top of page
7. THỜI GIAN LÀM CHỨNG (Kh 10:1-11:19)
Khải-...
...huyền 10:1-14:20 mô tả các biến cố xảy ra vào thời kỳ giữa của Bảy Năm Đại Nạn. Điều này giải thích việc Giăng lập lại phần thời gian ba-năm-rưỡi bằng hình thức này hay hình thức khác (Kh 11:2-3 Kh 12:6,14 Kh 13:5). Vào lúc bắt đầu giai đoạn này, Kẻ chống Lại Đấng Christ khởi sự chinh phục bằng cách hứa bảo vệ dân Do-thái và giúp đỡ họ xây dựng lại đền thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng sau ba năm rưỡi, người phá bỏ thỏa thuận đã ký, xâm chiếm đền thờ, và bắt đầu bắt bớ dân Do-thái.
Cho dù các biến có trong thời gian giữa Cơn Đại Nạn có nặng nề ra sao, Đức Chúa Trời không thiếu những chứng nhân cho thế giới. Trong Kh 10:1-11:19 chép ba lời chứng quan trọng: từ vị thiên sứ có sức mạnh (Kh 10:1-11), từ hai người làm chứng (Kh 11:1-14), và từ các trưởng lão trên trời (Kh 11:15-19).
1. Lời chứng của Thiên sứ mạnh sức (Kh 10:1-11)
Trong Khải-huyền có hơn sáu mươi lần đề cập đến thiên sứ. Dẫu sao, thiên sứ là đội quân được Đức Chúa Trời sai đến để hoàn tất chương trình của Ngài trên thế gian. Người tin Chúa ngày nay ít khi nghĩ về chức vụ của các tôi tớ này (He 1:14), nhưng ngày kia tại thiên đàng chúng ta sẽ hiểu tất cả những gì họ đã làm cho chúng ta tại đây.
Lời Mô Tả Về Vị Thiên Sứ (Kh 10:1-4)
Làm chúng ta ngạc nhiên, vì người có một số tính chất đặc biệt thuộc về Chúa Giê-xu Christ. Giăng đã thấy và nghe “một thiên sứ mạnh mẽ” (Kh 5:2). Tất cả thiên sứ là đấng có sức lực (Thi 103:20), nhưng rõ ràng một số thiên sứ có sức mạnh và quyền năng trổi hơn các thiên sứ khác.
Đầu tiên chúng ta thấy cái mống ở chung quanh ngôi Đức Chúa Trời (Kh 4:3) bây giờ cái mống nằm ở trên đầu vị sứ giả này như mão miện. Cái mống là dấu hiệu cho con người biết rằng Đức Chúa Trời sẽ chẳng bao giờ huỷ diệt con người bằng nước lụt. Ngay cả trong cơn thạnh nộ, Đức Chúa Trời cũng nhớ lại lòng thương xót của Ngài (Ha 3:2). Dù vị thiên sứ này là ai, người cũng nhận quyền phép từ ngôi Đức Chúa Trời ban cho.
• Đức Chúa Trời thường ngự giữa đám mây.
Đức Chúa Trời dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên bằng trụ mây sáng loà (Xu 16:10), những đám mây mù mịt bao phủ núi Si-nai khi Đức Chúa Trời ban Luật pháp cho dân sự (Xu 19:9). Khi hiện ra với Môi-se, Đức Chúa Trời ở giữa đám mây rực rỡ (Xu 24:15 Xu 34:5). “Ngài dùng mây làm xe của Ngài” (Thi 104:3). Một đám mây tiếp Chúa Giê-xu lên trời (Cong 1:9) và lúc Chúa Giê-xu trở lại, Ngài cũng ngự xuống giữa đám mây (Kh 1:7).
Gương mặt của thiên sứ được mô tả “như mặt trời” phù hợp với lời mô tả về Chúa Giê-xu Christ trong Kh 1:16 chân của thiên sứ giống lời mô tả về Chúa trong câu 15. Tiếng của người giống tiếng sư tử gợi lại Kh 5:5. Đây có thể là Chúa Giê-xu Christ của chúng ta hiện ra với Giăng trong vai trò một thiên sứ đế vương.
Chúa Giê-xu thường hiện ra trong Cựu-ước như là “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” (Xu 3:2 Cac 2:4 Cac 6:11-12,21-22 IISa 24:16). Đây là sự thể hiện tạm thời vì một chương trình đặc biệt, chớ không phải là hiện thân thường xuyên.
Hai tính chất khác cho thấy chúng ta nhận ra thiên sứ là Chúa Giê-xu Christ: đó là cuốn sách trong tay người và bộ dạng bên ngoài của người. Cuốn sách nhỏ chứa đựng phần còn lại trong sứ điệp tiên tri Giăng sẽ đem đến cho chúng ta. Vì Chúa là Đấng duy nhất đáng cầm quyển sách mở các ấn (Kh 5:5), chúng ta có thể kết luận Ngài là Đấng duy nhất có quyền ban cho tôi tớ Ngài phần còn lại của sứ điệp.
Bộ dạng của thiên sứ là bộ dạng của người chiến thắng chiếm lĩnh lãnh thổ của mình. Người tuyên bố thâu tóm toàn thế giớí! (Gios 1:1-3). Dĩ nhiên, chỉ có Đấng Cứu Rỗi đắc thắng mới có thể tuyên bố như vậy. Chẳng bao lâu Kẻ chống lại Đấng Christ sẽ hoàn tất việc chinh phục và buộc cả thế giới quy phục quyền cai trị của nó. Nhưng trước khi điều này xảy ra, Đấng Cứu Chuộc tuyên bố thế giới thuộc về chính Ngài, đó là cơ nghiệp Cha Ngài hứa ban cho Ngài (Thi 2:6-9). Quỉ Sa-tan gầm thét như sư tử làm cho con mồi hoảng sợ (IPhi 5:8), nhưng tiếng gầm của Sư Tử chi phái Giu-đa thông báo chiến thắng. (Thi 95:3-5 Es 40:12-17).
Kinh Thánh không cho chúng ta biết tại sao Giăng bị cấm không được chép những gì bảy tiếng sấm phát ra, việc duy nhất “được đóng ấn” trong quyển sách “được mở ấn niêm phong” (Da 12:9 Kh 22:10). Tiếng của Đức Chúa Trời thường được ví với tiếng sấm (Gi 12:28-29 Thi 29:1-11 Giop 26:14 Giop 37:5). Chúng ta suy đoán cũng chẳng ích lợi gì khi Đức Chúa Trời che khuất lẽ thật của Ngài (Phu 29:29).
• Lời Tuyên Bố Của Thiên Sứ (Kh 10:5-7)
Làm chúng ta đầy lòng sợ hãi, không chỉ vì nội dung nhưng còn vì cách tuyên bố nữa. Đó là một khung cảnh uy nghiêm, tay người đưa lên trời như thể người thề nguyền.
Nhưng nếu thiên sứ này là Chúa Giê-xu Christ, tại sao Ngài phải thề? Ngài thề để khẳng định sự oai nghiêm và chắc chắn của lời Ngài đã phán. Chính Đức Chúa Trời “thề” khi Ngài lập giao-ước với Áp-ra-ham (He 6:13-20) và khi Ngài lập Con Ngài làm thầy tế lễ thượng phẩm (He 7:20-22). Ngài cũng thề khi hứa cùng vua Đa-vít rằng Đấng Christ sẽ ra từ nhà vua (Cong 2:29-30).
Kh 10:6 nhấn mạnh đến Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá. Nhiều cơn đoán phạt khác nhau đã xảy ra trên các tầng trời, trên đất, trên biển và còn nhiều cơn đoán phạt hơn nữa sắp xảy ra. Chữ được dịch là thời gian thật sự mang nghĩa “trì hoãn”. Đức Chúa Trời đã trì hoãn cơn đoán phạt của Ngài để tội nhân hư mất có thời gian ăn năn (IIPhi 3:1-9) tuy nhiên bây giờ Ngài đẩy nhanh công việc đoán phạt của Ngài và hoàn tất chương trình Ngài đã định.
Hãy nhớ lại rằng các thánh tử đạo trên trời lo lắng về việc Đức Chúa Trời chậm trễ báo thù cho cái chết của họ (Kh 6:10-11). “Ôi, Hỡi Chúa cho đến bao giờ?” là tiếng kêu khóc của các con cái Đức Chúa Trời bị đau khổ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Đức Chúa Trời chậm trễ hoàn thành lời hứa của Ngài đã cho kẻ nhạo báng cơ hội phản bác lời Đức Chúa Trời và nghi ngờ sự thành tín của Ngài (xem IIPhi 3:1-18). Lời Đức Chúa Trời là thật và thời gian của Ngài là trọn vẹn. Điều này giúp an ủi các thánh đồ - nhưng lại là sự đoán phạt đối với các tội nhân.
Trong Kinh Thánh, sự mầu nhiệm là “điều kín giấu thiêng liêng”, lẽ thật che khuất đối với những người ngoại nhưng được bày tỏ cho các con cái Đức Chúa Trời qua lời của Ngài (Mat 13:10-12). “Sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời” có liên quan đến vấn đề tội lỗi xa xưa trong thế gian. Tại sao trong thế gian lại có cả đạo đức lẫn sự xấu xa tự nhiên? Tại sao Đức Chúa Trời không làm gì cả? Dĩ nhiên, con cái Chúa biết rằng Đức Chúa Trời “đã làm” tại đồi Gô-gô-tha khi Chúa Giê-xu Christ mang lấy tôi lỗi và nhận chịu cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời thay cho thế gian tội lỗi. Chúng ta cũng biết rằng Đức Chúa Trời cho phép sự gian ác gia tăng cho đến khi thế gian được sắp sẵn cho sự đoán phạt (IITe 2:7 Kh 14:14-20). Vì Đức Chúa Trời đã trả xong nợ tội, nên Ngài tự do trì hoãn cơn đoán phạt của Ngài, và con người không thể cáo buộc Ngài bất công và thờ ơ.
Tiếng kèn thứ bảy thổi vang là dấu hiệu cho thấy điều mầu nhiệm này được thành (Kh 11:4-19). Nửa thời kỳ Đại Nạn còn lại bắt đầu khi các thiên sứ khởi sự trút các bát thạnh nộ, vì các tai nạn này “làm đầy trọn cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời” (Kh 15:1).
Những chỉ dẫn vị thiên sứ truyền cho Giăng (Kh 10:8-11) nhắc chúng ta nhớ đến trách nhiệm chúng ta phải ăn nuốt lời Đức Chúa Trời làm linh lương nuôi dưỡng đời sống thuộc linh chúng ta. Giăng nhìn thấy cuốn sách hoặc biết nội dung và mục đích của sách không thì chưa đủ, ông phải nuốt cuốn sách vào bụng.
Lời Đức Chúa Trời được ví sánh với thức ăn: bánh (Mat 4:4), sữa (IPhi 2:2), thịt (ICo 3:1-2), và mật ong (Thi 119:103). Đấng tiên tri Giê-rê-mi (Gie 15:16) và Ê-xê-chi-ên (Exe 2:9-3:4) biết phải “ăn nuốt” lời Chúa trước khi họ có thể chia sẻ cho người khác. Lời Kinh Thánh luôn phải “trở nên xác thịt” (Gi 1:14) trước khi ban phát cho người có nhu cầu. Khốn thay cho thầy giáo hoặc người giảng đạo chỉ nói ra lời Đức Chúa Trời nhưng không sống đúng với lời ấy, không làm lời ấy sống động trong cuộc đời mình.
Đức Chúa Trời sẽ không nhồi nhét lời Ngài vào trong miệng chúng ta và ép buộc chúng ta nhận lấy. Ngài trao vào tay chúng ta và chúng ta nên cầm lấy. Ngài cũng không thay đổi những tác dụng của lời Ngài trên cuộc đời chúng ta: sẽ có buồn lo lẫn vui mừng, cay đắng lẫn ngọt ngào.
Kinh Thánh chứa đựng nhiều lời hứa ngọt ngào và những bảo đảm quý giá, nhưng còn có nhiều lời cảnh cáo nặng nề và lời báo trước sự đoán phạt. Cơ-đốc nhân làm chứng cho cả sự sống lẫn sự chết (IICo 2:14-17). Sứ giả trung tín sẽ rao ra mọi ý muốn của Đức Chúa Trời (Cong 20:27). Người sẽ không thêm bớt vào trong sứ điệp của Đức Chúa Trời nhằm làm hài lòng người nghe (IITi 4:1-5).
Thiên sứ uỷ thác cho Giăng lại phải nói tiên tri do đó công việc của ông chưa hoàn tất. Ông phải rao báo lời tiên tri của Đức Chúa Trời có liên quan đến nhiều dân tộc, nhiều nước, nhiều thứ tiếng và các vua (Kh 5:9). Chữ các nước thường nói đến các nước ngoại bang. Giăng sẽ bàn nhiều đến các nước trên thế giới khi ông giới thiệu phần còn lại của lời tiên tri.
2. Lời chứng của hai chứng nhân (Kh 11:1-14)
• Chức Vụ Của Hai Chứng Nhân (Kh 11:1-6)
Được mô tả đầu tiên. Nơi thi hành chức vụ là thành Giê-ru-sa-lem và thời gian vào nửa phần đầu của thời kỳ Đại Nạn. Dân Y-sơ-ra-ên đang thờ phượng nơi đền thờ được xây lại dưới sự che chở của Kẻ Chống Lại Đấng Christ, chưa lộ bản chất thật của nó. Thiêng liêng hoá các câu 1-2 và hiểu đền thờ có liên quan đến Hội thánh sẽ tạo ra nhiều rắc rối nghiêm trọng.
Trước hết, làm cách nào Giăng có thể đo được thân thể con người không thấy được, cho dù Hội thánh vẫn còn trên thế gian? Nếu đền thờ là Hội thánh, vậy thì những người thờ phượng ấy là ai và bàn thờ ấy là gì? Và từ lúc Hội thánh kết hiệp người Do-thái và ngoại bang trong môt thân (Eph 2:11), tại sao người ngoại bang lại bị phân biệt trong đền thờ? Dường như là việc làm khôn ngoan nhất khi hiểu đền thờ này thực sự là một toà nhà trong thành thánh Giê-ru-sa-lem (Ne 11:1,18 Da 9:24).
Việc Giăng đo đạt đền thờ là hành động thuộc về biểu tượng. Đo một cái gì có nghĩa bạn dành điều đó về cho mình. Khi chúng tôi bán căn nhà tại Chicago, những người chủ mới dẫn theo kiến trúc sư lấy số đo các nơi và góp ý những thay đổi có thể. Nếu vị kiến trúc sư đến trước khi người mua nhà cam kết, chắc chúng tôi đã mời ông ấy ra khỏi nhà. Chúa phán qua Giăng, “Ta sở hữu thành phố và đền thờ này, Ta dành cả hai cho chính Ta! ”Kinh Thánh Cựu-ước chép điều này trong Exe 40:1-41:26 Xa 2:1-3.
Những điều Giăng làm có ý nghĩa đặc biệt vì người ngoại bang đã chiếm lấy Giê-ru-sa-lem. Kẻ chống lại Đấng Christ đã phá bỏ hiệp ước ký với Dân Y-sơ-ra-ên (Da 9:27) và bây giờ nó sắp dùng đền thờ cho các mục đích hiểm độc của nó (IITe 2:3-4). Tất cả những điều này được giải thích chi tiết trong Kh 13:1-18. Chúa Giê-xu phán, “Thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày đạp cho đến chừng nào các kỳ dân ngoại được trọn” (Lu 21:24). “Các kỳ dân ngoại” bắt đầu vào năm 606 trước Chúa khi quân Ba-by-lôn khởi sự quấy phá nước Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem, thời kỳ này kéo dài cho đến khi Chúa Giê-xu Christ trở lại giải cứu Thành Thánh và cứu chuộc dân Y-sơ-ra-ên (Xa 14:1-21).
Hãy lưu ý rằng hai chứng nhân thi hành chức vụ suốt thời kỳ đầu cơn Đại Nạn (Kh 11:3 1260 ngày). Lúc ấy thành Giê-ru-sa-lem bị dân ngoại cai trị bốn mươi hai tháng, đó là thời kỳ cuối cơn Đại Nạn.
Lời làm chứng của hai chứng nhân có liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên và đền thờ. Thật là thảm hoạ khi quyền năng của Đức Chúa Trời và Lời của Ngài ở bên ngoài đền thờ chớ không ở trong như các thời trước đây. Giống như đền thờ Chúa Giê-xu đã bỏ đi, ngôi nhà mới này sẽ bị hoang vu (Mat 23:28). Hai chứng nhân này được gọi là các đấng tiên tri (Kh 11:3,6), và tôi hiểu đây là chức vụ tiên tri trong bối cảnh Cựu Ước, kêu gọi các nước ăn năn quay trở về cùng Đức Chúa Trời chân thần của dân Y-sơ-ra-ên.
Hai chứng nhân này không những rao báo lời Đức Chúa Trời, nhưng họ còn làm công việc của Ngài và thi hành nhiều phép lạ đoán phạt, điều này nhắc chúng ta nhớ đến Môi-se và Ê-li (Xu 7:14-18 IVua 17:1 IIVua 1:1-12). Một số nhà nghiên cứu trích dẫn Ma 4:5-6 làm bằng chứng cho biết một trong hai người làm chứng này là tiên tri Ê-li, nhưng Chúa Giê-xu áp dụng lời tiên tri đó cho Giăng Báp-tít (Mat 17:10-13). Tuy nhiên, Giăng Báp-tít chối rằng người không phải là Ê-li trở lại trần gian (Gi 1:21,25 Lu 1:16-17). Sự lộn xộn này có thể được giải thích phần nào qua việc nhận biết rằng trải suốt lịch sử nước Do-thái, Đức Chúa Trời đã sai các sứ giả đặc biệt - “những Ê-li” - kêu gọi dân sự của Ngài đến sự ăn năn do đó trong bối cảnh này, các chứng nhân sẽ làm ứng nghiệm lời tiên tri Ma-la-chi.
Thay vì liên hệ sứ mạng của các chứng nhân với Môi-se và Ê-li, thiên sứ đã phán với Giăng lại đề cập chức vụ của họ với Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ cả Giê-hô-sua (Xa 4:1-14). Hai chứng nhân ấy đã giúp tái lập lại nước Y-sơ-ra-ên và xây lại đền thờ. Đó là nhiệm vụ nặng nhọc, thậm chí dân ngoại bang lại làm cho khó khăn hơn nhưng Đức Chúa Trời ban sức mạnh đặc họ cần để hoàn tất công việc. Lẽ thật này là niềm an ủi cho các tôi tớ Đức Chúa Trời ở mọi thời đại, vì công việc Chúa chẳng bao giờ dễ dàng.
• Các Chứng Nhân Bị Giết (Kh 11:7-10)
Chỉ khi nào họ hoàn tất việc làm chứng. Các tôi tớ vâng lời của Đức Chúa Trời sẽ tồn tại cho đến khi làm xong công việc. “Con thú” (Kẻ chống lại Đấng Christ) hiện nay đang nắm quyền trong tay và muốn chiếm hữu đền thờ nhưng nó không thành công được cho đến khi hai chứng nhân bị cất khỏi. Đức Chúa Trời sẽ cho phép nó giết họ, vì không ai có thể gây chiến chống lại “con thú” và thắng được nó (Kh 13:4).
Người ta không được phép chôn xác hai chứng nhân (Thi 79:1-3). Nhưng ngay cả sự việc không hay này cũng được Đức Chúa Trời dùng để làm chứng cho loài người. Rất có thể các máy quay truyền hình trên thế giới và các nhà phân tích tin tức sẽ bàn luận ý nghĩa của nó. Cư dân trên đất sẽ reo mừng khi kẻ thù của họ bị chết và tổ chức một “lễ hội ma quỷ” bằng cách gởi quà tặng cho nhau. Do đó dường như sức mạnh của hai chứng nhân không bị giới hạn tại Giê-ru-sa-lem, nhưng họ có thể làm nhiều việc khác xảy ra tại các nơi khác trên thế giới.
Hai đấng tiên tri này chắc chắn có mối liên hệ đến dân Y-sơ-ra-ên và phần lớn thế giới không thừa nhận nước Y-sơ-ra-ên. Giữa Kỳ Đại nạn, “con thú” sẽ quay trở lại chống nghịch dân Y-sơ-ra-ên và tiến hành bắt bớ dân Do-thái. Hai chứng nhân sẽ không có mặt bảo vệ dân Y-sơ-ra-ên và phong trào bài Do-thái đáng sợ xảy ra.
Thành Giê-ru-sa-lem được gọi là “thành lớn” (Kh 11:8) theo quan điểm con người, đây là câu nói đúng. Nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy con người và các nước qua lăng kính thiêng liêng. Đối với Ngài, thành Giê-ru-sa-lem được xem là ô uế và trần tục như Sô-đôm và nổi loạn kiêu ngạo như Ai-cập.
• Hai Chứng Nhân Sống Lại (Kh 11:11-14).
Thật kỳ lạ, hai chứng nhân không những từ kẻ chết sống lại, nhưng họ còn được cất lên trời! Đức Chúa Trời giải cứu họ thoát khỏi tay kẻ thù và cho họ được cả thế giới trông thấy. Sự vui mừng lớn của thế giới bỗng nhiên trở thành nỗi sợ hãi kinh khiếp. (Chú ý chữ lớn trong chương 11, được nhắc đến tám lần).
Chúng ta có phải hiểu thời gian ba ngày rưỡi ở đây theo nghĩa đen hay không? Hoặc nhóm chữ này chỉ có nghĩa “sau một thời gian ngắn ngủi”? Nó có vẻ quá cụ thể đến nỗi không thể có nghĩa như vậy. Thời gian này có biểu tượng cho một giai đoạn dài, như là ba năm rưỡi không? Hai xác chết cứ nằm trên đường phố hơn ba năm rưỡi là điều không chấp nhận được. Có lẽ đây là bức tranh tất cả các thánh đồ được cất lên giữa Cơn Đại Nạn, và ba năm rưỡi bao gồm phần đầu của giai đoạn này. Nếu như vậy, cái chết của hai chứng nhân biểu tượng cho điều gì? Cố gắng giải thích vấn đề này chỉ tạo ra vấn đề khàc thôi
Những ngày này dường như là những ngày thật theo nghĩa đen, giống như bốn mươi hai tháng trong Kh 11:2 là những tháng đúng nghĩa của nó. Kinh Thánh không giải thích tại sao khoảng thời gian này được chọn và chẳng có ích gì khi chúng ta suy đoán.
Các bạn của Đức Chúa Trời chứng kiến Ngài được cất lên trời (Cong 1:9-12), nhưng kẻ thù của các chứng nhân thấy họ sống lại và run rẩy sợ hãi. Nỗi sợ của họ gia tăng khi cơn động đất xảy ra, giết hại 7.000 người và phá huỷ một phần mười thành Giê-ru-sa-lem. Cơn động đất xảy ra khi ấn thứ sáu mở ra (Kh 6:12), và khi bát thạnh nộ thứ bảy trút xuống, sẽ có cơn động đất lớn hơn (Kh 16:18-20.
3. Lời chứng của các trưỏng lão (Kh 11:15-19)
Chúng ta đợi “tai hoạ” thứ ba chép trong Kh 8:13 xảy ra và bây giờ nó đã đến. Khi thiên sứ thứ bảy thổi kèn, ba biến cố đầy ấn tượng xảy ra.
• Lời Loan Báo Chiến Thắng (Kh 11:15).
“Những tiếng lớn” này có thể là các ban hợp xướng trên trời. Lời loan báo trọng đại cho biết vương quốc (Giăng dùng số ít vì “con thú” bây giờ nắm quyền kiểm soát thế giới trong tay)của thế gian thuộc về Chúa Giê-xu Christ. Dĩ nhiên, Đấng Christ không tuyên bố vương quyền của Ngài cho đến lúc Ngài trở lại nhưng Ngài đã chiến thắng rồi. Quỷ Sa-tan dâng cho Ngài các nước thế gian, nhưng Ngài từ chối không nhận (Mat 4:8-9). Thay vào đó, Ngài chịu chết trên thập tự giá, sống lại, và về trời trong chiến thắng và tại đó Cha Ngài ban cơ nghiệp cho Ngài (Thi 2:4-9).
Tuy nhiên, chúng ta không nên hiểu sai lệch rằng hiện nay Chúa chúng ta không có tể trị, vì thật Ngài đang cầm quyền cai trị. Theo He 7:1-2 Chúa Giê-xu Christ là “Vua công bình” và “Vua bình an”. Ngài đang ngự trên ngôi cùng với Cha Ngài (Kh 3:21), và Ngài sẽ trị vì cho đến khi Ngài đánh bại tất cả kẻ thù của Ngài (ICo 15:25). Ngày nay, Ngài cai trị vương quốc thiêng liêng nhưng trong tương lai, Ngài sẽ cai trị các nước thế gian bằng cây gậy sắt.
Cho dù hoàn cảnh có khó khăn ra sao, hoặc con cái Đức Chúa Trời có thể nghĩ rằng họ thất bại như thế nào đi nữa, Chúa Giê-xu Christ vẫn là Vua trên muôn Vua, Chúa trên muôn Chúa, Ngài đang cầm quyền cai trị. Ngày kia, chúng ta sẽ chiến thắng!
• Tiếng Reo Hò Ngợi Khen (Kh 11:16-18).
Các trưởng lão rời khỏi ngai và sấp mình thờ lạy trước ngôi Đức Chúa Trời. Họ dâng lời cảm tạ Ngài vì ba phước hạnh: Đấng Christ đã cầm quyền rất cao trong tay (c.17), Ngài phán xét cách công bình (c.18), và Ngài ban thưởng rộng rãi (c.18).
Trong Kh 4:10-11, các trưởng lão ngợi khen Đấng tạo Hoá và trong Kh 5:9-14 họ thờ lạy Đấng Cứu Chuộc. Ở đây họ nhấn mạnh đến Đấng Đắc Thắng và là Vua. Hãy nhớ rằng Hội thánh trên đất dường như có vẻ thất bại, vì đế quốc Rô-ma là người chiến thắng và là vua. Giăng muốn nhắc các thánh đồ nhớ rằng họ là “nước thầy tế lễ”đang trị vì cùng Đấng Cứu Chuộc (Kh 1:5-6). Dường như đôi lúc ngôi trên trời bỏ trống, nhưng không phải vậy. Chúa Giê-xu Christ có cả quyền năng và thẩm quyền - thực ra, Ngài có hết thảy thẩm quyền (Mat 28:18 chữ quyền năng có nghĩa “thẩm quyền”). “Ngài...đã khởi sự cầm quyền” là cách dịch hay.
Đấng Christ không những cầm quyền cao cả, nhưng Ngài còn phán xét công bình (Kh 11:18). Chiên Con cũng là Sư Tử! Trong câu 18, chúng ta có “bản mục lục” phần còn lại của sách Khải-huyền. Các biến cố này không xảy ra ngay khi thiên sứ thổi kèn nhưng thiên sứ chỉ báo hiệu sự bắt đầu, và bây giờ các biến cố này xảy ra như đã định trước.
“Các nước nổi giận”. Các nước nổi giận về điều gì? Chắc chắn Chúa đã đối đãi tốt và nhân từ với họ. Ngài chu cấp cho họ mọi nhu cầu (Cong 14:15-17 Cong 17:24-31), phân định lãnh thổ cho họ, và thương xót trì hoãn cơn đoán phạt của Ngài để con người có cơ hội được cứu. Hơn nữa, Ngài sai Con Ngài làm Đấng Cứu Chuộc cả thế gian. Ngày nay, Đức Chúa Trời ban ơn tha thứ cho các nước! Ngài còn có thể làm gì cho họ nữa?
Vậy thì, tại sao các nước lại nổi giận? Vì họ muốn đi theo đường riêng. “Tại sao các ngoại bang (các nước) náo loạn, và những dân tộc toan mưu chước hư không?Các vua thế gian nổi dậy, các quan trưởng bàn nghị cùng nhau, nghịch Đức Giê-hô-va và nghịch Đấng chịu xức dầu của Ngài (Đấng Christ), mà rằng, “Chúng ta hãy bẻ lòi tói của hai Người và quăng xa ta xiềng xích của Họ” (Thi 2:1-3).
Họ muốn thờ lạy và hầu việc tạo vật thay cho Đấng dựng nên (Ro 1:25). Giống như trẻ vị thành niên, các nước muốn loại bỏ tất cả sự ràng buộc và Đức Chúa Trời sẽ cho phép họ làm như vậy. Kết quả là một “Ba-by-lôn” khác (Kh 17:1-18:24), nổ lực cuối cùng của con người muốn xây dựng Thời Đại Hoàn Hảo, “thiên đường trên đất”.
Hãy lưu ý sự thay đổi trong thái độ của các nước thế gian. Trong Kh 11:2 các nước giày đạp thành Giê-ru-sa-lem. Trong Kh 11:9 họ reo mừng khi hai chứng nhân chết. Nhưng bây giờ, họ lại giận dữ sự kiêu hãnh và vui vẻ của họ sẽ không kéo dài lâu. Thái độ hiếu chiến này cuối cùng là động lực khiến các nước liên minh lại chống Đức Chúa Trời trong trận đại chiến Hạt-ma-ghê-đôn.
“Cơn thạnh nộ Ngài đã đến”. Chữ nổi giận trong câu 18 là dạng động từ của chữ cơn thạnh nộ. Nhưng sự giận dữ của con người không thể nào sánh được với cơn thạnh nộ của Chiên Con (Kh 6:16-7). Ngay cả cơn giận dữ của quỉ Sa-tan, có độc ác đến đâu, cũng không thể ngang bằng với cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (Kh 12:17).
Trong thời kỳ đầu Đại nạn đau khổ có gia tăng, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời chỉ bày tỏ trong thời kỳ sau của Cơn Đại nạn mà thôi (Kh 11:18 Kh 14:10 Kh 16:19 Kh 19:15). Trong tiếng Hy-lạp có hai chữ nói về cơn giận: thumos, có nghĩa “sự giận dữ, giận điên người”, và orgé được dùng ở đây có nghĩa “sự căm phẫn, sự giận với một thái độ ổn định”. Cơn giận của Đức Chúa Trời không phải là sự nóng nảy bộc phát nhưng đó là cơn phẫn nộ chống lại tội lỗi. Cả hai từ ngữ Hy-lạp này được dùng trong Khải-huyền để mô tả cơn giận của Đức Chúa Trời: orgé được dùng bốn lần thumos được dùng bảy lần (Kh 14:10,19 Kh 15:1,7 Kh 16:1,19 Kh 19:15). Cơn giận của Đức Chúa Trời không vô tư, vì Ngài ghét tội lỗi và yêu sự công bình và chính trực nhưng cả hai đều chắc chắn và có thể biết trước được.
“Giờ đã tới là giờ phán xét kẻ chết” đưa chúng ta đến chính đoạn cuối trong chương trình đã báo trước của Đức Chúa Trời. Về một phương diện, mỗi ngày đều là “ngày của Chúa” vì Đức Chúa Trời luôn xét đoán cách công bình. Đức Chúa Trời nhịn nhục đối với tội nhân hư mất và thường chậm trễ cơn đoán phạt của Ngài, nhưng sẽ có sự đoán xét sau cùng dành cho tội nhân và chẳng ai thoát khỏi được. Cơn đoán phạt này được mô tả trong Kh 20:11-15.
Cũng sẽ có sự phán xét con cái Đức Chúa Trời, có tên gọi là “Toà Phán Xét của Đấng Christ” (Ro 14:10-13 ICo 3:8-15 IICo 5:9-11). Đức Chúa Trời sẽ thưởng cho các tôi tớ trung tín của Ngài (Mat 25:21) và những đau đớn họ chịu trên thế gian sẽ biến mất trong sự hiện diện vinh hiển của Ngài. Mặc dầu con cái Đức Chúa Trời sẽ không bị phán xét vì tội lỗi của họ (sự phán xét ấy đã xảy ra trên thập tự giá), nhưng họ sẽ bị phán xét về công việc của họ và được Chủ của họ ban thưởng cách rời rộng.
Toà Phán Xét của Đấng Christ sẽ diễn ra trên trời sau khi Ngài gọi con cái Ngài về trong nước Ngài. Khi trở lại trần gian lập nước Ngài, các thánh đồ sẵn sàng đồng trị vì cùng Ngài, với một Hội thánh không vết không nhăn (Eph 5:25-27 Kh 19:7-8). Ngày nay, chúng ta than thở khi hầu việc Đức Chúa Trời, vì chúng ta biết quá nhiều khuyết điểm và tì vít nhưng ngày kia, chúng ta sẽ dự phần hầu việc Ngài cách toàn vẹn!
“Những kẻ đã huỷ phá thế gian” nói đến những cư dân trên đất không chịu vâng phục Đức Chúa Trời. Thật mỉa mai, những người này sống nhờ vào trái đất và tận hưởng những gì đất đem lại, nhưng đồng thời lại đang phá huỷ chính trái đất mà họ tôn sùng. Khi con người quên rằng Đức Chúa Trời là Đấng tạo Hoá và mình là loài thọ tạo, lúc ấy họ bắt đầu lợi dụng các nguồn tài nguyên Đức Chúa Trời ban cho, điều này dẫn đến sự phá hoại. Con người là quản gia tạo vật chớ không phải là chủ của tạo vật.
Như đã đề cập từ trước, câu 18 là lời tóm tắt các biến cố chưa xảy ra. Đó là bài hát ngợi khen về sự thành tín của Đức Chúa Trời đã hoàn tất chương trình của Ngài trên thế gian. Hơn nữa, dường như có vẻ xa lạ với chúng ta khi các thánh trên trời lại có thể hát về sự phán xét. Có lẽ nếu chúng ta có thể hiểu thấu đáo hơn về ngôi, chắc chắn chúng ta có thể tham gia vào sự ngợi khen của họ.
• Bảo Đảm Về Sự Thành Tín Của Đức Chúa Trời (Kh 11:19).
Chương này bắt đầu với đền thờ trên đất, nhưng bây giờ chúng ta thấy đền thờ trên trời. Trọng tâm chú ý đặt nơi hòm giao ước của Đức Chúa Trời, đó là biểu tượng nói về sự hiện diện của Ngài với dân sự.
Nơi đền tạm và đền thờ trong Cựu-ước, hòm giao ước đặt phía sau bức màn trong nơi chí thánh. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự trên hòm, bảng Luật pháp của Ngài đặt bên trong hòm, cho thấy rằng hai điều này không bao giờ được tách rời. Ngài là Đức Chúa Trời thánh và Ngài xử công bình với tội lỗi. Nhưng Ngài cũng là Đức Chúa trời thành tín giữ lời hứa với dân sự Ngài. Chính hòm giao ước của Đức Chúa Trời đã dẫn dân sự qua sông Giô-đanh vào nhận sản nghiệp (Gios 3:11-17). Sự hiện thấy về hòm giao ước sẽ an ủi con cái Đức Chúa Trời nhiều đang trải qua đau đớn khi đọc sách Giăng gởi. “Giăng nói với họ, “Đức Chúa Trời sẽ làm trọn lời hứa của Ngài! Ngài sẽ bày tỏ vinh quang của Ngài! Hãy tin cậy Ngài! ”
Một lần nữa, Giăng thấy và nghe những điềm báo hiệu cơn bão sắp xảy ra (Kh 4:5 Kh 8:5). Cơn đoán phạt nặng nề hơn sắp trút xuống những người nổi loạn trên thế gian! Nhưng con cái Đức Chúa Trời không cần phải sợ hãi các cơn bão vì Ngài đang cầm quyền cai trị. Hòm giao ước nhắc họ nhớ lại sự hiện diện của Ngài và sự thành tín giữ các lời hứa của Ngài. Và trên hòm giao ước là ngôi thi ân được rưới huyết trong ngày Đại lễ Chuộc Tội (Le 16:15-17). Ngay cả trong cơn thạnh nộ, Đức Chúa Trời cũng nhớ lại lòng nhân từ Ngài (Ha 3:2).
Trên sân khấu bây giờ xuất hiện “con thú”, đó là tác phẩm tuyệt hảo của quỷ Sa-tan, Christ giả sẽ cai trị thế giới.
8. BỘ BA KHỦNG KHIẾP (Kh 12:1-13:18)
Kh 12:1-13:18 cho chúng ta ba nhân vật chủ chốt trong vở kịch của thời kỳ cuối Cơn Đại Nạn: Con rồng, Christ giả, và Tiên tri giả. Về một phương diện, ba nhân vật này là bộ ba độc ác, chống lại Đức Chúa Trời chân thần và con cái Ngài trên thế gian. Trong khi những biến cố này có ý nghĩa đặc biệt đối với con cái Đức Chúa Trời vào thời gian ấy, sứ điệp của hai chương này có thể an ủi các thánh đồ đang chịu đau đớn ở bất cứ thời đại nào.
Sa-tan là kẻ thù lớn của Hội thánh, nó kiện cáo các thánh đồ trên trời và tấn công họ trên đất để chống lại Đức Chúa Trời và con cái Ngài. Tuy nhiên, Đấng Christ đã thắng con rắn xưa, và Ngài ban chiến thắng cho con cái Ngài.
Kẻ thù luôn hành động qua con người, trong trường hợp này, “con thú” (Christ giả hoặc Kẻ chống lại Đấng Christ) và tiên tri giả. Sa-tan là kẻ bắt chước, kẻ mạo danh nó tìm cách lừa dối con người để kiểm soát họ. “Con thú” là kẻ độc tài trong tương lai của thế giới hứa giải quyết những áp lực đè nặng trên các nước tiên tri giả là “chuyên gia tuyên truyền”. Có một lúc, dường như bộ ba ma quỉ này thành công nhưng sau đó thế giới của chúng sẽ bị sụp đổ, các nước sẽ họp lại trong trận chiến cuối cùng, Chúa Giê-xu Christ xuất hiện, lúc ấy trận chiến kết thúc.
Đây không phải là kiểu mẫu về cuộc chiến giữa Hội thánh với tội ác trải qua nhiều thế kỷ sao? Dù người cai trị có là Sê-sa, Hít-le, hoặc một người theo thuyết bất khả tri, thì Sa-tan cũng tiếp sức và thúc đẩy người. Kẻ cai trị hứa ban cho tất cả những gì mọi người mong muốn và cần đến, điều này chỉ đưa họ vào trong chỗ nô lệ. Nó thường có đội ngũ quảng bá chương trình của nó đến cho người dân và dụ dỗ họ làm theo, nếu không muốn nói là bắt buộc họ. Thường họ vâng phục bằng cách thờ lạy.
Đức Chúa Trời cho phép con cái Ngài chịu đau đớn dưới bàn tay bạo tàn của những nhà cai trị này, nhưng Ngài cũng giúp cho con cái Ngài kinh nghiệm được những chiến thắng lớn lao, ngay cả trong lúc tuận đạo. Họ thật sự là những người đắc thắng! Lúc ấy Ngài đã đem đến sự giải cứu, và chu kỳ lặp lại với những nhà độc tài kế tiếp càng tệ hại hơn kẻ tiền nhiệm. Điểm đỉnh sẽ đạt đến khi kẻ chống lại Đấng Christ xuất hiện đúng thời điểm của nó (IITe 2:1-17).
1. Con rồng (Kh 12:1-18)
• Giăng thấy hai dấu lạ hiện ra trên trời (Kh 12:1-6).
Dấu thứ nhất là người đàn bà sinh con trai. Vì đứa trẻ này là hiện thân của Chúa Giê-xu Christ (so sánh c.5 với Kh 19:15 và Thi 2:9), nên biểu tượng người đàn bà ở đây có thể không ai khác hơn là dân tộc Y-sơ-ra-ên. Chúa Giê-xu Christ đã đến thế gian qua dân tộc Y-sơ-ra-ên (Ro 1:3 Ro 9:4-5). Sự nhận dạng này có thể chắc chắn hơn khi so sánh lời mô tả trong Kh 12:1 với Sa 37:9-10.
Trong Cựu-ước, dân Y-sơ-ra-ên thường được ví sánh với người đàn bà, và ngay cả người đàn bà trong cơn thai nghén (Es 54:5 Es 66:7 Gie 3:6-10 Mi 4:10 Mi 5:2-3). Thế giới bội đạo được sánh với con đại dâm phụ (Kh 17:1), Hội thánh được ví như cô dâu trinh trắng (Kh 19:7).
Con trai sinh ra và được đưa đến ngai Đức Chúa Trời (Kh 12:5). Ở đây chúng ta có biểu tượng về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu Christ và sự thăng thiên vinh hiển của Ngài, nhưng không thấy nói gì đến cuộc đời hoặc sự chết của Ngài. Dấu hai chấm ở giữa câu tiêu biểu cho ba mươi ba năm trong lịch sử!
Người đàn bà với đứa con là dấu lạ thứ nhất con rồng lớn và đỏ là dấu lạ thứ hai. Câu 9 cho biết rõ đây là quỉ Sa-tan. Màu đỏ đi đôi với chết chóc (Kh 6:4) và Sa-tan là kẻ giết người (Gi 8:44). Những đầu, sừng và mão miện sẽ xuất hiện trở lại trong Kh 13:1 và Kh 17:3. Những đầu tiêu biểu cho núi non (Kh 17:9), những sừng tiêu biểu cho vua chúa (Kh 17:12). Chúng ta sẽ nghiên cứu ý nghĩa của những biểu tượng này cách chi tiết hơn.
Con rồng bị quăng xuống (Kh 12:9), nó dẫn theo một phần ba thiên sứ (c.7,9). Chúng được nói đến như “các ngôi sao” trong c.4 (Da 8:10). Điều này là bằng chứng nói đến sự sa ngã của Sa-tan (Es 14:12-15) khi nó và kẻ theo nó nổi loạn nghịch cùng Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, việc Sa-tan bị quăng xuống đất mô tả trong Kh 12:7-10 vẫn còn trong tương lai.
Ngay sau khi đứa trẻ sinh ra, Sa-tan tìm cách giết hại. Cuộc chiến giữa Sa-tan và “người đàn bà” bắt đầu ngay sau khi con người sa ngã (Sa 3:15). Trải suốt lịch sử Cựu-ước, Sa-tan luôn tìm cách ngăn trở Đấng Cứu Chuộc sinh ra. Lúc nào cũng có “con rồng” đứng chờ sẵn, đợi cơ hội phá hại dân Y-sơ-ra-ên hoặc tổ phụ của Đấng Mê-si-a. Pha-ra-ôn được gọi là “con rồng” (Exe 29:3), vua Nê-bu-cát-nết-sa cũng được gọi như vậy (Gie 51:34).
Vào thời điểm nguy cấp, dòng dõi hoàng tộc chỉ còn giới hạn vào một bé trai! (IIVua 11:1-3). Khi Chúa Giê-xu Christ sinh ra, Sa-tan dùng vua Hê-rốt tìm cách hãm hại Ngài (Mat 2:1-18). Sa-tan nghĩ rằng nó đã thành công khi dùng Giu-đa phản bội và giao nộp Ngài để kẻ thù đóng đinh trên thập tự giá. Nhưng Thập Tự Giá quả là thất bại thật sự của Sa-tan! “Chúng đã thắng nó (Sa-tan) bởi huyết Chiên Con” (Kh 12:11).
Thậm chí ngày nay Sa-tan có thể lên trời để kiện cáo con cái Đức Chúa Trời nhưng nó không thể đánh đổ ngôi cao của Đấng Cứu Chuộc được. Sách lược của nó nhằm bắt bớ con cái Đức Chúa Trời và cắn nuốt họ nếu có thể làm được (IPhi 5:8). Nó căm thù dân Do-thái và nó là sức mạnh hậu thuẫn chủ nghĩa bài Do-thái từ thời Pha-ra-ôn và Ha-man (xem sách Ê-xơ-tê) cho đến Hít-le, Stalin. Cuối cùng, vào giữa Kỳ Đại Nạn, sẽ xảy ra làn sóng chống dân tộc Do-thái chưa từng có từ trước đến giờ (Kh 12:6). Nhưng Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ con cái Ngài trong ba năm rưỡi ấy (1.260 ngày - Kh 11:2 Kh 13:5).
Ngoài số 144.000 người (được đóng ấn và được bảo vệ), có một số người Giu-đa tin Chúa còn sót lại sẽ sống sót trong chính thời điểm rối ren này. Kinh Thánh không cho chúng ta biết Đức Chúa Trời sẽ che chở họ nơi nào hoặc ai sẽ chăm sóc họ. Mat 24:15-21 sẽ cho thấy ý nghĩa đặc biệt đối với những người Giu-đa tin kính sống trong thời cuối cùng này. Hãy lưu ý đặc biệt phần ghi trong ngoặc đơn của câu 15.
Bạn và tôi ngày nay đều có can dự vào cuộc đối địch tương tự (Eph 6:10). Sa-tan đang ra sức phá hại Hội thánh, sự chiến thắng của chúng ta chỉ có thể có được qua Chúa Giê-xu Christ mà thôi.
Bối cảnh kế tiếp của vở kịch trong vũ trụ này đó là cuộc chiến đấu trên trời (Kh 12:7-12). Kinh thánh cho biết rõ ngay cả ngày nay Sa-tan cũng có thể vào trong trời (Giop 1:1-2:13). Có lần nó là thiên sứ trưởng trong hàng ngũ thiên sứ của Đức Chúa Trời, nhưng nó nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời và bị quăng xuống (Es 14:12-15). Đáng chú ý, khi Hội thánh của Đức Chúa Trời trung tín hầu việc Đấng Christ và chinh phục linh hồn hư mất, ấy là lúc quỷ Sa-tan bị Đức Chúa Trời quăng xuống và bị Ngài đánh bại (Lu 10:1-2,17-20 Mat 16:18 Mat 12:29).
Dĩ nhiên, lúc Chúa Giê-xu Christ chết trên thập tự giá, Sa-tan chủ yếu đã bị thất bại (Gi 12:31-33). Ngày kia Sa-tan sẽ bị quăng khỏi thiên đàng (Kh 12:7-10), cuối cùng bị quăng vào địa ngục (Kh 20:10).
Cuộc chiến trên trời nói lên điều gì?
Sự kiện thiên sứ Mi-chên lãnh đạo các thiên sứ Đức Chúa Trời đến thắng lợi thật có ý nghĩa, vì Mi-chên tiêu biểu cho dân Y-sơ-ra-ên (Da 10:10-21 Da 12:1 cũng xem chú thích Giu 1:9). Danh xưng Mi-chên có nghĩa “ai giống như Đức Chúa Trời” và chắc chắn điều này tương ứng với cuộc tấn công vị kỷ của Sa-tan nhắm vào Đức Chúa Giê-hô-va - “Ta sẽ làm ra mình bằng Đấng Rất Cao” (Es 14:14). Rõ ràng, việc ma quỉ căm ghét dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ thúc đẩy nó tiến hành cuộc chiến cuối cùng chống lại ngôi Đức Chúa Trời, nhưng nó sẽ bị thiên sứ Mi-chên và thiên sứ trên trời đánh bại.
Có lẽ còn bao gồm một yếu tố khác trong cuộc chiến này. Sau khi Hội thánh được cất lên trời, con cái Chúa sẽ đứng trước Toà Phán Xét của Đấng Christ và Ngài đoán xét công việc của họ. Trên cơ sở cuộc phán xét này, Ngài sẽ trao phần thưởng cho họ (Ro 14:10-12 ICo 3:10-15 IICo 5:10-11). Rất có thể Sa-tan sẽ hiện diện vào lúc ấy để buộc tội các thánh đồ, chỉ ra tất cả “những tì vết” trong Hội thánh (Eph 5:24-27).
Danh xưng ma-quỷ có nghĩa “kẻ kiện cáo”, Sa-tan có nghĩa là “kẻ thù”. Sa-tan đứng trước ngôi Đức Chúa Trời buộc tội các thánh đồ để chống lại họ (Giop 1:1-2:13 Xa 3:1-10). Nhưng Chúa Giê-xu Christ, “Đấng Trung Bảo trên trời”, đại diện cho Hội Thánh trước ngôi thánh của Đức Chúa Trời (IGi 2:1-2). Vì Chúa Giê-xu Christ đã chết thay tội lỗi chúng ta, nên chúng ta có thể “nhờ huyết Chiên Con” thắng hơn những lời buộc tội của Sa-tan. Sự cứu rỗi chúng ta có được là chắc chắn không do công đức chúng ta làm nhưng vì Ngài đã làm xong tại Gô-gô-tha.
Quỷ Sa-tan sẽ giận dữ biết bao khi Hội thánh đến trước ngôi Đức Chúa Trời trong sự vinh hiển “không vết không nhăn, không chi giống như vậy”. Khi kẻ kiện cáo thấy mưu kế của nó thất bại, nó sẽ nổi giận và đe doạ sự bình an của thiên đàng.
Cuộc chiến trong tương lai ứng dụng cho Hội thánh ngày nay như thế nào? Con rắn xưa kiện cáo các thánh đồ trên trời cũng lừa dối các nước trên thế gian (Kh 12:9)một trong những sách lược của nó là làm chứng dối về Hội thánh. Nó đánh lừa các nước nghĩ rằng con cái Đức Chúa Trời là những người nguy hiểm, lừa gạt thậm chí còn phá hoại nữa.
Chính qua sự lừa dối của Sa-tan mà các nhà lãnh đạo các nước tập trung chống lại Đấng Christ và con cái Ngài (Thi 2:1-12 Cong 4:23-30). Con cái Đức Chúa Trời ở mọi thời đại phải sẵn sàng đón chờ sự chống đối của thế gian, nhưng Hội thánh luôn đánh bại được mưu toan của kẻ thù bởi lòng trung thành với Chúa Giê-xu Christ.
Huyết Đấng Christ đã đổ ra cho chúng ta được trọn vẹn đứng trước mặt Đức Chúa Trời (IGi 1:5-2:2). Nhưng việc làm chứng của chúng ta về lời Đức Chúa Trời và sẵn lòng bỏ mình vì Đấng Christ cũng làm cho Sa-tan thất bại. Sa-tan không ngang bằng Đức Chúa Trời nó không có quyền tuyệt đối, không có mặt khắp nơi, hoặc không thông suốt mọi sự.
Khi con dân Đức Chúa Trời tin cậy vào quyền năng huyết báu của Đấng Christ và Lời của Ngài thì quyền năng của Sa-tan sẽ bị giới hạn và mưu toan của nó phải thất bại. Sa-tan không thể làm gì để cướp đi “sự cứu rỗi, năng lực, và nước Đức Chúa Trời cùng quyền phép của Đấng Christ” (Kh 12:10), nếu chúng ta đầu phục Ngài. Chương trình lớn lao của Đức Chúa Trời sẽ được hoàn thành!
Con cái Chúa ở bất kỳ thời đại nào hoặc trong hoàn cảnh nào cũng có thể vui mừng trong chiến thắng này, cho dù có trải qua những khó khăn như thế nào đi nữa.Cuộc chiến chúng ta không chống lại với thịt và huyết, nhưng địch lại với các thần dữ và các thế lực này đã bị Đấng Cứu Chuộc chúng ta đánh bại (Eph 6:10 Eph 1:15-23).
Trên trời sẽ vui mừng khi Sa-tan bị quăng xuống, nhưng cư dân trên đất lại không vì thời kỳ sau cùng của Cơn Đại Nạn sẽ gia tăng khổ nạn cho thế giới. “Khổ nạn”trong Kh 12:12 nhắc chúng ta nhớ đến “ba khổ nạn” đề cập trong Kh 8:13. “Khổ nạn” đầu tiên được mô tả trong Kh 9:1-12, “khổ nạn” thứ hai chép trong Kh 9:13-21.“Khổ nạn” thứ ba đề cập trong Kh 11:14, nhưng phân đoạn này chỉ tóm tắt các biến cố đưa chương trình của Đức Chúa Trời dành cho thế gian lên đến cao điểm. Có lẽ một phần trong “khổ nạn” thứ ba này là việc quăng Sa-tan xuống đất và cho phép nó thực hiện cơn giận dữ trên thế gian.
Sau việc này là màn ba trong vở kịch: Cơn nổi giận của Sa-tan trên thế gian (Kh 12:13-16). Biết thời giờ của nó không còn bao lâu, và không còn quyền lên trời, kẻ thù trút đổ tất cả giận dữ lên thế gian. Nó bắt đầu gây chiến với dân Y-sơ-ra-ên (người đàn bà), và tạo ra làn sóng bài Do-thái. Sa-tan lúc nào cũng ghét dân Do-thái vì họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời và là phương tiện đem ơn cứu rỗi đến thế gian. Sa-tan muốn tiêu diệt dân tộc Y-sơ-ra-ên, nhất là lúc gần kề thời điểm Đấng Mê-si-a trở lại trần gian lập nước Ngài như đã hứa. Số người Giu-đa còn sót lại phải chuẩn bị sẵn sàng tiếp đón Ngài và làm hạt nhân cho nước của Ngài (Kh 1:7 Xa 12:9-14:21).
Đức Chúa Trời sắm sẵn chỗ đặc biệt để bảo vệ và chăm sóc số người Giu-đa còn sót lại. Thật thú vị khi Kinh Thánh mô tả số người còn sót lại trốn thoát khỏi Sa-tan dưới dạng cánh chim phụng hoàng, vì đây là hình ảnh miêu tả trong Cựu-ước liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập “trên cánh chim ưng” (Exe 19:4), Ngài chăm sóc dân sự trong đồng vắng như chim ưng chăm chút con mình (Phu 32:11-12). Cuộc trở về từ cảnh lưu đày Ba-by-lôn giống như “chim ưng cất cánh bay cao” (Es 40:31).
Hãy lưu ý số người còn sót lại sẽ có nơi trú ẩn trong thời gian xảy ra thời kỳ cuối cùng của Cơn Đại Nạn. Chúng ta không biết nơi ẩn náu này ở đâu, và chúng ta cũng không cần nên biết. Nhưng bài học dành cho tất cả chúng ta thật rõ ràng: Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc những người Ngài muốn để dùng họ làm thành chương trình của Ngài trên thế gian. Thật vậy, một số người sẽ mất mạng sống mình (Kh 12:11), nhưng số khác sẽ được miễn trừ (Cong 12:1-25 để làm ví dụ cho nguyên tắc này).
Cụm từ “nước như sông” không được giải thích, nhưng có điểm tương ứng với Thi 124:1-8. (Cũng lưu ý cụm từ “thoát khỏi như chim” ở câu 7 trong Thi-thiên này). “Con sông” này có lẽ là sự trút đổ căm giận và sự rêu rao chống Do-thái hoặc có thể biểu tượng cho các đội quân xâm chiếm nước Y-sơ-ra-ên và tìm cách đánh hạ số người còn trung tín với Chúa. Nếu ý nghĩa đúng như vậy, việc đất hả miệng có thể là cơn động đất Đức Chúa Trời dùng để tiêu diệt kẻ xâm lăng. Khi Sa-tan khám phá ra những người nó tìm cách giết hại được che chở, nó quay lại hãm hại những người không được mang đến nơi ẩn náu an toàn. Nó sẽ tuyên bố chiến tranh, và Đức Chúa Trời cho phép nó thắng trận một thời gian (Kh 13:7) nhưng đến cuối cùng, con rắn xưa sẽ bị đánh bại.
2. Con thú từ biển lên (Kh 13:1-10)
Một số nội dung viết, “Và con rồng (Sa-tan) đứng trên bãi cát của biển”. Biển biểu tượng cho các nước ngoại bang (Kh 17:15). Sa-tan sẽ sản sinh ra “Nhà Lãnh Đạo Siêu Đẳng” từ một trong những nước ấy, một con người chúng ta gọi là “Kẻ Chống Lại Đấng Christ”. Cho đến thời điểm này, Kẻ Chống Lại Đấng Christ đã đứng đầu liên hiệp mười quốc gia Châu Âu nhưng hiện nay nó sắp sửa bắt tay vào sự nghiệp mới làm nhà độc tài trong thế giới Sa-tan.
Bạn nhớ rằng Kẻ Chống Lại Đấng Christ bắt đầu công việc của nó trong vai trò nhà kiến tạo hoà bình (Kh 6:2) và thậm chí còn giải quyết vấn đề Ả-rập và Y-sơ-ra-ên bằng việc ký kết thỏa ước bảo vệ dân Do-thái trong bảy năm (Da 9:27). Sự che chở này cho phép dân sự xây lại đền thờ và tái lập các nghi thức tôn giáo (Kh 11:1 Da 9:27). Nhưng giữa thời gian bảy năm (thời gian chúng ta đang nghiên cứu trong Kh 10:1-14:20), nó huỷ bỏ hiệp ước, chấm dứt các lễ nghi và tự lập nó làm thần trong đền thờ (Da 9:27 IITe 2:1-12).
Biểu tượng miêu tả về “con thú” giúp chúng ta học biết được một ít về nguồn gốc và bản chất của nó. Đức Chúa Trời không thấy nó như con người được tạo nên theo ảnh tượng Đức Chúa Trời, nhưng Ngài nhìn thấy nó là một thú rừng, dưới quyền cai trị của Sa-tan. Nó là môt người (Kh 13:18) nhưng được quyền phép từ địa ngục, vì nó xuất thân từ vực sâu (Kh 11:7 Kh 17:8). Giống như Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời trong xác thịt, do đó “con thú” sẽ là Sa-tan trong thân xác con người (Gi 13:2,27).
Bảy đầu tiêu biểu cho bảy ngọn núi (Kh 17:9) và vì thành phố Rô-ma xây trên bảy ngọn đồi, chắc chắn điều này nói đến thành phố quyền thế ấy (Kh 17:18). Quả là một lời nói bóng gió có ý nghĩa nhất trong thời của Giăng!
Mười sừng tiêu biểu cho mười vương quốc (Da 7:24 Kh 17:12). Dường như “con thú” sẽ đứng đầu “Hiệp Chủng Quốc Châu Âu” (đế quốc Rô-ma hồi sinh) trước khi làm nhà độc tài thống lĩnh thế giới. Tất cả các nước chắc chắc sẽ khâm phục và biết ơn nó vì “nền hoà bình” nó đạt được, chớ ít ai nhận ra nỗi phiền muộn và tàn hại nó sẽ gây ra cho thế giới.
Ba con thú được nêu tên trong Kh 13:2 nhắc chúng ta nhớ bốn con thú Đa-ni-ên nhìn thấy trong giấc chiêm bao của ông (Da 7:1-28): con sư tử (thành Ba-by-lôn), con gấu (nước Mê-đi Ba-tư), con báo (nước Hy-lạp), và “con thú hung tợn” (Kẻ Chống Lại Đấng Christ). Giăng nhìn thấy các con thú hoặc các vương quốc theo thứ tự đảo ngược vì ông nhìn ngược lại, trong khi tiên tri Đa-ni-ên nhìn tới. Đế quốc cuối cùng của thế giới sẽ đặt nền tảng trên tất cả các đế quốc trước đây và liên hiệp sức mạnh và sự gian ác của chúng lại làm một. Quyền lực, ngôi nước và uy quyền của Sa-tan sẽ gia thêm vào cho sự hung tợn của những con thú này!
Một khi Sa-tan đưa ra cho thế giới “kiệt tác” lớn của nó, là Christ giả, sau đó sẽ xảy ra điều gì?
• Trước hết, sẽ có dấu lạ (Kh 13:3).
Chắc chắn thế giới hoảng loạn sẽ lấy làm kinh ngạc về quyền phép Kẻ Chống Lại Đấng Christ và sự sống lại thình lình của nó gây tiếng vang và uy quyền trên trường quốc tế. Nhưng loài người cũng sẽ ngạc nhiên về việc nó được chữa lành “vết thương”. “Vết thương” này là gì? Giăng không giải thích điều đó, nhưng có lẽ những gì ông viết sau này có thể giúp chúng ta hiểu được biểu tượng này (Kh 17:9-13). “Vết thương” này thật quan trọng, vì Giăng đề cập đến ba lần (c.3,12,14), kể cả lần nó bị gươm làm cho bị thương.
Bảy cái đầu tiêu biểu cho bảy ngọn núi, nhưng còn là bảy vua hoặc bảy vương quốc (Kh 17:10). Kẻ chống lại Đấng Christ hoặc “con thú” là một trong bảy vua này (Kh 17:11), nhưng nó còn là vua thứ tám. Hẳn nhiên, nó trị vì hai lần nhưng điều này có thể như thế nào? Người ta gợi ý rằng “con thú” là người lãnh đạo Châu Âu sẽ hình thành liên bang mười nước (Kh 17:12), nhưng sẽ bị giết chết trong quá trình cầm quyền. Kh 11:7 và Kh 17:8 cho biết rằng “con thú” sẽ lên khỏi vực sâu. Có khả năng Sa-tan sẽ làm cho một người từ kẻ chết sống lại (theo sự cho phép của Đức Chúa Trời) chăng? Nếu Sa-tan có quyền ban sự sống cho một thần tượng chết (Kh 13:15), há nó không thể ban sự sống cho một xác chết sao?
Nếu “con thú” là một trong bảy vua bị giết và sống lại sau đó, nó có thể cai trị như vì vua thứ tám. Mặt khác, nếu người ta thấy hình ảnh này tiêu biểu cho các vương quốc hơn là các cá nhân, chắc chắn chúng ta sẽ thấy một “vương quốc chết”tái xuất hiện trong bối cảnh thế giới. Tuy nhiên, chúng ta thấy khó hiểu làm cách nào một nước có thể bị gươm giết chết . Tôi cho rằng tốt nhất nên ứng dụng lời tiên tri này vào cá nhân con người.
Không những có dấu lạ, nhưng còn có sự thờ phượng nữa (Kh 13:4). Thờ lạy là việc Sa-tan luôn mong muốn (Mat 4:8-10), và nó sẽ nhận được điều đó qua “con thú”. “Con thú” thứ hai mô tả trong phần cuối chương này sẽ tổ chức và thúc đẩy việc thờ lạy Kẻ Chống Lại Đấng Christ, lập sự thờ lạy ấy làm tôn giáo chính thức cho cả thế giới!
• Cũng có những lời nói (Kh 13:5-6).
Hầu hết các nhà độc tài dùng lời nói để nắm quyền cai trị con người. Một số trong chúng ta có thể nhớ lại khi Adolf Hitler nổi lên nắm quyền lực và cách nào ông ta đã mê hoặc nhiều đám đông khổng lồ qua các bài diễn thuyết của ông. Sa-tan sẽ khiến “con thú” trở nên nhà hùng biện kiệt xuất với những bài diễn thuyết nói phạm đến Đức Chúa Trời, phạm đến danh Ngài, đền tạm Ngài cùng các thánh đồ Ngài trên trời. Vì Sa-tan vừa bị quăng xuống đất, nên sự nói phạm này là điều chắc chắn.
Sa-tan không thể làm gì nếu Đức Chúa Trời không cho phép (Giop 1:1-2:13 Lu 22:31-32), vì vậy “con thú” được giao cho thẩm quyền, chớ không phải nó vốn có. Quyền hành này kéo dài ba năm rưỡi, thời kỳ cuối của Cơn Đại Nạn.
Trong sự hiện thấy ban đêm, tiên tri Đa-ni-ên thấy “con thú” là đế quốc thứ tư và cuối cùng (Da 7:19-28). Như trong sự hiện thấy của Giăng, có hình ảnh mười sừng với mạc khải thêm rằng “con thú” phải thắng ba vua để nắm quyền cai trị.Đa-ni-ên cũng nghe những lời phạm thượng của “con thú” (Da 7:25).
• Cuối cùng, sẽ có chiến tranh (Kh 13:7-10).
Đức Chúa Trời sẽ cho phép Kẻ Chống Lại Đấng Christ gây chiến chống lại con cái Ngài (“làm hao mòn các thánh”, Da 7:25) và thậm chí còn thắng hơn một số người trong vòng các thánh. Giăng nói tiên tri rằng một số thánh đồ sẽ bị giam cầm và số khác bị giết. Nhưng vì đức tin, họ sẽ nhịn nhục chịu đựng (He 6:12 Kh 1:9), họ sẽ không chối bỏ Chúa cho dù có bị bắt bớ hay giết chết.
Dân số thế giới sẽ bị chia ra: số người được cứu có tên trong sách của Đức Chúa Trời sẽ không thừa nhận “con thú” những người hư mất - những cư dân trên đất -sẽ thờ lạy”con thú” và vâng theo mệnh lệnh của nó. Hãy lưu ý rằng Kh 13:9 ứng dụng lẽ thật này cho “bất kỳ người nào”, cho dù người đó có sống ở thời đại nào mặc dầu. Chắc chắn trong thời của Giăng, điều này thật có ý nghĩa vì mọi công dân Rô-ma đều phải nhận biết “Sê-sa là Chúa”. Cũng vậy, trong mọi thời đại Hội thánh, người tin Chúa thật phải đứng về phía Đấng Christ, cho dù có thể xảy ra điều gì.
Hãy nhớ rằng “con thú” là Christ giả. Thế gian sẽ không nhận Đấng Christ, nhưng sẽ nhận lấy Christ giả (Gi 5:43). Thế gian sẽ không tin lẽ thật, nhưng tin vào lời dối trá (IITe 2:8-12). Chúa Giê-xu phán (và vẫn còn đang phán) lời cứu ân , nhưng con người bịt tai lại nhưng họ sẽ lắng nghe lời phạm thượng của “con thú”. Thế gian sẽ không thờ lạy Đấng Christ, nhưng họ sẽ quì lạy Kẻ Chống Lại Đấng Christ.
Trong Kh 17:1-18 chúng ta sẽ biết rằng “con thú” nổi lên nắm quyền hành qua phương tiện “con dâm phụ”, biểu tượng về thế giới bội đạo. Đây không phải là một giáo phái hay đức tin nào, nhưng là hệ thống tôn giáo thế giới đã phủ nhận Con Đức Chúa Trời và chân lý của Ngài. Tuy nhiên, khi “con thú” nắm quyền trên toàn vũ trụ, nó sẽ không còn cần đến “con dâm phụ” và cuối cùng sẽ giết hại dâm phụ và lập tôn giáo sa-tan riêng của nó.
3. Con thú ở dưới đất lên (Kh 13:11-18)
Trong Kh 16:13 Kh 19:20 và Kh 20:10 con thú ở dưới đất lên được gọi là “tiên tri giả”. Con rồng hoặc Sa-tan là Cha của sự giả dối (“Ta sẽ làm ra mình bằng Đấng Rất Cao”), nên “con thú” là Christ giả, và tiên tri giả là Đức Thánh Linh giả.Điều này hoàn thành bộ ba sa-tan.
Một trong những chức vụ của Đức Thánh Linh là ngợi khen Đấng Christ và dẫn dắt con người tin cậy và thờ phượng Ngài (Gi 16:7-15). Tiên tri giả sẽ tập trung vào Kẻ Chống Lại Đấng Christ cùng hình tượng của nó và bắt buộc con người thờ lạy Sa-tan qua “con thú”.
• Hình ảnh các chiếc sừng (Kh 13:11)
Cho thấy tiên tri giả có quyền phép, nhưng sự thiếu vắng đi mão miện cho biết rằng quyền phép của nó không có liên quan đến chính trị. Chúa chúng ta phán bảo trước rằng sẽ có tiên tri giả (Mat 24:11,24), và đây là tiên tri giả lớn nhất. Nó có “đặc tính” của chiên con nhưng có tiếng nói của con rồng. Nó quả là một kẻ lừa dối - cả thế giới sẽ nghe theo nó!
Khi Chúa chúng ta thi hành chức vụ trên đất, các nhà lãnh đạo Do-thái thường yêu cầu Ngài thi thố dấu lạ để chứng tỏ rằng Ngài quả thật là Đấng Mê-si-a nhưng Chúa Giê-xu không làm theo lời yêu cầu của họ. Ngược lại tiên tri giả sẽ làm những phép lạ lừa dối để dẫn thế giới con người đi vào sự thờ lạy ma quỉ (IITe 2:9). Dấu hiệu lớn nhất của nó là “sự giận dữ đổ trên nơi hoang vu” được Đa-ni-ên, Chúa Giê-xu và sứ đồ Phao-lô đề cập đến (Da 9:27 Da 11:36 Mat 24:15 IITe 2:4).
“Sự giận dữ đổ ra trên nơi hoang vu” là gì? Đó là hình tượng “con thú” lập lên trong đền thờ Giê-ru-sa-lem. Một hình tượng đã là xấu đủ rồi nhưng dựng nó trong đền thờ cao điểm của là sự phạm thượng. Vì Sa-tan không thể đòi hỏi được thờ lạy trên trời, nên nó đến nơi kế cận tốt nhất - đó là đền thờ dân Do-thái trong Thành Thánh (Da 8:9-14).
Được Sa-tan tiếp sức, tiên tri giả sẽ làm ra “những dấu lạ dối trá” và thậm chí còn nhái theo một số dấu lạ hai chứng nhân đã làm (Kh 13:13 Kh 11:5). Cho đến lúc này, hai chứng nhân đang hầu việc Chúa tại đền thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng “con thú” sẽ giết họ và cai quản đền thờ. Khi Đức Chúa Trời khiến hai chứng nhân từ kẻ chết sống lại và đưa họ về trời, tiên tri giả sẽ thách thức bằng cách ban sự sống cho hình tượng “con thú”. Hình tượng ấy không chỉ cử động, nhưng còn nói được!
Không chỉ dừng lại trong việc cai trị con người qua tôn giáo giả, tiên tri giả còn thiết lập các biện pháp về kinh tế nữa. Mọi người (trừ những người tin Chúa Kh 20:4) sẽ nhận một dấu đặc biệt để mua bán nhưng cách duy nhất để có được dấu ấy là phải đầu phục “con thú” và thờ lạy nó. Chắc chắn đây là lời ám chỉ đến việc thờ lạy Sê-sa trong đế quốc Rô-ma, nhưng các nhà lãnh đạo chính trị trong suốt lịch sử cũng sử dụng cùng một sách lược này.
Dấu đặc biệt này là tên gọi hoặc số của con thú” - số 666 kỳ bí. Trong thế giới cổ xưa, các mẫu tự trong bảng chữ cái được dùng thay cho các con số, cả trong ngôn ngữ Hy Lạp và Hê-bơ-rơ các nhà nghiên cứu Kinh Thánh trong nhiều năm liền ra sức làm sáng tỏ tên gọi và con số bí ẩn này. Nếu bạn đủ sức nghiên cứu, hầu như bất kỳ danh xưng nào cũng thích hợp!
Vì con người được dựng nên vào ngày thứ sáu, nên số sáu là con số của loài người. Tạo vật được dựng nên vì loài người nên cũng được gán cho con số sáu: hai mươi bốn giờ trong một ngày (4x6), mười hai tháng cho một năm (2x6). Số bảy là số trọn vẹn và đầy đủ, nhưng số sáu là “số của con người”, con số không trọn vẹn.
Cho dù con người có tưởng tượng ra nhiều cách tính, nhưng chúng ta phải thú nhận rằng không ai biết được ý nghĩa của con số và tên gọi này. Chắc chắn con cái Chúa còn sống trên thế gian vào lúc ấy sẽ hiểu được rõ ràng con số này. “Bộ ba sa-tan” không thể đòi con số bảy được nó phải chấp nhận ba con số sáu (666).
Điều này là chắc chắn: trong những năm gần đây, chúng ta nhìn thấy thế giới ngày càng dùng các con số để nhận dạng. Tại Hoa Kỳ, một người không thể thiếu con số trong sổ Bảo Hiểm Xã Hội. Thực ra, đối với máy tính con số còn quan trọng hơn cả các tên gọi! Có lẽ đây là lời báo trước về những gì sẽ xảy ra trên thế gian khi “con thú” cầm quyền.
Chúng ta đã nghiên cứu đến thời kỳ giữa của Cơn Đại Nạn, nhưng chưa sửa soạn sẵn sàng cho sự trở lại của Chúa. Trước khi Giăng đưa vở kịch lạ lùng này lên đến cao điểm, ông muốn dừng lại để nhìn khắp các biến cố sẽ xảy đến và đó là chủ đề kế tiếp của chúng ta.
Hệ thống nghịch lại Đấng Christ lan tràn khắp thế giới chúng ta, nhưng tín hữu thật của Chúa phải không có phần trong đó (IGi 2:15-17). Chúng ta phải tránh xa sự thờ phượng sai lệch (ICo 10:14-22), để có thể trung tín với Chúa trong những ngày cuối cùng! (IITi 3:1-17).
9. TIẾNG REO MỪNG CHIẾN THẮNG (Kh 14:1-16:21)
Tiếng là một trong những chủ đề nối Kh 14:1-16:21 lại với nhau, được diễn đạt đến mười một lần. Trong các biến cố được ghi lại, cho thấy Đức Chúa Trời phán với con cái Ngài hoặc với thế gian hư mất, hoặc các sanh vật nói ra lời ngợi khen Chúa hay cảnh cáo thế giới. Khi thế gian bước vào thời kỳ cuối của Cơn Đại Nạn, trên trời sẽ không yên lặng.
1. Tiếng của 144.000 người (Kh 14:1-5)
Nhóm người Do-thái đặc biệt này được Đức Chúa Trời đóng ấn trước khi ấn thứ bảy mở ra (Kh 7:1-17), và bây giờ chúng ta nhìn thấy họ trên Núi Si-ôn cùng với Chúa Giê-xu Christ. Trái ngược với bức tranh này là hình ảnh mô tả trong Kh Kh13:1-18 những kẻ theo “con thú” có dấu in trên trán (c.16). Đức Chúa Trời luôn có con cái trung tín của Ngài, cho dù thế gian có gian ác đến đâu.
Số 144.000 người đang đứng với Đấng Christ trên Núi Si-ôn, nhưng núi Si-ôn nào vậy: Si-ôn trên trời (He 12:22-24) hay Si-ôn dưới đất? Cá nhân tôi tin rằng đó là Si-ôn trên trời, và tôi cho rằng đây là quang cảnh dự báo cho lễ đăng quang của Đấng Christ và việc thiết lập vương quốc khi Ngài trở lại thế gian (Xa 14:4). Ngày nay Đấng Christ đang ngự trên núi Si-ôn trên trời (Thi 2:6), chúng ta cùng ngồi trên ngôi với Ngài (Eph 2:6). Quang cảnh trong Kh 14:20 là sự bảo đảm cho dân Ngài biết rằng Ngài chăm sóc kẻ thuộc riêng về Ngài và cuối cùng sẽ cất họ lên trong sự vinh hiển.
Số 144.000 người không những đang đứng nhưng họ còn đang hát nữa (Kh 14:2-3). Vì những kinh nghiệm họ trải qua trong Cơn Đại Nạn, nên họ có bài hát mới ca ngợi Chúa mà người khác không thể dự phần được. (Thi 33:3 Thi 40:3 Thi 96:1 Thi 98:1 Thi 144:9 Thi 149:1). Họ cùng hoà giọng với các đờn cầm và các thứ tiếng khác trên trời. Thật được an ủi khi biết rằng ngày kia mọi nỗi phiền muộn của chúng ta sẽ biến thành những bài ca!
Giăng cũng chỉ cho thấy họ biệt mình riêng ra (Kh 14:4-5). Số 144.000 người không thuộc về thế gian vì họ đã được chuộc mua ra khỏi thế gian. Họ không còn là cư dân trên đất, nhưng là công dân trên trời. Người tin Chúa ngày nay không thuộc về chính nhóm người đặc biệt này, nhưng cũng giống như họ, chúng ta đã được chuộc mua và không có phần gì với thế gian tội lỗi này. (Gi 17:14-19 Phi 3:17-21).
Cụm từ “bị ô uế với đàn bà” không có ý nói rằng tình dục trong hôn nhân là tội lỗi, vì Kinh Thánh không dạy như vậy (He 13:4). Kinh Thánh chỉ cho biết số 144.000 người Do-thái này không có lập gia đình. Trong Kinh Thánh, dâm dục và tà dâm là hình ảnh của sự thờ hình tượng (Xu 34:15 Gia 4:4). Trong khi hầu hết thế gian đều thờ lạy hình tượng “con thú”, số 144.000 người này vẫn trung tín với Đức Chúa Trời chân thần. Trong khi những người khác nói dối để có được điều họ cần, số 144.000 người cứ sống trong sạch.
Thuật ngữ trái đầu mùa có nghĩa “vật tốt nhất” , Nhưng nó còn nói đến một mùa gặt mong đợi. Vào Ngày lễ Hội Hoa quả Đầu Mùa, thầy tế lễ dâng bó lúa đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va làm dấu cho biết rằng toàn bộ mùa màng thuộc về Ngài (Le 23:9-14). Số 144.000 người có thể là những trái đầu mùa của vụ mùa chưa đến họ có thể là hạt nhân trong vương quốc sắp đến. Tuy nhiên, thành lập vương quốc trên đất đối với một đoàn người trên trời như thế này dường như là một việc khó khăn.
2. Tiếng của Thiên sứ (Kh 14:6-20)
Có ít nhất sáu thiên sứ khác nhau có can dự vào trong quang cảnh này, mỗi vị đều có sứ điệp riêng.
“Sự Phán Xét Đã Đến! ” (Kh 14:6-7).
Trong thời hiện tại, các thiên sứ không có đặc quyền rao giảng Phúc-Âm. Khả năng đó được giao cho con dân Đức Chúa Trời. Trong khi các nước sợ hãi “con thú” và tôn sùng nó, vị sứ trời này sẽ kêu gọi họ kính sợ và tôn vinh một mình Đức Chúa Trời. Đó là người nhắc nhở cho con người nhớ lại Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá và một mình Ngài đáng cho chúng ta thờ lạy. Đây không phải là sứ điệp Phúc-Âm như chúng ta biết (ICo 15:1-4) hơn nữa, đó là lời nhắc lại sứ điệp trong Ro 1:18 đều mà các nhà thần học gọi là “thần học tự nhiên”.
Mọi tạo vật đều làm chứng về sự thực hữu của Đức Chúa Trời cũng như quyền năng và khôn ngoan của Ngài. Tuy nhiên, “con thú” sẽ thuyết phục con người tin rằng nó đang cầm quyền thế gian, và vận mệnh của mọi người đều nằm trong tay nó. Sứ điệp của thiên sứ kêu gọi con người quay trở lại nền tảng căn bản: Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá - hãy thờ phượng và hầu việc Ngài. Kính sợ Đức Chúa Trời, chớ không phải sợ “con thú”, là khởi đầu sự khôn ngoan (Ch 9:10).
“Ba-By-Lôn Đã Sụp Đổ! ” (Kh 14:8).
Lời tuyên bố này báo trước các biến cố trong Kh 18:1-24 (Kh 16:18-19). Chúng ta sẽ xem xét chi tiết lời tuyên bố này. “Ba-by-lôn” là danh xưng Đức Chúa Trời dành cho thế giới tội ác của “con thú”, toàn bộ tổ chức kinh tế chính trị dưới quyền cai trị của nó. “Dâm phụ” (Kh 17:1-18) là hệ thống tôn giáo được “con thú” dùng xây nên tổ chức của nó. Khi Kẻ Chống Lại Đấng Christ thiết lập tôn giáo riêng (Kh 13:11-15), nó sẽ giết “dâm phụ” nhưng chính Đức Chúa Trời sẽ huỷ diệt Ba-by-lôn.
“Thoát Khỏi Cơn Thạnh Nộ Của Đức Chúa Trời! ” (Kh 14:9-13).
Sứ điệp thứ ba đặc biệt gởi ngay đến những người sắp quyết định theo “con thú”. Đó là lời khuyến cáo cho con người biết rằng “phương cách dễ dãi” thực sự là khó khăn nặng nề, “thỏa hiệp với thế gian” có nghĩa cách xa khỏi Đức Chúa Trời.Trong bản Hy-lạp viết là, “Nếu người nào tiếp tục thờ lạy con thú” cho thấy vẫn còn có cơ hội ăn năn và nhận được sự cứu rỗi.
“Uống chén” thỉnh thoảng được dùng làm hình ảnh về sự phán xét (Gie 25:15 Gie 51:7 Kh 14:8). Những phán xét cuối cùng của Đức Chúa Trời trên loài người sẽ là “những bát thạnh nộ” từ trời trút đổ xuống (Kh 16:1-21). Đức Chúa Trời sẽ không bày tỏ lòng thương xót trong cơn đoán phạt này (Thi 75:8 Ha 3:2), nhưng Ngài sẽ trút đổ trọn vẹn cơn thạnh nộ của Ngài trên thế giới chống nghịch.
Những hình ảnh như “lửa và diêm sinh” (Kh 14:10) và “khói” (Kh 14:11) làm bối rối một số người. Họ hỏi, “Làm thế nào một Đức Chúa Trời yêu thương lại có thể thực sự để cho tạo vật của Ngài phải chịu đau đớn đời đời như vậy?” . Nhưng chúng ta phải nhớ rằng tình yêu của Đức Chúa Trời là thánh, chớ không dựa trên cảm tính, và vì vậy Ngài phải xử phạt tội lỗi cách công bình. Có lẽ chúng ta không thích chữ đau đớn, nhưng ở đây thật đúng như thế (c.10 Kh 9:5 Kh 11:10 Kh 20:10).
Chúng ta còn phải nhớ rằng Đức Chúa Trời liên tục cảnh cáo tội nhân và cho họ cơ hội ăn năn. Vị thiên sứ đầu tiên trong chuỗi sự kiện này mời tội nhân quay trở về cùng Đức Chúa Trời, vị thứ hai báo trước rằng toàn bộ hệ thống “Ba-by-lôn” sẽ bị phá huỷ. Nếu con người cứ say sưa trong tội lỗi sau khi Đức Chúa Trời sai các cơn đoán phạt và sự cảnh cáo, lúc ấy họ chỉ tự trách mình mà thôi.
Giăng có ý định muốn cho độc giả của ông thấy sự trái ngược giữa các câu 11 và Kh 13: kẻ gian ác không có lúc nào được yên nghỉ, nhưng các thánh đồ được yên nghỉ đời đời (IITe 1:3-12). Trị vì cùng Đấng Christ mãi mãi thật tốt hơn là thuộc về Kẻ Địch Lại Đấng Christ chỉ một vài năm ngắn ngủi! Nhịn nhục chịu cơn bắt bớ hiện nay hơn là trốn thoát nó để chịu đau khổ đời đờí!
“Mùa Màng Đã Chín! ” (Kh 14:14-20).
Con người ngồi trên đám mây trắng mô tả ở đây chắc chắn là Chúa Giê-xu Christ (Da 7:13-14 Kh 1:13). Chúng ta đã có hình ảnh cái chén, và bây giờ có hình ảnh mùa gặt, cả lúa (c.14-16) lẫn nho (c.17-20). Hơn nữa, điều này báo trước cơn đoán phạt thế gian sau cùng.
Trong khi việc chinh phục linh hồn hư mất về với Đấng Christ thỉnh thoảng được mô tả bằng hình ảnh mùa gặt (Gi 4:34-38), hình ảnh này còn được dùng nói đến sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (Lu 3:8-17 Mat 13:24-30,36-43). Đức Chúa Trời cho phép mầm mống gian ác lớn lên cho đến khi chúng chín vàng, sau đó Ngài sẽ đoán phạt (Sa 15:16).
Mùa hái nho thường là hình ảnh nói về sự đoán phạt (Gio 3:13 báo trước Ngày của Đức Giê-Hô-va). Thực ra, Kinh Thánh vẽ lên ba “cây nho” khác nhau. Dân Y-sơ-ra-ên là cây nho của Đức Chúa Trời, được trồng vào đất để sanh bông trái làm vinh hiển Đức Chúa Trời nhưng dân sự làm Đức Chúa Trời thất vọng và Ngài đã chặt bỏ (Thi 80:8-16 Es 5:1-7 Mat 21:33-46).
Ngày nay, Đấng Christ là Cây Nho và người tin Ngài là nhánh gắn vào Ngài (Gi 15:1-17). Nhưng hệ thống trần gian cũng là cây nho, “cây nho ở dưới đất” trái ngược với Đấng Christ, Cây Nho trên trời cây nho dưới đất đang chín để dành cho sự phán xét. Hệ thống tội ác -Ba-by-lôn - làm băng hoại và chế ngự con người, ngày kia sẽ bị đốn và bị huỷ diệt trong “thùng lớn thạnh nộ của Đức Chúa Trời”.
Một số người nhìn thấy trong hình ảnh này điềm báo trước về “trận chiến Hạt-ma-ghê-đôn”, khi nhiều đội quân trên thế giới tập trung chống lại Giê-ru-sa-lem (Xa 14:1-4 Kh 16:16). Chắc chắn, Giăng có ý dùng lời cường điệu khi ông mô tả con sông huyết sâu bốn bộ (1,2 mét) và dài 200 dặm (320 km). (Es 63:1-6) Ngày nay, Đức Chúa Trời đang phán dạy với thế giới trong ân điển, nhưng con người không chịu lắng nghe. Ngày kia, Ngài chắn chắn phán trong cơn thạnh nộ. Loài người sẽ uống chén cay đắng, vụ mùa tội lỗi sẽ được gặt và cây nho dưới đất sẽ bị chặt và quăng vào thùng thạnh nộ.
3. Tiếng reo mừng của những người chiến thắng (Kh 15:1-4)
Vào lúc này, Giăng thấy bảy thiên sứ cầm bảy bát thạnh nộ của Đức Chúa Trời, chuẩn bị hành động. Thế giới tội ác sắp sửa “uống chén rượu thạnh nộ của Đức Chúa Trời” (Kh 14:10) nhưng trước khi các thiên sứ trút các bát thạnh nộ, có một “khoảng thời gian” phước hạnh. Trước khi gởi “khổ nạn thứ ba” (Kh 11:14) , một lần nữa Đức Chúa Trời lại bảo đảm cho con dân trung kiên của Ngài.
Giăng thấy nhiều người tin trong Cơn Đại Nạn đã thắng được “con thú” và hệ thống của nó. Đây là những người “chẳng tiếc sự sống mình cho đến chết” (Kh 12:11). Vì họ không cộng tác với hệ thống của ma quỉ và nhận lấy dấu “con thú”, họ không thể mua hoặc bán (Kh 13:17). Họ hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa chu cấp vật thực mỗi ngày. Một số trong họ bị giam trong ngục và số khác bị giết (Kh 13:10) nhưng tất cả họ đều bày tỏ đức tin và lòng nhịn nhục.
Toàn cảnh này gợi lại hình ảnh dân Y-sơ-ra-ên sau khi ra khỏi Ai-cập. Dân Y-sơ-ra-ên đã được giải thoát ra khỏi Ai-cập bởi huyết chiên con, và đội quân Ai-cập bị Biển Đỏ vùi lấp. Để biết ơn Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên đứng cạnh biển hát vang “bài ca Môi-se”.
Các thánh đồ trong Cơn Đại Nạn Giăng đã nghe và thấy hiện đang đứng bên “biển pha lê” trên trời (Kh 4:6), giống như dân Y-sơ-ra-ên đứng cạnh biển Đỏ. Họ vừa hát “bài ca Môi-se” vừa hát “bài ca Chiên Con”. “Bài ca Môi-se” được ghi lại trong Xu 15:1-27, bài hát có điệp khúc: “Đức Giê-hô-va là sức mạnh và sự ca tụng của tôi, Ngài đã trở nên Đấng Cứu tôi” (c.2). Số 144.000 người hát bài ca không ai khác có thể hát được nhưng đây là bài ca tất cả các thánh đồ có thể hát.
Khi Y-sơ-ra-ên từ chốn lưu đày Ba-by-lôn trở về lập lại chính quyền và tái lập sự thờ phượng trong đền thờ, họ dùng điệp khúc này trong các lễ dâng hiến cảm tạ (Thi 118:1-29 nhất là c 14).
Trong tương lai, khi Đức Chúa Trời kêu gọi dân Ngài trở về trong xứ mình, Ê-sai nói tiên tri rằng họ sẽ lại hát bài ca này! (Es 11:15-12:16). “Bài ca Môi-se” quả thật là bài hát quan trọng trong thánh ca của dân tộc Do-thái.
Quang cảnh này sẽ đem lại sự bảo đảm và sức chịu đựng lớn lao cho các thánh đồ trải qua đau đớn ở bất kỳ giai đoạn nào của Hội thánh. Chiến thắng hệ thống thế gian này là điều chúng ta có khả năng làm được! Chúng ta không phải chịu nhận dấu “con thú”. Chúng ta có sự giải cứu bởi huyết Chiên Con. Công tác cứu chuộc của Chúa trên thập tự giá là “chuyến xuất Ai-cập thiêng liêng” được thực hiện bởi huyết của Ngài. (Lưu ý Lu 9:31 trong đó chữ qua đời là cuộc ra đi trong tiếng Hy-lạp).
Trong bài ca của họ, các thánh đồ trong Cơn Đại Nạn ca ngợi công việc của Đức Chúa Trời cũng như đường lối của Ngài. Chắc chắn cư dân trên đất sẽ không ngợi khen Đức Chúa Trời về những công việc Ngài đã làm, và họ chẳng bao giờ hiểu được đường lối của Ngài. Công việc của Đức Chúa Trời là lớn lao và lạ lùng, đường lối Ngài là công bình và chân thật.
Ở đây không có lời phàn nàn nào về đường lối Đức Chúa Trời cho phép những người này chịu khổ! Ngày nay chúng ta sẽ bớt đi nhiều nỗi phiền muộn nếu nhận biết Đức Chúa Trời tể trị cũng giống như vậy! “Đức Giê-hô-va là công bình trong mọi đường Ngài, hay làm ơn trong mọi công việc Ngài” (Thi 145:17).
Cụm từ “Vua của các thánh” còn có thể đọc là “vua của các đời”. Đức Chúa Trời là Vua đời đời, nhưng Ngài còn làm chủ lịch sử. Chẳng có điều gì xảy ra do tình cờ cả. Ca đoàn tìm cách làm vinh hiển Đức Chúa Trời và tôn cao danh Ngài, bằng chính lời ngợi ca thiên sứ đầu tiên rao báo trong Kh 14:7. Lai lịch của bài ca này có thể tìm thấy trong Thi 86:9 Thi 90:1-2 Thi 92:5 Thi 98:2 Thi 111:9 Thi 145:17.
Kh 15:4 là lời báo trước khác về vương quốc, cho biết thời gian tất cả các nước thờ lạy Chiên Con và vâng theo Ngài. Câu Kinh Thánh này còn thông báo rằng Đức Chúa Trời sắp giáng cơn đoán phạt.
4. Tiếng ứng nghiệm lời Kinh Thánh (Kh 15:5-16:21)
(Kh 15:1-21) “Tiếng Lớn” ra từ đền thờ truyền lệnh bảy thiên sứ trút các bát thạnh nộ (Kh 16:1), sau đó người thông báo “Xong rồi! ” (Kh 16:17). “Sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời” sẽ nên trọn! (Kh 10:7). Các thánh được vinh hiển đã hỏi, “Cho đến chừng nào?” (Kh 6:9-11), và bây giờ tiếng kêu khóc của họ được trả lời.
Bảy thiên sứ ra từ đền thờ trên trời (Kh 11:19), vì công việc của họ là thánh. Y phục của các thiên sứ nhắc chúng ta nhớ đến áo xống của thầy tế lễ, vì họ đang thi hành chức vụ thiên thượng. Khi làm lễ cung hiến đền tạm và đền thờ trong Cựu Ước, các toà nhà được xây dựng trên đất này đầy dẫy vinh quang của Đức Chúa Trời (Xu 40:34-35 IISu 7:1-4) nhưng giờ đây đền thờ trên trời đầy khói (Es 6:4 Exe 10:4) Khói này cũng là bằng chứng về sự vinh hiển và quyền năng của Đức Chúa Trời.
Mỗi thiên sứ đều có “mục tiêu” cụ thể để trút bát thạnh nộ. Cư dân trên đất đã chịu đau đớn qua các ấn và tiếng kèn đoán phạt, nhưng chuỗi đoán phạt này là cao điểm trong chương trình của Đức Chúa Trời, dẫn đến sự sụp đổ của Ba-by-lôn và sự tái lâm của Chúa Giê-xu Christ.
• Ung Nhọt đau đớn (Kh 16:2).
Bát thạnh nộ này nhắc chúng ta nhớ đến tai vạ thứ sáu tại Ai-cập (Xu 9:8-12 Phu 28:27,35). Chỉ những người thừa nhận “con thú” và những ai từ chối không nghe lời khuyến cáo của thiên sứ thứ nhất mới trải qua cơn đoán phạt này (Kh 14:6-7).
Các câu 10-11 cho thấy những ung nhọt này không biến mất vì đến thời điểm trút bát thạnh nộ thứ năm, con người vẫn còn ở trong sự đau đớn của bát thạnh nộ thứ nhất. Tuy nhiên sự đau đớn không làm cho họ ăn năn (Kh 9:20-21). William R.Newell đã từng nói, “Nếu con người không được ân điển chinh phục, họ sẽ chẳng bao giờ được chinh phục.”
Thật là một ý nghĩ đáng sợ khi thấy hầu như toàn bộ dân số thế giới đang chịu cơn bệnh hành hạ mà không có thuốc gì chữa khỏi. Cơn đau dai dẳng ảnh hưởng đến tâm tính con người khiến họ thấy khó lòng tử tế với người khác. Quan hệ giữa người và người suốt thời gian ấy chắc chắn sẽ tồi tệ không cùng.
• Biển Biến Ra Huyết (Kh 16:3-6).
Bát thạnh nộ thứ hai và thứ ba tương ứng với tai vạ thứ nhất tại Ai-cập (Xu 7:14-25). Bát thạnh nộ thứ nhì tập trung trên biển, và bát thạnh nộ thứ ba biến các nguồn nước trong đất liền (các sông suối) ra huyết. Lúc tiếng kèn đoán phạt thứ hai xảy ra, một phần ba biển biến ra huyết nhưng trong cơn đoán phạt này, toàn bộ hệ thống các biển cả và đại dương đều bị ô nhiễm. Tiếng kèn đoán phạt thứ ba khiến một phần ba các nguồn nước trong đất liền đắng như ngải cứu nhưng bát thạnh nộ thứ ba sẽ biến toàn bộ những nguồn nước đắng ấy ra huyết.
Trên trời thừa nhận cơn đoán phạt khủng khiếp này là đúng: cư dân trên đất đã làm đổ huyết con dân Đức Chúa Trời, do đó quả là điều xứng đáng khi họ phải uống huyết. Trong sự cai trị của Đức Chúa Trời, hình phạt phù hợp với tội ác.
Pha-ra-ôn tìm cách giết chết các bé trai Do-thái, nhưng rồi đội quân của vua bị dìm chết trong Biển Đỏ. Ha-man lập mưu kế treo Mạc-đô-chê trên cây mộc hình và diệt chủng dân Do-thái nhưng chính người lại bị treo trên cây mộc hình và toàn gia đình người bị tru di (Exo 7:10 Exo 9:10). Vua Sau-lơ không chịu nghe theo lời dạy Đức Chúa Trời giết hết người A-ma-léc, vì vậy vua bị một người A-ma-léc giết hại (IISa 1:1-16).
• Mặt Trời Nóng Lên Gấp Bội Lần (Kh 16:8-9).
Tất cả sự sống trên đất tuỳ thuộc vào ánh sáng của mặt trời. Trong các cơn đoán phạt trước, một phần mặt trời bị tối đi (Kh 8:12), nhưng bây giờ sức nóng của mặt trời gia tăng bội phần. Bất kỳ ai đã từng đến sa mạc đều biết sức nóng của mặt trời khủng khiếp như thế nào. Cũng hãy nhớ rằng các nguồn nước bây giờ không còn dùng được, bạn có thể tưởng tượng ra con người bị đau đớn vì khát như thế nào. Than ôi, ngay cả cơn đoán phạt như thế này cũng không làm cho con người quì gối ăn năn! (Mat 4:1).
• Sự Tối Tăm (Kh 16:10-11).
Đây không phải là sự tối tăm toàn cầu chỉ có “con thú”, ngôi và nước của nó chịu ảnh hưởng mà thôi. Điều này nhắc chúng ta nhớ đến tiếng kèn đoán phạt thứ năm (Kh 9:2) và tai vạ thứ chín (Xu 10:21-23). Ngôi “con thú” ở đâu? Hình tượng của nó ở trong đền thờ Giê-ru-sa-lem, vì vậy đó có thể là trung tâm hoạt động của nó. Hoạc có thể nó đang cai trị từ Rô-ma, cộng tác với giáo hội bội đạo đặt trụ sở tại đó.
Khi Đức Chúa Trời sai tai vạ thứ chín đến trên xứ Ai-cập, toàn bộ đất đều tối tăm, trừ khu vực Gô-sen nơi dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ. Bát thạnh nộ thứ năm hoàn toàn ngược lại: cả thế gian có ánh sáng nhưng tối tăm ngự trị tại tổng hành dinh của “con thú”! Chắc chắn đây là một đòn nặng nề giáng trên “hình tượng” của nó khắp đất.
• Sông Ơ-Phơ-Rát Bị Cạn Khô (Kh 16:12-16).
Con sông nổi tiếng này được đề cập trước đây trong sách Khải huyền, khi tiếng kèn đoán phạt thứ năm vang lên (Kh 9:13) và các thiên sứ bị xiềng tại đó được thả ra. Vào lúc ấy, một đội kỵ binh thuộc về ma quỉ cũng được thả ra. Bây giờ, đội quân từ các nước trên thế giới tập trung lại để tham chiến trận đánh lớn tại Hạt-ma-ghê-đôn. Con sông khô cạn làm cho đội quân “các vua phuơng Đông” có thể tiến vào xứ Palestine đánh chiếm Xứ Thánh.
Chúng ta thường nói về “trận đánh Hạt-ma-ghê-đôn”, nhưng trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói đến cụm từ này. Vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, khi Đại Tướng Douglas MacArthur giám sát việc ký kết hiệp ước hoà bình với Nhật Bản, ông nói, “Chúng ta có cơ hội cuối cùng. Nếu chúng ta không nghĩ ra điều gì đó lớn lao và công bằng hơn chiến tranh, trận chiến Hạt-ma-ghê-đôn sẽ chờ chúng ta ở trước cửa.”
Tên gọi Hạt-ma-ghê-đôn xuất xứ từ hai chữ Hê-bơ-rơ, har Megiddo, đồi Megiddo. Chữ Megiddo có nghĩa “nơi đóng quân” hoặc “nơi giết chóc”. Nó còn được gọi là Đồng Bằng Esdraelon và Thung Lũng Jezreel. Khu vực này rộng khoảng mười bốn dặm (22,4 km) và dài hai mươi dặm (32 km), nó có hình dạng được Napoleon gọi là “bãi chiến trường tự nhiên nhất trên toàn thế giới”. Đứng trên Núi Cạt-mên nhìn bao quát đồng bằng rộng lớn ấy, bạn có thể hiểu rõ tại sao nơi đây được dùng để tập kết quân đội các nước.
Ba-rác đã đánh bại các đội quân Ca-na-an trên đồng bằng này (Cac 5:19). Ghê-đê-ôn đối đầu với quân Ma-đi-an tại đó (Cac 7:1-25) và vua Sau-lơ đã mất mạng sống tại nơi này (ISa 31:1-13). Titus và quân đội La-mã đã dùng hành lang tự nhiên này, đội quân Thập Tự Chinh thời Trung cổ cũng vậy. Đại Tướng Anh Quốc Allenby dùng đồng bằng này khi ông đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ năm 1917.
Theo quan điểm con người, dường như đạo quân các nước tập trung tại đây theo ý của họ nhưng Giăng cho biết rõ việc di chuyển quân là do chương trình của Đức Chúa Trời. Bộ ba sa-tan, nhờ quyền lực của quỉ vương sẽ ảnh hưởng đến các nước và khiến các nhà lãnh đạo tập hợp quân đội của mình. Thậm chí chúng sẽ làm những dấu lạ tác động đến các nhà lãnh đạo khiến họ cộng tác với chúng. Nhưng tất cả những điều này chỉ làm ứng nghiệm ý chỉ của Đức Chúa Trời và hoàn tất chương trình của Ngài (Kh 17:17). Các nước ngoại bang sẽ cho rằng Hạt-ma-ghê-đôn là trận chiến, nhưng đối với Đức Chúa Trời, đó chỉ là “bữa ăn” cho chim trời (Kh 19:17-21).
Xa 12:1-14 và Xa 14:1-21 mô tả biến cố này theo quan điểm của dân Y-sơ-ra-ên. Vì “con thú” đã lập hình tượng của nó trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, và vì có nhiều người Do-thái không quì lạy nó, cho nên đương nhiên Thành Thánh là mục tiêu tấn công. Tuy nhiên, không chỉ người Do-thái có liên can vì Đức Chúa Trời cũng có chương trình cho các nước ngoại bang nữa. Gio 3:9-21 tương ứng với đều tiên tri Xa-cha-ri đề cập, câu 19 cho biết rõ Đức Chúa Trời sẽ hình phạt dân ngoại bang như cách họ đã đối đãi dân Do-thái. (So 3:8 Es 24:1-23).
Kết cuộc của “trận chiến” được ghi lại trong Kh 19:1-21 Chúa sẽ trở lại và đánh bại mọi kẻ thù của Ngài. Hẳn nhiên, việc các đội quân tập trung lại và hành quân không gây rắc rối gì cho Đức Chúa Trời Toàn Năng. Khi các nước nổi giận và chống nghịch Ngài, “Đấng ngự trên trời sẽ cười, Chúa sẽ nhạo báng chúng nó. Bấy giờ Ngài sẽ nổi thạnh nộ phán cùng chúng nó, dùng cơn giận dữ mình khuấy khỏa chúng nó” (Thi 2:4-5).
“Xong Rồi! ” (Kh 16:17-21).
Ma quỷ là “vua cầm quyền chốn không trung”, vì vậy có thể bát thạnh nộ thứ bảy này có ảnh hưởng đặc biệt trên nơi ở của nó (Eph 2:2). Nhưng hậu quả gần nhất là cơn động đất dữ dội ảnh hưởng đến thành phố của các nước. Đức Chúa Trời sắp sửa phán xét toàn bộ hệ thống thống trị của Sa-tan: hệ thống tôn giáo (dâm phụ, Kh 17:1-18), hệ thống kinh tế chính trị (Ba-by-lôn, Kh 18:1-24), và hệ thống quân đội (các đạo quân, Kh 19:1-21).
“Thành phố lớn” (Kh 16:19) có thể là Giê-ru-sa-lem (Kh 11:8). Tiên tri Xa-cha-ri báo trước cơn động đất sẽ làm thay đổi địa hình của thành Giê-ru-sa-lem (Xa 14:4). Nhưng ý tưởng quan trọng ở đây đó là Ba-by-lôn sẽ bị sụp đổ (Gie 50:1-51:64). Hệ thống kinh tế khổng lồ của “con thú” chinh phục con người trên thế giới sẽ hoàn toàn bị Đức Chúa Trời phá huỷ.
Thêm vào cơn động đất là mưa đá với những khối đá lớn (Một ta-lâng bạc cân nặng khoảng 125 cân Anh! ). Cơn đoán phạt này gợi lại tai vạ thứ bảy tại Ai-cập (Xu 9:22-26). Giống như Pha-ra-ôn và quần thần tại Ai-cập không ăn năn, cư dân trên đất cũng sẽ không hối cải kỳ thực, họ còn nói phạm đến Đức Chúa Trời nữa! Chẳng có gì lạ khi mưa đá xảy đến, vì những người nói phạm thượng đều bị ném đá cho đến chết (Le 24:16).
Ôn lại ba chương này, chúng ta thấy được lời Chúa an ủi các con cái Ngài trải qua đau đớn khổ nạn. Số người 144.000 được đóng ấn sẽ đứng trên núi Si-ôn ngợi khen Đức Chúa Trời (Kh 14:1-5). Các thánh tử đạo cũng ngợi khen Đức Chúa Trời trong sự vinh hiển (Kh 15:1-4). Sứ điệp của Giăng thật rõ ràng: Chiến thắng “con thú” và trở thành người chiến thắng là điều có thể làm được!
Các hoạt động chuyển quân, các liên minh quốc gia, và sự chống đối Đức Chúa Trời trên toàn thế giới không thể nào ngăn trở Ngài làm ứng nghiệm Lời Ngài và thực hiện chương trình của Ngài. Loài người nghĩ rằng họ tự do làm điều mình thích, nhưng trong thực tế, họ đang hoàn tất chương trình và mục đích của Đức Chúa Trời!
Mọi thế hệ Cơ-đốc nhân đều có thể nhận ra các biến cố trong Kh 14:1-16:21. Lúc nào cũng có “con thú” hà hiếp con dân Đức Chúa Trời và tiên tri giả tìm cách dẫn họ đi sai lạc. Chúng ta luôn ở kề trận chiến “Hạt-ma-ghê-đôn” khi các nước tiến hành chiến tranh.
Nhưng trong ngày cuối cùng, các biến cố này sẽ tăng nhanh và các lời tiên tri trong Kinh Thánh cuối cùng sẽ ứng nghiệm. Tôi tin rằng Hội thánh sẽ không có mặt vào lúc ấy, nhưng cả tín hữu Do-thái và ngoại bang sẽ sống trong thời gian ấy, họ sẽ chịu ách cai trị của Kẻ Chống Lại Đấng Christ.
Lời khuyên trong Kh 16:15 áp dụng cho tất cả chúng ta: “Kìa, Ta (Chúa Giê-xu) đến như kẻ trộm. Phước cho kẻ tỉnh thức và giữ gìn áo xống mình, đặng khỏi đi lõa lồ, và người ta không thấy sự xấu hổ mình! ”. Chúa Giê-xu Christ có thể tái lâm bất cứ lúc nào, và chúng ta có bổn phận phải giữ đời sống cho thánh sạch, chúng ta phải tỉnh thức và trung tín với Chúa.
10. CẢNH HOANG TÀN VÀ SỰ HỦY DIỆT (Kh 17:1-18:24)
Khởi đầu Kh 17:1-18, sứ đồ Giăng mô tả chiến thắng từng bước của Chiên Con trên “con thú” và vương quốc của nó. Trong chương 17, Đức Chúa Trời đoán xét hệ thống tôn giáo qua chương 18, hệ thống kinh tế chính trị bị chinh phục. Cuối cùng, Chính Chúa trở lại thế gian phán xét Sa-tan, “con thú”, và tiên tri giả (Kh 19:19-20) và sau đó lập Nước của Ngài.
Một lý do sứ đồ Giăng dùng biểu tượng là để sứ điệp có thể an ủi tín hữu ở bất kỳ giai đoạn nào trong lịch sử Hội thánh. Hội thánh thật là một trinh nữ trong trắng (Kh 19:7-8 IICo 11:2), nhưng hệ thống tà giáo là “dâm phụ” đã chối bỏ lẽ thật và bán mình vì lợi cá nhân. Trong mọi thời đại, đều có “dâm phụ” bắt bớ con dân Đức Chúa Trời điều này cuối cùng dẫn đến hệ thống tà giáo trong ngày sau rốt.
Cũng vậy, mọi thời đại đều có hình ảnh “Ba-by-lôn”, hệ thống kinh tế chính trị luôn tìm cách kiểm soát tâm tư và vận mệnh con người. Đối nghịch với “dâm phụ” là người vợ trinh nguyên, cũng vậy ngược lại với “Ba-by-lôn” là Thành phố của Đức Chúa Trời, Giê-ru-sa-lem mới, nhà đời đời được sắm sẵn cho vợ Chiên Con (Kh 21:9). Mỗi thế hệ con cái Chúa phải tự giữ mình thánh sạch không bị ô nhiễm bởi “dâm phụ” và “Ba-by-lôn”.
Trong hai chương này, Giăng cho biết trước hai cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời.
1. Con dâm phụ bị huỷ diệt (Kh 17:1-18)
Quang cảnh bắt đầu bằng một lời mời (Kh 17:1-2). Một trong những thiên sứ yêu cầu Giăng đến xem những gì Đức Chúa Trời sẽ làm trên hệ thống tôn giáo toàn cầu của “con thú”. Trong chương này, bốn lần người đàn bà được gọi là “dâm phụ” (c.1,5,15-16) tội của nó được gọi là “tà dâm” (c.2,4). Ảnh hưởng tội lỗi của nó lan tràn khắp thế giới, thậm chí còn với đến những nơi cao (“các vua trong thiên hạ”).
Theo sau lời mời, Giăng được “Thánh Linh cảm động”, thiên sứ đưa ông vào đồng vắng.Tại đó, ông thấy “dâm phụ” và viết xuống lời mô tả những gì ông chứng kiến (c.3-6). Sa 2:18-25 nói về người nữ trinh nguyên trong vườn phước hựu nhưng cuối Kinh Thánh, nền văn minh suy đồi đến mức chỉ còn dâm phụ ô uế trong đồng vắng! Đó là những gì tôi lỗi làm ra cho thế giới.
• Lời mô tả thật đầy đủ.
Người đàn bà mặc áo đắt tiền, trang sức bằng vàng và đá quý. Nó cầm trong tay chén bằng vàng và say huyết các thánh. Trên trán nó có ghi một tên đặc biệt (Kh 13:16 Kh 14:1).
Bộ dạng của nó thật quan trọng. Nó ngồi trên “các dòng nước lớn kia” (Kh 17:1), và ngồi trên một con thú đỏ tươi có bảy đầu mười sừng. Giăng “vô cùng kinh ngạc”là điều chẳng có gì lạ khi ông nhìn thấy người đàn bà và “con thú”.
Nhưng tất cả những điều này có nghĩa gì? Thật cảm tạ Chúa, thiên sứ cho Giăng (và tất cả con cái Chúa) lời giải thích về các biểu tượng này (c.7,18).
Chúng ta hãy bắt đầu với người đàn bà. C.18 cho biết rõ nó giống hệt thành phố hiện hữu trong thời của Giăng (“hành quyền” ở thì hiện tại đơn). Thành phố này giàu có và đầy quyền lực, nhưng còn thờ hình tượng (“nói phạm thượng”) và nguy hiểm nữa. Đầu tiên, nó làm cho các nước nhiễm những đồ gớm ghiếc và dâm uế (được minh hoạ bằng hình ảnh chén rượu bằng vàng) thứ đến, nó bắt bớ những người thuộc về Chúa (c.6). Quyền lực, giàu có, ô uế, bắt bớ: những chữ này tóm tắt các bản chất của “con đại dâm phụ” trên phạm vi toàn thế giới.
Tên gọi của người đàn bà cũng bao hàm “sự mầu nhiệm” (c.5). Trong Tân-ước, “sự mầu nhiệm” là chân lý giấu kín chỉ có những người được Thánh Linh soi sáng mới có thể hiểu được. Để hiểu một trong những sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời cần phải có sự khôn ngoan và nhận biết thiêng liêng. Trong trường hợp này, sự mầu nhiệm có liên quan đến Ba-by-lôn.
• Thành Ba-by-lôn được Nim-rốt thành lập (Sa 10:8-11).
Tên Ba-bên có nghĩa “cổng của Đức Chúa Trời”. Mỉa mai thay, tháp Ba-bên nổi tiếng (Sa 11:1-9) là một mưu toan con người làm ra nhằm chối bỏ Đức Chúa Trời. Khi Chúa sai cơn đoán phạt giáng trên những người xây dựng tháp bằng cách làm lộn xộn tiếng nói của họ, lúc ấy chữ ba-bên có nghĩa là “sự lộn xộn”. Lịch sử những năm về sau, Ba-by-lôn trở thành đế quốc lớn trước khi bị mất vào tay nước Mê-đi Ba-tư. Nhưng từ khi bắt đầu thành phố Nim-rốt trong Sa 10:1-32, người ta cảm thấy “một ảnh hưởng Ba-by-lôn” ngấm ngầm chống lại Đức Chúa Trời trong suốt lịch sử.
Ngươi đàn bà là “con đại dâm phụ”, nhưng nó còn là “mẹ kẻ tà dâm”. Về cách này hay cách khác, hệ thống Ba-by-lôn đã sản sinh ra tất cả các tà giáo. Nó cũng dụ dỗ con người chống nghịch lại Đức Chúa Trời và bắt bớ tôi tớ Ngài.
• Bảy ngọn núi (Kh 17:9) có thể biểu tượng cho thành phố Rô-ma dược xây trên bảy ngọn đồi. Chắc chắn trong thời của Giăng, đế quốc Rô-ma đang sống trong xa hoa phù phiếm, tà giáo lan tràn, làm ô uế các nước bằng hình tượng và tội lỗi, và bắt bớ Hội thánh.
Độc giả của Giăng sẽ không ngạc nhiên khi ông dùng hình ảnh dâm phụ đáng gớm ghiếc để biểu tượng cho thành phố gian ác hoặc môt hệ thống chính trị. Thậm chí Đức Chúa Trời còn gọi Giê-ru-sa-lem là dâm phụ! (Es 1:21). Ê-sai nói rằng Ty-rơ là người đàn bà tà dâm (Es 23:16-17), và Na-hum dùng cùng tên gọi như vậy để mô tả thành Ni-ni-ve (Na 3:4). (Gie 50:1-51:64 để có thêm những điểm tương ứng trong lịch sử với sứ điệp tiên tri của Giăng).
Như chúng ta biết từ trước, màu đỏ là màu của Sa-tan (Kh 12:3) và của tội lỗi (Es 1:18). Màu đỏ là màu phổ biến tại Rô-ma, cả màu đỏ tươi lẫn đỏ tía đều có liên quan đến giai cấp và sự giàu có.
Nhưng người đàn bà không được phân rẽ khỏi “con thú” chở nó. “Con thú” có bảy đầu và mười sừng. Bảy đầu biểu tượng cho bảy núi (Kh 17:9) và cũng là bảy vua hoặc bảy nước (Kh 17:10), phù hợp với ảnh tượng trong Cựu-ước (Thi 30:7 Da 2:35). Tôi đã gợi ý bảy ngọn núi có thể hiểu là bảy ngọn đồi của thành phố Rô-ma về địa lý, nhưng chúng còn có thể hiểu là bảy nước về lịch sử.
Theo Kh 17:10 năm trong số những vị vua này (hoặc các nước) đã biến mất, một đã hiện diện trong thời của Giăng và một chưa đến. Nếu đúng vậy, năm nước đã qua sẽ là Ai-cập, A-si-ri, Ba-by-lôn, Ba-tư, và Hy-lạp. Nước hiện tại là Rô-ma, và nước trong tương lai là nước của “con thú”. Để hiểu được cc. 10 -11, chúng ta nên nghiên cứu câu 12.
“Con thú” không những có bảy đầu, nó còn có mười sừng, tiêu biểu cho mười vua. Nhưng đây là những vua rất đặc biệt: chúng giúp “con thú” có thể nắm quyền và sẵn lòng thuận phục quyền cai trị của con thú. Hãy nhớ lại lúc mở ấn thứ nhất (Kh 6:1-2), Kẻ chống lại Đấng Christ bắt đầu chinh phục các nước “trong hoà bình”. Nó lập ra “Hiệp chủng quốc Châu Âu”, mang hoà bình lại cho vùng Trung Đông, và tỏ ra là nhà lãnh đạo đại tài mà thế giới đầy biến động đang tìm kiếm.
Nhưng vào giữa thời gian bảy năm, nhà cai trị này phá bỏ giao ước với Y-sơ-ra-ên (Da 9:27) và bắt đầu bắt bớ con dân Đức Chúa Trời cũng như dân tộc Y-sơ-ra-ên. Được Sa-tan tiếp sức mạnh và tiên tri giả trợ giúp, “con thú” trở thành nhà độc tài và thần tượng của thế giới. Về phương diện này, “con thú” vừa là “một trong bảy (vua, nước)” nhưng nó còn là “vua thứ tám”. Vương quốc của nó không gì khác hơn là đế quốc Rô-ma hồi sinh (“một trong bảy”), nhưng đó là nước mới (“thứ tám”).
Nhưng tất cả những điều này có liên hệ đến Ba-by-lôn như thế nào? “Hệ thống Ba-by-lôn” về tà giáo là một bộ phận trong lịch sử từ khi Nim-rốt lập lên đế quốc của mình. Các học giả khám phá ra rằng nó giống đức tin thật trong Cơ-đốc giáo cách kỳ lạ! Than ôi, đó là điều Sa-tan giả mạo lẽ thật của Đức Chúa Trời.Người dân thành Ba-by-lôn tiến hành thờ lạy người mẹ và đứa con, thậm chí họ còn tin vào sự chết và sống lại của đứa con.
Độc giả thời của Giăng coi “dâm phụ” giống như Đế quốc Rô-ma. Bạn đọc thời Trung Cổ có thể xem nó ngang bằng với hàng ngũ giáo phẩm tại Rô-ma. Ngày nay, một số tín hữu thấy “dâm phụ” và hệ thống Ba-by-lôn trong “giáo hội trần tục” bội đạo coi thường giáo lý, chối bỏ uy quyền của Thánh Kinh, và ra sức tập hợp những người tự xưng là tín hữu dựa trên nền tảng nào đó chớ không phải đức tin vào Chúa Giê-xu Christ.
Tuy nhiên, trong thời gian lời tiên tri Giăng viết ứng nghiệm, một điều kỳ lạ xảy ra: “dâm phụ” sẽ bị chính hệ thống đã chở nàng giết chết! Thật quan trọng khi biết rằng “con thú” chở “dâm phụ”. Sa-tan (và Kẻ chống lại Đấng Christ) sẽ dùng hệ thống bội đạo để hoàn thành mục đích của nó (tức là giành quyền thống lĩnh thế giới) nhưng vào lúc ấy nó sẽ bỏ “dâm phụ” và lập hệ thống tôn giáo riêng của nó. Tất cả điều này sẽ ứng nghiệm Lời Đức Chúa Trời phán! (Kh 17:17).
Vì “con thú” đã lập hình tượng nó trong đền thờ khoảng giữa thời kỳ Đại Nạn, nên chúng ta có thể thừa nhận rằng “dâm phụ” và “con thú” bắt tay với nhau trong ba năm rưỡi đầu tiên của Kỳ Đại Nạn. Điều này được khẳng định bởi sự kiện mười vua giúp nó giết “dâm phụ” (Kh 17:16). Đây là mười vua đã cộng tác với “con thú” khi nó thành lập “Hợp Chủng Quốc Châu Âu” trong thời gian đầu của kỳ Đại Nạn.
Suốt lịch sử, các hệ thống chính trị đã “dùng” tôn giáo để mở rộng sự nghiệp chính trị của mình. Đồng thời, lịch sử Hội thánh cho thấy các nhóm tôn giáo đã cậy chính trị để đạt mục đích cho mình. Hôn nhân giữa giáo hội và nhà nước là cuộc chung sống không hạnh phúc, và thường sản sinh ra những đứa con gây nên nhiều rắc rối nghiêm trọng. Lúc các nhà độc tài tỏ ra thân thiện với tôn giáo, thường thường là dấu hiệu chúng muốn lợi dụng ảnh hưởng của tôn giáo và rồi phá diệt đi. Hội thánh của Chúa Giê-xu Christ có ảnh hưởng nhiều nhất trên thế giới khi còn biệt riêng ra với thế giới này.
Hãy so sánh lời mô tả về sự tàn hại của “dâm phụ” với cái chết của Giê-sa-bên (IIVua 9:30-37).
Cuối cùng, hãy lưu ý rằng những ai tin cậy Chúa sẽ không bị “dâm phụ” ảnh hưởng hoặc bị các vua đánh bại (Kh 17:14). Một lần nữa, Giăng chỉ ra rằng con cái trung tín với Chúa là những người “chiến thắng”.
Tôn giáo giả mạo của Sa-tan thật tinh vi, đòi hỏi chúng ta có sự hiểu biết thuộc linh mới nhận ra. Đó là nỗi lo lắng lớn của Phao-lô cho các Hội thánh địa phương ông đã thành lập không bị cám dỗ từ bỏ lòng kính sợ Đấng Christ (IICo 11:1-4). Trong mọi thời đại con người thường bị áp lực thích nghi với “tôn giáo phổ biến” và bỏ các nền tảng của đức tin. Trong những ngày cuối cùng, tất cả chúng ta cần phải lắng nghe lời chỉ dạy trong ITi 4:1-16 và IITi 3:1-17 để giữ lòng trung tín với Chúa.
2. Ba-by-lôn bị phá hủy (Kh 18:1-24)
Ba-by-lôn không những là thành phố cổ và đế quốc hùng mạnh, nhưng còn là biểu tượng nói đến sự nổi loạn của con người chống lại Đức Chúa Trời.
Trong Kh 18:1-24, Ba-by-lôn tiêu biểu cho hệ thống thế giới của “con thú”, nhất là về các lãnh vực kinh tế chính trị. Đồng thời, Giăng gọi Ba-by-lôn là “thành phố” ít nhất tám lần (Kh 14:8 Kh 17:18 Kh 18:10,16,18-21). Lời tiên tri trong Cựu-ước dường như nói rõ rằng bản thân thành phố không được xây dựng lại (Es 13:19-22 Gie 51:24-26,61-64).
Một số người xem Ba-by-lôn tương đương với Rô-ma, nhất là từ khi “dâm phụ” và con thú” cộng tác với nhau suốt thời kỳ đầu của Cơn Đại Nạn. Có lẽ sứ đồ Phi-e-rơ dùng Ba-by-lôn làm “mật mã” cho thành phố Rô-ma khi người viết thơ tín thứ nhất (IPhi 5:13). Chắc chắn, độc giả của Giăng sẽ nghĩ về Đế quốc Rô-ma khi họ đọc những lời này viết về Ba-by-lôn.
Giăng nghe bốn tiếng loan báo bốn tin quan trọng.
• Tiếng Kêu Lên Án (Kh 18:1-3).
Lời thông báo này được báo trước trong Kh 14:8 (một số nhà giải kinh cũng bao gồm Kh 16:19, nhưng tôi đã hiểu “thành phố lớn” trong văn mạch ấy là Giê-ru-sa-lem). Ở đây có sự ám chỉ chắc chắn đến Gie 51:1-52:34, trong đó tiên tri thấy Ba-by-lôn lịch sử sụp đổ. Nhưng ở đây Giăng thấy Ba-by-lôn thiêng liêng, hệ thống thế giới do “con thú” tổ chức, sụp đổ.
Đó không phải là vị thiên sứ bình thường loan tin này, vì người có uy quyền mạnh mẽ và vinh hiển của người chiếu sáng khắp đất. Mặc dầu các mưu kế của Sa-tan và sự phản nghịch của con người gian ác, nhưng “sự nhận biết vinh quang Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất” (Ha 2:14).
Cụm từ “đã đổ rồi! đã đổ rồi! ” không chỉ gia thêm tác dụng cho lời thông báo, nhưng còn cho thấy cơn đoán phạt gấp đôi: trên giới tăng lữ Ba-by-lôn, “dâm phụ”trong Kh 17:1-18 và nền chính trị Ba-by-lôn trong Kh 18:1-24. Ý tưởng này được phóng đại trong câu 6 khi Đức Chúa Trời phán rằng Ba-by-lôn sẽ chịu hình phạt “gấp đôi” vì vô số tội lỗi của mình.
Hội thánh, vợ Chiên Con, là nơi Đức Chúa Trời ngự (Eph 2:22) mặt khác, Ba-by-lôn là nơi ở của quỉ Sa-tan (Kh 18:2). Điều này tương ứng với sự đoán phạt trên Ba-by-lôn cổ (Es 13:21 Gie 51:37). Hơn nữa, Giăng gọi thành phố là “hang hố của mọi giống chim dơ dáy” (Kh 18:2). Trong thí dụ về Người Gieo Giống của Đấng Christ, Ngài cũng dùng loài chim làm hình ảnh nói về Sa-tan (Mat 13:31-32).
Cơn đoán phạt này đã xảy ra vì “hệ thống” Ba-by-lôn đã làm băng hoại toàn thế giới.Như trong cơn đoán phạt “dâm phụ”, tội lỗi Đức Chúa Trời đoán phạt là “tà dâm”hoặc thờ hình tượng. Hệ thống này đã đầu độc con người trên thế giới bằng mọi thứ giàu sang phú quí và thú vui mà con người thèm muốn.
Cơ-đốc nhân ở mọi thời đại phải lắng nghe lời khuyên bảo trong IGi 2:15-17. Chúng ta dễ dàng bị lôi cuốn bởi những điều thế gian cung phụng. Giống như một người nhắp một hớp rượu, chẳng bao lâu chúng ta thấy mình uống nhiều và rồi cứ muốn uống nhiều hơn. Hệ thống thế giới chống lại Đấng Christ luôn luôn ở bên chúng ta, và chúng ta phải cảnh giác với ảnh hưởng tinh vi của nó.
Hệ thống thế giới thỏa mãn những thèm khát của cư dân trên đất theo “con thú” và chối bỏ Chiên Con. Những đều thuộc về thế gian không bao giờ thỏa mãn và kéo dài mãi. Sự yêu thích vui chơi và sở hữu của cải chỉ là hình thức thờ hình tượng không thấy được, có gốc rễ từ ma quỉ và kết quả là sự tàn hại.
• Tiếng Kêu Gọi Phân Rẽ (Kh 18:4-8).
Lời khuyên này tương ứng với Gie 50:8 Gie 51:6,45. Ở mọi thời đại, con cái trung tín của Đức Chúa Trời phải tự biệt riêng mình ra khỏi những gì thuộc về thế gian và nghịch lại với Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham, Ngài ra lệnh ông từ giã quê hương mình (Sa 12:1). Đức Chúa Trời biệt riêng dân Do-thái ra khỏi Ai-cập và khuyến cáo dân Do-thái không được quay trở lại.
Hội thánh ngày nay được Đức Chúa Trời truyền lệnh phải phân rẽ khỏi những điều không tin kính (Ro 16:17-18 IICo 6:14-7:1).
Giăng đưa ra hai lý do khiến con dân Đức Chúa Trời tự biệt mình riêng ra khỏi thế giới gian ác.
-Đầu tiên họ có thể tránh khỏi ô uế, không trở nên “kẻ dự phần tội lỗi với nó” (Kh 18:4). “Cũng không nhúng vào tội lỗi kẻ khác” (ITi 5:22). Chữ này có nghĩa “tham gia làm thành viên hoặc cộng sự”. Trong Chúa có sự dự phần thiện lành vào công việc của anh em (Phi 4:14), nhưng cũng có sự cộng tác gian ác chúng ta phải tránh xa (Eph 5:11). Sự hiệp một thật sự trong Thánh Linh vẫn hiện diện giữa vòng con cái Chúa, nhưng chúng ta không được thỏa hiệp tham gia vào các lực lượng chống lại Đấng Christ.
-Lý do thứ hai, con dân Đức Chúa Trời có thể thoát khỏi những tai vạ khủng khiếp Ngài sẽ giáng xuống Ba-by-lôn. Đức Chúa Trời đã nhịn nhục chịu đựng sự gia tăng tội lỗi của hệ thống thế giới, nhưng bây giờ thì giờ giáng cơn thạnh nộ của Ngài đã đến. Ngài sẽ đối đãi Ba-by-lôn giống như nó đã đối xử con dân của Ngài.
Đức Chúa Trời sẽ đoán xét những tội lỗi cụ thể nào? Chúng ta đã biết ảnh hưởng tội lỗi của Ba-by-lôn trên các nước thế gian, nó dụ dỗ con người thờ hình tượng. Một tội khác sẽ bị đoán phạt đó là tội kiêu ngạo: “Nó càng khoe mình! ” (Kh 18:7). Nó tự thấy mình là nữ vương ngự trên ngôi cao và Đức Chúa Trời không bao giờ chấp nhận cho sự tin tưởng sai lầm và kiêu ngạo này. (Es 47:1-15 để xem sự tương ứng, nhất là c.7-9).
Tội lỗi thứ ba là sự chìm đắm xa hoa của Ba-by-lôn. “Sống thỏa thích” là sống cao ngạo trong xa hoa trong khi những người khác không có gì (Kh 18:7). Điều đó có nghĩa lấy việc sở hữu vật chất và thú vui làm những điều quan trọng nhất trong đời sống, và không đoái hoài đến nhu cầu của người khác. Giăng tóm tắt thái độ này là “sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt và sự kiêu ngạo của đời” (IGi 2:16).
Con dân Đức Chúa Trời không được trễ nải biệt riêng mình ra khỏi thế giới tội ác này, vì sự đoán phạt của Đức Chúa Trời sẽ đến thình lình và Ba-by-lôn sẽ bị tiêu diệt trong một ngày. Thỉnh thoảng các cơn đoán phạt diễn ra cách yên lặng “như con mối mọt” (Os 5:12), nhưng vào những thời gian khác các cơn đoán phạt ấy “như là sư tử” (Os 5:14) đổ xuống thình lình, chẳng có ai thoát khỏi được.Trong một ngày, toàn bộ đế quốc kinh tế sẽ bị sụp đổ! Nhưng những ai là công dân trên trời sẽ vui mừng nhảy nhót lúc cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời xảy ra.
• Tiếng Thở Than (Kh 18:9-19).
Phân đoạn dài này mô tả tiếng than khóc của các nhà buôn khi họ thấy khói bay lên từ Ba-by-lôn và tất cả tài sản của họ bị phá hủy. Hình ảnh ở đây là hình ảnh của thành phố phồn thịnh cổ xưa mà nhiều tàu bè ra vào. Của cải của thành phố đã chu cấp cho nhiều nước và tạo công ăn việc làm cho nhiều người. Thật đáng chú ý không những các nhà buôn than khóc khi Ba-by-lôn sụp đổ (c.11), nhưng còn có các vua trên thế gian cũng than khóc nữa (c.9). Kinh doanh và chính quyền gắn bó với nhau đến nỗi điều gì ảnh hưởng trên cái này cũng ảnh hưởng trên cái kia.
Chắc chắn, thành phố Rô-ma là trung tâm mua bán và cai trị của thế giới trong thời của Giăng, và nó nổi tiếng vì sự phung phí và xa hoa. Về mặt chính trị và kinh tế, người dân trong Đế Quốc tuỳ thuộc vào thành phố Rô-ma. Ngày nay, với những mối liên kết phức tạp tồn tại giữa các chính phủ và các tập đoàn kinh doanh, với hệ thống mạng điện toán, việc “Ba-by-lôn” bị sụp đổ và hệ thống thế giới bị huỷ diệt thật chẳng tốn nhiều thời gian.
Chữ đã dịch là khóc lóc thở than (c.9) có nghĩa “khóc than lớn tiếng” trái với sụt sùi khóc thầm. Thực ra, cùng chữ này được dịch là khóc lóc trong câu 11. Hãy lưu ý các nhà buôn không cảm thấy xót xa vì thành phố, nhưng đau đớn vì chính mình: họ mất đi những bạn hàng quý! Đức Chúa Trời đã chấm dứt lối sống xa hoa và giàu có của họ. Ngay cả những người làm công cho họ cũng than khóc (c.17-18).
Giăng đưa ra một bản liệt kê các món hàng đem lại sự giàu có cho các vua, các nhà buôn cùng những chủ tàu thuyền này. Vàng, bạc, và đá quí dẫn đầu bản liệt kê. Sau đó ông mô tả những áo xống đắt tiền (c.16) và những món hàng làm bằng các nguyên liệu khác nhau. “Gỗ thơm” (c.12) được người dân Rô-ma đánh giá cao, họ dùng nó để trang trí tủ bàn và các tiện nghi nội thất cao cấp.
Vào thời đó người ta tìm mọi cách nhập khẩu đồ gia vị, cả để nêm thức ăn lẫn dùng làm thuốc thơm cho cá nhân. Thành phố Rô-ma phải lệ thuộc vào lương thực nhập khẩu, giống như nhiều quốc gia ngày nay. Thực ra, các thành phố lớn của chúng ta sẽ chết đói nếu như không có xe tải và tàu hoả mang sản phẩm và thịt tươi sống mỗi ngày.
Cuối bản liệt kê và khó chịu hơn hết là “tôi mọi và linh hồn người ta”, (c.13). Người ta đã ước tính rằng một phần ba dân số thành phố Rô-ma bị bắt làm nô lệ vì vậy chẳng có gì lạ trong một ngày có 10.000 người bị bán đấu giá tại các chợ nô lệ khổng lồ trong toàn Đế quốc. Có lẽ trong khắp đế quốc có trên năm mươi triệu nô lệ, những con người bị đối xử như những đồ dùng, người ta mua bán, sử dụng hoặc bỏ đi.
Vào ngày cuối cùng, Giăng có ý muốn nói sẽ có cảnh nô lệ trở lại chăng? Có thể không có như trong bối cảnh xưa cũ, nhưng chắc chắn chúng ta sẽ thấy thế giới ngày nay ngày càng mất tự do. Con người được các đội điền kinh “mua bán” (thậm chí còn đổi chác! ) và các tập đoàn lớn ngày càng tìm cách kiểm soát cuộc sống của công nhân viên làm cho họ. Khi con người càng trở thành nô lệ cho sự xa hoa, phải thanh toán nhiều hoá đơn hơn, họ tự thấy mình không thể thoát ra khỏi “hệ thống”.
Chỉ cần một chút tưởng tượng cũng thấy được cảnh nô lệ phổ quát dưới ách cai trị của “con thú”. Chúng ta đã thấy nó yêu cầu mọi người phải có dấu của nó mới mua bán được (Kh 13:16-17), và nó cũng đòi hỏi tất cả mọi người thờ lạy hình tượng “con thú”. Nó hứa sẽ có “tự do”, nhưng trói buộc con người vào ách nô lệ (IIPhi 2:19). Nó sẽ lợi dụng lòng tham muốn của con người (Kh 18:14) và dùng điều đó để trói chặt họ.
Có thể Giăng cũng nhớ trong trí mình Ê-xê-chi-ên chương 27, bài ca khóc than về thành Ty-rơ sụp đổ Khi đọc chương ấy, bạn sẽ tìm thấy nhiều điểm tương ứng.
• Tiếng Reo Mừng (Kh 18:20-24).
Trái với tiếng khóc than của các vua và các thương gia là tiếng reo mừng của các cư dân trên trời về việc Ba-by-lôn đã sụp đổ. Thật quan trọng làm sao khi con cái Đức Chúa Trời nhìn thấy các biến cố này theo quan điểm của Đức Chúa Trời. Thật ra, chúng ta được yêu cầu cất tiếng reo mừng khi Ba-by-lôn sụp đổ, vì trong cơn đoán phạt này Đức Chúa Trời sẽ bênh vực cho tôi tớ của Ngài những người bị giết hại (xem Kh 6:9-11).
Hãy lưu ý điệp khúc được lặp lại, “không còn nữa! ”. Giê-rêmi dùng cách tương tự khi ông báo trước cho dân Giu-đa về cơn đoán phạt bởi tay người Ba-by-lôn sắp xảy đến cho đất nước (Gie 25:8-10). Bây giờ cơn đoán phạt ấy lại xảy đến cho chính thành Ba-by-lôn! Lời mô tả về sự mất mát của Ba-by-lôn cho thấy những xa hoa lẫn những thứ cần thiết đều biến mất. Người ta sẽ không còn nghe thấy âm nhạc lẫn những người tấu nhạc, công việc lẫn những tiệc cưới sẽ chấm dứt cách hung bạo.
Chúng ta nên so sánh Kh 18:24 với Kh 17:6 và Mat 23:35. Sa-tan đã dùng tôn giáo và kinh doanh để bắt bớ và giết hại con dân Đức Chúa Trời. Suốt thời kỳ đầu của Cơn Đại Nạn, khi “con thú” nổi lên nắm quyền, giáo hội và kinh tế chính trị của Ba-by-lôn sẽ kết hiệp với nhau chống lại Chúa và con dân Ngài. Dường như Đức Chúa Trời không quan tâm nhưng đúng thời điểm, Chúa sẽ bênh vực con dân Ngài và phá diệt cả “dâm phụ” lẫn thành phố lớn. Đức Chúa Trời nhịn nhục với các kẻ thù của Ngài nhưng khi Ngài bắt đầu hành động, Ngài sẽ thi hành cách thình lình và triệt để.
Chúng ta không nên nghĩ rằng tiếng reo mừng này kêu gọi chúng ta vui mừng vì tội nhân bị đoán phạt. Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời trên loài người vô tín luôn làm cho lòng chúng ta tan vỡ đau đớn, vì biết rằng tội nhân hư mất bị hình phạt đời đời trong hỏa ngục. Nỗi vui mừng trong phần này tập trung vào sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời, sự phán xét Ngài đã thi hành. Thật dễ dàng cho các nhà nghiên cứu Kinh Thánh thanh thản bàn thảo những điều này tại nhà của mình. Nếu bạn và tôi có mặt với Giăng trên đảo Bát-mô, hoặc cùng ở với các thánh chịu đau khổ mà Giăng viết cho họ, có thể chúng ta có cái nhìn khác nhau. Chúng ta đừng bao giờ nên ấp ủ lòng căm thù cá nhân (Ro 12:17-21), nhưng chúng ta phải reo mừng về sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời.
Vào thời điểm trong bài nghiên cứu của chúng ta, hệ thống kinh tế chính trị của “con thú” cuối cùng đã bị phá huỷ. Tất cả những gì còn lại dành cho Chúa Giê-xu Christ từ trời trở lại đối mặt và đánh bại “con thú” và quân đội của nó. Ngài sẽ làm điều này, sau đó Ngài sẽ lập nước công bình của Ngài trên đất.
Nhưng câu hỏi quan trọng dành cho tôi và bạn là: “Chúng ta là công dân của ‘Ba-by-lôn hay là công dân của thiên đàng?”
Bạn có thể reo mừng vì tên của bạn được ghi trên trời không? Nếu không, đây là thời gian dành cho bạn để tin nhận Chúa Giê-xu Christ và ‘ra khỏi Ba-by-lôn’ để vào trong gia đình của Đức Chúa Trời.
11. VUA VÀ VƯƠNG QUỐC CỦA NGÀI (Kh 19:1-20:15)
“Mọi sự sẽ chung kết như thế nào?” là câu hỏi chính yếu loài người thắc mắc trải qua nhiều thế kỷ. Các sử gia đã nghiên cứu quá khứ, mong tìm ra một cách nào đó để hiểu được tương lai. Các triết gia đã ra sức tìm tòi ý nghĩa của sự vật, nhưng họ chưa tìm ra được chìa khoá. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi con người ở trong cảnh khủng hoảng đã tuyệt vọng quay sang đồng bóng và bói toán!
Lời tiên tri của Đức Chúa Trời chiếu sáng như “Ánh sáng trong nơi tối tăm “ (IIPhi 1:19), chúng ta có thể nương dựa vào lời ấy. Trong Kh 19:1-20:15, sứ đồ Giăng ghi lại năm biến cố quan trọng xảy ra trước khi Đức Chúa Trời “kết thúc” lịch sử con người và mở ra trời mới đất mới của Ngài.
1. Trên trời sẽ reo mừng (Kh 19:1-10)
Khi Ba-by-lôn sụp đổ, trên trời được lệnh, “Hãy vui mừng về việc nó đi! ” (Kh 18:20)và những gì chúng ta đọc trong phần này là sự hưởng ứng trên trời đối với mệnh lệnh ấy. Chữ alleuia là cách viết theo tiếng Hy-lạp của chữ hallelujah theo tiếng Hê-bơ-rơ, có nghĩa “ngợi khen Đức Chúa Trời”. Đây là “điệp khúc Hallelujah” trên thiên đàng và nó được hát lên vì ba lý do. Thứ nhất...
• Đức Chúa Trời Đã Đoán Phạt Kẻ Thù Của Ngài (Kh 19:1-4). Vì “con đại dâm phụ” trong Kh 17:1-18 đã bị “con thú” và những kẻ đồng cai trị với nó giết hại (Kh 17:16) vào giữa Cơn Đại Nạn, nên “người đàn bà tà dâm” đề cập ở đây phải là Ba-by-lôn Lớn. Đối chiếu Kh 17:2 với Kh 18:3,9 chúng ta thấy mối liên hệ thật rõ ràng. Cả hệ thống bội đạo và hệ thống kinh tế chính trị của ma quỉ đã đưa thế giới vào con đường sai lạc và làm ô uế loài người. Cả hai đều phạm tội bắt bớ con dân Đức Chúa Trời và giết hại nhiều người.
Bài hát nhấn mạnh đến các thuộc tính của Đức Chúa Trời, đây là cách tôn cao Ngài đúng đắn. Chúng ta không vui mừng vì tội lỗi của Ba-by-ôn, hoặc ngay cả sự cao trọng của Ba-by-lôn sụp đổ. Chúng ta vui mừng vì Đức Chúa Trời là “công bình và chân thật” (Kh 15:3 Kh 16:7 Kh 17:6) và Ngài được vinh hiển bởi các cơn đoán phạt thánh của Ngài. Như chúng ta khám phá trong Kh 8:1-6 Ngôi và bàn thờ Đức Chúa Trời có liên quan đến các cơn đoán phạt của Ngài. Chúng ta nên so sánh câu 3 với Kh 14:10-11 và đối chiếu câu 4 với Kh 5:6-10. Thứ hai,
• Đức Chuá Trời Đang Cầm Quyền Cai Trị (Kh 19:5-6). Bản dịch nguyên văn là, “Đức Giê-hô-va Toàn Năng đã bắt đầu cai trị”. Điều này không nói rằng ngôi trên trời đã bỏ trống hoặc không hoạt động, vì đó không phải là trường hợp nói đến. Sách Khải-huyền là “sách nói về ngôi”, Đức Chúa Trời quyền năng quả thật đang hoàn thành chương trình của Ngài trên đất. Bài ca dâng lên cho Chúa ở đây là tiếng vọng của Thi 97:1 - “Đức Giê-hô-va cai trị: đất hãy mừng rỡ! ”
Đức Chúa Trời đang ngồi trên ngôi cai trị tại trên trời, nhưng Ngài sắp chinh phục các ngôi vua trên thế gian và ngôi Sa-tan cùng ngôi “con thú”. Trong quyền tể trị cao cả của Đức Chúa Trời, Ngài cho phép con người và thiên sứ gian ác làm điều tệ hại nhất nhưng bây giờ thì giờ đã đến để ý chỉ của Đức Chúa Trời được trên đất như tại trời.
Domitian là hoàng đế La-mã khi Giăng ở tại đảo Bát-mô, “và ông này đã tự gán cho mình những danh xưng “Chúa và Đức Chúa Trời”. Lúc ấy chắc chắn thật có ý nghĩa đối với các độc giả của Giăng khi ông dùng chữ alleluia bốn lần trong sáu câu đầu tiên của chương này - quả thật, chỉ có Đức Giê-hô-va mới đáng cho chúng ta thờ lạy và ngợi khen. Thứ ba...
• Người Vợ Đã Sửa Soạn (Kh 19:7-10).
Dĩ nhiên, người vợ ở đây là Hội thánh (Eph 5:22-33 IICo 11:2) và Chúa Giê-xu Christ, Chiên Con, là chàng rể (Gi 3:29). Tại tiệc cưới, người ta có thói quen tập trung chú ý cô dâu nhưng trong trường hợp này, chính chàng rể được mọi người tôn vinh! ”. “Chúng ta hãy vui mừng hớn hở, tôn vinh Ngài.”
“Cô dâu mặc áo gì?” là câu hỏi thường nêu lên sau tiệc cưới. Vợ Chiên Con được mặc “công việc công bình của các thánh đồ” (dịch nghĩa đen). Khi cô dâu vào đến trời tại Toà Án của Đấng Christ, nàng không đẹp đẽ chút nào (thực ra, nàng mang đầy vết tích khuyết tật theo như lời Phao-lô mô tả trong Eph 5:27) nhưng bây giờ nàng sáng láng trong vinh hiển. Nàng đã “tự sửa soạn mình” cho lễ cưới.
Các lễ cưới Do-thái vào thời ấy hoàn toàn khác xa với lễ cưới tại phương Tây. Trước tiên, có lễ đính hôn, thường được cha mẹ hai bên thực hiện khi cô dâu chú rể tương lai vẫn còn nhỏ. Lời đính ước này tiếp tục ràng buộc và chỉ có thể phá vỡ bằng hình thức li dị. Bất cứ hành động không chung thuỷ nào trong thời gian đính ước đều được coi là ngoại tình.
Khi lễ cưới chính thức được thông qua, chàng rể sẽ đến nhà cô dâu và xin hỏi cưới nàng cho mình. Chàng rể sẽ đưa nàng về nhà tổ chức tiệc cưới, tất cả khách mời sẽ chung vui với đôi vợ chồng mới. Tiệc cưới này sẽ kéo dài gần một tuần lễ.
Ngày nay, Hội thánh “được hứa gả” cho Chúa Giê-xu Christ chúng ta yêu Ngài mặc dù chúng ta không thấy Ngài (IPhi 1:8). Ngày kia, Ngài sẽ trở lại tiếp rước Hội thánh Ngài về trời (Gi 14:1-6 ITe 4:13-18). Tại Toà Án của Đấng Christ, Ngài sẽ phán xét các công việc của Hội thánh và sẽ cất đi mọi khuyết điểm mọi tì vết của Hội thánh. Sau khi điều này được hoàn tất, Hội thánh sẽ sửa soạn để trở lại thế gian cùng với Chàng Rể vào lúc kết thúc Cơn Đại Nạn để cùng trị vì với Ngài trong vinh hiển (Lu 13:29 Mat 8:11). Một số nhà nghiên cứu Kinh Thánh tin rằng toàn bộ Kỷ Nguyên Vương Quốc sẽ là “tiệc cưới”.
Kh 19:9 chứa đựng phước lành thứ tư trong bảy “phước lành” tìm thấy trong sách (Kh 1:3). Chắc chắn nàng dâu không được mời đến dự tiệc cưới của mình! Lời mời này dành cho khách, là những con cái Chúa từ thời Cựu-ước và trong Cơn Đại Nạn.Trong cõi đời đời, giữa vòng con dân Đức Chúa Trời không có sự khác biệt nào cả nhưng trong Kỷ Nguyên Vương Quốc, nhiều khác biệt vẫn tồn tại khi Hội thánh cùng trị vì với Đấng Christ và khi dân Y-sơ-ra-ên vui hưởng các phước hạnh của lời hứa về Đấng Mê-si-a.
Giăng quá kinh ngạc bởi tất cả những điều ông đã thấy đến nỗi ông gieo mình xuống thờ lạy thiên sứ đang hướng dẫn mình, hành động này được nhắc lại sau này! (Kh 22:8-9). Dĩ nhiên, thờ lạy thiên sứ là sai (Co 2:18 và Giăng biết điều này.Chúng ta phải xem xét cảm xúc lạ lùng mà Giăng đã trải qua. Thiên sứ chỉ là tôi tớ của Đức Chúa Trời giống như chính mình Giăng vậy (He 1:14) cho nên chúng ta không thờ lạy tôi tớ (Cong 10:25-26).
2. Đấng Christ sẽ trở lại (Kh 19:11-21)
Trước tiên, Giăng mô tả Đấng Chinh Phục (Kh 19:11-16) và sau đó mô tả công việc chinh phục của Ngài (Kh 19:17-20:3). Người cỡi trên ngựa trắng (Kh 6:2) là Chuá Cứu Thế giả, nhưng người cỡi ngựa này là Đấng Christ thật. Ngài sẽ không ngự đến nơi không trung để tiếp rước con dân Ngài về nhà Ngài (ITe 4:13-18), nhưng Ngài đến thế gian với con dân Ngài, để đánh bại kẻ thù và lập nước của Ngài.
Hãy chú ý việc nhấn mạnh các danh xưng của Chúa Giê-xu (Kh 19:11-13,16). Ngài là “Đấng Thành Tín Chơn Thật” (Kh 3:14), ngược lại với “con thú” bất trung (nó huỷ bỏ giao-ước với dân Y-sơ-ra ên) và giả dối (nó cai trị bằng sự lừa dối và thờ hình tượng). Các thánh đồ đang trải qua đau đớn cần phải được nhắc nhớ rằng Đức Chúa Trời là thành tín và không lìa bỏ họ, vì lời hứa của Ngài là chân thật.
Có lẽ “danh không ai biết được” (c.12) giống với “danh mới” (Kh 3:12). Không biết danh này có nghĩa là gì, nên chúng ta không thể nhận xét về danh ấy được nhưng thật thú vị khi biết rằng ngay khi ở trên trời chúng ta sẽ học biết nhiều điều mới mẻ về Đức Chúa Giê-xu chúng ta!
“Lời Đức Chúa Trời” là một trong những danh xưng quen thuộc của Chúa trong Kinh Thánh (Gi 1:1-14). Giống như chúng ta bày tỏ nỗi lòng và ý nghĩ chúng ta cho người khác bằng lời nói, Đức Chúa Cha cũng bày tỏ chính Ngài cho chúng ta qua Con Ngài, Ngôi Lời trở thành xác thịt (Gi 14:7-11). Một chữ được hình thành bởi nhiều mẫu tự, và Chúa Giê-xu Christ là “Anpha và Ômêga” (Kh 21:6 Kh 22:13). Ngài là “bảng mẫu tự thiêng thượng” Đức Chúa Trời dùng để bày tỏ Ngài cho chúng ta.
Lời Đức Chúa Trời là “lời sống và linh nghiệm” (He 4:12) hơn nữa, lời Ngài làm ứng nghiệm các chương trình của Ngài trên thế gian (Kh 17:17 Kh 6:11 Kh 10:7 Kh 15:1). Chính Đức Giê-Hô-Va phán, “Ta sẽ tỉnh thức, giữ lời phán Ta đặng làm trọn“ (Gie 1:12). Giống như Lời là đại diện của Đức Chúa Cha trong sự sáng tạo (Gie 1:1-3), Lời cũng là đại diện của Ngài trong sự đoán phạt và hoàn tất của Ngài.
Danh xưng quan trọng nhất của Đấng Christ là “Vua các vua, Chúa các Chúa” (Kh 19:16). Đây là danh chiến thắng của Ngài (Kh 17:14), nhắc chúng ta nhớ lại những lời nói về Ngài chép trong Da 2:47 và Phu 10:17. Phao-lô dùng danh xưng tương tự như vầy để gọi Chúa Giê-xu Christ trong ITi 6:15. Danh xưng này nói đến quyền tể trị của Đấng Christ, vì tất cả vua chúa đều phải vâng phục Ngài. Cho dù ai đang ngự trên ngôi Đế Quốc Rô-ma, Chúa Giê-xu Christ vẫn là Vua và Chúa của vua ấy!
Chúng ta không những thấy sự cao trọng của Đấng Christ qua các danh xưng của Ngài, nhưng còn thấy qua lời Giăng mô tả Ngài là Vua Chiến Thắng (Kh 19:12-16). Mắt “như ngọn lửa” biểu tượng sự đoán xét của Ngài thấu suốt tất cả (Kh 1:14). Nhiều mão triều thiên (mão miện) cho thấy quyền cai trị oai nghi cả thể của Ngài. Áo nhúng trong huyết nói về sự phán xét và có thể liên quan đến Es 63:1-6 và Kh 14:20, Ngài giày đạp các kẻ thù của Ngài. Không phải huyết của Chúa đã vấy trên áo Ngài, nhưng chính huyết của kẻ thù.
Gươm nhọn là biểu tượng về lời Đức Chúa Trời (Kh 19:21 He 4:12 Eph 6:17 Kh 1:16). Điều này phù hợp với sự kiện Đấng Christ sẽ tiêu diệt kẻ thù của Ngài “bằng hơi thở của miệng Ngài” (IITe 2:8 Es 11:4). Chúng ta đã gặp “cây gậy sắt” trước đây (Kh 2:27 Kh 12:5), biểu tượng của sự chính trực khi Ngài cai trị thế gian.Hình ảnh thùng ép rượu chắc chắc có liên quan đến sự đoán phạt tại Hạt-ma-ghê-đôn (Kh 14:14-20 Es 63:1-6).
Chúa Giê-xu không chinh phục một mình, vì có nhiều đội quân trên trời sẽ theo Ngài. Họ là ai? Chắc chắn các thiên sứ là một bộ phận trong đội quân này (Mat 25:31 IITe 1:7) nhưng còn có các thánh đồ nữa (ITe 3:13 IITe 1:10). Giu-đe mô tả quang cảnh tương tự như vậy (Giu 1:14-15). Chữ các thánh có nghĩa “những người thánh” và có thể nói đến các tín hữu hoặc thiên sứ.
Đội quân này không cần thiết phải chiến đấu, vì chính Đấng Christ sẽ đánh bại kẻ thù qua ba chiến thắng vĩ đại.
• Ngài Sẽ Chiến Thắng Đội Quân Các Vua Đời Nầy (Giu 19:17-19,21).
Những chiến binh này đã tập trung để “nghịch lại Đức Giê-hô-va và nghịch lại Đấng chịu xức dầu của Ngài” (Thi 2:1-3), nhưng vũ khí của chúng tỏ ra vô dụng.Trận chiến sẽ trở nên một cuộc giết chóc - “Một bữa ăn” cho chim trờí! Phần đầu của Kh 19:1-21 mô tả tiệc cưới Chiên Con phần sau mô tả “bữa tiệc của Đức Chúa Trời cao cả.” (Lu 17:37 Mat 24:28).
Chữ xác thịt xuất hiện sáu lần trong chương này. Trong khi Giăng đề cập trực tiếp đến thân xác con người bị chim chóc ăn thịt, chắc chắn ở đây vẫn có một ý nghĩa sâu xa: con người thất bại vì họ là xác thịt và tuỳ thuộc vào xác thịt. Thánh Kinh không làm chứng tốt về bản chất sa ngã của con người. Hãy nhớ lại lời phán của Đức Giê-hô-va trước Cơn Nước Lụt: “Thần Ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn trong đều lầm lạc, loài người chỉ là xác thịt” (Sa 6:3). (Gi 3:6 Gi 6:63 Phi 3:3 Ro 7:18). “Mọi xác thịt như hoa cỏ” (IPhi 1:24) và chắc chắn bị Đức Chúa Trời đoán phạt.
Đây là câu chuyện kể về trận chiến nổi tiếng “Hạt-ma-ghê-đôn”, đã được báo tin từ trước (Kh 14:14-20 Kh 16:13-16). Tất cả mọi đều Chúa chúng ta phải làm đó là phán ra Lời và, “thanh gươm nơi miệng Ngài”sẽ cắn nuốt kẻ thù.
• Ngài Sẽ Chiến Thắng “Con Thú” Và Tiên Tri Giả (Kh 19:20).
Vì “tay chân” của quỷ Sa-tan là các nhà lãnh đạo cuộc nổi dậy, cho nên chúng phải bị bắt và nhốt là điều đúng đắn. Chúng bị quăng vào lò lửa (Kh 20:10,14-15), nơi hình phạt cuối cùng đời đời dành cho mọi kẻ không tin nhận Chúa Giê-xu Christ.“Con thú” và tiên tri giả bị ném vào trong địa ngục đầu tiên. Sau đó 1.000 năm, Sa-tan sẽ bị quăng vào (Kh 20:10), cùng với những người không có tên trong sách sự sống (Kh 20:15).
Ngày nay, khi người không tin Chúa chết, linh hồn về nơi gọi là âm phủ, có nghĩa là “thế giới không thấy được” - tức là, vương quốc của sự chết. Khi người tin Chúa chết, họ đi thẳng vào trong sự hiện diện của Chúa (Phi 1:19-23 IICo 5:6-8). Ngày kia Âm phủ sẽ không còn chứa người chết nữa (Kh 20:13), lúc ấy mọi người sẽ bị quăng vào địa ngục cùng với Sa-tan, “con thú” và tiên tri giả.
3. Sa-Tan Sẽ Bị Đánh Bại (Kh 20:1-3)
“Vực sâu không đáy” được nói đến trong câu 1 không giống với địa ngục nhưng đó là “vực sâu” chúng ta đã nói đến trong các bài nghiên cứu trước đây (Kh 9:1-2,11 Kh 11:7 Kh 17:8). Quỷ Sa-tan không bị quăng vào địa ngục ngay tức khắc, vì Đức Chúa Trời vẫn còn dành cho nó một nhiệm vụ phải thi hành. Hơn nữa, Sa-tan bị xiềng trong vực sâu 1.000 năm. Đầu tiên, Sa-tan bị quăng khỏi trời (Kh 12:9), và bây giờ nó bị quăng khỏi đất!
Một số nhà nghiên cứu Kinh Thánh cảm thấy rằng “việc xiềng” Sa-tan xảy ra khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá, sống lại từ trong kẻ chết và thăng thiên về trời. Trong khi thật đúng là Chúa Giê-xu đã hoàn toàn chiến thắng Sa-tan tại Thập Tự Giá, nhưng bản án dành cho ma quỉ vẫn chưa có hiệu lực. Nó là kẻ thù đã bị đánh bại, nhưng vẫn còn tự do tấn công con dân Đức Chúa Trời và chống phá công việc của Đức Chúa Trời (IPhi 5:8). Tôi nghĩ chính Tiến sĩ James M. Gray đã gợi ý rằng, nếu ngày nay Sa-tan bị xiềng, ắt cái xiềng ấy phải dài kinh khủng! Phao-lô bảo đảm với chúng ta rằng Sa-tan được thả lỏng (Eph 6:10), và Giăng đồng ý với Phao-lô (Kh 2:13 Kh 3:9).
Đã giải quyết xong kẻ thù của Ngài, bây giờ Chúa hoàn toàn dành thời gian xây dựng vương quốc công bình của Ngài trên thế gian.
4. Các thánh sẽ trị vì (Kh 20:4-6)
Cụm từ “ngàn năm” xuất hiện sáu lần trong các câu 1-7. Trong lịch sử, giai đoạn này gọi là “Ngàn Năm Bình An” xuất phát từ hai chữ trong tiếng La-tinh , mille (“ngàn”) và annum (“năm”) - nước ngàn năm của Đấng Christ trên thế gian. Cuối cùng, Đấng Christ và Hội thánh Ngài sẽ trị vì trên các nước thế gian, và dân Y-sơ-ra-ên sẽ vui hưởng các phước hạnh đã hứa bởi các đấng tiên tri. (Es 2:1-5 Es 4:1-6 Es 11:1-9 Es 12:1-6 Es 30:18-26 Es 35:1-10).
Đây có phải là vương quốc trên đất theo nghĩa đen hay không, hoặc những câu này nên hiểu “theo nghĩa thiêng liêng” và ứng dụng cho Hội thánh ngày nay không?Một số nhà giải nghĩa cho rằng thuật ngữ “ngàn năm” chỉ là con số “trọn vẹn” (10x10x10 = 1.000). Họ xác nhận rằng đó chỉ là biểu tượng nói về sự đắc thắng của Đấng Christ và những phước hạnh lạ lùng của Hội thánh ngày nay khi Sa-tan bị đánh bại và bị xiềng lại. Quan niệm này được gọi là thuyết không tin vào ngàn năm bình an, có nghĩa “không có ngàn năm bình an” - tức là không có vương quốc theo nghĩa đen.
Vấn đề với quan niệm này là không giải thích được tại sao Giăng giới thiệu giai đoạn này bằng sự sống lại của người chết. Chắc chắn ông không viết về sự sống lại “thuộc linh”, vì ông còn cho biết những người này chết cách nào nữa! Trong Kh 20:5 Giăng viết về sự sống lại khác theo nghĩa đen. Nếu bây giờ chúng ta sống trong 1.000 năm của vương quốc chiến thắng, vậy thì sự sống lại này sẽ xảy ra khi nào? Dường như có lý để hiểu rằng Giăng viết sự sống lại của người chết về mặt thể xác, và về vương quốc trên thế gian theo nghĩa đen của nó.
Mục đích của nước ngàn năm bình an là gì? Trước tiên, đó là sự ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên và với Đấng Christ (Thi 2:1-12 Lu 1:30-33). Chúa chúng ta khẳng định điều đó với các sứ đồ của Ngài (Lu 22:29-30). Vương quốc này sẽ là dịp phô bày vinh hiển của Đấng Christ trên toàn thế giới, khi muôn vật được thoát khỏi mọi xiềng xích của tội lỗi (Ro 8:19-22). Đó là câu trả lời cho lời cầu xin của các thánh đồ, “Nước Ngài được đến! ”. Và còn là sự bày tỏ sau cùng của Đức Chúa Trời về tình trạng tội lỗi và gian ác của lòng loài người ở ngoài ân điển của Đức Chúa Trời, nhưng về sau điều này còn rõ ràng hơn.
Các thánh đồ bị giết trong Cơn Đại Nạn sẽ từ kẻ chết sống lại và được ban cho ngôi vinh hiển cùng phần thưởng. Hội thánh sẽ dự phần trong sự trị vì này, như đã được biểu tượng hoá bởi hai mươi bốn tưởng lão (Kh 5:10 Kh 2:26-28 Kh 3:12,21 ITe 4:13-18 IITi 2:12). Một số nhà nghiên cứu Kinh Thánh tin rằng các thánh trong Cựu-ước cũng là một bộ phận trong “sự sống lại trước nhất” này (Da 12:1-4).
Cụm từ “sự sống lại tổng quát” không có ghi trong Kinh Thánh. Trái lại, Kinh Thánh dạy hai sự sống lại: sự sống lại thứ nhất thuộc về người được cứu hưởng hạnh phước sự sống lại thứ hai thuộc về tất cả những người hư mất dẫn đến sự đoán phạt (chú ý Gi 5:28-29 Da 12:2). Hai sự sống lại này được tách biệt bởi 1.000 năm bình an.
Kh 20:6 mô tả các ơn phước đặc biệt của những người có phần trong sự sống lại thứ nhất. Họ không tìm kiếm ơn phước này nhưng ơn phước đó là một phần cơ nghiệp của kẻ tin trong danh Chúa Giê-xu Christ. Đây là điều thứ sáu trong bảy “phước hạnh” chép trong Khải huyền điều cuối cùng chép trong Kh 22:7. Các con cái Chúa đã sống lại ở đây sẽ hưởng sự sống vinh hiển của Đấng Christ, trị vì cùng Ngài như các vua và thầy tế lễ, và chẳng bao giờ trải qua “sự chết thứ hai”, là hồ lửa (Địa ngục, Kh 20:14).
Trong suốt Ngàn Năm Bình An, các cư dân trên đất sẽ bao gồm các thánh đồ đã được vinh hiển, và cả công dân các nước đầu phục Chúa Giê-xu Christ (Mat 25:31-40 Mat 8:11). Vì những điều kiện sống thuận lợi trên thế gian, con người sẽ sống lâu hơn (Es 65:17-25 nhất là c.20). Họ sẽ lập gia đình và sinh con cái những người mà bề ngoài tỏ ra vâng theo luật công bình của Chúa. Nhưng không phải tất cả họ đều thật sự được sanh lại trong quá trình Ngàn Năm Bình An và điều này giải thích tại sao Sa-tan sẽ có thể tập trung một đội quân nổi loạn lớn vào lúc kết thúc Kỷ Nguyên Bình An. (Kh 20:8).
Qua nhiều thế kỷ, con người đã mơ ước một “thời đại hoàng kim”, một “thời đại hoàn hảo” trong đó con người sẽ thoát khỏi chiến tranh, bệnh tật, và cả sự chết. Loài người đã cố gắng để đạt được mục tiêu này cho riêng mình nhưng họ đã thất bại. Chỉ khi Chúa Giê-xu Christ trị vì trên ngôi Đa-vít thì vương quốc ấy sẽ đến và thế gian sẽ thoát khỏi áp lực của Sa-tan và tội lỗi.
5. Sa-tan sẽ dấy loạn (Kh 20:7-10)
Lúc kết thúc Ngàn Năm Bình An, Sa-tan sẽ được thả ra khỏi vực sâu và được phép cầm đầu cơn dấy loạn cuối cùng chống lại Chúa. Tại sao như vậy? Vì đó là bằng chứng cuối cùng cho thấy lòng con người vô cùng gian ác và chỉ có hồng ân của Đức Chúa Trời mới có thể thay đổi được mà thôi. Hãy tưởng tượng bi kịch của cơn dấy loạn này: con người đang sống trong môi trường thiện lành, dưới nền cai trị trọn vẹn của Con Đức Chúa Trời, cuối cùng sẽ chấp nhận lẽ thật và rồi nổi lên chống lại Vua! Người ta thấy sự vâng lời của họ chỉ là sự vâng phục giả vờ, chớ không có lòng tin thật vào Đấng Christ chút nào cả.
Các danh xưng “Gót và Ma-gót” (c.8) không làm cho chiến trận này tương đương với cuộc chiến mô tả trong Exe 38:1-39:29 vì đội quân ấy xâm chiếm từ phương bắc, trong khi đội quân này đến từ bốn góc đất. Tuy nhiên, hai sự kiện có liên hệ với nhau, lý do là trong cả hai cuộc chiến, dân Y-sơ-ra-ên đều là trung tâm điểm. Trong trường hợp này, thành Giê-ru-sa-lem sẽ là mục tiêu (“thành phố được yêu mến”, Thi 78:68 Thi 87:2). Đức Chúa Trời sẽ giải quyết cơn dấy loạn này cách nhanh chóng và hiệu quả, Sa-tan sẽ bị quăng xuống địa ngục. Hãy lưu ý rằng “con thú” và tiên tri giả vẫn chịu đau khổ trong hồ lửa sau 1.000 năm! (Mat 25:41).
Về một phương diện, Vương quốc ngàn năm sẽ “tổng kết” tất cả những gì Đức Chúa Trời đã phán dạy về lòng con người vào các giai đoạn khác nhau trong lịch sử. Đó sẽ là triều đại luật pháp, tuy nhiên luật pháp sẽ không thay đổi lòng tội lỗi của con người. Loài người vẫn nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời. Ngàn Năm Bình An sẽ là giai đoạn bình an và môi trường toàn hảo, là thời gian sẽ nhanh chóng phán xét cách ngay thẳng sự bất tuân của con người tuy nhiên cuối cùng các thần dân của Nhà Vua sẽ chạy theo Sa-tan và nổi loạn chống lại Chúa. Một môi trường toàn vẹn vẫn không thể sinh ra một tấm lòng trọn vẹn được.
Bây giờ Đức Chúa Trời sắp sửa “cuốn lại” lịch sử loài người. Vẫn còn một biến cố lớn.
6. Tội nhân bị báo ứng (Kh 20:11-15)
Sẽ có sự sống lại thứ hai, người không được cứu sẽ được sống lại và ứng hầu trước toà phán xét của Đức Chúa Trời. Đừng lẫn lộn sự phán xét tại Toà án trắng với phán xét tại Toà Phán Xét của Đấng Christ, tại đó con cái Chúa sẽ khai trình công việc của mình và nhận phần thưởng. Tại toà án này, chỉ có mặt những kẻ không tin và sẽ không có phần thưởng nào. Ở đây Giăng mô tả một quang cảnh đáng sợ. Trời đất đều trốn hết và không còn chỗ nào cho tội nhân trốn cả! Tất cả đều phải đối mặt với Quan Toà!
Quan Án là Chúa Giê-xu Christ, vì Đức Chúa Cha đã giao tất cả quyền xử đoán cho Ngài (Gi 5:22-30 Mat 19:28 Cong 17:31). Những tội nhân hư mất này đã chối bỏ Đấng Christ trong cuộc sống của họ bây giờ ắt hẳn họ bị Ngài phán xét và gánh chịu sự chết đời đời.
Những “người chết” này từ đâu đến? Sự chết sẽ lìa khỏi thân xác, và âm phủ (vương quốc của hồn linh của những kẻ chết) sẽ lià khỏi các hồn linh. Sẽ còn có sự sống lại của các xác chết trong biển cả. Không có tội nhân nào thoát khỏi được.
Chúa Giê-xu Christ sẽ phán xét những người không được cứu ở đây trên cở sở những gì viết “trong sách”. Những sách nào vậy? Trước tiên, Lời của Đức Chúa Trời sẽ có ở đó. “Lời Ta đã rao giảng, chính lời đó sẽ xét đoán họ nơi ngày sau cùng” (Gi 12:48). Mọi tội nhân sẽ chịu trách nhiệm về chân lý họ đã nghe trong cuộc đời này.
Còn có sách ghi mọi công việc của tội nhân bị phán xét, mặc dầu điều này không nói rằng con người có thể làm điều thiện đủ để vào nước thiên đàng (Eph 2:8-9 Tit 3:5). Vậy tại sao Chúa Giê-xu Christ sẽ xem xét việc làm, cả tốt lẫn xấu, của con người trước Toà Án trắng? Để Ngài quyết định mức án phạt họ phải chịu trong địa ngục. Tất cả những người này sẽ bị bỏ vào trong địa ngục. Việc cá nhân họ chối bỏ Chúa Giê-xu Christ đã quyết định số phận của họ rồi. Nhưng Chúa Giê-xu Christ là Quan Án Công Bình, Ngài sẽ định chỗ cho mỗi tội nhân xứng đáng với việc họ làm.
Có nhiều mức án phạt trong địa ngục (Mat 11:20-24). Mỗi tội nhân hư mất sẽ nhận đúng phần đáng nhận, không ai có thể cãi lẽ với Chúa hoặc thắc mắc về quyết định của Ngài. Đức Chúa Trời biết điều tội nhân đang làm, và các sách của Ngài sẽ phô bày sự thật.
“Sách sự sống” sẽ có ở đó, ghi tên của những người được Đức Chúa Trời chuộc mua (Phi 4:3 Kh 21:27 Kh 13:8 Kh 17:8). Chẳng có người chưa được cứu nào có tên ghi vào trong Sách Sự Sống của Chiên Con chỉ có những tín hữu trung tín với Chúa mới được ghi tên vào đó (Lu 10:20).
Khi sự xét đoán hoàn tất, tất cả những người hư mất sẽ bị quăng vào địa ngục, hồ lửa, đó là sự chết thứ hai. Nhiều người chối bỏ lời dạy trong Kinh Thánh về địa ngục cho là “phi Cơ-đốc”, tuy nhiên Chúa Giê-xu dạy rõ thật có địa ngục (Mat 18:8 Mat 23:15,33 Mat 25:46 Mac 9:46). Kiểu tình cảm mềm yếu trong tôn giáo nhân đạo sẽ tránh né sự thật về sự phán xét, nhưng dạy cho người khác biết rằng có một Đức Chúa Trời yêu thương hết thảy mọi người và Ngài không bỏ bất cứ ai vào địa ngục cả.
Địa ngục là bằng chứng cho đức công bình của Đức Chúa Trời. Ngài phải phán xét tội lỗi. Địa ngục còn làm chứng cho trách nhiệm của con người, sự kiện cho thấy con người không phải là người máy hoặc là một nạn nhân không ai cứu giúp, nhưng họ là tạo vật có quyền chọn lựa. Đức Chúa Trời không “bỏ con người vào địa ngục”họ tự đi vào đó bằng cách chối bỏ Đấng Cứu Chuộc linh hồn mình (Gi 3:16-21 Mat 25:41). Địa ngục còn chứng tỏ sự gớm ghiếc của tội lỗi. Nếu có lần chúng ta nhìn thấy được tội lỗi như Đức Chúa Trời thấy, chúng ta sẽ hiểu tại sao có một nơi hiện hữu như địa ngục.
Xét đến ý nghĩa đồi Gô-gô-tha, không một tội nhân hư mất nào có thể oán trách Đức Chúa Trời vì đã bỏ họ vào trong địa ngục. Đức Chúa Trời đã ban cho một phương cách cứu rỗi, Ngài nhịn nhục chờ đợi tội nhân ăn năn. Ngài sẽ không hạ thấp tiêu chuẩn và thay đổi các đòi hỏi của Ngài. Ngài đã định rằng đức tin nơi Con Ngài là phương cách duy nhất để nhận ơn cứu rỗi.
Toà Án Trắng sẽ không giống các phiên toà trong thời đại chúng ta ngày nay. Tại Toà Án Trắng, có Quan Toà, nhưng không có bồi thẩm đoàn, có công tố viên nhưng không có bào chữa, có án phạt nhưng không có chống án. Không ai có thể tự bào chữa cho mình hoặc lên án Đức Chúa Trời là không công bình. Thật là một quang cảnh đáng sợ!
Trước khi Đức Chúa Trời có thể mở ra trời mới đất mới, Ngài phải giải quyết xong tội lỗi và Ngài sẽ làm điều này tại Toà Án Lớn và Trắng.
Bạn có thể thoát khỏi cơn đoán phạt kinh khiếp này bằng cách tin nhận Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa đời bạn. Làm như vậy, bạn sẽ không bao giờ thuộc về sự sống lại thứ hai hoặc trải qua đau đớn của sự chết thứ hai, đó là hồ lửa.
Chúa Giê-xu phán, “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai ta thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét, nhưng vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.” (Gi 5:24).
Bạn đã tin nhận Ngài và vượt khỏi sự chết mà đến sự sống chưa?
12. MỌI SỰ ĐỀU MỚI (Kh 21:1-22:21)
Lịch sử loài người bắt đầu tại Vườn Ê-đen và kết thúc nơi Thành Phố giống như vườn địa đàng. Trong thời của sứ đồ Giăng, Rô-ma là thành phố được nhiều người ngưỡng mộ tuy nhiên Đức Chúa Trời ví thành phố ấy là con dâm phụ. “Vì sự người ta tôn trọng là sự gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời” (Lu 16:15). Thành phố đời đời của Đức Chúa Trời được sánh như cô dâu xinh đẹp (Kh 21:9), vì đó là nhà đời đời dành cho con dân yêu dấu của Đức Chúa Trời.
Các lời Đức Chúa Trời phán ghi trong Kh 21:5-6 tóm tắt cách hợp lý hai chương cuối này: “Nầy, Ta làm mới lại hết thảy muôn vật....Xong rồi! ” . Những gì bắt đầu trong Sáng-thế-ký được hoàn tất trong Khải huyền, như bảng tóm tắt sau đây cho thấy:
Sáng-thế ký | Khải-huyền |
Trời đất được dựng nên, Sa 1:1 | Trời mới đất mới, Kh 21:1 |
Mặt trời dựng nên, Sa 1:16 | Không cần mặt trời, Kh 21:23 |
Ban đêm được dựng nên, Sa 1:5 | Không còn có đêm nữa, Kh 22:5 |
Biển được dựng nên, Sa 1:10 | Không còn có biển nữa, Kh 21:1 |
Sự rủa sả được loan báo, Sa 3:14-17 | Không còn sự rủa sả, Kh 22:3 |
Sự chết bước vào lịch sử loài người, Sa 3:19 | Không còn sự chết nữa, Kh 21:4 |
Loài người bị cách xa cây sự sống, Sa 3:24 | Loài người được về lại thiên đàng, Kh 22:14 |
Buồn phiền đau đớn bắt đầu, Sa 3:17 | Không còn nước mắt và sự khổ đau, Kh 21:4 |
1. Công dân trên trời (Kh 21:1-8)
Giăng cung cấp cho chúng ta lời mô tả ba khía cạnh về các công dân trên trời. Thứ nhất...
• Họ Là Con Dân Đức Chúa Trời (Kh 21:1-5).
Trời đất thứ nhất được sắm sẵn cho người nam người nữ đầu tiên và con cháu của họ. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi thứ cho họ khi Ngài đặt để họ vào khu vườn. Chẳng may, tổ phụ đầu tiên của chúng ta phạm tội, đem sự chết và hư hoại vào trong thế giới đẹp đẽ của Đức Chúa Trời. Muôn vật ở trong xiềng xích và lao khổ (Ro 8:18-23), ngay cả các tầng trời “cũng không trong sạch trước mặt Ngài” (Giop 15:15).
Đức Chúa Trời đã hứa với con dân Ngài trời mới đất mới (Es 65:17 Es 66:22). Tạo vật cũ phải nhường chỗ cho tạo vật mới để Đức Chúa Trời được vinh hiển. Chúa Giê-xu gọi biến cố này là “kỳ muôn vật đổi mới” (Mat 19:28), và Phi-e-rơ giải thích đó là sự tẩy sạch và làm mới lại bởi lửa (IIPhi 3:10-13). Các nhà giải kinh không nhất trí trong việc hiểu các yếu tố cũ sẽ được làm mới lại hoặc tạo vật cũ sẽ bị phá huỷ và sẽ tạo nên mọi sự đều mới. Chữ mới trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là “mới về tính chất” (Kh 21:1,5) làm cho lời giải thích trước kia đáng tin hơn.
“Không còn có biển nữa” không có nghĩa là “không còn có nước nữa”. Nó chỉ cho thấy đất mới sẽ có sự sắp xếp khác về phần nước. Ba phần tư địa cầu chúng ta là nước, nhưng trong cõi đời đời không phải như vậy. Trong thời của Giăng, biển có nghĩa là hiểm nguy, giông bão và phân ly (Chính Giăng ở trên đảo vào lúc ấy! ) vì vậy có lẽ Giăng muốn cung cấp cho chúng ta nhiều điều hơn là một bài học địa lý.
Dù cho lời mô tả trong Kinh Thánh, chúng ta cũng thấy khó tưởng tượng thành phố đời đời sẽ giống như thế nào. Giăng mô tả đó là một thành thánh (Kh 21:27), thành phố sắm sẵn (Gi 14:1-6), và một thành phố xinh đẹp, đẹp như cô dâu trong ngày cưới. Ông mô tả nhiều hơn về những đăc tính này trong Kh 21:1-22:21.
Nhưng điểm quan trọng nhất về thành phố này là Đức Chúa Trời hiện diện với con dân Ngài tại đó. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một bản tường thuật thú vị về những nơi Đức Chúa Trời ngự. Trước tiên, Đức Chúa Trời đi lại với con người trong Vườn Ê-đen. Sau đó Ngài ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên trong đền tạm và về sau là đền thờ. Khi dân Y-sơ-ra-ên phạm tội, Đức Chúa Trời phải rời khỏi những nơi ngự ấy. Về sau, Chúa Giê-xu Christ đến thế gian và “ngự” giữa chúng ta (Gi 1:14). Ngày nay, Đức Chúa Trời không sống trong những đền thờ do con người dựng nên (Cong 7:48-50), nhưng Ngài sống trong thân thể của con dân Ngài (ICo 6:19-20) và Hội thánh Ngài (Eph 2:21-22).
Cả trong đền tạm và đền thờ, bức màn ngăn chia con người và Đức Chúa Trời. Bức màn bị xé ra làm đôi khi Chúa Giê-xu chết, mở ra “con đường mới và sống” cho con dân Đức Chúa Trời (He 10:19). Cho dù ngày nay Đức Chúa Trời ngự trong lòng con cái Ngài bởi Thánh Linh, nhưng chúng ta vẫn không hiểu Đức Chúa Trời hoặc tương giao với Ngài như chúng ta muốn nhưng ngày kia, chúng ta sẽ ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời và vui hưởng cùng Ngài mãi mãi.
Thành phố đời đời lạ lùng đến nỗi Giăng chỉ thấy dùng lối tương phản là cách tốt nhất để mô tả - “không còn nữa”. Con cái Chúa lần đầu đọc sách được Thánh Linh mạc khải này chắc chắn phải vui mừng biết rằng tại trên trời không còn có đau đớn, nước mắt, buồn phiền hoặc sự chết nữa vì nhiều người trong số họ đã trải qua đau đớn và bị giết hại. Ở mọi thời đại, sự trông cậy về thiên đàng đã an ủi con dân Đức Chúa Trời trong mọi lúc hoạn nạn bắt bớ. Thứ hai,
• Công Dân Trên Trời Là Những Người Thỏa Mãn (Kh 21:6).
Con người sống trong các thành phố hiện đại không lo nghĩ nhiều về nước, nhưng đây là điều quan tâm chính trong thời của Giăng. Rất có thể chính Giăng làm việc trong các hầm mỏ đã biết cơn khát hành hạ thế nào. Các thánh đồ chịu đau đớn trải qua mọi thời đại chắc chắn nhận ra lời hứa kỳ diệu này của Đức Chúa Trời.Nước suối sự sống ban cho mọi người cách nhưng không! Thứ ba...
• Những Công Dân Trên Trời Nầy Là Những Người Chiến Thắng (Kh 21:8).
“Ai thắng” là chữ chìa khoá trong sách này (Kh 2:7,11,17,26 Kh 3:5,12,21 Kh 12:11). Như Giăng đã nêu ra trong thư tín thứ nhất của ông, tất cả các tín hữu trung tín đều là người chiến thắng (IGi 5:4-5), vì vậy lời hứa này không chỉ dành cho (những người có trình độ thuộc linh). Vì chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thừa kế tất cả mọi thứ.
Sau cơn hỏa hoạn lớn tại thành phố Chicago năm 1871, nhà truyền giảng Tin Lành Dwight L. Moody trở lại chứng kiến căn nhà của ông đã bị thiêu rụi. Một người bạn đến bên và nói với Moody, “Tôi nghe ông mất hết cả.”
Moody nói, “Ồ, bạn hiểu sai rồi. Tôi còn lại nhiều hơn những gì tôi đã mất.”
Người bạn tò mò hỏi, “Ý ông muốn nói như thế nào? Tôi đâu có biết ông giàu như vậy.”
Lúc ấy Moody mở Kinh Thánh và đọc cho anh ta nghe Kh 21:7 - Kẻ nào thắng sẽ được những sự ấy làm cơ nghiệp, Ta sẽ làm Đức Chúa Trời người”.
Ngược lại với những người chiến thắng, câu 8 mô tả những người bị tội lỗi thắng hơn và không tin cậy Chúa. Số phận của họ ra sao? Số phận của họ ở trong hồ lửa! Thế gian xem Cơ-đốc nhân là những “người thất bại“, nhưng chính những kẻ vô tín mới là người thua cuộc!
Những người sợ hãi là hèn nhát, đó là người không có lòng can đảm đứng về phía Đấng Christ. (Mat 10:32-33). Chữ gớm ghiếc có nghĩa “ô uế”, nói đến những người say sưa trong tội lỗi và do đó tâm trí, linh hồn và thân thể bị dơ dáy (IICo 7:1). Các tính chất khác được đề cập trong Kh 21:8 không cần phải giải thích, ngoại trừ phải lưu ý rằng tất cả họ là những người trung thành theo “con thú” (lưu ý Kh 17:4,6 Kh 18:3,9 Kh 19:2).
2. Tính chất của thành phố (Kh 21:9-22:5)
(Kh 21:10-27). Thành đời đời không những là nhà của cô dâu nhưng nó chính là cô dâu! Một thành phố không có dinh thự nhưng chỉ có con người. Thành phố Giăng nhìn thấy là thánh và ở trên trời kỳ thực, thành ấy từ trời xuống, nơi Đức Chúa Trời đã sắm sẵn. Lời mô tả của Giăng gây sửng sốt cho trí tưởng tượng của con người, ngay cả đã chấp nhận sự kiện nó có liên quan đến nhiều biểu tượng. Trời thực sự là nơi vinh hiển và đẹp đẽ, nơi ở trọn vẹn dành cho Vợ Chiên Con.
Chúng ta biết “vinh quang Đức Chúa Trời” đã hiện ra ở nhiều nơi khác nhau suốt lịch sử. Vinh quang Đức Chúa Trời ngự nơi đền tạm và trong đền thờ. Ngày nay, vinh quang của Ngài ngự trong người tin Ngài và Hội thánh Ngài. Trong cõi đời đời, người ta sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa Trời trong thành thánh Ngài. Đó chính là ánh sáng duy nhất thành phố cần để soi sáng.
Lời mô tả về thành phố dựa theo kiểu mẫu của các thành phố quen thuộc với độc giả của Giăng: nền, tường thành, và cổng. Nền nói về sự lâu dài, trái ngược với lều tạm mà “những người hành hương và khách lạ” cư ngụ (He 1:8-10) Tường thành và cổng nói về sự che chở. Con dân Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ còn phải sợ bất kỳ kẻ thù nào. Các thiên sứ nơi cổng thành sẽ là những lính gác!
Trong thành này, các thánh đồ trong Giao-Ứơc Cũ và Giao-Ước Mới sẽ hiệp lại làm một.Mười hai cổng thành tương đương với mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên, và mười hai nền tương đương với mười hai sứ đồ (Eph 2:20). Kể cả chi phái Lê-vi, thật sự có đến mười ba chi phái và có đến mười ba sứ đồ tính luôn sứ đồ Phao-lô. Khi Giăng liệt kê các chi phái Y-sơ-ra-ên trong Kh 7:1-17 hai chi phái Đan và Ép-ra-im bị lược bỏ, có lẽ điều này cho thấy rằng chúng ta không nên coi trọng quá về nghĩa đen. Giăng chỉ muốn bảo đảm rằng tất cả người tin Đức Chúa Trời sẽ có mặt trong thành (He 11:39-40).
Giăng đã đo thành Giê-ru-sa-lem trên đất (Kh 11:1-3), nhưng bây giờ ông được mời đo thành trên trời. Hình vuông có nghĩa “các cạnh đều bằng nhau”, vì vậy thành phố có thể là một khối vuông hoặc một kim tự tháp. Quan trọng hơn, việc thành có các cạnh bằng nhau cho thấy sự trọn vẹn của thành đời đời của Đức Chúa Trời: chẳng có gì lộn xộn và không cân bằng.
Số đo của thành cũng gây cho chúng ta sửng sốt! Nếu chúng ta lấy một cubit có độ dài là mười tám inch (25,4 mm), lúc ấy các tường thành của thành phố sẽ cao 216 bộ (67 mét)! Nếu một furlong tính bằng 600 bộ (số đo khác vào thời cổ xưa), thành phố sẽ có diện tích 1.500 dặm vuông! (2.400 km vuông). Thành phố này bằng khoảng ba phần tư diện tích của Hoa Kỳ. Do đó sẽ có nhiều chỗ cho mọi người!
Kiến trúc của thành phố không thể không cuốn hút chúng ta. Tường thành làm bằng bích ngọc, như thuỷ tinh trong suốt nhưng thành được xây bằng vàng ròng trong vắt như pha lê. Sự sáng của vinh quang Đức Chúa Trời sẽ chiếu sáng khắp thành, giống như một viên bửu thạch khổng lồ.
Việc xây dựng nền móng thường ở dưới đất, nhưng các nền móng ở đây không những thấy được nhưng còn được chạm trổ bằng nhiều đá quí. Mỗi nền riêng biệt sẽ được trang sức bằng một loại đá, màu sắc pha trộn sẽ rực rỡ khi ánh sáng Đức Chúa Trời chiếu xuyên qua.
Không ai có thể giáo lý hoá về các màu sắc của những loại đá quý này, và điều đó thật chẳng có gì quan trọng. Bích ngọc (Jasper) như chúng ta đã thấy là loại thuỷ tinh trong vắt. Ngọc Lam (Sapphire) có màu xanh lục, mã não có thể có màu xanh. Dĩ nhiên đá lục cẩm (emerald) có màu lục đậm và đá hồng mã não (sardonyx) giống như đá cẩm thạch có nhiều màu, một loại đá trắng có vân màu nâu, dầu một số học giả mô tả nó màu đỏ và trắng.
Hoàng Ngọc là đá màu đỏ (đôi khi được mô tả có màu đỏ như “máu”), Ngọc hoàng bích màu vàng lục, Thuỷ thương là ngọc thạch xanh lục và hồng bích là ngọc thu ba vàng.Chúng ta không chắc về ngọc phỉ tuý một số người cho rằng nó là đá có sắc như vàng, số khác cho rằng nó có màu trái táo xanh. Ngọc hồng bửu có lẽ là màu xanh biển, mặc dầu một số người cho rằng nó màu vàng và ngọc tử bửu là ngọc thạch anh tím.
Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng của sự tươi đẹp, Ngài sẽ tô điểm vẻ đẹp của Ngài cho thành phố Ngài đang sắm sẵn cho con dan Ngài. Có thể Giăng đã nghĩ đến thành thánh khi ông viết về “các thứ ơn của Đức Chúa Trời” (IPhi 4:10), vì chữ đã dịch là “các thứ” có nghĩa là “có nhiều màu, có nhiều đốm”
Vào thời cổ xưa, ngọc trai được xem là “ngọc hoàng gia”, được tạo nên do một con vật thân mềm bao phủ một hạt cát cấy vào bên trong vỏ của nó. Nhưng các cổng thiên đàng làm bằng ngọc trai sẽ không bao giờ đóng lại (Kh 21:25) vì sẽ không có hiểm nguy nào xâm nhập làm quấy rầy hoặc gây ô uế các công dân trong thành.
Giăng lưu ý rằng trong thành phố sẽ khuyết thiếu một số điều mục, nhưng sự vắng mặt của chúng chỉ làm gia tăng sự vinh hiển của thành. Sẽ không có đền thờ, vì Đức Chúa Trời sẽ hiện diện khắp thành phố. Thật vậy, trên trời người ta có thể phân biệt được giữa “thế tục” và “thánh khiết”. Sẽ không có mặt trời mặt trăng vì Chúa là đèn của của thành, và sẽ không bao giờ có đêm nữa (Es 60:19).
Việc đề cập các nước trong Kh 21:24,26 cho thấy rằng sẽ có nhiều dân tộc (số nhiều)sống trên trái đất mới. Vì trong cõi đời đời sẽ chỉ có người được vinh hiển, nên chúng ta không nên nghĩ rằng trái đất sẽ có nhiều dân tộc khác nhau định cư như ngày nay. Thay vào đó, những câu này phản ánh tập tục thời cổ khi các vua và các nước mang của cải và sự vinh hiển đến thành phố của vị vua lớn nhất. Tại thành phố trên trời, mọi người sẽ tôn vinh “Vua các vua” (Thi 68:29 Thi 72:10-11 Es 60)
(Kh 22:1-5). Trong Kh 22:1-5 chúng ta đi vào trong thành phố và khám phá nó giống như một khu vườn xinh đẹp, gợi cho chúng ta nhớ lại hình ảnh Khu Vườn Ê-đen.Vườn Ê-đen có bốn con sông (Sa 2:10-14), nhưng trong thành phố trên trời chỉ có một con sông.
Tiên tri Ê-xê-chi-ên thấy một con sông tinh khiết lưu xuất từ đền thờ, chắc chắn đó là khung cảnh ngàn năm bình an (Exe 47:1-23) nhưng con sông này sẽ phát xuất trực tiếp từ ngôi Đức Chúa Trời, chính là nguồn của mọi sự tinh khiết. Con người bị cấm ăn trái cây biết điều thiện và điều ác, và bị ngăn không cho ăn trái cây sự sống (Sa 2:15-17 Sa 3:22-24). Nhưng trong nhà đời đời, loài người sẽ được phép đến gần cây sự sống. Con sông và cây sự sống biểu tượng cho sự sống dư dật trong thành vinh hiển.
Cụm từ “chẳng còn có sự nguyền rủa nữa” dẫn chúng ta đi ngược lại Sa 3:14-19 lúc bắt đầu có sự nguyền rủa. Thật thú vị, ngay cả Cựu-ước cũng kết thúc bằng lời phán, “Kẻo Ta đến lấy sự rủa sả mà đánh đất này” (Ma 4:6). Nhưng Tân-ước dạy, “Và sẽ không còn có sự rủa sả nữa! ”. Quỷ Sa-tan sẽ bị giao nộp cho địa ngục mọi tạo vật sẽ được làm nên mới và sự rủa sả của tội lỗi sẽ biến mất đời đời.
Chúng ta sẽ làm gì trong cõi đời đời? Chắc chắn, chúng ta sẽ ngợi khen Chúa, nhưng chúng ta còn phục vụ Ngài nữa. “Tôi tớ Ngài sẽ hầu hạ Ngài” (Kh 22:3) là sự yên ủi lớn lao cho chúng ta, vì trên trời chúng ta sẽ hầu việc Ngài cách trọn vẹn.Khi tìm cách hầu việc Chúa tại trần gian này, chúng ta vẫn thường bị khuyết thiếu vì cớ tội lỗi và sự yếu đuối nhưng mọi ngăn trở sẽ tiêu biến khi chúng ta vào trong sự vinh hiển. Hầu việc trọn lành trong môi trường trọn vẹn!
Sự hầu việc này là gì?
Kinh Thánh không cho chúng ta biết, và bây giờ chúng ta cũng không cần nên biết. Chúng ta biết điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm ngày nay là đủ rồi. Nếp sống trung tín chuẩn bị cho chúng ta sự hầu việc tốt đẹp hơn trên trời. Thực ra, một số nhà nghiên cứu cho rằng chúng ta sẽ có quyền vào trong vũ trụ bao la và có thể được sai đi làm sứ mạng đặc biệt đến nhiều nơi khác. Nhưng suy đoán chẳng có ích lợi gì, vì Đức Chúa Trời không thấy việc dành thời gian đi vào chi tiết là đúng.
Chúng ta không những là tôi tớ trên trời, nhưng còn là vua nữa. Chúng ta sẽ trị vì mãi mãi! Điều này nói đến sự dự phần quyền năng của Đấng Christ trong vinh hiển. Là con cái Chúa, ngày nay chúng ta được ngồi với Đấng Christ tại các nơi trên trời (Eph 2:1-10) nhưng trong cõi đời đời, chúng ta sẽ trị vì như các vua trên trời và dưới đất. Thật đáng tôn quí! Ôi lạ lùng thay ân điển Chúa!
Chắc chắn, chúng ta có thể hỏi nhiều câu hỏi thú vị về tương lai chúng ta trên trời, nhưng hầu hết các câu hỏi không được trả lời cho đến khi chúng ta vào đến nhà vinh hiển. Thực ra, Giăng kết thúc sách bằng cách nhắc chúng ta nhớ rằng ngày nay chúng ta có trách nhiệm vì chúng ta đang trên đường về nhà trên trời.
3. Sự thách thức của thành phố (Kh 22:6-21)
Trời không chỉ là nơi đến nhưng đó còn là sự thúc đẩy hành động. Việc biết rằng sẽ ở trong thành phố trên trời ắt phải có tác động đến nếp sống của chúng ta ngay trong hiện tại. Nhìn thấy thành phố trên trời đã thúc giục các tổ phụ khi họ đồng đi với Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài (He 11:10,13-16).
Biết rằng Ngài sắp trở về cùng Cha Ngài trên trời cũng nâng đỡ Chúa Giê-xu Christ khi đối diện với Thập Tự Giá (He 12:2). Chúng ta không được để sự bảo đảm về nước trời làm chúng ta tự mãn hoặc bất cẩn, nhưng phải là điều thúc giục chúng ta làm trọn các bổn phận thuộc linh của mình. Trước hết...
• Chúng Ta Phải Giữ Lời Đức Chúa Trời (Kh 22:6-11,18-19).
Vì những gì Giăng viết là Lời Đức Chúa Trời, lời Ngài là thành tín và chân thật (Kh 19:11). Cùng một Đức Chúa Trời đã phán dạy qua các đấng tiên tri, cũng phán dạy qua Sứ đồ Giăng. Là “nền móng” về sự mạc khải của Đức Chúa Trời, sách Giăng viết không thể tách rời ra khỏi các phần khác trong Kinh Thánh. Nếu chúng ta phủ nhận rằng Giăng không viết sự thật, vậy chúng ta phải phủ nhận luôn các đấng tiên tri nữa.
“Giữ những lời tiên tri trong sách này” có nghĩa gì? (Kh 22:7). Về cơ bản, có nghĩa là bảo vệ, chăm nom, bảo toàn nguyên vẹn. Chúng ta không được thêm hoặc bớt một điều nào trong Lời của Đức Chúa Trời (Phu 4:2 Ch 30:5-6). Và trách nhiệm này là đặc biệt lớn lao vì cớ sự tái lâm của Đấng Christ. Chữ mau chóng trong Kh 22:6 có nghĩa “đến nhanh chóng”. Từ thời các sứ đồ Hội thánh đã trông đợi Đấng Christ trở lại, và Ngài chưa đến nhưng khi lời tiên tri Giăng viết bắt đầu ứng nghiệm, các lời ấy sẽ xảy ra nhanh chóng. Không chút chậm trễ.
Những lời khuyên bảo trong các câu 18-19 không nói rằng người xâm phạm vào Lời Kinh Thánh sẽ bị trả về lại trái đất để chịu đau đớn qua các tai vạ trong Cơn Đại Nạn, hoặc họ sẽ mất sự cứu rỗi. Không ai có thể hiểu trọn vẹn Kinh Thánh hoặc có thể giải nghĩa mọi điều trong Kinh Thánh và nhiều người trong chúng ta dạy Kinh Thánh thỉnh thoảng cũng phải thay đổi cách giải thích khi chúng ta lớn lên trong sự hiểu biết. Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng, và Ngài có thể phân biệt sự dốt nát với sự vô lễ và sự ấu trĩ với loạn nghịch.
Vào thời cổ xưa các nhà viết sách thường có thói quen để lời nhắc nhở vào cuối sách, vì người sao chép sách cho nhiều người đọc có thể bị cám dỗ thêm bớt trong nguyên bản. Tuy nhiên, lời nhắc nhở của Giăng không nhằm vào người viết, nhưng cho người nghe, đó là những người tin Chúa nhóm lại trong nhà hội nơi sách này được đọc lớn tiếng. Tuy nhiên, theo phép loại suy thì lời nhắc nhở này ngày nay áp dụng cho bất kỳ ai đọc và nghiên cứu sách này.
Có thể chúng ta không thể giải thích được các án phạt ghi trong sách, nhưng chúng ta biết rõ điều này: Xâm phạm đến Lời Đức Chúa Trời là một việc làm nguy hiểm. Người nào giữ và vâng theo Lời Đức Chúa Trời sẽ được phước nhưng ai thay đổi lời ấy sẽ bị đoán phạt.
Lần thứ hai Giăng kinh ngạc về những gì ông thấy và nghe và ông quì xuống thờ lạy nơi chân vị thiên sứ đang nói với ông (Kh 19:10). Vị thiên sứ cho Giăng ba lời khuyên: đừng thờ lạy thiên sứ hãy thờ lạy Đức Chúa Trời và đừng niêm phong sách Khải-huyền. Tiên tri Đa-ni-ên được lệnh niêm phong sách (Da 12:4), vì thì giờ chưa sẵn sàng. Sách Giăng viết là “sự mạc khải”, sự vén mở bức màn bí ẩn (Kh 1:1), và do đó, không được niêm phong sách.
Một lần nữa, Đức Thánh Linh muốn nhắc nhở chúng ta về sự hiệp nhất sống động trong Lời Đức Chúa Trời. Trong bài nghiên cứu, chúng ta đã thấy Đức Thánh Linh dẫn dắt Giăng như thế nào, ông trở lại với Cựu ước và dùng nhiều hình ảnh ghi trong Cựu-ước, kể cả lời tiên tri của Đa-ni-ên. Kinh Thánh là nhà giải kinh tốt nhất của Kinh Thánh.
Kh 22:11 có cho thấy Đức Chúa Trời không muốn con người ăn năn và thay đổi đường của họ không? Không, vì điều đó sẽ mâu thuẫn với sứ điệp của sách Khải-huyền và của chính Tin Lành Phúc-Âm. Lời phán của thiên sứ phải được hiểu trong ánh sáng của lời được lặp lại ở đây, “Nầy, Ta đến mau chóng” (c7,12), cũng như lời người nói, “Vì thì giờ đã gần rồi” (c.10). Sự tái lâm của Chúa Giê-xu Christ sẽ xảy ra nhanh đến nỗi con người không có thời gian để thay đổi cá tính của họ.
Vì vậy, câu 11 là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc cho biết sự quyết định sẽ quyết định bản tính và bản tính sẽ quyết định số phận. Các tín hữu trải qua đau khổ có thể hỏi, “Sống nếp sống tin kính có giá trị chăng?” Giăng trả lời, “Vâng! Chúa Giê-xu sắp trở lại, và Ngài sẽ ban thưởng cho bạn! ”. Tiếp đến là lời khuyên thứ hai của Giăng.
• Chúng Ta Có Trách Nhiệm Hầu Việc Chúa (Kh 22:12-15).
“Ta sẽ đem phần thưởng theo với Ta” ngụ ý rằng Đức Chúa Trời ghi nhớ mọi nỗi khổ và sự hầu việc của chúng ta, chẳng có việc làm nào là vô ích nếu chúng ta làm vì Ngài. Tại Toà Án của Chúa Giê-xu Christ, con cái Chúa sẽ được phán xét tuỳ theo công việc của mỗi người và phần thưởng sẽ được trao cho người nào trung tín với Ngài.
Suốt lịch sử Hội thánh, lúc nào cũng có những người đã “để tâm trí trên trời quá đến nỗi họ không còn để tâm vào thế gian nữa” (theo lời của Dwight L. Moody). Họ bỏ việc làm của mình, bán tài sản, và ngồi chờ đợi Chúa Gê-xu tái lâm. Dĩ nhiên tất cả họ đều xấu hổ, vì Kinh Thánh không ấn định ngày Chúa đến. Cũng không đúng với Kinh Thánh khi trở nên bất cẩn và biếng nhác chỉ vì chúng ta tin rằng Chúa Giê-xu chẳng bao lâu nữa sẽ đến. Phao lô đối diện với vấn đề này với một số tín hữu tại Tê-sa-lô-ni-ca (IITe 3:1-18).
Chẳng lạ gì khi Giăng thêm vào, “Phước thay cho những kẻ giặt áo mình đặng có phép đến nơi cây sự sống và bởi các cửa mà vào trong thành! ” (Kh 22:14). Nếu thật tin rằng Chúa Giê-xu sắp đến, chúng ta sẽ tỉnh thức và trung tín (Lu 12:35).
Kh 22:13 là lời an ủi lớn lao cho bất cứ ai tìm cách hầu việc Chúa. Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời bắt đầu, Ngài sẽ hoàn tất vì Ngài là An-pha và Ô-mê-ga, bắt đầu và kết thúc, đầu tiên và cuối cùng (Phi 1:6 Phi 2:12-13). Trách nhiệm thứ ba của chúng ta...
• Chúng Ta Phải Giữ Nếp Sống Chúng Ta Trong Sạch (Kh 22:14-16).
Đây là điểm tương phản giữa những người làm theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời được vào trong thành phố và những người chối bỏ Lời Ngài và bị loại ra khỏi thành phố (Kh 21:8,27). Không hẳn những người “làm theo điều răn của Đức Chúa Trời” là nhóm người xuất sắc đặc biệt trong vòng các thánh đồ. Cụm từ này tương đương với “những người đã chiến thắng” và tiêu biểu cho tất cả con dân của Đức Chúa Trời. Vâng theo Lời Đức Chúa Trời là dấu hiệu của sự cứu rỗi thật.
Các danh xưng của Chúa chúng ta trong câu 16 vô cùng kỳ diệu. “Rễ” nằm trong đất không ai thấy được, nhưng “ngôi sao” ở trên các tầng trời mọi người đều có thể thấy được . “Chồi và hậu tự của Đa-vít “ chúng ta có danh xưng Do-thái của Chúa Giê-xu, nhưng về “ngôi sao mai sáng chói” chúng ta có danh xưng vũ trụ của Ngài. Danh xưng này nói về sự khiêm nhường của Ngài, danh xưng kia nói về sự oai nghi và vinh hiển.
Là “rễ...của Đa-vít”, Chúa Giê-xu Christ hiện hữu qua Đa-vít. Là “hậu tự của Đa-vít”, Chúa Giê-xu đến thế giới này trong hình hài một người Do-thái theo dòng dõi Đa-vít. Cả thần tính và nhân tính của Chúa Giê-xu ở đây thật rõ ràng.Để có điểm tương ứng, xem Mat 22:41-46.
“Ngôi sao mai” báo hiệu bình minh sắp lộ ra. Chúa Giê-xu Christ sẽ đến vì Hội thánh Ngài như “ngôi sao mai”. Nhưng khi Ngài trở lại để xét đoán, sẽ là “Mặt trời công bình” đang thiêu đốt (Ma 4:1-3). Vì con dân Đức Chúa Trời trông đợi sự tái lâm của Chúa, nên họ giữ gìn nếp sống thanh sạch và tận trung với Ngài (IGi 2:28-3:3). Do đó...
• Chúng Ta Phải Trông Đợi Chúa Giê-xu Christ Trở Lại (Kh 22:17,20-21).
Trong chương kết thúc này Giăng viết ba lần, “Ta (Đấng Christ ) đến mau chóng” (c.7,12,20). Nhưng Ngài đã “chậm trễ” sự tái lâm của Ngài gần 2.000 năm! Vâng đúng vậy, Ngài đã hoãn lại sứ đồ Phi-e-rơ cho chúng ta biết lý do tại sao: Đức Chúa Trời muốn cho thế giới tội lỗi có cơ hội ăn năn và được cứu (IIPhi 3:1). Trong khi chờ đợi Thánh Linh Đức Chúa Trời, thông qua Hội thánh (cô dâu), kêu gọi Chúa Giê-xu đến vì cô dâu mong muốn gặp Tân Lang của nàng và bước vào nhà của nàng. “Lạy Đức Chúa Giê-xu, xin hãy đến” (Kh 22:20).
Nhưng con cái Chúa còn phải mời gọi tội nhân hư mất đến tin nhận Đấng Christ và uống nước hằng sống. Thật vậy, khi Hội thánh sống trong sự trông đợi Đấng Christ tái lâm, thái độ ấy kích thích sự hầu việc Chúa và truyền rao Phúc-Âm cứu tội nhân cùng giữ lòng thánh khiết cho Chúa. Chúng ta muốn rao ra hồng ân của Đức Chúa Trời cho nhiều người khác. Hiểu đúng đắn lời tiên tri trong Kinh Thánh vừa thúc giục chúng ta làm theo lời Đức Chúa Trời vừa cùng với Đức Chúa Trời mời gọi thế giới lạc mất trở về cùng Ngài.
Nếu việc nghiên cứu sách Khải-huyền của chúng ta thật sự được Đức Thánh Linh hướng dẫn, chúng ta sẽ hiệp lòng với Giăng trong lời cầu nguyện cuối cùng:
“A-men, Lạy Đức Chúa Giê-xu, xin hãy đến!”
Bạn sẵn sàng chưa?
bottom of page