top of page

CÁC QUAN-XÉT (2)

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Lịch Sử (Cựu-ước)



9. ÁNH SÁNG LUNG LINH (Cac 13:1-14:20)


“Đó...

...là một điều khó hiểu được bao bọc trong một bí mật bên trong một người khó hiểu”. Trong một bài diễn thuyết phát thanh ngày 1/10/1939, đó là cách ông Winston Churchill mô tả những hành động của người Nga trong thời của ông. Nhưng điều ông nói về những hành động của người Nga có thể được áp dụng cho Sam-sôn, vị quan xét cuối cùng, vì cách cư xử của ông là “một điều khó hiểu được bao bọc trong một bí mật bên trong một người khó hiểu.”


Sam-sôn thuộc dạng không thể đoán trước được và không thể tin cậy được vì ông phân tâm, và “một người phân tâm không ổn định trong mọi việc của mình” (Gia 1:8). Người ta thường nói rằng “khả năng lớn nhất là tính có thể tin cậy được” và bạn có thể tin cậy nơi Sam-sôn để không thể trông mong gì được.


Can đảm trước những người đàn ông, Sam-sôn đã yếu đuối trước những người đàn bà và không thể cưỡng lại việc cho họ biết những bí mật của mình. Được Thánh Linh Đức Chúa Trời ban năng lực, ông đã nộp thân thể mình cho những tham muốn của thể xác. Được kêu gọi để tuyên chiến với dân Phi-li-tin, ông đã kết thân với kẻ thù và thậm chí tìm cách cưới một người nữ Phi-li-tin. Ông tham gia những cuộc chiến của Chúa ban ngày, và bất tuân những điều răn của Chúa ban đêm. Được đặt cho cái tên Sam-sôn, có nghĩa là “nắng”, ông đã kết thúc trong sự tối tăm, bị làm mù lòa bởi chính kẻ thù mà ông tưởng đã chinh phục.


Bốn chương trong sách Các Quan-xét được dành cho lịch sử về Sam-sôn. Trong Cac 13:14 chúng ta được giới thiệu về “nắng” và cha mẹ ông, và chúng ta thấy ánh sáng lung linh khi Sam-sôn đùa với tội lỗi. Trong Các 15:16 ánh sáng tắt và Sam-sôn chết như một người tử đạo dưới sự đổ nát của một đền thờ ngoại đạo, một kết thúc đáng buồn đối với một đời sống đầy hứa hẹn (1).


Chúng ta hãy mở album gia đình của Sam-sôn và nghiên cứu ba bức tranh của Sam-sôn được chụp đầu tiên trong sự nghiệp của ông.


1. Đứa trẻ với lời hứa khó tin (Cac 13:1-23)

Hãy xem xét lời hứa lớn lao được bao bọc trong con người tên Sam-sôn này.


Ông có một dân tộc để bảo vệ (Cac 13:1).

Với sự đều đặn tẻ nhạt mà chúng ta đã đọc nhóm từ này trong sách Các quan xét (Cac 3:7,12;4:1-2;6:1;10:6-7), và ở đây nó xuất hiện lần cuối. Nó giới thiệu thời kỳ áp bức dài nhất mà Đức Chúa Trời giáng cho dân sự Ngài, 40 năm thống trị của dân Phi-li-tin.


Dân Phi-li-tin (2) ở giữa vòng “dân biển” là những người trong thế kỷ thứ 12 TC đã di trú từ một vùng của Hy-lạp đến đồng bằng ven biển của Ca-na-an. Dân Do-thái đã không thể chiếm địa phận đó suốt cuộc chinh phạt xứ của họ (Gios 13:1-2). Khi bạn nghiên cứu bản đồ, bạn sẽ để ý rằng đời sống dân tộc tập trung quanh năm thành chính: Ách-đốt, Ga-xa, Ách-kê-lôn, Gít, và Éc-rôn (ISa 6:17). Xứ giữa vùng đồi của Y-sơ-ra-ên và đồng bằng ven biển được gọi là “Shephelah”, nghĩa là “vùng thấp”, và nó phân cách Phi-li-tin với Y-sơ-ra-ên. Sam-sôn được sinh ra ở Xô-rê-a, một thành hay chi phái Đan gần biên giới Phi-li-tin, và ông thường vượt biên giới đó để hầu việc Đức Chúa Trời hoặc để thỏa mãn những khao khát của mình.


Sam-sôn xét đoán Y-sơ-ra-ên “trong thời kỳ dân Phi-li-tin” (Cac 15:20) nghĩa là hai mươi năm trong chức vụ của ông là suốt bốn mươi năm thống trị của Phi-li-tin. Tấn sĩ Leon Wood ghi niên hiệu khởi đầu sự áp bức của Phi-li-tin khoảng năm 1095 TC và kết thúc vào năm 1055 TC với chiến thắng của Y-sơ-ra-ên tại Mích-ba (ISa 7:1-17). Khoảng giữa thời kỳ này xảy ra cuộc chiến A-phéc khi Y-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin đánh bại một cách nhục nhã và mất hòm giao ước cùng ba thầy tế lễ (ISa 4:22). Tiến sĩ Wood gợi ý rằng chức quan xét của Sam-sôn bắt đầu khoảng thời gian bi kịch tại A-phéc và công việc chính của ông là quấy rầy dân Phi-li-tin và ngăn trở họ tràn vào xứ thành công và đi dọa dân sự (3).


Đáng chú ý rằng không có chứng cớ nào được trình bày trong bản văn cho thấy Y-sơ-ra-ên đã kêu cầu Đức Chúa Trời về sự giải cứu bất cứ lúc nào suốt 40 năm thống trị của Phi-li-tin. Dân Phi-li-tin đã lột vũ khí của dân Do-thái (ISa 13:19-23) và vì vậy chẳng sợ gì về một cuộc nổi dậy. Cac 15:9-13 cho thấy rằng dân Do-thái rõ ràng bằng lòng với số phận của họ và không muốn Sam-sôn “lắc lư chiếc thuyền”. Thật đáng sợ cách chúng ta có thể nhanh chóng quen với ách nô lệ và biết cách chấp nhận hiện trạng. Nếu dân Phi-li-tin hà khắc hơn đối với dân Do-thái, có lẽ dân Do-thái sẽ cầu xin Đức Giê-hô-va giúp đỡ.


Không giống đa số các quan xét trước, Sam-sôn đã không giải cứu dân sự ông khỏi sự thống trị ngoại bang nhưng ông bắt đầu công việc giải cứu mà những người khác sẽ hoàn thành (Cac 13:5). Là một anh hùng mạnh mẽ và không thể đoán trước được, Sam-sôn đã làm sợ hãi và gây rối cho dân Phi-li-tin (Cac 16:24) và ngăn trở họ tàn phá Y-sơ-ra-ên như những quốc gia xâm lược khác đã làm. Nhưng sẽ cần những lời cầu nguyện của Sa-mu-ên (ISa 7:1-17) và những cuộc chinh phạt của Đa-vít (IISa 5:17-25) để hoàn thành công việc mà Sam-sôn đã bắt đầu và cho Y-sơ-ra-ên chiến thắng hoàn toàn trên dân Phi-li-tin.


Ông có một Đức Chúa Trời để hầu việc (Cac 13:2-5).

Chi phái Đan vốn là xứ được phân định gần kề Giu-đa và Bên-gia-min, kéo dài đến Biển Địa Trung Hải (Gios 19:40-48). Tuy nhiên, vì dân Đan không thể đuổi cư dân ven biển được, nên chi phái này đã đặt lại vị trí mới và đi đến phía Bắc (Cac 18:1-19:30), dù một số người ở lại trong địa phương ban đầu. Xô-rê-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng mười lăm dặm ở trong vùng đồi gần biên giới Phi-li-tin.


Khi Đức Chúa Trời muốn làm điều gì thật sự lớn lao trong thế giới của Ngài, Ngài không sai một đạo quân ngoài một thiên sứ. Thiên sứ này thường thăm viếng một cặp vợ chồng và hứa ban cho họ một đứa con. Kế hoạch lớn lao của Ngài về sự cứu rỗi đã bắt đầu tiến hành khi Ngài gọi Áp-ra-ham Sa-ra và ban cho họ Y-sác. Khi Ngài muốn giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ của dân Ê-díp-tô, Đức Chúa Trời đã ban em bé Môi-se cho Am-ram với Giô-kê-bết (Xu 6:20) và khi trong những năm sau đó Y-sơ-ra-ên hết sức cần sự phục hưng. Đức Chúa Trời đã ban em bé Sa-mu-ên cho An-ne (ISa 1:1-28). Khi thời điểm trọn đã đến, Đức Chúa Trời đã ban Hài nhi Giê-xu cho Ma-ri, và em bé đó đã lớn lên để chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi của thế gian.


Những em bé vốn yếu ớt, nhưng Đức Chúa Trời sử dụng những sự yếu của thế gian để đánh bại sự mạnh mẽ (ICo 1:26-28). Những em bé phải có thời gian để lớn lên, nhưng Đức Chúa Trời kiên nhẫn và không bao giờ chậm trễ trong việc thực hiện ý muốn Ngài. Mỗi em bé Đức Chúa Trời ban là món quà từ Đức Chúa Trời, một khởi đầu mới và mang theo nó tiềm năng to lớn. Thật là một bi kịch khi chúng ta sống trong một xã hội xem em bé trong tương lai như một mối đe dọa thay vì một phép lạ, một kẻ xâm phạm thay vì một di sản.


Chúng ta có mọi lý do để tin “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” Đấng thăm viếng vợ của Ma-nô-a là Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời (Sa 22:1-18; 31:11-13; Xu 3:1-6; Cac 6:11-24). Giống như Sa-ra (Sa 18:9-15), An-ne (ISa 1:1-28) và Ê-li-sa-bét (Lu 1:5-25), vợ của Ma-nô-a son sẻ và chưa bao giờ mong có một đứa con. Vì chính người mẹ là người sẽ có ảnh hưởng lớn nhất trên đứa con, cả trước và sau khi ra đời, nên thiên sứ long trọng giao cho bà điều phải làm.


Giống như Giăng Báp-tít, Sam-sôn sẽ là một Na-xi-rê từ trong lòng mẹ (Lu 1:13-15). Từ Na-xi-rê đến từ một từ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “biệt riêng hiến dâng”. Nhưng Na-xi-rê là người trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, dâng mình cho Chúa một cách đặc biệt. Họ kiêng uống rượu và các thứ uống mạnh, họ tránh chạm đến xác chết, và như một dấu hiệu của sự dâng mình, họ để tóc dài. Những luật có liên quan đến lời thề nguyện Na-xi-rê được trình bày trong Dân-số ký.


Vợ của Ma-nô-a phải thận trọng vật gì bà ăn và uống vì chế độ ăn uống của bà sẽ ảnh hưởng đến đứa con trai Na-xi-rê tương lai của bà và có thể làm ô uế đứa con ấy. Thật quá tệ khi mọi người mẹ tương lai không thực hành lời cảnh cáo. Vì trong những năm gần đây, phương tiện truyền tin cho chúng ta biết về những hậu quả đáng buồn rằng các trẻ sơ sinh chịu khổ khi mẹ chúng sử dụng thuốc lá, rượu, thuốc ngủ suốt thai kỳ. Lời thề nguyện Na-xi-rê của Sam-sôn không phải là điều gì đó do ông tự nguyện thực hiện: Đức Chúa Trời đã ban điều đó cho ông, và mẹ ông là một phần của của lời thề nguyện về sự dâng hiến. Bà không chỉ phải tránh bất cứ thứ gì liên quan đến nho, mà bà còn phải tránh những thức ăn không tinh sạch đối với dân Do-thái (Le 11:1-47; Phuc 14:3-20).


Thông thường, một lời thề nguyện Na-xi-rê được dành cho một khoảng thời gian giới hạn, nhưng trong trường hợp của Sam-sôn, lời thề nguyện phải kéo dài trọn đời ông (Cac 13:7). Đây là điều mà Ma-nô-a và vợ ông sẽ phải dạy cho con trai họ, và họ cũng sẽ phải giải thích vì sao họ không cắt tóc con trai mình. Những yêu cầu của Đức Chúa Trời là dành cho đứa trẻ này, và đó là bổn phận của cha mẹ để rèn luyện đứa trẻ cho công việc Đức Chúa Trời đã sai đứa trẻ ấy làm.


Ông có một gia đình để tôn trọng (Cac 13:6-23).

Vợ của Ma-nô-a lập tức cho chồng bà biết về sự viếng thăm và sứ điệp của vị khách lạ, dù không ai trong số họ biết rằng vị khách ấy là Chúa (c. 16). Ma-nô-a cho rằng vị ấy là “một người của Đức Chúa Trời”, có lẽ một tiên tri đến thăm viếng và ông cầu nguyện để Chúa sẽ sai người ấy trở lại, chúng ta không khỏi có ấn tượng với sự tận tụy của vợ chồng này đối với nhau và đối với Chúa. Thời kỳ các quan-xét là một thời kỳ về sự bỏ đạo và tình trạng vô chính phủ, nhưng Đức Chúa Trời vẫn hành động qua họ.


Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của Ma-nô-a và cho ông một cơ hội để đặt một câu hỏi quan trọng mà thiên sứ của Chúa chưa bao giờ trả lời: “Khi nào những lời của ông được ứng nghiệm, đâu là luật lệ cho đời sống và công việc của đứa trẻ?” (c. 12 NIV). Luật Cựu-ước không chỉ trình bày những chỉ dẫn có liên quan đến người Na-xi-rê cùng thức ăn tinh sạch và không tinh sạch, mà còn cho các cha mẹ biết cách nuôi dạy con cái (Phuc 6:1-25). Không cần thiết để Chúa trình bày cho Ma-nô-a và vợ ông những chỉ dẫn khi Lời của Đức chúa Trời đã cho họ biết điều gì phải làm. Vị sứ giả chỉ lặp lại lời cảnh báo mà người đã ban cho vợ của Ma-nô-a.


Muốn làm một chủ nhà tốt và đáng cảm kích, Ma-nô-a yêu cầu vị khách chờ đợi trong lúc ông và vợ ông chuẩn bị một bữa ăn cho người (Cac 6:18-19; Sa 18:1-8). Lời đáp khó hiểu của vị khách lạ đó là người sẽ không ăn thức ăn của họ nhưng sẽ cho phép họ dâng một của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va. Xét cho cùng, đứa con trai được hứa ban của họ là một món quà từ Đức Chúa Trời, và họ nợ Chúa sự thờ phượng cùng sự tạ ơn.


Nhưng Ma-nô-a tự nhủ, “nếu ta không thể tôn trọng người này của Đức Chúa Trời bây giờ có lẽ ta có thể làm điều đó trong tương lai khi những lời của người trở thành sự thật và đứa con trai được sinh ra” (Chú ý ràng Ma-nô-a tin lời rao báo và nói rằng “khi” chớ không phải “nếu”). Ma-nô-a sẽ phải biết tên của người ấy, để ông có thể tìm đến người sau chín tháng, nhưng người ấy không muốn cho biết tên mình ngoại trừ nói rằng tên ấy “diệu kỳ” (Sa 32:29). Đây chính là lời được dùng để định danh Đấng Mê-si-a trong Es 9:6 nó được dịch là “diệu kỳ” trong Cac 13:19 của KIV, (NIV nói; “sự gây kinh ngạc”).


Thông thường, những người Do-thái thờ phượng đem của lễ họ đến bàn thờ đền tạm ở Si-lô, nhưng vì “người Đức Chúa Trời” ra lệnh cho Ma-nô-a dâng của lễ thiêu, nên làm việc ấy tại đó có thể được cho phép, bằng cách dùng một hòn đá làm bàn thờ. Bất ngờ, vị khách thăng thiên trong ngọn lửa! Chỉ khi ấy Ma-nô-a và vợ ông mới khám phá rằng vị khách của họ là một thiên sứ từ Đức Giê-hô-va. Điều này khiến Ma-nô-a hoảng sợ, vì dân Do-thái tin rằng không ai có thể nhìn lên Đức Chúa Trời và sống (Cac 6:19-23). Sử dụng ý thức thông thường, vợ của Ma-nô-a thuyết phục ông tin rằng họ không thể chết và thực hiện những lời hứa của Đức Chúa Trời cùng một lúc.


Mọi đứa trẻ sinh ra trong một gia đình tin kính đều mang trách nhiệm tôn trọng thanh danh của gia đình. Đời sống mâu thuẫn của Sam-sôn đã đem đến sự nhục nhã cho nhà cha ông cũng như nó đã đem đến sự sỉ nhục cho danh của Chúa. Những người bà con của Sam-sôn đã phải kéo xác ông ra khỏi đống đổ nát của đền thờ Phi-li-tin và đem xác về nhà để chôn cất (Cac 16:31). Theo một ý nghĩa nào đó, đó là một ngày chiến thắng trên những kẻ thù của Đức Chúa Trời, nhưng đó cũng là một ngày thất bại đối với gia đình của Sam-sôn.


2. Nhà vô địch với sức mạnh không thể đánh bại (Cac 13:24-25)

Đứa bé đã ra đời và được đặt tên là Sam-sôn, nghĩa là “nắng” hay “sự rực rỡ”. Chắc chắn ông đã đem đến ánh sáng và niềm vui cho Ma-nô-a cùng vợ ông, những người nghĩ họ sẽ không bao giờ có một gia đình, và ông cũng bắt đầu đem đến ánh sáng cho Y-sơ-ra-ên suốt những ngày tối tăm trong sự áp bức của Phi-li-tin. Trong khi những quan xét khác được nói rằng họ được mặc bởi Thần của Đức Chúa Trời (Cac 3:10;6:34;11:29), chỉ Sam-sôn được nói rằng “Đức Giê-hô-va ban phước cho người” (Cac 13:24; Lu 1:80 2:52). Bàn tay Đức Chúa Trời ở trên ông cách đặc biệt.


Bí mật về sức mạnh to lớn của Sam-sôn là lời thề nguyện Na-xi-rê của ông, được tượng trưng bằng tóc không cạo của ông (Cac 16:17) và nguồn sức mạnh đó là Thánh Linh của Đức Chúa Trời (Cac 13:25;14:6, 19;15:14). Chúng ta không được cho biết rằng cơ thể của Sam-sôn đặc biệt khác với cơ thể của người khác, dù ông có thể giống những người mạnh mẽ được mô tả trong các sách chuyện Kinh Thánh. Có lẽ khi ông bước vào những năm thiếu niên, lúc một đứa con trai Do-thái trở thành một “con trai của luật pháp”, thì ông bắt đầu bày tỏ khả năng đáng kinh ngạc của mình.


Chỉ một ít đại công của Sam-sôn được ghi lại trong sách Các Quan-xét: giết sư tử bằng tay không (Cac 14:5-6), giết ba mươi người Phi-li-tin (c. 19), bắt ba trăm con cáo (hoặc chó rừng) và cột đuốc vào đuôi chúng (Cac 15:3-5) bứt dây trói (Cac 15:14;16:9,12,14), giết một ngàn người bằng hàm lừa (Cac 15:15), đem cửa thành ra khỏi Ga-xa (Cac 16:3), và phá hủy đền thờ Phi-li-tin (c. 30). Cac 16:24 cho thấy ông đã thực hiện nhiều chiến công hơn những chiến công được liệt kê ở trên, những chiến công đã gây thiệt hại cho dân Phi-li-tin.


Khi bạn suy gẫm sự ghi chép về cuộc đời của Sam-sôn, bạn có cảm tưởng rằng ông là một chàng trai trích đùa với một tính hài hước, và đôi khi ông không xem trọng những tài năng và công việc của mình. Một tính hài hước là một điều tốt đẹp để có, nhưng nó phải được quân bình với sự tận tụy nghiêm túc cho những điều thuộc về Chúa. “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ, và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi 2:11). Sứ mạnh của Sam-sôn là một vũ khí để chiến đấu và là một công cụ để xây dựng, không phải là một món đồ chơi để chơi.


Hãy để ý một điều nữa, Sam-sôn là một người cô đơn, không giống các quan xét trước, ông không bao giờ “tập hợp quân” và tìm cách hiệp nhất Y-sơ-ra-ên trong việc ném bỏ ách của Phi-li-tin. Trong hai mươi năm ông đóng vai trò người vô địch, nhưng ông đã không đóng vai người lãnh đạo. Joseph Parker đã nói rằng Sam-sôn là “một con voi về sức mạnh nhưng là một em bé về sự yếu đuối”. Chúng ta có thể thêm vào rằng khi nói về chức lãnh đạo, ông là một con chiên lạc mất!


3. Người có tính cách không thể tin cậy (Cac 14:1-20)

Theo He 11:32 Sam-sôn là một người có đức tin, nhưng ông chắc chắn không phải là một người trung tín. Ông không trung tín với sự dạy dỗ của cha mẹ ông, với lời thề nguyện Na-xi-rê, hay những luật lệ của Chúa, không mất thời gian lây để Sam-sôn đánh mất mọi sự Chúa đã ban cho ông, ngoại trừ sức mạnh to lớn của ông, và cuối cùng ông cũng mất sức mạnh đó.


Ông đánh mất sự tôn trọng của mình đối với cha mẹ (Cac 14:1-4). Chúa đã ban cho Sam-sôn một di sản tin kính, và ông đã được dạy dỗ để tôn trọng Chúa, nhưng khi Sam-sôn rơi vào tình yêu, ông không muốn nghe cha mẹ mình khi họ cảnh cáo ông. Sam-sôn đã lang thang bốn dặm trong địa phận của kẻ thù nơi ông bị một người nữ Phi-li-tin quyến rũ và quyết định cưới nàng. Dĩ nhiên, điều này trái với luật pháp Đức Chúa Trời (Xu 34:12-16; Phuc 7:1-3; IICo 6:14-18).


Sam-sôn đang sống bởi ngoại cảnh chớ không bởi đức tin. Ông bị điều khiển bởi “tư dục của mắt” (IGi 2:16) hơn là bởi luật pháp của Chúa. Điều quan trọng đối với Sam-sôn không phải là làm đẹp lòng Chúa, thậm chí không phải là làm đẹp lòng cha mẹ ông, nhưng làm đẹp lòng chính ông (Cac 14:3, 7; IICo 5:14-15).


Khi Đức Chúa Trời không được cai trị trong đời sống chúng ta. Ngài tể trị và thực hiện ý muốn Ngài bất chấp những quyết định của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta là người thua cuộc để chống lại Ngài, nhưng Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành những mục đích của Ngài với chúng ta hoặc bất chấp chúng ta (Exo 4:10-14). Sam-sôn lẽ ra phải đến một cuộc chiến thay vì đến một lễ cưới, nhưng Đức Chúa Trời sử dụng sự kiện này để cho Sam-sôn cơ hội tấn công kẻ thù. Bởi sự kiện này, Sam-sôn đã giết ba mươi người (Cac 14:19) đốt mùa màng của kẻ thù (Cac 15:1-5), giết những người Phi-li-tin (c. 7-8) và giết 1. 000 người khác nữa (c. 15). Sam-sôn đã không vạch kế hoạch cho những việc này, nhưng Đức Chúa Trời đã thực hiện chúng như vậy.


Ông đã đánh mất sự biệt riêng Na-xi-rê (Cac 14:5-9).

Khi Sam-sôn cùng cha mẹ ông đi xuống Thim-na để sắp đặt cho hôn nhân, có vẻ rằng Sam-sôn đã rời con đường chính (và cha mẹ ông) rồi đi một đường vòng vào trong vườn nho, và ở đó một con sư tử đã tấn công ông. Vườn nho là một nơi nguy hiểm đối với một người không được xem là có việc gì để làm với trái nho (Dan 6:1-4). Phải chăng Đưc Chúa Trời đã sai con sư tử đến như một sự cảnh cáo cho Sam-sôn rằng ông đang đi trên con đường sai lạc? Thánh Linh đã ban cho Sam-sôn sức mạnh để đánh bại kẻ thù, nhưng Sam-sôn cứ ở trên con đường bất tuân của ông để vào địa phận kẻ thù và một lễ cưới bất hợp pháp.


Vài tuần lễ sau đó, khi Sam-sôn trở lại để thỉnh cầu cô dâu của ông một lần nữa ông đi vào trong vườn nho. Lần này để nhìn chiến tích của ông và có lẽ hả hê về chiến thắng của mình. Tội lỗi của ông bắt đầu bằng “tư dục của xác thịt” và “tư dục của mắt” và giờ đây nó kể đến “sự kiêu ngạo của đời sống” (IGi 2:16). Khi Sam-sôn ăn mật ông từ xác sư tử, ông đã bị ô uế bởi một xác chết, và phần dâng hiến Na-xi-rê của ông đã bị hủy hoại. Thật ra, hai phần ba lời thề nguyện của ông giờ đây đã mất vì ông đã làm ô uế chính mình bằng cách đi vào vườn nho và bằng cách ăn thực phẩm từ một xác chết.


Ông đánh mất sự điều khiển của lưỡi mình (Cac 14:10-18).

Vì Sam-sôn đã không đem theo bất cứ người nào đi với ông để phục vụ như “các bạn của chàng rễ” (Mat 9:15 NKJV), dân Phi-li-tin đã tập họp ba mươi người để làm công việc này cho ông. Những người này có thể cũng đã phục vụ như lính canh cho dân Phi-li-tin. Vì tiếng tăm của Sam-sôn đã đặt trước ông, và họ không bao giờ biết chắc ông sẽ làm gì kế tiếp. Vì không khí chắc đã căng thẳng vào đầu buổi tiệc, nên Sam-sôn tìm cách làm cho mọi sự náo nhiệt bằng cách đưa ra một câu đố. Đáng buồn mà nói, ông đã đặt câu đố từ kinh nghiệm tội lỗi mình! Ông đã không xem quan trọng việc ông vi phạm những lời thề nguyện Na-xi-rê của mình. Bất tuân Đức Chúa Trời là cũng đủ tệ hại, nhưng khi bạn làm trò đùa từ đó, bạn đã chìm xuống những độ sâu mới của tính vô cảm về thuộc linh.


Sẽ là một điều đắt giá để ba mươi vị khách cung cấp cho Sam-môn sáu mươi bộ quần áo, vì vậy họ hết sức muốn biết câu trả lời cho câu đó. Sự trông cậy duy nhất của họ là tranh thủ sự giúp đỡ của vợ Sam-sôn. Vì vậy họ dọa giết nàng và đốt nhà cha nàng nếu nàng không cung cấp câu trả lời trước khi tuần lễ kết thúc. Sam-sôn đã tuyệt đối chối từ cho nàng biết, nhưng vào ngày thứ bảy, ông đã mủi lòng.

Vì hôn nhân phải được hoàn tất vào ngày thứ bảy, có lẽ điều đó có gì liên hệ với nó. Trước tiên, người nữ Phi-li-tin dụ dỗ ông (Cac 14:1), sau đó nàng điều khiển ông (c. 17) và rồi nàng phản bội ông (c. 17) là cách thế gian luôn đối xử với tín đồ thỏa hiệp. Sam-sôn có thể giết sư tử và biết dây thừng, nhưng ông không thể chiến thắng sức mạnh những giọt nước mắt của một người đàn bà.


Chúng ta không biết vợ ông cảm thấy thế nào khi bị so sánh với một con bò con? Châm ngôn này đơn giản nghĩa là “Bạn không thể làm được điều nào bạn đã làm nếu bạn không phá những luật lệ”, vì các bò cái không được dùng cho việc cày bừa. Vì các vị khách đã chơi gian, nên về mặt chuyên môn, Sam-sôn có thể từ chối trả giải thưởng, nhưng ông hào hiệp đồng ý giữ lời hứa của mình. Có lẽ ông đã nhận ra rằng đời sống của vợ ông đã bị đe doạ và ông không muốn đặt nàng và gia đình nàng vào cảnh hiểm nghèo lần nữa.


Những ai không thể điều khiển lưỡi mình thì không thể điều khiển thân thể mình (Gia 3:2), và trong trường hợp của Sam-sôn, những hậu quả của sự thiếu kỷ luật này thật tai hại.


Sam- sôn đã mất bình tĩnh (Cac 14:19-20).

Ông đã đi hai mươi dặm đến Ách-ca-lôn nên tin tức về vụ giết người sẽ không đến Thim-na quá sớm. Trò đùa của ông về sư tử và mật ong đã không còn là một trò đùa, vì nó dẫn đến cái chết của 30 người có những bộ quần áo mà Sam-sôn đã tịch thu. Sam-sôn quá giận dữ đến nỗi ông thậm chí không hoàn tất hôn nhân nhưng trở về Xô-rê-a và ở với cha mẹ ông. Trong khi ông ở xa Thim-na, vợ ông đã bị trao cho một người thân nhất của ông. Chúa đã sử dụng chiều hướng của những sự kiện này để thúc đẩy Sam-sôn quyết định chiến đấu với dân Phi-li-tin thay vì mua vui cho họ.


Nếu Sam-sôn thành công trong cách của ông và cưới một người nữ Phi-li-tin, mối liên hệ dó sẽ làm hỏng công việc Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông làm. Những tín đồ ngày nay bước vào những quan hệ không thánh khiết đều đang phạm tội và cũng ngăn công việc của Chúa (IICo 6:14-18). Nếu Sam-sôn tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, Chúa sẽ chỉ dẫn cho ông. Ngược lại, Sam-sôn đã đi con đường riêng của ông, và Chúa phải tể trị những quyết định ích kỷ của ông.


“Ta sẽ chỉ dẫn ngươi và dạy ngươi trong con đường ngươi phải đi, ta sẽ hướng dẫn ngươi bằng mắt ta. Chớ như con ngựa hoặc như con la, là vật không có sự hiểu biết, phải bị cầm giữ bằng hàm khớp và dây cương, bằng chẳng chúng nó sẽ không đến gần ngươi” (Thi 32:8, 9 NKJV). Nếu chúng ta nhìn mặt Chúa bởi đức tin, Ngài có thể hướng dẫn chúng ta bằng mắt Ngài, cách mà các cha mẹ hướng dẫn con cái họ. Nhưng nếu chúng ta quay lưng với Ngài, Ngài phải đối xử với chúng ta như con vật và cầm giữ chúng ta. Sam-sôn đang lao về phía trước một cách mãnh liệt như con ngựa hoặc bướng bỉnh lùi lại như con la, và Đức Chúa Trời phải đối phó với ông.



 


9. ÁNH SÁNG ĐÃ TẮT (Cac 15:1-16:32)


Đời sống của Sam-sôn minh họa lẽ thật xưa rằng một khởi đâu tốt không bảo đảm một kết thúc tốt. Nhà thơ người Mỹ Henry Wodswort Long Fellow đã nói: “Nghệ thuật khởi đầu là vĩ đại, nhưng nghệ thuật kết thúc vĩ đại hơn”. Đó là lý do Sa-lô-môn đã viết: “Cuối cùng của một việc hơn sự khởi đầu của nó” (Tr 7:8 NIV).


Lúc khởi đầu của sự nghiệp mình, Sam-sôn đã hầu việc trong một sự sáng chói của vinh quang, nhưng ánh sáng băt đầu lung linh khi ông đầu hàng những đam mê của mình. Trong những cảnh cuối của đời ông, chúng ta thấy ánh sáng của Sam-sôn cuối cùng tắt, và nhà vô địch mù lòa kết thúc ở chỗ bị chôn trong đống gạch vụn của một đền thờ ngoại đạo. Như vậy, ông đã giết nhiều người trong sự tử đạo của mình hơn số ông đã giết suốt thời kỳ làm quan xét của ông, nhưng sẽ khác biết bao nếu ông trước hết chiến thắng bản thân trước khi ông tìm cách chiến thắng những kẻ thù của Chúa. Spurgeon đã nói: “Cả đời của ông là một chuỗi phép lạ và sự ngu dại”.


Chúng ta hãy xem những cảnh cuối trong đời Sam-sôn và học từ đó lý do ông đã không kết thúc tốt đẹp.


1. Sam-sôn trả thù cho mình (Cac 15:1-8)

Sự đam mê thậm chí dường như điều khiển đời sống Sam-sôn. Phương châm của ông là “Ta làm cho chúng nó như chúng nó đã làm cho ta” (Cac 15:11). Tôi nhận ra rằng là người bảo vệ của Y-sơ-ra-ên, sự kêu gọi dành cho Sam-sôn là đánh bại kẻ thù, nhưng bạn mong thấy ông chiến đấu “những cuộc chiến của Chúa” chớ không chỉ những cuộc chiến của riêng ông. Khi Đa-vít đối diện với dân Phi-li-tin, ông xem họ như kẻ thù của Chúa và tìm cách tôn trọng danh Chúa trong chiến thắng của mình (ISa 17:1-13). Thái độ của Sam-sôn lại khác.


Là Cơ-đốc nhân, chúng ta cần coi chừng việc che giấu những động cơ ích kỷ dưới cái lốt của sự nhiệt tâm tôn giáo và gọi đó là “sự phẫn nộ công bình”. Sự phục thù cá nhân và tư lợi hơn là vinh hiển của Chúa đã thúc đẩy hơn một “người tham gia” trong Hội thánh. Điều mà một số người nghĩ là sự nhiệt tâm tin kính có thể thật sự là cơn giận bất kính, được nuôi dưỡng bởi sự kiêu ngạo và được thúc đẩy bởi sự ích kỷ. Có một cơn giận tin kính mà chúng ta nên kinh nghiệm khi chúng ta thấy sự gian ác thành công và những người cô thế bị tổn thương (Eph 4:26), nhưng có một ranh giới rất tinh vi giữa sự phẫn nộ công bình và một “cơn tức giận mang vẻ tôn giáo”.


Ông trả thù cuộc hôn nhân thất bại của mình (Cac 15:1-5).

Mặc dù chưa bao giờ hoàn tất cuộc hôn nhân, Sam-sôn nghĩ mình đã cưới người nữ ở Thim-na một cách hợp pháp. Vì vậy, ông mang theo một món quà và đi thăm nàng ở nhà cha nàng. Ông bị sốc biết bao khi biết rằng ông không chỉ chưa lấy vợ, mà người nữ ông yêu giờ đây cũng bị gả cho người phụ rễ!. Sam-sôn đã trả “giá cô dâu” theo luật pháp, và giờ đây ông không có tiền cũng không có vợ.


Sam-sôn tức giận, và thậm chí lời đề nghị về một cô dâu trẻ hơn và xinh đẹp hơn cũng không làm ông nguôi ngoai. Nếu có ai phải bị trừng phạt, thì đó chính là cha vợ của ông. Ông ta thât sự là một thủ phạm. Xét cho cùng, ông đã lấy tiền và lấy cô dâu đi cho người sai đối tượng! Nhưng Sam-sôn quyết định trút cơn giận trên dân Phi-li-tin bằng cách đốt lúa trong ruộng của họ.


Từ được dịch là “cáo” cũng có nghĩa là “chó rừng” và đó có thể là loài vật Sam-sôn đã sử dụng. Cáo là loài vật sống ẩn dật, nhưng chó rừng đi lại trong những đàn lớn. Vì vậy, bắt ba trăm chó rừng sẽ dễ hơn cho Sam-sôn, và chắc chắn ông đã tranh thủ sự giúp đỡ của người khác. Nếu ông cột đuốc vào mỗi con vật, mỗi con sẽ lập tức chạy về hang chúng. Nhưng bằng cách kết hợp hai con vật với nhau và để chúng nới lỏng, Sam-sôn có thể khá chắc chắn rằng sự sợ lửa của chúng và sự bất lực xoay sở của chúng sẽ dễ dàng làm chúng hoảng sợ. Vì vậy chúng sẽ chạy điên cuồng quanh trong đồng ruộng và đốt cháy lúa. Lửa sau đó sẽ lan vào vườn nho và rừng cây ô-li-ve. Đó là một sự tàn phá đắt giá.


Vì sao ông quyết định hủy hoại mùa màng của Phi-li-tin bằng một cách lạ lùng như thế thì không rõ ràng đối với chúng ta. Nếu những người khác giúp đỡ ông, Sam-sôn có thể tấn công nhiều đồng ruộng cùng một lúc, và dân Phi-li-tin không thể nhìn thấy những con vật trên đất, sẽ hoảng sợ và bối rối, không biết điều gì đã gây ra lửa. Những con chó rừng chắc chắn sẽ tạo âm thanh ồn ào, đặc biệt nếu bị vây trong ngọn lửa dồn đến hoặc bị áp đảo bởi khói.

Câu đố và vần thơ của ông (Cac 15:16) cho thấy rằng Sam-sôn có một tính hài hước trẻ con và có lẽ phương pháp này cho trận hỏa hoạn nông nghiệp chỉ là giờ đùa khác đối với ông. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng Đức Chúa Trời đang sử dụng những kỳ công của Sam-sôn để quấy rầy dân Phi-li-tin và chuẩn bị cho họ sự thất bại chắc chắn sẽ đến trong một vài năm.


Ông trả thù cái chết của vợ ông (Cac 15:6-8).

Bạo lực sanh bạo lực, và dân Phi-li-tin sẽ không đứng quanh mà chẳng làm gì khi lương thực và của cải họ đi theo những ngọn lửa. Họ đoán ra rằng Sam-sôn ẩn phía sau việc đốt mùa màng của họ, và họ biết họ phải trả đũa. Vì họ không thể mong thắng Sam-sôn, họ đã làm việc kế tiếp và trút cơn giận lên vợ cùng cha vợ của ông. Cuối cùng, sự phản bội của nàng đối với Sam-sôn đã không cứu mạng nàng (Cac 14:15).


Phản ứng của Sam-sôn ra sao? “Vì các ngươi đã hành động như vậy ta sẽ không ngừng lại cho đến khi ta trả thù các ngươi” (Cac 15:7 NIV). Chúng ta không biết ông đã giết bao nhiêu người Phi-li-tin hoặc ông đã sử dụng vũ khí nào nhưng đó là một “sự tàn sát lớn”. Sau cuộc tấn công, ông đã rút lui về một hang động trong “hang đá Ê-tam”. Đây không phải là Ê-tam được đề cập trong ISu 4:32 (quá xa) hoặc IISu 11:6 (chưa được xây dựng). Đó là một nơi cao nào đó ở Giu-đa, gần Lê-chi, mà từ đó Sam-sôn có thể quan sát kẻ thù một cách an toàn và tiện lợi.


2. Sam-sôn tự bảo vệ mình (Cac 15:9-20)

Nếu Sam-sôn có thể tấn công dân Phi-li-tin, vậy dân Phi-li-tin có thể trả đũa và tấn công Y-sơ-ra-ên, xét cho cùng, Y-sơ-ra-ên không có vũ khí, cũng không có quân đội. Sư xâm lược Giu-đa không giúp cho Sam-sôn được khâm phục đối với dân của ông, những người đáng buồn mà nói đã bằng lòng đầu phục láng giềng của họ và lợi dụng một hoàn cảnh xấu. Thay vì xem Sam-sôn là người giải cứu của họ, dân Giu-đa xem ông là một kẻ gây rối.


Thật khó làm một lãnh đạo nếu bạn không có những người đi theo, nhưng một phần lỗi ở chỗ Sam-sôn. Ông đã không thách thức dân sự, sắp xếp họ, và tin cậy Đức Chúa Trời ban cho họ chiến thắng. Ông thích làm việc một mình, chiến đấu những cuộc chiến của Chúa như thể đó là những mối hận thù riêng của ông. Tôi nhận ra rằng sự kêu gọi Sam-sôn là khởi đầu để giải phóng dân tộc (Cac 13:5), nhưng với tôi, dường như ông có thể thực hiện một khởi đầu mạnh mẽ hơn. Khi dân sự Đức Chúa Trời trở nên dễ chịu với hiện trạng, và những lãnh đạo của họ không thúc đẩy họ đến chỗ hành động, họ ở trong hình dạng khá tệ hại.


Khi những người Giu-đa biết rằng dân Phi-li-tin chỉ muốn bắt và trói Sam-sôn, họ đề nghị giúp đỡ. Một dân tộc ở trong trạng thái đáng buồn thật sự khi các công dân hợp tác với kẻ thù và giao nộp người lãnh đạo của họ đã được Đức Chúa Trời chỉ định! Đây là lần duy nhất suốt chức vụ quan xét của Sam-sôn mà dân Do-thái đã tập họp một quân đội, và đó là vì mục đích bắt một người trong dân của họ! Nhưng Sam-sôn nhận ra rằng nếu ông không nộp mình cho kẻ thù, đạo quân Phi-li-tin sẽ đem đến hoạn nạn không kể xiết cho xứ, vì vậy ông sẵn sàng đầu hàng. Nếu ông tự bảo vệ mình, ông sẽ phải chiến đấu với dân mình. Nếu ông trốn thoát, điều mà ông có thể dễ dàng làm được, ông sẽ khiến cho ba ngàn người Giu-đa làm miếng mồi ngon cho đạo quân Phi-li-tin. Có điều gì đó anh hùng đối với quyết định của Sam-sôn, nhưng dân Giu-đa không hiểu điều đó.


Bởi quyền năng của Thánh Linh, Sam-sôn dễ dàng bứt những dây thừng mà dân Giu-đa đã đặt trên hai cánh tay ông, nhặt một hàm lừa mới (một hàm lừa cũ sẽ rất giòn) và giết một ngàn người Phi-li-tin. Chúng ta không biết dân Giu-đa nghĩ gì khi họ nhìn xem tù nhân của họ, người anh em của họ, giết những kẻ xâm lược đơn phương độc mã. Có ai trong số họ cảm nhận sự thôi thúc để nhặt lấy những vũ khí của những người Phi-li-tin bị giết và tham gia vào cuộc chiến? Họ sẽ biết cách sử dụng chúng chăng?


Sam-sôn có một cá tính với lời nói.

Tại bữa tiệc cưới, ông nghĩ ra một câu đố thông minh (Cac 14:14). Và sau đại thắng này, ông viết một bài thơ. Nó dựa trên cơ sở sự giống nhau giữa các âm của từ Hê-bơ-rơ ‘hamor’ (“lừa”) và ‘Homer’ (“đống”). James Moffatt dịch bài thơ đó: “Với một xương hàm của con lừa, ta đã dồn chúng thành một đống. Với xương hàm của một con lừa, ta đã tấn công những kẻ tấn công” (3).


Nhưng kỷ niệm chiến thắng của ông không kéo dài lâu, vì Đức Chúa Trời nhắc nhở ông rằng ông chỉ là một con người và phải có nước để sống. Rất thường trong Kinh Thánh, thử thách theo sau chiến thắng. Dân Y-sơ-ra-ên vượt Biển Đỏ chưa bao lâu thì họ khát nước (Xu 15:22-27)và đói (Xu 16:1-36). Chiến thắng của Ê-li trê núi Cạt-mên được tiếp theo bởi sự bỏ chạy nhục nhã của ông đến núi Hô-rép (IVua 18:1-19:21). Nếu chiến thắng không được quân bình bằng những thử thách, có một hiểm họa mà chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo và cậy mình.


“Giá như Sam-sôn chỉ chú ý sự cảnh cáo này và cầu xin Đức Chúa Trời không chỉ nước mà còn sự hướng dẫn!” Xin chớ dẫn chúng tôi vào sự cám dỗ sẽ là lời cầu nguyện hoàn hảo cho giờ đó. Chúng ta nhanh chóng làm sao khi cầu xin sự giúp đỡ cho thân thể khi mà có lẽ những nhu cầu lớn nhất của chúng ta là con người bên trong. Chính khi chúng ta yếu đuối là lúc chúng ta mạnh mẽ (IICo 12:10) và khi chúng ta nhờ cậy hoàn toàn nơi Chúa, chúng ta được an toàn nhất.


Lời cầu nguyện của Sam-sôn cho thấy ông xem mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời và ông không muốn kết thúc đời mình bằng cách sa vào tay của dân Phi-li-tin bất kính. Tiếc thay, đó chính là điều đã xảy ra. Nhưng Đức Chúa Trời đầy thương xót và đã thực hiện một phép lạ bằng cách mở một suối nước trong một chỗ trũng. Sam-sôn giải cơn khát của mình và đặt nơi ấy các tên “Suối của người kêu cầu” nơi mà Sam-sôn đã giết những người Phi-li-tin nhận được cái tên “Đồi xương Hàm”. Một số bản dịch gây ấn tượng rằng nước ra từ xương hàm vì tên nơi này bằng ttiếng Hê-bơ-rơ là Lê-chi, có nghĩa là “xương hàm” trong NKJV, Cac 15:19 viết: “Vì vậy, Đức Chúa Trời đã chỉ chỗ trũng ở tại Lê-chi” và NASB với NIV thực chất tương tự.


3. Sam-sôn cám dỗ chính mình (Cac 16:1-3)

Ga-xa là một thành phố cảng quan trọng nằm cách thành quê hương Xô-rê-a của Sam-sôn khoảng 40 dặm. Chúng ta không được cho biết vì sao Sam-sôn đến đó, nhưng có lẽ không phải ông tìm kiếm thú vui xác thịt. Có nhiều kỵ nữ có mặt ở Y-sơ-ra-ên dù luật pháp kết án hoạt động này (Le 19:29; Phuc 22:21). Chính sau khi đến Ga-xa mà Sam-sôn đã nhìn thấy một kỵ nữ và quyết định thăm viếng nàng. Một lần nữa tư dục của mắt và tư dục của xác thịt kết hợp lại để giữ chặt Sam-sôn và khiến ông trở thành một nô lệ cho những đam mê của mình.


Dường như chúng ta không thể tin rằng một tôi tớ của Đức Chúa Trời (Cac 15:18) đã làm những việc lớn trong quyền năng của Thánh Linh, sẽ thăm viếng một kỵ nữ nhưng sự ghi chép ở đây nói về tất cả những gì phải đọc. Chúa chắn chắn không cho phép ở đây nói về tất cả những gì phải đọc. Chúa chắc chắn không cho phép hành vi như thế, đặc biệt là phần của một Na-xi-rê, và kinh nghiệm này đối với Sam-sôn là một bước nữa đi xuống sự tối tăm và huỷ diệt. Trong những năm gần đây, đã có những vụ tai tiếng trong giới chính quyền ở Nước Mỹ thôi cũng đủ để đặt chúng ta ở sự đề phòng. “Vậy ai tưởng mình đứng, hãy chú ý kẻo ngã” (ICo 10:12 NKJV).


Chúng ta không thể làm gì khi Sa-tan và các quỷ của nó cám dỗ chúng ta, nhưng khi chúng ta cám dỗ chính mình chúng ta trở nên kẻ thù của chính mình. Đức Chúa Trời không cám dỗ chúng ta (Gia 1:12-15). Khi chúng ta cầu nguyện “xin chớ dẫn chúng tôi vào sự cám dỗ” (Mat 6:13), chúng ta đang cầu xin rằng chúng ta không cám dỗ chính mình hoặc đặt mình trong một vị trí mà chúng ta thử Đức Chúa Trời. Chúng ta thử Ngài bằng cách buộc ngài can thiệp và giải cứu chúng ta hoặc bằng cách thách thức Ngài ngăn trở chúng ta. Tính cách con người có thể bị sa đọa quá nhiều đến nỗi họ không cần phải bị cám dỗ để phạm tội. Tất cả những gì họ cần là cơ hội để phạm tội, và họ sẽ cám dỗ chính mình, kinh nghiệm tình dục trái phép có thể khởi đầu ngọt ngào như mật, nhưng nó kết thúc cay đắng như ngải (Ch 5:1-14). Sam-sôn người đàn ông, đã trở nên Sam-sôn con vật khi kỵ nữ dẫn ông đến chỗ tàn sát (Ch 7:6-23).


Tin tức rằng kẻ thù của họ là Sam-sôn đang ở trong thành đã lâu truyền đến dân ở Ga-xa, và họ cắt một lính canh tại cửa thành để bắt và giết ông vào buổi sáng. Nhưng Sam-sôn quyết định rời thành vào giữa đêm trong lúc các lính canh đang ngủ. Việc các cửa thành được đóng lại không làm ông sợ. Ông nhổ đi các cánh cửa, các cột trụ, và các then rồi mang chúng đi. Ông đã đem chúng đi trên đường đến Hếp-rôn, một quãng đường khoảng bốn mươi dặm, hay chỉ đến một ngọn đồi đối diện Hếp-rôn, tùy thuộc vào cách bạn dịch Cac 16:3. Cả hai cách lý giải đều có thể đúng.


Cổng thành không chỉ là một sự bảo vệ cho thành, mà còn là nơi các quan chức gặp nhau để giải quyết công việc (Phu 25:7 Ru 4:1-2). “Chiếm được cửa thành của quân thù” là một ẩn dụ, nghĩa là “đánh bại kẻ thù của bạn” (Sa 22:17 24:60). Khi Chúa Giê-xu nói về các cửa địa ngục (âm phủ) không đánh bại Hội thánh (Mat 16:18). Ngài đang mô tả chiến thắng của Hội thánh trên những thế lực của Sa-tan và ma quỷ. Bởi sự chết và phục sinh của Ngài, Chúa Giê-xu Christ đã “đột kích các cửa địa ngục” và mang chúng đi trong chiến thắng!


4. Sam-sôn phản bội chính mình (Cac 16:4-22)

Trũng Sô-réc nằm giữa Xô-rê-a và Thim-na trên biên giới Giu-đa và Phi-li-tin. Thành Beth Shemesh (Bết-sê-mết) nằm ở đó. Mỗi khi Sam-sôn đi vào địa phận kẻ thù, ông đều “đi xuống” về mặt địa lý và thuộc linh (Cac 14:1,5,7,10). Lần này ông tìm thấy một người nữ trong trũng, không quá xa nhà, và ông yêu nàng. Thật là một điều nguy hiểm khi nấn ná ở biên giới của kẻ thù, bạn có thể bị bắt.


Cùng với Đa-vít và Bát-sê-ba, Sam-sôn và Đa-li-la đã thu hút sự tưởng tượng của nhiều nhà văn, nghệ sĩ, nhà sáng tác và nhà kịch nghệ, Handel đã kể đến Đa-li-la trong bản nhạc ô-ra-tô “Sam-sôn” của ông và Saint-Saens đã viết một vở Ô-pé-ra về “Sam-sôn và Đa-li-la” (“Bacchanale” từ tác phẩm đó vẫn là một bản hoà tấu nổi tiếng). Khi Sam-sôn chung sống với Đa-li-la trong trũng Sô-réc, ông không bao giờ mơ rằng điều mà họ đã làm với nhau sẽ được thực hiện thành một bộ phim Hollywood và được chiếu ra màu sắc trên màn ảnh rộng.


Các học giả không đồng ý về ý nghĩa của tên Đa-li-la. Một số người cho rằng nó có nghĩa là “người nhiệt tình”gợi ý rằng nàng có thể là một kỵ nữ đền thờ. Nhưng Đa-li-la không bị gọi là một kỵ nữ như người nữ ở Ga-xa, dù đó có thể là những gì ở nơi nàng. Vì vấn đề đó, Đa-li-la thậm chí không được nhận biết như một người Phi-li-tin. Tuy nhiên, từ việc giao thiệp của nàng với các quan trưởng Phi-li-tin, nàng có vẻ là một người Phi-li-tin. Những sinh viên khác tin rằng cơ sở cho tên nàng là từ Hê-bơ-rơ “dalal” nghĩa là “làm suy yếu, làm mất công dụng”. Dù đây có phải là sự truy nguyên đúng hay không, nàng chắc chắn đã làm Sam-sôn suy yếu và mất công dụng!


Mỗi quan trưởng Phi-li-tin đều đề nghị trả cho Đa-li-la một số tiền đáng kể nếu nàng dụ dỗ Sam-sôn và biết nguồn gốc sức mạnh lớn lao của ông. Họ không muốn giết Sam-sôn, họ muốn làm cho sức mạnh của ông mất tác dụng để bắt ông, hành hạ ông và sau đó sử dụng ông vì những mục đích riêng của họ. Việc triển lãm và điều khiển nhà vộ địch lớn của Y-sơ-ra-ên sẽ cho dân Phi-li-tin sự an toàn lẫn tầm cỡ giữa các dân tộc và chắc chắn sẽ làm thoả mãn cái tôi của họ khi họ làm nhục dân Do-thái.


Khi Đa-li-la bắt đầu điều tra bí mật sức mạnh của ông, Sam-sôn lẽ ra nên cẩn thận về hiểm họa của mình, và giống như Giô-sép (Sa 39:12 IITi 2:22), nên chạy trốn càng nhanh càng tốt. Nhưng sự đam mê đã thu hút ông, tội lỗi đã gây mê ông, và ông không thể hành động hữu lý. Bất cứ ai cũng có thể cho ông biết rằng Đa-li-lê đang khiến ông trở nên đại dột nhưng Sam-sôn sẽ không tin ai.


Không có vẻ như những người Phi-li-tin đã trốn trong phòng nàng để lộ chính họ mỗi khi Sam-sôn thoát khỏi dây thừng, vì khi ấy ông sẽ biết rằng Đa-li-la đã đặt bẫy ông. Tiếng kêu la của nàng “người Phi-li-tin xông hãm ngươi!” là hiệu lệnh cho các thám tử cảnh giác, nhưng khi họ thấy rằng Sam-sôn tự do họ tiếp tục ẩn náu. Mỗi lời nói dối của Sam-sôn có liên quan đến việc Đa-li-la sử dụng loại dây thừng nào đó trên ông, nhưng những người Phi-li-tin lẽ ra phải biết rằng ông không thể bị trói (Cac 15:13).


Đa-li-la tiếp tục hành động trên Sam-sôn, nếu không nàng sẽ mất tiền bạc và có lẽ mạng của nàng. Xét cho cùng, hãy xem điều dân Phi-li-tin đã làm cho người vợ thứ nhất của Sam-sôn! Nếu Sam-sôn thôi thăm viếng Đa-li-la, ông sẽ giữ tóc mình và sức mạnh của mình (5), nhưng ông cứ trở lại, và mỗi lần nàng đều van xin ông bày tỏ bí mật mình. Sam-sôn đã không biết chính lòng mình. Ông nghĩ mình có sức mạnh luân lý đủ để nói không với người đàn bà cám dỗ, nhưng ông sai lầm.


Khôn ngoan trong những phương diện về tội lỗi (Lu 16:8 Ch 7:21) suốt lần thăm viếng thứ bốn, Đa-li-la biết rằng ông cuối cùng nói cho nàng biết sự thật. Vì “đội quân” Phi-li-tin đã bỏ đi sẽ đến sau lần thất bại thứ ba, nên Đa-li-la cho mời họ nhanh chóng và họ một lần nữa trốn trong phòng nàng.


Khi tiếng la của Đa-li-la làm Sam-sôn thức giấc, ông nghĩ đó là môt trong những trò lừa khác của nàng và ông có thể giải quyết hoàn cảnh như trước đó. Nhưng ông sai lầm, khi ông mất mái tóc dài của mình, Chúa đã rời khỏi ông, và ông yếu đuối như những người khác. Sức mạnh của ông đến từ Chúa, không phải từ tóc của ông, nhưng tóc của ông là dấu hiệu lời thề nguyện Na-xi-rê của ông. Thánh Linh đã giáng trên ông với sức mạnh đó và giờ đây đã lìa khỏi ông.


Dan 6:7 theo nguyên văn là “vì sự hiến dâng (nezer) cho Đức Chúa Trời của người ở trên đầu người”. Ý nghĩa cơ bản của từ “nezer” “sự biệt riêng” hoặc “sự hiến dâng, nhưng nó cũng được dùng chỉ về một mão triều” (IISa 1:10 Xa 9:16 Thi 89:39). Tóc dài của Sam-sôn là “mão triều thiên” của ông và ông đã mất nó vì tội lỗi của mình. “Này, ta đến mau kíp, hãy giữ lấy điều ngươi có, hầu cho không ai cất lấy mão triều thiên của ngươi” (Kh 3:11 NKJV). Vì Sam-sôn đã không kỷ luật thân thể mình, ông đã đánh mất triều thiên và phần thưởng của mình (ICo 9:24-27).


Những người Phi-li-tin dễ dàng chế ngự Sam-sôn và cuối cùng xử ông theo ý họ. Họ móc mắt ông, trói ông và dẫn ông đến Ga-xa nơi ông làm việc khó nhọc ở cối xay, làm việc mà thường được phân cho nô lệ, đàn bà hoặc lừa. Ai đó đã nói rằng Cac 16:21 nhắc nhở chúng ta về những hậu quả của tội lỗi gây mù lòa, trói buộc, nghiền nát. trong bài thơ thiên anh hùng “Sam-sôn Agonistes” John Milton để cho nhà vô địch nói:

“Ôi sự mất ánh sáng, ta phàn nàn ngươi nhiều nhất!

Bị mù lòa giữa vòng kẻ thù, ôi còn tệ hại hơn xiềng xích,

Ngục tối, hay cảnh ăn mày, hay thời kỳ già yếu!”


Sam-sôn là một trong ba người trong Kinh Thánh đặc biệt bị đồng nhất hóa với sự tối tăm. Hai người kia là vua Sau-lơ, một người đã bước vào sự tối tăm để có sự giúp đỡ phút cuối từ một bà bóng (ISa 28:1-25) và Giu-đa, người “liền đi ra: và khi ấy đã tới” (Gi 13:30). Sau-lơ đã sống cho thế gian, Sam-sôn đã phục xác thịt, và Giu-đa đã nộp mình cho ma quỉ (Gi 13:27), và cả ba người đều đi đến chỗ cất mạng sống của chính mình.


Nhưng có một tia ánh sáng trong bóng tối. Tóc của Sam-sôn bắt đầu mọc lại. Sức mạnh của ông không ở tóc của ông nhưng ở điều mà tóc của ông tượng trưng – sự dâng mình của ông cho Đức Chúa Trời. Nếu Sam-sôn hồi phục sự dâng mình ông có thể phục hồi sức mạnh mình. Tôi tin Sam-sôn đã nói chuyện với Chúa khi ông quay cối xay, xưng nhận tội lỗi mình và cầu xin Đức Chúa Trời cơ hội cuối cùng để đánh bại kẻ thù và làm vinh hiển danh Ngài.


5. Sam-sôn tiêu diệt chính mình (Cac 16:23-31)

Thật bi thảm khi một tôi tớ của Chúa, được nuôi dạy trong một gia đình tìn kính, giờ đây là nô lệ nhục nhã của kẻ thù. Nhưng thậm chí tệ hại hơn, dân Phi-li-tin đã dành vinh hiển cho thần Đa-gôn của họ về việc giúp họ bắt kẻ thù lớn của họ. Thay vì quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Sam-sôn đã cho kẻ thù cơ hội để tôn trọng các tà thần của họ. Đa-gôn là thần lúa, và chắc chắn dân Phi-li-tin nhớ những điều Sam-sôn đã làm cho đồng ruộng của họ (Cac 15:1-5).


Dân sự tại lễ hội tôn giáo yêu cầu Sam-sôn được đem đến để mau vui cho họ. Hô ở trong tinh thần phấn khởi vì kẻ thù của họ giờ đây ở trong sự điều khiển của họ và Đa-gôn đã chiến thắng Đức Giê-hô-va. Họ nghĩ rằng sự mù loà của Sam-sôn khiến ông trở nên vô hại. Họ không biết rằng Đức Chúa Trời đã rũ lòng tha thứ ông và phục hồi sức mạnh của ông.


Trong KJV, hai từ khác nhau được dịch là “làm trò” trong Cac 16:25 (giải trí và “biểu diễn” trong NIV). Tứ thứ nhất nghĩa là tán tụng, nô đùa, trêu chọc và giải trí. Và từ thứ hai nghĩa là biểu diễn, làm trò, và cười (9). Chúng ta không được cho biết chính xác cách nào Sam-sôn đã mua vui cho đám đông lớn trong đền thờ của Đa-gôn, nhưng có một điều chắc chắn. Ông đã cho họ mọi lý do để tin rằng ông vô hại và ở dưới sự điều khiển. Ông thậm chí ở trong tay của một chú bé đang dẫn người mù từ nơi này sang nơi khác. Chúng ta đã thấy những biểu hiện trước đó rằng Sam-sôn là một người thông minh với một tính hài hước. Vì vậy chắc chắn ông đã cho khán giả điều họ cần.


Trong những cuộc thăm viếng Ga-xa trước đó, Sam-sôn chắc chắn đã thấy đền thờ này và để ý cấu trúc của nó, xét cho cùng, nó chứa hơn ba ngàn người, và sẽ khó cho ông nêú không để ý nó. Suốt thời gian ngừng sự giải trí trong ngày đó, Sam-sôn yêu cầu người phục dịch dẫn ông đi qua các cột trụ. Và ở đó ông thốt ra lời cầu nguyện cuối cùng của mình. Việc Đức Chúa Trời đáp ứng những lời yêu cầu đều thích hợp giữa ông và Chúa của ông (Thi 66:18-19).


Dường như cha mẹ của ông vào lúc này đã chết, nhưng những bà con bên cha của ông đã đến và lấy xác rồi đem chôn. Từ “anh em” trong Cac 16:31 theo tiếng Hê-bơ-rơ mang một ý nghĩa rộng về “bà con”. Theo như chúng ta biết Sam-sôn là con một. Nhóm từ “giữa Xô-rê-a và Ê-ta-lôn” trong c. 31 nhắc chúng ta về Cac 13:25 Sam-sôn đã trở lại nơi ông khởi đầu, chỉ là bây giờ ông đã chết. Ánh sáng đã tắt.


Bạn đánh giá đời sống và chức vụ của một người như Sam-sôn thế nào. Tôi nghĩ Alexander Maclaren nói điều đó hợp lý: “Thay vì tìm cách tạo một anh hùng kiêu căng từ ông, thật tốt hơn nhiều để thành thật nhận biết những giới hạn về tính cách của ông và những bất toàn về đời sống tôn giáo của ông, nếu sự đam mê trả thù của con người đơn thuần đập rộn ràng mãnh liệt trong lời cầu nguyện của Sam-sôn, ông không bao giờ nghe. Hãy yêu kẻ thù ngươi và đối với kỷ nguyên của ông, sự hủy diệt những kẻ thù của Đức Chúa Trời và của Y-sơ-ra-ên là nhiệm vụ”.


Sự suy sụp của ông bắt đầu khi ông không đồng ý với cha mẹ mình về việc cưới một người nữ Phi-li-tin. Ông đã coi thường những sự cảnh cáo của bất tuân Lời Đức Chúa Trời và bị đánh bại bởi kẻ thù của Đức Chúa Trời. Ông có lẽ nghĩ mình có đặc quyền buông thả trong tội lỗi vì ông mang huy hiệu của một Na-xi-rê và đã giành rất nhiều chiến thắng cho Chúa, nhưng ông sai lầm.


“Người nào chẳng chế trị tinh thần mình thì giống như một cái thành hư nát, không có tường” (Ch 25:28 NKJV).

“Người chậm nóng giận thắng hơn người dõng sĩ, và ai cai trị tinh thần mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành” (Ch 16:32 NKJV)


Tôi không biết Sa-lô-môn có đang nghĩ về Sam-sôn khi ông viết những lời này hay không.



 


10. “TRUNG ƯƠNG KHÔNG THỂ CẦM GIỮ” (Cac 17:1-18:31)


Trong bài thơ nổi tiếng của mình “The Second Coming” (sự ngự đến lần thứ hai), nhà thơ người Ai-len William Butler Yeats mô tả sự sụp đổ của nền văn minh bằng hình ảnh sống động và đáng sợ. Mỗi khi tôi đọc bài thơ, tôi cảm thấy bị lạnh cứng ở bên trong, và rồi tôi dâng lời cảm tạ rằng tôi biết Đấng sắp ngự đến.


Yeats viết: “Mọi sự sụp đổ Trung ương không thể cầm giữ”.


Những chương cuối của sách Các quan-xét lặp lại chủ đề đó: “Trung ương không thể cầm giữ”. Quốc gia đã từng hành quân cách khải hoàn vào Ca-na-an vì vinh hiển của Đức Chúa Trời, giờ đây tan rã về đạo đức lẫn chính trị và đem đến sự sỉ nhục cho danh Ngài. Nhưng bạn có thể trông mong điều gì khác khi “không có vua ở Y-sơ-ra-ên” và dân sự đang coi thường luật pháp của Đức Chúa Trời?


Những sự kiện được mô tả trong các chương 17-21 đã xảy ra đầu tiên trong thời kỳ Các quan xét, có lẽ trước bốn mươi năm cai trị của dân Phi-li-tin. Những hoạt động của chi phái Đan sẽ khó khăn và cuộc chiến thắng lại chi phái Bên-gia-min không thể xảy ra nếu dân Phi-li-tin đã đảm trách vào thời điểm đó. Tác giả đã đi trái với bảng niên đại lịch sử và kết hợp các sự kiện này với nhau như một “phụ lục” cho sách để chứng tỏ dân sự đã trở nên gian ác ra sao. Trong ba lãnh vực chính của đời sống, những điều đang sụp đổ là: gia đình, chức vụ và xã hội.


1. Sự lộn xộn trong gia đình (Cac 17:1-6)

Đức Chúa Trời đã thiết lập ba thể chế trong xã hội: gia đình, chính thể loài người và cộng đồng thờ phượng – Y-sơ-ra-ên ở dưới Cựu-ước và Hội thánh ở dưới Tân-ước. Thể chế đầu tiên trong những thể chế này, cả về thời gian lẫn ý nghĩa là gia đình, vì gia đình là nền tảng cho xã hội. Khi Đức Chúa Trời thiết lập hôn nhân cho A-đam và Ê-va trong vườn, Ngài đã đặt nền tảng cho những thể chế xã hội mà loài người sẽ xây dựng. Khi nền tảng đó sụp đổ, xã hội bắt đầu suy sụp. “Nếu các nền bị phá hủy, người công bình có thể làm gì?” (Thi 11:3).


Tên Mi-ca nghĩa là “Ai giống như Đức Giê-hô-va?” nhưng người này chắc chắn đã không sống để tôn trọng Chúa. Ông có một gia đình (Cac 17:5) dù không điều gì được nói về vợ của ông, và chúng ta có cảm tưởng rằng mẹ của ông đã sống với ông và bà giàu có. “Gia đình mở rộng, là điều thông thường ở Y-sơ-ra-ên”.


Ai đó đã đánh cắp một ngàn một trăm miếng bạc của bà mẹ, và bà buông một lời rủa sả trên kẻ cắp, mà không biết rằng bà đang rủa sả chính con trai mình. Chính sự sợ hãi lời rủa sả, chớ không phải sự kính sợ Chúa, đã thúc đẩy đứa con trai xưng tội mình và hoàn lại số tiền. Khi ấy, bà mẹ vui mừng vô hiệu hóa lời rủa sả bằng cách chúc phước cho con trai bà. Trong sự biết ơn về sự trở lại của số tiền mình, bà đã dâng phần bạc cho Chúa và làm một hình tượng từ đó. Con trai bà đã thêm hình tượng mới vào “bộ sưu tập thần” trong nhà ông, một “điện thờ” được chăm sóc do một trong những con trai mà Mi-ca đã phong làm thầy tế lễ.


Bạn có bao giờ thấy một gia đình lộn xộn về thuộc linh và đạo đức hơn gia đình này không? Họ tìm cách vi phạm hầu như cả Mười điều răn (Xu 20:1-7) và không cảm nhận một chút tội lỗi nào trước mặt Chúa! Thật ra, họ nghĩ họ đang hầu việc Chúa bằng những vật kỳ quái họ đã làm!


Người con trai đã không tôn trọng mẹ mình; Ngược lại ông đã ăn cắp của mẹ và nói dối về điều đó. Trước hết, ông tham muốn bạc, và rồi ông lấy nó (Theo Co 3:5 sự tham lam là sự thờ hình tượng). Sau đó ông nói dối về toàn bộ sự việc cho đến khi sự rủa sả khiến ông sợ hãi trong sự thú nhận. Như vậy, ông đã vi phạm những điều răn thứ năm, thứ tám, thứ chín và thứ mười. Rồi ông vi phạm điều răn thứ nhất và thứ hai bằng cách có một điện thờ các tà thần trong nhà mình. Theo Ch 30:8-9, khi ông đánh cắp bạc, ông đã vi phạm điều răn thứ ba và lấy danh Chúa làm chơi. Phá vỡ bảy điều răn mà không rời khỏi gia đình mình hoàn toàn là một thành tích!


Mẹ của người này đã vi phạm hai điều răn đầu tiên bằng cách làm một hình tượng và khích lệ con trai bà duy trì một “điện thờ” riêng trong gia đình ông. Theo Phuc 12:1-14 phải có một nơi thờ phượng trong Y-sơ-ra-ên, và dân sự không được giải quyết tội lỗi của con trai bà, tính cách của ông chắc chắn không cải thiện bởi cách bà giải quyết vấn đề. Nhưng chính bà là một người hư hỏng, vậy bà có thể trông mong điều gì khác?


Mi-ca không chỉ có một điện thờ riêng, nhưng ông còn lập con trai mình để phục vụ như thầy tế lễ. Chắc chắn Mi-ca biết rằng Chúa đã chỉ định gia đình A-rôn làm những thầy tế lễ duy nhất trong Y-sơ-ra-ên. Và nếu bất cứ ai ngoài gia đình A-rôn phục vụ như thầy tế lễ, họ phải bị xử tử (Dân 3:10).


Vì Mi-ca và gia đình ông không đầu phục quyền của Lời Đức Chúa Trời, gia đình họ là một nơi của sự lộn xộn về tôn giáo và đạo đức. Nhưng gia đình họ khá giống nhiều gia đình ngày nay nơi mà tiền bạc là thần được gia đình tôn thờ, nơi con cái ăn cắp của cha mẹ và nói dối về điều chúng làm, nơi sự tôn trọng gia đình chẳng được biết đến, và là nơi Đức Chúa Trời chân thật không được cần đến. Truyền hình cung cấp mọi “hình ảnh” mà gia đình sẽ luôn cần “tôn thờ” và ít sự lo lắng về việc “Chúa đã phán như vậy”.


Tôi nhớ đã nghe Vance Havner nói: “Chúng ta không nên lo lắng vì cớ chính phủ sẽ không cho phép trẻ con mang Kinh Thánh trong trường học. Chúng sẽ có những Kinh Thánh miễn phí khi chúng đi đến nhà tù”. Nhưng ngày nay các nhà tù của chúng ta quá đông đến nỗi chính phủ không biết điều gì phải làm. Nếu mọi gia đình đặt Đấng Christ làm Chủ gia đình, chúng ta có thể ngăn chận tội ác của quốc gia ngay từ nguồn gốc. Những gia đình tin kính là nền tảng cho một xã hội công bằng và hạnh phúc.


2. Sự lộn xộn trong chức vụ (Cac 17:7-13)

Đức Chúa Trời không chỉ thiết lập gia đình và chỉ dẫn các cha mẹ cách nuôi nấng con cái họ (Phuc 6:1-25), nhưng Ngài còn lập chức lãnh đạo thuộc linh trong cộng đồng thờ phượng. Dưới Cựu-ước, đền tạm và sau đó đền thờ là trung tâm của cộng đồng, và chức tế lễ của A-rôn giám sát cả hai. Dưới Tân-ước, Hội thánh của Chúa Giê-xu Christ là đền thờ của Đức Chúa Trời (Eph 2:19-22). Đức Thánh Linh kêu gọi và trang bị cho những người có chức vụ hầu việc Ngài và dân sự Ngài (ICo 12:14; Eph 4:1-16). Trong Lời Ngài, Đức Chúa Trời cho những thầy tế lễ Cựu-ước biết điều gì họ phải làm; Và trong Lời Ngài hôm nay, Đức Thánh Linh hướng dẫn Hội thánh Ngài và giải thích trật tự Hội thánh với chức vụ Hội thánh.


Một người Lê-vi trẻ tên là Giô-na-than (Cac 18:30) đã sống ở Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đa, không phải là một trong những thành được phân cho các thầy tế lễ và người Lê-vi (Gios 21:1-45; Dân 35:1-34). Ông có lẽ đã ở đó vì dân Y-sơ-ra-ên không ủng hộ đền tạm với chức vụ của nó bằng những phần mười và của lễ của họ như Đức Chúa Trời đã ra lệnh họ làm (Dân 18:21-32; Phuc 14:28-29; 26:12-15). Tại sao sống ở một trong những thành của Lê-vi nếu bạn sắp chết đói? Khi dân sự Đức Chúa Trời trở nên lãnh đạm với những điều thuộc linh, một trong những chứng cớ về sự thờ ơ của họ là một sự sa sút trong việc dâng hiến của họ cho công việc Chúa, kết quả là mọi người đều hoạn nạn.


Thay vì tìm kiếm ý muốn của Chúa, Giô-na-than bắt đầu tìm một nơi để sống và làm việc, thậm chí nếu điều đó nghĩa là từ bỏ sự kêu gọi dành cho ông để làm một tôi tớ của Đức Chúa Trời, dân tộc ở vào thời kỳ thấp kém về thuộc linh và ông lẽ ra có thể làm điều gì đó để giúp đem dân sự trở lại với Đức Chúa Trời. Ông chỉ là một con người, nhưng đó là tất cả những gì Đức Chúa Trời cần để khởi đầu một việc lớn mà có thể tạo một thay đổi trong lịch sử của một dân tộc. Thay vì sẵn sàng cho Đức Chúa Trời, Giô-na-than chỉ tán thành với loài người, và cuốicùng ông tìm thấy cho mình một gia đình và công việc tiện lợi với Mi-ca.


Nếu Giô-na-than tiêu biểu cho những tôi tớ của Đức Chúa Trời trong giai đoạn lịch sử đó, thì không có gì ngạc nhiên khi dân tộc Y-sơ-ra-ên lộn xộn và sa đọa. Ông không có sự cảm kích đối với sự kêu gọi cao quý dành cho mình để làm một người Lê-vi, một tôi tớ được chọn của Đức Chúa Trời. Người Lê-vi không những phải giúp đỡ các thầy tế lễ trong chức vụ của họ (Dân 3:6-13;8:17-18), mà họ còn phải dạy luật pháp cho dân sự (Ne 8:7-9; IISu 17:7-9; 35:3) và có liên quan trong thánh nhạc cùng sự ngợi khen của Y-sơ-ra-ên (ISu 23:28-32; Exo 3:10). Giô-na-than đã từ bỏ mọi điều đó vì sự tiện nghi và an toàn trong gia đình của một người thờ hình tượng.


Tuy nhiên, chức vụ của Giô-na-than không phải là một chức vụ thuộc linh gì cả. Trước hết, ông là một người làm thuê và không phải là một người chăn chiên thật (Cac 18:4; Gi 10:12-13). Ông không hầu việc Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, ông làm việc cho Mi-ca và những hình tượng của ông ta. Giô-na-than không phải là một người phát ngôn cho Chúa, ông chỉ trình bày cho dân sự sứ điệp họ muốn nghe (Cac 18:6). Khi ông được đề nghị một nơi nhiều tiền, nhiều người và nhiều thanh thế, ông nhận lấy ngay và cảm ơn về điều đó (c. 19). Và sau đó ông đã giúp những chủ mới của mình trong việc đánh cắp các thần của chủ trước!


Mỗi khi Hội thánh có một “chức vụ làm thuê”, Hội thánh không thể hưởng sự chúc phước của Đức Chúa Trời, Hội thánh cần những người chăn chiên thật và trung tín, làm việc vì Chúa, chớ không phải vì tư lợi, và sẽ ở cùng bầy chiên để nuôi nấng và bảo vệ chúng. Những người chăn chiên thật không xem công việc của họ như một “nghề” và chạy sang một “công việc tốt hơn” khi cơ hội đến. Họ ở nơi Đức Chúa Trời đặt để họ và không dời đổi cho đến khi Ngài sai họ.


Những người chăn chiên thật nhận sự kêu gọi và quyền hạn từ Đức Chúa Trời, không phải từ con người (Ga 1:6). Và họ tôn trọng Đức Chúa Trời, chớ không phải những hình tượng do con người tạo nên. Ngày nay, Chúa chắc buồn lòng khi thấy con người thờ phượng những hình tượng của “sự thành công” về chức vụ, những con số thống kê, những toà nhà và thanh thế. Trong “xã hội người tiêu dùng” ngày nay, những người giảng đạo và “những tiên tri” tự chỉ định không có vấn đề gì khi có một số người đi theo và rao bán những mặt hàng tôn giáo của họ cho một Hội thánh hành động như một câu lạc bộ những người hâm mộ Hollywood hơn là một dân thánh của Đức Chúa Trời. Và để làm cho điều đó tồi tệ hơn, những người làm thuê này sẽ gọi điều sắp xảy ra là “sự chúc phước của Đức Chúa Trời” Giô-na-than và Mi-ca sẽ luôn tìm thấy nhau vì họ cần nhau.


Phần đáng buồn của câu chuyện là giờ đây Mi-ca nghĩ mình có đại án của Đức Chúa Trời vì một thầy tế lễ dòng Lê-vi thật đang hầu việc như một giáo sĩ riêng của ông. Mi-ca thực hành một tà giáo và thờ phượng những tà thần (với Đức Giê-hô-va bị ném vào vì phương cách ích lợi), và trong khi đó ông yên nghỉ trên sự tin tưởng sai lầm rằng Đức Chúa Trời đang chúc phước ông! Ông chẳng biết rằng sẽ đến ngày khi thầy tế lễ và các thần của ông sẽ bị cắt đi khỏi ông và không còn gì về tôn giáo của ông sẽ được để lại.


3. Sự lộn xộn trong xã hội (Cac 18:1-31)

Đức Chúa Trời lẽ ra phải là vua trong Y-sơ-ra-ên và Lời Ngài phải là luật pháp cai trị xã hội, nhưng dân sự thích “làm những việc riêng của mình” hơn. Nếu dân sự từ bỏ các hình tượng của họ, và nếu các trưởng lão Y-sơ-ra-ên quan tâm luật pháp của Đức Chúa Trời và vâng theo vì vinh hiển Đức Chúa Trời, Y-sơ-ra-ên đã có thể được cai trị một cách thành công. Trái lại, “Mọi người làm điều đúng theo mắt mình” (Cac 21:25), và kết quả là một xã hội đầy dẫy sự cạnh tranh và lộn xộn.


Hãy xem xét những tội lỗi của chi phái Đan khi họ tìm cách cải thiện hoàn cảnh của họ trong dân tộc Y-sơ-ra-ên.

- Sự tham lam (Cac 18:1-2).

Chi phái Đan tiếp nối từ con trai thứ năm của Gia-cốp, sanh bởi người hầu gái của Ra-chên là Bi-la (Sa 30:1-6). Dù không phải là một chi phái lớn, nó được ban cho địa phận tốt nhất khi các ranh giới chi phái được phân định (Gios 19:40-48). Tuy nhiên, dân Đan không thể đánh bại và truất quyền sở hữu của kẻ thù (Cac 1:34), vì vậy họ quyết định đi đến phía Bắc và đặt vị trí mới. Hầu hết các chi phái khác đã có thể thắng kẻ thù, truất quyền sở hữu của họ, và giành xứ của họ, nhưng dân Đan tham lam xứ của người khác và chiếm lấy nó bằng cách bạo lực.


Chúa đã định những sự phân chia về chi phái dưới sự hướng dẫn của Giô-suê, với sự giúp đỡ của thầy tế lễ cả Ê-lê-a-sa và các trưởng lão từ những chi phái (Gios 19:51). Như Ngài đã làm với các dân tộc (Cong 17:26), Ngài cũng làm với các chi phái. Đức Chúa Trời đặt mỗi chi phái nơi Ngài muốn. Chi phái Đan khước từ địa phận được Đức Chúa Trời ấn định và tham lam nơi khác, là chống đối ý muốn thiêng liêng của Ngài.


Nhưng đó không phải là điều gây ra hầu hết sự rắc rối trong xã hội chúng ta ngày nay sao? Thay vì đầu phục ý muốn Đức Chúa Trời, con người muốn có điều người khác có, và họ sẽ làm hầu hết điều gì để đạt được nó (Gia 4:1-3).

Sự đồi bại trong thế gian này được nuôi dưỡng bởi “những ham muốn xấu xa” (IIPhi 1:4 NIV). Dù là việc xuất bản sách báo khiêu dâm, bán ma túy hay đề xướng việc bài bạc, người đói khát tiền bạc cung cấp cho những khao khát của con người rồi đi đến chỗ kiếm tiền và hủy hoại đời sống.

Nhờ có khả năng của phương tiện truyền thống hiện đại, đặc biệt là truyền hình, công nghiệp quảng cáo tạo ra trong những sự khao khát của con người mọi loại sản phẩm, dịch vụ và kinh nghiệm thú vị. Vì vậy con người đi ra và tiêu tiền mà họ không có cho những điều mà họ không cần để gây ấn tượng cho những người thật sự không quan tâm, nhưng đây là chu trình giữ cho kinh doanh hoạt động.


Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lẽ ra ngăn chặn dân Đan khi họ từ bỏ nơi được Đức Chúa Trời ấn định và đi về hướng Bác để giết những người vô tội và cướp xứ họ. Nhưng sựtham lam mạnh mẽ, và một khi con người có một sự thèm khát “cái gì đó nhiều hơn” thật khó điều khiển họ.


- Lời khuyên bất kính (Cac 18:3-6).

Chính giọng địa phương của Giô-na-than đã thu hút sự chú ý của năm thám tử, vì ông không nói hoàn toàn giống một người từ chi phái Ép-ra-im. Khi họ hỏi một thầy tế lễ dòng Lê-vi rằng ông đang làm gì trong một nhà riêng ở Ép-ra-im, một câu hỏi rất hợp lý, tiện thể (IVua 19:9, 13) ông cho họ biết sự thật: ông được thuê để làm công việc này! Vì ai đó sẽ trả chi phí các thám tử nghĩ có thể chấp nhận được để có “lời khuyên thuộc linh” từ Giô-na-than, và ông cho họ biết điều họ muốn nghe.


Nếu chi phái Đan thật sự muốn lời khuyên của Đức Chúa Trời, họ có thể bàn bạc với thầy tế lễ cả. Nhưng họ thật sự đang khước từ lời khuyên của Đức Chúa Trời bằng cách từ chối ở trong xứ Ngài đã ấn định cho họ. Vì vậy, dường như Đức Chúa Trời sẽ không bày tỏ bất cứ điều gì cho họ (Gi 7:17).


Xâm nhập và bước vào, cướp bóc và đe dọa (Cac 18:14-26). Trên đường chiếm La-ít, dân Đan dừng tại nhà của Mi-ca ở Ép-ra-im. Các thám tử cho những người này biết rằng Mi-ca có một bộ sưu tập tuyệt vời về các thần, dĩ nhiên, ngụ ý rằng bộ sưu tập sẽ có giá trị đối với họ khi họ đi lại, chiến tranh và thiết lập quê hương mới của họ. Trong khi đám người có binh khí đứng tại cửa thành, thì năm thám tử, những người biết Giô-na-than, đã xâm chiếm điện thờ và cướp các thần.


Khi năm người với chiến lợi phẩm tôn giáo của họ, trở lại cửa thành, thầy tế lễ bàng hoàng khi biết việc họ đã làm. Nhưng dân Đan khiến ông im lặng bằng cách thuê ông, và vì ông là người làm thuê, Giô-na-than sẵn sàng cho một đề nghị tốt hơn. Dân Đan không chỉ đột nhập vào điện thờ của Mi-ca và cướp đi những thần của ông, họ còn cướp đi giáo sĩ của ông, không phải công việc của một ngày xấu!


Dân Đan để phụ nữ và trẻ em phía trước bởi đó là nơi an toàn nhất, vì bất cứ sự tấn công nào cũng sẽ đến từ phía sau. Vào lúc dân Đan đi một quãng đường nào đó, Mi-ca phát hiện rằng điện thờ của ông đã ngưng hoạt động, chẳng có các thần hay thầy tế lễ. Vì vậy ông gọi các láng giềng lại, và họ đuổi theo những kẻ xâm lược. Xét cho cùng, một con người phải bảo vệ các thần của mình!


Thật vô ích. Vì dân Đan trội hơn ông và quá mạnh đối với ông, Mi-ca và các láng giềng ông phải trở lại và về nhà một cách thất bại. Câu hỏi buồn bã của Mi-ca “Ta có cái gì khác?” (c. 21, NIV) bày tỏ sự dại dột và bi kịch của tôn giáo không có Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. Những người thờ hình tượng thờ phượng các thần mà họ có thể mang đi, nhưng Cơ-đốc nhân thờ phượng một Đức Chúa Trời là Đấng đem họ đi (Es 46:1-7).


- Bạo lực và sự sát nhân (Cac 18:7-13, 27-29).

Năm thám tử đã đi một trăm dặm phía Bắc từ trại quân của họ ở Xô-rê-a đến La-ít (Lê-sem Gios 19:47), một thành có dân Si-đôn cư ngụ, khoảng ba mươi dặm phía Đông Địa Trung hải. Đây là một dân hoà bình, quan tâm đến công việc của chính họ và không có hiệp ước với bất cứ ai. Họ “ở an ổn, bình tịnh” và “thịnh vượng” (c. 7, NIV), một dân cô lập, là một mục tiêu hoàn hảo đối với chi phái Đan hiếu chiến.


Với sáu trăm người trang bị vũ khí, cộng với phụ nữ và trẻ em của họ (Cac 18:21), họ đi về phía Bắc và chiếm thành La-ít, giết mọi cư dân và đốt thành. Sau đó họ xây lại thành và gọi nó một cách kiêu ngạo là Đan, theo tên của người sáng lập chi phái họ. Đáng tiếc, điều Gia-cốp nói tiên tri về chi phái Đan đã trở thành sự thật (Sa 48:17).


Ai đó đã nói rằng có ba triết lý về đời sống trên thế giới ngày nay: (1). “Cái gì của ta là của ta, ta sẽ giữ nó”, (2). “Cái gì của ngươi là của ta, ta sẽ lấy nó”, và (3). “Cái gì của tôi là của bạn, tôi sẽ chia sẻ nó”. Dân Đan theo triết lý thứ hai, và rất nhiều dân tộc tham lam cũng làm vậy. Một trong những ngành công nghiệp hiện hành được hoan nghênh ở Mỹ là việc láp các hệ thống an toàn trong nhà riêng. Số lượng những cuộc ăn chơi bắn giết trong những thương xá mua sắm và các nhà hàng thức ăn nhanh đã làm nhiều người sợ hãi đến nỗi họ thực hiện việc mua sắm của mình bằng điện thoại. Câu chuyện trang bìa của tạp chí Time ngày 23/8/1993 gọi nước Mỹ là “Nước Mỹ bạo lực”.


Chúng ta không biết có bao nhiêu người sống ở La-ít, nhưng những kẻ vô cớ giết thậm chí vài trăm người vô tội là một tội ác có tỉ lệ cân xứng hoàn toàn. Tôi sợ rằng chúng ta đã được phơi bày cho thấy quá nhiều tội ác và bạo lực qua phương tiện truyền thông đến nỗi loại tin tức này chẳng quấy rầy chúng ta hơn nữa. Arthur Beisser trong “Sports Illustrated” (các môn thể thao được minh họa) (1/3/1976) viết rằng: “Chúng ta đang xem một loại bạo lực mới. Nó được sử dụng không phải như một phương tiện đi đến một kết thúc, nhưng vì những mục đích giải trí, vì khoái lạc”. Chúng ta có thể thêm vào rằng bạo lực cũng là một phương tiện để kiếm tiền, như những người làm phim ảnh và công nghiệp truyền hình đã chứng minh.


- Sự thờ hình tượng (Cac 18:30-31).

Chi phái Đan là chi phái đầu tiên trong Y-sơ-ra-ên công khai tiếp nhận một hệ thống tôn giáo thờ hình tượng. Dù có một nhà của Đức Chúa Trời ở Si-lô, họ thích những hình tượng hơn. Những năm sau đó, khi vương quốc bị phân chia, Giô-rô-bô-am I của Y-sơ-ra-ên sẽ dựng bò vàng ở Đan và Bê-e-sê-ba rồi kêu gọi cả dân tộc từ bỏ Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống (IVua 12:25-33).


Câu chuyện về Mi-ca, Giô-na-than và Đan hơn hẳn một câu chuyện từ lịch sử cổ đại. Đó là một bày tỏ về sự gian ác của lòng người và sự vô vọng của xã hội loài người không có Đức Chúa Trời Thế giới ngày nay của chúng ta đã thay vào những hình tượng thế cho Đức Chúa Trời Chân Thật và Hằng Sống, và nghĩ ra tôn giáo theo chủ nghĩa nhân văn của mình, đầy đủ “những thầy tế lễ” – là những chuyên gia cho chúng ta biết rằng Kinh Thánh sau nhưng con đường của họ là đúng. Nhưng cả những hình tượng và các thầy tế lễ của họ cũng không có quyền lực nào chống lại bạo lực của lòng người.


Khi Dwight D. Eisenhower là tổng thống của nước Mỹ, ông đã triệu tập một “Hội nghị Nhà Trắng về thiếu nhi và thanh niên”, hy vọng tìm ra những giải pháp cho vấn đề phạm tội của thanh thiếu niên đang gây tai hại cho quốc gia. Tôi được mời dự hội nghị đó nhưng không thể đi vì những trách nhiệm gia đình.


Tuy nhiên, một người bạn của tôi ở nhóm “Youth for Christ International” (nhóm quốc tế Tuổi trẻ cho Đấng Christ) đã đi dự và trình bày báo cáo này (Tôi chú giải): “Tôi ngồi trong phòng hằng giờ, lắng nghe các nhà tâm lý, các nhà giáo dục và các nhà tội phạm học nói về các thiếu niên và cách giúp đỡ chúng, và tôi chán ngán về điều đó. Cuối cùng, tôi đề đạt với quốc hội và cho họ biết về những kinh nghiệm của chúng tôi trong nhóm “Tuổi trẻ vì Đấng Christ”, thể nào những tội phạm đã được thay đổi bởi quyền năng của Phúc-Âm. Phòng họp trở nên rất im lặng và rồi người ta bối rối, bắt đầu tằng hắng và xáo trộn giấy tờ”. Người chủ tọa cảm ơn tôi về những lời nói của tôi và bất ngờ chuyển sang mục chương trình kế tiếp. Khi ấy, điều đó đã xúc phạm tôi: họ không muốn nghe!


William Butler Yeats đã đúng: “Trung ương không thể cầm giữ” gia đình, chức vụ và xã hội đang tan rã trước mắt chúng ta, và người không muốn nghe sự thật! Nhưng dù họ muốn hay không, thế giới phải được cho biết rằng Chúa Giê-xu Christ đã chịu chết vì tội nhân hư mất, và quyền năng Đấng Christ có thể biến đổi tấm lòng, gia đình, Hội thánh và xã hội nếu con người chỉ tin cậy Ngài.


Nhà truyền giáo người Anh kiêm nhà thơ John Donne (d. 1631) đã nói: “Đấng Christ đánh trống của Ngài, nhưng Ngài không thúc ép con người. Đấng Christ được hầu việc bởi những người tình nguyện”.

Bạn có sẵn sàng không?



 


11. CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH (Cac 19:1-21:25)


Sau khi đọc ba chương này, nếu bạn phải đọc lướt nhanh báo hằng ngày hoặc tạp chí tin tức hằng tuần, bạn sẽ phải thừa nhận rằng các thời đại đã thay đổi quá nhiều. Vì trong những trang cuối này của sách Các quan xét, bạn tìm thấy những tường thuật về việc hành hạ vợ, sự đồng tình luyến ái hiển nhiên, sự cưỡng hiếp của bọn côn đồ dẫn đến vụ giết người, sự bất công, anh em giết anh em, và thậm chí là vụ bắt cóc. Đó là loại chuyện kể hầu như khiến bạn đồng ý với nhà văn tiểu luận người Anh Samuel Johnson, người đã nói vào năm 1783: “Tôi đã sống để thấy mọi sự đều tồi tệ như chúng có thể. Ông sẽ nói gì ngày nay?”


Dị nhiên những sự kiện như vầy là thức ăn hằng ngày của dân thích bạo lực trên truyền hình, và những nhà nghiên cứu cho chúng ta biết rằng những gì xảy ra trên màn ảnh thường được sao chép trên đường phố. Theo một nghiên cứu của American Psychological Arsociation (Hội tâm lý học của Mỹ), cứ một giờ có năm hành động bạo lực trong các chương trình Tivi giờ cao điểm, và vào những sáng Chủ nhật, khi trẻ con xem các phim hoạt hình, các hành động bạo lực nhân lên gấp năm lên (“USA Today” (Nước Mỹ ngày nay) 2/8/1993 khi một quốc gia được giải trí bằng bạo lực, có nhiều hy vọng cho quốc gia đó chăng?


Khi điều ác không được giải quyết cách đích đáng, nó có xu hướng gia tăng tội lỗi trong thành Ghi-bê-a cuối cùng đã đầu độc chi phái Bên-gia-min và dẫn đến chiến tranh trong xứ Y-sơ-ra-ên.


1. Sự gian ác của một thành (Cac 19:1-28)

Sự tiếp đãi ở Bết-lê-hem (Cac 19:1-9). Nếu bạn nghĩ rằng Giô-na-than người Lê-vi (chương 17-18) là một kẻ vô lại, thì bạn có thể sẽ kết luận rằng người Lê-vi vô danh này là một kẻ vô lại hoàn toàn thuộc hạng hèn hạ nhất. Ông ta đang dành hầu hết thời gian của mình để ăn uống (Cac 19:4,6,8,22), ông bước đi trong sự tối tăm và gây tai hại cho đời sống mình cùng đời sống của những người ở với ông (c. 9-14). Ông đã đối xử với vợ bé mình cách đáng căm phẫn nhất, trong lúc nàng còn sống và sau khi nàng chết, và điều ông đã làm cho nàng thúc đẩy một cuộc nội chiến trong Y-sơ-ra-ên.


Vợ bé là một người vợ hợp pháp chỉ được bảo đảm thức ăn, quần áo và những đặc quyền về hôn nhân (Xu 21:7-112; Phuc 21:10-14). Bất cứ đứa con nào mà người ấy sinh ra sẽ được xem là hợp pháp, nhưng vì thân phận thứ nhì của mình, họ sẽ không nhất thiết dự phần trong tài sản gia đình (Sa 25:16). Nếu vợ của một người đàn ông bị son sẻ, ông ta đôi khi lấy một vợ bé để có thể thiết lập một gia đình. Dù luật pháp điều khiển việc có vợ lẽ mà Chúa đã không chấp thuận hay khích lệ điều đó, nhưng bạn sẽ tìm thấy nhiều người thời Cựu-ước có vợ bé, kể cả Áp-ra-ham, Gia-cốp, Ghê-đê-ôn, Sau-lơ, Đa-vít và Sa-lô-môn.


Người vợ bé đặc biệt này không chung thủy với chồng nàng và đã trốn về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem để được bảo vệ (Le 20:10). Nàng càng đi lâu, chồng nàng càng nhớ nàng, nên ông đã đi đến Bết-lê-hem, tha thứ cho nàng, và làm hòa. Ông và cha vợ ông khám phá rằng họ thích làm bạn nhau và trải qua năm ngày ăn uống và vui vẻ. Người Lê-vi này chẳng nhận ra rằng ông thật sự không có gì để hạnh phúc vì bi kịch đang đeo đuổi hôn nhân của ông.


Đối với tôi, người Lê-vi này minh họa cho thái độ bất cẩn của nhiều tín đồ ngày nay. Họ là con cái của ban ngày, nhưng họ hành động như con cái của ban đêm (ITe 5:1-8). Sự xét đoán đã đến gần, nhưng những người này chẳng nghĩ gì mà chỉ hưởng thụ đời sống. Khi dân tộc mình quá cách xa Đức Chúa Trời, làm sao người Lê-vi này có thể phí thời gian để ăn uống và vui vẻ. “Hãy khốn khổ, hãy đau thương khóc lóc, hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn” (Gia 4:9).


Vâng, có “kỳ để cười” (Tr 3:4), và Đức Chúa Trời muốn chúng ta hưởng những sự ban cho của Ngài (ITi 6:17), nhưng đối với nhiều Cơ-đốc nhân, thời gian đó là toàn bộ thời gian! Ở rất nhiều Hội thánh, tiếng cười của “sự giải trí tôn giáo” đã thay thế cho sự yên lặng thánh khiết của sự thờ phượng. Nơi thánh đã trở thành một rạp hát. Khi các thánh đồ nhóm lại, điều quan trọng nhất là “vui đùa”. Để xoa dịu lương tâm mình, chúng ta có một “lời cầu nguyện ngắn” trước khi thời gian vui đùa chấm dứt, và chúng ta cảm tạ Đức Chúa Trời một cách tin kính rằng chúng ta đã có một thời gian bổ ích như thế.


Không ai cảm kích tiếng cười và sự hài hước bổ ích hơn tôi, nhưng tôi sợ rằng Hội thánh đang đánh mất ý thức về sự sợ hãi và những nhu cầu để biết cách khóc. Nếu người Lê-vi vui cười này bước đi trong sự sáng, cầu nguyện và tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời, ông sẽ thực hiện những kế hoạch khác và cứu vợ mình khỏi sự xấu hổ, sự ngược đãi, sự đau đớn và sự chết.


Sự hiếu khách ở Ghi-bê-a (Cac 19:10-21).

Suốt thời kỳ Các quan xét, thật nguy hiểm khi đi lại vào ban ngày (Cac 5:6)và thậm chí nguy hiểm hơn vào ban đêm. Người Lê-vi không muốn ở lại trong Giê-ru-sa-lem vì nó nằm trong tay của người Giê-hu ngoại đạo. Vì vậy ông hối hả đi bốn dặm đến Ghi-bê-a để ông có thể ở với dân mình. Nhưng người Ghi-bê-a đã trở nên gian ác như những kẻ ngoại đạo quanh họ!


Trước hết, không ai ở Ghi-bê-a tiếp đón những khách thăm viếng và mở cửa nhà họ để chăm sóc khác. Vì người Lê-vi có nhiều lương thực cho đoàn người và súc vật của ông, ông sẽ không là gánh nặng cho bất cứ ai, nhưng không ai cho họ vào. Sự tiếp khách là một trong những thánh luật ở phương Đông, và không khách lạ nào phải bị bỏ bê, nhưng chỉ một người trong thành bày tỏ bất kỳ sự quan tâm nào, và người đó là một người Ép-ra-im. Ông không chỉ dẫn họ vào nhà mình, mà còn dùng chính lương thực của mình để nuôi họ và súc vật của họ.


Dân sự Đức Chúa Trời được ra lệnh phải thực hành sự hiếu khách. Đó là một trong những phẩm cách đối với một mục sư (ITi 3:2 Tit 1:8). “Chớ quên tiếp đãi khách, vì một số người đã tiếp đãi các thiên sứ bằng cách làm vậy mà không biết” (He 13:2 NIV).


Tội ác ở Ghi-bê-a (Cac 19:22-28).

Ghi-bê-a đã trở nên giống như Sô-đôm, một thành phố quá gian ác đến nỗi Đức Chúa Trời đã hủy diệt nó khỏi mặt đất (Sa 19:1-38). Dân trong thành chìm đắm trong những hành động vô đạo đức trái với tự nhiên (Ro 1:24-27) và luật pháp Đức Chúa Trời (Le 18:22; 20:13; ICo 6:9-10). Từ “biết” trong Cac 19:22 nghĩa là “có kinh nghiệm tình dục với”. Những kẻ phạm tội này đã bị kích động vì một người mới ở trong thành, và họ muốn thích thú với người ấy.


Chủ nhà đã mô tả những ước muốn của họ là sự gian ác, ngu xuẩn (c. 23) và là một điều hèn hạ (c. 24) trong tinh thần can đảm và đúng đắn, và ông tìm cách ngăn trở họ hãm hiếp khách của ông. Giống như Lót ở Sô-đôm, chủ nhà đề nghị với họ con gái ông, cho thấy mức độ đánh giá thấp kém về phụ nữ và về sự tinh khiết tình dục mà một số người thời đó đã có. Làm sao một người cha có thể đề nghị con gái mình làm một vật hy sinh cho những tham muốn của đám đông thì thật khó hiểu. Nhưng nhiều cha mẹ ngày nay cho phép tâm trí và tấm lòng của con trai, con gái mình bị quấy rối bởi những gì chúng thấy và nghe trên phim ảnh, ti-vi và các ban nhạc rock. Sự trong trắng của tâm trí và tấm lòng cần thiết cho sự trong trắng của thân thể.


Vì người Lê-vi sợ đám đông sẽ giết ông (Cac 20:5), ông làm họ nguôi giận bằng cách cho họ vợ bé mình. Và nàng phải chịu sự hãm hiếp của bọn côn đồ cả đêm (c. 25). Lòng chúng ta ghê tởm suy nghĩ của một người đàn ông quá vô cảm đối với những cảm xúc của một con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, quá lãnh đạm đối với sự thiêng liêng về tính dục và trách nhiệm về hôn nhân, và quá hờ hững về những luật của Đức Chúa Trời, đến nỗi ông hy sinh vợ mình để cứu thân mình. Phải chăng ông đang trừng phạt nàng vì đã không chung thuỷ với ông? Nếu vậy, sự trừng phạt nàng lớn hơn tội đó.


Nhưng điều đó trở nên tồi tệ hơn. Người Lê-vi không chỉ giao vợ cho những tham muốn hư hỏng của một đám người bất kính, mà ông còn có thể nằm xuống và ngủ trong khi họ đang hành hạ nàng trên đường phố! Một người có thể trở nên nhẫn tâm như vậy sao? Và ông ta ngây thơ nghĩ rằng nàng sẽ sống đến sáng hôm sau ư?


Thấy nàng chết trên ngạch cửa, nhưng không cảm thấy mình có lỗi về điều đó, ông đặt xóc nàng trên một con lừa và trở về nhà. Sau đó ông đã làm một việc đáng khinh: ông xúc phạm và làm tàn phế xác nàng bằng cách chặt xác ra mười hai phần và gởi mỗi phần cho mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Dĩ nhiên ông muốn điều động sự giúp đỡ của các chi phái và trừng phạt những người Ghi-bê-a đã giết vợ ông, nhưng thật ra, ông là người đã để họ giết nàng! Chắc chắn có những cách khác để gợi sự chú ý đối với tội ác của Ghi-bê-a.


Nếu người Lê-vi đi đến Si-lô nơi đền tạm ở đó (Cac 18:31) và nếu ông hỏi ý thầy tế lễ cả, ông có thể giải quyết vấn đề theo luật pháp Đức Chúa Trời và tránh gây ra nhiều rắc rối. Tuy nhiên, một khi sự tức giận được khích động trong Y-sơ-ra-ên, khó mà ngăn lửa không lan ra.


2. Sự bướng bỉnh của một chi phái (Cac 20:1-48)

Sự hội họp (Cac 20:1-11). Sự tuyên bố khủng khiếp của người Lê-vi đã sinh ra những kết quả ông muốn. Các quan trưởng và các chiến sĩ từ cả nước, trừ chi phái Bên-gia-min (c. 3) và Gia-be ở xứ Ga-la-át (Cac 21:8-9), đã đến tại Mích-ba để quyết định điều phải làm. Sau khi nghe lời cáo trạng của người Lê-vi về dân Ghi-bê-a, dân Y-sơ-ra-ên đưa ra một quyết định và lập một lời thề. Quyết định đó là dân Ghi-bê-a có tội và phải bị giao cho chính quyền để bị giết (Phuc 13:12-18). Lời thề đó là không ai trong những chi phái có mặt sẽ cho con gái họ kết hôn với những người nam Bên-gia-min (Cac 21:1-7).


Lời yêu cầu (Cac 20:12-17).

Mười một chi phái đã đồng ý “như một người” để tấn công Ghi-bê-a, nhưng trước hết họ sai những đại diện đến chi phái Bên-gia-min, kêu gọi dân sự xưng ra sự gian ác của họ và giao những kẻ có tội. Theo Le 20:13 những kẻ đồng tính luyến ái sẽ bị xử chết, nhưng đó không phải là tội mà các chi phái đang xét đoán.

Vì người lê-vi đã sẵn sàng giao vợ mình cho dân Ghi-bê-a, nên tội lỗi họ hầu như không thể bị gọi là sự tà dâm (Phuc 22:22). Hình phạt cho sự cưỡng hiếp là sự chết, và sự cưỡng hiếp hội đồng thậm chí sẽ nghiêm trọng hơn (Phuc 22:25-26). Có lẽ các chi phái đang trích dẫn luật có liên quan đến những kẻ gian ác trong một thành (Phuc 13:12-18) và sử dụng luật đó làm cơ sở cho hành động của họ.


Bất cứ luật nào họ đang vâng theo, các chi phái có sự quan tâm đến việc “cất điều ác khỏi xứ”, một nhóm từ được tìm thấy ít nhất chín lần trong Phục-truyền. Dân Ghi-bê-a là dân gian ác và phải bị trừng phạt trước khi Chúa có thể hài lòng dân sự Ngài và làm tinh sạch xứ của Ngài. Nhưng dân Bên-gia-min không thừa nhận rằng Ghi-bê-a đã phạm tội, cũng không giao những người đã làm việc gian ác đó.


Một số người có thể đã giải thích sự bướng bỉnh của Bên-gia-min như một hành động ái quốc. Họ chỉ đang tìm cách bảo vệ công dân của họ. Nhưng sự chối từ hợp tác của họ chính xác là một hành động chống nghịch với Chúa. Khi tội lỗi không bị phơi trần, xưng ra và trừng phạt, nó làm ô nhiễm xã hội và làm ô uế xứ. Những kẻ gian ác của Ghi-bê-a giống như một khối u ung thư trong cơ thể bị cắt bỏ. “Anh em há chẳng biết rằng một chút men làm cho cả đóng bột dậy lên sao?” (ICo 5:6 NKSV).


Kết quả ra sao? Chi phái Bên-gia-min đã tuyên chiến với tất cả các chi phái còn lại của Y-sơ-ra-ên! Một một chi phái có bốn trăm ngàn người trong quân đội họ (Cac 20:2), trong khi Bên-gia-min chỉ có hai mươi sáu ngàn người cầm gươm và bảy trăm “người được chọn” có tài bắn đá (c. 15-16). Nhưng mặc cho sự chênh lệch khủng khiếp, đó là anh em chiến đấu với anh em!


Khi dân sự Đức Chúa Trời chối từ vâng lời Đức Chúa Trời, những hậu quả luôn bi thản. Đời sống thuộc linh của một Hội thánh bị què quặt và cuối cùng bị hủy hoại khi hội chúng nhắm mắt trước tội lỗi và không kỷ luật những người vi phạm. Không bao giờ có thể có một sự hiệp nhất giữa vòng dân sự Đức Chúa Trời bao lâu một số người vẫn che đậy tội lỗi và để nó làm nhiễm độc thân thể.


Cuộc tấn công (Cac 20:18-40).

Những người đại diện của mười một chi phái đã đến đền tạm tại Si-lô (Cac 18:31 ISa 1:9) và tìm kiếm ý muốn Chúa, bằng cách rút thăm (Cac 20:9). Đức Chúa Trời cho phép họ thực hiện cuộc chiến, với chi phái Giu-đa dẫn đầu cuộc tấn công. Ngày đầu tiên đó, Đức Chúa Trời cho phép dân Bên-gia-min thắng và giết hai mươi hai ngàn người chiến sĩ Y-sơ-ra-ên.


Mười một chi phái đã khóc trước mặt Chúa và một lần nữa tìm kiếm ý muốn Ngài. Hãy chú ý rằng “dân Bên-gia-min” trong Cac 20:18 trở thành “Bên-gia-min anh em tôi” trong c. 23. Có lẽ đây là một lý do Đức Chúa Trời cho phép dân Y-sơ-ra-ên thất bại trận đầu tiên đó. Điều ấy cho họ một cơ hội để suy nghĩ về việc họ đang chiến đấu với thịt và huyết của chính mình. Nhưng vào ngày thứ hai của cuộc chiến. Bên-gia-min thắng lần nữa, lần này giết mười tám ngàn người. Tình hình rất ác liệt.


Mười một chi phái lại tìm kiếm mặt Chúa, lần này có sự kiêng ăn và những của lễ cùng với nước mắt của họ. Chúa đáp lời cầu nguyện của họ và không chỉ bảo họ tấn công lần nữa, mà còn bảo đảm với họ rằng lần này họ sẽ thắng.


Chiến lược được sử dụng vào ngày thứ ba tương tự với chiến lược mà Giô-suê đã sử dụng tại A-hi (Gios 8:1-35). Tự tin vì hai ngày chiến thắng (Cac 20:30-31 và chú ý 16:20), đội quân Bên-gia-min gặp đội quân Y-sơ-ra-ên, giết khoảng ba mươi người, nhưng bị kéo ra xa khỏi Ghi-bê-a và bị bắt tại nơi phục kích. Trên hai mươi lăm ngàn người Bên-gia-min bị giết trên chiến trường, trên đường cái, hoặc khi họ chạy trốn trong đồng vắng. Ghi-bê-a bị chiếm, cư dân của nó bị giết, và thành bị đốt trụi. Thật ra, đội quân Y-sơ-ra-ên đã tiêu diệt nhiều thành khác trong một hoạt động càn quét.


Vào lần kiểm tra dân số đầu tiên sau cuộc rời khỏi Ê-díp-tô, có ba mươi lăm ngàn người ra trận trong chi phái Bên-gia-min (Dan 1:37), và con số này đã gia tăng đến bốn mươi lăm ngàn sáu trăm vào lần kiểm tra dân số thứ hai (Dân 26:41). Suốt cuộc chiến ba ngày nay, dân Bên-gia-min chỉ còn lại sáu trăm người chạy trốnt rên hòn đá Rim-môn, một dạng hòn đá giống như đồn lũy gần Ghi-bê-a. Quả là một cái giá mà chi phái Bên-gia-min đã trả cho việc từ chối vâng theo luật pháp của Chúa!


3. Sự đổ nát của một dân tộc (Cac 21:1-25)

Một khi cơn giận đã nguôi, mười một chi phái nhận ra rằng họ có một chi phái vừa mới bị loại bỏ khỏi dân tộc Y-sơ-ra-ên. Và điều này khiến họ khóc lóc (c. 2, 15). Họ dâng của lễ cho Chúa, nhưng không có sự ghi chép nào cho thấy dân sự hạ mình, xưng nhận tội lỗi họ, và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa. Trước đó, Chúa đã bày tỏ ý muốn của Ngài cho họ, (Cac 20:18, 23, 28), nhưng không có chứng cớ nào cho thấy họ tiếp nhận Lời Ngài sau khi cuộc chiến chấm dứt.


Có thể tôi sai, nhưng tôi nghi ngờ rằng Chúa không hài lòng với dân Bên-gia-min vì họ vẫn chưa xưng nhận tội lỗi mình và thừa nhận họ sai. Sáu trăm chiến sĩ đã trốn trên hòn đá Rim-môn vẫn không tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời. Họ chỉ đang trốn khỏi đội quân chiến thắng. Nếu có ai đó đề nghị tất cả họ gặp Chúa tại Si-lô và giải quyết vấn đề với Chúa, điều đó có thể tạo một thay đổi.


Thay vì nhận những hướng dẫn từ Chúa, mười một chi phái cậy nơi sự khôn ngoan của riêng họ để giải quyết vấn đề (Gia 3:13-18). Sáu người từ chi phái Bên-gia-min sẽ cần những người vợ nếu họ sắp tái thiết chi phái của mình, nhưng mười một chi phái đã thề không cho họ những người vợ. Những người vợ này sẽ đến từ đâu?


Dân Y-sơ-ra-ên giải quyết vấn đề bằng cách giết thêm dân của họ! Không ai từ Gia-be Ga-la-át đến với cuộc chiến, mang ý nghĩa về hai điều: Họ đã không tham dự trong lời thề, và thành đáng phải bị trừng phạt. Có thể khi mười hai phần của thân thể người vợ bé được gởi đi khắp Y-sơ-ra-ên, một lời cảnh cáo được đưa ra rằng bất cứ chi phái hay thành nào không đáp ứng và giúp chiến đấu với bên-gia-min sẽ bị đối xử cách tương tự. Đó là loại cảnh cáo mà vua Sau-lơ đã đưa ra khi ông sử dụng một phương pháp tương tự (ISa 11:7).


Nếu đó là trường hợp này, thì dân Gia-be Ga-la-át biết điều gì nguy hiểm khi họ ở nhà. Và sự tàn sát thành của họ tiếp theo đó là lỗi của họ. Các đao phủ đã tìm thấy bốn trăm trinh nữ trong thành, những người nữ có thể trở thành vợ của hai phần ba các chiến sĩ trên hòn đá. Những người này đã ở trên hòn đá bốn tháng (Cac 20:47), nhưng giờ đây họ có thể nhận cô dâu của mình và về nhà. Thật là một cái giá được trả cho những người vợ này! Nhưng đó là “tiền công của tội lỗi” (Dan 31:17 Phu 20:13-14 về những tiền lệ).


Các trưởng lão mở cuộc họp khác để bàn luận cách họ có thể cung cấp vợ cho hai trăm người còn lại. Ai đó đã nhớ rằng có nhiều trinh nữ từ các chi phái đã tham gia vào một lễ hội hằng năm tại Si-lô. Nếu hai trăm người còn lại của Bên-gia-min núp gần đó, họ có thể mỗi người bắt cóc một người con gái và đem nàng về nhà làm vợ. Các chi phái sẽ không vi phạm lời thề của họ vì họ không cho những người con gái đó làm cô dâu. Những con gái đó bị bắt đi. Đó là một vấn đề ngữ nghĩa học, nhưng họ đồng ý làm theo kế hoạch.


Vì vậy, sáu trăm người có đủ cô dâu của họ, mười một chi phái đã giữ lời thề của họ, các công dân Ghi-bê-a đã bị trừng phạt, chi phái Bên-gia-min đã được dạy một bài học và mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên đã được cứu. Sáu trăm người Bên-gia-min, với các câu dâu của họ trở lại với di sản của họ, dọn dẹp đống gạch vụn, sửa lại các thành, và khởi đầu cuộc sống trở lại.


Nhưng tất cả sự tàn sát và hủy diệt này đã xảy ra vì một người Lê-vi đã không có can đảm để đương đầu với điều gì phải và đối xử với vợ mình cách tôn trọng. Một lần nữa, như với Giô-na-than, Mi-ca và dân Đan (Cac 17:1-18:31), vấn đề đã bắt đầu trong gia đình. Gia đình như thế nào, quốc gia như thế đó.


Vào lần thứ tư (Cac 17:6;18:1;19:1), tác giả cho chúng ta biết rằng “không có vua trong Y-sơ-r-ên” và vào lần thứ nhất (Cac 17:6) ông thêm rằng “mọi người làm điều đúng theo mắt mình? Ngày nay không có vua trong Y-sơ-ra-ên vì dân tộc đã chọn Ba-na-ba thay cho Chúa Giê-xu (Lu 23:13-25). Họ nói: “Chúng tôi sẽ không để người này cai trị chúng tôi” (Lu 19:14). Vì không có vua trong Y-sơ-ra-ên, dân sự đang chống nghịch với Đức Chúa Trời và làm bất cứ điều gì hài lòng họ, và điều đó sẽ như thế cho đến khi Vua tái lâm và ngự ngôn Ngài trên đất.


Nhưng dân sự Đức Chúa Trời ngày nay không sống trong thời sách Các Quan-xét, họ sống trong thời sách Ru-tơ!. Thật khó tin rằng câu chuyện được kể trong sách Ru-tơ xảy ra trong thời Các quan xét (Ru 1:1). Câu chuyện về Ru-tơ là một chuyện tình nói về một người đàn ông tìm một cô dâu. Đó là một câu chuyện về sự cứu chuộc, về một người giàu có sẵn sàng trả giá để mua cô dâu yêu quí của mình và khiến nàng trở thành của riêng mình. Đó là một câu chuyện mùa gặt nói về Chúa của mùa gặt sẽ mang đến những bó lúa.


Bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ, mọi dân của Đức Chúa Trời ngày nay dự phần trong tình yêu của Ngài. Chúng ta hoàn toàn thuộc về Ngài vì Ngài đã cứu chuộc chúng ta bằng huyết Ngài khi Ngài chết thay chúng ta trên thập tự giá. Chúng ta là những người làm việc chung trong mùa gặt. Thật là một đời sống kỳ diệu chúng ta có giữa một thế giới bị lôi kéo bởi tội lỗi và sự ích kỷ! Và quả là một đặc quyền kỳ diệu chúng ta có để chia sẻ Tin Mừng với người khác!


Bạn đang sống trong sách nào? Sách Các Quan-xét hay sách Ru-tơ?



 


RÚT RA MỘT SỐ BÀI HỌC TỪ SÁCH CÁC QUAN XÉT-NHÌN LẠI VÀ NHÌN QUANH


Khi chúng ta nhìn lại những bài học của chúng ta và nhìn quanh thế giới của chúng ta với Hội thánh của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể rút ra một số kết luận về đời sống Cơ-đốc cùng sự hầu việc Cơ-đốc và thực hiện một số ứng dụng cho chức vụ của chúng ta hôm nay.


1. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những tôi tớ.

Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người sẵn sàng nghe Lời Ngài, tiếp nhận quyền năng Ngài và làm theo ý muốn Ngài. Đức Chúa Trời có thể sử dụng mọi hạng người nam và người nữ. Như Ghê-đê-ôn, một số tôi tớ Đức Chúa Trời yếu đuối nơi bản thân nhưng mạnh mẽ nơi Chúa. Giống như Ba-rác, một số người không muốn chiến đấu một mình với kẻ thù. Tất cả chúng ta đều khác nhau, nhưng tất cả chúng ta có thể hầu việc Chúa vì vinh hiển của Ngài.


Nếu Đức Chúa Trời kêu gọi bạn hầu việc Ngài, đó chủ yếu không phải vì khả năng hay tài năng của bạn. Ngài thường kêu gọi những người dường như không có khả năng lãnh đạo gì cả. Ngài gọi bạn vì bạn đầu phục Ngài và sẵn sàng làm theo ý muốn Ngài. Đừng nhìn bản thân, đừng chỉ nhìn vào thử thách, hãy nhìn Chúa.


2. Đức Chúa Trời cai trị và tể trị trong lịch sử.

Sách Các quan xét cho thấy rõ ràng Đức Chúa Trời có thể hành động trong và qua mọi quốc gia, dân ngoại cũng như dân Do-thái. Đức Chúa Trời đã “định trước thì giờ đời người ta cùng giới hạn chỗ ở” (Cong 17:26). Ngài là Đức Chúa Trời của lịch sử và cả địa lý. Ngài có thể dùng các dân ngoại để sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Ngài có thể lập lên một người cai trị này và hạ bệ người khác.


Mặc dù có thể không có một biểu mẫu rõ ràng đối với lịch sử, dù các sử gia có thể tìm kiếm điều đó, nhưng dứt khoát có một kế hoạch cho lịch sử: Vì Đức Chúa Trời nắm quyền điều khiển. Như Tiến sĩ A. T. Pierson thường nói “Lịch sử” là câu chuyện của Ngài? Những sự kiện đối với chúng ta có vẻ như những sự tình cờ thì thật sự là những sự chỉ định (Ro 8:28). Những ngày tăm tối như trong thời kỳ Các quan xét, Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi thực hiện những mục đích của Ngài. Điều này phải khích lệ chúng ta tin cậy Ngài và tiếp tục hầu việc Ngài, cho dù viễn cảnh có thể gay go thế nào đi nữa giữa thế giới gian ác này.


3. Đức Chúa Trời ban cho các quốc gia những lãnh đạo mà họ đáng được.

Tôi đã chỉ ra nhiều lần trong những bài học này rằng tính cách của các quan xét đã hư hỏng, bắt đầu từ Ghê-đê-ôn. Vào lúc chúng ta đến với Sam-sôn, chúng ta thấy sức mạnh thể chất tuyệt vời kết hợp với loại kính cách yếu đuối nhất Ghê-đê-ôn, Giép-thê và Sam-sôn đã làm công việc Đức Chúa Trời giao cho họ làm, nhưng họ không cung cấp chức lãnh đạo thuộc linh nào cho dân sự.


Các triết gia bao thế kỷ đã tranh luận rằng một người xấu có thể là một lãnh đạo tốt hay không. Có lẽ câu hỏi chính là: “Bạn đang nói về loại chức lãnh đạo nào?” Một vị tướng hay chưởi thề, nạt nộ, nói dối và không quan tâm Lời Đức Chúa Trời, nếu ông ta là một chiến sĩ có kinh nghiệm, chắc chắn có thể cung cấp chức lãnh đạo hiệu quả cho một quân đội, nhưng ông ta sẽ không cung cấp loại gương mẫu gây dựng tính cách.


Mọi tôi tớ Đức Chúa Trời đều có khuyết điểm trong phương diện nào đó, nhưng điều đó không nên là một cái cớ để chúng ta phạm tội hay làm việc không hết khả năng của mình. Chúng ta đều phải cố gắng xây dựng tính cách Cơ-đốc và phát triển những kỹ năng của mình cho vinh hiển của Đức Chúa Trời. Sự cống hiến không phải là điều thay thế cho công việc bất cẩn, nhưng sự thành công dưới mắt con người không phải là điều thay thế cho tính chất giống Chúa Giê-xu Christ. Giống như Đa-vít, chúng ta phải hầu việc Chúa bằng sự chính trực và cả sự khéo léo (Thi 78:72).


4. Đức Chúa Trời nhân từ tha thứ và giúp chúng ta khởi đầu trở lại.

Chu kỳ lịch sử trong sách Các Quan-xét bảo đảm với chúng ta rằng Đức Chúa Trời sửa phạt khi chúng ta bất tuân và tha thứ khi chúng ta ăn năn, xưng tội mình. Thật quá tệ khi chúng ta không học từ những thất bại của người khác và từ những thất bại trong quá khứ của chúng ta, nhưng đó là một trong những nguy hiểm nghề nghiệp của con người.


Chúng ta phải nhớ rằng dân tộc Y-sơ-ra-ên đã ở trong một mối liên hệ giao ước đặc biệt với Đức Chúa Trời. Ngài hứa chúc phước họ nếu họ vâng theo luật pháp Ngài và sửa phạt họ nếu họ bất tuân. Không nơi đâu trong Kinh Thánh Tân-ước Đức Chúa Trời hứa làm cho đời sống dân sự Ngài hôm nay trở nên dễ chịu và tiện nghi nếu họ vâng lời Chúa. Chúa Giê-xu đã sống một đời sống trọn vẹn trên đất, nhưng Ngài chịu khổ mà không ai từng chịu khổ giống như vậy, và chúng ta được kêu gọi trở nên giống Chúa Giê-xu. Phao-lô là một người tận tuỵ cho Chúa, nhưng ông đã trải qua vô số hoạn nạn.


Nếu chúng ta vâng lời Chúa chỉ để nhận những vật chất từ Ngài hay để thoát khỏi hoạn nạn, vậy mối liên hệ của chúng ta với Ngài không ngọt ngào cho lắm. Nó đúng hơi hơn là một liên hệ “hợp đồng”. Chúng ta sẽ vâng lời Ngài nếu Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta muốn. Chúa Giê-xu đã đề cập đến thái độ ích kỷ này trong câu chuyện được trình bày để trả lời cho câu hỏi của Phi-e-rơ: “Vậy chúng tôi sẽ được chi?” (Mat 19:27).


Chúng ta phải vâng lời Chúa vì chúng ta yêu mến Ngài. Đôi khi việc vâng lời Ngài sẽ dẫn chúng ta vào những hoạn nạn, nhưng Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua. Chúng ta cần trở nên giống ba người Do-thái đã đối diện với lò lửa hừng. “Này, hỡi vua, Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu việc có thể giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa hực, và Ngài sẽ giải cứu chúng tôi khỏi tay vua. Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc các thần của vua, chúng tôi cũng sẽ không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã dựng” (Đa 3:17-18 NKJV).


5. Lời Đức Chúa Trời không thay đổi mặc cho sự bất trung của con người.

Các quan xét đã hoàn thành điều họ làm vì họ tin Lời Đức Chúa Trời (He 11:32-34). Đôi khi đức tin của họ yếu đuối và bất toàn, nhưng Đức Chúa Trời tôn trọng sự tin cậy của họ và làm vinh hiển danh Ngài qua họ. Nhưng thậm chí khi các lãnh đạo và dân sự bất tuân với Ngài, sự vô tín và bất tuân của họ đã không hủy bỏ được Lời Đức Chúa Trời.


Lời Đức Chúa Trời không bao giờ qua đi. Nếu chúng ta vâng theo, Ngài thành tín chúc phước cho chúng ta, giữ lời hứa Ngài và thực hiện những mục đích của Ngài. Nếu chúng ta bất tuân ý muốn Ngài, Ngài thành tín sửa phạt chúng ta và đem chúng ta trở lại vị trí đầu phục. Lời Đức Chúa Trời không thay đổi và tính cách của Đức Chúa Trời không thay đổi.


Là con cái Ngài, chúng ta sống bởi những lời hứa chớ không bởi những lời giải thích. Đức Chúa Trời không cần phải giải thích cho chúng ta điều gì Ngài đang làm hay tại sao Ngài làm như thế. Ngài sẽ luôn ban cho tôi tớ Ngài chỉ những lời hứa họ cần để thực hiện công việc.


6. Đức Chúa Trời sử dụng chính thể loài người để thực hiện ý muốn Ngài.

“Không có vua trong Y-sơ-ra-ên”, nhưng Đức Chúa Trời vẫn có thể hành động. Thậm chí khi có một vua trong Y-sơ-ra-ên, đó không phải là sự bảo đảm rằng dân sự sẽ vâng lời Đức Chúa Trời. Chính thể là quan trọng, và Đức Chúa Trời đã thiết lập chính thể, nhưng những người cai trị, các thượng nghị viện hay các nghị viện không thể giới hạn Đức Chúa Trời.


Theo Ro 13:1-14 Đức Chúa Trời thiết lập chính thể loài người vì lợi ích của chúng ta, và trách nhiệm của chúng ta là tôn trọng và vâng phục chính thể đó. Chúng ta không thể tôn trọng những người ở trong chức vụ, nhưng chúng ta phải tôn trọng chức vụ. Đức Chúa Trời đã thực hiện những mục đích của Ngài với dân Ngài qua những loại hệ thống chính trị khác nhau, kể cả những nền quân chủ và chế độ độc tài. Chúng ta không nên nghĩ rằng Ngài cần một chế độ dân chủ hay một nền quân chủ lập hiến để thực hiện ý muốn Ngài. Đức Chúa Trời là tối cao!


Không kể đến dạng chính thể mà một quốc gia có, Ch 14:34 vẫn thích hợp. “Sự công bình tôn cao một nước, nhưng tội lỗi là một sự sỉ nhục cho bất cứ dân tộc nào” (NKJV).


7. Khi dân sự Đức Chúa Trời không có tinh thần thuộc linh, các quốc gia suy sụp.

Sự bỏ đạo và tình trạng vô chính phủ đi đôi với nhau. Chúng ta là sự sáng của thế gian và muối của đất (Mat 5:13-16), và Đức Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng một ảnh hưởng tích cực trên xã hội. Khi Hội thánh thôi làm một dân thánh còn vâng lời Chúa, thì muối mất vị của nó và ánh sáng chiếu dưới một cái thùng. G. Campell Morgan nói rằng Hội thánh đã làm nhiều nhất cho thế gian khi Hội thánh ít giống thế gian nhất. Ngày nay, nhiều Hội thánh có tư tưởng họ phải bắt chước thế gian để đến với thế gian. Vào sai lầm!


Khi Y-sơ-ra-ên tiếp nhận lối sống của các dân tộc ngoại đạo quanh họ, họ đã làm dân tộc họ suy yếu. Các quốc gia bị suy tàn và sụp đổ không phải vì những người rao bán sách báo khiêu dâm hay thuốc phiện, nhưng vì các Cơ-đốc nhân không còn là muối và ánh sáng. Đức Chúa Trời nghĩ đến việc tội nhân hành động như tội nhân, dù Ngài không tán thành điều họ làm, nhưng Ngài không nghĩ thánh đồ hành động như tội nhân. Các Cơ-đốc nhân thỏa hiệp không chỉ làm tổn thương bản thân gia đình và Hội thánh, mà còn góp phần vào sự suy tàn của cả quốc gia.


8. Đức Chúa Trời không cho biết toàn bộ câu chuyện tức thời.

Chúng ta biết khá nhiều về Đê-bô-ra, Ghê-đê-ôn, Giép-thê và Sam-sôn nhưng chúng ta không biết nhiều về Sam-ga, Thô-la và Giai-rơ. Đức Chúa Trời thấy không thích hợp để đặt vào Lời Ngài mọi việc của tất cả các tôi tớ Ngài, nhưng những người này đã đóng những vai trò quan trọng trong việc thực hiện những mục đích của Ngài.


Dân sự Đức Chúa Trời có thể không bao giờ nhận ra công việc bạn làm cho Chúa! Đức Chúa Trời giữ những ghi chép và một ngày nào đó sẽ thưởng bạn vì sự hầu việc trung tín của bạn. Không quan trọng để người khác thấy việc bạn làm và ngợi khen bạn về điều đó. Quan trọng là chúng ta hầu việc Chúa và tìm cách làm đẹp lòng Ngài.


Ở đây có lời cảnh cáo khác: Đừng quá nhanh chóng xét đoán điều người khác đang làm, và đừng có ý nghĩ rằng bạn là người duy nhất trung tín hầu việc Chúa. Suốt thời kỳ Các Quan-xét, những người khác nhau đã hầu việc Đức Chúa Trời ở những vị trí khác nhau, và không phải tất cả họ đều biết mọi sự đang xảy ra.

Điều đó cũng vậy với công việc của Đức Chúa Trời ngày nay. Mặc cho những bài phóng sự tin tức tuyệt vời trong giới Cơ-đốc, chúng ta không phải lúc nào cũng biết Đức Chúa Trời đang làm gì trong và qua các tôi tớ Ngài ở các miền khác nhau của địa cầu. Khi chúng ta cảm thấy nản lòng, có lẽ chúng ta sẽ được khích lệ nêú chúng ta biết toàn bộ câu chuyện.


“Vậy, chớ xét đoán trước kỳ, cho đến khi Chúa đến, Đấng sẽ đem ra ánh sáng những sự giấu kín nơi tối tăm, và sẽ bày ra những toan định của lòng người, và bấy giờ mọi người sẽ có sự khen ngợi của Đức Chúa Trời” (ICo 4:5).


9. Đức Chúa Trời vẫn chúc phước cho những ai sống bởi đức tin.

Người ta thường nói rằng đức tin không phải là tin bất chấp chứng cớ (đó là mê tín) nhưng là vâng phục bất chấp hậu quả. Tôi có thể thêm vào rằng nó cũng có nghĩa là vâng lời Đức Chúa Trời cho dù chúng ta thấy gì quanh mình hay phía trước mình hoặc chúng ta cảm thông ra sao trong lòng mình. Đức tin không tuỳ thuộc vào cảm xúc của chúng ta (Ghê-đê-ôn đã sợ hãi nhiều lần, và Sam-sôn cảm thấy mình vẫn có sức mạnh như trước) hoặc sự hiểu biết của chúng ta về hoàn cảnh. Đức tin đặt Đức Chúa Trời ở Lời Ngài và làm điều Ngài bảo chúng ta làm.


Bạn không thể hầu việc Đức Chúa Trời mà không có đức tin, vì “không có đưc tin thì không thể làm đẹp lòng Ngài” (He 11:6).

“Bất cứ điều chi không phải bởi đức tin là tội lỗi” (Ro 14:23). Nếu chúng ta chờ cho đến khi mình có đức tin trọn vẹn, chúng ta sẽ không bao giờ làm được gì nhiều cho Chúa. Việc thực hành đức tin giống như vận động các cơ bắp: Bạn càng vận động, các cơ bắp càng trở nên chắc hơn.


10. Câu chuyện của Đức Chúa Trời chưa kết thúc.

Tôi phải thú nhận rằng thỉnh thoảng tôi cảm thấy phiền muộn khi tôi viết sách này. Một hôm tôi nói với vợ tôi: “Anh sẽ vui mừng khi quyển ‘Hãy sẵn sàng’ được kết thúc. Chẳng có nhiều tin tốt lành trong sách Các quan-xét!”


Nhưng sách Các Quan-xét không phải là kết thúc của câu chuyện! Thật ra, sách bắt đầu bằng những từ “Giờ đây, đã đến lúc”, là một cách kỳ lạ để bắt đầu một cuốn sách. Trong Hê-bơ-rơ, viết rằng “và bấy giờ”. Nếu tôi mở đầu một cuốn sách bằng nhóm từ “và bấy giờ” các chủ bút sẽ gởi lại bản thân cho tôi và bảo tôi xem lại cú pháp của mình.


Nhưng có 5 sách Cựu-ước mở đầu “và bấy giờ” : Giô-suê, Các Quan-xét, Ru-tơ, I và II Sa-mu-ên, Ê-xơ-tê, Ê-xê-chi-ên, và Giô-na. Vì sao? Vì các sách đó đều là một phần của câu chuyện tiếp tục mà Đức Chúa Trời đang viết! Kết thúc của sách Giô-suê không kết thúc công việc của Đức Chúa Trời trên thế giới này, vì sách Các quan xét bắt đầu bằng “và bấy giờ”. Câu chuyện tiếp tục! Đức Chúa Trời vẫn đang hành động


Nếu sách Các Quan-xét là sách “không có vua”, hãy nhớ rằng sách IISa-mu-ên là sách về vua của Đức Chúa Trời, và Đa-vít đã lên ngôi và đem đến trật tự cùng hoà bình cho xứ. Khi quan điểm không lay chuyển được, hãy nhắc chính mình rằng Đức Chúa Trời chưa kết thúc câu chuyện.


Một người bạn của tôi có liên quan đến môn bóng rỗ nhà nghề, thích xem phim vidéo về những trò chơi thắng cuộc của đội ông. Thậm chí suốt những giây phút căng thẳng nhất của cuộc chơi, ông có thể thư giãn trước máy truyền hình vì ông hoàn toàn biết nó sẽ kết thúc ra sao.


Có những ngày khi dân sự Đức Chúa Trời nhìn vào một thế giới hỗn độn, một quốc gia được dành cho sự tham lam với bạo lực, và một Hội thánh yếu đuối, chia rẽ, và chúng ta không biết có đáng để bước đi với Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn Ngài hay không. Khi điều đó xảy ra, hãy nhắc chính mình rằng dân sự Đức Chúa Tròi biết nó sẽ kết thúc ra sao! Sách Các Quan-xét không phải là phần cuối cùng. Sách Khải-huyền là phần cuối! Và Đức Chúa Trời bảo đảm với chúng ta rằng sự công bình sẽ đắc thắng, điều ác sẽ bị xét đoán, và đức tin sẽ được ban thưởng.


Không Cơ-đốc nhân nào có thể làm được mọi sự, nhưng mọi Cơ-đốc nhân có thể làm được điều gì đó, và Đức Chúa Trời sẽ hiệp mọi “điều gì đó” này lại với nhau để khiến công việc Ngài được thực hiện trên thế giới này.


Bạn không bao giờ có thể xác định Đưc Chúa Trời đã vạch kế hoạch gì cho bạn, vì vậy hãy sẵn sàng!


Xét cho cùng, một ngày trong những ngày này, “bạn sẽ phải chịu trách nhiệm, và bạn sẽ cần phải sẵn sàng.”



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page