top of page

RÔ-MA (2)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Thư Phao-lô



8. TỰ DO VÀ LÀM TRỌN (Rô 8:1-39)


Vào...

...ngày 6 tháng 1 năm 1941, Tổng thống Franklin Delano Roosevelt phát biểu trước Quốc Hội về tình trạng chiến tranh ở Châu Âu. Người ta đã quên đi nhiều điều ông phát biểu ngày hôm ấy. Nhưng đến cuối bài diễn văn, ông nói rằng ông mong mỏi “một thế giới kiến tạo trên bốn tự do căn bản của con người.”

Ông nêu tên bốn tự do ấy là: tự do ngôn luận, tự do thờ phượng, tự do thoát khỏi thiếu thốn, tự do không sợ hãi. Người ta vẫn còn nhớ những lời này, mặc dầu những điều lý tưởng này chưa thấy xảy ra bất cứ nơi nào trên thế giới.


Ro 8:1-39 là “Bản Tuyên Ngôn Tự Do” của Cơ-đốc nhân, vì trong chương ấy Phao-lô công bố chúng ta hưởng được bốn tự do thuộc linh do chúng ta liên hiệp với Chúa Giê-xu Christ. Một công trình nghiên cứu chương sách này cho thấy điểm nhấn mạnh nhằm vào Đức Thánh Linh, được nhắc đến mười chín lần. “Nơi nào có Đức Thánh Linh, nơi đó có tự do” (IICôr 3:17).


1. Tự do không bị đoán xét - Không có án phạt nào (Rô 8:1-4)

Rô 3:20 cho thấy “cho nên” có sự đoán phạt nhưng Rô 8:1 cho biết “cho nên” không còn sự đoán phạt - một chân lý lạ lùng và là lời kết luận cho lập luận tuyệt vời. (Các chữ “người không bước đi...v.v...” không thích hợp ở đây theo các bản thảo tốt nhất. Đối với chúng ta không có một điều kiện nào cần hoàn tất). Nền tảng cho sự bảo đảm kỳ diệu này là cụm từ “trong Chúa Giê-xu Christ”. Trong A-đam, chúng ta bị án phạt. Trong Đấng Christ, chẳng có sự đoán phạt nào!


Câu Kinh Thánh không nói rằng “chẳng có lầm lỗi nào” hoặc “chẳng có thất bại nào”, hoặc ngay cả “chẳng có tội lỗi nào”. Cơ-đốc nhân thật sự có thất bại và lầm lỡ, và vì vậy họ phạm tội. Áp-ra-ham nói dối về vợ của mình Đa-vít phạm tội ngoại tình Phi-e-rơ tìm cách giết người bằng lưỡi gươm. Chắn chắn, họ đau đớn về những hậu quả vì tội lỗi của mình gây ra, nhưng họ không chịu đau đớn bởi cơn đoán phạt.


Luật pháp lên án nhưng người tin Chúa có mối quan hệ mới đối với luật pháp, và vì vậy họ không thể bị lên án. Phao-lô đưa ra ba lời tuyên bố về người tin Chúa và luật pháp, và những lời ấy kết hợp với nhau cho thấy: chẳng còn có sự lên án nào.


a. Luật pháp không thể đòi hỏi bạn (Rô 8:2)

- Bạn đã được khiến nên tự do thoát khỏi luật pháp của tội lỗi và sự chết.Bây giờ bạn có sự sống trong Thánh Linh. Bạn đã bước vào trong phạm vi hoàn toàn mới của sự sống trong Đấng Christ. “Luật pháp của sự tội và sự chết“ được Phao-lô mô tả trong Rô 7:7-25. “Luật của Thánh Linh sự sống” mô tả trong Rô-ma chương 8. Luật pháp không còn có tính chất pháp lý trên bạn nữa: bạn đã chết đối với luật pháp (Rô 7:4) và được buông tha khỏi luật pháp (Rô 8:2).


b. Luật pháp không thể lên án bạn (Ro 8:3)

- Tại sao vậy? Vì Đấng Christ đã gánh chịu án phạt ấy thay cho bạn trên thập tự giá. Luật pháp không thể cứu được ai nhưng chỉ có thể lên án mà thôi. Nhưng Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến cứu chúng ta và làm xong những gì luật pháp không làm được. Chúa Giê-xu không đến trong hình hài thiên sứ nhưng Ngài đến như một con người. Ngài không đến “trong xác thịt tội lỗi”, vì điều đó sẽ khiến Ngài trở nên tội nhân. Ngài đến trong hình hài giống như xác thịt tội lỗi, làm một con người. Ngài mang lấy tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ.


“Luật về nguy hiểm đôi” cho biết rằng con người không thể bị xét xử hai lần cùng một tội ác. Vì Chúa Giê-xu Christ đã trả xong nợ tội cho bạn, và vì bạn “ở trong Đấng Christ“, Đức Chúa Trời sẽ không kết án bạn.


c. Luật pháp không thể cai trị bạn (Rô 8:4)

- Người tin Chúa sống nếp sống công bình, không phải bằng sức mạnh luật pháp nhưng bằng quyền phép Đức Thánh Linh. Luật pháp không có quyền làm ra sự thánh khiết nó chỉ có khả năng phơi bày và lên án tội lỗi. Nhưng Đức Thánh Linh ngự bên trong có thể giúp bạn bước đi trong sự vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời. Sự công bình Đức Chúa Trời có trong luật pháp được ứng nghiệm trong bạn bởi quyền năng Đức Thánh Linh. Trong Đức Thánh Linh, bạn có sự sống và tự do (Rô 8:2) và “theo đuổi hạnh phúc” (Rô 8:4).


Người tuân giữ luật pháp cố gắng vâng lời Đức Chúa Trời theo sức riêng và không đạt được tiêu chuẩn công bình Đức Chúa Trời đòi hỏi. Con cái Chúa khi vâng phục Chúa được Thánh Linh hướng dẫn kinh nghiệm được sự nên thánh bởi Thánh Linh hành động trong đời sống họ. “Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phil 2:13). Chính sự kiện này dẫn đến tự do thứ hai chúng ta có được trong nếp sống Cơ-đốc.


2. Tự do thoát khỏi thất bại - Không có sự ép buộc nào (Rô 8:5-17)

“Vậy, hỡi anh em, chúng ta chẳng mắc nợ xác thịt đâu, đặng sống theo xác thịt” (Rô 8:12). Chẳng còn có sự ràng buộc nào đối với con người cũ. Người tin Chúa có thể sống đắc thắng. Trong phần này, Phao-lô mô tả sự sống theo ba mức độ khác nhau và ông khích lệ độc giả sống theo mức độ cao nhất.


a. Bạn không có Thánh Linh (Rô 8:5-8)

-Phao-lô không có ý mô tả hai loại Cơ-đốc nhân, một loại sống theo xác thịt và một loại theo Thánh Linh. Ông có ý đối chiếu người được cứu và kẻ chưa được cứu. Có bốn điểm khác biệt.


1/Theo xác thịt - Theo Thánh Linh (Rô 8:5).

Người chưa được cứu không có Thánh Linh Đức Chúa Trời (Rô 8: 9) và sống theo xác thịt và vì xác thịt. Tâm trí người ấy hướng về những việc thỏa mãn xác thịt. Nhưng Cơ-đốc nhân có Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự bên trong, họ sống trong môi trường khác và hoàn toàn mới. Tâm trí người chăm về những việc thuộc về Thánh Linh. Điều này không có nghĩa người chưa được cứu chẳng bao giờ làm điều thiện, hoặc người tin Chúa chẳng hề làm điều xấu. Điều đó có nghĩa xu hướng cuộc sống của họ khác nhau. Một người sống cho xác thịt, người kia sống cho Thánh Linh.


2/Chết - Sống (Rô 8: 6).

Người chưa được cứu sống về phần xác, nhưng chết về phần hồn. Con người bên trong chết đối với Đức Chúa Trời và không hưởng ứng những việc của Thánh Linh. Họ cần đến “Thánh Linh sự sống trong Chúa Giê-xu Christ...” (Rô 8:2).


3/Nghịch thù với Đức Chúa Trời - hòa thuận với Đức Chúa Trời (Rô 8:6-7).

-Trong bài nghiên cứu Rô 7: 1-25, chúng ta đã thấy con người cũ chống lại Đức Chúa Trời và không phục luật pháp Đức Chúa Trời. Những người tin nhận Đấng Christ có được “hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Rô 5:1), trong khi người chưa được cứu nghịch thù Đức Chúa Trời. “Những người ác chẳng hưởng sự bình an bao giờ, Đức Giê-Hô-Va vạn quân phán vậy” (Es 48:22).


4/Làm đẹp lòng chính mình - Làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Es 8:8).

“Ở trong xác thịt” có nghĩa bị hư mất, ở ngoài Đấng Christ. Người chưa được cứu sống làm đẹp lòng chính mình và hiếm khi nghĩ đến việc làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Cội rễ của tội lỗi là tư kỷ - “Ta sẽ” chớ không nói “Ngài sẽ”.


Không được cứu và không có Thánh Linh là mức sống thấp kém nhất. Nhưng con người không cần phải ở mức sống ấy. Bởi đức tin nơi Đấng Christ con người có thể đạt đến mức sống thứ hai.


b. “Bạn có Thánh Linh” (Es 8:9-11)

- “Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong mình thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh.” (Rô 8:9). Bằng chứng của sự tin đạo là sự hiện diện của Đức Thánh Linh bên trong người ấy, làm chứng rằng bạn là con cái Đức Chúa Trời (Rô 8:16). Thân thể của bạn trở nên đền thờ của Đức Thánh Linh (ICôr 6:19-20). Cho dù thân thể bị định phải chết vì tội lỗi (dĩ nhiên là như vậy trừ phi Chúa trở lại), ngày nay Thánh Linh ban sự sống cho thân thể ấy để chúng ta hầu việc Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta chết, ngày kia thân thể chúng ta sẽ từ kẻ chết sống lại, vì Đức Thánh Linh đã ấn chứng cho mỗi người tin Ngài (Eph 1:13-14).


Khi Thánh Linh ngự bên trong bạn, Ngài sẽ có tác động đến thân thể của bạn. Bạn kinh nghiệm nếp sống mới, ngay cả mọi khía cạnh thuộc thân xác của bạn cũng bắt đầu có chiều kích mới trong kinh nghiệm. Khi nhà truyền đạo D.L.Moody mô tả kinh nghiệm trở lại với Chúa của ông, ông nói: “Tôi ở trong một thế giới mới.Buổi sáng kế tiếp mặt trời sáng hơn và chim hót nghe ngọt ngào hơn...những cây sồi già rung cành vui vẻ, và mọi vật đều thanh bình”.

Sự sống trong Đấng Christ là sự sống dư dật.

Nhưng có kinh nghiệm sống thứ ba dẫn đến từ hai mức sống kia.


c. Thánh Linh sở hữu bạn! (Rô 8:2-17)

-Chúng ta có Thánh Linh chưa đủ nhưng Thánh Linh phải chiếm hữu chúng ta nữa! Đến lúc ấy Ngài mới có thể chia sẻ cho chúng ta sự sống đắc thắng và dư dật chúng ta có được trong Đấng Christ. Chúng ta không còn có ràng buộc nào với xác thịt nữa, vì xác thịt chỉ mang đến bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.

Chúng ta có mối dây ràng buộc với Đức Thánh Linh, vì chính Thánh Linh thuyết phục chúng ta, bày tỏ Đấng Christ cho chúng ta, và ban sự sống đời đời cho chúng ta khi chúng ta tin nhận Đấng Christ. Vì Ngài là “Thánh Linh sự sống”, nên Ngài có thể ban năng lực cho chúng ta vâng phục Đấng Christ, và Ngài có thể giúp chúng ta có thể càng giống Đấng Christ hơn.


Nhưng Ngài còn là Thánh Linh làm cho chết. Ngài có thể giúp chúng ta “làm cho chết” (loại bỏ) những việc làm tội lỗi của thân thể. Khi chúng ta quy phục các chi thể chúng ta cho Đấng Christ (Rô 6:12-17), Ngài đặt để sự chết và sự sống lại của Đấng Christ trong chúng ta. Ngài làm cho chết các việc thuộc về thân thể và Ngài tái tạo những việc làm của Thánh Linh trong chúng ta.


Đức Thánh Linh còn là “Thánh Linh của sự làm con nuôi” (Rô 8:14-17). Chữ sự làm con nuôi trong Tân-ước có nghĩa là “được liệt vào con trưởng thành”. Chúng ta sanh ra trong gia đình Đức Chúa Trời. Nhưng ngay lúc chúng ta được sanh ra, Đức Chúa Trời nhận chúng ta và ban cho chúng ta địa vị làm con trưởng thành. Một em bé không thể bước đi, nói năng, quyết định, hoặc sử dụng của cải trong gia đình. Nhưng người theo Chúa có thể làm tất cả những điều này ngay khi được sanh lại.


Người có thể bước đi và “được Thánh Linh dắt dẫn” (Rô 8:14). Động từ ở đây có nghĩa “sẵn lòng dẫn dắt”. Chúng ta vâng phục Đức Thánh Linh, và Ngài dùng Lời Ngài hướng dẫn chúng ta mỗi ngày. Chúng ta không ở dưới xiềng xích của luật pháp và không sợ hành động. Chúng ta có tự do của Đức Thánh Linh và tự do theo Đấng Christ. Người tin Chúa còn có thể nói: ”Chúng ta kêu lên rằng, A-ba, Cha” (Rô 8:15).

Thật là một ngạc nhiên lớn nếu một trẻ mới sinh nhìn lên và chào cha nó? Trước hết, Thánh Linh kêu rằng “A-ba, Cha” cho chúng ta (Ga 4:6), và sau đó chúng ta nói điều đó cho Đức Chúa Trời (“A-ba” nghĩa là “cha” - một ngôn từ biểu lộ lòng trìu mến).


Một em bé không thể ký vào các tấm chi phiếu được, nhưng con cái Đức Chúa Trời bởi đức tin có thể sử dụng của cải thiêng liêng của mình vì người là kẻ kế tự của Đức Chúa Trời và kẻ đồng kế tự với Đấng Christ (Rô 8:17). Thánh Linh dạy chúng ta qua Lời Kinh Thánh, và rồi chúng ta nhận tài sản của Đức Chúa Trời bởi đức tin, Thật là một điều sung sướng khi có “Thánh Linh của sự làm con nuôi hành động trong đời sống chúng ta.”


Cơ-đốc nhân không cần phải chịu thất bại. Người có thể quy phục thân thể mình cho Thánh Linh và bởi đức tin khắc phục bản tính cũ. Thánh Linh của sự sống sẽ ban quyền năng cho người. Thánh Linh của sự chết giúp người thắng hơn xác thịt và Thánh Linh của sự làm con nuôi làm sung mãn người và dẫn người vào trong ý chỉ của Đức Chúa Trời.


3. Tự do khỏi sự chán nản - không thất bại (Rô 8:18-30)

Trong phần này Phao-lô đối diện với chính vấn đề sầu khổ và đau đớn. Có lẽ phương cách tốt nhất để hiểu phần Kinh Thánh là ghi nhận ba sự thở than đã được đề cập đến.


a. Tạo vật thở than (Rô 8:18-22).

Khi Đức Chúa Trời thực hiện xong công cuộc tạo dựng, đó là một tạo vật tốt (Sa 1:31)nhưng ngày nay đó là tạo vật than thở. Sự sầu khổ và đau đớn xuất hiện, sự chết bước vào, dĩ nhiên mọi điều này đều là kết quả phát sinh từ tội của A-đam. Nó không phải là lỗi của tạo vật. Lưu ý những từ Phao-lô đã dùng để mô tả tình trạng đau thương của tạo vật: đau đớn (Rô 8:18), hư không (Rô 8:20), nô lệ (Rô 8:21), hư nát (Rô 8:21) và đau đớn (Rô 8:22).

Tuy nhiên sự thời hạn này không phải là không hữu ích. Phao-lô đã ví sánh nó với sự đau đớn của người phụ nữ sắp sanh. Có đau đớn thật, nhưng sự đau đớn sẽ chấm dứt khi đứa con ra đời. Một ngày đến khi tạo vật được giải phóng thì tạo vật thở than sẽ trở thành tạo vật vinh hiển. Cơ-đốc nhân không tập chú vào sự đau khổ hiện tại, người nhìn về phía trước cho sự vinh hiển ngày mai.


b. Cơ-đốc nhân chúng ta than thở (Rô 8:23-25).

Lý do chúng ta than thở về chúng ta đã kinh nghiệm “những trái đầu mùa Thánh Linh, sự nếm trước về vinh hiển hầu đến.” Như dân tộc Y-sơ-ra-ên nếm trước những trái đầu mùa của xứ Ca-na-an do các thám tử đem về (Dan 13:23-27), cũng vậy Cơ-đốc nhân chúng ta cũng đã nếm trước những phước hạnh của thiên đàng qua công vụ của Thánh Linh.

Điều này khiến chúng ta muốn gặp Chúa, nhận thân thể mới, sống với Ngài và phục vụ Ngài mãi mãi. Chúng ta đang chờ đợi sự nhận làm con nuôi “sự cứu chuộc của thân thể khi Đấng Christ trở lại” (Phi 3:20-21). Đây là cao điểm đầy vui vẻ của sự làm con nuôi, điều chúng ta nhận được ngay lúc trở lại cùng Chúa khi Thánh Linh của sự làm con nuôi ban cho chúng ta một địa vị người trưởng thành trong gia đình Đức Chúa Trời. Khi Đấng Christ trở lại, chúng ta sẽ bước vào gia sản đầy trọn của mình.


Trong lúc chờ đợi, chúng ta đợi chờ và hy vọng, “vì chúng ta được bởi hy vọng đó” (Rô 8:24 theo nghĩa đen). Hy vọng gì? “Hy vọng phước hạnh của chúng ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-xu Christ” (Tit 2:13). Điều tốt nhất chưa đến! Cơ-đốc nhân không nên chán nản khi thấy và kinh nghiệm buồn khổ, đau đớn trong thế giới này. Người biết rằng sự buồn khổ tạm thời một ngày kia sẽ nhường chỗ cho vinh hiển vĩnh cửu.


c. Thánh Linh thở than (Rô 8:25-30).

Đức Chúa Trời rất quan tâm đến những thử thách của dân Ngài. Trong chức vụ trên đất, Chúa Giê-xu đã than thở khi nhìn thấy những gì tội lỗi gây ra cho nhân loại (Mac 7:34; Gi 11:33,38). Ngày nay Thánh Linh cũng than thở với chúng ta và cảm thông những gánh nặng của sự yếu đuối và buồn đau của chúng ta.

Nhưng Thánh Linh còn làm hơn là chỉ than thở. Ngài cầu nguyện cho chúng ta bằng sự than thở để chúng ta có thể được dẫn vào trong ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta không phải luôn luôn biết phải cầu nguyện thế nào, nhưng Thánh Linh cầu thay cho chúng ta để chúng ta có thể sống theo ý muốn Đức Chúa Trời bất chấp buồn khổ. Thánh Linh “chia sẻ gánh nặng”.


Người tin Chúa chẳng bao giờ đuối sức trong giờ đau đớn thử thách vì người biết rằng Đức Chúa Trời đang tể trị trong thế gian này (Rô 8:28), và Ngài có kế hoạch trọn vẹn (Rô 8:29). Đức Chúa Trời có hai mục đích trong kế hoạch ấy: làm điều tốt cho chúng ta và cho sự vinh hiển của Ngài. Cuối cùng, Ngài sẽ khiến chúng ta nên giống như Chúa Giê-xu Christ! Hơn nữa, chương trình của Đức Chúa Trời sắp sửa hoàn tất! Chương trình ấy bắt đầu trong quá khứ khi Ngài chọn chúng ta trong Đấng Christ (Eph 1:4-5). Ngài đã định trước ngày kia chúng ta sẽ nên giống như Con Ngài. Sự định trước chỉ áp dụng cho người được cứu. Chẳng có nơi nào dạy chúng ta rằng Đức Chúa Trời định trước cho con người phải bị án phạt đời đời. Nếu họ bị án phạt, đó là vì họ từ chối không chịu tin nhận Chúa Giê-xu Christ (Gi 3:18-21).

Những người Ngài đã chọn, thì Ngài đã gọi (IITês 2:13-14) khi họ đáp lại tiếng gọi của Ngài, Ngài xưng công bình cho họ, và Ngài cũng làm cho họ vinh hiển. Điều này có nghĩa người tin Chúa đã được vinh hiển trong Đấng Christ (Gi 17:22) sự mạc khải về vinh hiển này phải chờ đợi sự tái lâm của Chúa (Rô 8:21-23).


Làm thế nào Cơ-đốc nhân chúng ta có thể bị sa sút và lui đi khi chúng ta đã dự phần trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời? Sự đau đớn chúng ta chịu ngày nay chỉ bảo đảm rằng chúng ta càng được vinh hiển khi Chúa Giê-xu Christ trở lại!


4. Tự do không còn sợ hãi - Không còn có sự phân rẽ (Rô 8:31-39)

Không còn có sự đoán phạt vì chúng ta có phần trong sự công bình của Đức Chúa Trời và Luật Pháp không thể lên án chúng ta. Không còn có sự ràng buộc nữa vìchúng ta có Thánh Linh Đức Chúa Trời giúp chúng ta có thể chiến thắng xác thịt và có thể sống cho Đức Chúa Trời. Chẳng còn có sự thất vọng nữa vì chúng ta cùng dự phần trong vinh hiển Đức Chúa Trời, trông đợi sự trở lại của Đấng Christ. Không còn có sự phân rẽ nữa vì chúng ta kinh nghiệm tình yêu của Đức Chúa Trời: “Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Chúa Giê-xu Christ?” (Rô 8:35).


Điểm nhấn mạnh trong phần cuối này nhằm vào sự an ninh của người tin Chúa. Chúng ta không cần phải sợ hãi quá khứ, hiện tại và tương lai vì chúng ta được bảo toàn trong tình yêu của Đấng Christ. Sứ-đồ Phao-lô đưa ra năm lý lẽ để chứng minh rằng không thể có sự phân rẽ nào giữa người tin Chúa và Đức Chúa Trời.


a. Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta (Rô 8:31)

- Đức Chúa Cha vùa giúp chúng ta và Ngài ban Con Ngài để chứng minh điều đó (Rô 8:32). Đức Chúa Con vùa giúp chúng ta (Rô 8:34) và Đức Thánh Linh cũng vậy (Rô 8:28). Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta trong Nhân Tính của Ngài và sự quan phòng của Ngài. Thỉnh thoảng, chúng ta than thở như Gia-cốp, “Các nông nỗi này đều đổ lại cho tôi hết!” (Sa 42:36), trong khi thực ra mọi sự điều đang tiến hành vì chúng ta. Lời kết luận thật rõ ràng: “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?”


Con cái Chúa cần phải bước vào sự mới mẽ mỗi ngày bằng sự nhận biết Đức Chúa Trời đang vùa giúp mình. Không còn cần phải sợ hãi nữa, vì Đức Chúa Cha yêu thương chỉ ao ước điều tốt cho con cái Ngài, cho dù họ phải trải qua những thức thách để nhận lãnh điều tốt nhất của Ngài. “Vì Ta biết ý tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình.” (Giê 29:11).


b. Đấng Christ chịu chết vì chúng ta (Rô 8:32)

- Lý lẽ ở đây từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ. Nếu lúc chúng ta còn là tôi nhân, Đức Chúa Trời đã cho chúng ta đều tốt nhất của Ngài, vậy bây giờ chúng ta là con cái của Ngài rồi, Ngài lại không cho chúng ta tất cả điều chúng ta cần sao?

Chúa Giê-xu dùng lập luận tương tự khi Ngài thuyết phục dân chúng biết rằng lo lắng và sợ hãi thật ngu dại. Đức Chúa Trời chăm sóc chim chóc và súc vật, thậm chí Ngài lo lắng đến những hoa huệ chắc chắn Ngài sẽ chăm sóc bạn! Đức Chúa Trời đang giải quyết theo cách của Ngài trên nền tảng của ân điển thập tự giá, chớ không trên nền tảng luật pháp. Đức Chúa Trời ban cho con cái Ngài tất cả mọi điều cách rộng rời!


c. Đức Chúa Trời xưng công bình chúng ta (Rô 8:33)

- Điều này có nghĩa Ngài kể chúng ta là công bình trong Đấng Christ. Sa-tan muốn kiện cáo chúng ta (Kh 12:10; Xa 3:1-7), nhưng chúng ta vẫn được xưng công bình trong Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta là những người được lựa chọn trong Đấng Christ và được Đấng Christ thừa nhận. Chắc chắn Đức Chúa Trời không kết tội chúng ta vì chính Ngài đã xưng công bình chúng ta. Đối với Ngài kết tội chúng ta có nghĩa là sự cứu rỗi của Ngài bị thất bại và chúng ta vẫn còn ở trong tội lỗi mình.


Hiểu được ý nghĩa của sự xưng công bình sẽ mang lại sự bình an cho tâm hồn chúng ta. Khi Đức Chúa Trời kể tội nhân tin nhận Ngài là công bình trong Đấng Christ, việc làm ấy không bao giờ thay đổi. Kinh nghiệm thuộc linh của chúng ta cứ thay đổi từng ngày, nhưng sự xưng công bình không bao giờ đổi thay.

Có thể chúng ta tự cáo về mình, và con người có thể kiện cáo chúng ta nhưng Đức Chúa Trời chẳng bao giờ đưa chúng ta ra trước toà để kết tội chúng ta. Chúa Giê-xu đã trả xong nợ tội và chúng ta được an ninh trong Ngài.


d. Đấng Christ cầu thay cho chúng ta (Rô 8:34)

- Sự cầu thay giữ cho người tin Chúa an ninh trong Đấng Christ: Đức Thánh Linh cầu thay (Rô 8:26-27) và Con Đức Chúa Trời cầu thay (Rô 8:34). Cùng một Đấng Cứu Rỗi đã chết thay chúng ta hiện đang cầu thay cho chúng ta trên trời.

Là Thầy Tế lễ Thượng Phẩm, Ngài có thể ban ân điển chúng ta cần có để chiến thắng cám dỗ và đánh bại kẻ thù (Hêb 4:14-16).

Là Đấng trung bảo, Ngài có thể tha thứ tội lỗi chúng ta và phục hòa mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời (IGi 1:9-2:2).

Cầu thay có nghĩa Chúa Giê-xu Christ trình diện chúng ta trước ngôi Đức Chúa Trời và chúng ta không cần phải tự mình đại diện nữa.


Sứ-đồ Phao-lô gợi ý về chức vụ cầu thay trong Rô 5:9-10. Chúng ta không những được cứu bởi sự chết của Ngài, nhưng chúng ta còn được cứu bởi sự sống lại của Ngài. “Bởi đó Ngài có thể cứu toàn vẹn những kẻ nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho những kẻ ấy” (Hêb 7:25).

Phi-e-rơ phạm tội nghịch lại Chúa, nhưng ông đã được tha thứ và được phục hòa mối tương giao vì Chúa Giê-xu Christ. “Hỡi Si-môn, Si-môn, này, quỷ Sa-tan đã đòi sàng sảy ngươi như lúa mì. Nhưng ta đã cầu nguyện cho ngươi, hầu cho đức tin ngươi không thiếu thốn. Vậy đến khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình” (Lu 22:31-32).

Ngài đang cầu thay cho mỗi chúng ta, Ngài đang thi hành chức vụ bảo đảm cho chúng ta được an ninh.


e. Đấng Christ yêu thương chúng ta (Rô 8:35-39)

- Trong các câu Rô 8:31-34 Phao-lô đã chứng minh rằng Đức Chúa Trời không thể làm chúng ta thất bại, nhưng có khả năng chúng ta làm cho Ngài thất bại được không? Giả sử có sự thử thách hoặc cám dỗ lớn nào đó xảy đến, và chúng ta thất bại? Sau đó rồi thế nào? Sứ đồ Phao-lô đề cập vấn đề ấy trong phần cuối cùng này và giải thích rằng không gì có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Chúa Giê-xu Christ.


-Trước tiên, Đức Chúa Trời không che giấu chúng ta khỏi những khó khăn trong cuộc đời vì chúng ta cần đến những khó khăn ấy để đời sống chúng ta được lớn lên (Rô 5:3-5). Trong Rô 8:28 Đức Chúa Trời bảo đảm cho chúng ta rằng những khó khăn trong cuộc sống đang làm ích lợi vì chúng ta chớ không chống lại chúng ta.

Đức Chúa Trời cho phép thử thách xảy đến để chúng ta có thể dùng chúng làm ích lợi chúng ta và làm vinh hiển Ngài. Chúng ta chịu đựng thử thách vì cớ danh Ngài (Rô 8:36), và từ khi chúng ta làm như vậy, bạn có nghĩ rằng Ngài sẽ bỏ rơi chúng ta không? Dĩ nhiên là không! Thay vào đó Ngài đang ở gần chúng ta khi chúng ta trải qua những khó khăn trong cuộc đời.


Hơn nữa, Ngài ban cho chúng ta quyền năng để đắc thắng (Rô 8:37). Chúng ta “là những người chiến thắng”, theo nghĩa đen “chúng ta là những người chiến thắng siêu hạng” trong Chúa Giê-xu Christ! Ngài ban cho chúng ta chiến thắng và càng chiến thắng hơn nữa! Chúng ta không cần phải sợ hãi cuộc sống hoặc sự chết, những việc trong hiện tại, hoặc những việc sẽ đến trong tương lai, vì Chúa Giê-xu Christ yêu thương chúng ta và Ngài ban cho chúng ta sự đắc thắng. Đây không phải là lời hứa kèm theo điều kiện: “Nếu ngươi làm điều này, Đức Chúa Trời sẽ làm điều kia”.

Sự an ninh trong Đấng Christ ở đây là một sự kiện đã được xác lập, chúng ta có quyền đòi hỏi cho chúng ta vì chúng ta ở trong Đấng Christ. Chẳng có gì có thể phân rẽ chúng ta khỏi Tình yêu của Ngài! Hãy tin điều đó - và vui thỏa!


Ôn lại chương sách tuyệt diệu này để thấy rằng Cơ-đốc nhân hoàn toàn chiến thắng. Chúng ta thoát khỏi cơn đoán phạt vì Đấng Christ đã chết thay chúng ta và chúng ta có sự công bình của Ngài. Chúng ta thoát khỏi sự thất bại vì Đấng Christ sống trong chúng ta bởi Thánh Linh Ngài và chúng ta dự phần trong sự sống Ngài.Chúng ta thoát khỏi sự thất vọng vì Đấng Christ sắp trở lại vì chúng ta và chúng ta sẽ được vinh hiển với Ngài. Chúng ta thoát khỏi sợ hãi vì Đấng Christ cầu thay cho chúng ta và chúng ta không thể bị phân rẽ khỏi tình yêu Ngài.


Không còn có sự đoán phạt nào! Không còn có sự ràng buộc nào! Không còn có sự thất vọng nào! Không còn có sự phân rẽ nào!

Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, ai có thể chống chúng ta được!



 


9. ĐỨC CHÚA TRỜI CÓ LẦM LỖI KHÔNG? (Rô 9:1-33)


Dường như có vẻ kỳ lạ khi Phao-lô cắt ngang việc bàn luận về sự cứu rỗi và dành cả ba chương để bàn về dân Y-sơ-ra-ên. Tại sao ông không chuyển từ lời dạy về giáo lý trong chương 8 đến những bổn phận thực tế chép trong chương 12-15? Nghiên cứu kỹ lưỡng chương 9-11 cho thấy phần này không cắt ngang chút nào nhưng đó là phần cần thiết trong lý lẽ của Phao-lô bàn về sự xưng nghĩa bởi đức tin.


-Trước hết, Phao-lô được xem như là kẻ phản bội đối với dân Do-thái. Người thi hành chức vụ cho người ngoại bang và dạy về sự tự do không bị luật pháp Môi-se ràng buộc. Người rao giảng trong nhiều nhà hội và gây rắc rối, và có thể nhiều tín hữu Do-thái tại Rô-ma đã nghe tiếng đồn đáng ngờ của Phao-lô. Trong các chương này, Phao-lô bày tỏ lòng thương yêu của người dành cho người Y-sơ-ra-ên và ao ước họ được lợi ích. Đây là lý do thuộc về cá nhân dành cho cuộc bàn luận này.


Nhưng có lý do thuôc về giáo lý.

Phao-lô đã lập luận trong chương rằng người theo Chúa được bảo đảm trong Chúa Giê-xu Christ và Đức Chúa Trời giữ nguyên sự lựa chọn (Rô 8:28-30). Nhưng một vài người có thể thắc mắc, “Thế còn người Do-thái thì sao? Họ đã được Đức Chúa Trời lựa chọn, nhưng bây giờ ông nói rằng họ bị để qua một bên và Đức Chúa Trời xây dựng Hội thánh Ngài. Đức Chúa Trời không còn giữ lời hứa của Ngài đối với dân Y-sơ-ra-ên sao?” Nói cách khác, chính phẩm cách của Đức Chúa Trời đang bị đe dọa. Nếu Đức Chúa Trời không thành tín với dân Do-thái, làm thế nào chúng ta biết Ngài thành tín với Hội thánh?


Điều nhấn mạnh trong chương 9 nhằm vào sự tuyển chọn dân Y-sơ-ra-ên trong quá khứ, trong chương 10 nói đến sự chối bỏ dân Y-sơ-ra-ên trong hiện tại và chương 11 nói đến sự phục hồi địa vị của dân Y-sơ-ra-ên trong tương lai. Y-sơ-ra-ên là dân tộc duy nhất trên thế giới có lịch sử đầy đủ - quá khứ, hiện tại và tương lai.

Trong chương 9, Phao-lô binh vực phẩm tánh của Đức Chúa Trời qua việc chỉ ra rằng lịch sử Y-sơ-ra-ên ttrong quá khứ thực sự đã tôn cao các thuộc tính của Đức Chúa Trời: Sự thành tín (Rô 9:1-13), công bình (Rô 9:14-18), chính trực (Rô 9:19-29), và ân điển của Ngài (Rô 9:30-33).

Bạn sẽ thấy những phần này phù hợp với ba câu hỏi của Phao-lô: “Có sự không công bình trong Đức Chúa Trời sao?” (Rô 9:14) “Sao Ngài còn quở trách?” (Rô 9:19) và “Vậy chúng ta sẽ nói làm sao?” (Rô 9:30).


1. Sự thành tín của Đức Chúa Trời (Rô 9:1-13)

Thật đáng khác thường thế nào Phao-lô đã chuyển từ niềm vui mừng trong chương 8 thành nỗi buồn rầu và gánh nặng trong chương 9. Khi người nhìn xem Đấng Christ, người vui mừng nhưng khi nhìn vào dân Y-sơ-ra-ên hư mất, người khóc than. Giống như Môi-se (Xu 32:30-35), người sẵn lòng chịu rủa sả và lìa khỏi Đấng Christ nếu như làm cho dân Y-sơ-ra-ên được cứu. Phao-lô quả thật đầy tình người! Người sẵn lòng bị dứt bỏ vì lợi ích cho những người được cứu (Rô 9:3), và sẵn lòng đi địa ngục để những người hư mất được cứu.


Chủ đề của ông là Đức Chúa Trời lựa chọn dân Y-sơ-ra-ên và điều đầu tiên ông đề cập đó là phước hạnh của việc họ được lựa chọn (Rô 9:4-5). Dân Y-sơ-ra-ên được Đức Chúa Trời nhận làm dân thuộc riêng về Ngài (Xu 4:22-23). Ngài ban sự vinh hiển Ngài nơi đền tạm và đền thờ cho họ (Xu 40:34-38; IVua 8:10-11).

Vinh hiển Môi-se nhìn thấy trên núi Si-nai đến ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên (Xu 24:16-17). Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên giao ước của Ngài, đầu tiên dành cho Áp-ra-ham, sau đó có thêm các giao-ước dành cho Môi-se đến Đa-vít. Ngài còn ban cho họ luật pháp của Ngài để điều hướng cuộc sống chính trị, xã hội và tôn giáo, và để bảo đảm phước hạnh của Ngài nếu họ vâng lời Ngài.

Ngài cho họ “hầu việc Đức Chúa Trời”, nói đến chức vụ trong đền tạm và đền thờ. Ngài ban cho họ các lời hứa và các tổ phụ (Rô 9:5). Mục tiêu của tất cả phước hạnh này là Chúa Cứu Thế Giê-xu, thông qua dân Y-sơ-ra-ên, sẽ đến thế gian. (Hãy lưu ý câu 5 khẳng định rằng Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời). Tất cả các phước hạnh đều ban cho dân Y-sơ-ra-ên cách nhưng không và không dành cho một dân tộc nào khác.


Nhưng dù có các phước hạnh này, dân Y-sơ-ra-ên vẫn thất bại. Khi Đấng Mê-si-a hiện ra, dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ và đóng đinh Ngài. Không ai biết điều này hơn Phao-lô, vì ông đã bắt bớ Hội thánh trong những ngày đầu tiên của mình.

Có phải dân Y-sơ-ra-ên thất bại nghĩa là Lời Đức Chúa Trời thất bại không? (Tiếng Hy-lạp dịch chữ này là “không mang lại cho ai kết quả gì” nêu lên bức tranh một chiếc thuyền mất phương hướng). Câu trả lời là, “Không! Đức Chúa Trời là thành tín cho dù con người có làm gì với Lời Ngài như thế nào chăng nữa”. Ở đây Phao-lô giải thích nền tảng tuyển chọn dân Y-sơ-ra-ên.


a. Đó không phải là con cháu thuộc về xác thịt (Rô 9:6-10)

- Như chúng ta thấy trong Rô 2:25-29 có điểm khác biệt giữa dòng dõi Áp-ra-ham về xác thịt với con cái Áp-ra-ham về phần thuộc linh. Thực ra Áp-ra-ham có hai người con, Ích-ma-ên (do A-ga sanh) và Y-sác (do Sa-ra sanh).

Vì Ích-ma-ên là con đầu lòng, nên người phải được chọn, nhưng Đức Chúa Trời đã chọn Y-sác. Y-sác và Rê-bê-ca có hai con trai nhưng sinh, Ê-sau và Gia-cốp. Là người sanh ra trước, nên đáng lẽ Ê-sau được chọn, nhưng Đức Chúa Trời đã chọn Gia-cốp.

Và Ê-sau, Gia-cốp có cùng cha mẹ, khác với Ích-ma-ên và Y-sác có cùng cha khác mẹ. Đức Chúa Trời không lựa chọn trên nền tảng xác thịt. Do đó, nếu dân Y-sơ-ra-ên - con cháu Áp-ra-ham về phần xác - từ chối Lời của Đức Chúa Trời, điều này không làm cho chương trình tuyển chọn của Đức Chúa Trời ra vô ích chút nào.


b. Đó không phải công trạng của con người (Rô 9:11-13)

- Đức Chúa Trời chọn Gia-cốp trước khi hai đứa trẻ sanh ra. Hai bé trai chưa biết làm điều tốt hoặc xấu, vì vậy Đức Chúa Trời lựa chọn không dựa trên cá tính hay hành vi của chúng. Câu Rô 9:13 đề cập đến Ma 1:2-3 và ám chỉ đến các dân tộc (Y-sơ-ra-ên và Ê-đôm) và không đề cập đến các tội nhân theo tính cách cá nhân. Đức Chúa Trời không ghét bỏ tội nhân.

Gi 3: 16 cho biết rõ Ngài yêu tội nhân. Câu Kinh Thánh ở đây nói đến sự tuyển chọn dân tộc, chớ không nói đến cá nhân. Vì Đức Chúa Trời tuyển chọn dân Y-sơ-ra-ên không tùy thuộc vào công đức con người, cho nên sự không nghe lời của họ không thể làm vô hiệu chương trình lựa chọn của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời luôn thành tín mặc dầu dân sự của Ngài không thành tín.


2. Sự công bình của Đức Chúa Trời (Rô 9:14-18)

Việc Đức Chúa Trời chọn người này nhưng không chọn người khác dường như cho thấy Ngài không công bình. Phao-lô hỏi, “Có sự không công bình trong Đức Chúa Trời sao?” và rồi người trả lời, “Chẳng có chuyện đó đâu!” 

Không thể nghĩ rằng Đức Chúa Trời thánh khiết đã từng hành động không công bình. Sự chọn lựa hoàn toàn là vấn đề của ân điển. Nếu Đức Chúa Trời hành động chỉ dựa trên nền tảng công bình, chẳng ai được cứu cả. Phao-lô trích dẫn Xu 33:19 để cho thấy rằng lòng nhân từ thương xót của Đức Chúa Trời rộng mở tuỳ theo ý muốn của Ngài và không theo ý muốn con người.

Tất cả chúng ta xứng đáng nhận án phạt - chớ không nhận sự thương xót. Xuất Ê-díp-tô ký đề cập đến việc dân Y-sơ-ra-ên thờ hình tượng trong khi Môi-se lên núi nhận lãnh luật pháp. Toàn dân sự đáng phải bị hủy diệt, tuy nhiên Đức Chúa Trời chỉ giết 3.000 người - không vì những người khác gian ác hơn hoặc ít kính sợ Chúa hơn, nhưng hoàn toàn do ân điển và sự thương xót của Ngài.


Tiếp đến Phao-lô trích trong Xu 9:16 ông dùng Pha-ra-ôn làm hình ảnh minh họa. Môi-se là người Do-thái, Pha-ra-ôn là dân ngoại bang tuy nhiên cả hai đều là tội nhân. Thực ra, cả hai người đều là kẻ giết người! Cả hai đều thấy dấu lạ của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên Môi-se được cứu nhưng Pha-ra-ôn bị hư mất. Đức Chúa Trời lập lên Pha-ra-ôn để Ngài có thể bày tỏ vinh quang và quyền năng của Ngài và Ngài bày tỏ lòng thương xót trên Môi-se để Ngài có thể dùng ông giải phóng dân Y-sơ-ra-ên.

Pha-ra-ôn là nhà cai trị, và Môi-se là nô lệ tuy nhiên chính Môi-se kinh nghiệm được sự nhân từ và thương của xót của Đức Chúa Trời -vì Đức Chúa Trời đã có ý định làm theo phương cách ấy. Đức Chúa Trời có quyền trong công việc của Ngài và hành động theo ý muốn cùng chương trình của Ngài. Vì vậy đó không phải là vấn đề công bình nhưng thuộc về ý chỉ đời đời của Đức Chúa Trời.


Đức Chúa Trời là Đấng thánh khiết và Ngài phải đoán phạt tội lỗi nhưng Đức Chúa Trời còn yêu thương và mong muốn cứu tội nhân. Nếu mọi người được cứu, điều đó không phủ nhận đức thánh khiết của Ngài nhưng nếu mọi người đều hư mất, đều đó không nghịch lại với đức yêu thương của Ngài. Giải pháp cho vấn đề đó là sự lựa chọn cao cả của Đức Chúa Trời.


Một giáo sư thần học có lần nói với tôi, “Gắng sức giải thích sự lựa chọn, bạn sẽ mất trí nhưng thanh minh nó bạn sẽ mất linh hồn!”


Đức Chúa Trời chọn dân Y-sơ-ra-ên và lên án dân Ai-cập, vì đây là chương trình tối thượng của Ngài. Không ai có thể lên án Đức Chúa Trời vì cách Ngài mở rộng lòng thương xót của Ngài, vì Đức Chúa Trời là công bình.


Trước khi bước qua phần này, chúng ta cần phải bàn luận “sự cứng lòng” của Pha-ra-ôn (Rô 9:18). Quá trình cứng lòng này được nhắc đến ít nhất 15 lần trong Xu 7:1-14:31. Thỉnh thoảng Kinh Thánh cho chúng ta biết Pha-ra-ôn làm cứng lòng mình (Xu 8:15,19,32), và những lần khác Kinh Thánh dạy rằng Đức Chúa Trời đã làm cứng lòng Pha-ra-ôn (Xu 9:12; Xu 10:1,20,27). Bằng lời phán của Ngài và bày tỏ quyền năng của Ngài, Đức Chúa Trời ban cho Pha-ra-ôn cơ hội ăn năn nhưng thay vào đó, Pha-ra-ôn chống lại Đức Chúa Trời và làm cứng lòng mình.

Lỗi không phải ở nơi Đức Chúa Trời nhưng ở nơi Pha-ra-ôn. Cùng một ánh nắng có thể làm băng tan chảy ra cũng có thể làm đất sét khô cứng. Đức Chúa Trời không phải không công bình trong việc đối xử với Pha-ra-ôn vì Ngài cho vua có nhiều cơ hội ăn năn và tin nhận Ngài.


3. Đức công chính của Đức Chúa Trời (Rô 9:19-29)

Nhưng quyền tể trị của Đức Chúa Trời dường như chỉ tạo ra nan đề mới. “Nếu Đức Chúa Trời tể trị, vậy ai có thể chống lại Ngài được? Và nếu có ai chống lại Ngài, Ngài phải phán xét theo lẽ công bình nào?” Đó là câu hỏi về sự chính trực của Đức Chúa Trời từ xa xưa khi Ngài hành động trong lịch sử loài người.


Tôi nhớ đã chia sẻ trong một cuộc họp ngoài trời tại Chicago và phân phát những tờ truyền đạo đơn tại góc đường Madison và Kedzie. Hầu hết mọi người đều tử tế nhận các truyền đạo đơn, nhưng có một người cầm lấy tờ truyền đạo đơn và vò nát nó rồi ném xuống rãnh nước. Tên của truyền đạo đơn ấy là “Bốn Điều Đức Chúa Trời Muốn Bạn Biết”.


Người đàn ông ấy nói, “Tôi muốn Đức Chúa Trời chẳng cần biết điều gì cả! Tại sao có quá nhiều sầu khổ và thảm kịch xảy ra trên thế giới này? Tại sao người vô tội chịu đau khổ trong khi kẻ giàu cứ được hanh thông? Chà! Đừng nói với tôi có một Đức Chúa Trời! Nếu có Đức Chúa Trời, thì Đức Chúa Trời là tội nhân lớn nhất từng sống trên đời!”.

Và anh ta chế nhạo bỏ đi và mất hút trong đám đông.


Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời hoàn toàn chính trực theo bản thể. “Đấng xét đoán toàn thế gian há không làm điều công bình sao?” (Sa 18:25). Thật không thể nghĩ ra được Đức Chúa Trời sẽ dự định một mục đích bất công hay thực hiện một hành động bất công. Nhưng nhiều lúc xem dường như Ngài làm đúng như vậy. Ngài bày tỏ sự thương xót đối với Môi-se nhưng lại đoán phạt Pha-ra-ôn. Điều đó có công bình không? Ngài lựa chọn dân Y-sơ-ra-ên nhưng lại loại bỏ các dân tộc khác. Điều đó có công bình không? Phao-lô đã nêu lên 3 câu trả lời cho sự tố cáo này.


a. Chúng ta là ai mà dám tranh luận với Đức Chúa Trời? (Rô 9:19-21).

Đây là một lập luận hợp lý.

Đức Chúa Trời là người thợ và chúng ta thật ngu dại khi chất vấn ý chỉ của Ngài hoặc đề kháng lại (tham khảo Es 45:9). Chắc chắn đất sét không có sự sống và thụ động trong tay người thợ gốm. Chúng ta có xúc cảm, sự hiểu biết và sức mạnh ý chí và chúng ta có thể chống lại Ngài nếu chúng ta muốn (Gie 19:1-23 nơi ý này được khai triển).

Nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng quyết định một ai đó sẽ là Môi-se hay Pha-ra-ôn. Môi-se hay Pha-ra-ôn hay bất cứ ai khác đều không có thể chọn cha mẹ cho chính mình, không thể chọn hình dáng, thời gian hay nơi ra đời. Chúng ta phải tin rằng những vấn đề này hoàn toàn nằm trong tay Đức Chúa Trời.


Tuy nhiên điều này không phải là cớ để chúng ta thoái thác trách nhiệm. Pha-ra-ôn có vô số dịp tiện tốt để học biết về Đức Chúa Trời chân thật và tin cậy Ngài, dầu vậy ông đã phản loạn. Phao-lô không khai triển khía cạnh này của chân lý vì đề tài của ông là sự tể trị thiên thượng, không phải là trách nhiệm của con người. Điều này không loại bỏ điều kia, dầu rằng tâm trí hữu hạn của chúng ta không thể hoàn toàn nắm bắt được cả hai.


b. Đức Chúa Trời có những mục đích của Ngài (Rô 9:22-24).

Chúng ta đừng bao giờ nghĩ rằng Đức Chúa Trời thích nhìn một người bạo chúa như Pha-ra-ôn. Ngài đã chịu đựng Đức Chúa Trời phán với Môi-se: “Ta đã thấy rõ sự cực khổ của dân ta.. có nghe tiếng kêu rêu... ta biết nỗi đau đớn của chúng” (Xu 3:7).

Sự kiện Đức Chúa Trời nhịn nhục cho thấy Ngài đã cho Pha-ra-ôn những dịp tiện để được cứu (IIPhi 3:9). Chữ “sẵn cho” trong Rô 9:22 không có ý nói rằng Đức Chúa Trời khiến Pha-ra-ôn trở thành “cái bình của sự thạnh nộ”. Theo văn phạm Hy-lạp thì động từ này có tính chất phản thân.

Như vậy chúng ta có thể đọc là: “sẵn sàng chính mình cho sự hủy diệt” Đức Chúa Trời chuẩn bị con người cho sự xét đoán. Trong Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên Đức Chúa Trời bày tỏ sự dư dật của sự thương xót Ngài, trong Pha-ra-ôn và dân Ai-cập. Ngài bày tỏ quyền năng và sự thương xót thì Đức Chúa Trời cũng không thể bị gán cho là không công bình.


Dĩ nhiên, về cơ bản, Đức Chúa Trời đã chọn cả người Do-thái và dân ngoại để thành lập Hội thánh Ngài (Rô 9:24). Bởi ân điển của Đức Chúa Trời Cơ-đốc nhân ngày nay là “những bình của sự thương xót mà Ngài đã chuẩn bị cho sự vinh hiển,” một chân lý nhắc chúng ta nhớ đến Rô 8:29-30.


c. Tất cả điều này đã được nói tiên tri (Rô 9:25-29).

Trước hết Phao-lô trích dẫn Os 2:23 một câu nói công bố rằng Đức Chúa Trời đã quay khỏi dân Do-thái và kêu gọi dân ngoại. Kế đó ông trưng dẫn Os 1:10 để minh chứng rằng dân tộc mới được gọi này sẽ là dân của Đức Chúa Trời và “con cái của Đức Chúa Trời hằng sống”.

Sau đó ông trưng dẫn Es 10:22-23 để tỏ cho thấy chỉ có một phần sót lại của dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, trong lúc phần lớn dân tộc phải chịu sự xét đoán. Câu 28 có thể đề cập đến công việc xét đoán của Đức Chúa Trời trong thời kỳ đại nạn, khi dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ bị bắt bớ và đoán xét, và chỉ có một phần nhỏ sót lại được bước vào vương quốc khi Chúa Giê-xu Christ trở lại trần gian. Nhưng sự ứng dụng cho ngày nay thật rất rõ: chỉ có một phần nhỏ dân tộc Do-thái tin nhận Chúa và họ cùng với dân ngoại là “những người được gọi của Đức Chúa Trời” (Rô 9:24)

Trích dẫn cuối cùng là ở Es 1:9 nhấn mạnh đến ân điển của Đức Chúa Trời trong việc chừa lại số nhỏ người tin. Bây giờ, tất cả những điều này chứng tỏ điều gì? Có phải Đức Chúa Trời bất công khi cứu một số người và đoán phạt một số khác, bởi vì Ngài chỉ làm ứng nghiệm những lời tiên tri trong Cựu-ước được công bố hàng bao thế kỷ trước.

Ngài sẽ là bất công nếu không giữ các lời hứa của Ngài. Nhưng còn hơn thế nữa, những lời tiên tri này cho thấy rằng sự lựa chọn của Đức Chúa Trời đã khiến sự cứu chuộc có thể thành hiện thực đối với dân ngoại. Đây là ân điển của Đức Chúa Trời. Vào thời Xuất Ai-cập, Đức Chúa Trời từ chối dân ngoại và tuyển chọn dân Do-thái, để có thể qua dân Do-thái, Ngài có thể cứu dân ngoại. Dân tộc Y-sơ-ra-ên từ chối ý chỉ Ngài, nhưng điều này không làm thất bại mục đích của Ngài. Một phần nhỏ dân Do-thái đã tin và Lời Đức Chúa Trời đã được ứng nghiệm.


Cho đến bây giờ, Phao-lô đã bảo vệ bản tính của Đức Chúa Trời bằng cách bày tỏ sự thành tín, công bình và công lý của Ngài. Sự chối từ của dân Y-sơ-ra-ên không loại bỏ sự tuyển chọn của Đức Chúa Trời, điều này chỉ cho thấy Đức Chúa Trời là chân thật đối với bản tính và mục đích của Ngài.


4. Ân điển của Đức Chúa Trời (Rô 9:30-33)

Phao-lô chuyển từ quyền tự trị của Đức Chúa Trời sang sự tự nhiệm của con người. Hãy lưu ý Phao-lô không nói “chọn” hay “không chọn” nhưng đúng hơn ông nhấn mạnh về đức tin.

Đây là một nghịch lý: Người Do-thái tìm kiếm sự công bình nhưng không tìm được trong lúc dân ngoại không tìm lại gặp được. Lý do tại sao? Người Y-sơ-ra-ên cố gắng tìm sự cứu rỗi bởi việc làm chớ không bởi đức tin. Họ chối bỏ “sự công nghĩa ân điển” và tìm cách làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bằng “sự công nghĩa luật pháp”. Người Do-thái nghĩ rằng dân ngoại phải tiến lên bình diện ngang hàng với người Do-thái để được cứu. Chẳng có sự phân biệt gì hết.

“Vì mọi người đều đã phạm tội thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Rô 3:22,23). Thay vì để cho những đặc quyền tôn giáo của họ (Rô 9:1-5) dẫn họ đến với Đấng Christ, họ lại dùng những đặc quyền này để thế chỗ cho Đấng Christ.


Nhưng hãy xem ân điển của Đức Chúa Trời: Sự loại bỏ của dân Y-sơ-ra-ên có nghĩa là sự cứu chuộc của dân ngoại. Lời trích cập đến Đấng Christ, Vầng đá cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Thi 118:22) Đức Chúa Trời đã ban Đấng Christ như đá nền nhà cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ đã chối từ Ngài và Ngài đã trở nên một hòn đá vấp chân.

Thay vì được cất cao lên từ đá này, dân Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống (Rô 11:11), nhưng như chúng ta sẽ thấy, sự ngã xuống của họ đã giúp cho sự cứu rỗi dành cho dân ngoại bởi ân điển của Đức Chúa Trời được thực hiện.


Chúng ta phải quyết định xem loại công nghĩa nào chúng ta đang tìm kiếm, hoặc chúng ta đang nhờ vào những việc công đức và bản tánh hay đang tin cậy chỉ một mình Đấng Christ để được sự cứu rỗi. Đức Chúa Trời không cứu con người trên căn bản huyết thống hay hành vi, Ngài cứu họ “nhờ ân điển bởi đức tin” (Eph 2:8,9).

Vấn đề không phải là chúng ta có ở trong vòng những ngừơi được lựa chọn hay không –Đây là một huyền nhiệm chỉ có Đức Chúa Trời biết. Ngài đã cống hiến cho chúng ta sự cứu chuộc bởi đức tin. Sự cống hiến của Ngài dành cho “bất cứ ai muốn” (Kh 22:17).

Sau khi đã tin cậy Đấng Christ chúng ta có lời chứng và bằng cớ rõ ràng rằng chúng ta đang ở trong vòng những người được chọn (Eph 1:4-14; ITês 1:1-10). Nhưng trước hết, chúng ta phải tin cậy Ngài và bởi đức tin nhận sự công nghĩa của Ngài điều duy nhất có thể đảm bảo thiên đàng cho chúng ta.


Tất cả mọi người đều thừa nhận rằng có vô số điều huyền nhiệm liên hệ với vấn đề quyền tể trị của Đức Chúa Trời và quyền tự nhiệm của con người. Không có chỗ nào Đức Chúa Trời yêu cầu chúng ta chọn một trong hai chân lý này, vì cả hai đều đến từ Đức Chúa Trời và là một phần của kế hoạch của Đức Chúa Trời. Chúng không trọn vẹn nhưng chúng kết hợp với nhau. Sự kiện chúng ta không thể hiểu cách đầy đủ về cách chúng phối hợp với nhau không chối bỏ sự kiện chúng có kết hợp với nhau.

Khi có người hỏi Charles Spurgeon về cách thế nào có thể hoà giải được giữa quyền tể trị của Đức Chúa Trời và quyền tự nhiệm của con người, Spurgeon đáp: “Tôi chưa bao giờ thử hòa giải cả, các bạn!”


Nhưng sự nhấn mạnh của chương này đã rõ: Sự chối bỏ Đấng Christ của dân Y-sơ-ra-ên không chối từ sự thành tín của Đức Chúa Trời. Rô 9:1-33 không phủ nhận Rô 8:1-39 Đức Chúa Trời vẫn thành tín, công nghĩa, công minh, đầy ân điển, Ngài chắc chắn sẽ hoàn thành những mục đích của Ngài và giữ những lời Ngài hứa.



 


10. SỰ CÔNG BÌNH SAI (Rô 10:1-21)


Chủ đề của chương này là trong hiện tại dân Y-sơ-ra-ên bị từ bỏ. Phao-lô đi từ chủ đề tể trị đời đời của Đức Chúa Trời (chương 9) đến trách nhiệm của con người. Ông tiếp tục bàn về chủ đề công bình được giới thiệu ở cuối chương trước (Rô 9:30-33) và giải thích ba khía cạnh về việc dân Y-sơ-ra-ên từ chối Chúa.


1. Những lý do họ chối bỏ Chúa (Rô 10:1-13)

Bạn nghĩ rằng là một dân tộc, dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn sẽ mong đợi sự đến của Đấng Mê-si-a và được chuẩn bị để đón nhận Ngài.

Trải qua nhiều thế kỷ họ đã biết các lời tiên tri trong Cựu-ước và đã gìn giữ luật pháp, là “giáo sư” dẫn dắt họ đến với Đấng Christ (Ga 3:24). Đức Chúa Trời đã tìm cách chuẩn bị một dân tộc, nhưng khi Chúa Giê-xu Christ đến, họ lại khước từ Ngài. “Ngài đến trong xứ mình nhưng dân mình chẳng hề nhận lấy” (Gi 1:11).

Chắc chắn, còn một số người sót lại trong dân sự tìm kiếm sự đến của Ngài, như cụ Si-mê-ôn và cụ bà An-ne (Lu 2:25-28) nhưng đại đa số dân chúng không sẵn sàng lúc Ngài đến.


Chúng ta giải thích bi kịch này như thế nào? Phao-lô đưa ra một vài lý lo tại sao dân Y-sơ-ra-ên từ chối Đấng Mê-si-a của họ.


a. Họ không thấy cần được cứu rỗi (Rô 10:1)

- Có lần Phao-lô đã đồng ý với dân sự của ông, vì chính người đã chống lại Phúc-Âm và coi Chúa Giê-xu Christ là kẻ mạo danh. Dân Y-sơ-ra-ên cho rằng người ngoại bang cần đến sự cứu rỗi, chớ chắc chắn không phải người Do-thái.Trong một số thí dụ của Ngài, Chúa Giê-xu chỉ ra thái độ sai lầm này: Người Anh Cả trong câu chuyện Người Con Trai Hoang Đàng (Lu 15:11-32) và người Pha-ri-si (Lu 18:9-14) là hai thí dụ.

Chắc chắn dân Y-sơ-ra-ên sẽ vui mừng vì được thoát khỏi ách nô lệ của chính quyền Rô-ma, nhưng họ không thấy rằng họ cần cứu thoát khỏi tội lỗi về phương diện thiêng liêng


b. Họ có lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời (Rô 10:2)

- Kể từ khi dân Y-sơ-ra-ên từ chốn phu tù Ba-by-lôn trở về xứ của họ, dân sự đã được chữa khỏi sự thờ lạy hình tượng. Trong đền thờ và trong nhà hội địa phương, họ chỉ thờ phượng và hầu việc Đức Chúa Trời chân thật, và chỉ dạy dỗ luật pháp chân thật mà thôi. Những người Do-thái sốt sắng đến nỗi họ chỉ “thực hiện luật pháp” và thêm vào các truyền thống của họ, làm cho chúng ra ngang bằng với luật pháp. Chính Phao-lô đã từng sốt sắng về luật pháp và các truyền thống (Công 26:1-11; Ga 1:13-14).


Nhưng sự sốt sắng của họ không dựa trên sự hiểu biết đó là sức nóng mà không có ánh sáng. Buồn thay, ngày nay nhiều người theo tôn giáo ngày nay cùng một sai lầm như vậy. Họ cho rằng làm việc thiện và giữ các lễ nghi tôn giáo sẽ cứu được họ, nhưng trong khi thực hành những việc này lại thực sự ngăn trở họ không được cứu. Chắc chắn có nhiều người trong số họ có lòng chân thành và sùng đạo, nhưng sự chân thành và tận hiến sẽ chẳng bao giờ cứu được linh hồn họ. “Vì chẳng có người nào bởi việc làm theo luật pháp mà được xưng công bình trước mặt Ngài” (Rô 3:20).


c. Họ kiêu ngạo và tự cho mình là công bình (Rô 10:3)

- Dân Y-sơ-ra-ên không biết về sự công bình của Đức Chúa Trời, không phải do không có ai rao giảng cho họ biết, nhưng vì họ không chịu học biết. Có sự dốt nát do thiếu cơ hội, nhưng dân Y-sơ-ra-ên có nhiều cơ hội để được cứu.

Trong trường hợp của họ, đó là sự dốt nát xuất phát từ việc họ cố tình ương bướng chống lại chân lý. Họ không đầu phục Đức Chúa Trời. Họ tự hào về những việc làm tốt đẹp của họ và hãnh diện về công bình tự tạo của mình, họ không thừa nhận tội lỗi và tin cậy Đấng Cứu Rỗi. Phao-lô đã phạm cùng sai lầm này trước khi ông gặp Chúa (Phi 3:1-11).


Nhà truyền đạo đầy ơn của Hội thánh Trưởng Lão, ông Robert Murray McCheyne, ngày kia đang đứng phát các truyền đạo đơn và ông ta trao một truyền đạo đơn cho một phụ nữ ăn mặc lịch sự. Bà ta nhìn ông một cách kiêu kỳ và nói, “Thưa ông, ông không biết tôi là ai ư!”

McCheyne đáp lại nhã nhặn, “Thưa bà, sẽ có ngày đoán xét xảy ra, và vào ngày ấy bà là ai chẳng có gì là quan trọng!”


d. Họ hiểu sai luật pháp của họ (Rô 10:4-13)

- Mọi điều dạy về Do-thái giáo đều chỉ cho thấy Đấng Mê-si-a sẽ đến -đó là của lễ hi sinh, chức thầy tế lễ, sự hầu việc trong đền thờ, những kỳ lễ, và các lời giao-ước. Luật pháp cho họ biết họ là tội nhân cần đến Đấng Cứu Rỗi.

Nhưng thay vì để luật pháp mang họ đến với Đấng Christ (Ga 3:24), họ lại thờ lạy luật pháp và chối bỏ ơn cứu rỗi. Luật pháp là bảng chỉ đường cho biết hướng đi. Nhưng nó không thể đưa họ đến nơi cần đến. Luật pháp không thể cho sự công bình nó chỉ đưa tội nhân đến với Đấng Cứu Rỗi Đấng có thể ban cho sự công bình.


Đấng Christ là “cuối cùng của luật pháp” trong ý nghĩa thông qua sự chết và sống lại của Ngài, Ngài hoàn tất công việc của luật pháp đối với những người đặt lòng tin vào Ngài. Về phần các Cơ-đốc nhân luật pháp đã được chấm dứt. Sự công bình của luật pháp đang được trọn vẹn trong đời sống của người tin Chúa qua quyền phép của Thánh Linh (Rô 8:4) nhưng sự cai trị của luật pháp chưa chấm dứt. (Eph 2:15; Co 2:14). “Bởi anh em chẳng thuộc dưới luật pháp mà thuộc dưới ân điển” (Rô 6:14).


Phao-lô trích dẫn từ Cựu-ước để chứng tỏ cho người đọc thấy họ không hiểu luật pháp của họ. Ông bắt đầu với Le 18:5 cho biết mục đích của luật pháp: nếu các ngươi vâng giữ nó, các ngươi sẽ sống.

Họ sẽ lý lẽ, “Nhưng chúng tôi đã vâng giữ luật pháp!”

Phao-lô đáp lại, “Có thể anh em đã vâng giữ luật pháp bề ngoài, nhưng trong lòng anh em không tin luật pháp”. Rồi ông trích dẫn Phuc 30:12-14 và nêu ra cho phân đoạn này một ý nghĩa thuộc linh sâu sắc. Chủ đề của sứ điệp Môi-se là “bảng điều răn” (Phuc 30:11), nói đến Lời Đức Chúa Trời. Môi se lập luận rằng người Do-thái không có lý do nào không vâng theo Lời Đức Chúa Trời vì Lời Ngài đã giảng dạy rõ ràng cho họ và Lời ấy không ở xa họ.

Thật ra, Môi-se kêu gọi họ nhận lấy Lời Đức Chúa Trời vào lòng mình. (Phuc 5:29; Phuc 6:5-12; Phuc 13:3; Phuc 30:6). Điểm nhấn mạnh trong sách Phục-truyền nhằm vào tấm lòng, tình trạng thuộc linh bên trong chớ không chỉ là những hành động vâng giữ bên ngoài.


Phao-lô cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết thiêng liêng về lời khuyên dạy này. Ông thấy “điều răn” hoặc “Lời Kinh Thánh” có nghĩa như là “Đấng Christ, Lời của Đức Chúa Trời”. Do vậy, ông thay thế “Đấng Christ” cho “điều răn”. Ông cho chúng ta biết phương cách cứu rỗi của Đức Chúa Trời không phải khó khăn và phức tạp.

Chúng ta không phải lên trời tìm Đấng Christ, hoặc đi vào thế giới người chết. Ngài ở gần chúng ta.

Nói cách khác, Phúc-Âm Đấng Christ - Lời của đức tin - có sẵn và có thể sử dụng được. Tội nhân không cần phải có những việc làm khó khăn để được cứu. Tất cả những gì người ấy phải làm là tin nhận Đấng Christ. Chính Lời ở trên môi miệng những người Do-thái theo đạo là Lời của đức tin. Chính luật pháp họ đọc và thuộc nằm lòng chỉ cho họ thấy Đấng Christ.


Lúc này Phao-lô trích dẫn Es 28:16 để chỉ cho họ thấy rằng sự cứu rỗi là bởi đức tin: “Kẻ nào tin Ngài sẽ chẳng bị hổ thẹn”. Ông đã trích dẫn câu này trước đây trong Rô 9:33. Trong Rô 10:9-10 ông nói rõ rằng sự cứu rỗi là bởi đức tin -chúng ta tin bởi trong lòng, nhận lãnh sự công bình của Đức Chúa Trời, và rồi công khai xưng nhận Đấng Christ không chút hổ thẹn.


Lời trích dẫn cuối cùng Phao-lô nêu ra trong Gio 2:32 chứng tỏ rằng sự cứu rỗi này rộng mở đối với tất cả mọi người: “Bấy giờ ai cầu khẩn danh Đức Giê-hô-va thì sẽ được cứu”. Phao-lô đã minh chứng rằng “chẳng có sự khác nhau nào” trong án phạt (Rô 3:20-23) bây giờ ông khẳng định rằng “chẳng có sự khác biệt nào” trong sự cứu rỗi. Thay vì người Do-thái có sự công bình đặc biệt bởi luật pháp, họ bị kể là tội nhân giống như dân ngoại họ đã lên án.


Toàn bộ phần này nhấn mạnh đến sự khác biệt giữa “sự công bình của luật pháp” và “sự công bình của đức tin”. Chúng ta thấy được những điểm tương phản trong tóm tắt dưới đây:


-Sự Công Bình của Luật Pháp

-Sự Công Bình của Đức Tin

Chỉ dành cho người Do-thái

Dành cho “bất cứ người nào”

Căn cứ trên việc làm

Đến chỉ bởi đức tin

Công bình riêng

Công bình của Đức Chúa Trời

Không thể cứu được

Mang đến ơn cứu rỗi

Ra sức vâng lời Chúa

Đến với Chúa

Dẫn đến sự kiêu ngạo

Làm vinh hiển Đức Chúa Trời

Giải thích xong các nguyên nhân dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ sự công bình của Đức Chúa Trời, Phao-lô đi đến khía cạnh kế tiếp của vấn đề.


2. Phương thuốc chữa trị sự chối bỏ của họ (Rô 10:14-17)

Phân đoạn này thường dùng làm nền tảng cho chương trình truyền giảng của Hội thánh, và đúng như vậy, nhưng bài học ứng dụng trước tiên dành cho dân Y-sơ-ra-ên.Cách duy nhất để người Do-thái có thể được cứu ấy là do kêu cầu Chúa. Nhưng trước khi họ có thể kêu cầu Ngài, họ phải tin.

Đối với người Do-thái, điều này có nghĩa tin rằng Chúa Giê-xu Christ ở Na-xa-rét thật sự là Con Đức Chúa Trời và là Đấng Mê-si-a của dân tộc Y-sơ-ra-ên. Điều đó cũng có nghĩa là tin vào sự chết và sống lại của Ngài (Rô 10:9-10).

Nhưng để tin, họ phải nghe Lời Kinh Thánh, vì chính Lời Chúa tạo dựng đức tin trong lòng người nghe (Rô 10:17). Điều này có nghĩa là người rao giảng Lời Chúa phải được sai đến, và chính Chúa là Đấng sai phái. Ở đây có thể Phao-lô đã nhớ lại ơn Chúa kêu gọi ông rao giảng Lời Chúa cho dân ngoại (Công 13:1-3).


Lời trích dẫn trong Rô 10:15 tìm thấy trong Es 52:7 và Na 1:15. Sự kiện nêu trong sách Na-hum có liên quan đến đế quốc A-si-ri bị tàn diệt, kẻ thù đáng ghét của dân Do-thái.

Ni-ni-ve là thành phố quan trọng của dân A-si-ri, một thành phố gian ác mà Đức Chúa Trời đã sai tiên tri Giô-na đến rao ra lời tiên tri trước khi Na-hum viết sách khoảng 150 năm. Đức Chúa Trời đã nhịn nhục với dân thành Ni-ni-ve, nhưng bây giờ cơn đoán phạt của Ngài sắp đổ xuống. Sứ giả đã mang đến cho dân Do-thái cũng chính “tin tức tốt lành” này, và điều này làm cho bàn chân của ông trở nên tốt đẹp biết bao.


Tiên tri Ê-sai dùng câu nói này cho biến cố tương lai - biến cố Đấng Christ trở lại và lập nước vinh hiển của Ngài. “Đức Chúa Trời ngươi trị vì!” (Es 52:7-10). Sứ giả có bàn chân đẹp đẽ rao báo rằng Đức Chúa Trời đã đánh bại các kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên và Đấng Mê-si-a đang trị vì tại Giê-ru-sa-lem.


Nhưng Phao-lô dùng lời trích dẫn vào bài học ứng dụng trong hiện tại: ngày nay các sứ giả Phúc-Âm mang Tin Lành đến cho dân Y-sơ-ra-ên. “Bình an” được nói đến là “sự hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Rô 5:1) và là sự bình an Đấng Christ đã tác động giữa dân Do-thái và dân ngoại bởi sự hiệp một Thân, là Hội thánh (Eph 2:13-17). Phương thuốc chữa sự chối bỏ của dân Y-sơ-ra-ên là nghe Lời rao giảng của Phúc-Âm và tin vào Chúa Giê-xu Christ.


Es 53:1 là lời trích dẫn tiếp theo của Phao-lô, chứng tỏ không phải tất cả dân Y-sơ-ra-ên đều sẽ vâng Lời Ngài. Câu Kinh Thánh giới thiệu một trong những chương vĩ đại nhất trong Cựu-ước nói về Đấng Mê-si-a. Theo truyền thuyết, các học giả Do-thái đã áp dụng Es 53:1-12 cho dân Y-sơ-ra-ên hơn là cho Đấng Mê-si-a nhưng nhiều ra-bi cổ xưa nhìn thấy trong chương sách này hình ảnh một Đấng Mê-si-a chịu đau đớn thay cho tội lỗi của nhiều người. (Công 8:26-40).

Trong thời của tiên tri Ê-sai, người ta không tin Lời Đức Chúa Trời, ngày nay họ cũng không tin. Gi 12:37-41 dẫn chứng Es 53:1 để giải thích thế nào dân sự thấy các phép lạ của Đấng Christ nhưng vẫn không chịu tin. Vì họ không tin, nên sự phán xét giáng trên họ và họ không thể tin được.


Hãy lưu ý tin nhận Đấng Christ không những là vấn đề tin mà thôi, nhưng còn là chuyện vâng lời nữa. Không tin vào Đấng Christ là không vâng phục Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời “ra lệnh các ngươi trong mọi nơi phải ăn năn” (Công 17:30). Rô 6:17 cũng coi “việc tin” tương đương với “việc vâng lời”. Đức tin thật phải đụng đến lý trí và kết quả là đời sống được đổi mới.


Chúng ta đừng bao giờ đánh giá thấp việc truyền giảng ngoài phạm vi Hội thánh. Trong khi phân đoạn này đề cập chủ yếu đến dân Y-sơ-ra-ên, thì nó cũng áp dụng cho tất cả linh hồn hư mất trên khắp thế giới. Họ không thể được cứu nếu không kêu cầu Chúa Giê-xu Christ. Nhưng Chúa cũng không thể cứu được họ nếu họ không tin.Đức tin đến bởi sự người ta nghe, vì thế họ phải nghe sứ điệp. Họ sẽ nghe như thế nào? Sứ giả phải đến mang sứ điệp đến với họ. Nhưng điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời phải kêu gọi sứ giả và sai phái sứ giả. Quả là một đặc ân khi làm một trong những sứ giả của Ngài và có được bàn chân tốt đẹp!


Khi tôi viết chương này, điện thoại trong phòng tôi reo vang và một trong những doanh nhân trong Hội thánh chúng tôi báo cho biết một linh hồn đã trở lại tiếp nhận Đấng Christ. Người gọi điện cho tôi đã gặp phải những nan đề nghiêm trọng cách đây vài năm và tôi đã giúp được ông ta. Kể từ thời gian ấy, ông ta đã dẫn đưa nhiều người đến với Đấng Christ, kể cả một số nhân viên trong văn phòng ông ta.

Cú điện thoại của ông đem đến cho tôi một tin vui, ông cho biết một trong những cộng sự của ông ta đã dắt dẫn người bạn đến với Đấng Christ, một phép lạ khác trong chuỗi sự kiện thuộc linh liên tục xảy ra ba năm nay. Bạn tôi có bàn chân tốt đẹp, và ông chia sẻ Tin mừng Phúc-Âm tại bất cứ nơi nào ông đặt chân đến.


Một số trong chúng ta chia sẻ tin mừng này tại nhà, nhưng những người khác được sai đến những vùng xa xôi. Mặc dầu một số nhà không tiếp nhận, nhưng vẫn có nhiều gia đình mở cửa đón tiếp Phúc Âm nhiều hơn trước đây và chúng ta có được nhiều công cụ tốt hơn trong việc rao giảng Tin Mừng.

Bạn tôi Tiến sĩ E. Meyers Harrison, một cựu truyền giáo và giáo sư môn truyền giáo, nói rằng có bốn nguyên do tại sao Hội thánh phải sai phái giáo sĩ: (1) mệnh lệnh từ trên cao - “hãy đi khắp thế gian...” (Mac 16:15) (2) tiếng kêu khóc từ bên dưới - “hãy sai anh ta đến với nhà cha tôi” (Lu 16:27) (3) tiếng gọi từ bên ngoài - “hãy qua cứu giúp chúng tôi” (Công 16:9) và (4) sự nài ép từ bên trong - “tình yêu của Đấng Christ thôi thúc chúng tôi” (IICôr 5:14).

Phao-lô còn bàn đến khía cạnh thứ ba trong sự từ chối của dân Y-sơ-ra-ên.


3. Kết quả của việc họ từ chối (Rô 10:18-21)

Có ba kết quả, mỗi kết quả được soi sáng bằng một dẫn chứng trong Cựu-ước.

a. Dân Y-sơ-ra-ên phạm tội (Rô 10:18)

- Có lẽ vài người sẽ tranh luận với Phao-lô: “Nhưng làm thế nào ông biết được dân Y-sơ-ra-ên thật sự đã nghe?” Chắc chắn lời đáp của ông nằm trong Thi 19: 4 một thi-thiên nhấn mạnh đến việc Đức Chúa Trời bày tỏ Ngài ra trong thế gian. Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài qua sự sáng tạo (Thi 19:1-6) và qua Lời của Ngài (Thi 19:7-11).

“Sách thiên nhiên” và “Sách Mặc Khải” đi đôi với nhau và rao ra sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên có được lợi ích về cả hai quyển sách, vì họ nhìn thấy Đức Chúa Trời hành động qua thiên nhiên và nhận lãnh lời Đức Chúa Trời đã chép. Dân Y-sơ-ra-ên đã nghe, nhưng họ không chú ý. Chẳng có gì ngạc nhiên khi Chúa Giê-xu thường phán với đoàn dân đông, “Ai có tai mà nghe hãy nghe!”


b. Sứ điệp gởi đến cho Dân Ngoại (Rô 10:19-20)

- Ân điển thật lạ lùng! Khi dân Y-sơ-ra-ên chối bỏ Đấng Mê-si-a của họ, Đức Chúa Trời sai phái sứ giả mang Phúc-Âm đến cho dân ngoại để họ có thể được cứu. Điều này được Môi-se báo trước trong Phuc 32:21. Phao-lô đã nhắc đến chân lý này từ trước trong Rô 9:22-26.

Một lý do tại sao Đức Chúa Trời gởi Phúc-Âm đến cho dân ngoại là họ có thể khích động dân Do-thái tranh đua (Rô 10:19; Rô 11:11). Đó là hành động ân điển dành cho cả người Do-thái và người ngoại bang. Tiên tri Ê-sai cũng đã tiên báo rằng Đức Chúa Trời sẽ cứu dân ngoại (Es 65:1).


Khi nghiên cứu Tân-ước bạn sẽ khám phá ra rằng “trước cho người Do-thái” là nguyên tắc hoạt động chính yếu. Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ của Ngài với người Do-thái. Ngài không cho phép môn-đệ Ngài giảng đạo cho người ngoại bang hoặc người Sa-ma-ri khi Ngài sai họ thực hiện chuyến ra đi truyền giáo đầu tiên (Mat 10:1-6). Sau khi Ngài sống lại, Ngài yêu cầu họ chờ đợi trong thành Giê-ru-sa-lem và bắt đầu chức vụ của họ tại đó (Lu 24:46-49; Công 1:8).

Trong bảy chương đầu tiên của sách Công-vụ, chức vụ của các môn đệ chỉ dành cho người Do-thái mà thôi, hoặc cho những người ngoại bang đã theo đạo Do-thái. Nhưng khi dân sự ném đá Ê-tiên và cơn bắt bớ nổ ra, Đức Chúa Trời sai người đem Phúc-Âm đến cho người Sa-ma-ri (Công 8:1-8), và sau đó cho người ngoại bang (Công 10:1-48).


Tín hữu người Do-thái kinh ngạc khi Phi-e-rơ đi đến với người ngoại bang (Công 11:1-18). Nhưng ông giải thích rằng chính Đức Chúa Trời sai ông và Ngài dạy cho ông biết rõ rằng cả người Do-thái và ngoại bang đều được cứu cùng một cách -bởi tin nơi Chúa Giê-xu Christ.

Nhưng sự phản đối của những người Do-thái theo luật pháp quá mạnh đến nỗi Hội thánh phải triệu tập một hội đồng để thảo luận vấn đề đang tranh cãi. Nội dung cuộc họp hội đồng này được chép trong Công 15:1-33. Kết cuộc của cuộc bàn thảo đó là người Do-thái và ngoại bang tất cả đều được cứu bởi tin nơi Đấng Christ, và kết luận rằng người ngoại bang không cần phải trở thành người Do-thái trước khi trở thành Cơ-đốc nhân.


c. Đức Chúa Trời vẫn hướng về dân sự của Ngài (Rô 10:21)

- Lời này trích dẫn trong Es 65:2. Chắc chắn “Trọn ngày dài” liên hệ đến “ngày cứu rỗi” trong thời hiện tại hoặc thời ân điển chúng ta đang sống. Trong khi dân Y-sơ-ra-ên là đất nước bị loại ra ngoài, cá nhân người Do-thái có thể được cứu và đang được cứu.

Cụm từ “trọn ngày dài” khiến chúng ta nghĩ đến chức vụ của Phao-lô dành cho người Do-thái ở Rô-ma khi ông đến đó làm người tù. “Từ sáng đến chiều tối” Phao-lô trình bày Phúc-Âm cho họ và thuyết phục họ rằng Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a (Công 28:23).

Qua Phao-lô, Đức Chúa Trời giang rộng cánh tay yêu thương Ngài đến với người không vâng lời Ngài, hướng về họ và kêu gọi họ trở lại. Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đối cùng dân ngoại chẳng đổi thay tình yêu của Ngài dành cho người Do-thái.


Đức Chúa Trời muốn sử dụng chúng ta chia sẻ Phúc-Âm cho cả người Do-thái và ngoại bang. Đức Chúa Trời có thể dùng đôi chân và đôi tay chúng ta như Ngài đã dùng Phao-lô. Chúa Giê-xu Christ khóc về thành Giê-ru-sa-lem và mong mỏi tập họp dân sự Ngài lại trong cánh tay Ngài! Thay vào đó, cánh tay Ngài phải giang ra trên thập tự giá nơi Ngài bằng lòng chết thay cho người Do-thái cũng như ngoại bang.

“Đức Chúa Trời nhịn nhục chờ đợi không muốn cho người nào chết mất nhưng muốn mọi người ăn năn” (IIPhi 3:9).


Lòng kiên nhẫn của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên sẽ phai nhạt chăng? Có tương lai nào dành cho đất nước này không? Vâng có, như chúng ta sẽ thấy trong chương kế tiếp.



 


11. ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG CẮT ĐỨT LIÊN HỆ VỚI DÂN Y-SƠ-RA-ÊN SAO! (Rô 11:1-36)


Trải qua nhiều thế kỷ con người đã bị dân Y-sơ-ra-ên gây bối rối. Chính quyền Rô-ma thừa nhận Do thái giáo, nhưng vẫn gọi đất nước này là secta nefaria - “một tôn giáo bất chính”. Đại sử gia Arnold Toynbee xếp dân Y-sơ-ra-ên vào hạng “nền văn minh hóa thạch” và không biết phải làm gì với nền văn minh ấy. Vì lý do nào đó, đất nước không phù hợp với những quan điểm về lịch sử.


Phao-lô dành trọn Rô-ma chương 11 để đưa ra chứng cứ cho thấy Đức Chúa Trời không cắt đứt quan hệ với dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta không nên áp dụng chương này cho Hội thánh ngày nay, vì Phao-lô muốn bàn đến một tương lai đích thực dành cho một dân tộc. Ông gọi năm nhân chứng để minh chứng có một tương lai dành cho người Do-thái nằm trong chương trình của Đức Chúa Trời.


1. Chính Phao-lô (Rô 11:1)

“Đức Chúa Trời có bỏ dân Ngài chăng? Chẳng hề như vậy! Vì chính tôi là dân Y-sơ-ra-ên!” Nếu Đức Chúa Trời bỏ dân Ngài, làm thế nào có thể giải thích sự tin đạo của Sứ-đồ Phao-lô? Sự kiện trở lại đạo của Phao-lô được nêu ra ba lần trong sách Công-vụ thật là quan trọng (chương 9,22,26).

Chắc chắn Bác sĩ Lu-ca không viết các chương này và lập lại các chương này chỉ để đề cao Phao-lô. Không phải vậy, các chương này được viết ra để bày tỏ sự tin đạo của Phao-lô là một minh họa về việc dân Y-sơ-ra-ên trở lại đạo trong tương lai. Phao-lô tự xưng ông là “thai sanh non” (ICôr 15:8).

Trong ITi 1:16 Phao-lô viết rằng Đức Chúa Trời đã cứu ông “Chúa Giê-xu Christ tỏ mọi sự nhịn nhục của Ngài ra trong ta là kẻ làm đầu để dùng ta làm gương cho những kẻ sẽ tin Ngài được sự sống đời đời.”


Chuyện kể về sự tin đạo của Phao-lô cho chúng ta biết ngày nay ít có điểm tương đồng trong kinh nghiệm cứu rỗi của chúng ta. Chắc chắn không ai trong chúng ta thấy Đấng Christ trong vinh quang hoặc thực sự nghe tiếng Ngài phán từ trời cả.

Chúng ta cũng không bị ánh sáng từ trời làm mù mắt hoặc bị ngã xuống đất. Vậy thì bằng cách nào sự tin đạo của Phao-lô lại là “một kiểu mẫu”? Đó là bức tranh cho thấy cách nào dân Y-sơ-ra-ên được cứu khi Chúa Giê-xu Christ trở lại thiết lập Nước Ngài trên đất. Các chi tiết về việc dân Y-sơ-ra-ên được phục hồi và cứu rỗi chép trong Xa 12:10-13.

Dân Y-sơ-ra-ên sẽ thấy Ngài khi Ngài trở lại (Xa 14:4; Công 1:11; Kh 1:7), họ nhận biết Ngài là Đấng Mê-si-a, họ ăn năn và tin nhận Ngài. Họ sẽ có từng trải tương tự như Sau-lơ người Tạt-sơ đã kinh nghiệm lúc ông đang trên đường đến Đa-mách để bắt bớ người tin theo Chúa (Công 9:1-43).


Đây là lý do tại sao Phao-lô dùng chính ông làm nhân chứng đầu tiên. Việc ông được cứu không minh chứng sẽ có một tương lai cho dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng đúng hơn, điều quan trọng ở chỗ nói đến phương cách ông được cứu.


2. Tiên tri Ê-li (Rô 11:2-10)

Y-sơ-ra-ên là tuyển dân của Đức Chúa Trời Ngài biết trước về họ, hoặc đã chọn họ, và họ là của Ngài. Việc gần như khắp đất nước chối bỏ Chúa Giê-xu Christ không nói lên bằng chứng nào cho thấy Đức Chúa Trời đã xong công việc với dân Y-sơ-ra-ên.Trong thời của ông, tiên tri Ê-li nghĩ rằng dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn toàn lìa bỏ Đức Chúa Trời (IVua 19:1-21).

Nhưng Ê-li khám phá ra rằng Đức Chúa Trời còn để dành một số người tin Chúa thật. Ông nghĩ rằng ông là người Do-thái duy nhất còn trung thành với Chúa nhưng Chúa cho ông biết còn có đến 7.000 người kính sợ Chúa.


Phao-lô đề cập đến “số người còn sót lại” này trong Ro 9:27 trích từ Es 10:22-23. Chẳng có thời điểm nào toàn thể dân Y-sơ-ra-ên thực sự thuộc về Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tạo nên khoảng cách giữa con cháu về phần xác và phần thiêng liêng của Áp-ra-ham (Ro 2:25-29). Việc dân Do-thái dự phần trong giao-ước thực hiện bởi phép cắt bì không bảo đảm cho sự cứu rỗi của họ. Giống như Áp-ra-ham, họ phải tin nhận Đức Chúa Trời để nhận lãnh sự công bình của Ngài (Rô 4:1-5).


Hãy lưu ý rằng số người còn sót lại này được cứu bởi ân điển chớ không do việc làm (Rô 11:5-6). Cũng lưu ý điểm tương đồng trong Rô 9:30-33. Ân điển và việc làm không thể đem trộn lẫn với nhau được, vì cái này sẽ gây hại cho cái kia. Vấn đề chính yếu dân Y-sơ-ra-ên quan tâm đến ấy là luôn luôn cố tìm cách dùng việc làm để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Rô 9:30-10:4). Dân sự chối bỏ sự công bình của Đấng Christ, giống như ngày nay những người tự cho mình là công bình từ chối vậy.


Nếu một số người còn sót lại được cứu, điều đó chứng tỏ rằng Đức Chúa Trời không cắt đứt quan hệ với dân sự Ngài, vậy điều gì đã xảy ra cho phần còn lại của dân sự? Tấm lòng của họ bị chai cứng (bản dịch đúng hơn là “bị mù” trong Rô 11:7). Đây là kết quả của việc họ chống lại chân lý, giống như lòng của vua Pha-ra-ôn chai cứng vì ông chống lại chân lý. Phao-lô trích dẫn Es 29:10 để làm sáng tỏ câu nói của ông, và ông cũng đề cập đến Phuc 29:4. Chúng ta sẽ chờ đợi một nhà lãnh đạo tà giáo tự làm cứng lòng chống nghịch lại Chúa, nhưng chúng ta không mong đợi dân sự của Đức Chúa Trời làm như vậy.


Câu 9 và 10 được trích từ Thi 69:22-23. Thi-thiên này là một trong những Thi-thiên quan trọng nhất nói về Đấng Mê-si-a và được nhắc đến vài lần trong Tân-ước. Đặc biệt lưu ý các câu Rô 11:4,9,21,22. “Bàn tiệc của họ trở nên bẫy” có nghĩa các phước hạnh của họ trở thành gánh nặng và sự đoán phạt.

Đây là những gì đã xảy ra cho dân Y-sơ-ra-ên: đáng lẽ các phước hạnh của họ đã dẫn đưa họ đến với Đấng Christ, nhưng thay vào đó chúng trở nên cái bẫy ngăn trở họ đến với Đấng Christ. Chính những tập tục và lễ nghi tôn giáo trở nên những điều thay thế cho kinh nghiệm thật của sự cứu rỗi. Buồn thay, ngày nay nhiều người cũng vấp phạm cùng một sai lầm này khi họ dựa vào những hình thức và tập tục tôn giáo thay vì tin cậy vào Đấng Christ làm hình bóng trong các hoạt động này.


Phao-lô nói rõ sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên không hoàn toàn cũng không tận cùng, và đây là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời có một tương lai cho dân tộc. “Một phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự cứng lòng, cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ” (Rô 11:25).

Số tín hữu Do-thái còn sót lại hiện hữu ngày nay, như trong thời tiên tri Ê-li, là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời vẫn có chương trình cho dân sự của Ngài. Phao-lô không bắt chước sai lầm của Ê-li để rồi nói “Chỉ còn mình tôi! ”. Ông biết rằng có một số còn sót lại trong dân Y-sơ-ra-ên là những người tin cậy Đức Chúa Trời trong thế giới ngày nay.


3. Người ngoại bang (Rô 11:11-15)

Trong Rô 2:1-3 Phao-lô dùng dân ngoại để chứng tỏ người Do-thái phạm tội, nhưng ở đây ông dùng dân ngoại để bảo đảm cho dân Y-sơ-ra-ên về sự khôi phục trong tư-thái chối bỏ Phúc-Âm, Đức Chúa Trời sai sứ giả mang Phúc-Âm đến cho dân ngoại, họ tin và được cứu.

Ba bi kịch xảy ra trong dân Y-sơ-ra-ên: đất nước sa ngã (Rô 11:11), bị thua sút (Rô 11:12, “bị nhục”), và bị dứt bỏ (Rô 11:15). Không có lời nào trong những lời này cho thấy có sự phán xét cuối cùng trên dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng điều ngạc nhiên đó là qua sự sa ngã của dân Y-sơ-ra-ên, sự cứu rỗi mới đến với người ngoại bang. Đức Chúa Trời hứa rằng dân ngoại sẽ được cứu (Rô 9:25-26) và Ngài giữ lời phán hứa của Ngài. Ngài cũng sẽ không giữ lời hứa của Ngài đối với dân Do-thái sao?


Hiểu rằng những lời hứa trong Cựu-ước đối với dân ngoại được nối kết với sự “trổi dậy” của dân Y-sơ-ra-ên là điều thật quan trọng - dân Y-sơ-ra-ên sẽ bước vào trong vương quốc của mình. Các lời tiên tri giống như Tiên tri Es 11:1-16 và Es 60:1-22 dạy rõ rằng dân ngoại sẽ có phần trong nước của Y-sơ-ra-ên. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không “trổi dậy” nó sa ngã!

Lúc ấy Đức Chúa sẽ làm gì với dân ngoại? Đức Chúa Trời đưa ra một nhân tố mới - là Hội thánh - trong Hội thánh ấy những người tin là người Do-thái và dân ngoại hiệp làm một trong Đấng Christ (Eph 2:11-22). Trong Eph 3:1-21, Phao-lô gọi chương trình này là “sự mầu nhiệm”, nghĩa là “điều bí mật thiêng liêng” không có bày tỏ trong Cựu-ước.

Có phải điều này có nghĩa Đức Chúa Trời đã bỏ chương trình lập Nước Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên chăng? Dĩ nhiên là không! Dân Y-sơ-ra-ên chỉ bị để riêng ra cho đến khi thì giờ chương trình của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên được ứng nghiệm.


Phao-lô nói rằng người ngoại bang có một sứ mạng tối quan trọng đối với dân Y-sơ-ra-ên.Ngày nay, dân ngoại giục lòng dân Y-sơ-ra-ên “ganh tị” (Rô 10:19) vì sự giàu có thuộc linh họ có được trong Đấng Christ. Ngày nay dân Y-sơ-ra-ên bị phá sản thuộc linh, trong khi các con cái Chúa có “đủ mọi thứ phước thiêng liêng” trong Đấng Christ (Eph 1:3). (Nếu một người Do-thái chưa được cứu đến thăm một buổi lễ thờ phượng đơn điệu, liệu anh ta có được giục lòng ganh tị và ao ước những gì chúng ta đang có chăng - hoặc anh ta có được giục lòng không?).


Có một tương lai dành cho dân Y-sơ-ra-ên. Phao-lô gọi đó là “sự thạnh vượng của họ” (Rô 11:12) và “sự nhận trở lại” (Rô 11:15). Ngày nay, dân Y-sơ-ra-ên bị sa ngã thuộc linh, nhưng khi Đấng Christ trở lại, đất nước sẽ trổi dậy trở lại. Ngày nay, dân Y-sơ-ra-ên bị cách xa khỏi Đức Chúa Trời, nhưng ngày kia họ sẽ được nhận trở lại. Đức Chúa Trời chẳng bao giờ phá bỏ lời giao ước của Ngài đã lập cùng dân sự Ngài, và Ngài đã hứa khôi phục lại đất nước Y-sơ-ra-ên. (Gie 31:35-37 trong đó Đức Chúa Trời nối kết lời hứa của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên với qui luật của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao).


4. Các tổ phụ (Rô 11:16-24)

Từ cái nhìn về tương lai, Phao-lô nhìn trở lại quá khứ để chỉ cho thấy cơ nghiệp thiêng liêng của dân Y-sơ-ra-ên. Từ ban đầu dân Y-sơ-ra-ên là một dân đặc biệt, được Đức Chúa Trời biệt riêng ra. Phao-lô dùng hai hình ảnh minh họa để chứng minh cho lập luận của mình là Đức Chúa Trời không cắt đứt quan hệ với dân Do-thái.


a. Tảng bột nhồi (Rô 11:16a)

- Ở đây nhắc đến Dan 15:17-21. Phần đầu tiên của bột nhồi phải dâng lên cho Đức Chúa Trời làm biểu tượng toàn thể bột nhồi thuộc về Ngài. Ý tưởng này được nhắc đến trong lễ Đầu Mùa, khi ấy thầy tế lễ dâng một bó lúa lên cho Chúa làm dấu hiệu cho biết toàn mùa gặt là của Ngài (Le 29:9-14). Ý tưởng cơ bản đó là khi Đức Chúa Trời nhận một phần là Ngài thánh hóa tất cả.


Ứng dụng điều này cho lịch sử Y-sơ-ra-ên, chúng ta hiểu được lập luận của Phao-lô. Đức Chúa Trời thừa nhận người đứng đầu dân tộc, đó là Áp-ra-ham, và Ngài cũng biệt riêng con cháu của ông nữa. Đức Chúa Trời cũng thừa nhận các tổ phụ khác, đó là Y-sác và Gia-cốp, cho dù họ phạm tội hoặc thất bại. Điều này có nghĩa Đức Chúa Trời phải thừa nhận “số bột nhồi còn lại” - tức là dân tộc Y-sơ-ra-ên.


b. Cây Ô-li-ve (Rô 11:16b-24)

- Đây là biểu tượng về dân tộc Y-sơ-ra-ên (Gie 11:16-17; Os 14:4-6). Xin hãy nhớ rằng Phao-lô không có ý bàn luận về mối quan hệ của tín đồ với Đức Chúa Trời, nhưng ông bàn luận về vị trí của dân Y-sơ-ra-ên trong chương trình của Đức Chúa Trời.

Rễ cây làm cho cây vững chắc hơn nữa, đây là biểu tượng nói về các tổ phụ tạo dựng nên dân tộc. Đức Chúa Trời đã lập giao ước với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, và Ngài không thể phủ nhận hoặc thay đổi các giao ước ấy được. Vì vậy, chính lời hứa của Đức Chúa Trời đối cùng Áp-ra-ham ngay cả ngày nay vẫn còn nâng đỡ dân Y-sơ-ra-ên.


Nhiều người Do-thái không tin Phao-lô mô tả họ như hình ảnh các nhành cây bị gãy lìa khỏi cây. Nhưng ông thấy một điều lạ lùng xảy ra: các nhánh khác được tháp vào cây và nhận lấy nhựa sống của cây. Các nhánh này là những người ngoại bang.

Trong câu 24, Phao-lô mô tả việc “tháp vào” như vậy là “trái tự nhiên”. Thường thường một nhánh thuần dưỡng được tháp vào một cây hoang hút nhựa sống của cây ấy nhưng không sanh ra trái xấu của cây hoang. Nhưng trong trường hợp này chính “nhánh cây hoang” (dân ngoại) được tháp vào cây tốt! “Sự cứu rỗi bởi người Do-thái mà đến” (Gi 4:22).


Nói rằng cây ô-li-ve, với các nhánh tự nhiên và các nhánh tháp của nó là hình ảnh của Hội thánh sẽ là một sai lầm lớn. Trong Hội thánh, “không có sự phân biệt nào”, người tin Chúa “hiệp một tất cả trong Chúa Giê-xu Christ” (Ga 3:28). Đức Chúa Trời không nhìn vào các chi thể trong thân thể Đấng Christ và xem họ như là những người Do-thái hoặc người ngoại bang.

Cây Ô-li-ve minh hoạ cho mối liên hệ giữa người Do-thái và dân ngoại trong chương trình của Đức Chúa Trời. “Việc cắt lìa các nhánh cây” tương đương với việc “sa ngã” (Rô 11:11), “sút kém” (Rô 11:12), và sự “dứt bỏ” (Rô 11:15). Xem hình ảnh minh hoạ này là vấn đề thuộc về số phận đời đời của cá nhân tín hữu là lạm dụng chân lý Phao-lô đang tìm cách truyền đạt.


Phao-lô báo trước cho dân ngoại biết rằng họ bắt buộc phải gắn liền với dân Y-sơ-ra-ên, do đó họ không thể khoe mình về địa vị thuộc linh mới mẻ của mình (Rô 11:18-21). Dân ngoại bước vào chương trình của Đức Chúa Trời do đức tin, chớ không vì họ đã làm bất cứ việc tốt lành nào. Phao-lô có ý bàn luận về dân ngoại theo tính cách tập thể chớ không theo kinh nghiệm cá nhân của tín hữu này hay tín hữu khác.


Theo lời tiên tri trong Kinh Thánh, Hội thánh dân ngoại bày tỏ đức tin nơi Đấng Christ sẽ bị “cắt bỏ” vì bội đạo là điều đáng phải biết. Trong ITi 4:1-16 và IITi 3:1-17, cùng với IITês 2:1-17 cho chúng ta thấy rằng Hội thánh xưng mình có đức tin sẽ lìa bỏ đức tin trong ngày cuối cùng. Chẳng có sự trông cậy dành cho Hội thánh bội đạo, nhưng có trông cậy cho dân Y-sơ-ra-ên bội đạo! Tại sao vậy? Vì rễ của cây ô-li-ve. Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa Ngài đối với các tổ phụ, nhưng Đức Chúa Trời sẽ cắt bỏ dân ngoại bang vì họ không tin.


Cho dù dân Y-sơ-ra-ên có đi sai lạc xa cách chân lý của Đức Chúa Trời bao nhiêu chăng nữa, gốc rễ vẫn tốt đẹp. Đức Chúa Trời vẫn là “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp” (Mat 22:23; Xu 3:6). Ngài sẽ gìn giữ lời hứa Ngài đối với các tổ phụ. Điều này có nghĩa là cây ô-li-ve sẽ tươi tốt trở lại!


5. Chính Đức Chúa Trời (Rô 11:25-36)

Phao-lô để dành người chứng tốt nhất vào phút cuối. Ông chứng minh rằng chính thuộc tính và công việc của Đức Chúa Trời có liên quan đến tương lai của dân Y-sơ-ra-ên. Con người có thể tranh luận về lời tiên tri và có những lý giải khác biệt, nhưng hãy để mọi người nhận biết rằng họ đang bàn luận về dân sự của Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên.


a. Thời điểm của Đức Chúa Trời (Rô 11:25)

- Những gì đã xảy ra cho dân Y-sơ-ra-ên là một phần trong chương trình của Đức Chúa Trời, và Ngài biết Ngài đang làm gì. Sự đui mù (cứng lòng) của dân Y-sơ-ra-ên trong tư thế một dân tộc không phải là toàn diện hay cuối cùng đó chỉ có tính cách cục bộ và tạm thời. Sẽ kéo dài trong bao lâu? “Cho đến chừng nào số dân ngoại nhập vào được đầy đủ” (Rô 11:25).

Có “sự đầy đủ” cho dân Y-sơ-ra-ên (Rô 11:12) và cho dân ngoại. Ngày nay, Đức Chúa Trời viếng thăm dân ngoại trong ân điển và lấy ra một dân cho danh Ngài (Công 15:12-14). Dĩ nhiên, cá nhân người Do-thái đang được cứu nhưng thời đại hiện tại là thời kỳ Đức Chúa Trời đang thăm viếng dân ngoại và xây dựng Hội thánh Ngài. Khi thời đại hiện tại đến hồi kết thúc, và số dân ngoại nhập vào được đầy đủ, lúc ấy Đức Chúa Trời sẽ đoái thương đến dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa.


Rô 11:25 là một trong một số “câu cho đến khi” trong Kinh Thánh, tất cả các câu này thật quan trọng. Hãy đọc Mat 23:32-39; Lu 21:24; Thi 110:1 để biết thêm những ý này. Chắc chắn Đức Chúa Trời biết thì giờ và Ngài chẳng chậm trễ làm ứng nghiệm ý muốn của Ngài.


b. Lời hứa của Đức Chúa Trời (Rô 11:26)

- Lời nhắc đến ở đây là Es 59:20-21 và bạn nên đọc Es Es60:1-22 để thấy trọn bức tranh. Đức Chúa Trời đã hứa cứu dân Ngài, và Ngài giữ lời hứa của Ngài. Có nhiều người giải nghĩa điều này có nghĩa là Phúc-Âm cứu rỗi dành cho các cá nhân, nhưng tôi tin chắc rằng đấng tiên tri Ê-sai suy nghĩ đến sự tin đạo của một dân tộc.

“Tất cả dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu” không có nghĩa là mọi người Do-thái sanh ra đều trở lại đạo, nhưng có nghĩa những người Do-thái đang sống sẽ thấy Đấng Cứu Chuộc, nhận Ngài, và được cứu khi Ngài trở lại. Xa 12:1-13:9 cho biết rõ các chi tiết này. Theo tôi dường như trong các lời tiên tri Cựu-ước chúng ta có quá nhiều chi tiết nói về sự khôi phục đất nước Y-sơ-ra-ên đến nỗi không thể xem các lời ấy có ý nghĩa thuộc linh và áp dụng cho Hội thánh ngày nay.


c. Giao-ước của Đức Chúa Trời (Rô 11:27-28).

Dĩ nhiên đây là sự tiếp nối lời trích dẫn trong Es 59:1-21 nhưng điểm nhấn mạnh nhằm vào giao-ước của Đức Chúa Trời lập với dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã chọn dân Y-sơ-ra-ên trong ân điển Ngài chớ không vì bất cứ công trạng nào của họ (Phuc 7:6-11; Phuc 9:1-6).

Nếu dân Y-sơ-ra-ên không được Đức Chúa Trời chọn lựa do việc tốt lành của họ, dân tộc ấy có thể bị bỏ vì tội lỗi không? “Sự lựa chọn” có nghĩa là ân điển, chớ không phải công giá. Người Do-thái là “nghịch thù” đối với các tín hữu ngoại bang vì họ có thái độ thù địch với Phúc-Âm. Nhưng đối với Đức Chúa Trời, người Do-thái “được yêu thương bởi các tổ phụ”. Đức Chúa Trời sẽ không phá bỏ giao-ước đã lập cùng Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.


d. Bản thể của Đức Chúa Trời (Rô 11:29)

- “Ta là Đức Giê-hô-va, Ta không hề thay đổi” (Ma 3:6) “Đức Chúa Trời không phải là con người để Ngài nói dối cũng không phải là loài xác thịt để Ngài phải ăn năn” (Dan 23:19).

Những gì Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên, và việc Ngài kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên không thể thu hồi lại và không thể thay đi, nếu không Đức Chúa Trời sẽ không còn thành thực với bản thể trọn vẹn của Ngài.

Việc dân Y-sơ-ra-ên không hưởng được các sự ban cho, hoặc không sống theo các đặc ân làm tuyển dân, không có ảnh hưởng đến điều này chút nào. Đức Chúa Trời sẽ nhất quán với chính Ngài và thành tín với Lời của Ngài cho dù con người có làm gì đi nữa.“Sự không thành tín của họ có làm cho sự không thành tín của Đức Chúa Trời ra hư không sao?” (Rô 3:3).


e. Ân điển của Đức Chúa Trời (Rô 11:30-32)

- Phao-lô nói, “Vì sự không tin của người Do-thái, anh em là người ngoại bang đã được cứu. Vậy bây giờ bởi sự cứu rỗi của anh em dân Y-sơ-ra-ên sẽ biết Đấng Christ”. Hãy lưu ý rằng Phao-lô nhiều lần nhắc những người ngoại bang đã được cứu nhớ rằng họ có sự ràng buộc thiêng liêng đối với dân Y-sơ-ra-ên để “giục lòng ganh tị nơi họ” (Rô 10:19; Rô 11:11,14).

Sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên chỉ “một phần” (Rô 11:25), có nghĩa là người Do-thái có thể được cứu theo từng cá nhân. Đức Chúa Trời đã gồm tóm “tất cả mọi người trong sự không tin” - người Do-thái và dân ngoại - để tất cả có thể có cơ hội được cứu bởi ân điển. “Chẳng có sự khác biệt nào”. Nếu ngày nay Đức Chúa Trời có thể cứu người Do-thái bởi ân điển và lòng thương xót của Ngài, vậy Ngài không thể cứu họ trong tương lai sao?


Chúng ta phải nhớ rằng Đức Chúa Trời chọn lựa dân Do Thái để dân ngoại có thể được cứu. “Các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước” đó là lời Đức Chúa Trời phán hứa với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3). Bi kịch đó là dân Y-sơ-ra-ên trở nên độc quyền và không chịu chia sẻ chân lý cho người ngoại bang. Họ cho rằng người ngoại bang phải trở nên người Do-thái mới được cứu. Nhưng Đức Chúa Trời tuyên bố rằng cả người Do-thái lẫn ngoại bang đều bị hư mất và bị án phạt. Điều này có nghĩa Ngài có thể bày tỏ lòng thương xót trên tất cả vì sự hi sinh đổ huyết của Đấng Christ trên thập tự giá.


f. Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (Rô 11:33-38)

- Sau khi suy gẫm về chương trình cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời dành cho người Do-thái và dân ngoại bang, tất cả những việc Phao-lô có thể làm là dâng lên lời hát ngợi khen Đức Chúa Trời. Như có người đã nhận xét, “Thần học trở thành bài ca ngợi khen!”.

Chỉ có Đức Chúa Trời khôn ngoan như Đức Chúa Trời chúng ta mới có thể lấy sự sa ngã của dân Y-sơ-ra-ên và biến nên sự cứu rỗi cho toàn thế giới! Ngài sẽ không bỏ dỡ kế hoạch của Ngài và Ngài cũng không ngừng làm ứng nghiệm chương trình của Ngài. Chẳng có người nào có thể hiểu trọn vẹn tư tưởng của Đức Chúa Trời và càng nghiên cứu đường lối của Ngài, chúng ta càng phải ngợi khen Ngài.

Có phải chúng ta kết luận rằng Đức Chúa Trời không biết những gì Ngài đang làm không, và có phải chúng ta cho rằng dân Y-sơ-ra-ên hoàn toàn phá hỏng chương trình của Ngài chăng? Dĩ nhiên là không! Đức Chúa Trời quá khôn ngoan đến nỗi Ngài không thể lập nên những chương trình mà Ngài không làm ứng nghiệm được. Dân Y-sơ-ra-ên không để cho Ngài cai trị, vì vậy Ngài từ chối họ!


Phao-lô kêu gọi năm nhân chứng, và tất cả họ đều đồng ý: có một tương lai cho dân Y-sơ-ra-ên. Khi dân Y-sơ-ra-ên từ sự “sa ngã” phục hồi trở lại và vào trong sự “trọn vẹn”, lúc ấy thế giới sẽ kinh nghiệm được sự giàu có của ân điển Đức Chúa Trời như chưa bao giờ có từ trước. Khi Chúa Giê-xu Christ trở lại ngồi trên ngôi Vua Đa-vít trị vì Nước Ngài, lúc ấy dân Y-sơ-ra-ên sẽ “được làm hòa” và “được nhận lại”, và điều đó giống như sự sống lại!



 


12. TƯƠNG GIAO ĐÚNG CÓ NGHĨA LÀ SỐNG ĐÚNG (Rô 12:1-13:14)


Trong tất cả các bức thư của ông, Phao-lô rút ra một bảng liệt kê các bổn phận thực tế dựa trên nền tảng giáo lý ông đã bàn đến. Trong nếp sống Cơ-đốc, giáo lý và bổn phận luôn luôn đi đôi với nhau. Những gì chúng ta tin giúp quyết định cách chúng ta cư xử. Chúng ta không đủ khôn ngoan để hiểu các lời giải thích về giáo lý của Phao-lô. Chúng ta phải chuyển bài học của chúng ta thành cách sống và bày tỏ ra trong nếp sống hàng ngày để mọi người thấy rằng chúng ta tin cậy Lời Đức Chúa Trời.


Ý tưởng quan trọng trong phần này là các mối tương giao. Thuật ngữ “thần học tương giao” là một thuật ngữ hoàn toàn mới, nhưng ý tưởng thì không mới. Nếu có mối tương giao đúng đắn với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ có giao hảo tốt đẹp với con người là một bộ phận trong cuộc sống chúng ta. “Nếu người ta nói rằng, tôi yêu Đức Chúa Trời mà ghét anh em mình, ấy là người nói dối” (IGi 4:20).


1. Mối tương giao của chúng ta với Đức Chúa Trời (Rô 12:1-2)

Đây là chữ “vậy thì” thứ tự trong bức thư. Rô 3:20 có chữ “vậy thì” lên án, tuyên bố rằng cả thế gian đều phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời. Rô 5:1 có chữ “vậy thì” xưng công bình, và Rô 8:1 có chữ “vậy thì” bảo đảm. Trong Rô 12:1 chúng ta có chữ “vậy thì” dâng hiến, và chính sự dâng hiến này là nền tảng cho các mối tương giao khác mà Phao-lô bàn đến trong phần này.

Sự dâng hiến thật là gì? Như Phao-lô mô tả ở đây, sự dâng hiến của Cơ-đốc nhân bao gồm ba bước.


a. Anh em dâng thân thể mình cho Đức Chúa Trời (Rô 12:1)

- Trước khi tin nhận Đấng Christ, chúng ta dùng thân thể mình cho các thú vui và mục đích tội lỗi, nhưng bây giờ chúng ta thuộc về Ngài, chúng ta muốn dùng thân thể mình làm sáng danh Ngài. Thân thể Cơ-đốc nhân là đền thờ của Đức Chúa Trời (ICôr 6:19-20) vì Thánh Linh Đức Chúa Trời ngự bên trong người (Rô 8:9). Đó là đặc ân chúng ta có để làm vinh hiển Đấng Christ và tôn cao Ngài qua thân thể chúng ta (Phi 1:20-21).


Giống như Chúa Giê-xu Christ phải mang trên Ngài một thân thể để hoàn thành ý muốn của Đức Chúa Trời trên thế gian, vì vậy chúng ta phải dâng thân thể mình cho Đấng Christ để Ngài có thể tiếp tục công việc của Đức Chúa Trời qua chúng ta.

Chúng ta phải dâng các chi thể mình làm “đồ dùng về sự công bình” (Rô 6:13) để Đức Thánh Linh sử dụng thực hiện công tác của Đức Chúa Trời. Các của lễ trong Cựu-ước là những của dâng chết, nhưng chúng ta phải là những của lễ sống.


Trong Kinh Thánh có hai “của lễ sống” và chúng giúp chúng ta hiểu điều này có nghĩa thật sự là gì. Của lễ thứ nhất là Y-sác (Sa 22:1-19) thứ hai là Chúa Giê-xu Christ của chúng ta. Y-sác bằng lòng dâng chính mình trên bàn thờ chắc chắn đã chết trong sự vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng Chúa sai một con chiên đực chết thay cho ông. Đúng là Y-sác “đã chết” - Ông đã chết đối với bãn ngã và sẵn lòng vâng phục ý chỉ của Đức Chúa Trời. Khi rời khỏi bàn thờ, Y-sác là “một của lễ sống” làm sáng danh Đức Chúa Trời.


Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu Christ chúng ta là minh hoạ trọn vẹn về “của lễ sống”, vì Ngài thật sự đã chết làm con sinh tế, vì vâng theo ý muốn của Cha Ngài. Nhưng Ngài đã sống lại Và hiện nay Ngài đang ở trên trời làm “của lễ sống”, mang trong thân thể Ngài mọi thương tích tại đồi Gô-gô-tha. Ngài là Thầy Tế Thượng phẩm của chúng ta (He 4:14-16) và là Đấng Cầu Thay chúng ta (IGi 2:1) trước ngôi Đức Chúa Trời.


Động từ “dâng” trong câu này có nghĩa “dâng một lần đủ cả”. Nó đòi hỏi sự phó thác thân thể chúng ta cho Chúa, giống như cô dâu và chàng rể trong tiệc cưới cam kết phó thác cuộc đời cho nhau. Chính sự phó thác một-lần-đủ-cả này quyết định họ phải làm gì với thân thể của mình. Phao-lô cho chúng ta hai lý do đối với sự phó thác này: (1) đó là sự đáp ứng đúng đắn đối với tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm thay cho chúng ta - “Vậy hỡi anh em tôi lấy lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em...” và (2) sự phó thác này là “sự thờ phượng phải lẽ của chúng ta” hoặc “sự thờ phượng thiêng liêng”. Điều này có nghĩa mỗi ngày là một từng trải trong sự thờ phượng khi thân thể chúng ta được dâng cho Chúa.


b. Anh em dâng tâm thần mình cho Ngài (Rô 12:2a)

- Thế gian muốn cai trị tâm thần chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời muốn biến đổi tâm thần chúng ta. (Eph 4:17-24; Co 3:1-11). Chữ đổi mới ở đây giống như chữ biến hoá trong Mat 17:2. Nó thừa hưởng chữ “thay đổi hình dáng hay bản chất” trong ngôn ngữ tiếng Anh. Nó mô tả một sự biến đổi bên trong.

Thế gian muốn thay đổi tâm trí bạn, vì vậy thế gian tạo ra sức ép từ bên ngoài. Nhưng Đức Thánh Linh biến đổi tâm trí bạn bằng việc ban cho quyền năng từ bên trong bạn. Nếu thế gian cai trị bạn, bạn sẽ là một người làm theo những tiêu chuẩn đã định sẵn nếu Đức Chúa Trời cai trị suy nghĩ của bạn, bạn là người đổi ra mới.


Đức Chúa Trời biến đổi tâm trí chúng ta và dùng lời của Ngài khiến chúng ta có suy nghĩ thiêng liêng. Khi bạn dành thì giờ suy gẫm Lời Đức Chúa Trời, ghi nhớ lời Ngài và làm cho lời Ngài trở nên một phần của con người bề trong của bạn, dần dần Đức Chúa Trời sẽ khiến tâm trí bạn thiêng liêng hơn.


c. Bạn dâng tâm chí mình cho Đức Chúa Trời (Rô 12:2b)

- Tâm trí của bạn làm chủ thân thể bạn, và ý chí của bạn sẽ làm chủ tâm trí bạn. Nhiều người nghĩ rằng họ có thể làm chủ ý chí của mình bởi “sức mạnh của ý chí”, nhưng thực sự họ đã thất bại. (Đây là kinh nghiệm của Phao-lô ghi lại trong Rô 7:15-21). Chỉ khi chúng ta đầu phục ý muốn của Đức Chúa Trời, quyền năng Ngài mới có thể làm thay chúng ta và ban cho chúng ta sức mạnh muốn làm (và sức mạnh không muốn làm) chúng ta cần có để sống đời sống Cơ-đốc đắc thắng.


Chúng ta dâng các ý muốn của chúng ta lên cho Đức Chúa Trời qua sự cầu nguyện có kỷ luật. Khi để thì giờ cầu nguyện, chúng ta dâng ý muốn chúng ta lên Đức Chúa Trời và cầu nguyện với Chúa rằng, “không theo ý muốn con nhưng xin ý Ngài được nên”. Chúng ta nên cầu nguyện về mọi việc, và hãy để Đức Chúa Trời có chương trình của Ngài trong mọi việc chúng ta.


Trải qua nhiều năm tôi cố tìm cách bắt đầu mỗi ngày bằng cách dâng thân thể mình cho Chúa. Lúc ấy tôi dành thì giờ suy gẫm lời Ngài và để Ngài biến đổi tâm trí tôi và chuẩn bị suy nghĩ của tôi cho một ngày mới. Sau đó tôi cầu nguyện, và dâng các chương trình trong ngày lên cho Ngài để Ngài hành động như Ngài hiểu rõ nhất. Tôi đặc biệt cầu nguyện những nhiệm vụ gây cho tôi lo lắng và phiền muộn - và tôi luôn luôn thấy mình thông suốt. Để có mối tương giao đúng đắn với Đức Chúa Trời, chúng ta nên bắt đầu một ngày bằng cách dâng thân thể, tâm trí và tâm chí chúng ta cho Ngài.


2. Mối tương giao với các tín hữu khác (Ro 12:3-16)

Phao-lô đang viết cho các con cái Chúa thuộc viên các Hội Thánh địa phương tại Rô-ma.Việc Phao-lô mô tả mối tương giao của họ với nhau ám chỉ đến các chi thể trong thân. (Ông dùng hình ảnh giống như vậy trong ICôr 12:1-31 và Eph 4:7-16). Ý tưởng căn bản đó là mỗi tín hữu là một phần trong thân thể Đấng Christ, và mỗi người đều có bổn phận thiêng liêng phải thực hiện. Mỗi tín hữu có một ân tứ (hoặc nhiều ân tứ) được dùng để gây dựng Thân Thể và hoàn thiện các chi thể khác trong Thân Thể. Tóm lại, chúng ta thuộc về nhau, nên chúng ta phục vụ nhau và cần đến nhau. Những yếu tố cơ bản trong sứ mạng và sự trưởng thành thuộc linh trong Thân Thể Đấng Christ là gì?


a. Tâm tình tầm thường (Ro 12:3)

- Mỗi Cơ-đốc nhân phải biết các ân tứ thuộc linh của mình là gì và chức vụ phải tham gia trong Hội thánh địa phương là gì. Một con cái Chúa nhận ra các ân tứ trong đời sống riêng và trong đời sống người khác là điều đúng đắn. Điểm sai trái đó là khuynh hướng đánh giá không đúng về bản thân chúng ta. Không có gì gây nguy hại cho Hội thánh địa phương cho bằng là một tín hữu đánh giá mình quá cao và cố gắng thực hiện công việc vượt quá khả năng. (Thỉnh thoảng điều ngược lại là thật, và người ta tự hạ thấp mình. Cả hai thái độ đều sai.)


Các ân tứ chúng ta có do ân điển của Đức Chúa Trời ban cho. Chúng ta phải nhận lãnh và thực hành các ân tứ ấy bằng đức tin. Chúng ta được cứu “nhờ ân điển, bởi đức tin” (Eph 2:8-9), chúng ta nên sống và phục vụ “nhờ ân điển bởi đức tin”. Vì các ân tứ đến từ Đức Chúa Trời, nên chúng ta không thể nhận lời khen nào từ các ân tứ ấy. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là nhận lãnh các ân tứ ấy và dùng chúng tôn cao danh Ngài. (Xem ICo 15: 10 để biết lời làm chứng của Phao-lô về các ân tứ).


Một lần nọ tôi hầu việc Chúa với hai người đàn ông có thái độ chống đối lại các ân tứ của họ: một người thường xem nhẹ các ân tứ của anh ta và không sử dụng các ân tứ đó, người kia lại khoe khoang về những ân tứ anh ta không có. Thực sự, cả hai người đều phạm tội kiêu ngạo, vì cả hai đều không chịu nhận biết ân điển của Đức Chúa Trời và để cho Ngài được vinh hiển. Môi-se phạm sai lầm tương tự khi Đức Chúa Trời kêu gọi ông (Xu 4:1-13). Khi cá nhân tín hữu trong Hội thánh biết ân tứ của họ, nhận lãnh các ân tứ ấy bằng đức tin, và dùng ân tứ ấy để làm sáng danh Đức Chúa Trời, lúc ấy Đức Chúa Trời có thể ban phước cách lạ lùng.


b. Cộng tác cách trung tín (Rô 12:4-8)

- Mỗi tín hữu đều có một ân tứ khác nhau, Đức Chúa Trời ban tặng các ân tứ này để Hội thánh địa phương có thể phát triển cách quân bình. Nhưng mỗi Cơ-đốc nhân phải lấy đức tin thực hành ân tứ của mình. Có lẽ chúng ta kết quả trong chức vụ của mình, nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy và Ngài ban phước cho chúng ta. Hãy lưu ý rằng “sự thúc đẩy” (sự khích lệ) là một chức vụ thiêng liêng như giảng đạo hay dạy đạo vậy.

Bố thí và bày tỏ lòng thương xót cũng là những ân tứ quan trọng. Đối với một số người, Đức Chúa Trời đã ban cho khả năng cai trị, hoặc điều hành một số chức năng khác nhau trong Hội thánh. Cho dù có được ân tứ nào chúng ta cũng cần phải dâng lên cho Đức Chúa Trời và dùng nó làm ích lợi cho toàn Hội thánh.


Thật là buồn khi có ai đó đề cao một ân tứ hơn hẳn các ân tứ khác trong Hội thánh. “Có phải cả thảy là sứ-đồ sao? Cả thảy là tiên tri sao? Cả thảy là thầy giáo sao? Cả thảy đều làm phép lạ sao? Cả thảy đều được ơn chữa bịnh sao? Cả thảy đều nói tiếng lạ sao? Cả thảy đều thông giải tiếng lạ sao?” (ICôr 12:29-30).

Câu trả lời cho tất cả các câu hỏi này là không! Và một Cơ-đốc nhân xem nhẹ các ân tứ khác trong khi coi trọng ân tứ của mình là phủ nhận chính mục đích Đức Chúa Trời ban cho các ân tứ ấy: đó là làm ích lợi cho toàn Thân Thể Đấng Christ. “Đức Thánh Linh bày tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung” (ICôr 12:7).


Các ân tứ thuộc linh là công cụ để xây dựng, chớ không phải là đồ chơi hoặc vũ khí tranh cạnh nhau. Trong Hội Thánh tại Cô-rinh-tô, các tín hữu đang phá đổ chức vụ vì họ coi thường các ân tứ thiêng liêng. Họ dùng các ân tứ làm cứu cánh cho chính mình và không làm phương tiện hướng đến mục đích xây dựng Hội Thánh. Họ quá đề cao ân tứ của mình đến nỗi đánh mất đi ân huệ thiêng liêng! Họ có ân tứ Thánh Linh nhưng thiếu mất bông trái Thánh Linh: yêu thương, vui mừng, bình an, v.v... (Ga 5:22-23).


c. Tham gia trong sự yêu thương (Rô 12:9-16)

- Điểm nhấn mạnh ở đây nhằm vào thái độ của người thực hành ân tứ thiêng liêng. Có thể sử dụng ân tứ thiêng liêng theo cách không thiêng liêng.

Phao-lô giải thích cùng quan điểm này trong ICôr 13:1-13 “chương nói về tình yêu thương” lạ lùng của Tân-ước. Tình yêu thương là hệ thống tuần hoàn trong Thân thể thiêng liêng, giúp cho các chi thể có thể hoạt động cách khoẻ mạnh, hài hòa. Đây phải là một tình yêu chân thật chớ không phải đạo đức giả (Rô 12:9) và phải khiêm nhường không lên mình kiêu ngạo (Rô 12:10). “Yêu nhau” có nghĩa đối đãi người khác quan trọng hơn chính mình (Phi 2:1-4).


Phục vụ Đấng Christ thường thường có nghĩa là chống lại Sa-tan và những ngày mệt mỏi chán nản. Phao-lô khuyên các độc giả của ông giữ lòng sốt sắng thuộc linh vì họ đang hầu việc Chúa chớ không phải cho người ta. Khi cuộc sống trở nên khó khăn, con cái Chúa không thể để cho lòng nhiệt huyết của mình nguội lạnh. “Hãy vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện” (Rô 12:12).


Cuối cùng, Phao-lô nhắc họ nhớ họ phải cảm thông với tình cảm của người khác. Mối tương giao Cơ-đốc không chỉ là vỗ vai khen thưởng và cái bắt tay xã giao. Nó có nghĩa là chia sớt gánh nặng và chia sẻ phước hạnh của người khác để tất cả chúng ta cùng được gây dựng và làm sáng danh Chúa.

Nếu Cơ-đốc nhân không thể chịu đựng lẫn nhau, làm thế nào có thể đối mặt kẻ thù? Một thái độ khiêm nhường và tinh thần sẵn sàng chia sẻ là dấu hiệu của một Cơ-đốc nhân thực sự phục vụ cho Thân Thể. Chúa chúng ta chăm sóc những dân thường, và họ vui vẻ nghe Ngài (Mac 12:37).

Khi Hội thánh địa phương quyết định chỉ cần đến những người ở “giai cấp cao sang” nào đó, Hội thánh đó tách khỏi lý tưởng hầu việc của Cơ-đốc nhân.


3. Mối quan hệ của chúng ta đối vời kẻ thù (Rô 12:17-21)

Người tin Chúa tìm cách vâng lời Đức Chúa Trời đang có nhiều kẻ thù. Khi Chúa chúng ta đang thi hành chức vụ trên đất, Ngài có nhiều kẻ thù. Cho dù Phao-lô và các sứ đồ khác đi đến đâu, vẫn có kẻ thù chống đối công việc của họ. Chúa Giê-xu cho các môn dồ Ngài biết trước rằng kẻ thù tệ hại nhất của họ là người nhà của họ (Mat 10:36). Chẳng may, một vài tín hữu có kẻ thù nghịch vì họ thiếu lòng yêu thương và kiên nhẫn, chớ không phải vì họ trung tín làm chứng cho Chúa. Có sự khác biệt giữa việc dự phần trong “việc vấp phạm về thập tự giá” (Ga 5:11; Ga 6:12-15) và làm một Cơ-đốc nhân gây khó chịu.


Cơ-đốc nhân không được đóng vai Đức Chúa Trời và tìm cách trả thù cho mình. Lấy ác trả ác, hoặc lấy điều thiện trả cho điều thiện là cách sống của hầu hết mọi người. Nhưng Cơ-đốc nhân phải sống ở chuẩn mực cao hơn. Lấy điều thiện trả cho điều ác.

Dĩ nhiên điều này đòi hỏi tình yêu thương, vì khuynh hướng đầu tiên của chúng ta là chống trả lại. Điều đó cũng đòi hỏi đức tin, tin rằng Đức Chúa Trời có thể hành động và hoàn tất ý muốn chủa Ngài trong đời sống chúng ta và trong đời sống của những người làm hại chúng ta. Chúng ta phải nhường chỗ cho “cơn thạnh nộ” - đó là cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (Phuc 32:35)


Một lần nọ người bạn của tôi nghe một nhà truyền đạo chỉ trích ông ta trên sóng phát thanh và thuật nhiều điều không những làm mất lòng nhưng còn sai sự thật.Bạn tôi rất giận dữ và định ý trả đũa lại, lúc ấy một nhà truyền đạo kính sợ Chúa nói, “Đừng làm điều đó. Nếu bạn bênh vực bạn, lúc ấy Chúa không thể bênh vực bạn. Hãy đặt nó vào trong tay của Ngài.” Bạn tôi làm theo lời khuyên khôn ngoan ấy, và Chúa bênh vực cho ông ta.


Lời khuyên trong Rô 12:20 nhắc nhở chúng ta về lời của Đấng Christ trong Mat 5:44-48. Những lời này dễ đọc nhưng khó thực hành. Chắc chắn chúng ta cần phải cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ban cho tình yêu khi chúng ta tìm cách bày tỏ lòng tốt đối với kẻ thù. Họ sẽ lợi dụng chúng ta ư? Họ sẽ ghét chúng ta hơn phải không? Chỉ có Chúa biết.

Nhiệm vụ của chúng ta không phải tự bảo vệ mình nhưng vâng lời Chúa và để Ngài phân xử. Phao-lô nhắc đến Ch 25:21-22 khi ông kêu gọi chúng ta lấy thiện báo ác trong danh Chúa. “Than lửa đỏ” có lẽ nói đến sự hổ thẹn kẻ thù trải qua khi chúng ta lấy điều thiện báo điều ác.


Là con cái Đức Chúa Trời, chúng ta phải sống theo tiêu chuẩn cao nhất - lấy thiện trả ác. Ai cũng có thể lấy điều thiện trả điều thiện, lấy ác trả ác. Phương pháp duy nhất có thể thắng điều ác là làm điều thiện. Nếu bạn lấy ác trả ác, chúng ta chỉ thêm dầu vào lửa mà thôi. Và mặc dù kẻ thù không tin nhận Chúa, chúng ta cũng kinh nghiệm được tình yêu của Đức Chúa Trời trong lòng chúng ta và lớn lên trong ân điển.


4. Mối quan hệ đối với nhà nước (Rô 13:1-14)

Đức Chúa Trời đã lập nên ba thể chế: gia đình (Sa 2:18-25), chính phủ (Sa 9:1-7), và Hội thánh (Công 2:1-47). Phao-lô đang viết thư cho các tín hữu ở ngay trung tâm đế quốc Rô-ma. Tuy nhiên, các cơn bắt bớ lớn chưa xảy ra, nhưng chúng vẫn đang trên đường đến. Cơ-đốc giáo vẫn bị coi là một giáo phái của Do-thái giáo, và Do-thái giáo được đế quốc Rô-ma chấp nhận. Nhưng rồi những ngày đến, tình trạng sẽ trở nên vô cùng khó khăn nếu không nói là bất khả cho một Cơ-đốc nhân trung thành với hoàng đế. Người không thể dâng hương trên bàn thờ và xưng, “Sê-sa là Chúa! ”.


Trong thời đại chúng ta, chúng ta có nhiều người nhân danh Chúa Giê-xu Christ dạy sự bạo động và nổi loạn! Họ buộc chúng ta tin rằng việc Con cái Chúa phải làm là không nghe theo luật pháp, chống lại các nhà cầm quyền, và cho phép mọi người làm những gì theo mắt mình cho là phải. Trong chương này Phao-lô bác bỏ quan điểm ấy, ông giải thích bốn lý do tại sao Cơ-đốc nhân phải chấp hành luật pháp nhà nước.


a. Vì lý do cơn thạnh nộ (Rô 13:1-4)

- Chính Đức Chúa Trời đã lập nên các chính phủ trên thế giới (Công 17:24-28). Điều này không có nghĩa Ngài chịu trách nhiệm về tội lỗi của các nhà độc tài, nhưng chỉ cho biết rằng quyền cai trị xuất phát từ Đức Chúa Trời. Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã học chính bài học này cách nặng nề. (Da 4:17,25,32). Chống lại luật pháp nhà nước là chống lại Đức Chúa Trời Đấng lập nên các chính phủ trên thế giới, và điều này có nghĩa là rước lấy tai vạ.


Các nhà cầm quyền phải mang gươm tức là, họ có quyền trách phạt thậm chí còn cất đi mạng sống nữa. Đức Chúa Trời lập nên chính quyền vì con người là tội nhân và phải có quyền hành nào đó trên con người. Đức Chúa Trời giao gươm cho người cai trị, và với quyền hành ấy họ có thể hình phạt và xử tội người khác. Tội tử hình được ban hành trong Sa 9:5-6, và nó không chấm dứt. Cho dù chúng ta không kính phục người đang cầm quyền, nhưng chúng ta phải kính trọng chức vụ, vì chính quyền do Đức Chúa Trời lập nên.


Hơn một lần trong chức vụ của ông, Phao-lô dùng luật pháp La-mã để binh vực mạng sống mình và mở mang công việc của ông. Các thầy đội được nhắc đến trong Sách Công-vụ dường như là những người có danh tiếng và rất mẫu mực. Mặc dù các viên chức chính phủ không phải là Cơ-đốc nhân, họ vẫn là “sứ giả của Đức Chúa Trời” vì Ngài lập nên quyền lực Nhà nước.


b. Vì lý do lương tâm (Rô 13:5-7)

- Bây giờ chúng ta đạt đến mức độ cao hơn trong động cơ vâng phục của chúng ta. Bất kỳ công dân nào cũng có thể vâng giữ pháp luật vì sợ hình phạt, nhưng Cơ-đốc nhân phải vâng giữ pháp luật vì cớ lương tâm. Dĩ nhiên, nếu chính quyền can thiệp vào vấn đề lương tâm lúc ấy con cái Chúa phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn người ta (Công 5: 29). Nhưng khi luật pháp con người đúng, con cái Chúa phải vâng theo nếu muốn giữ lương tâm tốt (ITi 1:5,19; ITi 3:9; ITi 4:2; Công 24:16).


Chính phủ Hoa-kỳ duy trì “Quỹ Lương Tâm” cho những người muốn trả nợ của họ cho Chính Phủ nhưng vẫn giữ kín danh tánh. Một số chính quyền thành phố có quỹ tương tự.Tôi đọc trên báo nói về một thành phố đã điều tra nhiều vụ gian dối về thuế má và công bố một vài công dân phải bị truy tố. Họ không để lộ tên tuổi tội phạm.Tuần đó, nhiều người đến ghé lại Toà Thị Chính để “khai thẳng số thuế của họ” -và nhiều người trong họ không có tên trong danh sách bị truy tố. Khi lương tâm bắt đầu làm việc, chúng ta không thể sống cho chính mình cho đến khi chúng ta làm cho mọi việc đúng đắn rõ ràng.


Rô 13:7 đòi hỏi chúng ta phải trả những gì chúng ta mắc nợ: thuế, phần đóng góp, sự kính trọng, tôn kính. Nếu không trả thuế, chúng ta không trọng pháp luật, không trọng các viên chức nhà nước và không tôn kính Đức Chúa Trời. Và điều này có thể có tác động đến lương tâm của con cái Chúa. Có thể chúng ta không đồng ý với tất cả những điều đã làm với số tiền chúng ta trả các loại thuế, nhưng chúng ta không dám phạm đến lương tâm khi không chịu đóng thuế.


c. Vì cớ tình yêu thương (Rô 13:8-10)

-Phao-lô mở rộng phạm vi trách nhiệm bằng cách công thêm nhiều người khác ngoài các viên chức chính phủ. “Hãy yêu nhau” là nguyên tắc căn bản của nếp sống Cơ-đốc. Đó là “điều răn mới” Đấng Christ đã truyền cho chúng ta (Gi 13:34).

Khi chúng ta thực hành tình yêu thương, không cần phải có bất kỳ điều luật nào khác, vì tình yêu thương bao gồm tất cả! Nếu yêu người khác, chúng ta sẽ không phạm tội nghịch cùng họ. Điều này giải thích tại sao “Mười Điều Răn” thường không được nhắc đến trong Tân-ước. Thực ra, điều răn ngày Sa-bát không được trích dẫn lần nào trong các thư tín. Là con cái Chúa, chúng ta không sống dưới luật pháp nhưng sống dưới ân điển. Động cơ chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời và giúp đỡ người khác là tình yêu thương Cơ-đốc ngự trị trong lòng.


“Đừng mắc nợ ai chi hết” có phải liên quan đến những công việc thuộc về tài chính của Cơ-đốc nhân không? Một số người tin rằng đúng như vậy, và đó chính là tội mắc nợ. J. Hudson Taylor, giáo sĩ đầy ơn Chúa tại Trung Hoa, chẳng bao giờ mang tiếng là mắc nợ, lòng tin quyết của ông dựa trên câu Kinh Thánh này. Charles Spurgeon, nhà truyền đạo danh tiếng của giáo hội Báp-Tít có cùng niềm tin như vậy. Tuy nhiên, Kinh Thánh không cấm vay mượn hoặc những vụ giao dịch tài chính đúng pháp luật có liên quan đến lợi tức. Điều Kinh Thánh cấm đó là cho vay nặng lãi, lấy của anh em, và không trả nợ đúng hạn (Xu 22:25-27; Ne 5:1-11). Mat 25:27 và Lu 19:23 cho thấy rằng gởi tiền ngân hàng và đầu tư để sinh lãi là điều không sai trái. Chắc chắn không ai phải chịu mắc nợ không cần thiết, hoặc ký những hợp đồng không thể duy trì. “Đừng trộm cướp”. Nhưng làm cho Rô 13: 8 ứng dụng cho tất cả các bổn phận đối với pháp luật liên quan đến tiền bạc, đối với tôi là điều đi quá cái thường cho phép.


Trong phần này, Phao-lô tập trung vào chính trung tâm điểm của vấn đề - lòng con người. Vì lòng con người là tội lỗi, nên Đức Chúa Trời lập nên chính quyền. Nhưng luật pháp không thể thay đổi lòng người lòng người vẫn cứ vị kỷ và chỉ có ân điển Đức Chúa Trời mới có thể biến đổi lòng người được.


d. Vì cớ Chúa Giê-xu (Rô 13:11-14)

- Chúng ta đã giải thích khá nhiều về các lý do phải vâng giữ pháp luật: từ sự sợ hãi đến lương tâm đến tình yêu tận hiến cho Chúa Giê-xu Christ! Điểm nhấn mạnh nhằm vào sự tái lâm sắp đến của Đấng Christ. Là tôi tớ của Ngài, chúng ta muốn được coi là trung tín trong ngày Ngài trở lại. Sự cứu rỗi sắp hoàn tất! Ánh sáng sắp lộ ra! Vậy nên, chúng ta hãy sẵn sàng!


Phao-lô đưa ra một số lời khuyên trong ánh sáng của sự tái lâm của Chúa. Lời khuyên đầu tiên đó là, “Hãy tỉnh thức!”. Hãy liên hệ điều này với ITês 5:1-11 và Mat 25:1-13. Lời khuyên thứ hai, “Hãy lột bỏ những việc tối tăm!”. Chúng ta không muốn thấy mình đang mặc áo dơ bẩn trong ngày Chúa trở lại (IGi 2:28-3:3).

Cơ-đốc nhân mặc lấy áo giáp sáng láng, chớ không phải những việc làm tối tăm. Họ không có lý do nào để dính dáng đến những thú vui tội lỗi của thế gian. Cuối cùng, Phao-lô khuyên, “Hãy lớn lên!” (Rô 13:14). “Mặc lấy” Chúa Giê-xu Christ có nghĩa trở nên giống như Ngài nhiều hơn, bởi đức tin nhận lãnh tất cả những gì có trong Ngài cho cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Chúng ta trưởng thành nhờ vào lương thực chúng ta ăn. Đây là lý do tại sao Đức Chúa Trời nhắc nhở chúng ta không được cung ứng cho xác thịt. Nếu chăm sóc cho xác thịt, chúng ta sẽ thất bại nhưng nếu chăm sóc người bề trong với những chất bổ dưỡng của Thánh Linh, chúng ta sẽ thành công.


Tóm lại, một công dân Cơ-đốc phải là công dân tốt nhất. Có thể con cái Chúa không nhất trí về chính kiến hoặc các đảng phái, nhưng họ có thể đồng ý về thái độ hướng về chính quyền loài người.



 


13. KHI CƠ-ĐỐC NHÂN BẤT HÒA (Rô 14:1-15:7)


Không hiệp một luôn luôn là nan đề chính yếu đối với con dân Đức Chúa Trời. Thậm chí Cựu-ước ghi lại các cuộc nội chiến và các cuộc tranh chấp trong gia đình giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, và hầu hết mọi Hội thánh địa phương có nhắc đến trong Tân-ước đều có bè phái. Người Cô-rinh-tô chia rẽ theo các nhà lãnh đạo, và thậm chí một số thành viên còn kiện tụng nhau (ICôr 1:10-13; ICôr 6:1-8).

Các thánh đồ Hội thánh Ga-la-ti đang “cắn nuốt” nhau (Ga 5:15), các thánh đồ tại Ê-phê-sô và Cô-lô-se phải được nhắc nhở về tầm quan trọng của sự hiệp một (Eph 4:1-3l; Co 2:1-2). Tại Hội thánh Phi-líp, hai người phụ nữ bất hoà nhau và kết quả là gây cho Hội thánh chia rẻ (Phi 4:1-3). Chẳng có gì ngạc nhiên khi tác giả Thi-thiên viết, “Kìa anh em ăn ở hoà thuận nhau, thật tốt đẹp thay!” (Thi 133:1).


Một số rắc rối ở đây xuất phát từ lai lịch của các tín hữu trong Hội thánh. Ví dụ, người Do-thái được cứu từ trong căn bản của luật pháp nghiêm khắc khó quên được. Người ngoại bang không bao giờ lo lắng về việc kiêng ăn và giữ ngày tháng. Giáo hội nghị đầu tiên trong lịch sử đã thảo luận điều luật về mối quan hệ của Cơ-đốc nhân với luật pháp (Công 15:1-33).


Tín hữu tại Rô-ma bị chia rẽ vì những sự kiêng ăn đặc biệt và giữ ngày tháng. Một số thành viên nghĩ rằng ăn thịt là tội lỗi, vì vậy họ chỉ ăn rau. Một số khác cho rằng không giữ các ngày thánh của dân Do-thái là phạm tội. Nếu mỗi con cái Chúa giữ lòng tin chắc với chính mình, sẽ không có rắc rối xảy ra, nhưng họ bắt đầu chỉ trích và đoán xét nhau. Nhóm người này chắc chắn rằng nhóm người kia không thiêng liêng chút nào.


Chẳng may, ngày nay chúng ta có nhiều nan đề tương tự trong nhiều “lãnh vực xám” của cuộc sống mà mọi tín hữu không phân định rõ đúng sai. Một số hoạt động chúng ta biết là sai, vì Kinh Thánh lên án cách rõ ràng. Một số hoạt động khác chúng ta biết là đúng, vì Kinh Thánh công khai đòi hỏi. Nhưng đối với những khía cạnh Kinh Thánh không nói rõ, chúng ta cần phải nhờ đến loại hướng dẫn khác. Phao-lô cung cấp các nguyên tắc hướng dẫn này. Ông giải thích cách nào con cái Chúa có thể không đồng ý về những điều vô bổ mà vẫn giữ sự hiệp một trong Hội thánh. Ông cung cấp cho độc giả ba lời khuyên quan trọng.


1. Hãy tiếp nhận nhau (Rô 14:1-12)

Bạn nhận thấy rằng phần này bắt đầu và kết thúc bằng lời khuyên này (Rô 15:7) Phao-lô viết thư cho những người “mạnh mẽ trong đức tin” tức là, những người hiểu được tự do thiêng liêng trong Đấng Christ và không bị nô lệ trong sự kiêng ăn hoặc giữ ngày thánh. “Kẻ kém đức tin” là những tín hữu ấu trĩ cảm thấy có bổn phận phải vâng theo các luật lệ có liên quan đến các loại thức ăn và lúc nào họ thờ phượng.

Nhiều người cho rằng Cơ-đốc nhân theo những quy định nghiêm nhặt là những người trưởng thành nhất, nhưng đây không phải là trường hợp cần thiết. Trong các Hội thánh tại Rô-ma, con cái Chúa yếu đức tin là những người bám theo luật pháp và không hưởng được tự do của họ trong Đức Chúa Trời.

Cơ-đốc nhân yếu đuối đang chỉ trích và lên án con cái Chúa mạnh mẽ, và con cái Chúa mạnh mẽ xem thường con cái Chúa yếu đuối.

“Hãy tiếp đãi nhau!” là lời khuyên trước tiên của Phao-lô ông đưa ra bốn lý do tại sao họ phải tiếp đãi nhau:


a. Đức Chúa Trời đã tiếp nhận chúng ta (Rô 14:1-3)

- Chúng ta không có trách nhiệm quyết định các yêu cầu đối với mối tương giao Cơ-đốc trong Hội thánh chỉ có Chúa mới có thể làm điều này. Lập nên những điều cấm kỵ dựa trên nền tảng định kiến của con người (hoặc ngay cả những tin quyết nữa) là vượt ra ngoài phạm vi Lời Đức Chúa Trời.

Vì Đức Chúa Trời đã tiếp lấy chúng ta, chúng ta phải tiếp đãi nhau. Chúng ta không nên tranh cãi về những vấn đề này, cũng không nên đoán xét hoặc khinh miệt nhau. Có lẽ Thánh Agustine hiểu vấn đề này rõ nhất: “Về những điều cần thiết, hãy hiệp một về những điều không cần thiết, hãy tự do về tất cả mọi điều, hãy yêu thương.”


Khi Đức Chúa Trời sai Phi-e-rơ đem Phúc-Âm đến cho dân ngoại, Hội Thánh chỉ trích Phi-e-rơ vì ông ăn chung với các tân tín hữu này (Công 11:1-3). Nhưng Đức Chúa Trời đã bày tỏ rõ ràng Ngài chấp nhận người ngoại bang bằng cách ban cho họ cùng một Thánh Linh đã ban xuống cho tín hữu Do-thái trong ngày lễ Ngũ Tuần (Công 10:44-48; Công 11:15-18).

Phi-e-rơ kiên quyết không vâng theo chân lý này, vì về sau ông không chịu thờ phượng chung với các tín hữu ngoại bang tại thành An-ti-ốt, và Phao-lô đã quở trách ông (Ga 2:11-13). Đức Chúa Trời bày tỏ cho cả Phi-e-rơ và Phao-lô rằng sự thờ phượng của Cơ-đốc nhân không dựa trên thức ăn hoặc ngày giờ thờ phượng trong tôn giáo.


Trong mỗi Hội thánh có các tín hữu mạnh mẽ lẫn yếu đuối. Người mạnh mẽ hiểu chân lý thuộc linh và làm theo, nhưng người yếu đuối chưa lớn lên theo mức độ trưởng thành và tự do như vậy. Người yếu đuối không nên lên án người mạnh mẽ và gọi họ là không thiêng liêng. Người mạnh mẽ không được coi thường người yếu đuối và gọi họ là ấu trĩ thuộc linh. Đức Chúa Trời đã chấp nhận cả người yếu đuối lẫn mạnh mẽ vì vậy, họ nên tiếp nhận nhau


b. Đức Chúa Trời giữ vững người thuộc về Ngài (Rô 14:4)

- Cơ-đốc nhân mạnh mẽ bị người yếu đuối đoán xét, Phao-lô lên án điều này vì thật sai trái khi Cơ-đốc nhân yếu đuối thay quyền Đức Chúa Trời trong đời sống tín hữu mạnh mẽ. Đức Chúa Trời là Chủ Cơ-đốc nhân là tôi tớ. Bất cứ ai can thiệp vào mối tương giao này là sai.


Thật khích lệ khi biết rằng thành quả chúng ta có được trong nếp sống Cơ-đốc không tuỳ thuộc vào ý kiến hoặc thái đô của các Cơ-đốc nhân khác. Đức Chúa Trời là Quan Án, và Ngài có thể khiến chúng ta đứng vững. Chữ “tôi tớ” ở đây cho thấy rằng con cái Chúa phải chuyên tâm làm việc cho Chúa lúc ấy họ sẽ không có thời gian hoặc không có xu hướng xét đoán hoặc lên án các con cái Chúa khác. Người bận rộn chinh phục linh hồn hư mất về cho Đấng Christ có nhiều việc quan trọng phải làm hơn là thắc mắc cuộc sống của các thánh đồ khác!


c. Chúa Giê-xu Christ là Chúa (Ro 14:5-9)

- Chữ “Chúa” tìm thấy tám lần trong các câu Kinh Thánh này. Chẳng có Cơ-đốc nhân nào có quyền “làm thay Đức Chúa Trời” trong đời sống con cái Chúa khác. Chúng ta có thể cầu nguyện, góp ý, và ngay cả khuyên bảo, nhưng không thể làm thay vai trò của Đức Chúa Trời được. Điều gì làm cho đĩa thức ăn trở nên “thánh” hoặc một ngày trở nên “thánh”? Đó là do chúng ta liên hệ điều đó với Chúa. Người xem một ngày đặc biệt là “thánh” làm như vậy “vì Chúa”. Người coi mọi ngày là thánh, người cũng làm “vì Chúa”. Con cái Chúa ăn thịt dâng lời tạ ơn Chúa, và người kiêng thịt cũng kiêng “vì Chúa”. “Ai nấy hãy tin chắc ở trí mình” (Ro 14:5) có nghĩa: Hãy để mọi người chắc chắn rằng họ thực sự đang làm những gì vì ích lợi cho Chúa, chớ không chỉ dựa trên nền tảng của một số định kiến hoặc ý tưởng chợt đến.


Một số tiêu chuẩn và tập tục trong Hội thánh địa phương thuộc về truyền thống nhưng không hẳn là theo lời dạy của Thánh Kinh. Một số trong chúng ta có thể nhớ rằng khi các con cái Chúa trung thành chống đối chương trình phát thanh Cơ-đốc “vì Sa-tan là vua cầm quyền chốn không trung!”.

Một số người còn biến các bản dịch Kinh Thánh thành một sự thử nghiệm chính thống. Hội thánh bị phân rẽ và suy yếu vì con cái Chúa không để Chúa Giê-xu Christ làm Chúa.


Một minh hoạ về chân lý này chép trong Gi 21:15-25. Chúa Giê-xu đã phục hồi chức sứ đồ cho Phi-e-rơ và một lần nữa Ngài phán với ông, “Hãy theo Ta”. Phi-e-rơ bắt đầu theo Đấng Christ, nhưng sau đó, ông nghe người khác đi sau mình. Đó là Sứ-đồ Giăng.

Lúc ấy Phi-e-rơ hỏi Chúa Giê-xu, “Thưa Chúa, người này về sau sẽ thế nào?”


Hãy lưu ý lời đáp lại của Chúa Giê-xu: “Điều đó có can hệ gì đến ngươi? Hãy theo Ta!”. Nói tóm lại, “Hỡi Phi-e-rơ, ngươi biết chắc ngươi chọn Ta là Chúa trong đời sống ngươi. Hãy để Ta lo liệu Giăng.” Bất cứ khi nào tôi nghe con cái Chúa lên án người khác vì một điều gì bất đồng, sự việc không cần thiết hoặc Lời Chúa cấm làm, tôi cảm nhận như có lời phán dạy, “Điều đó can hệ gì đến ngươi? Ngươi hãy theo Đấng Christ! Hãy để Ngài làm Chúa! ”


Phao-lô đề cao sự hiệp một của con cái Chúa với Đấng Christ: “Vậy nên chúng ta hoặc sống hoặc chết, đều thuộc về Chúa cả” (Rô 14:8). Trách nhiệm đầu tiên của chúng ta là Chúa. Nếu Cơ-đốc nhân đến với Chúa bằng sự cầu nguyện thay vì đến với anh em với lời chỉ trích, lúc ấy sẽ có sự thông công mạnh mẽ trong Hội thánh.


d. Chúa Giê-xu Christ là Quan Án (Rô 14:10-12)

- Phao-lô hỏi tín hữu yếu đuối, “Tại sao ngươi đoán xét anh em mình?” Kế đến người hỏi tín hữu mạnh mẽ, “Tại sao khinh dễ anh em mình?”. Cả người mạnh mẽ lẫn yếu đuối đều phải ứng hầu trước Tòa Phán Xét của Chúa Giê-xu Christ, và họ không đoán xét nhau - họ sẽ được Chúa đoán xét.


Toà Phán Xét của Đấng Christ là nơi Chúa xét đoán các công việc của con cái Chúa.Nơi ấy không đề cập đến tội lỗi vì Đấng Christ đã trả xong nợ tội và tội lỗi không còn chống lại chúng ta nữa (Ro 8:1). Chữ “tòa án” trong tiếng Hy-lạp là bema, có nghĩa đó là nơi các trọng tài đứng quan sát các cuộc tranh tài thể thao. Nếu suốt kỳ tranh tài họ thấy một vận động viên phạm luật, lập tức họ truất quyền thi đấu của người ấy. Vào lúc kết thúc cuộc tranh tài, các trọng tài công bố các giải thưởng. (ICôr 9:24-27).

ICôr 3:10-15 cho chúng ta một bức tranh khác về Tòa án của Đấng Christ. Phao-lô so sánh chức vụ chúng ta với việc xây dựng đền thờ. Nếu chúng ta xây bằng vật liệu rẻ tiền, lửa sẽ thiêu rụi tất cả. Nếu chúng ta xây dựng bằng vật liệu quý giá, lâu bền, chúng ta sẽ nhận được phần thưởng. Nếu công việc bị thiêu hủy, chúng ta sẽ mất phần thưởng, nhưng chúng ta sẽ được cứu “dường như qua lửa vậy”.


Người tin Chúa chuẩn bị như thế nào cho ngày phán xét của Đấng Christ? Bằng cách chọn Chúa Giê-xu Christ làm Chúa trong lòng mình và trung tín vâng theo Ngài. Thay vì đoán xét người khác, tốt hơn hết chúng ta nên xét đoán nếp sống chúng ta và bảo đảm rằng chúng ta đã sẵn sàng gặp mặt Đấng Christ tại Toà Phán Xét của Ngài. (Lu 12:41-48; Hêb 13:17; IGi 2:28).


Vấn đề tội lỗi sẽ không bao giờ được mang ra để chống lại chúng ta không được để thúc đẩy chúng ta trái mạng lệnh Đức Chúa Trời. Tội lỗi trong đời sống ngăn trở chúng ta hầu việc Đấng Christ như chúng ta đáng phải làm, điều này có nghĩa chúng ta mất phần thưởng. Lót là một gương điển hình về chân lý này (Sa 18:1-19:38).

Lót không đồng đi với Đức Chúa Trời như bác của mình là Áp-ra-ham và kết quả là ông mất lời chứng thậm chí với cả gia đình của mình họ cũng không tin ông. Lúc cơn đoán phạt cuối cùng xảy đến, Lót được cứu thoát khỏi lửa và diêm sanh, nhưng mọi sự ông có đều bị thiêu cháy. Ông được cứu “dường như qua lửa”.


Phao-lô giải thích rằng họ không phải khai trình về bất cứ ai ngoài ra chính mình. Vì vậy họ phải bảo đảm rằng khai trình của họ phải là một khai trình tốt. Ông chú trọng đến nguyên tắc Chúa là Đấng làm Chủ - để Chúa Giê-xu Christ làm Chúa trong đời sống bạn, và cũng để Ngài làm Chúa trong đời sống của các Cơ-đốc nhân khác.


Hai trong số các Cơ-đốc nhân nổi tiếng nhất trong Thời Đại Victoria tại Anh Quốc là Charles Spurgeon và Joseph Parker, cả hai đều là người giảng đạo có quyền năng.Vào buổi đầu trong chức vụ, họ thông công với nhau và còn giảng thay đổi cho nhau. Sau đó họ có bất đồng, thậm chí còn đăng báo nữa.

Spurgeon buộc tội Parker không thiêng liêng vì ông ấy đến xem hát. Điều thú vị đó là Spurgeon hút thuốc xì-gà, một việc làm nhiều con cái Chúa lên án. Vậy thì ai đúng? Ai sai?Có lẽ cả hai ông đều sai! Khi xảy ra những vấn đề gây tranh cãi trong đời sống Cơ-đốc, tín hữu trung thành không thể bất đồng mà không khó chịu sao? Ngày nọ một người bạn nói với tôi, “Tôi học biết rằng Đức Chúa Trời ban phước cho người tôi không đồng ý!”, và tôi cũng học được như vậy. Khi Chúa Giê-xu Christ là Chúa, chúng ta để cho Ngài đối đãi với tôi tớ Ngài như Ngài muốn.


2. Gây dựng cho nhau (Rô 14:13-23)

Nếu chúng ta dừng lại ở lời khuyên thứ nhất, có thể tạo nên ý nghĩ cho rằng con cái Chúa cứ để yên nhau như vậy và để cho người yếu đuối cứ yếu đuối mãi. Nhưng lời khuyên thứ hai này giải thích nhiều điều sâu sắc hơn. Điều nhấn mạnh không ở chỗ “chủ - tớ” nhưng là “anh em”. Đó là nguyên tắc của tình yêu anh em. Nếu yêu nhau, chúng ta tìm cách gây dựng nhau, gây dựng trong đức tin. Phao-lô chia sẻ một vài yếu tố giúp cho người đọc có thể nâng đỡ anh em mình.


a. Cơ-đốc nhân ảnh hưởng lẫn nhau (Rô 14:13-15)

- Hãy lưu ý những cách thức chúng ta có thể ảnh hưởng lẫn nhau.Chúng ta có thể gây cho người khác vấp phạm, đau buồn, hoặc gây phương hại đến họ. Phao-lô muốn nói đến phương cách tín hữu mạnh mẽ ảnh hưởng đến tín hữu yếu đuối.

Phao-lô bàn cùng một vấn đề trong ICôr 8:1-9:27 với câu hỏi đó là, “Cơ-đốc nhân có nên ăn thịt đã cúng cho thần tượng trong miếu tà thần không?”. Trong hai chương ấy Phao-lô vạch ra rằng sự hiểu biết và tình yêu thương phải đi chung với nhau. “Sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt” (ICôr 8:1). Tín hữu vững vàng có sự hiểu biết thiêng liêng, nhưng nếu không thực hành tình yêu thương, sự hay biết của anh ta sẽ làm thương tổn tín hữu yếu đuối. Sự hiểu biết phải được quân bình bằng tình yêu thương.


Thường thường các em nhỏ sợ bóng tối và nghĩ rằng có cái gì đó nấp trong phòng nhỏ. Dĩ nhiên, mẹ chúng biết rằng đứa bé không sao nhưng sự hiểu biết của bà không thể bảo đảm hoặc an ủi đứa bé được. Bạn không thể tranh cãi với đứa trẻ để xoá tan sợ hãi cho nó. Khi người mẹ ngồi xuống bên cạnh, vỗ về đứa trẻ, và đoan chắc với nó rằng mọi thứ đều an toàn, lúc ấy đứa bé có thể ngủ không còn sợ nữa. Sự hiểu biết công với tình yêu thương giúp cho người yếu đuối trở nên mạnh mẽ.


Phao-lô viết, “Chẳng có vật gì vốn là dơ dáy”. Chẳng có thức ăn nào là không sạch, chẳng có ngày nào là xấu, chẳng có người nào là xấu xa cả. (Hãy đọc Công 10:1-48 để thấy tại sao Phi-e-rơ học bài học này). Cái gì làm cho một người quyết định phẩm chất của điều đó. Một người có thể đọc những quyển sách nào đó và không bị những quyển sách ấy quấy rầy, trong khi đó tín hữu yếu đuối đọc cùng những quyển sách ấy sẽ bị cám dỗ phạm tội.

Nhưng vấn đề không phải là “Nó ảnh hưởng đến tôi như thế nào?” mà đúng hơn là, “Nếu tôi làm điều này, nó sẽ ảnh hưởng đến anh em tôi ra sao?” Nó sẽ gây cho họ vấp phạm không? Điều đó sẽ làm cho họ đau đớn hoặc bị hại qua việc thúc giục họ phạm tội không? Thật sự có đáng làm thương tổn anh em khi tôi thích thưởng thức một món ăn nào đó không?Không đáng chút nào!


b. Cơ-đốc nhân phải có những điều ưu tiên (Rô 14:16-18)

- Giống như người Pha-ri-si thời xưa, là Cơ-đốc nhân chúng ta cũng làm cho lớn những chuyện việc nhỏ. Tôi đã thấy nhiều Hội thánh chia rẽ vì những vấn đề thật sự không quan trọng khi so với những việc hệ trọng của đức tin Cơ-đốc.

Tôi đã nghe thấy nhiều Hội thánh chia rẻ vì những việc nhỏ nhoi như là chỗ đặt chiếc đàn dương cầm trong hội trường và phục vụ bữa ăn vào ngày Chúa Nhật. “Nước Đức Chúa Trời chẳng tại sự ăn uống...” (Rô 14:17). “Vả ấy chẳng phải là đồ ăn làm chúng ta đẹp lòng Đức Chúa Trời nếu chúng ta ăn chẳng được ích gì, bằng không ăn cũng chẳng tổn gì” (ICôr 8:8).


Không phải do sự ở bên ngoài, nhưng là những sự vĩnh cửu cần phải được ưu tiên trong cuộc sống chúng ta: công bình, hoà thuận, vui mừng. Chúng xuất phát từ đâu? Thánh Linh Đức Chúa Trời đang hành động trong lòng chúng ta. (Rô 5:1-2) Nếu mỗi tín hữu thuận phục Đức Thánh Linh và chuyên tâm nếp sống kính sợ Chúa, chúng ta sẽ không có những tín hữu chống đối nhau vì những việc nhỏ nhặt. Những ưu tiên thuộc linh là nền tảng để hoà hợp trong Hội thánh.


c. Cơ-đốc nhân phải giúp đỡ nhau lớn lên (Rô 14:19-21).

Cả tín hữu mạnh mẽ lẫn yếu đuối đều cần phải lớn lên. Người mạnh mẽ cần trưởng thành trong tình yêu thương người yếu đuối cần trưởng thành trong sự hiểu biết. Bao lâu một anh em còn yếu đuối trong đức tin, chúng ta phải lấy lòng yêu thương đối xử với họ trong sự chưa trưởng thành của họ. Nhưng nếu chúng ta thật sự yêu thương họ, chúng ta sẽ giúp cho họ lớn lên. Một Cơ-đốc nhân cứ giữ mãi tình trạng ấu trĩ thuộc linh, có lương tâm yếu đuối là điều sai.


Một minh hoạ trong gia đình có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều đang bàn đến. Khi một đứa bé sinh ra, mọi thứ đều thay đổi. Ba mẹ thận trọng không để chiếc kéo trên ghế hoặc bất cứ vật gì nguy hiểm trong tầm với của bé. Nhưng khi đứa bé lớn khôn, cha mẹ có thể điều chỉnh những qui định trong nhà và cư xử nó cách người lớn hơn. Đứa bé vấp ngã khi tập đi là điều tự nhiên. Nhưng nếu người lớn thường xuyên té ngã, chúng ta biết có điều gì đó không bình thường.


Các Cơ-đốc nhân non trẻ cần sự thông công để che chở cho họ và khích lệ họ lớn lên.Nhưng chúng ta không thể đối đãi họ như “các em bé” suốt cuộc sống của họ! Con cái Chúa từng trải phải thực hành lòng yêu thương và sự nhịn nhục và cẩn thận không gây cho họ vấp ngã. Nhưng Cơ-đốc nhân non trẻ phải “lớn lên trong ân điển và trong sự thông biết Chúa là Chúa Giê-xu Christ chúng ta” (IIPhi 3:18).

Khi họ trưởng thành trong đức tin, họ có thể giúp người khác lớn lên. Điều chỉnh công việc của lớp học Trừờng Chúa Nhật hoặc Hội thánh địa phương chỉ hướng vào những tín hữu non trẻ làm ngăn trở họ lớn lên cũng như ngăn trở chức vụ của các thánh đồ trưởng thành hơn. Người yếu đuối phải học tập nơi người mạnh mẽ, và người mạnh mẽ phải yêu thương người yếu đuối. Kết quả sẽ là hoà thuận và trưởng thành dâng sự vinh hiển lên cho Đức Chúa Trời.


d. Con cái Chúa không nên áp đặt ý kiến của mình lên người khác (Rô 14:22-23)

- Chắc chắn có nhiều chân lý mà tất cả con cái Chúa phải chấp nhận vì các chân lý ấy là nền tảng cho đức tin. Nhưng chúng ta không nên dùng các khía cạnh bất hoà chính đáng để thử nghiệm mối thông công. Nếu bạn có lòng tin thành thật từ Đức Chúa Trời về một vấn đề, chính bạn hãy giữ nó và đừng tìm cách ép buộc người khác phải chấp nhận nó.

Không có Cơ-đốc nhân nào có thể “vay mượn” niềm tin quyết của người khác và vẫn có thể trung thực trong nếp sống Cơ-đốc của mình cả. Nếu người ấy không thể nắm giữ và thực hành “bằng đức tin”, người ấy đang phạm tội. Cho dù niềm tin quyết của một người còn ấu trĩ, người ấy cũng đừng bao giờ phạm đến lương tâm của mình.

Điều này sẽ gây nguy hại nặng nề cho đời sống thuộc linh của người ấy. Ví dụ, Cơ-đốc nhân biết rằng thần tượng là hư không. Nhưng Cơ-đốc nhân non trẻ vừa mới thoát khỏi việc thờ thần tượng vẫn còn sợ thần tượng. Nếu tín hữu mạnh mẽ ép tân tín hữu phải ăn thịt đã cúng cho thần tượng, người mới tin Chúa sẽ cảm thấy lương tâm cắn rứt và điều đó chỉ làm cho người càng yếu đuối thêm. (ICôr 8:1-9:27).


Lương tâm được mạnh mẽ nhờ sự hiểu biết. Nhưng hiểu biết phải được quân bình bằng tình yêu thương nếu không lương tâm sẽ phá đổ thay vì gây dựng. Lời Kinh Thánh dạy “mọi vật là thanh sạch” (c.14,20) tự nó sẽ không làm cho Cơ-đốc nhân lớn lên. Khi chân lý này được dạy trong tình yêu thương, lúc ấy người mới tin Chúa mới có thể lớn lên và phát triển môt lương tâm tốt. Con cái Chúa có thể nắm giữ các điều tin quyết khác nhau về nhiều vấn đề, nhưng họ phải giữ chúng trong tình yêu thương.


3. Làm đẹp lòng nhau (Rô 15:1-7)

Phao-lô tự liệt mình vào các thánh-đồ mạnh mẽ khi ông bàn đến vấn đề căn bản - tính vị kỷ. Tình yêu thương Cơ-đốc chân thật không vị kỷ đúng hơn, tình yêu ấy tìm cách san sẻ cho người khác và làm người khác hạnh phúc. Thậm chí còn sẵn lòng cưu mang những người mới tin Chúa để giúp dìu dắt họ trong bước đường thuộc linh.Chúng ta không dung thứ họ. Chúng ta khích lệ họ!


Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu Christ đã nêu cho chúng ta gương lớn về vấn đề này. Ngài đã trả giá để chăm nom chúng ta. Phao-lô trích dẫn Thi 69:9 để chứng minh cho lập luận của ông. Cơ-đốc nhân mạnh mẽ có nghĩ rằng họ dâng một của lễ trọng đại bằng cách thôi ăn uống không? Vậy thì hãy để họ đánh giá sự hi sinh của mình qua sự hy sinh của Đấng Christ. Chúng ta chẳng thể nào lấy một sự hi sinh nào để sánh với sự hi sinh tại đồi Gô-gô-tha.


Sự trưởng thành thuộc linh của một người được bày tỏ bởi sự nhận biết của người đó. Người sẵn lòng từ bỏ quyền lợi của mình để người khác được giúp đỡ. Người làm điều này, không phải là gánh nặng nhưng là một ơn phước. Giống như cha mẹ yêu thương muốn hi sinh cho con cái mình, người tín hữu mạnh mẽ cũng hi sinh để giúp các con cái Chúa non trẻ lớn lên trong đức tin.


Phao-lô chia sẻ hai nguồn sức mạnh thuộc linh chúng ta phải lấy ra nếu chúng ta phải sống làm đẹp lòng người khác: đó là Lời Đức Chúa Trời (Rô 15:4) và sự cầu nguyện (Rô 15:5-6). Chúng ta phải thừa nhận rằng thỉnh thoảng chúng ta không nhịn nhục với những người mới tin Chúa, giống như cha mẹ không kiên nhẫn với con cái họ. Nhưng Lời Đức Chúa Trời có thể cung cấp cho chúng ta “sự nhịn nhục và sự yên ủi” mà chúng ta cần đến! Phao-lô kết thúc phần này bằng lời cầu nguyện cho độc giả, để họ có thể kinh nghiệm từ Đức Chúa Trời để Ngài có thể ban cho sự hiệp một thiêng liêng.


Điều này cho chúng ta thấy rằng Hội thánh địa phương phải chú tâm về Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện. Mối hiểm nguy đầu tiên của Hội thánh đã xảy đến vì các sứ-đồ quá bận rộn đến nỗi không thể quan tâm đến Lời Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện (Cong 6:1-7). Khi họ tìm thấy những người khác chia sẻ gánh nặng của họ, họ quay lại với chức vụ đúng đắn của mình, và Hội thánh kinh nghiệm được sự hiệp một và lớn lên.


Dĩ nhiên điều này đem lại kết quả sáng danh Đức Chúa Trời (Rô 15:7). Không hiệp một và không hoà thuận không làm sáng danh Đức Chúa Trời nhưng họ cướp mất sự vinh hiển của Ngài. Lời Áp-ra-ham dạy Lót có thể áp dụng cho chúng ta ngày nay: “Chúng ta là cốt nhục, xin ngươi cùng ta chẳng nên cãi lẫy nhau...” (Sa 13:8).

Người lân cận đang nhìn chúng ta! Áp-ra-ham muốn họ thấy rằng ông và Lót khác họ vì hai người thờ phượng một Đức Chúa Trời chân thật. Trong Lời cầu nguyện của Ngài chép trong Gi 17:1-26 Chúa Giê-xu cầu nguyện để cho Hội thánh hiệp một hầu làm sáng danh Đức Chúa Trời.

Hãy tiếp nhận nhau hãy gây dựng nhau và hãy làm đẹp lòng nhau - tất cả làm sáng danh Đức Chúa Trời.



 


13. CON NGƯỜI ĐANG CHUYỂN ĐỘNG (Ro 15:8-16:27))


Một trong những chữ quan trọng trong các chương kết thúc thư Rô-ma là “chức vụ”. Thật ra, Phao-lô dùng ba chữ khác nhau trong tiếng Hy-lạp để bàn về chủ đề này. Trong Rô 15:8,25,31 và Rô 16:1 đó là chữ đơn giản dành cho tôi tớ hoặc sự phục dịch. Chữ tiếng Anh “deacon” (chấp sự) xuất xứ từ chữ này. Trong các câu Rô 15:16,27 (chữ “chức việc”), ông dùng từ thông thường nói đến sự phục dịch trong nơi làm việc công cộng hoặc trong đền thờ. Trong Rô 15:16 ông dùng một chữ chúng ta không tìm thấy trong bản Tân-ước tiếng Hy-lạp và nó có nghĩa “thực hiện các buổi lễ thánh, làm chức thầy tế lễ.”

Trong phần này, Phao-lô giải thích bốn chức vụ khác nhau.


1. Chức vụ của Chúa Giê-Xu đến với dân ngoại (Rô 15:8-13)

Chúa Giê-xu Christ luôn nêu cao gương chức vụ. “Nhưng Ta ở giữa các ngươi như kẻ hầu việc vậy” (Lu 22:27). Trước tiên Ngài đến hầu việc người Do-thái, để thông qua dân Y-sơ-ra-ên Ngài có thể hầu việc dân ngoại. “Trước là người Do-thái” là nguyên tắc Chúa Giê-xu theo đó thi hành chức vụ Ngài trên đất và trong chức vụ Hội thánh trên thế gian.


Ví dụ Giăng Báp-tít đến thi hành chức vụ trong nước Y-sơ-ra-ên để sửa soạn họ tiếp rước Đấng Mê-si-a. Khi Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ, Ngài chỉ dành cho dân Y-sơ-ra-ên mà thôi. Khi Ngài sai các sứ đồ trong sứ mạng truyền giáo đầu tiên, Ngài căn dặn họ, “Đừng đi đến dân ngoại, cũng đừng vào một thành nào của dân Sa-ma-ri cả nhưng thà đi đến cùng những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên.” (Mat 10:5-6). Điều này không có nghĩa là Ngài bỏ mặc cá nhân người ngoại bang, vì Ngài đã chăm sóc một vài người ngoại bang (Mat 8:5-13; Mat 15:21-28) nhưng Ngài đặc biệt coi trọng dân Y-sơ-ra-ên.


Sau khi Ngài sống lại, Ngài truyền lệnh các sứ-đồ cứ ở tại Giê-ru-sa-lem và bắt đầu chức vụ của họ tại đó (Lu 24:44-49). Giai đoạn bao gồm từ Công 1:1-7:60 mô tả chức vụ chỉ dành cho người Do-thái hoặc những người theo đạo Do-thái. Đến Công 8:1-40 Phúc-Âm truyền đến xứ Sa-ma-ri trong Công 10:1-48 đạo Chúa truyền đến cho dân ngoại. Sau đó, qua chức vụ Phao-lô, đạo Chúa truyền đến khắp đế quốc La mã (Công 13:1-3).


Khi Ngài đến thế gian và chịu chết, Chúa Giê-xu Christ xác nhận lời hứa Đức Chúa Trời đã lập cùng Áp-ra-ham và “các tổ phụ” khác của dân Do-thái. (Lu 1:30-33,46-55,67-80). Một số những lời hứa này đã được ứng nghiệm, nhưng còn nhiều lời hứa phải chờ đợi sẽ ứng nghiệm khi Chúa trở lại trái đất thiết lập Vương quốc của Ngài.


Đức Chúa Trời có thiên vị khi Ngài coi trọng dân Do-thái không? Không phải vậy, vì qua dân Do-thái, Ngài truyền Phúc-Âm Cứu Rỗi đến cho người ngoại bang. Nhiều tín hữu đầu tiên là người Do-thái! “Sự cứu rỗi bởi người Do-thái mà đến” (Gi 4:22). Trong thời Cựu-ước, Đức Chúa Trời đã chọn Y-sơ-ra-ên làm sứ giả đến với dân ngoại nhưng thay vào đó, dân Y-sơ-ra-ên bắt chước cách thờ thần tượng của dân ngoại và phải bị quở phạt. Trong thời Tân-ước, Đức Chúa Trời chọn tín hữu người Do-thái mang Phúc-Âm đến dân ngoại, và họ đã vâng lời Ngài.


Có sự tăng tiến tốt đẹp trong các lời hứa Phao-lô trích dẫn trong Ro 15:9-12.

*Dân Do-thái làm sáng danh Đức Chúa Trời giữa vòng dân ngoại (Rô 15:9, trích dẫn Thi 18:49).

*Dân ngoại reo mừng cùng dân Do-thái (Rô 15:10, trích trong Phuc 32:43).

*Tất cả dân Do-thái và ngoại bang cùng ngợi khen Đức Chúa Trời (Rô 15:11, trích dẫn Thi 117:1).

*Đấng Christ sẽ cai trị trên dân Do-thái và ngoại bang (Rô 15:12, trích dẫn Es 11:10).


Rô 15:8 bao gồm giai đoạn của Phúc-Âm và Công 1:1-7:60. Rô 5:9 mô tả chức vụ của Phao-lô khi người làm chứng giữa vòng dân ngoại. Rô 15:10 có thể được áp dụng cho giáo hội nghị trong Công 15:1-33 khi dân ngoại được ban cho địa vị ngang bằng “với dân sự Ngài”. Ngày nay, người Do-thái và ngoại bang trong Hội thánh đang cùng nhau ngợi khen Đức Chúa Trời.


Chữ “tin cậy” ở cuối câu Ro 15:12 thực sự là chữ “hy vọng”. Có một thuở dân ngoại “không có sự hy vọng” (Eph 2:12), nhưng bây giờ họ có sự hy vọng trong Đấng Christ. Không những người theo Chúa có sự hy vọng, nhưng họ còn có niềm vui sự bình an và quyền năng nữa (Ro 15:13)! Thánh Linh Đức Chúa Trời chia sẻ những phước hạnh này với họ khi họ đầu phục Ngài.


Vì tín hữu người Do-thái trung tín mang Phúc-Âm đến cho dân ngoại, nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay có cơ hội tin nhận Đấng Christ làm Đấng Cứu Rỗi của mình.


2. Chức vụ của Phao-lô cho dân ngoại (Rô 15:14-24)

Nếu chúng ta không hiểu chức vụ nổi bật của Phao-lô, chúng ta sẽ không cảm nhận trọn vẹn sứ điệp của ân điển Đức Chúa Trời. Phao-lô giải thích các đặc điểm trong chức vụ của ông.


a. Ông nhận lãnh chức vụ do ân điển (Rô 15:14-15)

- Khi ông còn là Sau-lơ quê tại Tạt-sơ, một ra bi luật hăng hái, Phao-lô không biết về ân điển của Đức Chúa Trời. Ông bắt bớ Hội thánh và tìm cách tàn hại Hội thánh. Khi Phao-lô gặp Chúa Giê-xu Christ trên đường Đa-mách (Công 9:1-30), ông kinh nghiệm ân điển của Đức Chúa Trời. Chính ân điển Đức Chúa Trời đã cứu ông, và cũng chính ân điển ấy đã kêu gọi ông khiến ông trở nên sứ đồ (ICôr 15:8-11). “Nhờ Ngài chúng ta đã nhận lãnh ân điển và chức sứ đồ để đem mọi dân ngoại đến sự vâng phục của đức tin vì danh Ngài.” (Rô 1:5). Trong Eph 3:1-21 Phao-lô giải thích cụ thể chức vụ của ông cho dân ngoại.


b. Chức vụ ấy tập trung vào Phúc-Âm (Rô 15:16)

- Như đã đề cập ở trên, Phao-lô dùng chữ khác nhau cho chức vụ trong câu này, nhưng điểm nhấn mạnh nhằm vào chức tế lễ. Phao-lô tự coi mình là thầy tế lễ nơi bàn thờ dâng lên cho Đức Chúa Trời những người ngoại bang ông đã chinh phục về với Đấng Christ.

Họ là những “của lễ thiêng liêng” làm sáng danh Đức Chúa Trời (IPhi 2:5). Ngay cả việc rao giảng Phúc-Âm cũng là “bổn phận của thầy tế lễ”. Việc hiểu thấu đáo chức vụ chắc chắn sẽ thêm lên thái độ và trách nhiệm cho sự hầu việc của chúng ta. Thật là quan trọng khi các thầy tế lễ phải dâng lên cho Đức Chúa Trời điều tốt nhất (Ma 1:6-14).


Hãy lưu ý sự liên quan của Ba Ngôi Đức Chúa Trời trong sứ mạng của Lời Đức Chúa Trời. Phao-lô là sứ giả của Chúa Giê-xu Christ người rao giảng “Phúc-Âm của Đức Chúa Trời” và người hầu việc trong quyền năng của Thánh Linh Đức Chúa Trời Đấng làm nên thánh chức vụ của ông. Được làm tôi tớ cho Ba Ngôi Đức Chúa Trời chinh phục linh hồn hư mất trở lại với Chúa Giê-xu Christ quả thật là một đặc ân và là một trách nhiệm nữa! Chúng ta nhớ rằng chinh phục linh hồn là một chức việc thuộc về thầy tế lễ, một trách nhiệm thánh khiết. Và chúng ta nên hầu việc Chúa với lòng tận hiến như thầy tế lễ trong đền thờ.


c. Chức vụ được thi hành vì danh vinh hiển Đức Chúa Trời (Rô 15:17)

- “Vậy tôi có cớ khoe mình trong Chúa Giê-xu Christ về điều hầu việc Đức Chúa Trời”. Chữ “khoe mình” mang ý nghĩa “hãnh diện, tự hào”. Trước đây Phao-lô dùng chữ ấy trong Rô 2:17,23; Rô 5:2-3,11; Rô 3:27; Rô 4:2.

Phao-lô không khoe khoang về chức vụ của mình. Ông khoe mình những điều Chúa đã làm. Vị sứ-đồ không hầu việc và chịu khổ như người đã làm chỉ để làm vinh hiển chính mình, vì ông có mục đích cao hơn trong suy nghĩ. Ông muốn mang lại sự vinh hiển cho Chúa Giê-xu Christ. “Hầu cho trong mọi vật Ngài đứng đầu hàng” (Co 1:18).


d. Chức vụ được thực hiện do quyền năng của Đức Chúa Trời (Co 15:18-19)

- Đức Thánh Linh ban quyền năng cho Phao-lô để hầu việc Ngài, và Ngài giúp ông có thể làm các dấu kỳ phép lạ. Các phép lạ Đức Chúa Trời ban cho Phao-lô làm là “những dấu hiệu” đến từ Đức Chúa Trời và bày tỏ Ngài cho mọi người biết. Chúng là những phép lạ khơi gợi lòng hiếu kỳ của dân chúng. Nhưng mục đích của những dấu kỳ phép lạ là mở đường cho việc rao giảng Phúc-Âm.

Phép lạ ban ra để thẩm định sứ giả cùng sứ điệp rao ra (He 2:1-4). Chính phép lạ không bao giờ cứu được người hư mất. Khi Phao-lô chữa lành người què tại Lít-trơ (Công 14:1-28), người ta lập tức nghĩ đến tà thần:dân chúng xưng Phao-lô và Ba-na-ba là thần linh và tìm cách thờ lạy họ! Khi Phao-lô chia sẻ Phúc Âm cho họ, họ không nhiệt tình hưởng ứng. Cuối cùng, dân chúng ném đá Phao-lô và bỏ ông ta nằm chết ngoài thành.


Thánh Linh Đức Chúa Trời ban quyền năng cho Phao-lô để chia sẻ Lời Đức Chúa Trời, và mục đích đó là “khiến dân ngoại phục Ngài...” (Rô 15:18). Phao-lô chia sẻ Phúc-Âm chính “bởi lời nói và việc làm”.


Có lẽ ngày nay chúng ta không thể thực hiện các phép lạ, vì đây là một ân tứ đặc biệt dành cho các sứ đồ. Nhưng “bởi lời nói và việc làm” chúng ta có thể chia sẻ tình yêu thương của Đức Chúa Trời cho người hư mất chung quanh chúng ta. Những thay đổi trong hành vi và tính cách cũng giống như các phép lạ của Đức Thánh Linh chữa lành người bệnh.


e. Phao-lô thi hành chức vụ theo chương trình của Đức Chúa Trời (Rô 15:20-24)

- Đức Chúa Trời có chương trình đặc biệt cho Phao-lô làm theo: ông không rao giảng Phúc-Âm tại nơi nào các sứ đồ khác đã rao giảng. (Đây là một bằng chứng cho thấy Phi-e-rơ không sáng lập các Hội thánh tại Rô-ma, hoặc đã từng đến Rô-ma vì chắc chắn sẽ ngăn Phao-lô không đến đó).

“Từ thành Giê-ru-sa-lem và các miền chung quanh cho đến xứ I-ly-ri” (Rô 15:19) trải dài khoảng 1.400 dặm! Khi bạn suy nghĩ về sự đi lại chậm chạp và nguy hiểm rình rập (IICôr 11:26-27), bạn có thể cảm nhận sự thành công lạ lùng trong chức vụ truyền giáo của Phao-lô. Trong khi tham dự vào công việc của người khác lkhông phải là điều sai trái (Gi 4:38), nhưng đi tiên phong trong chức vụ và đem Phúc-Âm đến vùng đất mới là điều tốt. Phao-lô trích dẫn Es 52:15 như lời chứng nhận của Đức Chúa Trời cho chức vụ này.


Cơ hội rộng mở tại các nơi khác trong đế quốc Rô-ma đã ngăn Phao-lô không đến thăm Rô-ma sớm hơn. Ông không bị sự chống đối của Sa-tan hoặc những ngăn trở của bệnh tật để không đến được Rô-ma, nhưng do sự thách thức phải hoàn thành công việc ngay nơi ông đang thi hành chức vụ. Ông trung tín trong sứ mạng rao truyền Phúc-Âm đến nỗi không thể nói rằng trong các miền ấy không còn nơi nào nữa để thi hành chức vụ. Điều này không có nghĩa là cá nhân Phao-lô làm chứng cho mọi người trong vùng ấy, nhưng có nghĩa là ông đem Phúc-Âm đến và để lại cho Hội thánh cùng con cái Chúa tiếp tục công việc làm chứng cho Chúa. Phao-lô hoàn thành một công việc trước khi bắt đầu một công việc khác, một gương tốt cho chức vụ truyền giáo của chúng ta ngày nay.


Trải qua nhiều năm Phao-lô mong mỏi đến thăm Rô-ma và tiếp tục đến Tây-ban-nha nhưng không có lời tường thuật nào cho biết ông đã thực hiện được đều đó. Truyền thống cho rằng ông đã đến Tây-ban-nha, và Anh Quốc sau khi ông được thả ra khỏi tù, nhưng truyền thống trong Hội thánh không phải luôn luôn đáng tin cậy.


3. Tín hữu ngoại bang chăm sóc tín hữu Do-thái (Rô 15:25-33)

Phao-lô và cộng sự của ông đã nhận khoản tiền dâng đặc biệt nơi các Hội thánh ngoại bang tại Hy-lạp để giúp cho các thánh đồ người Do-thái đang chịu bắt bớ tại Giê-ru-sa-lem. Nội dung cuộc quyên góp này được ghi lại trong IICôr 8:1-9:15. Có một vài mục đích đằng sau cuộc quyên góp đặc biệt này.

-Trước tiên, nó nói lên lòng thương yêu nơi những tín hữu ngoại bang đối cùng anh em người Do-thái của họ.

-Thứ hai, nó mang ý nghĩa giúp đỡ bằng hành động thực tế lúc tín hữu Do-thái nghèo khó cần chu cấp nhất.

-Thứ ba, nó giúp hiệp một người Do-thái và ngoại bang trong Hội thánh. Đó là mối ràng buộc kéo họ xích gần lại với nhau.


Phao-lô xem của dâng này như là sự trả nợ.

Người ngoại bang đã nhận của cải thiêng liêng từ người Do-thái. Bây giờ họ trả món nợ của họ bằng của cải vật chất. Phao-lô tự xem mình là “người mắc nợ” cả thế gian (Rô 1:14). Ông cũng coi các con cái Chúa ngoại bang là người mắc nợ tín hữu Do-thái, vì chính dân Do-thái đã cho dân ngoại Lời Đức Chúa Trời và Con Đức Chúa Trời.

Là Cơ-đốc nhân chúng ta phải có bổn phận với dân Y-sơ-ra-ên, và trả món nợ ấy bằng lời cầu thay cho dân Y-sơ-ra-ên, chia sẻ Phúc-Âm và giúp đỡ họ về phương diện vật chất. Chủ nghĩa bài Do-thái không có chỗ trong đời sống của con cái Chúa tận hiến cho Ngài.


Của dâng này không những là trả nợ, nhưng còn là “quả phước” (Rô 15:28). Đó không phải là “tiền của” Phao-lô đánh cắp từ các Hội thánh! Nhưng đó là quả phước -kết quả tự nhiên của việc họ bước đi với Chúa (Gi 15:1-8).


Khi sự sống của Thánh Linh tuôn chảy qua Hội thánh, sự ban cho không còn là khó khăn. Trong IICôr 8: 1-5 Phao-lô mô tả phép lạ của ân điển đã xảy ra trong các Hội thánh tại xứ Ma-xê-đoan.


Phao-lô nóng lòng mong tín hữu Do-thái nhận được của dâng này và mong ước họ hoan nghênh. Dưới sự tể trị của Đức Chúa Trời người muốn tạo ra mối dây khắng khít giữa Hội thánh chính tại Giê-ru-sa-lem và các Hội thánh nhánh trong các vùng khác của đế quốc Rô-ma.

Chẳng may, vẫn còn có người Do-thái chống đối sứ điệp của ân điển đem đến cho dân ngoại và muốn dân ngoại phải trở thành người Do-thái và chấp nhận luật pháp Do-thái. (Các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi những người này là “Những giáo sư Do-thái”. Họ đi theo Phao-lô bất cứ nơi nào ông đến và cố tìm cách quyến dụ Hội thánh lìa bỏ Phao-lô. Thư tín gởi cho Hội thánh Ga-la-ti được viết ra để chống lại những việc làm xấu xa của họ.)


Các chữ “cùng chiến đấu” trong câu 30 cho thấy một vận động viên cố hết sức mình trong cuộc tranh tài. Có lẽ các chữ “cùng nhau vật lộn”diễn đạt rõ hơn ý nghĩa này. Chữ này cũng được dùng trong sự cầu nguyện của Ê-pháp-ra chép trong Co 4:12. Câu Kinh Thánh này không có nghĩa là chúng ta phải chiến đấu với Đức Chúa Trời để đạt được điều chúng ta cần. Đúng hơn, điều đó có nghĩa là sự cầu nguyện của chúng ta không phải là một kinh nghiệm ngẫu nhiên không có chút cảm xúc hoặc nghiêm túc nào cả. Chúng ta nên thiết tha trong sự cầu nguyện như một người thi đấu trong môn vật của mình!


4. Các tín hữu chăm sóc Phao-lô (Rô 16:1-27)

Thật là một chương đáng chú ý! Trong chương này Phao-lô chào thăm ít nhất 26 người bằng cách xưng tên họ, cũng như hai thánh đồ không nêu tên ông cũng chào thăm một vài Hội thánh nhóm lại tại nhà. Ông kết thúc bằng lời chào thăm chín con cái Chúa ở với ông tại Cô-rinh-tô khi ông viết thư này.

Tầm quan trọng của điều này là gì? Nó cho thấy Phao-lô là người kết bạn và là người chinh phục linh hồn. Ông không tìm cách sống đời sống biệt lập ông có bạn hữu trong Chúa, và ông đánh giá cao về họ. Họ là nguồn giúp đỡ cho cá nhân ông và chức vụ truyền giáo.

Trong việc đọc tiểu sử con cái Chúa tôi đã khám phá ra rằng các tôi tớ được Đức Chúa Trời sử dụng nhiều nhất là những người có khả năng kết bạn. Họ tự gia tăng số lượng bạn bè của họ và nâng lên số người cộng tác trong chức vụ của họ. Có thể có nơi dành cho thánh đồ ẩn dật sống một mình với Đức Chúa Trời, nhưng tôi tin rằng hầu hết chúng ta đều cần đến nhau. Chúng ta là chiên, và chiên sống theo bầy với nhau.


a. Một số bạn chào thăm (Rô 16:1-16)

-Ông bắt đầu lời chào thăm Phê-bê, một thuộc viên của Hội thánh Xen-cơ-rê, một phụ nữ mang thư đến cho các thánh đồ tại Rô-ma. Chưa từng bao giờ có sứ giả mang một bức thư quan trọng hơn như thế! Xen-cơ-rê là hải cảng của thành phố Cô-rinh-tô, vì vậy có thể Phê-bê được cứu trở nên môn đệ của Đấng Christ trong thời gian một năm rưỡi chức vụ của Phao-lô tại Cô-rinh-tô.

Chữ “tôi tớ” là chức chấp sự thuộc giống cái, một số nhà nghiên cứu Thánh Kinh tin rằng bà là “nữ chấp sự” trong Hội thánh. Điều này có thể lắm, vì trong Hội thánh đầu tiên có nhiều phụ nữ hầu việc Chúa bằng cách thăm viếng người bịnh, phụ giúp những phụ nữ trẻ tuổi và giúp đỡ người nghèo khó. Phao-lô thừa nhận rằng Phê-bê là người giúp đỡ (nghĩa đen là “người nữ bảo vệ”) cho chính ông và các tín hữu khác. Và ông khuyến khích Hội thánh săn sóc bà.


Thật chúng ta mong ước có được nội dung chi tiết câu chuyện đằng sau mỗi tên gọi này là dường nào! Chúng ta đã gặp A-qui-la và Bê-rít-sin trong Sách Cong 18:1-3,18-19,26). Chúng ta không biết được họ liều mình vì Phao-lô tại đâu và vào lúc nào, nhưng chúng ta vui mừng vì họ đã làm điều đó! (ICôr 16:19; IITi 4:19). Lúc viết thư này, họ đang ở tại Rô-ma và Hội thánh nhóm trong nhà họ. Trong chương này, Phao-lô chào thăm nhiều Hội thánh như vậy (Rô 16:10-11,14-15).


Bốn người được Phao-lô gọi là “rất yêu dấu”: Ê-bai-nết (c.5), Am-li-a (Ro 16:8), Ếch-ta-chy (Ro 16:9), và Bẹt-si-đơ (Ro 16:12). Phao-lô đặc biệt nhớ đến Ê-bai-nết, vì người là trái đầu mùa trong xứ A-si. Rất có thể ông thuộc về người nhà của Sê-pha-na, vì trong ICo 16:15 những người này cũng được gọi là “trái đầu mùa trong xứ A-chai”.


An-trô-ni-cơ và Giu-ni-a được gọi là “người bà con”, có thể điều này có nghĩa là những người bà con với Phao-lô, hoặc chỉ có nghĩa họ cũng là người Do-thái, có thể thuộc chi phái Bên-gia-min như Phao-lô. Đã có lần họ cùng chịu tù với Phao-lô. Chữ “sứ-đồ” ở đây không có ý nói rằng họ nắm giữ cùng một chức vụ như Phao-lô, nhưng đúng hơn họ là “sứ giả” của Chúa. Chữ “sứ-đồ” có nghĩa hẹp lẫn nghĩa rộng.


Gia đình Ru-phu nhắc đến trong câu Rô 16:13 có lẽ cùng tên với người được nêu tên trong Mac 15:21 nhưng chúng ta không thể chắc được. Nếu đúng như vậy, từng trải của Si-môn tại đồi Gô-gô-tha đã đưa ông và cả nhà đến sự nhận biết Chúa.

Phao-lô và Ru-phu không có liên hệ bà con. “Mẹ người cũng là mẹ tôi” chỉ có nghĩa là mẹ của Ru-phu giống như một người mẹ đối với Phao-lô (Mac 10:30).


Danh sách này cho thấy nhiều người đóng các vai trò trong chức vụ của Phao-lô và chức vụ của các Hội Thánh. Phê-bê là “người cứu giúp” của nhiều người. A-qui-la và Bê-rít-sin là “những người giúp đỡ” và “liều chết để cứu sự sống cho Phao-lô”. Sự tin đạo của Ê-bai-nết đem sự cứu rỗi đến cho nhiều người khác trong xứ A-si. Ma-ri “có nhiều công khó”. An-trô-ni-cơ và Giu-ni-a vào tù cùng với Phao-lô. Chúng ta chỉ có thể dâng lời tạ ơn vì những thánh đồ tận tuỵ này đã làm tròn chức vụ của họ để làm sáng danh Đức Chúa Trời. Nguyện chúng ta bước theo đoàn của họ!


b. Một số kẻ thù phải tránh xa (Rô 16:17-20)

- Không phải tất cả mọi người làm việc với Phao-lô để truyền bá Phúc-Âm. Có một số người vì những nguyên nhân vị kỷ, đang phân rẽ Hội thánh qua các giáo lý sai trật. Có thể những người này giống như những người theo giáo Do-thái đã gây ra nhiều phiền toái cho Phao-lô trong các Hội thánh khác (Phi 3:17-21).

Thay vì rao giảng lời của chân lý, những người này dùng những lời nói ngọt ngào dua nịnh truyền bá đạo giáo của họ. Ngày nay chúng ta có nan đề giống như vậy, con cái Chúa phải coi chừng các giáo sư giả. Họ mang đến trước cửa nhà bạn nhiều tạp chí, sách báo, băng từ nhằm cố thuyết phục bạn rằng họ đang rao giảng chân lý. Phao-lô cho chúng ta hai lời chỉ dẫn: hãy phát hiện họ (nhận dạng họ), và tránh xa họ.


Đó là vấn đề vâng lời Đức Chúa Trời và làm chứng cho người khác. Vấn đề không phải là kết bạn hoặc giữ được bạn nhưng là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và duy trì lời chứng không thay đổi. Ro 16:20 cho thấy rằng các giáo sư giả thực sự đến từ Sa-tan, ngày kia nó sẽ hoàn toàn bị đánh bại.


c. Tán dương một số tôi tớ trung tín (Rô 16:21-24)

- Giờ điểm danh các anh hùng thật trang trọng làm sao! Ti-mô-thê thường được nhắc đến trong sách Công-vụ và các thư tín. Ông là “con đức tin” của Phao-lô và được làm việc chung với Phao-lô ở nhiều nơi khó khăn. (Phi 2:19-24). Lu-si-út là anh em người Do-thái cũng như Gia-sôn và Sô-xi-ba-tê.Chúng ta không có chứng cứ nào cho thấy rằng người có tên Gia-sôn ở đây đã bảo vệ Phao-lô tại Tê-sa-lô-ni-ca (Công 17:1-9). Có lẽ Gia-sôn ấy là một người ngoại bang.


Tẹt-tiu là thư ký viết bức thư khi Phao-lô đọc cho ông viết. Gai-út là người có nhà dành cho Phao-lô trú ngụ tại Cô-rinh-tô. ICôr 1:14 cho biết Phao-lô đưa dắt Gai-út về với Đấng Christ và làm Báp-têm cho ông như thế nào lúc ông thành lập Hội thánh Cô-rinh-tô. Rất có thể có một Hội thánh đang nhóm lại trong nhà của Gai-út. Ê-rát giữ một chức vụ cao trong thành phố, có lẽ là người giữ kho bạc. Phúc-Âm đã vươn đến hàng ngũ lãnh đạo tại Cô-rinh-tô cũng như những nơi thấp (ICôr 1:26-31; ICôr 6:9-11).

Rô 16:24 có lẽ do chính tay Phao-lô viết, vì đây là “dấu ký chính thức” trong mọi bức thư (IITês 3:17-18).


Lời chúc phuớc cuối thư là lời chúc dài nhất Phao-lô đã từng viết. Nó nói lên chức vụ đặc biệt của ông dành cho người ngoại bang. “Lẽ mầu nhiệm” có liên quan đến chương trình Đức Chúa Trời hiệp một các tín hữu Do-thái và ngoại bang vào trong một Thân Thể, là Hội thánh (Eph 3:1-21). Đây là sứ điệp đặc biệt của Phao-lô.Chính vì sứ điệp này mà Phao-lô bị người theo giáo Do-thái bắt bớ, vì họ muốn duy trì các đặc quyền Do-thái. Cả người Do-thái và ngoại bang trong các Hội thánh tại Rô-ma cần phải biết chương trình của Đức Chúa Trời. Phao-lô giải thích điều này trong các chương 9 đến chương 11.


Cơ-đốc nhân được gây dựng bởi chân lý, điều này giải thích tại sao Phao-lô viết thư này: để giải thích chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với Cơ-đốc nhân vì vậy họ sẽ được gây dựng, và họ sẽ chia sẻ chân lý cho người hư mất chưa tin. Dầu sao, chúng ta cũng không thể chia sẻ cho người khác những gì chúng ta không có.


Điều này có nghĩa việc nghiên cứu thư Rô-ma sẽ làm chúng ta vững vàng hơn trong đức tin, và càng hăng say chia sẻ về Đấng Christ cho người khác. Và kết quả là: “Nguyện vinh quang đời đời về nơi Đức Chúa Trời khôn ngoan duy nhất qua công lao Chúa Giê-xu Christ!”.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page