắp hoàn tất công tác trọng đại của Ngài và mở ra vương quốc đời đời của Ngài. Trong Khải-huyền, bạn sẽ thấy bảy ấn (Kh 5:1), bảy kèn (Kh 8:6), bảy bát (Kh 16:1), bảy ngôi sao (Kh 1:16), và bảy chân đèn (Kh 1:12,20). Những “số bảy” khác trong sách này sẽ được bàn luận khi nghiên cứu.


Các sứ-điệp đặc biệt gởi cho từng Hội thánh được chép trong Kh 2:1-3:22. Một số nhà nghiên cứu nhìn thấy trong bảy Hội thánh này “bức tranh toàn cảnh của lịch sử Hội thánh”, từ thời sứ-đồ (Hội thánh Ê-phê-sô) đến thời tiên tri giả của thế kỷ hai mươi (Lao-đi-xê). Trong khi các Hội thánh này có thể minh họa các giai đoạn khác nhau trong lịch sử Hội thánh, có lẽ đó không phải là lý do chính tại sao các Hội thánh đặc biệt này.

Thay vào đó, các Hội thánh này nhắc chúng ta nhớ rằng Đầu tối cao của Hội thánh được tôn cao biết những diễn tiến đang xảy ra trong mỗi Hội thánh, và Ngài biết mối tương giao của chúng ta với Ngài và Lời của Ngài sẽ quyết định cuộc sống và chức vụ của Hội thánh địa phương.


Hãy nhớ rằng các Hội thánh trong Tiểu Á đang đối diện với cơn bắt bớ và điều quan trọng là họ cần phải liên hệ thích hợp với Chúa và với nhau. Họ được hình dung bằng bảy chân đèn riêng lẽ, mỗi Hội thánh soi ra ánh sáng cho thế gian tăm tối (Phi 2:15; Mat 5:14-16). Ngày càng tối, ánh sáng phải soi mạnh hơn tiếc thay tình trạng của năm trong số các Hội thánh này cần phải sửa chữa nếu họ muốn đèn của họ tỏa sáng. Khi đọc Kh 2:1-3:22, bạn thấy Chúa luôn nhắc các Hội thánh nhớ lại Ngài là ai, và khích lệ họ trở nên “người đắc thắng”.


Hơn nữa, lời hứa về sự tái lâm của Chúa Giê-xu Christ sẽ thúc giục các con cái Chúa luôn luôn vâng lời và giữ mình thánh sạch (Kh 1:3,7; Kh 2:5,25; Kh 3:3,11; Kh 22:7,12,20; IGi 1:1-3). Không có tín hữu nào nghiên cứu lời tiên tri chỉ để thỏa mãn trí tò mò của mình. Khi Đa-ni-ên và Giăng nhận khải tượng của Đức Chúa Trời về tương lai, cả hai đều ngã xuống đất như người chết (Kh 1:17; Da 10:7-10). Họ hết sức bàng hoàng kinh hãi! Chúng ta cần phải có thái độ như những người chiêm ngưỡng và tôn thờ khi đến với sách này, chớ đừng như người nghiên cứu văn chương.


4. Lời đề tặng (Kh 1:4-6)

Một người bạn nói với tôi, “Nếu anh không dừng viết sách, anh sẽ không còn người để đề tặng”. Tôi cảm kích lời khen tặng, nhưng tôi không đồng ý với cảm nghĩ đó.Sứ đồ Giăng không gặp khó khăn để biết nên tặng quyển sách cho ai! Nhưng trước khi viết lời tặng, Giăng nhắc nhở các độc giả nhớ rằng Ba Ngôi Đức Chúa Trời đã cứu họ và sẽ gìn giữ khi họ đối diện với khó khăn hoạn nạn.


Đức Chúa Cha được mô tả là Đấng Đời Đời (Kh 1:8 Kh 4:8).

Tất cả lịch sử đều là một phần trong chương trình đời đời của Ngài, kể cả sự bắt bớ của thế gian trên Hội thánh. Tiếp theo Đức Thánh Linh là Đấng Trọn vẹn, vì không có bảy Thánh Linh, nhưng chỉ có một. Điều chép ở đây có liên hệ đến Es 11:2.


Cuối cùng, chúng ta nhìn thấy Chúa Giê-xu Christ trong chức vụ ba vai trò: Đấng Tiên Tri (Đấng làm chứng thành tín), Thầy Tế Lễ (Đấng sanh đầu nhứt từ trong kẻ chết), và Nhà Vua (Vua trên muôn vua của thế gian). Sanh đầu nhứt không có nghĩa “người đầu tiên từ kẻ chết sống lại”, nhưng “là người cao trọng nhất trong những kẻ chết sống lại”. Sanh đầu nhứt là tước hiệu tôn trọng (Rô 8:29; Côl 1:15,18).


Nhưng trong Ba Ngôi Đức Chúa Trời, sách này chỉ đề tặng một mình Chúa Giê-xu Christ.

Lý do vì sao? Vì những gì Ngài đã làm cho con dân Ngài. Trước tiên, Ngài yêu thương chúng ta (trong hầu hết các bản gốc đều dùng ở thì hiện tại). Điều này tương ứng với điều nhấn mạnh trong Phúc-âm Giăng. Ngài cũng rửa sạch tội lỗi chúng ta, hoặc giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi như trong một số bản khác.

Điều này tương ứng với sứ điệp trong các thơ tín của Giăng (IGi 1:5). Và cuối cùng, Đấng Christ đã làm chúng ta nên nước thầy tế lễ, và đây là điểm quan trọng trong Khải-huyền. Ngày nay, Chúa Giê-xu Christ là Thầy Tế Lễ - Nhà Vua giống như Mên-chi-xê-đéc (Hêb 7:1-28), chúng ta được đồng ngồi với Ngài trên ngôi Ngài (Eph 2:1-10).


Trong lòng yêu thương khoan dung của Đức Chúa Trời, Ngài gọi dân Y-sơ-ra-ên trở nên nước thầy tế lễ (Xu 19:1-6), nhưng dân Do-thái không trung thành với Đức Chúa Trời và Ngài đã cất ngôi nước khỏi họ (Mat 21:43). Ngày nay, con dân Đức Chúa Trời (Hội thánh) là vua và thầy tế lễ của Ngài (IPhi 2:1-10), đang thực hành quyền hạn thiêng liêng và hầu việc Đức Chúa Trời trong thế gian này.


5. Chủ đề (Kh 1:7-8)

Chủ đề bao trùm của sách Khải-huyền là sự tái lâm của Chúa Giê-xu Christ để chiến thắng mọi kẻ thù và thiết lập ngôi nước của Ngài. Đó thật là quyển sách nói về chiến thắng và con dân của Ngài, “những người chiến thắng” (Kh 2:7,11,17,26; Kh 3:5,12,21; Kh 11:17; Kh 12:11; Kh 15:2; Kh 21:7). Trong thơ tín thứ nhất, sứ-đồ Giăng cũng gọi con dân của Đức Chúa Trời là “những người đắc thắng” (Kh 2:13-14; Kh 4:4; Kh 5:4-5).

Dưới cái nhìn của người không tin, Chúa Giê-xu Christ và Hội thánh Ngài bị thất bại trong thế gian này nhưng theo con mắt đức tin, Chúa Giê-xu và con cái Ngài là những người thật sự đắc thắng. Như Peter Marshall đã từng nói, “Thua trong một vụ kiện để cuối cùng thành công tốt hơn là thành công trong một vụ kiện để rồi đến kết cuộc lại thất bại”.


Lời phán trong câu 7, “Này, Ngài đến giữa đám mây” mô tả quang cảnh Chúa trở lại trần gian, và được mô tả rõ hơn trong Kh 19:11. Đây không giống với quang cảnh Chúa tái lâm nơi không trung tiếp rước con dân Ngài (ITês 4:13-18; ICôr 15:51). Khi Ngài đến tiếp rước Hội thánh, Ngài sẽ đến “như kẻ trộm” (Kh 3:3; Kh 16:15) và chỉ những người được sanh lại mới thấy Ngài (IGi 3:1-3). Biến cố mô tả trong Kh 1:7 sẽ được toàn thế giới chứng kiến, đặc biệt bởi dân Y-sơ-ra-ên đã ăn năn (Da 7:13; Xa 12:10-12). Biến cố ấy sẽ xảy ra công khai không che giấu (Mat 24:30-31), và sẽ đưa thời kỳ đại nạn đạt đến điểm đỉnh Kh 6:1-19:21


Các nhà nghiên cứu yêu mến Chúa thường không nhất trí với trình tự các biến cố dẫn đến việc thiết lập nước đời đời của Đức Chúa Trời (Kh 21:1-22:21). Cá nhân tôi tin rằng biến cố sắp đến trong lịch trình của Đức Chúa Trời là Sự Hoan Hỉ, lúc ấy Đấng Christ trở lại nơi không trung tiếp rước Hội thánh Ngài vào sự vinh hiển. Lời hứa của Đấng Christ dành cho Hội thánh chép trong Kh 3:10-11 cho thấy Hội thánh sẽ không trải qua Cơn Đại Nạn, điều này được sứ-đồ Phao-lô ủng hộ trong ITês 1:10; ITês 5:9-10 Đối với tôi thật ý nghĩa khi tôi không tìm thấy có chữ Hội thánh trong khoảng giữa từ Kh 3:22 và Kh 22:16


Sau khi Hội thánh được cất lên, các biến cố ghi trong Kh 6:1-19:21 sẽ xảy ra: Cơn Đại Nạn, “con người tội ác” xuất hiện, Cơn Thạnh Nộ lớn (cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời) và nền cai trị thế giới do con người lập lên bị sụp đổ, sau đó Đấng Christ trở lại lập nước Ngài. Đa-ni-ên cho thấy giai đoạn rối reng toàn cầu này kéo dài trong bảy năm (Da 9:25-27). Suốt sách Khải-huyền, bạn sẽ tìm thấy những số đo về thời gian phù hợp với khoảng thời gian bảy năm này (Kh 11:2-3; Kh 12:6,14; Kh 13:5).


Các danh xưng dành cho Đức Chúa Trời trong câu 8 cho thấy rõ chắc chắn Ngài có khả năng thi hành các chương trình đời đời của Ngài trong lịch sử con người. Alpha và Omega là mẫu tự đầu tiên và cuối cùng trong bản chữ cái Hy-lạp vì vậy, Đức Chúa Trời là Đấng khởi nguồn của mọi vật và cũng là kết thúc của muôn vật. Ngài là Đức Chúa Trời đời đời (xem c.4), không bị giới hạn bởi thời gian. Ngài cũng là Đấng Toàn Năng, Ngài làm được mọi sự. Toàn Năng là danh xưng quan trọng của Đức Chúa Trời trong sách Khải huyền (Kh 1:8; Kh 4:8; Kh 11:17; Kh 15:3; Kh 16:7,14; Kh 19:6,15; Kh 21:22).


Đức Chúa Cha được gọi là “Alpha và Omega” trong Kh 1:8 và Kh 21:6 nhưng danh xưng này cũng áp dụng cho Con Ngài (Kh 1:1;1 Kh 22:13). Đây là lý lẽ mạnh mẽ xác nhận thần tính của Đấng Christ. Tương tự, danh xưng “Đấng đầu tiên và cuối cùng” có chép trong Ê-sai (Es 41:4; Es 44:6; Es 48:12-13) và đây là bằng chứng khác chứng tỏ Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời.


6. Cơ hội viết sách (Kh 1:9-18)

Sách này được viết ra bởi kinh nghiệm thuộc linh sâu sắc trong những năm tháng sứ đồ Giăng bị đày trên đảo Bát-mô.


Những điều Giăng nghe (Kh 1:9-11) vào ngày của Chúa là tiếng như tiếng kèn vang vọng đằng sau ông. Đó là tiếng phán của Chuá Giê-xu Christ! Như chúng ta biết, vị sứ đồ đã không nghe thấy giọng nói của Chúa mình đã hơn sáu mươi năm, từ lúc Ngài về trời. Chúa uỷ thác cho Giăng viết sách này và gởi cho bảy Hội thánh Ngài đã chọn. Về sau, Giăng nghe một tiếng khác như tiếng kèn gọi ông lên trời (Kh 4:1). (Một số nhà nghiên cứu liên hệ điều này với ITês 4:13-18 và thấy rằng “việc lên trời” của Giăng là hình ảnh Hội thánh được cất lên).


Những điều Giăng thấy (Kh 1:12-16) là khải tượng vê Đấng Christ được vinh hiển. Kh 1:20 cho biết rõ chúng ta không được phép hiểu khải tượng này theo nghĩa đen, vì đó chỉ là biểu tượng . Bảy chân đèn tượng trưng cho bảy Hội thánh nhận lấy sách. Mỗi Hội thánh địa phương là ngọn đèn soi ra ánh sáng của Đức Chúa Trời cho thế gian tăm tối này. Hãy đối chiếu khải tượng này với sự hiện thấy của Đa-ni-ên (Đa 7:9-14).


Áo của Đấng Christ là áo của Quan Án và Nhà Vua, Đấng đáng tôn quí và oai quyền. Tóc trắng tiêu biểu cho sự bất biến của Ngài, “Đấng Thượng Cổ” (Đa 7:9,13,22). Mắt của Ngài nhìn thấy tất cả (Kh 19:12; Hêb 4:12) giúp Ngài có thể đoán xét cách công bình. Chơn Ngài như đồng sáng cũng nói đến sự phán xét, vì bàn thờ bằng đồng là nơi lửa thiêu hóa của lễ. Chúa đã đến để đoán xét Hội thánh, và Ngài cũng sẽ đoán xét thế giới tội ác này.


“Tiếng như tiếng nước lớn” (c.15) khiến tôi nghĩ đến thác Niagara! Có thể đưa ra hai ý ở đây: (1) Đấng Christ tập trung tất cả “các nguồn của sự mạc khải” và là “Lời phán sau cùng” của Đức Chúa Cha cho con loài người (Hêb 1:1-3) (2) Ngài phán bằng sức mạnh và oai quyền để mọi người đều phải nghe. Thanh gươm trong miệng Ngài chắc chắn tượng trưng cho Lời hằng sống của Đức Chúa Trời (Hêb 4:12; Eph 6:17). Ngài dùng lời Ngài để chiến đấu với kẻ thù (Kh 2:16; Kh 19:19-21).


Câu 20 cho chúng ta biết bảy ngôi sao trong tay Ngài tiêu biểu cho các thiên sứ (sứ giả, Lu 7:24 dịch theo tiếng Hy-lạp), hoặc có thể tiêu biểu cho mục sư, của bảy Hội thánh. Đức Chúa Trời nắm giữ các tôi tớ Ngài và đặt để họ nơi Ngài muốn để “soi rọi” cho danh Ngài. Trong Đa 12:3 những người chinh phục linh hồn tội nhân được ví như các ngôi sao sáng chói.


Gương mặt sáng ngời của Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự Hóa Hình của Ngài (Mat 17:2) và cũng cho chúng ta nhớ lại lời tiên tri trong Ma 4:2 (“Mặt trời công bình sẽ mọc lên”). Mặt trời là hình ảnh quen thuộc nói về Đức Chúa Trời trong Cựu-ước (Thi 84:11), nhắc nhở chúng ta không chỉ nhớ đến ơn phước Ngài ban cho, nhưng Ngài còn đoán xét nữa. Mặt trời vừa có thể làm cho cây khô héo vừa làm cho cây lớn lên xanh tốt!


Sự hiện thấy về Đấng Christ ở đây hoàn toàn khác với diện mạo của Đấng Cứu Rỗi Giăng đã biết “bằng xương bằng thịt” khi Ngài thi hành chức vụ trên thế gian.Ngài không phải là “người thợ mộc Do-thái hiền hoà” mà nhiều người đa cảm thích ca ngợi. Ngài là Con Đức Chúa Trời đã sống lại, được vinh hiển và tôn cao, là Thầy Tế Lễ - Nhà Vua có quyền phán xét hết thảy mọi người, khởi đầu là con dân của Ngài (IPhi 4:17)


Điều Giăng làm (Kh 1:17-18) có thể dự đoán trước: người ngã xuống dưới chân Chúa như người chết! Giăng là vị sứ-đồ đã nghiêng trên ngực Chúa! (Gi 13:23). Sự hiện thấy về Đấng Christ được tôn cao chỉ có thể làm chúng ta kinh sợ (Đa 10:7-9). Ngày nay chúng ta cần có thái độ kính sợ này trong khi quá nhiều tín hữu có cách ăn nói và hành động không kỉnh kiền với Đức Chúa Trời.

Phản ứng của Giăng minh họa những gì Phao-lô viết trong IICôr 5:16: “Dầu chúng tôi từng theo xác thịt mà nhận biết Đấng Christ, nhưng cũng chẳng còn nhận biết Ngài cách ấy đâu”. Sứ-đồ Giăng không còn “nép mình” bên cạnh Chúa, như ông đã làm trước đó.


Chúa bảo đảm cho ông bằng cách chạm vào người ông và phán cùng ông. (Đa 8:18; Đa 9:21; Đa 10:10,16,18). “Đừng sợ!” là lời khích lệ an ủi cho mọi con cái của Đức Chúa Trời. Chúng ta không cần phải sợ sự sống, vì Ngài là “Đấng Sống”. Chúng ta không cần sợ sự chết, vì Ngài đã chết và hiện đang sống, Ngài đã chiến thắng tử thần. Và chúng ta không cần sợ cõi đời đời vì Ngài cầm chìa khoá các cửa âm-phủ (thế giới người chết) và sự chết. Đấng có chìa khoá trong tay là Đấng có quyền.


Bắt đầu sách này, Chúa Giê-xu tự giới thiệu Ngài cho con dân Ngài trong sự vinh hiển oai nghiêm. Hội Thánh ngày hôm nay cần có sự nhận biết mới mẻ về Đấng Christ và vinh quang của Ngài. Chúng ta cần phải nhìn thấy Ngài “cao trọng và được tôn cao” (Es 6:1). Ngày nay trong các Hội thánh thiếu mất đi lòng kính sợ và thờ phượng Chúa đúng nghĩa. Chúng ta cứ tự hào về địa vị của chúng ta, thay vì phủ phục nơi chân Ngài.

Trải qua nhiều năm, Evans Roberts đã cầu nguyện, “xin uốn nắn con, uốn nắn con!” và khi Đức Chúa Trời đáp lời, cơn phấn hưng xảy ra tại xứ Wales đem lại nhiều kết quả.


7. Bố cục (Kh 1:19)

Theo như tôi được biết, Sách Khải-huyền là sách duy nhất trong Kinh Thánh có bố cục được Thánh Linh hà hơi. “Những sự ngươi đã thấy” nói đến khải tượng trong chương 1. “Những việc nay hiện có” liên quan đến chương 2 - 3, các sứ điệp đặc biệt gởi cho bảy Hội thánh. “Những việc sau sẽ đến” bao gồm các biến cố mô tả trong các chương 4-22. Những điều Giăng nghe trong Kh 4:1 minh chứng cho lời giải thích này.


Đây là bố cục gợi ý của sách dựa trên lời giải thích của c.Kh 19:


I. NHỮNG SỰ NGƯƠI ĐÃ THẤY – chương 1

Giăng nhìn thấy Đấng Christ được tôn cao.


II . NHỮNG VIỆC NAY HIỆN CÓ – chương 2-3

Các sứ điệp gởi cho bảy Hội Thánh.


III . NHỮNG VIỆC SAU SẼ ĐẾN – chương 4-22

A. Ngai trên trời, chương 4-5

B. Cơn Đại Nạn trên đất, chương 6-19

1. Đầu cơn Đại Nạn, chương 6-9

2. Giữa Cơn Đại Nạn, chương 10-14

3. Cuối Cơn Đại Nạn, chương 15-19

C.Vương quốc của Đấng Christ, chương 20

D.Trời mới đất mới, chương 21-22


Để ôn lại, chúng ta có thể tóm tắt những đặc điểm cơ bản của sách lạ lùng này như sau:


1. Đó là sách tập trung vào Đấng Christ.

Chắc chắn, tất cả Kinh Thánh đều dạy về Đấng Cứu Rỗi nhưng Sách Khải-huyền đặc biệt tán dương sự cao trọng và vinh hiển của Chúa Giê-xu Christ. Suy cho cùng, sách Khải huyền là sự mạc khải về Chúa Giê-xu Christ, chớ không đơn thuần nói đến các biến cố trong tương lai.


2. Đó là sách “mở”.

Chúa truuyền cho Giăng không được niêm phong sách (Kh 22:10) vì con dân Đức Chúa Trời cần đến sứ điệp trong sách. Chúng ta có thể hiểu được sách Khải-huyền, cho dù sách chứa đựng nhiều lẽ mầu nhiệm chúng ta chẳng thể nào hiểu được cho đến khi gặp mặt Đức Chúa Trời. Giăng đã gởi sách đến cho bảy Hội thánh trong Tiểu Á với mong ước khi các sứ giả đọc sách ấy, các thánh đồ sẽ hiểu đầy đủ chân lý ghi trong sách để được an ủi khích lệ trong lúc khó khăn hoạn nạn.


3. Đó là sách chứa đầy biểu tượng.

Về sứ điệp của các biểu tượng trong Kinh Thánh không bị giới hạn về thời gian và không có hạn định về nội dung. Ví dụ, biểu tượng “Ba-by-lôn” có nguồn gốc trong Sa 10:1-11:32, và ý nghĩa càng rõ hơn khi bạn lần theo suốt trong Kinh Thánh đến cao điểm trong Kh 17:1-18:24. Lẽ thật về biểu tượng “Chiên Con” và “Cô dâu” cũng như vậy. Thật thích thú khi đào sâu nghiên cứu nhiều ý nghĩa phong phú do những biểu tượng này truyền đạt.


4. Đó là sách tiên tri.

Điều này nói rõ trong Kh 1:3 Kh 22:7,10,18-19 cũng lưu ý Kh 10:11. Các thư gởi cho bảy Hội thánh vùng Tiểu Á giải đáp những nhu cầu cấp bách trong những Hội thánh ấy, đó là những nhu cầu vẫn còn thiết thực trong các Hội thánh chúng ta ngày nay nhưng phần còn lại của sách hầu như dành toàn bộ cho các mạc khải tiên tri.

Chính qua việc nhìn thấy Đấng Christ đắc thắng giúp cho các con cái Chúa bị bắt bớ tìm thấy niềm an ủi cho nhiệm vụ làm chứng đầy khó khăn của họ. Khi bạn có sự bảo đảm cho tương lai, bạn sẽ thấy vững lòng trong hiện tại. Chính Giăng chịu đau khổ dưới tay chính quyền La-mã (Kh 1:9), vì vậy sách được thai nghén trong khổ đau.


5. Đó là sách chứa đựng một ơn phước.

Chúng ta đã biết lời hứa trong Kh 1:3, cũng như sáu phước lành khác rải rác trong sách. Chỉ nghe (hoặc đọc) sách thì không đủ tấm lòng chúng ta phải đáp ứng lời kêu gọi trong sứ điệp. Chúng ta phải nhận lãnh sứ điệp cách riêng tư và nói “A-men” với lòng tin cậy những gì ghi trong sách. (Lưu ý có nhiều chữ “A-men” trong sách: Kh 1:6,7,18; Kh 3:14; Kh 5:14; Kh 7:12; Kh 19:4; Kh 22:20-21).


6. Đó là sách xác đáng.

Những gì Giăng viết sẽ “kíp xảy đến” (Kh 1:1) vì “thì giờ đã gần” (Kh 1:3). (Cũng lưu ý Kh 22:7,10,12,20). Chữ kíp không mang nghĩa “chẳng bao lâu” hoặc “ngay tức khắc”, nhưng “nhanh chóng, gấp rút”. Đức Chúa Trời không đo đạt thời gian như chúng ta (IIPhi 3:1-10). Không ai biết lúc nào Chúa trở lại nhưng khi Ngài bắt đầu mở các ấn của sách (Kh 6:1), các biến có sẽ xảy ra với tốc độ nhanh chóng liên tục không ngắt quãng.


7. Đó là sách oai quyền.

Khải huyền là sách nói về “ngai”, vì chữ ngai xuất hiện bốn mươi sáu lần trong cả sách. Nội dung sách tán dương quyền cai trị cao cả của Đức Chúa Trời. Đấng Christ được giới thiệu trong vinh hiển và quyền tối thượng của Ngài!


8. Đó là sách toàn cầu.

Giăng thấy các nước và các dân (Kh 10:11; Kh 11:19; Kh 17:15) nằm trong chương trình của Đức Chúa Trời. Ông cũng thấy ngai trên trời và nghe nhiều tiếng nói từ các đầu cùng đất!


9. Đó là sách cao điểm.

Khải-huyền là đỉnh cao của Kinh Thánh. Tất cả bắt đầu trong Sáng-thế ký sẽ được hoàn tất và ứng nghiệm hợp với ý chỉ tối thượng của Đức Chúa Trời Ngài là “Alpha và Omega”, là đầu tiên và cuối cùng” (Kh 1:8). Điều gì Đức Chúa Trời khởi đầu, Ngài sẽ làm trọn!


Nhưng trước khi viếng thăm ngai trên trời, chúng ta nên dừng lại lắng nghe “Con người ở giữa các chân đèn” khi Ngài bày tỏ những nhu cầu cá nhân trong các Hội thánh và trong tấm lòng của chúng ta. “Ai có tai, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh!”



 


2. ĐẤNG CHRIST VÀ HỘI THÁNH –PHẦN 1 (Kh 2:1-29)


Nếu bạn từng dọn nhà đến nơi ở mới và phải chọn một Hội thánh cho gia đình đến nhóm họp, bạn tất biết khó khăn thế nào khi thẩm định một Hội thánh và thánh chức của Hội thánh đó. Những toà nhà uy nghi có thể là ngôi nhà chết hoặc những Hội thánh không có sức sống, trong khi những cấu trúc đơn sơ có thể thuộc về những Hội thánh mạnh mẽ trên bước đường theo Chúa. Hội thánh chúng ta nghĩ là “giàu có” có thể lại nghèo trong quan điểm của Đức Chúa Trời (Kh 3:17), ngược lại Hội thánh “nghèo” nhưng giàu thật sự! (Kh 2:9)


Chỉ có Đấng Làm Đầu Hội thánh, là Chúa Giê-xu Christ, mới có thể xem xét chính xác từng Hội thánh và biết hoàn cảnh thật của Hội thánh ấy, vì Ngài nhìn thấy trong lòng chớ không xem bề ngoài (Kh 2:23b). Trong những sứ điệp đặc biệt gởi đến bảy Hội thánh trong xứ Tiểu Á, Chúa đã chiếu tia “X- quang” soi rọi tình trạng của từng Hội thánh. Nhưng Ngài có ý định dành cho tất cả Hội thánh đọc các sứ điệp này và nhận lãnh phước hạnh từ đó. (Lưu ý “các Hội thánh” ở số nhiều trong Kh 2:7,11,17,29; Kh 3:6,13,22).


Nhưng Chúa cũng muốn phán dạy cho các cá nhân, và đây là điểm bạn và tôi bước vào. “Ai có tai mà nghe hãy nghe”. Hội thánh được hình thành bởi các cá nhân, các cá nhân quyết định trình độ thuộc linh của Hội thánh. Vì vậy, trong khi đọc những sứ điệp này, chúng ta nên áp dụng cho cá nhân chúng ta khi tra xét lòng mình.


Cuối cùng, chúng ta nên nhớ rằng Giăng là mục sư hết lòng tìm cách an ủi các Hội thánh này trong thời gian họ gặp bắt bớ khó khăn. Trước khi phán xét thế gian, Ngài phải phán xét con cái Ngài (IPhi 4:17; Exe 9:6).

Hội thánh tinh sạch không hề sợ hãi những đợt tấn công của quỷ Sa-tan hoặc từ loài người. G. Cambell Morgan viết, “Thật vô cùng lạ lùng, Hội thánh của Đấng Christ bị bắt bớ là Hội thánh tinh sạch. Hội thánh của Đấng Christ được chiếu cố nâng đỡ lại luôn là Hội thánh không tinh sạch.”


1. Ê-phê-sô, Hội thánh bất cẩn (Kh 2:1-7)

Mỗi sứ điệp bắt đầu bằng lời mô tả hoặc xưng danh Chúa Giê-xu Christ lấy từ trong sự hiện thấy về Đấng Christ chép trong Kh 1:1-20. (Trong trường hợp Hội thánh Ê-phê-sô, hãy xem Kh 1:12,16,20). Hội thánh Ê-phê-sô đã có thời vui hưởng sự lãnh đạo của những nhà lãnh đạo “trụ cột” - Phao-lô, Ti-mô-thê, và chính sứ đồ Giăng - nhưng Chúa nhắc họ nhớ rằng Ngài đang thi hành chức vụ, đặt để “các ngôi sao” nơi Ngài đẹp lòng.

Hội thánh có thể dễ dàng trở nên kiêu căng và quên rằng mục sư và giáo sư chỉ là ân tứ của Đức Chúa Trời (Eph 4:11), Ngài có thể cất họ bất cứ lúc nào. Một số Hội thánh cần phải chú ý thờ phượng Chúa chớ không phải tôn thờ mục sư của họ.


Lời chứng nhận (Kh 1:2-3,6).

Chúa thật khoan dung biết bao khi Ngài bắt đầu bằng lời khen ngợi! Trước hết, đây là Hội thánh hầu việc, bận rộn lo công việc của Chúa. Rất có thể lịch làm việc hằng tuần của họ đầy ắp các hoạt động. Họ cũng là Hội thánh hy sinh, vì chữ khó nhọc có nghĩa “tận tụy cho đến kiệt sức”. Tín-hữu Hội thánh Ê-phê-sô đã trả giá để hầu việc Chúa. Họ là Hội thánh vững vàng, vì chữ nhịn nhục mang nghĩa “chịu đựng cơn thử thách”. Họ cứ tiếp tục tiến tới khi đường đi trở nên cam go.


Tín hữu Hội thánh Ê-phê-sô là những đời sống biệt mình riêng ra, vì họ cẩn thận tra xét những sứ giả viếng thăm Hội thánh (IIGi 1:7-11) để xem những vị khách ấy có chân thật không. Sứ đồ Phao-lô báo cho các trưỡng lão Ê-phê-sô biết rằng các giáo sư giả sẽ đến từ bên ngoài và ngay cả bên trong Hội thánh nữa (Công 20:28-31), và sứ-đồ Giăng đã dạy họ phải “thử các thần” (IGi 4:1-6). Thật vậy, quỷ Sa-tan có những kẻ giả mạo là sứ giả và Hội thánh phải thường xuyên tỉnh thức để phát hiện ra và khước từ chúng (IICôr 11:1-4,12-15).


Con cái Chúa trong Hội thánh Ê-phê-sô không những tự mình phân rẽ ra khỏi tà thuyết nhưng còn tránh xa những việc làm xấu xa nữa (Kh 2:6). Chữ đảng Ni-cô-lai có nghĩa “chinh phục con người”. Một số nhà giải kinh tin rằng đây là một giáo phái “sách nhiễu” Hội thánh và cướp đi tự do con cái Chúa có được trong Đấng Christ (IIIGi 1:9-11).

Họ khai sinh ra “giới tăng lữ” và “tín hữu bình thường” như chúng ta biết ngày nay, sự phân chia sai lạc không có dạy trong Kinh Thánh Tân-ước. Tất cả con cái Đức Chúa Trời đều là “vua và thầy tế lễ” (Kh 1:6; IPhi 2:9) và đều có quyền bình đẳng đến gần Đức Chúa Trời qua huyết báu Chúa Giê-xu Christ (Hêb 10:19) Chúng ta sẽ gặp lại giáo phái nguy hiểm này khi nghiên cứu sứ điệp gởi cho Hội thánh Bẹt-găm.


Tín hữu Hội thánh Ê-phê-sô là những người chịu khó nhọc nhịn nhục mang lấy gánh nặng và làm việc không ngừng nghỉ. Họ làm tất cả vì danh vinh hiển của Ngài! Cho dù bạn có tra xét Hội thánh này như thế nào đi nữa, bạn cũng kết luận rằng đây là Hội thánh gần như toàn hảo. Tuy nhiên, Đấng ngự giữa các chân đèn nhìn thấy trong lòng họ, và Ngài chẩn đoán khác với chúng ta.


Lời buộc tội (Kh 2:4).

Hội thánh bận rộn, biệt riêng ra, và hy sinh này thực sự có “vấn đề trong tấm lòng” - họ đã bỏ lòng kính mến ban đầu! Họ phô trương “công việc...khó nhọc...và nhịn nhục” (Kh 2:2), nhưng những phẩm chất này không được thúc đẩy bằng lòng kính yêu Chúa Giê-xu Christ. (Hãy đối chiếu ITe 1:3 - “công việc của đức tin, công lao của lòng yêu thương, sự bền đỗ về sự trông cậy”). Những gì chúng ta làm cho Chúa thật là quan trọng, nhưng tại sao chúng ta làm như vậy cũng quan trọng không kém.


“Lòng kính mến ban đầu” là gì ? Đó là lòng tận hiến cho Đấng Christ mà người mới tin Chúa thường thể hiện: nóng cháy, riêng tư, tự do, phấn khởi, và thường muốn cho mọi người biết. Đó là “tình yêu trong tuần trăng mật” của vợ chồng mới cưới (Gie 2:1-2).

Trong khi tình yêu lứa đôi càng mặn nồng và đằm thắm, thì cũng chẳng bao giờ mất đi cái thi vị và kỳ diệu của “những ngày trăng mật” ấy. Khi người chồng người vợ bắt đầu xem thường nhau, và cuộc sống trở nên tẻ nhạt, lúc ấy hôn nhân có nguy cơ tan vỡ.


Hãy thử nghĩ về điều đó: có thể hầu việc, hi sinh, và chịu khổ “vì danh Ta” tuy nhiên chúng ta không thật sự kính yêu Chúa Giê-xu Christ! Tín hữu Ê-phê-sô quá lo lắng giữ mình biệt riêng đến nỗi họ bỏ qua lòng kính yêu Chúa. Khó nhọc không thay thế cho lòng yêu thương được sự tinh sạch cũng không thay cho sự quan tâm được. Hội thánh phải có cả hai nếu muốn làm đẹp lòng Chúa.


Qua việc đọc các thơ tín của Phao-lô gởi cho Hội thánh Ê-phê-sô, bạn sẽ phát hiện ra ít nhất có hai mươi lần nhắc đến tình yêu. Bạn cũng thấy Phao-lô nhấn mạnh đến địa vị cao trọng của con cái Ngài “trong Đấng Christ...ở các nơi trên trời”. Nhưng Hội thánh Ê-phê-sô đã sa ngã và không sống đúng với địa vị trong Đấng Christ tại trên trời (Kh 2:5). Chỉ khi yêu mến Chúa nồng nàn chúng ta mới hầu việc Ngài cách trung tín được. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài phải tinh sạch (Eph 6:24).


Lời khuyên bảo (Kh 2:5-7).

Chúng ta có thể tìm lại “lòng kính mến ban đầu” nếu làm theo ba lời dạy của Đấng Christ.

-Trước hết, phải nhớ lại (nghĩa đen “tiếp tục nhớ”) chúng ta đã mất điều gì và ấp ủ lòng khát khao tìm lại mối tương giao khắng khít với Chúa.

-Sau đó chúng ta phải ăn năn - thay đổi suy nghĩ của chúng ta - và xưng tội với Chúa (IGi 1:9).

-Thứ ba, chúng ta phải làm lại những công việc ban đầu, lập lại mối tương giao ban đầu đã đổ vỡ vì tội lỗi và sự hờ hững. Đối với người tin Chúa, điều này có nghĩa là lập lại sự cầu nguyện, đọc và suy gẫm Kinh Thánh, vâng lời hầu việc và thờ phượng.


Mặc dù có nhiều đặc quyền, nhưng Hội thánh Ê-phê-sô đang có nguy cơ mất đi ánh sáng! Hội thánh mất đi tình yêu chẳng bao lâu sẽ mất đi ánh sáng cho dù có tiếng tăm như thế nào đi nữa. “Ta sẽ đến” (Kh 2:5) không có ý nói đến sự tái lâm của Chúa, nhưng nói đến sự phán xét của Ngài ngay lúc ấy. Thành phố Ê-phê-sô huy hoàng ngày nay chỉ là đống đá ngổn ngang chẳng còn có ánh sáng ở đó nữa.


Câu 7 cho thấy rõ cá nhân tín hữu trong Hội thánh có thể trung tín với Chúa cho dù những người khác có làm gì đi nữa. Trong bảy sứ điệp này, “những người chiến thắng” không phải là “thành phần ưu tú thuộc linh”, nhưng đúng hơn họ là những tín hữu trung kiên giữ đức tin đến chiến thắng (IGi 5:4-5). Đức Chúa Trời đã cấm ngăn con người tội lỗi đến gần cây sự sống (Sa 3:22-24), nhưng trong Đấng Christ chúng ta có sự sống dư dật đời đời (Gi 3:16; Gi 10:10). Hiện nay chúng ta hưởng phước hạnh này, và trong cõi đời đời chúng ta sẽ hưởng bội phần hơn (Kh 22:1-5).


Ê-phê-sô là Hội thánh “bất cẩn”, được hình thành bởi những tín hữu thiếu sự kỉnh kiềng không màng đến tình yêu dành cho Đấng Christ. Chúng ta có phạm tội giống như vậy không?


2. Si-miệc-nơ, Hội thánh được ban mão triều tiên (Kh 2:8-11)

Danh xưng Si-miệc-nơ có nghĩa “cay đắng” và có liên quan đến chữ một dược. Ngày nay thành phố còn lại một cộng đồng đang hoạt động gọi là Izmir. Hội thánh Si-miệc-nơ bị bắt bớ vì đức tin, điều này giải thích tại sao Chúa nhấn mạnh sự chết và sống lại của Ngài khi Ngài mở đầu sứ điệp. Cho dù con cái Chúa có kinh nghiệm gì chăng nữa, Chúa vẫn gắn bó với họ.


Lời chứng nhận (Kh 2:9).

Hội thánh Si-miệc-nơ đang trải qua nhiều khó khăn! Con cái Chúa bị bắt bớ, có lẽ vì họ không chịu thỏa hiệp xưng nhận, “Sê-sa là Chúa”. Si-miệc-nơ là trung tâm quan trọng của việc thờ lạy vua chúa thuộc đế quốc La-mã, bất cứ ai không chịu nhận biết Sê-sa là Chúa chắc chắn sẽ bị khai trừ ra khỏi các hội đoàn. Điều này có nghĩa họ sẽ bị mất việc và lâm vào cảnh nghèo khổ. Chữ dùng để nói đến sự nghèo khổ mang nghĩa “cùng cực, hoàn toàn không sở hữu một thứ gì”.


Một cộng đồng người Do-thái rộng lớn cũng sinh sống phát đạt tại Si-miệc-nơ. Dĩ nhiên, người Giu-đa không ủng hộ việc thờ lạy vua chúa vì người La-mã không thừa nhận tôn giáo của họ nhưng chắc chắn họ sẽ không cộng tác với đức tin Cơ-đốc giáo. Do vậy, con cái Chúa tại Si-miệc-nơ nhận chịu sự vu oan và khổ nạn từ phía người Giu-đa lẫn người ngoại bang.


Nhưng họ là những người giàu có! Họ sống vì những giá trị đời đời chẳng hề đổi thay, vì đó là sự giàu có chẳng có ai có thể lấy mất đi. “Ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có” (IICôr 6:10; IICôr 8:9). Thực ra, càng chịu khổ vì Đấng Christ càng làm cho họ thêm giàu có.


Chúng ta không chiến đấu với thịt và huyết, nhưng với kẻ thù Sa-tan, dùng con người để làm thành chương trình của nó. Nhà hội Do-thái thực sự là nhà hội của quỷ Sa-tan. Một người Do-thái chân chính không phải là người Do-thái về phương diện thể xác hoặc chủng tộc, nhưng là người Do-thái thuộc linh (Rô 2:17-29). Bất kỳ nhóm giáo phái nào, thuộc người Do-thái hay ngoại bang, nếu không nhận biết Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời chắc chắn có hành động ngược lại ý muốn của Chúa.


Lời khuyên bảo (Kh 2:10-11). Chúa không có lời buộc tội nào dành cho hội thánh Si-miệc-nơ. Có lẽ họ không được người đời chấp nhận, nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ khen thưởng họ. Tuy nhiên, Chúa nghiêm nghị khuyên dạy họ khi họ đối diện với sự đau đớn gia tăng: “Đừng sợ!”


Ngài bảo đảm với họ Ngài biết kế hoạch của ma quỉ và Ngài đang hoàn toàn kiểm soát hoàn cảnh. Một số tín hữu sẽ bị bỏ vào ngục và bị xét xử như những kẻ phản bội chống lại đế quốc Rô-ma. Tuy nhiên cơn bách hại họ chịu sẽ không kéo dài lâu trong Thánh Kinh, mười ngày biểu hiện “một thời gian ngắn” (Sa 24:55; Công 25:6). Điều quan trọng đó là lòng trung thành, đứng vững cùng Đấng Christ cho dù có bị ai đe doạ làm hại gì đi nữa.


“Mão triều thiên của sự sống” là mão miện trao cho người thắng cuộc tại các cuộc tranh tài thể thao hàng năm. Si-miệc-nơ là thành phố tham gia chủ yếu vào cuộc tranh tài, vì vậy lời hứa này đặc biệt có ý nghĩa với các tín hữu đang sống tại đó. Chúa nhấn mạnh lại lời hứa này qua sứ đồ Gia-cơ (Gia 1:12) và bảo đảm với con cái Ngài không có gì phải sợ hãi.

Vì họ đã tin cậy Ngài, nên họ là những người chiến thắng - những người chiến thắng trong trường đua đức tin (Heb 12:1-3) - và đã là người chiến thắng, không việc gì phải sợ cả. Cho dù có bị giết vì đức tin, họ sẽ được vào trong sự vinh hiển, đôi mão miện vinh hiển! Họ sẽ không bao giờ đối diện với cơn đoán phạt kinh khiếp của sự chết thứ hai, nơi hồ lửa đời đời (Kh 20:14; Kh 21:8).


Sống nếp sống Cơ-đốc tận hiến phải trả giá nhiều hơn những người khác. Khi những áp lực của ngày cuối cùng càng đè nặng, cơn bắt bớ cũng gia tăng con dân Đức Chúa Trời cần phải sẵn sàng (IPhi 4:12). Người đời có thể gọi chúng ta là “những Cơ-đốc nhân nghèo khổ”, nhưng trong ánh sáng của Đức Chúa Trời chúng ta thật giàu có!


3. Bẹt-găm, Hội thánh thỏa hiệp (Kh 2:12-17)

Được gọi là “thành phố lớn nhất trong vùng Tiểu Á”, Bẹt-găm có đền thờ đầu tiên thờ hoàng đế Sê-sa và là nơi mạnh mẽ quảng bá việc thờ lạy vua. Có lẽ điều này muốn nói đến “ngôi của quỷ Sa-tan” trong câu 13. Thành phố cũng có một đền thờ dâng hương cho Aesculapius, vị thần chữa bịnh mang hình hiệu con rắn xoắn tròn trên thanh gỗ. (Hình hiệu này vẫn còn dùng trong y khoa ngày nay). Dĩ nhiên, Sa-tan cũng được biểu tượng là con rắn (IICo 11:3; Kh 12:9; Kh 20:2).


Lời chứng nhận (Kh 2:13).

Giống như anh chị em tín hữu tại Si-miệc-nơ, con cái Chúa tại Bẹt-găm đã chịu đựng bắt bớ, một trong số họ đã chết vì đức tin. Dù sự đau đớn có gia tăng, Hội thánh này vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Họ không chịu dâng hương nơi bàn thờ và xưng “Sê-sa là Chúa”. Lời Chúa tự mô tả (“Đấng có thanh gươm nhọn”) quả thật sẽ an ủi khích lệ con cái Ngài, vì gươm cũng là biểu tượng nói về quyền cai trị của người Rô-ma. Đối với Hội thánh, sợ gươm của Đấng Christ quan trọng hơn là sợ gươm của người Rô-ma! (c.16).


Lời buộc tội (Kh 2:14-15).

Dầu can đảm đương đầu với cơn bắt bớ, con cái Chúa tại Bẹt-găm cũng mắc tội trước mặt Chúa. Quỷ Sa-tan không thể phá hại họ như sư tử rống (IPhi 5:8), nhưng nó sẽ tấn công như con rắn phỉnh dỗ. Một nhóm người thỏa hiệp với thế gian đã xâm nhập vào trong Hội thánh, Chúa Giê-xu Christ ghét đạo lý cùng những việc thờ lạy của họ.


Những kẻ trà trộn này được gọi là “người theo đạo Ni-cô-la”, chúng ta đã gặp tại Ê-phê-sô (Kh 2:6). Tên gọi này có nghĩa “cai trị con người”. Những điều họ dạy gọi là “giáo lý Ba-la-am” (Kh 2:14). Theo tiếng Hê-bơ-rơ tên gọi Ba-la-am cũng có nghĩa “chúa của mọi người” và có thể đồng nghĩa với đảng Ni-cô-la. Buồn thay, nhóm người tự xưng là con cái Chúa này đã “có ảnh hưởng trên” mọi người và dẫn họ đi sai lạc.


Hiểu câu chuyện Ba-la-am giúp chúng ta nhận biết nhóm người xảo quyệt này chính xác hơn. (Dan 22:1-25:18). Ba-la-am là tiên tri thật đã bán rẻ ơn tứ của mình để được lợi lộc từ vua Ba-lác, vua Ba-lác đã thuê Ba-la-am rủa sả dân Y-sơ-ra-ên.

Đức Chúa Trời ngăn cấm không cho Ba-la-am rủa sả dân sự - thực ra, Đức Chúa Trời đã đổi những lời rủa sả ra từ miệng Ba-la-am thành lời chúc phước! - nhưng Ba-lác vẫn khiến đồng tiền của mình có giá trị. Ông ấy làm cách nào? Bằng cách nghe theo lời khuyên của Ba-la-am khiến dân sự kết bạn cùng dân Y-sơ-ra-ên, sau đó mời dân Giu-đa thờ lạy và dự tiệc tại bàn thờ thần ngoại giáo. “Nếu ông (Ba-lác) không thắng được họ, thì hãy hoà mình với họ!”


Những người nam Do-thái ngã ngay vào cạm bẫy, nhiều người trong số họ trở nên “những người lân cận tốt”. Họ ăn thịt nơi bàn thờ thần tượng và tham dự vào các buổi tế lễ thần ngoại giáo. Hai mươi bốn ngàn người chết vì hành động thỏa hiệp bất tuân mệnh lệnh của Chúa (Dan 25:1-9).


Tại sao sự kiện lịch sử đắng cay này trong thời cổ xưa lại áp dụng cho con cái Chúa tại Bẹt-găm? Vì có một nhóm người trong Hội thánh đó nói rằng, “Kết bạn với người Rô-ma chẳng có gì sai. Có gì hại khi đốt hương trên bàn thờ để tỏ lòng trung thành với Sê-sa? An-ti-ba từ chối không chịu thỏa hiệp đã bị giết chết còn những người khác chọn “con đường dễ dãi” và đồng ý cộng tác với chính quyền Rô-ma.


Chắc chắn “những vật cúng cho thần tượng” ở đây không giống với vấn đề Phao-lô bàn đến trong ICôr 8:1-13; ICôr 10:1-33. Lời buộc tội ở đây không có chỗ để chọn lựa như Phao-lô đã làm. Chúa lên án tín hữu tại Bẹt-găm đã phạm tội, họ đã phạm tội “tà dâm thuộc linh” xưng “Sê-sa là Chúa”. Dĩ nhiên. việc thỏa hiệp này khiến các hội đoàn La-mã niềm nở chào đón và che chở họ thoát khỏi cơn bắt bớ của chính quyền La-mã, nhưng họ phải mất đi ấn chứng và mão miện.


Lời khuyên bảo (Kh 2:16-17).

An-ti-ba bị giết bởi gươm của người La-mã, nhưng Hội thánh Bẹt-găm sẽ nếm biết gươm sửa phạt của Đấng Christ - lời Thánh Kinh (He 4:12) - nếu họ không ăn năn. Điều này không đề cập sự tái lâm của Chúa nhưng nói đến sự sửa phạt trong hiện tại xảy đến cho Hội thánh khi họ không nghe theo lời của Đức Chúa Trời. Chúa đã tự giới thiệu Ngài là “Đấng có thanh gươm nhọn” (Kh 2:12), vì vậy, không thể nào Hội thánh làm ngơ được mối hiểm nguy này.


Như các Hội thánh trước, lời kêu gọi cuối bức thư dành cho cá nhân: “Ai có tai...Kẻ nào thắng” (c.17). Đức Chúa Trời nuôi dân Y-sơ-ra-ên bằng ma-na suốt hành trình trong đồng vắng, một cái bình đựng đầy ma-na được đặt trong hòm giao-ước (Xu 16:32-36 He 9:4). Thay vì ăn “thịt cúng cho thần tượng” (Kh 2:14), con cái Chúa tại Bẹt-găm cần ham mến thức ăn thánh của Đức Chúa Trời, đó là bánh hằng sống có trong Chúa Giê-xu Christ qua Kinh Thánh (Gi 6:32; Mat 4:4). Hòm giao ước là nơi Đức Chúa Trời ngự (IISa 6:2; Es 37:16; Thi 80:1), đối nghịch với ngôi của Sa-tan đang thống trị trong Hội thánh Bẹt-găm (Kh 2:13).


Trong thời ấy, quan toà bỏ một viên đá trắng vào trong chậu để quyết định tha bổng một người nào đó trong phiên toà. Nó cũng được dùng giống như “chiếc vé” vào cửa dự bữa tiệc. Cả hai hình ảnh ấy chắc chắn ứng dụng cho người tin Chúa trong ý nghĩa thuộc linh: người đã được xưng công bình trong Đấng Christ, ngày nay đang dùng bữa với Ngài (Kh 3:20) và sẽ dự tiệc cùng Ngài trong vinh hiển (Kh 19:6-9).


4. Thi-a-ti-rơ, Hội thánh hư hoại (Kh 2:18-29)

Một sứ điệp dài nhất gởi đến cho Hội thánh tại thành phố nhỏ nhất! Thi-a-ti-rơ là thành phố quân sự đồng thời là trung tâm thương mại có nhiều nghiệp đoàn buôn bán. Bất cứ nơi nào có có những nghiệp đoàn này, nơi đó có thờ thần tượng và vô luân - hai kẻ thù lớn nhất của Hội thánh đầu tiên.


Thành phố tự hào về đền thờ đặc biệt thờ A-bô-lô, “thần mặt trời”, điều này giải thích lý do chính Chúa tự giới thiệu Ngài là “Con Đức Chúa Trời” (danh xưng này được nhắc đến lần đầu tiên trong sách Khải huyền). Sứ đồ Giăng phải chuyển giao sứ điệp cảnh cáo và đoán phạt cách nghiêm khắc cho Hội thánh này, giải thích cho sự mô tả về mắt và chân của Chúa.


Lời chứng nhận (Kh 2:19).

Tín hữu Thi-a-ti-rơ quả thật bận rộn! Họ mải mê tận hiến vì lợi ích người khác. Hơn nữa, công việc của họ cứ gia tăng và được biểu tỏ bởi đức tin, lòng yêu thương và sự nhịn nhục vì vậy Hội thánh không mắc tội chỉ vì “hoạt động tôn giáo”.


Lời buộc tội (Kh 2:20-23).

Than ôi, Chúa thấy nhiều điều phải phơi bày và lên án trong Hội thánh Thi-a-ti-rơ. Không có công việc hi sinh và yêu thương nào có thể bù đắp cho việc dung túng tội lỗi. Hội thánh đã để cho nữ tiên tri giả tác động đến con cái Chúa và dẫn họ vào con đường thỏa hiệp. Không chắc người nữ này có tên gọi là “Giê-sa-bên”, vì chẳng có ai lấy cái tên xấu như vậy để đặt cho con mình cả. Danh xưng này là một biểu tượng: Giê-sa-bên là hoàng hậu thờ thần tượng đã dụ dỗ dân Y-sơ-ra-ên thêm việc thờ lạy thần Ba-anh vào trong nghi thức tôn giáo của họ. (IVua 16:1-19:21).

Lời dụ dỗ của Giê-sa-bên tương tự “đạo lý Ba-la-am” mà Chúa đã lên án trong Hội thánh Bẹt-găm (Kh 2:14). Các tín hữu được học cách thỏa hiệp với tôn giáo La mã và những tập tục của các nghiệp đoàn để họ không bị mất việc hoặc mất mạng sống.


Thật thú vị khi đối chiếu Hội thánh Ê-phê-sô với Thi-a-ti-rơ. Hội thánh Ê-phê-sô sa sút trong tình yêu, tuy nhiên lại trung tín xét đoán những giáo sư giả trong khi đó con cái Chúa Hội thánh Thi-a-ti-rơ lớn lên trong tình yêu, lại dung túng các tà thuyết. Hội thánh cần phải tránh cả hai thái cực trên. “Lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” là cán cân quân bình trong Kinh Thánh (Eph 4:15). Sự hờ hững và thái độ thỏa hiệp đều đáng gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời.


Hội thánh Thi-a-ti-rơ không những dung túng tội lỗi nhưng còn kiêu ngạo và không chịu ăn năn. Chúa cho nữ tiên tri giả có thì giờ ăn năn, nhưng người từ chối. Bây giờ Ngài cho những người theo tiên tri giả cơ hội ăn năn. Mắt Ngài như lửa nhìn thấu mọi tư tưởng và động cơ thầm kín, và Ngài không nhầm lẫn được.


Thực ra, Chúa cảnh cáo dùng Hội thánh này làm gương răn đe “tất cả Hội thánh” không được dung túng tội lỗi. Giê-sa-bên và con cái người (những kẻ theo người) sẽ bị kết án trải qua cơn đại nạn và chết! Trong Kinh Thánh, thờ thần tượng và thỏa hiệp được mô tả bằng hình ảnh của sự gian dâm và không chung thuỷ với lời thề trong hôn nhân (Gie 3:6; Os 9:1). Giường tội lỗi của Giê-sa-bên sẽ trở nên giường bệnh tật! Đánh chết có nghĩa “giết bằng dịch bệnh”. Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt tiên tri giả và những kẻ theo nó một lần đủ cả.


 Lời khuyên bảo (Kh 2:24-29).

Không phải hết thảy mọi người trong Hội thánh đều bất trung với Chúa, Ngài dành lời đặc biệt cho họ. Họ đã tự biệt riêng mình ra khỏi tà thuyết và tập tục thỏa hiệp của Giê-sa-bên và những kẻ theo nó, điều Chúa tố cáo là “điều sâu hiểm của quỷ Sa-tan” (lưu ý sự tương phản trong IICôr 2:10). Chúa không có yêu cầu gì đặc biệt cả Ngài chỉ muốn họ vững vàng chống cự lại tội lỗi. “Cho đến chừng Ta đến” nói đến việc Chúa trở lại tiếp rước con cái Ngài, lúc ấy Ngài sẽ ban thưởng cho họ vì trung tín với Ngài (IICôr 3:3; IICôr 16:15; IICôr 22:7,17,20).

Đây là lần đầu tiên đề cập đến sự tái lâm của Đấng Christ tiếp rước Hội thánh trong sách Khải-huyền, biến cố chúng ta thường gọi là Hội thánh Được Cất Lên (ITes 4:13-18). Trái lại, Kh 1:7 nói đến sự trở lại trần gian của Đấng Christ để xét đoán, chiến thắng kẻ thù và thiết lập nước của Ngài (Kh 19:11).


Tín hữu Thi-a-ti-rơ được hứa ban cho quyền cai trị các nước, có thể liên quan đến việc con dân Đức Chúa Trời sẽ sống và trị vì với Đấng Christ (Kh 20:4) . Khi Chúa lập nước Ngài trên đất, đó sẽ là nước công bình chính trực trọn vẹn và Ngài sẽ cai trị bằng cây gậy sắt! (Thi 2:8-9). Những người nổi loạn sẽ giống như bình gốm, dễ dàng vỡ ra từng mãnh!


Chúa Giê-xu Christ là “ngôi sao mai sáng chói” (Kh 22:16). Lời hứa trong câu 26 cho thấy con cái Đức Chúa Trời sẽ giống như Chúa đến nỗi Ngài sẽ “thuộc về” họ! Nhưng có lẽ ở đây cũng có ám chỉ đến quỷ Sa-tan, kẻ muốn dành nước của Ngài về cho nó và ban các nước thế gian cho Đấng Christ nếu Ngài chịu thờ lạy nó một lần (Mat 4:8-11).

Trong Es 14:12, quỷ Sa-tan có tên là Lu-ci-phe, trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa “sự sáng, ngôi sao sáng”. Những người thỏa hiệp tại Thi-a-ti-rơ đang chạy theo “điều sâu hiểm của quỷ Sa-tan” sẽ dẫn đến tối tăm và sự chết. Mặc khác, những người chiến thắng của Đức Chúa Trời sẽ sáng chói như sao mai!


Khi ôn lại bốn sứ điệp đầu tiên này gởi cho các Hội thánh, bạn có thể thấy được những mối hiểm nguy vẫn còn hiện hữu đối với con dân Đức Chúa Trời. Giống như Ê-phê-sô, chúng ta có thể nhiệt thành và ngay lành, nhưng đồng thời lại đánh mất lòng kính mến Đấng Christ. Hoặc, giống như Hội thánh Thi-a-ti-rơ, lòng yêu thương chúng ta có thể gia tăng tuy nhiên chúng ta thiếu lòng nhận biết cần thiết để giữ cho Hội thánh tinh sạch (Phi 1:9-11). Giống như Hội thánh Bẹt-găm và Thi-a-ti-rơ, có thể quá dung túng tội lỗi đến nỗi chúng ta làm buồn lòng Chúa và gánh chịu cơn đoán phạt.


Chúng ta có nên chọn Si-miệc-nơ là Hội thánh thiêng liêng nhất so với bốn Hội thánh không? Có lẽ không, tuy nhiên Chúa đã chọn! Chúng ta cần tự nhắc nhở không được xét đoán con cái Đức Chúa Trời theo tiêu chuẩn sai, vì chỉ có Chúa mới nhìn thấu trong lòng người (ICo 4:5).


Đức Chúa Trời kêu gọi các Hội thánh này (trừ Si-miệc-nơ), “Hãy ăn năn! Hãy thay đổi lòng các ngươi!”. Không chỉ có tội nhân hư mất cần phải ăn năn tội, nhưng cả đến những Cơ-đốc nhân không vâng lời nữa. Nếu không ăn năn và giải quyết tội lỗi trong nếp sống chúng ta và trong Hội thánh chúng ta, Chúa có thể đoán phạt chúng ta và cất chân đèn khỏi chúng ta (Kh 2:5). Thật buồn biết bao khi Hội thánh địa phương dần dần bỏ đức tin và không còn làm chứng cho Đấng Christ nữa!


“Ai có tai mà nghe, hãy nghe lời Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh! ”



 


3. ĐẤNG CHRIST VÀ HỘI THÁNH – PHẦN 2 (Kh 3:1-22)


Chúng ta vẫn còn lắng nghe những gì Đức Thánh Linh phán cùng các Hội thánh vì Đấng Christ ban bố sứ điệp này cho thời đại chúng ta cũng giống như trong thế kỷ đầu tiên. Hội thánh gồm những con người, và bản chất con người không thay đổi. Vì thế, khi tiếp tục nghiên cứu, chúng ta không nên xem những thư này như những áng văn cổ xưa. Trái lại, các bức thư này là những tấm gương soi phản ánh chính bản chất chúng ta.


1. Sạt-đe, Hội thánh yếu đuối (Kh 3:1-6)

Sạt-đe cổ xưa, thủ phủ của xứ Ly-đi, là một thành phố quan trọng. Sạt-đe nằm cách thành phố Ê-phê-sô khoảng năm mươi dặm (tương đương 80 km) về phía đông ngang qua giao lộ của năm con đường chính vì vậy đó là trung tâm thương mại. Thành phố cũng là căn cứ quân sự, vì nó toạ lạc trên một bình nguyên gần như bất khả xâm phạm. Thành phòng ngự bảo vệ Sạt-đe nằm trên các đường phố chính khoảng 1.500 bộ (tương đương 457 mét), tạo thành một pháo đài kiên cố. Dân chúng trong thành phố theo tôn giáo chính là thờ lạy Arternis (Nữ thần trinh khiết của Hy-lạp), một trong những “sự thờ cúng tạo vật” xây dựng trên ý niệm về sự chết và sự sinh lại.


Sạt-đe còn nổi tiếng về sản xuất mặt hàng áo len, một sự kiện có liên quan đến sứ điệp của Đấng Christ gởi cho các Hội thánh. Đáng buồn, vào lúc ấy thành phố không gì khác hơn là cái bóng của sự hùng vĩ trước đây và chẳng may Hội thánh Sạt-đe lại giống như thành phố - nó chỉ có danh là sống mà thôi.


Sứ điệp gởi cho Hội thánh Sạt-đe là lời cảnh cáo gởi đến tất cả “Hội thánh nổi tiếng” đang sống trên vinh quang của quá khứ. Tiến sĩ Vance Havner thường xuyên nhắc chúng ta nhớ rằng sứ mạng thuộc linh thường trải qua bốn giai đoạn: con người, phong trào, bộ máy làm việc, và bia tưởng niệm. Hội thánh Sạt-đe đang ở giai đoạn “lập bia tưởng niệm”, nhưng vẫn còn có hi vọng!


Còn có sự trông cậy vì Đấng Christ là Đầu Hội thánh và Ngài có khả năng mang đến cho chúng ta đời sống mới. Ngài tự mô tả là Đấng sở hữu bảy vì thần và bảy ngôi sao. Chỉ có một Đức Thánh Linh (Eph 4:4), nhưng số bảy biểu thị cho sự trọn vẹn và hoàn tất. Đức Thánh Linh ban sự sống cho Hội thánh, và đúng là con cái Chúa tại Sạt-đe cần đến sự sống. Bảy vì thần của Đức Chúa Trời được biểu thị bằng hình ảnh bảy ngọn đèn đang cháy sáng (Kh 4:5) và bảy con mắt đang nhìn (Kh 5:6).


Tất cả những chương trình của Hội thánh do con người làm ra không thể nào mang lại sự sống, không khác hơn một gánh xiếc có thể làm cho một cái xác sống lại. Hội thánh được khai sinh lúc Đức Thánh Linh giáng lâm trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cong 2:1-47), và sự sống của Hội thánh đến từ Đức Thánh Linh. Khi làm Đức Thánh Linh buồn lòng, Hội thánh bắt đầu mất đi sức sống và quyền năng. Xưng ra tội lỗi và con cái Chúa trong Hội thánh sống ngay thẳng với Chúa và với nhau, lúc ấy Đức Thánh Linh tuôn đổ sự sống mới - cơn phấn hưng!


Đấng Christ cũng nắm giữ bảy ngôi sao, đó là các sứ giả của Hội thánh (Kh 1:20), ám chỉ đến các mục sư. Đôi khi do sai phạm của mục sư làm cho Hội thánh mất đi sức sống, Chúa của Hội thánh phải cất đi ngôi sao và đặt ở nơi khác.


Không có lời lên án nào dành cho con cái Chúa Hội thánh Sạt-đe. Chúa cũng không chỉ ra cần phải sửa đổi điều gì trong giáo lý. Bức thư cũng không nhắc đến sự chống đối hoặc bắt bớ nào. Ắt hẳn Hội thánh sẽ tốt hơn nếu họ trải qua cơn bắt bớ, vì Hội thánh đang sống trong tiện nghi và thỏa lòng trên vinh quang của quá khứ. Họ có tiếng tăm nhưng không có thực, có hình thức nhưng không có sức mạnh.Giống như chính thành phố, Hội thánh Sạt-đe hãnh diện về thành quả trong quá khứ, nhưng lại làm ngơ tình trạng hư nát trong hiện tại.


Thực ra, ngay cả những gì họ đã có cũng sắp hư mất đi! Tại sao như vậy? Vì con cái Chúa đã ngủ quên. Hai lần trong lịch sử, thành trì tại Sạt-đe bị quân thù xâm chiếm, vì lính gác không làm tròn bổn phận của mình. Chính lúc các nhà lãnh đạo và các thành viên trong Hội thánh quá quen với các ơn phước và tự mãn về chức vụ của họ là dịp kẻ thù tìm cách xen vào.


Điều đáng lưu tâm đó là Hội thánh Sạt-đe không xông xáo trong việc làm chứng về Đấng Christ cho thành phố. Họ không gặp bắt bớ vì không đi vào lãnh thổ của kẻ thù. Không có chuyển động lấy gì có ma sát! Những người chưa được cứu tại Sạt-đe nhìn xem Hội thánh là một nhóm người đáng trọng không nguy hiểm cũng không có ham muốn gì. Họ là những người sống hợp với khuôn phép, chẳng màng đến việc truyền giáo và không bày tỏ sức sống của Phúc-Âm.


Chúa chúng ta gởi đến cho Hội thánh lời khuyên dạy bắt đầu bằng nội dung , “Hãy thức canh! Hãy tỉnh thức! ” (Ro 13:11) “Các lính canh” đã ngủ quên! Bước đầu dẫn đến sự phục hưng của Hội thánh nguội lạnh là thành thật nhận biết một điêù gì đó đã sai trật. Một Hội thánh còn sống động, thì nó phải phát triển, sửa chữa, sinh sôi và mạnh mẽ nếu thiếu các yếu tố này thì Hội thánh hoặc đang nguội lạnh hoặc đã chết.


Chúa báo trước cho các thánh đồ tại Ê-phê-sô biết rằng Ngài sẽ đến cất chân đèn khỏi họ nếu họ không ăn năn (Kh 2:5). Ngài khuyến cáo Hội thánh Bẹt-găm rằng Ngài sẽ đến giao chiến bằng gươm của Đức Thánh Linh (Kh 2:16). Nếu tín hữu Hội thánh Sạt-đe không vâng theo mệnh lệnh của Ngài, Ngài sẽ đến như kẻ trộm, khi họ thiếu lòng trông đợi Ngài điều này có nghĩa họ chịu sự đoán phạt.


Tuy nhiên, trong Hội thánh nguội lạnh vẫn còn sót môt số người tận trung với Chúa.Con cái Chúa tại Sạt-đe có sự sống cho dù rất yếu ớt. Họ đang làm việc mặc dầu công việc của họ không phải là tất cả đều họ có thể làm. Chúa khuyên họ làm vững mạnh những sự còn lại và đừng bỏ cuộc vì Hội thánh yếu đuối. Nơi đâu có sự sống, nơi đó có sự trông cậy!


Số người tận trung còn sót lại khác ở điểm nào? Họ chưa làm ô uế áo xống mình (c.4). Từ xa xưa có vài bằng chứng cho thấy rằng những người thờ lạy trong đền thờ không được đến gần thần của họ nếu đang mặc áo xống dơ dáy. Số người còn sót lại trong Hội thánh Sạt-đe chưa thỏa hiệp với thế giới ngoại giáo chung quanh họ, cũng không sống dễ chịu và tự mãn. Chính số người hết lòng yêu mến Chúa này đã nắm giữ tương thánh chức của Hội thánh.


“Hãy thức dậy! Hãy thức canh! Hãy ăn năn! Hãy nhớ lại lời ngươi đã nhận và làm theo! ”. Đây là công thức cho sự phấn hưng. Bảo vệ di sản thuộc linh là điều tốt, nhưng chúng ta không nên tô vẻ nó. Trung tín trong đức tin và có một lịch sử hào hùng vẫn chưa đủ. Đức tin đó phải sinh ra sự sống và việc làm.


Lời hứa trong c.5 (“mặc áo trắng “) chắc chắn có ý nghĩa đặc biệt với con cái Chúa sống trong thành phố sản xuất mặt hàng len. Lời phán không xoá tên khỏi sách sự sống cũng có ý nghĩa đối với những nguời sống trong đế quốc Rô-ma, nơi ấy quyền công dân vô cùng quan trọng (Cong 22:24-30).


Ở đây có lời báo trước nào nói về tín hữu trung tín với Chúa sẽ bị mất ơn cứu rỗi không? Tôi không nghĩ vậy. Dường như “sách sự sống” của Đức Chúa Trời chứa đựng tên của tất cả những người sống, kẻ gian ác và người công bình (Thi 69:28). Kh 13:8 và Kh 17:8 cho thấy tên của người được cứu ghi vào sách từ buổi sáng thế -tức là, trước khi họ làm điều tốt hoặc xấu. Bởi ân điển Đức Chúa Trời, họ đã được lựa chọn trong Đấng Christ trước khi có thời gian (Eph 1:4 Mat 25:34).


Chúa Giê-xu phán dạy môn đệ Ngài phải vui mừng vì tên của họ “đã được ghi trên trời” (Lu 10:20). Trong tiếng Hy-lạp động từ được dùng ở thì hoàn thành, nghĩa là có thể dịch “tên của các ngươi đã được ghi vào sổ trên trời rồi và hiện vẫn còn lưu lại ở đó” (theo Bản Dịch Mở Rộng Kenneth Wuest). Không thể nào Chúa Giê-xu lại tự mâu thuẫn trong vấn đề quan trọng như vậy!


Nếu tên của con cái Chúa (người được chọn) được ghi từ buổi sáng thế, và nếu Đức Chúa Trời biết tất cả mọi sự, tại sao Ngài ghi tên một số người và ngày nào đó sẽ sa ngã và phải xoá tên họ khỏi sách? Chúng ta được ghi danh vào sổ trên trời vì chúng ta đã được sanh lại (He 12:23), cho dù đứa bé có thể không vâng lời như thế nào, nó cũng không thể “không sanh ra”.


Khi người không tin chết, tên của họ bị xoá khỏi sách do vậy, tại toà phán xét cuối cùng, sách chỉ chứa đựng những người tin nhận Chúa mà thôi (Kh 20:12-15). Lúc ấy sách trở thành “Sách sự sống của Chiên Con” (Kh 21:27), vì chỉ có những người được Chúa Giê-xu Christ cứu mới có tên trong sách ấy. Tất cả những người khác đã bị xoá tên, một việc Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ làm đối với một người nào thực sự tin cậy Chúa (Xu 32:32 Ro 9:3). Đó là sách sự sống, tội nhân hư mất là những người chết! (Eph 2:1).


Ở đây Chúa khuyến cáo chúng ta không được yên nghỉ trong Hội thánh, nếu không chúng ta sẽ tự thấy mình dần dần nguội lạnh. Lời Chúa an ủi chúng ta rằng không có Hội thánh nào mất hết sự trông cậy miễn sao Hội thánh ấy vẫn còn sót lại số người yêu mến Chúa, sẵn lòng làm vững mạnh những điều còn lại.


2. Phi-la-đen-phi, Hội thánh trung tín (Kh 3:7-13)

Như hầu hết mọi người đều biết, Phi-la-đen-phi có nghĩa “lòng yêu thương anh em”. Chắc chắn, lòng yêu mến anh em là dấu chỉ quan trọng trong đời sống Cơ-đốc nhân. Chúng ta “được Đức Chúa Trời dạy phải yêu mến lẫn nhau” (ITe 4:9): qua Đức Chúa Cha (IGi 4:19), Đức Chúa Con (Gi 13:34) và Đức Thánh Linh (Ro 5:5). Nhưng yêu mến Đức Chúa Trời và anh em tín hữu không thôi vẫn chưa đủ chúng ta còn phải yêu thương thế giới hư mất và tìm cách đem Phúc-Âm Thập tự giá cứu rỗi đến cho người chưa tin Chúa nữa. Hội thánh tại đây có khải tượng rao truyền Phúc-Âm cho thế gian hư mất, và Đức Chúa Trời mở ra trước mắt họ môt cánh cửa.


Phi-la-đen-phi toạ lạc ở một vị trí chiến lược nằm trên tuyến đường bưu điện hoàng gia từ Rô-ma đến phương đông, do đó thành phố được mệnh danh là “cửa ngõ đến phương Đông”. Thành phố còn được gọi là “A-thên thu nhỏ” vì có nhiều đền đài trong thành phố. Chắc chắn Hội thánh tọa lạc ở nơi có nhiều cơ hội quý giá.


Vị trí địa dư này chỉ có một khó khăn duy nhất đó là khu vực dễ xảy ra động đất.Phi-la-đen-phi nằm ở nơi có vết nứt của vỏ trái đất, vào năm 17 trước Chúa, một cơn động đất dữ dội đã phá huỷ thành phố, thành phố Sạt-đe cùng mười thành phố khác cũng chung số phận. Về sau, một số cư dân không chịu trở về thành phố và cứ sống ở vùng chung quanh thành phố, gọi là “đất cháy”. Dường như trong thành phố tình yêu thương anh em không có gì an toàn cho lắm!


Chúa Giê-xu Christ tự giới thiệu về Ngài với Hội Thánh Phi-la-đen-phi, “Ta là Đấng Thánh”. Điều này tương đương với việc tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời, và đương nhiên Ngài là Đấng đó. Chúa Giê-xu Christ thánh trong bản tính, lời phán, hành động và chương trình của Ngài. Là Đấng Thánh, Ngài khác hẳn mọi sự khác, không có gì có thể ví sánh với Ngài được.


Nhưng Ngài cũng là Đấng chân thật - tức là, thành thật. Ngài là nguyên thuỷ, chớ không phải là bản sao Đức Chúa Trời là Đấng Chân thật chớ không phải do người ta tạo nên. Thời ấy có hằng trăm tà thần (ICo 8:5-6) nhưng chỉ có Chúa Giê-xu Christ mới có quyền tuyên bố Ngài là Đức Chúa Trời chân thần.


Thật đáng cho chúng ta biết rằng lúc các thánh tử đạo vào thiên đàng gặp Chúa, họ xưng Ngài là “Đấng thánh và chân thật” (Kh 6:10). Họ lập luận như vậy là vì Ngài là Đấng Thánh, Ngài phải đoán phạt tội lỗi và vì Ngài là Đấng chân thật, Ngài phải binh vực cho con cái Ngài bị kẻ ác giết chết.


Ngài không những thánh khiết và chân thật, nhưng Ngài còn có quyền đóng mở các cánh cửa. Bối cảnh của hình ảnh này chép trong Es 22:15-25. Quân A-si-ri đã xâm lăng nước Giu-đa (như tiên tri Ê-sai đã báo trước), nhưng lãnh đạo Do-thái lại cầu viện vua Ai-cập, chớ không nhờ cậy Đức Chúa Trời giải cứu đất nước. Một trong những nhà lãnh đạo giàu có tên là Sép-na đã dùng chức vụ của mình để thủ lợi cho riêng mình chớ không vì ích lợi cho dân sự. Đức Chúa Trời đoan chắc rằng ngôi nước của Sê-ba sẽ được trao cho một người trung thành là Ê-li-a-kim, người sẽ lên kế vị và nắm mọi quyền hành. Ê-li-a-kim là hình ảnh của Chúa Giê-xu Christ, Đấng cầm quyền đáng tin cậy của con dân Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu Christ cũng có chìa khoá các cửa âm phủ và sự chết (Kh 1:18).


Trong Tân-ước, “cánh cửa mở ra” nói đến cơ hội phục vụ Chúa (Cong 14:27 ICo 16:9 IICo 2:12 Co 4:3). Đấng Christ là Chúa của mùa gặt và là Đầu Hội thánh, chính Ngài quyết định địa điểm và thời gian con cái Ngài sẽ hầu việc (Cong 16:6-10). Ngài ban cho Hội thánh tại Phi-la-đen-phi một cơ hội rộng mở cho chức vụ.


Nhưng họ có tận dụng được cơ hội không? Có ít nhất hai ngăn trở phải vượt qua, thứ nhất họ thiếu lòng mạnh mẽ (Kh 3:8). Hẳn nhiên, đây không phải là Hội thánh lớn hoặc mạnh mẽ gì tuy nhiên, đó là Hội thánh trung tín. Họ trung tín giữ Lời Đức Chúa Trời và không sợ xưng danh Ngài ra. Câu 10 cho thấy họ đã trải qua vài cơn thử thách đặc biệt và đã chứng tỏ lòng trung thành của mình.


Tầm cỡ hoặc sự mạnh mẽ của Hội thánh không quyết định cho chức vụ của Hội thánh ấy, nhưng do đức tin đáp lại tiếng kêu gọi và mệnh lệnh của Chúa. “Mạng lệnh của Đức Chúa Trời là những điều Đức Chúa Trời giúp chúng ta hoàn thành”. Nếu Chúa Giê-xu Christ ban cho cánh cửa, Ngài sẽ bảo đảm cho họ có khả năng làm thành điều ấy! Martin Luther đã ghi nhận điều đó trong lời bài ca nổi tiếng của ông:


Khá biết sức mình non kém vô tài,

Dễ khiến ta thua ngã nằm dài.

Dẫu thế biết nhờ Đấng chỉ huy mình,

Đối phương thua chạy hết rập rình. (lời 2 của thánh ca 40)


Ngăn trở thứ hai là sự chống đối của người Do-thái trong thành phố (c.9). Đây quả thực là sự chống đối của quỉ Sa-tan, vì chúng ta không đánh trận với thịt và huyết (Eph 6:12). Có thể những người này là người Do-thái về xác thịt, nhưng họ không phải là “người Y-sơ-ra-ên thật” trong bối cảnh Tân-ước (Ro 2:17-29). Chắc chắn người Do-thái có di sản lớn, nhưng điều đó không bảo đảm cho sự cứu rỗi (Mat 3:7-12 Gi 8:33).


Những người Do-thái này chống đối Hội thánh Phi-la-đen-phi như thế nào? Trước tiên, họ loại tín hữu người Do-thái ra khỏi nhà hội. thứ hai có thể là lời cáo gian, vì đây là cách người Do-thái không tin thường công kích Phao-lô. Quỷ Sa-tan là kẻ kiện cáo và nó dùng những người theo tôn giáo hổ trợ cho nó (Kh 12:10). Thật không dễ làm chứng cho Đấng Christ khi những người chính yếu trong cộng đồng rêu rao lời chứng dối về bạn. Hội thánh tại Si-miệc-nơ đối diện với cùng sự chống đối giống như vậy (Kh 2:9).


Tín hữu Phi-la-đen-phi đang ở trong hoàn cảnh tương tự như Phao-lô khi ông viết ICo 16:9 - Có cả cơ hội lẫn ngăn trở! Lòng vô tín nhìn thấy ngăn trở, nhưng đức tin nhìn thấy cơ hội hầu việc Chúa! Vì Chúa nắm giữ các chìa khoá, nên Ngài đang cai trị mọi sự! Do đó chúng ta phải sợ hãi điều gì? Chẳng ai có thể đóng các cánh cửa nếu Ngài không cho phép. Sợ hãi, vô tín, và trì hoãn đã gây cho Hội thánh bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt đẹp Đức Chúa Trời ban cho.


Đấng Cứu rỗi ban cho Hội thánh này ba lời hứa tuyệt diệu đầy khích lệ.

-Thứ nhất, Ngài sẽ chịu trách nhiệm về kẻ thù của họ (Kh 3:9). Ngày kia, những người này sẽ nhận biết rằng người tin Chúa là đúng! (Es 60:14 Phi 2:10-11). Nếu chúng ta lo lắng công việc của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ lo liệu chiến đấu thay cho chúng ta.


-Thứ hai, Ngài sẽ giữ gìn họ tránh khỏi cơn hoạn nạn (Kh 3:10). Điều này nói đến thời kỳ đại nạn Giăng mô tả trong Kh 6:1-19:21, “thời rối reng của Gia-cốp”. Ở đây không nói đến cơn thử thách tại một địa phương nào đó, vì nó bao gồm “những người sống trên đất”. (Kh 6:10 Kh 8:13 Kh 11:10 Kh 12:12 Kh 13:8,12,14 Kh 14:6 Kh 17:2,8). Điều ám chỉ gần nhất nói đến những cơn bắt bớ của chính quyền La-mã sắp xảy ra, nhưng cuối cùng là Cơn Đại Nạn sẽ đổ ra trên đất trước khi Chúa Giê-xu Christ trở lại lập nước của Ngài. Trong sự hiểu biết của nhiều học giả Kinh Thánh, câu 10 là lời hứa cho biết Hội thánh sẽ không trải qua Cơn Đại Nạn, nhưng sẽ được cất lên trước khi sự ấy xảy ra. (ITe 4:13-5:11). Lời khuyên dạy, “Này, Ta đến mau chóng”, sẽ làm cho quan điểm này thêm mạnh mẽ.


-Lời hứa thứ ba dành cho Hội thánh Phi-la-đen-phi đó là Đức Chúa Trời sẽ tôn quý họ (Kh 3:12). Biểu tượng trong câu này có ý nghĩa sâu sắc cho người sống trong vùng thường xuyên xảy ra động đất: cột vững chắc, không cần phải chạy ra ngoài hoặc bỏ trốn, thành phố trên trời không thể bị cái gì phá huỷ được.

Các thành phố cổ xưa thường bày tỏ lòng kính trọng các nhà lãnh đạo vĩ đại bằng cách dựng các cột có khắc tên của họ lên trên đó. Các cột của Đức Chúa Trời không làm bằng đá, vì trên trời không có đền thờ nào (Kh 21:22). Các cột của Ngài là những con cái trung tín xưng danh Ngài ra vì sự vinh hiển của Ngài (Ga 2:9).


Xét về bối cảnh trong hiện tại, Hội thánh chúng ta ngày nay giống như Hội thánh Phi-la-đen-phi, vì Đức Chúa Trời đã mở ra trước mắt chúng ta nhiều cơ hội thuận tiện cho việc rao giảng Phúc-Âm. Nếu Ngài mở cửa, chúng ta phải hành động nếu Ngài đóng cửa, chúng ta phải chờ đợi. Trên hết, chúng ta phải trung tín với Ngài và nhìn thấy cơ hội, chớ đừng thấy trở ngại. Nếu bỏ lỡ cơ hội, chúng ta sẽ mất phần thưởng (mão miện), và điều này có nghĩa chúng ta sẽ bị hổ thẹn trước mặt Ngài lúc Ngài đến (IGi 2:28).


3. Lao-đi-xê, Hội thánh dại dột (Kh 3:14-22)

Giống như các Hội Thánh trước, Chúa làm cho lời của Ngài có ý nghĩa phù hợp với thành phố có Hội Thánh Chúa trong đó. Ở đây, Lao-đi-xê nổi tiếng giàu có, với công nghệ sản xuất kiếng đeo mắt và vải len màu đen bóng. Thành phố còn nằm gần Hieropolis, nơi có nhiều suối nước nóng nổi tiếng, và gần Cô-lô-se, được biết tiếng nhờ nguồn nước mát lạnh và trong lành.


Chúa tự giới thiệu Ngài là “Đấng A-men”, một danh xưng dành cho Đức Chúa Trời trong Cựu-ước (Es 65:16, trong đó chữ lẽ thật theo tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa a-men). Ngài là Lẽ thật và nói ra lẽ thật, vì Ngài là “Đấng làm chứng thành tín chân thật” (Kh 3:14). Chúa sắp phán với Hội thánh này về tình trạng thuộc linh thật sự của họ thật buồn, họ không tin sự chẩn đoán của Ngài.


Có lần một mục sư trẻ hỏi tôi, “Tại sao những tân tín hữu trong Hội Thánh lại gây ra nan đề?”

Tôi trả lời, “Họ không gây ra các nan đề, họ chỉ phơi bày chúng mà thôi. Nan đề luôn có sẵn, nhưng chúng ta đã quen thuộc với chúng rồi. Tân tín hữu giống như con trẻ trong gia đình: chúng nói thật về mọi chuyện! ”.


Hội thánh Lao-đi-xê không nhìn thấy nhu cầu của riêng họ và tránh né không đối diện với sự thật. Tuy nhiên, lòng trung thực bắt đầu nhận được ơn phước thật khi thừa nhận chúng ta là ai, xưng ra tội lỗi mình, và nhận lãnh mọi điều chúng ta cần nơi Đức Chúa Trời. Nếu muốn Đức Chúa Trời làm điều tốt nhất cho cuộc đời chúng ta và Hội thánh, chúng ta phải bày tỏ lòng thành thật với Đức Chúa Trời và để Ngài chân thật với chúng ta.


“Đấng làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của Đức Chúa Trời” (c.14) không nói rằng Chúa Giê-xu được tạo dựng nên, và vì thế Ngài không phải là Đức Chúa Trời đời đời.Chữ được dịch là đầu cội rễ có nghĩa là “nguồn gốc, nguyên thuỷ”. (Gi 1:3 Co 1:15,18).


Chúa bày tỏ bốn lãnh vực Hội thánh Lao-đi-xê đang cần đến:

a. Họ đã mất sức mạnh (Kh 3:16-17).

Trong nếp sống Cơ-đốc, có ba “trình độ thuộc linh”: tấm lòng nóng cháy, sốt sắng vì Đức Chúa Trời (Lu 24:32) tấm lòng nguội lạnh (Mat 24:12), và tấm lòng hâm hẩm (Kh 3:16). Cơ-đốc nhân hâm hẩm ưa sự dễ dãi, tự mãn và không nhận ra nhu cầu của mình. Nếu người ấy lạnh ít nhất cũng cảm nhận được nó! Nước lạnh từ Cô-lô-se và nước nóng từ Hierropolis sẽ hoà lẫn vào và trở nên hâm hẩm khi nó được dẫn về thành phố Lao-đi-xê.


Là tín hữu trong Chúa Giê-xu Christ, chúng ta có mọi lý do để “có tinh thần sốt sắng” (Ro 12:11). Sốt sắng cầu nguyện cũng quan trọng (Co 4:12). Chính khi hai môn đệ làng Em-ma-út nghe lời Chúa lòng của họ được ấm lại. Chẳng lạ gì Phao-lô yêu cầu Hội Thánh Cô-lô-se gởi bức thư của ông đến cho Hội Thánh Lao-đi-xê! (Co 4:16)


Chúng ta thích dùng nước uống nóng hoặc lạnh, nhưng thức uống hơi âm ấm có vị nhạt nhẽo khó dùng. Đó là lý do tại sao người phục vụ cứ tiếp tục thêm cà phê nóng hay trà đá mới vào tách hay ly của chúng ta. Quy luật thứ hai của nhiệt động lực đòi hỏi một ”hệ thống khép kín” điều chỉnh cách thích hiệp để không có năng lượng được sản sinh nữa. Nếu không tiếp thêm nhiệt lượng từ bên ngoài, hệ thống bị hỏng. Không thêm nhiên liệu vào, nước nóng trong nồi hơi sẽ nguội không có điện bộ phận làm lạnh trong tủ đá sẽ nóng lên.


Hội thánh không thể là “một hệ thống đóng kín”. Chúa Giê-xu phán, “Ngoài Ta các ngươi chẳng làm chi được” (Gi 15:5). Hội thánh Lao-đi-xê độc lập, tự mãn và an tâm. “Chúng tôi không cần gì cả!.” Nhưng suốt lúc ấy, quyền năng thuộc linh của họ đang bị mai một sự giàu có của cải vật chất và những thành tích sáng chói chỉ là bức màn che đậy một xác chết đang thối rữa. Chúa đứng bên ngoài Hội thánh của họ, Ngài đang tìm cách bước vào (Kh 3:20).


b. Họ đã mất giá trị (Kh 3:17-18a).

Hội thánh Si-miệc-nơ tự nghĩ mình nghèo khó, nhưng kỳ thực họ giàu có (Kh 2:9) Hội thánh Lao-đi-xê hãnh diện về sự giàu sang của họ, trong khi thực tế lại nghèo ngặt. Có lẽ ở đây có một gợi ý cho thấy tại sao Hội thánh này sa sút thuộc linh: họ đã tự hào về công việc của mình và bắt đầu đánh giá mọi việc theo tiêu chuẩn con người thay vì dựa theo giá trị thiêng liêng. Theo cách nhìn của Đức Chúa Trời họ “khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt”.


Lao-đi-xê là thành phố phồn vinh và là trung tâm ngân hàng. Có thể tinh thần thị trường đã len lỏi vào trong Hội thánh để làm cho các giá trị thuộc linh của họ bị bóp méo. Tại sao có quá nhiều tập san và tiêu đề thư của Hội thánh in hình các toà nhà? Những điều này có quan trọng nhất đối với chúng ta không? Ban chấp hành Hội thánh Lao-đi-xê có thể hãnh diện giới thiệu cho bạn xem bản tường trình hàng năm gần đây nhất với những con số thống kê đầy ấn tượng tuy nhiên Chúa Giê-xu phán rằng Ngài sẽ nhả họ ra khỏi miệng Ngài!


Có giải pháp nào không? Hãy trả giá để mua “vàng thử lửa của Chúa”. Điều này cho thấy Hội thánh cần phải gặp bắt bớ họ quá an nhàn (IPhi 1:7). Không có gì khiến cho con cái Chúa tra xét lại những việc hàng đầu trong đời sống của họ nhanh cho bằng sự đau khổ!


c. Họ mất đi khải tượng (Kh 3:17b).

Tín đồ Lao-đi-xê bị “mù”. Họ không thể nhìn thấy sự thật. Họ đang sống trong thiên đàng của người dại, họ hãnh diện về Hội thánh sắp bị bỏ. Sứ đồ Phi-e-rơ dạy rằng khi một con cái Chúa không lớn lên trong Chúa, khải tượng thuộc linh của họ bị ảnh hưởng (IIPhi 1:5-9). “Thức ăn hàng ngày “ có tác động đến khả năng thị lực, cả về phương diện thiêng liêng lẫn thể xác.


Những người này không thể thấy chính mình như họ vốn có. Họ cũng không nhìn thấy Chúa, vì Ngài đứng bên ngoài Hội thánh. Họ cũng không thấy cánh cửa cơ hội mở toang trước mắt họ. Họ bị che khuất trong toà nhà đến nỗi trở thành lạnh lùng với thế giới hư mất.


Giải pháp nào giải quyết cho vấn đề này? Hãy mua thuốc xức mắt trên trời! Thành phố Lao-đi-xê được mọi người biết đến nhờ loại thuốc xức mắt, nhưng loại thuốc các thánh đồ cần lại không có sẵn trong hiệu thuốc. Mắt là cơ quan nhạy cảm nhất trong thân thể con người, và chỉ có Danh Y Đại Tài mới có thể “giải phẫu” nó và chữa lành nó. Khi Ngài chữa lành cho người đàn ông trong câu chuyện ghi ở Gi 9:1-41 Ngài rờ đến trước khi Ngài làm cho sáng! Nhưng chúng ta phải tuân phục phương pháp chữa trị của Ngài, và gìn giữ “thói quen gìn giữ sức khỏe” thuộc linh tốt để khả năng nhìn thấy của chúng ta càng nhạy bén hơn.


d. Họ đã mất phương hướng (Kh 3:17-18).

Giống như vị hoàng đế trong câu chuyện của Andersen, các con cái Chúa ở đây nghĩ rằng họ được ăn mặc lộng lẫy trong khi thực sự họ trần truồng! Trần truồng có nghĩa bị thất bại và nhục nhã (IISa 10:4 Es 20:1-4). Người Lao-đi-xê có thể ra chợ mua những áo len tốt, nhưng điều đó không làm thỏa mãn nhu cầu thật của họ. Họ cần áo trắng công nghĩa và ân điển của Đức Chúa Trời.

Theo Kh 19:8 chúng ta nên mặc áo bằng “vải gai mịn, tinh sạch và sáng láng”, điều này biểu tượng cho “những việc làm công bình của các thánh đồ”. Sự cứu rỗi có nghĩa là Đấng Christ qui sự công bình cho chúng ta, sử dụng chúng ta nhưng nên thánh có nghĩa là Chúa chia phần công bình cho chúng ta, khiến bản tính và hành vi của chúng ta dự phần vào sự công bình của Chúa.


Chúa không có lời khen tặng nào dành cho Hội thánh này. Dĩ nhiên, tín hữu Lao-đi-xê mải mê tự khen tặng mình! Họ cho rằng mình đang tôn vinh Đức Chúa Trời, trong khi thực ra họ đang làm hổ danh Ngài tuồng như họ đang đi dạo trần truồng.


Chúa kết thúc bức thư này với ba lời phán dạy đặc biệt:


-Thứ nhất, lời giảng giải: “Phàm những kẻ ta yêu thì ta quở trách và sửa phạt” (c.19a).

Ngài vẫn còn yêu những thánh đồ hâm hẩm, cho dù lòng yêu mến Chúa của họ đã nguội lạnh. Ngài có kế hoạch uốn nắn sửa trị họ là bằng chứng cho lòng thương yêu của Ngài (Ch 3:11-12 He 12:5-6). Đức Chúa Trời cho phép Hội thánh trải qua những cơn thử thách để họ có thể trở nên như Ngài muốn.


-Thứ hai, lời thúc giục:“Vậy hãy có lòng sốt sắng và ăn năn” (Kh 3:19b).

Hội thánh tại Lao-đi-xê phải ăn năn lòng kiêu ngạo và tự hạ mình xuống trước mặt Chúa. Họ phải “nhen lại lửa nóng cháy trong lòng” (IITi 1-6) và vun xới tấm lòng sốt sắng.


-Cuối cùng, lời mời gọi (Kh 3:20-22).

Chúng ta thường dùng những câu này để dắt đem người lạc mất đến cùng Đấng Christ, nhưng lời này căn bản áp dụng cho con cái Chúa. Chúa đang đứng bên ngoài Hội thánh Lao-đi-xê! Ngài phán với cá nhân - “Nếu ai” - chớ Ngài không phán với toàn thể Hội thánh. Ngài mời gọi một số con cái Chúa còn sót lại tại Sạt-đe (Kh 3:4-5), và bây giờ Ngài kêu gọi từng cá nhân. Đức Chúa Trời có thể làm những việc lớn cho Hội thánh, dù chỉ có một người yêu mến Chúa.


Đấng Christ đang nhịn nhục chờ đợi. “Ta đứng” nói lên sự trông chờ. Ngài “gõ” mọi tấm lòng mọi hoàn cảnh và Ngài dùng lời của Ngài để gọi. Ngài kêu gọi để làm gì? Để tương giao với chúng ta, Ngài mong muốn con người được ở trong Ngài.

Lao-đi-xê là một Hội thánh độc lập đến nỗi họ không thấy cần nhu cầu nào cả, ngược lại họ không chịu ở trong Ngài và không còn cậy nhờ năng lực của Ngài. Họ có “chương trình thành công” nhưng đó không phải là kết quả qua việc kết liên vào Đấng Christ (Gi 15:1-8).


Hãy lưu ý khi chúng ta mời Ngài ngự vào, chỗ cao nhất trở thành ngôi Ngài ngự! Qua mối thông công với Đấng Christ chúng ta tìm được chiến thắng và trở nên người đắc thắng.


Các bức thư gởi cho bảy Hội thánh là những tia X-quang của Đức Chúa Trời ban cho để chúng ta có thể xem xét nếp sống và công việc của chúng ta. Sự phán xét sắp xảy ra cho thế giới này, nhưng bắt đầu từ nhà của Đức Chúa Trời (IPhi 4:17). Chúng ta tìm thấy sự an ủi cũng như lời quở trách qua các bức thư này.


Nguyện Chúa giúp chúng ta nghe lời Đức Thánh Linh đang phán cho Hội thánh ngày nay, và cho mỗi con cái Chúa trong Hội thánh!



 


4. NÀO, HÃY TÔN THỜ NGÀI (Kh 4:1-5:14)


Thờ phượng Chúa quả thật là nhu cầu lớn lao nhất trong đời sống của cá nhân và Hội thánh. Ngày nay người ta thường coi trọng đến việc làm chứng cho Đấng Christ và hầu việc Ngài, nhưng ít khi nói về sự thờ phượng Ngài. Thờ phượng có nghĩa “qui giá trị về cho” (Kh 4:11 Kh 5:12). Nghĩa là dùng tất cả sức lực và những gì chúng ta có để ngợi khen Đức Chúa Trời vì danh Ngài và vì những gì Ngài đã làm.


Trời là nơi thờ phượng, con dân Đức Chúa Trời sẽ thờ phượng Ngài suốt cõi đời đời. Có lẽ ngày nay thật tốt cho chúng ta thực hành điều này! Nghiên cứu Kh 4:1-5:14 chắc chắn sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn cách thờ phượng Đức Chúa Trời và dâng lên Ngài sự vinh hiển xứng đáng.


Nếu Kh 1:19 là bố cục do Đức Chúa Trời sắp xếp trong sách này, thì chương 4 dẫn chúng ta vào phần thứ ba: “những việc sau sẽ đến”. Thực ra, chính xác đó là những điều Ngài phán với Giăng khi Ngài gọi ông lên trời! Qua từng trải này, dường như Giăng minh hoạ những điều sẽ xảy đến cho con cái Ngài khi Thời Đại Hội thánh đến hồi chung kết: trời sẽ mở ra sẽ có tiếng và tiếng vang như tiếng kèn các thánh đồ sẽ được cất lên trời (ITe 4:13-18 ICo 15:52). Lúc ấy, Đức Chúa Trời sẽ khởi sự phán xét thế gian.


Nhưng trước khi Đức Chúa Trời đổ cơn thạnh nộ của Ngài, Ngài cho chúng ta nhìn thấy sự vinh hiển và cho phép chúng ta nghe các con sanh vật trên trời thờ phượng khi chúng ngợi khen Đức Chúa Trời. Chúng ta được giới thiệu hai lãnh vực của sự thờ phượng để học tập và làm theo.


1. Họ thờ lạy Đấng Tạo Hoá (Kh 4:1-11)

Chữ chìa khoá trong chương này là ngai được dùng mười bốn lần. Thực ra, đây là chữ chìa khoá trong cả sách, xuất hiện bốn mươi sáu lần. Cho dù có thể xảy ra điều gì trên đất này, Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi Ngài và đang trọn quyền cai trị. Nhiều giáo sư giải thích sách Khải huyền theo nhiều cách khác nhau, nhưng tất cả đều đồng ý rằng Giăng đề cao sự vinh hiển và quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Đây thật là điều an ủi cho các thánh đồ chịu khổ trong thời của Giăng và cho mọi thời đại trong lịch sử Hội thánh.


Dùng ngai làm điểm trung tâm, chúng ta dễ dàng hiểu sự sắp xếp của chương sách kỳ diệu này.


Ngự Trên Ngai - Là Đức Chúa Trời Toàn Năng (Kh 4:2-3).

Ngài là Đức Chúa Cha, vì Đức Chúa Con ở giữa ngai trong Kh 5:6, và Đức Thánh Linh ở trước ngai trong Kh 4:5. Lời của loài người không có cách nào mô tả về bản thể của Đức Chúa Trời được, Giăng chỉ có thể dùng sự đối chiếu. Bích ngọc là loại đá quí trong ngần (Kh 21:11) và mã não có màu đỏ. Sự rực rỡ bao quanh lấy Chúa, dựa theo Thi 104:2 và ITi 6:16. Bích ngọc và mã não được đính trên áo đeo ngực của thầy tế lễ thượng phẩm (Xu 28:17-21


Chung Quanh Ngôi - Có Một Cái Mống (Kh 4:3b).

Cái mống này có hình tròn, chớ không phải hình cung, vì trên trời tất cả mọi vật đều trọn vẹn. Cái mống nhắc chúng ta nhớ lại giao ước của Đức Chúa Trời lập ra với Nô-ê (Sa 9:11-17), biểu tượng về lời hứa Đức Chúa Trời sẽ chẳng bao giờ huỷ diệt thế gian bằng nước lụt. Như chúng ta thấy, giao ước của Đức Chúa Trời không chỉ lập với Nô-ê, nhưng Ngài còn lập với tất cả tạo vật của Ngài.


Sự phán xét sắp đổ xuống, nhưng cái mống nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Chúa Trời có lòng thương xót, cả lúc Ngài đoán phạt nữa (Ha 3:2). Thường thường, cái mống xuất hiện sau cơn mưa bão nhưng ở đây, chúng ta thấy nó trước cơn bão.


Chung Quanh Ngôi - Các Trưỡng Lão Và Các Con Sanh Vật (Kh 4:3-4,6-7)

Rất có thể cái mống nằm thẳng đứng chung quanh ngôi, trong khi đó tất cả muôn vật dàn hàng ngang chung quanh ngôi. Sự sắp xếp như buổi thiết triều của nhà vua.


Hai mươi bốn trưởng lão ngồi trên ngôi là ai? Rất có thể họ không phải là thiên-sứ, vì thiên sứ không đếm được (He 12:22), không đội mão miện hay ngự trên ngai.Ngoài ra, trong Kh 7:11 Kinh Thánh phân biệt các trưởng lão và thiên sứ (Kh 5:8-11). Họ đội “những mão miện của người chiến thắng” (trong tiếng Hy-lạp có chữ stephanos xem Kh 2:10) chúng ta cũng không có bằng chứng cho thấy các thiên sứ nhận phần thưởng.


Có thể các trưởng lão biểu tượng cho con dân Đức Chúa Trời ở trên trời, đã được ban ngôi nước và phần thưởng. Trong đền thờ thời Cựu-ước có hai mươi bốn ban thứ thầy tế lễ (ISu 24:3-5,18; Lu 1:5-9). Con dân Đức Chúa Trời là “vua và thầy tế lễ” (Kh 1:16), cùng trị vì và hầu việc với Đấng Christ. Hãy chú ý đặc biệt đến lời ngợi khen của họ (Kh 5:9-10). Khi tiên tri Đa-ni-ên thấy các ngôi được lập lên (Da 7:9), các ngôi ấy trống không nhưng khi Giăng nhìn thấy, các ngôi ấy đều có người . Vì có mười hai chi phái dân Y-sơ-ra-ên và mười hai sứ đồ, có lẽ số hai mươi bốn biểu tượng cho sự trọn vẹn của con cái Đức Chúa Trời.


Áo choàng trắng và nhành chà là nói đến chiến thắng (Kh 7:9). Đây là “những người thắng cuộc” đã chiến đấu vì đức tin trong Đấng Christ (IGi 5:4-5).


Cũng tại chung quanh ngôi, Giăng nhìn thấy bốn “con sanh vật” (“con thú” trong bản King James) ở gần Đức Chúa Trời hơn các thiên sứ và các trưởng lão. Chúng giống như chê-ru-bin đấng tiên tri Ê-xê-chi-ên nhìn thấy (Exe 1:4-14; Exe 10:20-22), nhưng lời ngợi khen của chúng nhắc chúng ta nhớ đến thê-ra-phim trong Es 6:1-8.Tôi cho rằng các con sanh vật này biểu tượng cho tạo vật của Đức Chúa Trời và có liên quan đến giao ước của Đức Chúa Trời lập với Nô-ê (Sa 9:8-17).

Mặt các con sanh vật tương ứng với lời phán của Đức Chúa Trời trong Sa 9:10 - Giao ước của Ngài lập ra với Nô-ê (mặt người), chim muông (hình mặt chim phụng hoàng), súc vật (mặt bò đực), và thú đồng trên mặt đất (hình mặt sư tử).


Các con sanh vật bày tỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (“đầy những mắt”) và tuyên bố sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Chúng ở trên trời để nhắc nhớ rằng Đức Chúa Trời đã có giao ước với tạo vật của Ngài và Ngài cai trị muôn vật từ ngôi Ngài. Sự hiện diện của cái mống màu ngọc bích làm cho hình ảnh này thêm oai nghiêm, vì cái mống là dấu hiệu giao ước dành cho muôn vật. Cho dù cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời đổ xuống trên thế gian khủng khiếp ra sao, Ngài cũng giữ lời hứa thành tín của Ngài. Có thể con người nói hành cùng Đức Chúa Trời trong cơn đoán phạt (Kh 16:9,11,21), nhưng muôn vật sẽ ngợi khen Ngài và tôn cao đức thánh khiết của Ngài.


Chê-ru-bin mô tả trong Ê-xê-chi-ên chương 1 dường như có phần trong những công việc Đức Chúa Trời sắm sẵn trong thế gian, được nói đến bằng hình ảnh “bánh xe trong những bánh xe”. Đức Chúa Trời dùng sức mạnh thiên nhiên để hoàn tất ý muốn của Ngài (Thi 148:1-14), muôn vật đều ngợi khen và cảm tạ Ngài.


Một số nhà nghiên cứu nhìn thấy trong bốn mặt được mô tả (Kh 4:7) một minh hoạ về bức tranh Đấng Christ có bốn mặt chép trong các câu chuyện Phúc-Âm. Ma-thi-ơ là sách Phúc-Âm nói về Nhà Vua, được minh hoạ bằng con sư tử. Mác nhấn mạnh đến khía cạnh tôi tớ trong chức vụ của Chúa (con bò). Lu-ca giới thiệu Đấng Christ là Con người đầy lòng thương xót. Giăng tôn cao thần tính của Đấng Christ, là Con Đức Chúa Trời (chim phụng hoàng).


Cuối cùng, các con sanh vật dùng danh xưng “Đức Chúa Trời, Đấng Toàn Năng” nhấn mạnh đến quyền năng của Đức Chúa Trời. Như đã nhắc đến trong chương 1, danh xưng Đấng Toàn Năng được dùng chín lần trong sách Khải-huyền. Trong Tân-ước có một lần duy nhất được dùng như vậy trong IICôr 16:18, nhưng chúng ta tìm thấy có đến ba mươi mốt lần được chép trong Gióp, một sách tôn cao quyền năng của Đức Chúa Trời trên muôn vật.


Phát Xuất Từ Ngôi - Các Dấu Hiệu Của Bão (IICôr 4:5a).

“Từ ngôi ra những chớp nhoáng, những tiếng cùng sấm”. Đây là những dấu chỉ về cơn bão sắp xảy ra và dấu nhắc nhở về quyền năng đáng sợ của Đức Chúa Trời (Exe 19:16; Exe 9:23,28). “Những dấu hiệu báo bão” này sẽ được lập lại suốt thời gian đoán phạt, luôn luôn phát ra từ ngôi và đền thờ của Đức Chúa Trời (Kh 8:5; Kh 11:19; Kh 16:18). Quả thật Đức Chúa Trời đã sắm sẵn ngôi Ngài cho sự phán xét (Thi 9:7 cũng chú ý Thi 77:18).


Thế giới chúng ta không thích nghĩ về Đức Chúa Trời là Chúa của sự phán xét. Họ thích nhìn cái mống chung quanh ngôi hơn và tránh nhìn chớp nhoáng và tiếng sấm phát ra từ ngôi. Chắc chắn Ngài là Đức Chúa Trời của ân điển, nhưng ân điển Ngài cai trị bởi sự công bình (Rô 5:21). Điều này đã được thấy rõ tại Gô-gô-tha nơi Đức Chúa Trời tỏ bày lòng yêu thương đối với tội nhân và cơn thạnh nộ chống lại tội lỗi.


Trước Ngôi - Các Ngọn Đèn Và Biển Trong Ngần (Kh 4:5b-6a).

Bảy ngọn đèn mang ý nghĩa trọn vẹn và biểu tượng cho Thánh Linh của Đức Chúa Trời (Kh 1:4 cũng lưu ý Exe 1:13). Dường như Giăng cũng cho thấy trong Khải-huyền “nơi thờ phượng trên trời” theo mẫu của đền tạm và đền thờ tại trần gian (Hêb 9:23). Những điểm tương đồng như sau:

-Đền thờ trên đất

-Nơi chí thánh

-Bảy chân đèn

-Chậu bằng đồng

-Chê-ru-bin trên nắp thi ân

-Các thầy tế lễ

-Bàn thờ bằng đồng

-Bàn thờ xông hương

-Hòm giao-ước

-Nơi thờ phượng trên trời sáng trước Ngôi Đức Chúa Trời.

-Bảy ngọn đèn cháy ngôi

-Biển pha lê

-Bốn con sanh vật chung quanh ngôi

-Các trưởng lão (vua và thầy tế)

-Bàn thờ (Kh 6:9-11)

-Bàn thờ xông hương (Kh 8:3-5)

-Hòm giao ước (Kh 11:19)


Trên trời không có đền thờ bằng vật chất. Tất cả trời đều là nơi thờ phượng Đức Chúa Trời để mọi người hầu việc trước ngôi thánh của Ngài (Kh 7:15). Tuy nhiên, trong Khải-huyền Giăng cho thấy có một “nơi thờ phượng” đặc biệt của Đức Chúa Trời (cũng lưu ý Kh 11:19). Trong cõi đời đời, không có đền thờ nào cả (Kh 21:22).


Biển bằng pha-lê trong suốt biểu tượng cho sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, và lửa được hòa vào nói đến cơn đoán phạt thánh của Ngài. “Bầu trời” trong như pha-lê cũng xuất hiện trong sự hiện thấy của tiên tri Ê-xê-chi-ên (Exe 1:22) đó là bệ chân của ngôi Đức Chúa Trời. Chúng ta sẽ gặp lại biển pha lê này trong Kh 15:1-4 có liên quan đến sự chiến thắng của dân Y-sơ-ra-ên trên dân Ai-cập.


Ngợi Khen Đấng Ngự Trên Ngôi (Kh 4:9-11)

Bất cứ khi nào các con sanh vật ngợi khen Đức Chúa Trời, các trưởng lão đều quỳ trước ngôi và ngợi khen Ngài. Sách Khải huyền chứa đầy bài hát ngợi khen (Kh 4:8,1; Kh 5:9-13; Kh 7:12-17; Kh 11:15-18; Kh 12:10-12; Kh 15:3-4; Kh 16:5-7; Kh 18:2-8; Kh 19:2-6). Đặt nặng vấn đề ngợi khen là điều có ý nghĩa khi bạn nhớ rằng Giăng viết sách này để an ủi con cái Chúa đang trải qua đau đớn và bắt bớ!


Chủ đề của bài ca này là Đức Chúa Trời Đấng Tạo Hoá, trong khi đó trong Kh 5:1-14, các trưởng lão ngợi khen Đức Chúa Trời là Đấng Cứu Chuộc. Lời ngợi khen trong chương 4 dâng lên cho Đức Chúa Cha đang ngự trên ngôi, trong khi chương 5 trực tiếp ngợi khen Đức Chúa Con (Chiên Con) trước ngôi. Bài hát kết thúc (Kh 5:13) dâng lên cho cả Đức Chúa Cha lẫn Đức Chúa Con, đây là một bằng chứng khác nói về thần tính của Chúa Giê-xu Christ.


Nếu hai mươi bốn trưởng lão tiêu biểu cho con dân Đức Chúa Trời tại trên trời, lúc ấy chúng ta phải nêu câu hỏi, “Tại sao con dân Đức Chúa Trời phải ngợi khen Đấng Sáng Tạo?”. Nếu các tầng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, tại sao con dân của Đức Chúa Trời trên trời lại không tham gia vào? (Thi 19:1-14). Muôn vật luôn làm chứng về quyền năng, sự khôn ngoan và vinh hiển của Đức Chúa Trời.

Nhận biết Đấng Tạo Hóa là bước khởi đầu tin cậy Đấng Cứu Chuộc (Công 14:8-18; Công 17:22-31).

“Muôn vật được dựng nên trong Ngài (Đấng Christ) và vì Ngài...muôn vật đứng vững trong Ngài” (Côl 1:16-17).


Nhưng con người tội lỗi thờ lạy và hầu việc loài thọ tạo thế cho Đấng dựng nên, và đây là tội thờ hình tượng (Rô 1:25). Hơn nữa, con người tội lỗi đã làm hoen ố và hư hoại tạo vật kỳ diệu của Đức Chúa Trời và con người sắp phải trả giá cho việc làm đó (Kh 11:18).

Muôn vật được dựng nên để ngợi khen và làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, con người không có quyền chiếm đoạt điều thuộc về Đức Chúa Trời. Con người đẩy muôn vật vào trong tội lỗi, để tạo vật tốt lành của Đức Chúa Trời ngày nay trở thành tạo vật than thở (Rô 8:22) nhưng vì công giá cứu chuộc của Đấng Christ trên thập tự giá, ngày kia muôn vật sẽ được giải cứu và trở nên tạo vật vinh hiển (Rô 8:18-24).


Thật chẳng may Hội thánh ngày nay thường bỏ qua sự thờ phượng Đấng Tạo Hóa. Câu trả lời thật cho vấn đề sinh thái không phải thuộc về tài chánh hoặc luật pháp, nhưng thuộc về tinh thần. Chỉ khi con người nhận biết Đấng Tạo Hóa và bắt đầu dùng tạo vật dâng lên sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời thì các nan đề mới được giải quyết.


2. Họ thờ lạy Đấng Cứu Chuộc (Kh 5:1-14)

Điểm tập trung chú ý bây giờ chuyển sang cuốn sách có bảy ấn nằm trong tay Đức Chúa Trời. Người ta không thể đọc cuốn sách vì sách được cuộn lại và niêm phong bằng bảy ấn (giống như chúc thư của người Rô-ma). Sứ-đồ Giăng có thể nhìn thấy chữ viết ở cả hai mặt của cuốn sách. điều này có nghĩa người ta không thể ghi thêm điều gì vào trong sách. Những gì đã viết là đầy đủ và trọn vẹn.


Cuốn sách tiêu biểu cho “chứng thư” của Đấng Christ đối với tất cả mọi điều Đức Chúa Cha đã hứa với Ngài vì sự hi sinh của Ngài trên thập tự giá. “Hãy cầu Ta, Ta sẽ ban cho Con các ngoại bang làm cơ nghiệp, và các đầu cùng đất làm của cải” (Thi 2:8). Chúa Giê-xu Christ là “kế tự của muôn vật” (Hêb 1:2). Ngài là “người bà con thân yêu có quyền chuộc” chúng ta sẵn lòng phó mạng sống Ngài để chúng ta được thoát khỏi xiềng xích và tái lập quyền thừa kế chúng ta đã đánh mất (Le 25:23-46; Gie 32:6-15; Ru 1:1-4:22)


Khi Đấng Christ mở các ấn, nhiều biến cố kỳ lạ xảy ra. Ấn thứ bảy giới thiệu bảy tiếng kèn đoán phạt (Kh 8:1-2). Sau đó, khi tiếng kèn thứ bảy vang lên, cơn thạnh nộ ngày lớn của Đức Chúa Trời được công bố “những bát thạnh nộ” được đưa vào, dẫn cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời đến cao điểm (Kh 11:15; Kh 15:1). Có thể các tiếng kèn đoán phạt được viết trên một mặt của cuốn sách và các bát thạnh nộ viết trên mặt còn lại.


Chứng thư hay chúc thư chỉ có thể được mở do người được chỉ định thừa kế, và đó là Chúa Giê-xu Christ. Trong cả vũ trụ này chẳng có ai đủ xứng đáng mở các ấn.Giăng khóc là điều chẳng có gì phải ngạc nhiên, vì ông nhận ra rằng kế hoạch cứu chuộc vinh hiển của Đức Chúa Trời dành cho loài người không thể nào hoàn thành cho đến khi cuốn sách mở ra.

Vị cứu tinh phải là họ hàng gần, sẵn lòng cứu vớt, và có khả năng cứu vớt. Chúa Giê-xu Christ thỏa mãn tất cả những phẩm chất ấy. Ngài trở nên xác thịt, vì vậy Ngài là người bà con của chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta và bằng lòng cứu vớt chúng ta và Ngài đã trả giá cao, vì vậy Ngài có thể cứu vớt.


Bây giờ chúng ta có thể bước vào kinh nghiệm thờ phượng được mô tả trong phần còn lại của Kh 5:1-14. Và chúng ta sẽ khám phá ra bốn lý do quan trọng cho biết tại sao chúng ta thờ lạy Chúa Giê-xu Christ.


 Vì Ngài Là Đấng Phải Thờ Lạy (Kh 5:5-7).

Ba danh xưng độc nhất dành cho Chúa chúng ta để mô tả Ngài là ai. Thứ nhất, Ngài là Sư tử chi phái Giu-đa. Điều nhắc đến ở đây có liên quan đến Sa 49:8-10 lúc Gia-cốp bằng hình thức tiên tri giao vương trượng cho Giu-đa và lập làm chi phái nhà vua. (Đức Chúa Trời chẳng hề có ý lập Sau-lơ làm vua, vì ông xuất thân từ chi phái Bên-gia-min. Đức Chúa Trời đã dùng ông để kỷ luật dân sự vì họ cầu xin một vua sau đó Ngài ban cho họ Đa-vít thuộc chi phái Giu-đa.)


Hình ảnh “sư tử” nói đến phẩm cách, quyền tể trị, lòng dũng mãnh và sự chiến thắng. Chúa Giê-xu Christ là người Giu-đa duy nhất có thể chứng minh quyền làm vua của Ngài qua bản gia phả. “Con vua Đa-vít” là danh xưng thường được dùng khi Ngài thi hành chức vụ trên thế gian (Mat 1:1-17).


Nhưng Ngài còn là Dòng dõi nhà Đa-vít, nghĩa là Ngài sanh ra trong dòng dõi Đa-vít. Về nhân tính của Ngài, Chúa Giê-xu có nguồn gốc trong nhà Đa-vít (Es 11:1,10) nhưng về phương diện thần tính, Chúa Giê-xu là cội rễ của Đa-vít. Dĩ nhiên, điều này nói về sự bất diệt của Chúa chúng ta quả thật Ngài là “Đấng Thượng Cổ”. Làm thế nào Chúa Giê-xu vừa là Chúa của Đa-vít vừa là Con vua Đa-vít là một vấn đề Chúa Giê-xu nêu ra cho người Pha-ri-si, và họ không thể (hoặc không chịu) trả lời cho Ngài (Mat 22:41-46).


Khi Giăng quay lại nhìn xem, ông không thấy sư tử nhưng thấy chiên con! Chúa Giê-xu Christ được xưng là “Chiên Con” ít nhất hai mươi tám lần trong sách Khải huyền (trong tiếng Hy-lạp chữ này có nghĩa “con chiên nhỏ đáng yêu”) và điều nhấn mạnh này chúng ta không khó có thể bỏ qua. Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời là “cơn thạnh nộ của chiên con” (Kh 6:16). Sự tẩy sạch chỉ bởi “huyết Chiên Con” (Kh 7:14). Hội thánh là “vợ của Chiên Con” (Kh 19:7; Kh 21:9).


“Chiên Con” là chủ đề quan trọng trong suốt Kinh Thánh, vì chủ đề ấy giới thiệu con người và công việc của Chúa Giê-xu Christ, Đấng Cứu Chuộc. Kinh Thánh Cựu-ước nêu lên câu hỏi, “chiên con ở đâu?” (Sa 22:7) được Giăng Báp-tít trả lời, “Kìa Chiên Con của Đức Chúa Trời là Đấng cất tội lỗi của cả thế gian đi” (Gi 1:29). Ban hợp xướng trên trời hát rằng, “Chiên Con đáng ngợi khen!” (Kh 5:12).


Lời mô tả về Chiên Con (c.6), nếu được một hoạ sĩ vẽ theo nghĩa đen sẽ có một bức tranh kỳ dị nhưng khi hiểu theo biểu tượng, bức tranh ấy truyền đạt lẽ thật thuộc linh. Vì số bảy là số trọn vẹn, nên chúng ta có được quyền năng trọn vẹn (bảy sừng), sự khôn ngoan trọn vẹn (bảy mắt), và sự hiện diện trọn vẹn (bảy vì thần ở khắp đất). Các nhà thần học gọi những phẩm chất này là toàn năng, toàn tri, toàn tại và cả ba đều là thuộc tính của Đức Chúa Trời. Chiên Con là Đức Chúa Con, Cứu Chúa Giê-xu!


Chúng ta thờ lạy Chúa Giê-xu Christ vì chính Ngài. Nhưng còn có lý do thứ hai cho biết tại sao chúng ta thờ lạy Ngài.


Vì Nơi Ngài Ngự (Kh 5:6).

Đầu tiên, Chúa Giê-xu ở trên trời. Ngài không nằm trong máng cỏ, tại Giê-ru-sa-lem, trên thập tự giá hoặc trong mộ phần. Ngài được tiếp lên trời và được tôn cao tại đó. Đây quả thật là sự an ủi cho con cái Chúa đang trải qua đau khổ, biết rằng Đấng Cứu Chuộc họ đã chiến thắng mọi kẻ thù và hiện nay đang kiểm soát các biến cố bằng sự vinh hiển! Ngài cũng chịu đau đớn nhưng Đức Chúa Trời làm cho sự đau khổ của Ngài ra vinh hiển.


Nhưng Đấng Christ ngự nơi nào trên trời? Ngài ngự ở chính giữa. Chiên Con là trung tâm của tất cả những điều lộ ra trên trời. Muôn vật tập trung vào Ngài (Bốn con sanh vật), tất cả con cái Đức Chúa Trời cũng làm như vậy (các trưởng lão). Các thiên-sứ ở chung quanh ngôi đứng vây bọc Đấng Cứu Chuộc và ngợi khen Ngài.


Ngài còn ở tại ngôi. Vài bài thơ và bài ca viết theo cảm xúc Cơ-đốc đã đánh đổ ngôi vị của Đấng Cứu Rỗi và chỉ nhấn mạnh đến cuộc sống của Ngài trên thế gian mà thôi. Những vần thơ và bài ca này làm cho “người thợ mộc hiền lành” hoặc “người thầy khiêm tốn” trở nên hấp dẫn hơn, nhưng chúng không tôn cao Chúa sống! Chúng ta không thờ lạy một hài nhi trong máng cỏ hoặc một thi thể trên thập tự giá. Chúng ta thờ lạy Chiên Con của Đức Chúa Trời hằng sống đang cầm quyền, Đấng đang ngự ở chính giữa tại các nơi trên trời.


Vì Những Việc Ngài Làm (Kh 5:8-10).

Khi Chiên Con đến và lấy cuốn sách (Da 7:13-14), khóc than chấm dứt và tiếng ngợi khen bắt đầu trổi dậy. Con cái Đức Chúa Trời và những đại diện của tạo vật Ngài đồng hoà tiếng hát trong bài ca mới ngợi khen Đức Chúa Trời. Hãy lưu ý ngợi khen và lời cầu nguyện được hiệp làm một, vì xông hương là hình ảnh cầu nguyện dâng lên Ba Ngôi Đức Chúa Trời (Thi 141:2; Lu 1:10). Chúng ta sẽ gặp lại “những lời cầu nguyện như thức hương” của thánh đồ (Kh 6:9-11; Kh 8:1-6).


Họ hát loại bài ca nào? Đầu tiên, đó là bài ca thờ phượng, vì họ nói, “Ngài đáng được ngợi khen! ”. Ngợi khen có nghĩa “qui sự vinh hiển”, và chỉ một mình Chúa Giê-xu đáng được vinh hiển. Khi còn thi hành chức vụ mục sư, tôi tìm cách tổ chức giờ thờ phượng mỗi buổi sáng bằng lời thánh ca đã nâng tâm trí và tấm lòng của Hội thánh đến gần Chúa Giê-xu Christ. Hiện thời có quá nhiều bài hát lấy “Tôi” làm trung tâm hơn là “Đấng Christ”. Họ đề cao kinh nghiệm của con cái Chúa quá nhiều đến nỗi hầu như họ không đếm xỉa gì đến sự vinh hiển của Chúa.Chắc chắn có chỗ để hát loại bài ca ấy, nhưng không có gì ví sánh nỗi với Đấng Christ đầy yêu thương trong sự thờ phượng thiêng liêng.


Nhưng đây còn là bài hát nói về Phúc-Âm! “Ngài bị giết, và đã cứu chuộc chúng ta bằng huyết Ngài”. Chữ giết có nghĩa “bị giết cách dã man” (c.6). Thiên đàng ngợi ca về thập tự giá và huyết! Tôi đọc về một giáo phái đã tu chỉnh thánh ca chính thức của họ, thay tất cả các bài hát nói về huyết Đấng Christ. Thánh ca ấy không thể dùng trên thiên đàng được, vì tại đó chỉ có lời chúc tụng huyết Chiên Con đã đổ ra vì tội lỗi của thế gian.


Trong Sa 22:1-18, con chiên được dâng làm của lễ thay cho Y-sác, một hình ảnh về Đấng Christ phó mạng sống thay cho cá nhân con người. (Ga 2:20). Trong lễ Vượt Qua, chiên con bị giết vì mỗi gia đình (Xu 12:3).

Ê-sai nói rằng Chúa Giê-xu chết thay cho dân tộc Y-sơ-ra-ên (Es 53:8; Gi 11:49-52). Giăng khẳng định Chiên Con đã chết thay cho cả thế gian! (Gi 1:29). Càng suy gẫm về quyền năng và tầm mức của công tác cứu chuộc Đấng Christ đổ ra trên thập tự giá, bạn càng hạ mình xuống và phủ phục dưới chân Ngài mà thờ lạy.


Bài ca này cũng là bài ca truyền giáo.

Chúa chuộc mua tội nhân “thuộc mọi dòng giống, mọi tiếng, mọi nước” (Kh 5:9). Dòng giống liên quan đến tổ tiên chung và tiếng đề cập đến tiếng nói chung. Dân nghĩa là chủng tộc, và nước là nền cai trị chung hoặc chính phủ. Đức Chúa Trời yêu thương toàn thế giới (Gi 3:16) và nỗi mong mỏi của Ngài là làm sao sứ điệp cứu rỗi được truyền ra cho khắp thế giới (Mat 28:18-20).


Có lẽ bạn nghe nói về một Cơ-đốc nhân nọ chống đối việc truyền giáo hải ngoại nhưng vì lý do nào đó lại tình cờ dự một buổi họp truyền giáo. Khi người ta đưa hộp tiền dâng qua, ông ta nói với người lãnh tiền dâng, “Tôi không tin vào công việc truyền giáo!”. Người lãnh tiền dâng bảo, “Vậy ông cứ lấy ra một ít đi. Nó dành cho người ngoại mà”.


Bài hát trên trời còn là bài ca tận hiến, vì nó thông báo địa vị độc nhất của chúng ta trong Đấng Christ là “nước của thầy tế lễ”. Giống như Mên-chi-xê-đéc cổ xưa, tín hữu là vua và thầy tế lễ (Sa 14:17; Hêb 7:1-28; IPhi 2:5-10). Bức màn trong đền thờ bị xé rách khi Chúa Giê-xu chết, mở ra con đường đến Đức Chúa Trời (Hêb 10:19-25). Chúng ta “cai trị trong sự sống” khi chúng ta vâng phục Đấng Christ và để cho Đức Thánh Linh hành động trong chúng ta (Ro 5:17).


Cuối cùng, bài ca này là bài ca tiên tri: “Chúng ta sẽ cai trị trên mặt đất” (Rô 5:10). Khi Chúa Giê-xu Christ trở lại trần gian, Ngài sẽ lập nước công bình của Ngài trong 1.000 năm và chúng ta sẽ trị vì cùng Ngài (Kh 20:1-6). Lời cầu nguyện của các thánh đồ, “Nước Ngài được đến!” lúc ấy sẽ được ứng nghiệm. Muôn vật sẽ thoát khỏi xiềng xích của tội lỗi (Rô 8:17-23; Es 11:1-10), và Đấng Christ sẽ cai trị trong công bình và năng quyền.


Thật là một bài ca tuyệt diệu! Sự thờ phượng chúng ta sẽ phong phú biết bao nếu như chúng ta hoà trộn tất cả các lẽ thật này trong sự tôn cao Ngài!


Vì Những Gì Ngài Có (Kh 5:11-14).

Trong lời ngợi khen kết thúc này, tất cả các thiên sứ và muôn vật trong vũ trụ cùng hoà lòng thờ lạy Đấng Cứu Chuộc. Quả thật Giăng đã được nghe một suối hoà âm! Trong bài ca này, lời hát nói lên những điều Chúa Giê-xu Christ đáng nhận lãnh vì sự hy sinh chết thay của Ngài trên thập tự giá. Khi Ngài còn sống trên thế gian, con người không dâng những điều này lên cho Ngài vì Ngài đã chủ tâm bỏ sang một bên những điều này trong sự hạ mình của Ngài.


Ngài đã sinh ra trong sự yếu đuối và Ngài chết trong sự yếu đuối nhưng Ngài thừa kế tất cả mọi quyền bính. Ngài trở nên kẻ nghèo nhất trong những người nghèo (IICôr 8:9), nhưng Ngài nắm giữ mọi sự giàu có trên trời và dưới đất. Loài người cười nhạo Ngài và gọi Ngài là người điên tuy nhiên Ngài chính là Đấng khôn ngoan của Đức Chúa Trời (ICvr 1:24; Côl 2:3).


Ngài chia sẻ trong những yếu đuối của con người khi Ngài đói, khát, và mệt mỏi. Ngày nay trong vinh quang, Ngài có mọi sức mạnh. Trên thế gian, Ngài từng trải sự khinh hèn và xấu hổ khi tội nhân nhạo báng và mắng nhiếc Ngài. Họ chế nhạo chức vị vua của Ngài và mặc cho Ngài áo xống, đội mão gai trên đầu Ngài và bảo Ngài cầm cây gậy. Nhưng tất cả những điều đó bây giờ được đổi thay! Ngài đã nhận tất cả sự tôn quý và vinh hiển!


Và phước hạnh! Ngài trở nên sự rủa sả vì chúng ta trên thập tự giá (Ga 3:13), để chúng ta chẳng bao giờ bị ở dưới sự rủa sả của luật pháp. (Vài bản dịch viết là “sự ngợi khen” thay vì “phước hạnh”, nhưng trong tiếng Hy-lạp chữ này mang cả hai ý nghĩa). Ngài đáng được tất cả chúng ta ngợi khen!


Buổi thờ phượng lên đến cao điểm khi tất cả vũ trụ ngợi khen Chiên Con của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Cha ngự trên ngôi!


Và có tiếng đồng thanh hô vang “A-men” của bốn con sanh vật! Trên trời, chúng ta được phép nói “A-men! ”.


Hãy nhớ rằng tất cả lời ngợi khen này tập trung vào Chúa Giê-xu Christ, Đấng Cứu chuộc. Không phải tôn xưng Ngài là Giáo sư nhưng là Đấng Cứu Rỗi, Ngài là chủ đề của sự thờ phượng. Trong khi một người không tin có thể ca ngợi Đấng Sáng Tạo, chắc chắn người ấy không thể thực lòng ngợi khen Đấng Cứu Chuộc được.


Tất cả mọi người trên trời đều ngợi khen vì Chiên Con lấy cuốn sách từ tay Đức Chúa Cha. Kế hoạch đời đời vĩ đại của Đức Chúa Trời sẽ được ứng nghiệm, muôn vật sẽ được giải thoát khỏi xiềng xích tội lỗi và sự chết. Ngày kia khi Chiên Con sẽ mở các ấn , làm chuyển động các biến cố để cuối cùng dẫn đến việc Ngài trở lại trần gian lập nước của Ngài .


Khi dự phần trong những cuộc thờ phượng trên thiên đàng như vầy, lòng bạn có nói “A-men” với những gì họ đã hát không? Có thể bạn tin vào Đấng Christ là Đấng Sáng Tạo, nhưng Bạn đã tin Ngài làm Đấng Cứu Chuộc bạn chưa?

Nếu chưa, bạn có thực hiện ngay giờ này không?

“Này, Ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho, thì Ta sẽ vào cùng người ấy ăn bữa tối với người và người với Ta” (Kh 3:20)



 


5. CÁC ẤN VÀ NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC ĐÓNG ẤN (Kh 6:1-7:16)


Sự thờ phượng mô tả trong Kh 4:1–Kh 5:14 là sự chuẩn bị cho cơn thạnh nộ mô tả trong Kh 6:1-19:21. Có lẽ chúng ta lấy làm lạ khi sự thờ phượng và phán xét lại đi đôi với nhau. sở dĩ như vậy vì chúng ta không hiểu đầy đủ về đức thánh khiết của Đức Chúa Trời và tình trạng tội lỗi của con người. Chúng ta cũng không hiểu hết được toàn cảnh bức tranh Đức Chúa Trời muốn hoàn thành và các thế lực tội ác chống đối Ngài như thế nào. Đức Chúa Trời kiên nhẫn chờ đợi nhưng đến cuối cùng Ngài phải đoán phạt tội lỗi và bênh vực cho tôi tớ của Ngài.


Theo Da 9:27, bảy năm ấn định cho dân Y-sơ-ra-ên trong lịch tiên tri của Đức Chúa Trời, bắt đầu bằng việc ký kết một thỏa ước với nhà độc tài thế giới (Kẻ địch lại Đấng Christ), và kết thúc bằng việc Đấng Christ trở lại trần gian phán xét tội lỗi và lập nước của Ngài. Đó là giai đoạn được mô tả trong Kh 6:1-19:21. Qua việc liên hệ đến bố cục của Giăng (Kh 1:1-20), bạn hiểu rằng việc mô tả của ông chia làm ba phần: ba năm rưỡi đầu tiên (các chương 6-9), các biến cố vào giai đoạn giữa (các chương 10-14), và ba năm rưỡi còn lại (các chương 15-19).


Điều gì có ý nghĩa vào khoảng giữa của Cơn Đại Nạn? Đó là khi Kẻ địch lại Đấng Christ phá bỏ giao ước với dân Y-sơ-ra-ên và trở nên kẻ bắt bớ thay vì làm người bảo vệ che chở cho dân Y-sơ-ra-ên (Da 9:27).


Khi nghiên cứu mười bốn chương đầy dẫy các biến cố này, bạn hãy nhớ rằng Giăng viết nhằm an ủi con cái Đức Chúa Trời trong mọi thời kỳ của lịch sử Hội thánh. Ông không chỉ viết lời tiên tri sẽ được ứng nghiệm trong ngày cuối cùng nhưng còn viết về thần học và bày tỏ về bản thể của Đức Chúa Trời cũng như những nguyên tắc trong nước của Ngài.

Các chương này mô tả sự đối kháng giữa Đức Chúa Trời và quỉ Sa-tan, Thành Giê-ru-sa-lem mới và Ba-by-lôn cho dù nhà nghiên cứu có dùng “chìa khóa” nào để mở khoá đi vào sách Khải huyền đi nữa, họ cũng không thể nào không thấy Vua trên muôn vua được tôn cao khi Ngài bênh vực cho con cái Ngài và ban chiến thắng cho những người tin Ngài.


Vì Hội thánh chẳng bao giờ biết thời điểm Đấng Christ sẽ trở lại, cho nên mỗi thế hệ phải sống trong tinh thần chờ sẵn sự tái lâm của Ngài. Do đó, sách Khải-huyền phải chuyển tải lẽ thật đến cho mỗi thế hệ, chớ không dành cho những người còn đang sống khi các biến cố này xảy ra.

Các câu như Kh 13:9; Kh 16:15; Kh 22:7,18-20 đều cho biết sứ điệp của Giăng không bị giới hạn theo thời gian. Điều này còn giải thích tại sao vị sứ-đồ dùng quá nhiều biểu tượng, vì biểu tượng không hề mất đi ý nghĩa. Trong mỗi thời đại của lịch sử, Hội thánh đã chiến đấu chống lại Ba-by-lôn (so sánh Kh 18:4 với Giê 50:1-51:64) và Kẻ địch lại Đấng Christ (IGi 2:18). Kh 6:1-19:21 chỉ là cao điểm của cuộc chiến này.


Trong Kh 6:1-7:17 Giăng mô tả những ngày đầu của Kỳ Đại Nạn là thời gian báo thù, đáp ứng và chuộc tội.


1. Sự báo thù (Kh 6:1-8)

Trong phần này, Giăng ghi lại bốn ấn đầu tiên và khi mỗi ấn mở ra, một trong bốn con sanh vật kêu gọi người cỡi trên ngựa. (“Hãy đến xem” nên viết là, “Hãy đến! ”). Nói cách khác, những biến cố xảy ra trên thế gian bởi quyền chỉ huy trực tiếp của Đức Chúa Trời trên trời.


Hình ảnh con ngựa có thể liên quan đến khải tượng mô tả trong Xa 1:7-17. Ngựa tiêu biểu cho hoạt động của Đức Chúa Trời trên thế gian, Ngài dùng mọi sức mạnh để hoàn tất chương trình đời đời của Ngài. Trung tâm chương trình của Ngài là dân Y-sơ-ra-ên, nhất là thành phố Giê-ru-sa-lem. (Thành phố Giê-ru-sa-lem được đề cập đến ba mươi chín lần trong Xa-cha-ri). Đức Chúa Trời có kế hoạch giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, và kế hoạch đó sẽ được ứng nghiệm như Ngài đã hứa.


Bây giờ, chúng ta hãy thử nhận biết các con ngựa và người cỡi ngựa.


Kẻ Địch Lại Đấng Christ (Kh 6:1-2).

Tiên tri Đa-ni-ên nói rằng có một “vua sẽ đến” lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên để bảo vệ dân ấy thoát khỏi mọi kẻ thù (Da 9:26-27). Nói cách khác, con người độc tài cai trị thế giới trong tương lai bắt đầu sự nghiệp của mình là nhà kiến tạo hòa bình! Người sẽ đi từ thắng lợi này đến chiến thắng khác và cuối cùng cai trị toàn thế giới.


Một số người cho rằng người cỡi trên con ngựa trắng thực sự là biểu tượng về “Đấng Christ chiến thắng” ngày nay đang đánh bại các thế lực tội lỗi trong thế gian. Họ lấy Kh 19:11 làm bằng chứng, nhưng điều tương tự duy nhất đó là sự xuất hiện của con ngựa trắng. Nếu quả thật người cỡi ngựa này là Chúa Giê-xu Christ, thì có vẻ lạ là Ngài được xưng danh vào cuối sách chớ không vào đầu sách!


Chúng ta có thể nghĩ rằng Kẻ Chống Lại Đấng Christ giả danh Đấng Christ vì đó là điều quỷ Sa-tan bắt chước! Ngay cả người Giu-đa (biết nhiều về Kinh Thánh)cũng bị nó đánh lừa (Gi 5:43; IITês 2:1-12). Kẻ lừa dối vĩ đại sẽ đến trong vai trò nhà lãnh đạo hoà bình, tay cầm một cây cung không có tên! (Vũ khí của Chúa chúng ta là gươm Kh 19:15). Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ giải quyết những nan đề của thế giới và được mọi người tiếp nhận là Nhà Giải Phóng Vĩ Đại.


Chữ dùng nói đến mão miện trong câu 2 là stephanos, có nghĩa “mão miện của “người chiến thắng”. Mão miện Chúa Giê-xu Christ đội là diadema, “vương miện” (Kh 19:12). Kẻ địch lại Đấng Christ không thể nào đội được mão miện diadema, vì mão miện ấy chỉ thuộc về một mình Con Đức Chúa Trời.


Chắc chắn, trong một ý niệm ngày nay Chúa Giê-xu Christ đang chinh phục, khi Ngài cứu thoát con người ra khỏi xiềng xích tội lỗi và quỷ Sa-tan (Côl 1:13; Công 26:18). Nhưng việc chinh phục này bắt đầu bằng sự đắc thắng của Ngài trên thập tự giá và chắc chắn không phải đợi cho đến lúc mở ấn! Về sau chúng ta sẽ thấy hậu quả của các biến cố trong Kh 6:1-17 tương đương với những điều xảy ra do Chúa báo trước trong bài giảng trên núi Ô-li-ve và điều đầu tiên được đề cập đến là sự xuất hiện của những Christ giả (Mat 24:5).


 Chiến Tranh (Kh 6:3-4).

Kẻ địch lại Đấng Christ bắt đầu việc chinh phục bằng sự hoà bình, nhưng chẳng bao lâu nó thay đổi cây cung không có tên bằng thanh gươm. Màu đỏ thường liên quan đến sự gớm ghiếc và sự chết:con rồng màu đỏ (Kh 12:3), con thú màu đỏ (Kh 17:3). Đó là bức tranh mong muốn làm đổ huyết. Chiến tranh là một phần con người kinh nghiệm từ khi Ca-in giết A-bên em mình, do đó hình ảnh này sẽ bày tỏ cho tín-hữu ở mọi thời đại, nhắc họ nhớ rằng cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ cầm quyền cai trị, mặc dù Ngài không chịu trách nhiệm cho những việc làm vô pháp luật của con người và các nước.


Đói Kém (Kh 6:5-6)

Màu đen thường liên quan đến nạn đói (Gie 14:1-2; Ca 5:10). Đói kém và chiến tranh đi đôi với nhau. Nạn khan hiếm thực phẩm sẽ làm tăng vọt giá cả buộc chính phủ phải định mức những gì đã có.“Cân bánh trao cho các ngươi” là cụm từ cho thấy lương thực bị khan hiếm (Le 26:26).

Một đơ-ni-ê là lương căn bản của một ngày công lao động (Mat 20:2), nhưng dĩ nhiên sức mua của một đơ-ni-ê có giá trị hơn giá tiền tương đương với nó ngày nay. Một “đấu lúa mì” khoảng chừng hai pint (tương đương 0,5 lít) đủ cho nhu cầu hằng ngày của một người. Thông thường, một người có thể trả tiền một đơ-ni-ê mua tám đến mười hai đấu lúa mì, và còn nhiều hơn đối với lúa mạch là loại ngũ cốc giá nhẹ hơn.


Tuy nhiên, trong cơn Đại Nạn, một người sẽ phải lao động suốt ngày mới chỉ đủ lương thực cho chính bản thân mình! Anh ta sẽ không dành được gì cho gia đình mình cả! Lúc ấy, người giàu sẽ dư dật rượu và dầu. Chẳng lạ gì đến cuối cùng Kẻ địch lại Đấng Christ sẽ kiểm soát nền kinh tế (Kh 13:17) khi con người này hứa chu cấp lương thực cho quần chúng đói khát.


Sự Chết (Kh 6:7-8).

Sứ-đồ Giăng thấy hai con người: Sự chết cỡi trên con ngựa sắc vàng và Âm-phủ (vương quốc sự chết) đi theo nó. Đấng Christ cầm chìa khoá của sự chết và âm phủ (Kh 1:18), và ngày kia cả hai sẽ bị ném vào trong địa ngục (Kh 20:14). Sự chết đòi thân xác trong khi âm phủ đòi linh hồn người chết (Kh 20:13).

Giăng thấy những kẻ thù này, được trang bị bằng gươm dao, đói kém, bệnh tật (sự chết), và thú rừng, đi ra giành giựt lấy con mồi.Vào thời cổ xưa, đói kém, dịch lệ và sự tàn phá của động vật sẽ đi kèm với chiến tranh (Gie 15:2; Gie 24:10; Exe 14:21).


Những bạo chúa mang lại cho thế giới chiến tranh, đói kém, bệnh tật chắc chắn không phải là điều mới mẻ. Những người trải qua đau khổ từ thời đế quốc Rô-ma cho đến cuộc chiến gần đây nhất đều dễ dàng nhận ra những điều báo trước về bốn người cỡi ngựa đáng sợ này. Đây là lý do tại sao sách Khải-huyền là nguồn an ủi cho tín hữu bị hoạn nạn suốt lịch sử Hội thánh. Khi nhìn thấy Chiên Con mở ấn, họ nhận biết rằng Đức Chúa Trời đang cai trị và biết rằng chương trình của Ngài sẽ hoàn tất.


2. Phản ứng (Kh 6:9-17)

Giăng ghi lại hai phản ứng đối với việc mở các ấn, một phản ứng trên trời và một ở dưới đất.


Những Người Bị Giết Vì Đức Tin (Kh 6:9-11).

Khi thầy tế lễ trong Cựu-ước dâng con sinh tế, người đổ huyết con sinh nơi chân bàn thờ bằng đồng (Le 4:7,18,25,30). Trong hình ảnh Cưụ-ước, huyết tiêu biểu cho sự sống (Le 17:11). Vì vậy, trong Khải-huyền ở đây, linh hồn những người bị giết “ở dưới bàn thờ” cho thấy rằng họ đã hy sinh mạng sống vì vinh hiển Đức Chúa Trời. Sứ-đồ Phao-lô có cùng ý tưởng khi viết trong thơ Phi 2:17 và IITim 4:6).


Trong tiếng Hy-lạp, chữ martus, cho chúng ta chữ tiếng Anh martyr có nghĩa là “người làm chứng” (Kh 2:13; Kh 17:6). Các thánh đồ bị kẻ thù giết vì họ đã làm chứng cho lẽ thật của Đức Chúa Trời và vì họ rao ra sứ điệp của Chúa Giê-xu Christ. Các thế lực của Kẻ địch lại Đấng Christ không thừa nhận lẽ thật, vì quỷ Sa-tan muốn đánh lừa họ và muốn họ chấp nhận lời dối trá của nó (Kh 19:20; Kh 20:10; IITês 2:9-12).


Vì kẻ giết họ vẫn còn sống trên thế gian, nên có thể những người bị giết này hiện diện từ phần đầu của Cơn Đại Nạn. Nhưng họ tiêu biểu cho tất cả những người đã bỏ mình vì Chúa Giê-xu Christ và vì chân lý của Đức Chúa Trời, họ là niềm an ủi khích lệ cho tất cả mọi người ngày nay được kêu gọi nối tiếp bước chân của họ. Họ bảo đảm cho chúng ta rằng linh hồn của những người giết đang ở trên trời, đang chờ đợi sự sống lại (Kh 20:4), và chúng ta biết chắc rằng họ đang yên nghỉ và được mặc áo vinh hiển trên thiên đàng.


Nhưng có phải “Cơ-đốc nhân” cầu xin Chúa báo thù những kẻ đã giết hại các thánh-đồ không? Dẫu sao, cả Chúa Giê-xu và Ê-tiên đều cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ cho người đã giết mình. Tôi tin rằng khi các thánh tử đạo bị giết trên thế gian, họ cũng cầu nguyện cho những người giết họ và đây là điều nên làm (Mat 5:10-12,43-48).


Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng không phải kẻ thù của họ có bị đoán phạt không, nhưng mà là khi nào. “Ôi, hỡi Chúa, cho đến chừng nào?” là tiếng khóc than của con cái Đức Chúa Trời bị đau đớn trải qua nhiều thời đại. (Thi 74:9-10; Thi 79:5; Ha 1:2).

Các thánh đồ trên trời biết rằng cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ đoán xét tội lỗi và lập sự công chính trên đất, nhưng họ không biết chính xác ngày giờ của Đức Chúa Trời.

Họ không tìm cách trả thù cá nhân, nhưng họ tìm sự bênh vực thánh của Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài. Ngày nay, lời cầu nguyện, “Xin nước Ngài được đến!” của mọi tín-hữu chân thành còn đang vang vọng.


Đức Chúa Trời phán rõ với những người bị giết rằng sự hi sinh của họ là một cuộc hẹn, chớ không phải là tai nạn và những người khác cũng sẽ cùng tham gia với họ. Ngay cả sự chết của con cái Ngài, Đức Chúa Trời cũng đang cai trị (Thi 116:15) vì thế không có việc gì phải sợ.


Nhiều người khác nữa sẽ bị giết vì đức tin trước khi Chúa trở lại lập nước của Ngài. (Kh 11:7; Kh 12:11; Kh 14:13; Kh 20:4-5). Giống như ngày nay, lúc ấy dường như kẻ thù đang chiến thắng nhưng Đức Chúa Trời sẽ nói lời cuối cùng. Ngay cả trong thế kỷ hai mươi “văn minh tươi sáng” của chúng ta, cũng có hàng ngàn Cơ Đốc nhân bỏ mình vì Đấng Christ chắc chắn họ sẽ nhận lãnh mão triều thiên sự sống (Kh 2:10).


Những Cư Dân Trên Đất (Kh 6:12-17).

Những người bị giết khóc than, “Xin trả thù cho chúng con!” nhưng những kẻ vô tín lại kêu khóc, “Xin hãy che khuất chúng tôi!”. Sáu ấn được mở ra xảy đến sự rối loạn và thảm hoạ trên toàn thế giới, kể cả một trong ba cơn động đất dữ dội (Kh 6:12; Kh 11:13; Kh 16:18-19). Muôn vật đều bị ảnh hưởng: mặt trời, mặt trăng, ngôi sao và các tầng trời, các núi non, hải đảo. Hãy đối chiếu khung cảnh này với Gio 2:30-31 và Gio 3:15 cũng như so sánh Es 13:9-10 và Es 34:2-4.


Mặc dù Giăng dùng ngôn ngữ biểu tượng để viết, nhưng những câu này mô tả một quang cảnh gây hãi hùng, cả đến người can đảm nhất cũng hoảng sợ. Người ta sẽ tìm cách trốn khỏi mặt Đức Chúa Trời và Chiên Con! Hãy tưởng tượng cảnh người ta tìm cách chạy trốn khỏi một chiên con! Có lần tôi nghe Tấn sĩ Vance Havner nói rằng có một ngày miếng đất đắt giá nhất cũng chỉ là một hang ổ của loài gặm nhấm dưới đất và ông ta đã nói đúng.


Chúng ta sẽ gặp “cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời” nhiều hơn khi tiếp tục nghiên cứu suốt sách Khải-huyền (Kh 11:18; Kh 14:10; Kh 16:19; Kh 19:15). Chúng ta cũng gặp cơn nổi giận của quỷ Sa-tan (Kh 12:17) và sự giận hoảng của các nước khi họ chống nghịch Đức Chúa Trời (Kh 11:18). Nếu con người không vâng phục tình thương của Đức Chúa Trời, và được ân điển Đức Chúa Trời thay đổi, lúc ấy chẳng còn có phương cách nào giúp họ thoát khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời.


Giai cấp và sự giàu có sẽ không cứu được ai trong ngày

kinh khiếp ấy. Bản liệt kê của sứ-đồ Giăng bao gồm các vua, các quan trưởng, các nô lệ, người giàu và kẻ nghèo. “Ai có thể đứng nổi?”.


Cụm từ “cơn thạnh nộ của Chiên Con” là chuyện ngược đời. “Cơn thạnh nộ của sư tử”nghe hợp lý hơn. Chúng ta quá quen thuộc với việc đề cao sự khiêm nhu và hiền hoà của Đấng Christ (Mat 11:28-30) đến nỗi quên mất đức thánh khiết và sự công chính của Ngài. Cùng một Đấng Christ tiếp rước con trẻ trong đền thờ cũng đã đánh đuổi những kẻ buôn bán khỏi đền thờ ấy.

Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời không giống như cơn giận dữ của con trẻ hoặc hình phạt của bậc làm cha mẹ thiếu bình tĩnh. Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời là bằng chứng của tình yêu thương thánh khiết của Ngài dành cho tất cả mọi người ngay thẳng và là dấu ghét thánh của Ngài dành cho tất cả những người sống gian ác. Chỉ có người mềm yếu đa cảm mới muốn thờ lạy một Đức Chúa Trời không ngay thẳng trừng phạt sự gian ác trong thế gian.


Hơn nữa, con người đề cập ở đây là người không ăn năn. Họ từ chối không chịu vâng phục ý chỉ Đức Chúa Trời. Họ muốn trốn khỏi Đức Chúa Trời trong nỗi sợ hãi hơn là chạy đến với Ngài trong đức tin (nhớ lại câu chuyện của A-đam và Ê-va). Họ là bằng chứng cho thấy chính sự đoán xét không thay đổi lòng con người. Con người không chỉ tìm cách trốn chạy khỏi Đức Chúa Trời, nhưng họ còn nói phạm đến Ngài nữa! (Kh 16:9,11,21).

Nhưng có hy vọng nào cho các tín hữu trong thời gian xảy ra cơn đoán phạt khủng khiếp này không? Và còn tuyển dân của Đức Chúa Trời, dân Do-thái, đã lập giao ước với Kẻ địch lại Đấng Christ thì sao? Chắc chắn đây là những người tin cậy Chúa sau khi Hội thánh được cất lên trời, nhưng họ sẽ xoay xở ra sao? Chúng ta chuyển qua Kh 7:1-17 để tìm lời giải đáp.


Nhưng trước khi xem xét chủ đề thứ ba của Giăng trong phần này - Ơn cứu chuộc - chúng ta nên lưu ý những điểm tương đồng giữa lời tiên tri của Chúa Giê-xu ghi lại trong Mat 24:1-51 và lời Giăng viết trong Kh 6:1-17. Bản tóm tắt sau đây cho thấy rõ.


-Ma-thi-ơ 24

-Khải huyền 6

Người cỡi ngựa trắng (cc.1-2)

Những Christ giả (c.4-5)

Chiến tranh (c.6)

Con ngựa đỏ - chiến tranh (c.3-4)

Đói kém (c.7a)

Con ngựa đen - đói kém (c.5-6)

Sự chết (c.7b-8)

Con ngựa sắc vàng - sự chết (c.7-8)

Các thánh tử đạo (c.9)

Các thánh tử đạo dưới bàn thờ (c.9-11)

Toàn thế giới hỗn loạn (c.10-13)

Toàn thế giới hỗn loạn (c.12-17)

Mat 24:14 giới thiệu sự rao giảng Phúc-Âm về nước thiên đàng cho khắp thế giới, điều này có thể phù hợp với Kh 7:1-17. Đức Chúa Trời có thể dùng 144.000 người Giu-đa đã được đóng ấn đi rao báo lời của Ngài cho thế giới, đem lại sự cứu rỗi cho vô số người.


3. Sự cứu chuộc (Kh 7:1-17)

Thật quan trọng khi chúng ta đối chiếu hai nhóm người được mô tả trong chương này:


Khải-huyền 7:1-8

Khải-huyền 7:9-17

Người Giu-đa

Dân ngoại từ tất cả các nước

Số người đếm được 144.000.

Số người không đếm được

Những người được đóng ấn trên đất

Những người đang đứng trên trời trước mặt Đức Chúa Trời.

Trong khi Kinh Thánh không cho chúng ta biết dứt khoát 144.000 người Giu-đa là những chứng nhân đặc biệt của Đức Chúa Trời, và dân ngoại được cứu qua sứ mạng của họ, đây có vẻ là một kết luận hợp lý nếu không thì tại sao họ được đề cập trong chương này ? Điều tương ứng trong Mat 24:14 còn cho thấy rằng 144.000 sẽ làm chứng cho Chúa suốt kỳ Đại Nạn.


 Những Người Giu-Đa Được Đóng Ấn (Kh 7:1-8). Thiên sứ liên quan đến sức mạnh của thiên nhiên: gió (Kh 7:1), lửa (Kh 14:18), và nước (Kh 16:5) Cầm các hướng gió lại ám chỉ đến “giai đoạn yên lặng trước cơn bão”. Đức Chúa Trời đang cai trị muôn vật. Suốt thời kỳ thạnh nộ của Ngài, Ngài sẽ dùng sức mạnh của thiên nhiên để đoán phạt con người. Cụm từ “bốn góc đất” ở đây “không có phản khoa học” hơn trong Es 11:12 hoặc trên tờ nhật báo.


Trong Kinh Thánh, ấn chỉ về quyền sở hữu và sự che chở. Ngày nay, con cái Đức Chúa Trời được Đức Thánh Linh đóng ấn (Eph 1:13-14). Đây là điều Đức Chúa Trời đảm bảo chúng ta đã được cứu và an toàn, ngày kia Ngài sẽ tiếp rước chúng ta về trời. 144.000 người Giu-đa sẽ nhận lấy danh Đức Chúa Cha làm ấn chí cho mình (Kh 14:1), ngược lại với “dấu con thú” mà Kẻ Nghịch Lại Đấng Christ ban cho người theo nó (Kh 13:17; Kh 14:11; Kh 16:2; Kh 19:20).


Ấn chí này sẽ bảo vệ những người Giu-đa được chọn thoát khỏi cơn đoán phạt sẽ “hủy hoại đất và biển” (Kh 7:2), xảy ra khi bốn vị thiên-sứ đầu tiên thổi kèn của mình (Kh 8:1-13). Các cơn đoán phạt càng gia tăng khi nạn châu chấu bay ra từ vực sâu (Kh 9:1-4). Được che chở khỏi những cơn đoán phạt kinh khiếp, 144.000 người này sẽ làm xong được công việc của mình và làm vinh hiển danh Chúa.


Ở mỗi thời kỳ, Đức Chúa Trời đều có số người còn sót lại sống trung tín với Ngài.Tiên tri Ê-li nghĩ rằng chỉ còn một mình ông, nhưng Đức Chúa Trời để dành 7.000 người thành tâm kính sợ Ngài (IVua 19:18).

Việc đóng ấn mô tả trong Kh 7:1-17 chắc chắn có gốc tích trong Exe 9:1-7 ghi lại những kẻ trung tín được đóng ấn trước khi Đức Chúa Trời trút đổ cơn đoán phạt của Ngài. Vì vậy, trong khi số 144.000 người Giu-đa này là tuyển dân của Đức Chúa Trời trong ngày cuối cùng được Đức Chúa Trời giao nhiệm vụ đặc biệt, ho còn là biểu tượng cho những người trung tín được Ngài chọn lựa trong mọi giai đoạn lich sử.


Con số 144.000 người thật có ý nghĩa vì nó nói lên sự trọn vẹn và hoàn toàn (144 =12 x 12). Ở đây một số người hiểu sự vẹn toàn của tất cả con cái Đức Chúa Trời: mười hai chi phái dân Y-sơ-ra-ên (các thánh-đồ trong Cưụ-ước) và mười hai sứ-đồ (các thánh-đồ trong Tân-ước).

Có thể đây là ứng dụng tốt cho đoạn văn này, nhưng đó không phải là lời giải thích căn bản vì Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng 144.000 người này đều là người Giu-đa, ngay cả các chi phái của họ cũng được xưng danh.


Có lần một người nói với tôi rằng ông ta là một trong số 144.000 vì thế tôi hỏi ông ta, “Ông thuộc về chi phái nào vậy, có thể chứng minh cho tôi được không?”.

Dĩ nhiên, ông ta không chứng minh được, ngày nay chẳng có người Giu-đa nào chứng minh được mình xuất thân từ dòng dõi nào. Các bản gia phả đã bị phá huỷ hết cả. Ngay cả việc mười chi phái bị quân A-si-ri bắt và “lạc mất” cũng không phải là điều khó hiểu đối với Đức Chúa Trời. Ngài biết con dân Ngài và nơi họ ở (Mat 19:28; Công 26:7; Gia 1:1).


Điều này không nói rằng việc chúng ta hiểu đoạn văn này theo nghĩa đen có vấn đề. Tại sao chi phái Lê-vi được kể vào khi chi phái ấy không có sản nghiệp như các chi phái khác? (Dan 18:20-24; Gios 13:14). Tại sao chi phái Giô-sép được nêu tên nhưng không phải là Ép-ra-im, thường được nhắc đến cùng với người anh em mình là Ma-na-se? Sau hết, tại sao chi phái Đan không được nhắc đến ở đây nhưng lại có tên trong danh sách của tiên tri Ê-xê-chi-ên được chia phần đất làm sản nghiệp? (Exe 48:1).

Người ta đưa ra nhiều đề nghị, nhưng chúng ta không biết câu trả lời. Cho dù chúng ta hiểu đoạn văn này theo nghĩa thuộc linh (tức là, dân Y-sơ-ra-ên là Hội thánh), chúng ta cũng chẳng có gì chắc chắn hơn. Chúng ta nên để cho Đức Chúa Trời biết “những điều kín giấu”, và không được để cho sự dốt nát ngăn trở chúng ta không vâng theo những gì chúng ta biết (Phuc 29:29)


Những Người Ngoại Bang Được Cứu (Kh 7:9-17).

Bạn không thể đọc sách Khải-huyền mà không có cái nhìn toàn cầu, vì điểm nhấn mạnh nhắm vào những gì Đức Chúa Trời làm ra trên dân sự toàn thế giới. Chiên Con chết để cứu chuộc con người “mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc, mọi nước” (Kh 5:9). Đám đông lớn vô số đươc mô tả ở đây đến từ “mọi nước, mọi chi phái, mọi dân tộc, mọi tiếng” (Kh 7:9). “Hãy đi khắp thế gian giảng Phúc-Âm cho mọi người” (Mac 16:15).


Về phần ai là đám đông vô số này thì không có gì nghi ngờ nữa, vì một vị trong các trưởng lão đã giải thích cho Giăng (c.14): họ là dân ngoại bang đã được cứu bởi đức tin trong Đấng Christ suốt Cơn Đại Nạn. (Chúng ta sẽ gặp lại đám người trong Kh 14:1-20).


Ngày nay, hầu hết mọi nơi trên thế giới, người ta có thể xưng nhận Đấng Christ cách tương đối dễ dàng, trong khi đó điều này không thể thực hiện được trong Cơn Đại nạn, ít ra cũng trong giai đoạn chót của Cơn Đại Nạn. Lúc ấy, nếu ai không mang “dấu con thú”, họ sẽ không mua bán gì được điều này sẽ làm cho họ không thể có ngay cả những nhu cầu thiết yếu cho sự sống. Câu 16 cho thấy họ chịu đói (Kh 13:17), khát (Kh 16:4), và thiếu nơi cư ngụ. (Dưới sức nóng của mặt trời, Kh 16:8-9)


Sự việc họ đang đứng trước ngai chớ không ngồi chung quanh ngôi cho thấy họ không ngang bằng với hai mươi bốn trưởng lão. Thực ra, chính Giăng không biết họ là ai! Nếu họ là những người tin trong Cựu-ước, hoặc là Hội thánh, chắc sứ-đồ Giăng đã nhận ra họ rồi. Điều vị trưởng lão phải nói cho Giăng biết họ là ai cho thấy rằng họ là những người đặc biệt, và quả thật như vậy.


Dĩ nhiên, tại thành phố trên trời (Kh 21:1-22:21), mọi khác biệt sẽ không còn, tất cả chúng ta chỉ là dân sự của Đức Chúa Trời trong sự vinh hiển. Nhưng trong lúc Đức Chúa Trời còn đang thi hành chương trình của Ngài trên lịch sử loài người, những khác biệt giữa dân Do-thái và người ngoại bang, Hội thánh và các thánh đồ trong Cơn Đại Nạn vẫn tồn tại.

Giăng đưa ra lời mô tả tốt đẹp về những người này.


-Trước tiên, họ được chấp nhận,

Vì đứng trước ngôi Đức Chúa Trời và Chiên Con. Rất có thể họ đã bị cư dân trên đất từ bỏ vì bênh vực cho lẽ thật trong lúc sự dối trá lan tràn và quỷ Sa-tan đang cầm quyền. Áo xống trắng và nhành chà là biểu tượng cho chiến thắng: họ là những người thực sự đã đắc thắng! Người Do-thái dùng nhành chà là trong lễ Lều Tạm (Lê 23:40-43), đó là thời gian đặc biệt cả nước reo mừng hớn hở.


-Kế đến, họ vui mừng.

Họ hát ngợi khen Đức Chúa Cha và Chiên Con và hiệp với tất cả mọi người chung quanh ngôi thờ lạy Đức Chúa Trời.


-Thứ ba, họ được ban thưởng.

Họ có đặc ân đứng trước ngôi Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài. Khi con dân Đức Chúa Trời được cất lên trời, tại đó sẽ có việc để làm! Chúng ta sẽ hầu việc Chúa cách trọn vẹn! Chiên Con sẽ chăn dắt chúng ta và làm cho chúng ta thỏa mãn mọi điều tốt lành (Es 49:10; Kh 21:4).


Ấn thứ bảy mở ra giới thiệu bảy “tiếng kèn đoán phạt” (Kh 8:1-11:19) và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời sẽ gia tăng cả về cường độ lẫn phạm vi. Nhưng trước khi điều đó xảy ra, Đức Chúa Trời đảm bảo cho chúng ta rằng trong cơn đoán phạt của Ngài, Đức Chúa Trời cũng nhớ lại lòng thương xót của Ngài (Ha 3:2).

Mặc dầu có cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời và sự kinh hoàng do Sa-tan và những kẻ giúp đỡ nó gây ra, vô số người cũng được cứu bởi huyết báu Chúa Giê-xu Christ. Cho dù ở giai đoạn nào hoặc thời đại nào đi nữa, phương cách cứu rỗi của Đức Chúa Trời vẫn như nhau: đặt lòng tin vào Chúa Giê-xu Christ, Chiên Con của Đức Chúa Trời.


Tuy nhiên, thật buồn mà nói trong thời gian ấy cũng có vô số người chối bỏ Đấng Cứu Chuộc và tin vào “con thú”. Nhưng ngày nay không có người thích quỉ Sa-tan hơn Đấng Christ và thích thế gian này hơn thế giới hầu đến sao? Họ bị lên án giống như những tội nhân nhận lấy “dấu con thú” trong Cơn Đại Nạn.


Nếu bạn chưa hề tin nhận Đấng Cứu Chuộc, hãy làm điều đó ngay giờ này.


Nếu bạn đã tin nhận Ngài, vậy hãy chia sẻ Phúc-Âm Cứu Rỗi cho những người khác để họ có thể được cứu thoát khỏi cơn thạnh nộ sắp đến.



 


6. HÃY THỔI KÈN LÊN (Kh 8:1-9:21)


Các ấn đoán phạt đã qua, tiếng kèn xử phạt sắp vang lên. Theo sau những tiếng kèn này là các bát thạnh nộ, cuối cùng thành Ba-by-lôn bị phá huỷ và Đấng Christ trở lại thế gian. Hãy lưu ý từ các ấn đoán phạt qua tiếng kèn đến các bát thạnh nộ, cường độ đoán phạt cứ ngày càng gia tăng. Cũng hãy lưu ý tiếng kèn và các bát thạnh nộ giáng xuống cùng những khu vực giống nhau, như bản tóm tắt minh họa sau đây:

Những tiếng kèn

Sự đoán phạt

Các bát thạnh nộ

1. Kh 8:1-7

đất

Kh 16:1-2

2. Kh 8:8-9

biển

Kh 16:3

3. Kh 8:10-11

các sông

Kh 16:4-7

4. Kh 8:12-13

các tầng trời

Kh 16:8-9

5. Kh 9:1-2

loài người -sự đau đớn

Kh 16:10-11

6. Kh 9:13-21

quân đội

Kh 16:12-16

7. Kh 11:15-19

các nước nổi giận

Kh 16:17-21

Các tiếng kèn đoán phạt thổi vang suốt phần đầu của Cơn Đại Nạn, các bát thạnh nộ trút xuống suốt phần sau của Cơn Đại Nạn, còn gọi là “cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời” (Kh 14:10; Kh 15:7). Các tiếng kèn đoán phạt tương ứng với các tai vạ Đức Chúa Trời sai đến trong xứ Ai-cập. Tại sao không? Nói cho cùng, cả thế giới đều sẽ nói như Pha-ra-ôn, “Ai là Chúa để chúng ta phải hầu việc Ngài?”.


Ấn thứ bảy mở ra và sáu tiếng kèn đầu tiên thổi lên đem lại ba kết quả thật ấn tượng.


1. Sự chuẩn bị (Kh 8:1-6)

Việc chuẩn bị này bao gồm hai yếu tố: sự yên lặng (Kh 8:1) và sự cầu xin (Kh 8:2-6).


Các thánh trên trời vừa thờ lạy Đức Chúa Cha và Chiên Con bằng một bài ca ngợi hùng tráng (Kh 7:10-12). Nhưng khi Chiên Con mở ấn thứ bảy, trên trời yên lặng độ chừng ba mươi phút. Giăng không cho chúng ta biết nguyên nhân nào gây ra cảnh yên lặng này, nhưng có vài khả năng. Cuốn sách giờ đây hoàn toàn, thậm chí sách còn được lật ngược lại khắp trời có thể nhìn thấy chương trình vinh hiển của Đức Chúa Trời mở ra. Có lẽ các thánh trên trời lấy làm kinh hoảng về điều họ nhìn thấy.


Chắc chắn, cảnh yên lặng này là “sự lặng im trước cơn bão”, vì các cơn đoán phạt kinh khiếp của Đức Chúa Trời sắp làm hại đến trái đất. “Hãy nín lặng ở trước mặt Đức Giê-hô-va, vì ngày của Đức Giê-hô-va đã gần” (So 1:7,14-18, nhất là c.18, “Ngày mà tiếng kèn”). “Mọi xác thịt, khá nín lặng trước mặt Đức Giê-hô-va: vì Ngài đã thức dậy từ nơi ngự thánh của Ngài” (Xa 2:13). “Đức Giê-hô-va ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài cả đất hãy làm thinh” (Ha 2:20)


Bảy thiên sứ được trao kèn trong suốt thời gian yên lặng này, điều này có ý nghĩa với Giăng vì ông là người Giu-đa hiểu được vị trí của cây kèn trong đời sống của dân Y-sơ-ra-ên. Theo Dan 10:1-36 cây kèn có những công dụng quan trọng:tiếng kèn dùng để tụ họp dân chúng (c.1-8) thông báo chiến tranh (c.9) và cho biết những thì giờ đặc biệt (c.10).

Tiếng kèn thổi vang trên núi Si-nai khi Đức Chúa Trời ban Luật Pháp cho dân sự (Xu 19:16-19), người ta thổi kèn khi một người được xức dầu làm vua và làm lễ đăng quang (IVua 1:34,39). Dĩ nhiên, người nào quen thuộc Cựu-ước cũng sẽ nhớ tiếng kèn phá đổ vách thành Giê-ri-cô (Gios 6:13-16).


Sứ-đồ Giăng nghe tiếng phán của Chúa Giê-xu Christ vang lên như tiếng kèn (Kh 1:10). Tiếng kèn gọi Giăng lên trời (Kh 4:1), tiếng kèn cũng nói đến lời hứa của Chúa cất Hội thánh Ngài lên trời chép trong ITês 4:13-18. Bảy tiếng kèn vang lên chắc chắn báo tin có chiến tranh xảy ra, cũng như loan tin Vua được Đức Chúa Trời xức dầu ngự trên ngôi vinh hiển Ngài và thông báo kỳ đoán phạt kẻ thù của Đức Chúa Trời đã đến (Thi 2:1-5). Tiếng kèn đã làm sụp đổ thành Giê-ri-cô khi xưa như thế nào, trong ngày cuối cùng cũng phá đổ thành Ba-by-lôn thể ấy.


Theo sau cảnh yên lặng đáng sợ là các hành động của vị thiên sứ đặc biệt nơi bàn thờ bằng vàng trên trời (Kh 9:13; Kh 14:18; Kh 16:7). Trong đền tạm và đền thờ, bàn thờ bằng vàng đặt trước bức màn và được dùng làm nơi dâng của lễ thiêu (Xu 30:1-10). Đây là chức vụ tiên tri Xa-cha-ri đang thi hành lúc thiên sứ phán với ông rằng Ê-li-sa-bét sẽ có con (Lu 1:5). Của lễ thiêu dâng trên bàn thờ là hình ảnh của lời cầu nguyện dâng lên cho Đức Chúa Trời (Thi 141:2).


“Lời cầu nguyện của các thánh” (Kh 8:4) không phải là lời cầu xin của một nhóm người đặc biệt trên trời đã đạt đến “bậc thánh”. Trước tiên, tất cả con cái Đức Chúa Trời đều là thánh nhân - được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời - bởi đức tin trong danh Chúa Giê-xu Christ (IICôr 1:1; IICôr 9:1,12 IICôr 13:13).

Trong Kinh Thánh không có lời dạy cụ thể nào cho biết con dân trên trời cầu thay cho con cái Chúa trên thế gian, hoặc chúng ta có thể thưa chuyện với Đức Chúa Trời thông qua các thánh trên trời. Chúng ta cầu nguyện với Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Con, vì một mình Ngài mới có quyền làm Đấng Trung gian (Kh 5:3).

Trải qua nhiều thế kỷ, con cái Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục cầu nguyện, “Nước Cha được đến, Ý Cha được nên!” và hiện nay những lời cầu nguyện ấy sắp được nhậm. Cũng vậy, các thánh tử đạo trong Cơn Đại Nạn cầu xin Đức Chúa Trời bênh vực cho họ (Kh 6:9-11), lời cầu xin bình thường của vua Đa-vít chép trong Thi-Thiên (Thi 7:1-17; Thi 26:1-12; Thi 35:1-28; Thi 52:1-9; Thi 55:1-23 Thi 58:1-11). “Các Thi-thiên rủa sả” này không có ý nói lên tư tưởng trả thù cá nhân, nhưng đúng hơn là tiếng kêu khóc xin Đức Chúa Trời thi hành Luật Thánh Khiết của Ngài và bênh vực cho con cái Ngài.


Trong Ngày Đại lễ Chuộc Tội, thầy tế lễ thượng phẩm bỏ hương trên than cháy đỏ trong lư hương với huyết con sinh và mang vào trong nơi chí thánh tại trước mặt Đức Giê-hô-va (Lê 16:11-14). Nhưng trong bối cảnh này, thiên sứ đặt hương trên bàn thờ (trình dâng những lời cầu xin lên trước mặt Đức Chúa Trời) và rồi quăng lư hương xuống đất!

Điểm tương ứng trong Exe 10:1-22 cho thấy điều này biểu tượng cho cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời và những hậu quả mô tả trong Kh 8:5 minh chứng cho quan điểm này. Cơn bão sắp bắt đầu hoành hành! (Kh 4:5; Kh 11:19; Kh 16:18).


Dù thích hoặc không, lời cầu nguyện của con cái Đức Chúa Trời có liên quan đến các cơn đoán phạt Ngài đổ xuống trên con loài người. Ngôi và bàn thờ được nhắc đến.Như người ta thường nói dù cho lời cầu xin có liên quan đến sự đoán phạt đi nữa, mục đích của lời cầu xin không phải để cho ý người được thành trên trời, nhưng là để ý chỉ của Đức Chúa Trời được nên trên thế gian. Lời cầu nguyện thật lòng là việc làm nghiêm túc, vì thế tốt hơn hết chúng ta không nên dời bàn thờ cách xa ngôi ngự của Ngài!


2. Sự hoang vu (Kh 8:7-13)

Bốn tiếng kèn đầu tiên thuộc về “tự nhiên” tác động đến đất, nước biển, nước sông và các thiên thể. Tiếng kèn thứ năm thứ sáu bao gồm việc thả các lực lượng của ma quỉ trước tiên làm hại con người, sau đó giết chết họ. Tiếng kèn cuối cùng (Kh 11:15-19) gây nên cơn khủng hoảng giữa các nước trên thế giới.


Sự Huỷ Diệt Trên Mặt Đất (Kh 8:7).

“Mưa đá và lửa pha với huyết” nhắc chúng ta nhớ đến tai vạ thứ bảy Đức Chúa Trời làm ra tại Ai-cập (Xu 9:18-26). Đấng Tiên tri Giô-ên cũng nói đến lời hứa về “máu và lửa” trong ngày cuối cùng (Gio 2:30). Vì đây là sự đoán phạt siêu nhiên, cho nên không cần phải giải thích mưa đá, lửa và huyết được pha trộn với nhau như thế nào. Có thể “Lửa” liên quan đến ánh chớp của cơn bão điện cực mạnh.


Cơn đoán phạt này nhằm vào những loài cây xanh cây cối và cỏ xanh, một phần ba màu xanh thiên nhiên bị đốt cháy. Chúng ta có thể tưởng tượng ra nạn cháy này ảnh hưởng ra sao khi nó không những tác động đến sự cân bằng hệ sinh thái nhưng còn ảnh hưởng đến nguồn lương thực nữa. Trong tiếng Hy-lạp chữ loài cây thường thường có nghĩa “cây ăn trái” và thảm cỏ bị đốt cháy sẽ làm tiêu tan các ngành công nghiệp chế biến thịt và sữa.


Sự Huỷ Diệt Trên Biển (Kh 8:8-9).

Nước biến thành huyết nhắc chúng ta nhớ tai vạ đầu tiên tại Ai-cập (Xu 7:19-21). Chúng ta chú ý sứ đồ Giăng không nói rằng một ngọn núi thực sự đang cháy bị quăng xuống biển, nhưng ông nói đến một khối toàn bằng lửa tựa như hòn núi lớn. Cơn đoán phạt dẫn đến ba kết quả: một phần ba biển biến thành huyết, phần ba động vật biển bị chết, và phần ba tàu thuyền bị phá huỷ. Điều này sẽ là tai hoạ về kinh tế và môi trường sống chưa từng có từ trước tới nay.


Khi hiểu đại dương chiếm ba phần tư bề mặt quả đất, bạn có thể tưởng tượng ra mức độ của cơn đoán phạt này. Nguồn nước bị ô nhiễm khiến vô số sinh vật bị chết sẽ tác động lớn đến sự cân bằng sự sống trong đại dương, và hẳn nhiên điều này sinh ra những khó khăn không thể nào giải quyết được. Như vào ngày 1 tháng 1 năm 1981, có 24.867 tàu buôn chạy ngoài đại dương đăng ký kinh doanh. Hãy thử nghĩ làn sóng kinh hoàng đổ ập vào kỹ nghệ tàu biển như thế nào nếu 8.289 chiếc tàu có giá trị thình lình bị phá huỷ! Rồi hàng hoá trên các chiếc tàu ấy sẽ ra sao!


Một số nhà giải nghĩa hiểu “biển” nghĩa là Biển Địa Trung Hải. Tuy nhiên, điều này sẽ gây tác động tương đối nhỏ trên thế giới, vì Địa Trung Hải chỉ chiếm 969.100 dặm vuông và chỉ sâu trung bình 5.000 bộ. Rất có thể mọi sinh vật chính yếu trong biển cả bị chết trong cơn đoán phạt này.


Sự Huỷ Diệt Trên Sông Suối (Kh 8:10-11).

Cơn thạnh nộ kế tiếp của Đức Chúa Trời đụng đến đất liền, chạm vào các sông suối cùng các nguồn nước (giếng và các nguồn nước sông), làm cho nước đắng như ngải cứu. Hội Địa Dư Quốc Gia liệt kê được khoảng 100 con sông chính trên thế giới, xếp hạng theo độ dài từ sông A-ma-dôn (dài 4.000 dặm) cho đến sông Rio de la Plata (dài 150 dặm). Cục Thăm Dò Địa Lý Hoa-Kỳ cho biết có ba mươi con sông lớn tại Mỹ, bắt đầu là sông Mississippi (dài 3.710 dặm). Một phần ba các sông này và các nguồn của chúng sẽ bị nhiễm chất đắng gây chết người.


Đức Chúa Trời đếm và gọi tên các ngôi sao Ngài (Giop 9:9-10). Rất có thể ngôi sao này rơi xuống và tan bể ra khi đến gần trái đất, nó phân huỷ thấm vào các nguồn nước khác nhau. Nếu ngôi sao thật sự đụng vào trái đất, quả cầu chúng ta sẽ bị tiêu diệt vì vậy ngôi sao này phải “vỡ vụn ra” khi xâm nhập vào tầng khí quyển.Dĩ nhiên, biến cố này là cơn đoán phạt do Đức Chúa Trời điều hành do đó, chúng ta không nên tìm cách giới hạn nó bằng những quy luật khoa học đã biết.


Chữ đã dịch là ngải cứu cho chúng ta chữ tiếng Anh là absinthe (cây ngải apxin), là loại rượu mùi nổi tiếng ở một số nước trên thế giới. Từ này có nghĩa “không thể uống được”, và trong Cựu-ước nó đồng nghĩa với sự phiền muộn và tai họa lớn.

Tiên tri Giê-rê-mi, “Vị Tiên Tri Than Khóc”, thường dùng từ này (Giê 9:15; Giê 23:15; Ca 3:15,19), tiên tri A-mốt cũng dùng chữ này (Am 5:7 “Các ngươi đổi sự công bình ra ngải cứu”). Môi-se cảnh cáo dân sự rằng thờ thần tượng sẽ đem lại sự đau buồn cho dân Y-sơ-ra-ên, giống như rễ sanh ra vật độc và ngải cứu (Phuc 29:18). Vua Sa-lô-môn cho biết sự dâm loạn dường như ngọt mật nhưng đến cuối cùng nó trở thành đắng như ngải cứu (Ch 5:4).


Nếu người nào uống từ những nguồn nước này sẽ có nguy cơ tử vong, điều gì phải xảy đến cho loài cá và các sinh vật sống trong nước? Và điều gì xảy ra cho các cây cỏ mọc gần những con sông này? Nếu ngày nay các nhà nghiên cứu sinh thái lo lắng về những hậu quả độc hại của nguồn nước bị ô nhiễm, họ sẽ nghĩ gì khi tiếng kèn thứ ba thổi vang?


Ở đây không có điểm tương ứng trực tiếp nào với các tai vạ tại Ai-cập. Tuy nhiên, sau khi ra khỏi Ai-cập, dân Y-sơ-ra-ên uống phải nước đắng tại Ma-ra (Ma-ra có nghĩa là “cay đắng”) và Môi-se phải làm cho nguồn nước trong lành (Xu 15:23-27). Nhưng chẳng có sự trong lành nào có sẵn trong thời gian Cơn Đại Nạn xảy ra.


Sự Huỷ Diệt Trên Các Từng Trời (Kh 8:12-13).

Ba tiếng kèn đoán phạt đầu tiên chỉ ảnh hưởng đến một phần ba đất đai và sông suối, nhưng cơn đoán phạt thứ tư tác động đến toàn thế giới. Tại sao như vậy? Vì nó đụng đến chính nguồn sự sống và năng lượng của trái đất, đó là mặt trời. Với một phần ba ánh sáng mặt trời bị thiếu đi, một phần ba năng lượng cung cấp cho sự sống của con người và vạn vật cũng bị cắt giảm.


Cơn đoán phạt này tương đương với tai vạ thứ chín tại Ai-cập (Xu 10:21-23) kéo dài đến ba ngày. “Ngày của Đức Giê-hô-va là ngày tối tăm, không phải là ngày ánh sáng” (Am 5:18). Hãy nghĩ đến những thay đổi to lớn về nhiệt độ sẽ xảy ra và những đổi thay này sẽ ảnh hưởng ra sao đến sức khỏe con người và sự lớn lên của các cây lương thực.


Có thể cơn đoán phạt đặc biệt này chỉ kéo dài một thời gian, vì bát thạnh nộ thứ tư sẽ thay đổi ngược lại, sức nóng mặt trời được tăng lên (Kh 16:8-9). Sau đó, mặt trời và mặt trăng sẽ bị tối trở lại báo hiệu Đấng Cứu Chuộc tái lâm vào lúc kết thúc Cơn Đại nạn (Mat 24:29-30; Lu 2:25-28).


Lời đấng tiên tri Giô-ên rao báo, “Hãy thổi kèn trong Si-ôn, vì ngày của Đức Giê-hô-va đến...ngày mờ mịt và tối tăm” (Gio 2:1-2). Quả thật là tối tăm! Không những muôn vật sẽ chịu đau khổ mất mát, nhưng con người cũng lợi dụng sự tối tăm kéo dài này để say sưa buông mình vào tội ác và việc làm gian tà. “Ai làm ác thì ghét sự sáng” (Gi 3:20).


Vào lúc này, một sứ-giả đặc biệt xuất hiện trên bầu trời rao báo nỗi thống khổ giáng xuống cư dân trên đất. Hầu hết các bản thảo Kinh Thánh đều nói đến “chim phụng hoàng” thay cho “thiên-sứ”, nhưng dầu thiên sứ hay chim phụng hoàng chắc chắn cũng tạo được sự chú ý của dân chúng!

Đây có thể là con sanh vật hình chim phụng hoàng sứ-đồ Giăng nhìn thấy đang thờ lạy trước ngôi không? (Kh 4:7-8). Đức Chúa Trời có sai con sanh vật ấy vào sứ mạng đặc biệt này không? Chúng ta không thể nói chắc được, nhưng cũng có khả năng lắm.


Ba lời “than vãn” trong câu 13 liên quan đến những cơn đoán phạt chưa xảy ra lúc ba thiên-sứ còn lại thổi kèn. Dường như sứ-giả kêu lên, “Nếu các ngươi cho rằng cơn đoán phạt này khủng khiếp, thì hãy đợi! Cơn đoán phạt khiếp sợ hơn chưa xảy đến đâu!”


Cụm từ “những dân sự trên đất” (hoặc những người cư ngụ trên đất”) xuất hiện mười hai lần trong sách Khải-huyền (Kh 3:10; Kh 6:10; Kh 8:13; Kh 11:10; Kh 12:12; Kh 13:8,12,14; Kh 14:6; Kh 17:2,8). Nó mang ý nghĩa nhiều hơn là “con người sống trên thế gian”, vì đó là nơi tất cả những người đang sống cư ngụ. Thay vào đó, cụm từ ấy ám chỉ đến một giống dân: những người sống vì thế gian và những vật thuộc về thế gian.

Đây là những người đối ngược lại với những người có quyền công dân trên trời (Phi 3:18-21). Giăng mô tả rõ loại thế gian này trong thơ tín thứ nhất (IGi 2:15-17), sau này trong lời tiên tri ông lại nói rõ ràng “những dân cư trên đất” là những người không được sanh lại (Kh 13:8).


Lúc bắt đầu lịch sử loài người, trời đất giao hòa vì tổ phụ chúng ta tôn vinh Đức Chúa Trời và vâng theo ý muốn Ngài. Quỷ Sa-tan cám dỗ họ hướng về thế gian không vâng lời Đức Chúa Trời và kể từ đó, có một vực thẳm ngăn cách giữa trời và đất. Vực sâu cách ngăn này được nối lại khi Con Đức Chúa Trời đến thế gian chịu chết thay tội lỗi của thế gian.


3. Sự giải thoát (Kh 9:1-21)

Cố Tiến sĩ Wilbur M. Smith, người có công trình nghiên cứu đặc biệt sách Khải-huyền, có lần đã nói, ”Ngoại trừ sự nhận dạng chính xác về thành Ba-by-lôn chép trong Kh 17:1-18:24 có lẽ ý nghĩa của hai cơn đoán phạt trong chương này tiêu biểu cho vấn đề chính yếu khó khăn nhất trong sách Khải-huyền” (Bản giải kinh Wychiffe, trang 1509). Kh 9:1-21 mô tả hai quân đội đáng sợ được giải thoát đúng thời điểm và được cho phép hành hại loài người.


Đội Quân Từ Vực Sâu (Kh 9:1-12).

“Vực sâu không đáy” theo nghĩa đen là “vực sâu của vực sâu”. Lu-ca cho biết rõ “vực sâu” này là nơi trú ngụ của các quỉ sứ (Lu 8:31), Giăng dạy rằng quỷ Sa-tan sẽ bị “giam cầm” tạm thời tại đó trong thời gian Chúa trị vì trên đất (Kh 20:1-3).

Kẻ chống lại Đấng Christ (tức là “con thú”) sẽ ra khỏi vực sâu (Kh 11:7; Kh 17:8). Đó không phải là hồ lửa, vì hồ lửa là nơi “giam cầm” cuối cùng của quỷ Sa-tan cùng những kẻ theo nó (Kh 20:10), nhưng đó là vực sâu giấu kín ở thế giới bên dưới sự tể trị của Chúa.Ngày nay, đội quân đáng kinh khiếp mô tả ở đây đã bị giam hãm, chờ đợi giờ giải phóng.


Ngôi sao rơi xuống là một con người, vua cầm quyền vực sâu (c.11). Vua ấy không có hoàn toàn quyền bính, vì vua phải được giao cho chìa khoá trước khi có thể mở vực sâu giải phóng đội quân của mình. “Ngôi sao” này có thể là quỷ Sa-tan và đội quân là những quỷ sứ của nó (Eph 6:10). Một trong những danh xưng của Sa-tan là Lu-ci-phe, có nghĩa “sự sáng láng” nó còn được ví như “ngôi sao mai” (Es 14:12-14). Chúa Giê-xu phán với các môn đệ Ngài, “Ta nhìn thấy quỷ Sa-tan từ trời sa xuống như chớp“ (Lu 10:18).


Khi vực sâu mở ra, khói bay lên như thể cánh cửa một lò lửa bị bung ca. Chúa Giê-xu so sánh địa ngục với một lò lửa hực (Mat 13:42,50), một hình ảnh khiến con người phải dừng lại để tâm suy nghĩ trước khi giễu cợt về điều đó. Khói làm ô nhiễm không khí và làm tối mặt trời vốn đã bị tối khi tiếng kèn thứ tư thổi lên.


Nhưng chính những gì thoát ra từ luồng khói mới thật sự gây kinh hoàng cho loài người: đội quân ma-quỷ được ví như châu chấu. Tai vạ thứ tám tại Ai-cập là nạn châu chấu cắn phá (Xu 10:1-20). Những ai chưa bao giờ thấy loài côn trùng này ít hiểu được mức độ thiệt hại do chúng gây ra. Khi Đức Chúa Trời muốn đoán phạt dân sự của Ngài, thỉnh thoảng Ngài sai chấu chấu đến cắn phá mùa màng của họ (Phuc 28:38,42; Gio 2:1-32).


Đây không phải là châu chấu theo đúng nguyên văn, vì châu chấu không có nọc độc ở đuôi giống như bò cạp. Loại sinh vật này không cắn phá các loài cây xanh thực ra, chúng bị cấm không được làm vậy. Đội quân ma quỉ này được giao nhiệm vụ làm khổ tất cả những người không được Đức Chúa Trời đóng ấn. Số 144.000 người từ trong các chi phái Y-sơ-ra-ên sẽ thoát khỏi cơn đoán phạt đau đớn này (Kh 7:1-8). Thực ra, rất có thể tất cả những ai tin nhận Chúa sẽ được Ngài đóng ấn cách đặc biệt và được che chở khỏi sự hành hại.


Bình thường châu chấu chỉ sống được khoảng năm tháng (từ tháng Năm đến tháng Chín), và đây là khoảng thời gian của cơn đoán phạt. Các quỷ này sẽ chích con người và do đó tạo ra sự đau đớn đến nỗi các nạn nhân thật sự muốn chết đi, nhưng sự chết trốn khỏi họ (Giê 8:3).


Đọc lời mô tả chi tiết về loài sinh vật này, chúng ta nhận biết rằng Giăng không có ý viết về loại châu chấu bình thường. Rõ ràng đó là biểu tượng, dầu vậy nó vẫn miêu tả một đạo quân hùng mạnh được trang bị cho trận đánh. Thân thể giống như ngựa nhưng mặt giống người, đầu ác quỷ bao phủ bởi mái tóc dài và được đội mão miện.

Chúng có răng giống như răng sư tử, và da như giáp sắt. Khi chúng bay, tiếng động tựa như đội kỵ mã đang chạy qua. Chúng ta không cần tìm cách “thiêng liêng hóa” những biểu tượng này, hoặc giải thích theo phương tiện chiến tranh hiện đại. Giăng có ý chồng chất hình ảnh trên hình ảnh để khiến chúng ta phải kinh sợ cơn đoán phạt này.


Loại châu chấu thật không có vua (Ch 30:27), nhưng đội quân này đi theo sự cai trị của quỷ Sa-tan, sứ giả của vực sâu. Tên của nó là “Người Huỷ Diệt”. “Kẻ trộm (Sa-tan) chỉ đến để cướp giết và huỷ diệt” (Gi 10:10). Châu chấu thật là loài côn trùng phá hại tràn lan, nhưng đội quân này chỉ làm hại những người không thuộc về Đức Chúa Trời.


Là con cái Đức Chúa Trời, chúng ta có thể dâng lời tạ ơn Chúa Giê-xu Christ cầm giữ các chìa khoá của địa ngục và sự chết (Kh 1:18), và Ngài còn thi hành quyền tể trị của Ngài trên Sa-tan nữa. Đức Chúa Trời hoạch định thời gian cho tất cả các biến cố này, chẳng có điều nào xảy ra quá sớm hoặc quá trễ (IITês 2:6 cũng lưu ý Kh 9:25).


Đội Quân Từ Phương Đông (Kh 9:13-21).

Chính tại bàn thờ xông hương bằng vàng vị thiên sứ dâng lời cầu nguyện của thánh-đồ lên cho Đức Chúa Trời (Kh 8:3-5) bây giờ một tiếng nói phát ra từ chính bàn thờ ấy truyền lệnh mở trói cho bốn thiên-sứ. Hẳn nhiên đây là những thiên sứ độc ác, vì chẳng có thiên-sứ thánh nào lại bị xiềng cả.

Mỗi thiên sứ thống lĩnh một phần đội quân khổng lồ đi theo chúng khi chúng được giải phóng, một đạo quân gồm 200 triệu người! Đội quân được giải thoát vào thời điểm thích hợp, vì mục đích đặc biệt:giết (chớ không chỉ gây đau đớn) một phần ba dân số thế giới. Vì một phần tư nhân loại đã bị giết (Kh 6:8), điều này có nghĩa một nửa dân số thế giới sẽ bị giết chết lúc tiếng kèn đoán phạt thứ sáu hoàn tất.


Chúng ta có phải nhận dạng đội quân này như đội quân người theo nghĩa đen, hành quân chinh phục khắp địa cầu không? Có lẽ không cần làm như vậy. Thứ nhất, vì điều nhấn mạnh trong phân đoạn này không nhằm vào người cỡi ngựa, nhưng nhắm vào các con ngựa. Điều mô tả không thể khớp với các chiến mã như chúng ta biết, hoặc cho đến bây giờ không phù hợp với thiết bị chiến tranh hiện đại như xe tăng chẳng hạn. Khẳng định đây là đội quân theo nghĩa đen, và chỉ ra một quốc gia nào đó (Như Trung Quốc) tuyên bố có trong tay 200 triệu quân, là đánh mất sứ-điệp Giăng đang tìm cách truyền đạt cho chúng ta.


Sức mạnh chết người của các con ngựa này ở nơi miệng và đuôi của chúng, chớ không ở nơi chân của chúng. Lửa, khói, và diêm sanh tuôn ra từ miệng chúng, và đuôi chúng giống như con rắn đang phun nọc độc. Chúng có thể tấn công con người từ phía trước cũng như phía sau.


Tôi cho rằng đây là một đội quân khác thuộc về ma quỉ đứng đầu là bốn thiên sứ sa ngã và ngày nay tất cả chúng đều bị Chúa xiềng lại, chúng không thể làm gì cho đến khi Đức Chúa Trời cho phép chúng hành động. Lý do tại sao chúng bị xiềng tại sông Ơ-phơ-rát không được giải thích, cho dù khu vực đó là chiếc nôi văn minh loài người (Sa 2:14), chớ không đề cập đến một các biên giới của nước Y-sơ-ra-ên (Sa 15:18).


Người ta sẽ cho rằng sự đau đớn và chết chóc kết hợp trong thời gian năm tháng (do lửa, khói, và diêm sanh) sẽ làm cho con người ăn năn nhưng trường hợp đó không phải như vậy. Những cơn đoán phạt này không phải là phương thuốc trị liệu nhưng là sự báo thù: Đức Chúa Trời xác nhận luật thánh khiết của Ngài và bênh vực cho con cái chịu đau khổ của Ngài (Kh 6:9-11).

Thậm chí khi đọc lướt qua các câu 20-21 cũng thấy được sự độc ác kinh khiếp của con người, ngay cả giữa cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời. Điều đáng sợ nhất trong Kh 9:1-21 không phải là những cơn đoán phạt Đức Chúa Trời sai đến nhưng đó là tội lỗi con người cứ mải mê phạm ngay cả trong lúc Đức Chúa Trời đang đoán phạt họ.


Hãy tìm hiểu tội lỗi con người sẽ phạm:

Thờ lạy ma quỷ, đi liền với việc thờ thần tượng (ICo 10:19-21), sẽ là tội lỗi hàng đầu.

Quỷ Sa-tan sẽ hành động (luôn luôn dưới ý muốn cho phép của Đức Chúa Trời), Sa-tan vốn ưa thích người ta thờ lạy nó (Es 14:12-15; Mat 4:8-10).

Trong thời gian này người ta sẽ theo vô số “tôn giáo”, nhưng tất cả đều là tà giáo. Con người sẽ thờ lạy những việc tay họ làm ra, có thể bao gồm những công trình xây dựng, các máy móc chế tạo ra, và các thành phố xây cất nên, cùng với các thần tượng của mình.


Tại đây tội nhân chết mất đang thờ lạy thần không có sự sống! (Thi 115:1-18). Thần của họ không thể nào bảo vệ hoặc giải cứu họ được, tuy vậy họ cứ tiếp tục khướt từ Đức Chúa Trời chân thần, đem lòng thờ lạy Sa-tan và thần tượng!


Giết người và trộm cắp cũng lan tràn trong ngày ấy, cùng với nhiều kiểu gian dâm vô luân. Chữ đã dịch là tà thuật là chữ pharmakia, có nghĩa “dùng dược liệu”. Dược liệu thường được dùng trong các buổi tế lễ thần tượng và thờ lạy ma quỷ. Như chúng ta thấy sự bành trướng của “văn hóa ma tuý” ngày nay, chúng ta không lấy làm khó khăn nhìn thấy trước toàn xã hội chìm ngập trong hành động tội ác.


Loài người sẽ phá bỏ hai điều răn trong luật pháp Môi-se khi làm ra hình tượng và thờ lạy nó. Về tội giết người, họ sẽ vi phạm điều luật thứ sáu, và tội trộm cắp họ phạm điều răn thứ tám. Phạm đến điều răn thứ bảy vì tội dâm dục. Đó sẽ là một thời kỳ vô luật pháp “Ai nấy đều làm theo ý mình lấy làm phải” (Cac 21:25).


Nhưng Đức Chúa Trời đang thi hành chương trình của Ngài tội lỗi con người hoặc kế hoạch của quỷ Sa-tan sẽ không ngăn trở Ngài thành tựu ý chỉ của Ngài.


Bây giờ chúng ta đến thời điểm giữa Cơn Đại Nạn (Kh 10:1-14:20), thời gian các biến cố quan trọng xảy ra. Cho đến bây giờ, chúng ta đã nghiên cứu qua ba năm rưỡi của thời gian bảy năm (Đa 9:27). Trong thời gian này, Kẻ chống lại Đấng Christ bắt đầu sự nghiệp làm nhà hoà giải và là người bạn đặc biệt của dân Y-sơ-ra-ên nhưng bây giờ bản chất thật của nó lộ ra. Nó trở kẻ gây bất ổn và cũng là kẻ bắt bớ con dân Đức Chúa Trời.


Con dân Đức Chúa Trời sẽ gặp nhiều điều u ám trong giai đoạn giữa của cuộc hành trình đã báo trước, nhưng họ vẫn là người chiến thắng bởi quyền phép của Vua trên muôn vua và Chúa trên muôn chúa.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page