top of page

GIÔ-SUÊ (2)

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Lịch Sử (Cựu-ước)



9. GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP (Gios 10:29-12:24)


Trong...

...phần nầy, Giô-suê tóm lược sự chinh phục các thành ở phía nam (Gios 10:29-43), phía bắc (Gios 11:1-15) xứ Pa-léc-tin, à kết thúc bằng một bảng liệt kê tên của các vua bị Y-sơ-ra-ên đánh bại (Gios 11:26-12:24). Nếu các trang cuối của quyển Kinh Thánh của bạn có bản đồ cho cuộc chinh phục nầy, bạn nên tham khảo nó khi đọc các đoạn Kinh Thánh nầy.


Có hai sự kiện nổi bật: Chính Đức Chúa Trời là Đấng ban chiến thắng (Gios 10:30,32,42; Gios 11:6,8) và Giô-suê vâng lời Đức Chúa Trời như Môi-se đã căn dặn nên đã tiêu diệt hoàn toàn kẻ thù (Gios 11:9,12,15,20). Ga-ba-ôn là ngoại lệ duy nhất.


Chiến lược của Giô-suê là đi cắt ngang và chia đôi xứ, sau đó chiếm các thành ở phía nam, rồi đến các thành ở phía bắc. Có hơn một lần ông tấn công bất ngờ vào kẻ thù (Gios 10:9; Gios 11:7) và những lời hứa của Đức Chúa Trời đã khích lệ ông (c.6 Gios 1:9; Gios 18:1).


Trong Gios 10:29-35, chúng ta thấy đội quân đang đánh ở các ngọn đồi dưới chân núi; nhưng trong câu 36, chiến dịch chuyển lên các dãy núi. Liên minh của các vua phía bắc không đánh bại được Y-sơ-ra-ên dù quân đội của họ đông hơn quân Do-thái rất nhiều (Gios 11:1-9).

“Lâu ngày” trong câu 18 là khoảng 7 năm. Thất bại của Y-sơ-ra-ên tại Ca-đe Ba-nê-a (Phuc 2:14), lúc đó Ca-lép 40 tuổi (Gios 14:7) cho đến khi họ vượt qua sông Giô-đanh là 38 năm. Ông được 85 tuổi khi cuộc chinh phục kết thúc (c.10), như vậy ít nhất phải mất 7 năm chinh chiến.


Người A-na-kim được đề cập trong Gios 11:21-22 là tộc người khổng lồ, con cháu của A-nác, 10 thám tử vô tín đã từng khiếp sợ những người khổng lồ nầy (Dân 13:22,28,33). Hai thám tử có đức tin, Giô-suê và Ca-lép, không sợ hãi như họ nhưng tin Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ chiến thắng. Chiến thắng của Giô-suê trên dân A-na-kim được ghi lại trong Gios 11:21-22 và của Ca-lép trong Gios 14:12-15.


Sự mâu thuẫn giữa Gios 11:23 và Gios 13:1 có thể được giải thích dễ dàng. Giô-suê cùng đội quân của ông đã nắm quyền kiểm soát cả xứ vì đã tiêu diệt được các thành quan trọng cùng với vua và cư dân của nó. Y-sơ-ra-ên không chiếm từng thành nhỏ hoặc giết từng người hay từng lãnh đạo, nhưng họ giết đủ để bẻ gãy thế lực của kẻ thù và nắm quyền kiểm soát cả xứ.

Một khi thực hiện được điều nầy và được nghỉ yên trong xứ, Giô-suê mới có thể chia sản nghiệp cho từng chi phái; và trong mỗi phần sản nghiệp của mình, ác chi phái được kiểm soát các cư dân hiện còn cư ngụ trong đó. Ngay khi Giô-suê và các quan chức qua đời, vẫn còn những phần đất cần phải chiếm lấy (Cac 1:1-3:31).


30 vua được liệt kê trong Gios 12:1-24, bắt đầu là Si-hôn và Óc với phần đất phía đông Giô-đanh và đã bị chiếm khi Môi-se còn lãnh đạo (Gios 12:1-8; Dân 21:21-35). 16 vua bị đánh bại trong chiến dịch miền nam được liệt kê trong Gios 12:9-16 và 15 vua phía bắc được kể tên từ câu 17-24.


Đến đây chúng ta bước sang giai đoạn chia đất cho các chi phái (đoạn 13-21) để khám phá những lẽ thật thuộc linh mà chúng ta cần biết và áp dụng khi chúng ta nhận lấy sản nghiệp thuộc linh trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Gios 11:1-23; xem giải nghĩa Gios 10:29-42.

Gios 12:1-24; xem giải nghĩa Gios 10:29-42.



 


10. XỨ SỞ NẦY LÀ CỦA CHÚNG TA (Gios 13:1-21:45)


Giô-suê đã hoàn tất nửa đầu sứ mạng mà Đức Chúa Trời dành cho ông: Ông đã chinh phục kẻ thù và nắm quyền kiểm soát cả xứ và các thành của nó (Gios 1:1-5). Giờ đây ông phải thực hiện tiếp nửa sau của sứ mạng đó và chia đất để mỗi chi phái nhận làm sản nghiệp và hưởng những điều Đức Chúa Trời ban cho họ (c.6). (Dân 34:1-35:34).


Từ sản nghiệp xuất hiện trên 50 lần trong 9 đoạn Kinh Thánh nầy và là từ rất quan trọng. Dân Do-thái hưởng được xứ của họ. Họ không nhận xứ ấy như một chiến lợi phẩm hay mua xứ của họ như một cuộc giao dịch buôn bán. Đức Chúa Trời chính là chủ duy nhất, đã cho họ thuê đất ấy. Ngài đã dạy họ rằng: “Đất không được đoạn mãi; vì đất thuộc về ta, các ngươi ở cùng ta như kẻ khách ngoại bang và kẻ kiều ngụ” (Le 25:23). Hãy tưởng tượng Đức Chúa Trời là chủ đất của bạn!.


“Tiền thuê đất” mà Đức Chúa Trời cần là sự vâng phục của dân Y-sơ-ra-ên đối với Luật Pháp của Ngài.Bao lâu dân Do-thái còn tôn kính Đức Chúa Trời trong sự thờ phượng và đầu phục, thì Ngài còn ban phước cho họ, khiến cho đất của họ sinh bông trái, và giữ cho đất nước của họ hoà bình với các nước láng giềng. Khi Y-sơ-ra-ên chấp nhận những ơn phước và lời rủa sả tại núi Ga-ri-xim và núi Ê-banh (Gios 8:30-35) tức họ chấp nhận điều kiện trong cái gọi là “Giao-ước thuộc về Pa-léc-tin”. Họ được sở hữu đất nầy chính là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời; nhưng quyền sở hữu và sự vui hưởng của họ tùy thuộc vào sự đầu phục và và sự vâng lời của họ đối với Đức Chúa Trời (Le 26:1-46; Phuc 27:1-30:20 để biết chi tiết về Giao-Uớc nầy).


Đất Hứa là tặng vật từ tình yêu thương của Đức Chúa Trời; và nếu dân Y-sơ-ra-ên kính yêu Chúa, họ sẽ muốn vâng lời Ngài và làm đẹp lòng Ngài trong cách họ sử dụng đất của Ngài (Phuc 4:37-39). Thật đáng tiếc, cuối cùng họ đã xem thường Đức Chúa Trời, bất tuân Luật Pháp Ngài và làm ô uế đất; nên Đức Chúa Trời đã phạt họ trong xứ của Ba-by-lôn.


Có bốn giai đoạn chính trong việc chia đất; trong mỗi giai đoạn đều có bài học thuộc linh cho dân sự Đức Chúa Trời ngày nay, là những người muốn hưởng sản nghiệp thuộc linh trong Chúa Cứu Thế. Khi nghiên cứu những đoạn Kinh Thánh nầy, tôi khuyên bạn nên tham khảo bản đồ của Đất Hứa, trong đó bạn sẽ thấy những ranh giới của 12 chi phái và các thành có liên quan.


1. Sự phân chia tại Ghinh-ganh (Gios 13:1-33) (Gios 13:1-17:18)

Trong cuộc chinh phục Ca-na-an, Ghinh-ganh trở thành trung tâm của mọi hoạt động của Y-sơ-ra-ên. Sau nầy, Giô-suê dời trại và đền tạm đến vị trí trung tâm hơn tại Si-lô (Gios 18:1).


Chúng ta không biết chính xác tuổi của Giô-suê trong thời điểm nầy của lịch sử Y-sơ-ra-ên, có thể ông đã đến tuổi 100. Ca-lép đã 85 (Gios 14:10), và chắc chắn Giô-suê lớn tuổi hơn Ca-lép. Giô-suê sống đến 110 tuổi (Gios 24:19), và những sự kiện được mô tả trong nửa sau sách nầy rất có thể đã diễn ra trong vòng 10 năm.


Cách phân chia lãnh thổ ở Ca-na-an được ghi lại trong Gios 14:1-2. Thầy tế lễ thượng phẩm Ê-lê-a-sa, Giô-suê, và các đại diện của mỗi chi phái (Dân 34:13-29) rút thăm trước mặt Đức Chúa Trời bằng cách nầy họ biết được ý muốn của Ngài (Ch 16:33). Khi Giô-suê dời trại đến Si-lô, họ đã thay đổi cách thức (Gios 18:1-7),

Hai chi phái rưỡi ở bờ đông sông Giô-đanh (Gios 13:1-33). Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-na-se đã đồng ý giúp các chi phái khác chinh phục xứ trước khi trở về bờ đông sông Giô-đanh để hưởng sản nghiệp mình (Dân 32:1-42). Họ xin phần đất bên ngoài biên giới Ca-na-an vì đất ở đó rất thích hợp cho việc chăn thả gia súc.

Dường như họ không bận tâm đến việc hai chi phái rưỡi nầy không sống trong phần đất mà Đức Chúa Trời ban cho. Môi-se đã tử tế đồng ý với sự lựa chọn của họ và để họ sống bên kia sông Giô-đanh. Khi nghiên cứu Giô-suê đoạn 21, chúng ta sẽ rút ra một bài học, đó là dù lựa chọn của họ có thể rất tốt cho bầy gia súc, nhưng nó sinh ra những vấn đề nghiêm trọng cho con cái họ.


Những chi phái nầy trở thành “vùng đệm” giữa Ca-na-an và những nước ngoại bang như Mô-áp và Am-môn. Dĩ nhiên, vị trí của họ khiến họ dễ bị tấn công về chính trị và những ảnh hưởng xấu của ngoại giáo; cả hai bất lợi nầy cuối cùng đã làm họ sụp đổ. Vùng biên giới được chia cho Ru-bên ở phía nam (Gios 13:15-23), và nửa chi phái ma-na-se ở phía bắc (c.29-32), Gát ở giữa (c.24-28).


Bài học 1. Đừng trở thành “tín đồ đứng bên lề”.

Hãy bước vào sản nghiệp mà Đức Chúa Trời ban cho bạn và vui hưởng nó. “Ngài chọn cơ nghiệp cho chúng tôi, là sự vinh hiển của Gia-cốp mà Ngài yêu mến” (Thi 47:4). Ý muốn của Đức Chúa Trời bày tỏ tình yêu thương của Ngài, và đó là điều tốt nhất cho chúng ta.


Vì chi phái Ru-bên nhận phần đất từ Mô-áp, nên câu chuyện về Ba-la-am được đề cập ở đây là hợp lý (Gios 13:22-23; Dân 22:1-25:18). Khi Ba-la-am nhận thấy Đức Chúa Trời biến những lời rủa sả của ông thành những ơn lành, ông khuyên Ba-lác nên thân thiện với người Do-thái và mời họ tham dự một trong những lễ tiệc mang tính tôn giáo của người Mô-áp. Kết quả của việc nầy là những người nam Do-thái đã cưới người nữ Mô-áp làm vợ, và như vậy đã vi phạm Luật Pháp của Đức Chúa Trời. Sa-tan không thành công khi như con sư tử rủa sả dân sự Đức Chúa Trời, nó liền trở nên như con rắn và đã thành công, đã lừa gạt được Y-sơ-ra-ên và dẫn dụ những người nam bước vào sự thoả hiệp xấu xa.


4 lần trong những đoạn Kinh Thánh nầy, chúng ta được nhắc nhở rằng người Lê-vi không được chia sản nghiệp trong xứ (Gios 13:14,33; Gios 14:3-4; Gios 18:7), vì chính Đức Chúa Trời là sản nghiệp của họ (Phuc 18:1-8; Phuc 10:8-9; Dân 18:1-32). Các thầy tế lễ nhận phần của mình từ những của tế lễ, và cả thầy tế lễ và người Lê-vi cùng được chia phần trong số của dâng phần mười và các của lễ đặc biệt mà dân sự đem đến dâng theo luật định.


Nhưng có những yếu tố khác liên quan đến việc phân tán chi phái Lê-vi. Thứ nhất, Đức Chúa Trời không muốn nhiệm vụ trong chi phái làm thầy tế lễ và người Lê-vi xao lãng; Ngài muốn họ dành hết tâm sức để hầu việc Ngài. (IITi 2:4). Ngài cũng muốn họ là “muối và ánh sáng” trong xứ khi họ sống giữa vòng dân sự và dạy dỗ cho Luật Pháp cho dân sự. Si-mê-ôn và Lê-vi cũng phải phân tán để ứng nghiệm lời tiên tri của Gia-cốp (Sa 49:5-7, xem đoạn 34). Si-mê-ôn cuối cùng trở thành một phần của chi phái Giu-đa.


Hai chi phái rưỡi ở phía tây Giô-đanh (Gios 14:1-17:18). Các chi phái tiếp theo được định cư là Giu-đa ở miền nam (Gios 14:6-15:63), Ép-ra-im ở giữa xứ (Gios 16:1-10), và nửa chi phái Ma-na-se còn lại ở miền bắc (Gios 17:1-18).


Vì Ca-lép thuộc chi phái Giu-đa (Dân 13:30) và một trong hai thám tử trung thành, ông nhận sản nghiệp mình trước nhất. Giô-suê, người thám tử thứ hai trung thành, là người nhận sản nghiệp sau cùng (Gios 19:49-51). Ca-lép nhắc Giô-suê bạn mình về lời hứa của Môi-se đã lập với họ 40 năm trước (Dân 14:24,30; Phuc 1:34-36), rằng họ sẽ còn sống sau những năm lưu lạc trong đồng vắmg và được nhận sản nghiệp mình trong xứ. Lời hứa nầy mang lại niềm vui và lòng can đảm cho Giô-suê và Ca-lép trong suốt những năm lưu lạc và chờ đợi.


Bài học 2. Hãy can đảm trong cuộc hành hương của bạn! Bạn đã nhận được sản nghiệp mình trong Chúa Cứu Thế rồi và có thể hưởng “đủ mọi thứ phước thiên liêng” (Eph 1:3). Vì bạn có sản nghiệp vinh hiển trước mặt (IPhi 1:3-6), hãy luôn trông đợi! Điều tốt đẹp nhất vẫn còn ở phía trước!


Ca-lép đã 85 tuổi, nhưng ông không muốn nhận việc nhẹ nhàng, thích hợp với “một người đã già”. Ông xin Giô-suê cho ông lên núi để đánh người khổng lồ! Sức lực của ông ở trong Chúa, và ông biết rằng Đức Chúa Trời không bao giờ bỏ rơi ông. Bí quyết của đời sống Ca-lép được tìm thấy trong một câu được lập lại 6 lần trong Kinh Thánh: “Người có trung thành vâng theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (Gios 14:14; Dân 14:24; Dân 32:12; Phuc 1:36; Gios 14:8-9). Ca-lép là người chiến thắng vì ông có đức tin nơi Đức Chúa Trời (IGi 5:4).


Bài học 3. Chúng ta không bao giờ quá già để bắt đầu một cuộc chinh phục mới của đức tin trong quyền năng của Đức Chúa Trời. Giống Ca-lép, chúng ta có thể leo lên núi và chiến đấu với người khổng lồ nếu chúng ta hoàn toàn bước theo Chúa. Dù chúng ta có già đến đâu, chúng ta không bao giờ thôi tin cậy và phục vụ Đức Chúa Trời.


Trong Gios 15:13-19, chúng ta thấy Ca-lép dự liệu cho thế hệ sau. Một phần đức tin của Ca-lép đã truyền sang cho Ốt-ni-ên, con rể của ông, về sau người nầy làm quan xét trong xứ (Cac 3:7-11). Đức tin của Ca-lép cũng cảm động con gái của ông; vì cô ấy đã có đức tin để xin cha cho một thửa ruộng và sau đó là một dòng nước để tưới tiêu. Gương đức tin của Ca-lép để lại cho gia đình ông còn quý giá hơn những tài sản mà ông dành lại cho họ.


Bài học 4. Thế hệ đi trước phải dự liệu cho thế hệ sau, không chỉ về vật chất mà trên hết là về thuộc linh. “Thánh đồ lão thành” phải làm gương cho các tín đồ và khích lệ thế hệ trẻ tin cậy Đức Chúa Trời và trung thành bước theo Ngài.


Sản nghiệp của những người còn lại trong chi phái Giu-đa được mô tả trong Gios 15:1-12,21,63. Chúng ta không rõ tại sao trong câu 32 viết là 32 thành trong khi kể tên đến 36 thành, nhưng có lẽ vì tính luôn tên của một số “làng” bên ngoài các tường thành. Lúc đó người Do-thái không thể chiếm được hoàn toàn thành Giê-ru-sa-lem (c.63). Sau nầy họ có chiếm giữ nó tạm thời (Cac 1:8), cho đến đời vua Đa-vít mới chiếm được thành vĩnh viễn và lập thủ đô tại đó (IISa 5:6-10).


Ép-ra-im và Ma-na-se là con trai của Giô-sép, được Gia-cốp “nhận làm con” và chúc phước cho (Sa 48:15-22). Vì chi phái Lê-vi không được chia sản nghiệp, nên hai chi phái nầy thế chỗ để vẫn còn đủ 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Theo thứ tự lớn nhỏ thì Ma-na-se rồi đến Ép-ra-im (Gios 16:41-17:1) nhưng Gia-cốp đã đảo ngược thứ tự nầy.

Đức Chúa Trời khước từ sự sinh ra lần thứ nhất của chúng ta và ban cho chúng ta sự sinh ra lần thứ hai.Ngài chấp nhận A-bên và khước từ Ca-in; Ngài từ chối Ích-ma-ên và chấp nhận Y-sác, con trai thứ của Áp-ra-ham; Ngài từ chối Ê-sau và nhận Gia-cốp. Trong nước Y-sơ-ra-ên, con trai được hưởng tài sản nhưng các con gái của Xê-lô-phát thấy rằng không nên để con gái bị phân biệt đối xử (c.3-6; Dân 27:1-11). Giống các con gái của Ca-lép, những người nữ nầy có đức tin và lòng can đảm để đòi sản nghiệp của mình, và họ thậm chí đã thay đổi luật pháp!


Bài học 5. Đức Chúa Trời muốn ban cho thất cả dân sự Ngài sản nghiệp của họ. “Anh em chẳng được chi, vì không cầu xin”(Gia 4:2). Trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, tất cả tín đồ là một và là những người thừa kế của Đức Chúa Trời (Ga 3:26-29). Không có gì thuộc về lần sinh ra thứ nhất của bạn ngăn trở bạn nhận lãnh mọi điều bạn có trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.


Giô-suê gặp vấn đề với các con của Giô-sép (Ép-ra-im và Ma-na-se), họ than phiền vì Chúa không dành đủ chỗ cho họ! (Gios 17:14-18). Bạn có thể thấy sự kiêu ngạo của họ khi họ nói với Giô-suê rằng họ là một dân rất đông. Chẳng phải chính Gia-cốp đã nhận họ làm con và đặc biệt chúc phước cho họ sao? Dân số của họ không phải đã tăng rất nhiều sao? Và Giô-suê chẳng phải xuất thân từ chi phái Ép-ra-im hay sao? (Dan 13:8). Họ là một dân đặc biệt nên đáng được đối xử đặc biệt.


Nếu so sánh số liệu trong Gios 1:32-35 với Gios 26:34,37, bạn sẽ thấy con cháu Giô-sép gia tăng từ 72.700 đến 85.200 người, và Ép-ra-im ít hơn 8.000 người. Nhưng 6 chi phái khác đã gia tăng dân số kể từ lần kê sổ cuối cùng. Như vậy, các con của Giô-sép không phải là những người duy nhất sinh sản thêm nhiều.


Giô-suê nói với các anh em mình rằng, nếu họ có dân số đông như vậy, thì giờ đây là cơ hội để chứng minh điều đó! Họ hãy làm điều mà Ca-lép đã làm, đó là đánh bại những người khổng lồ và chiếm các vùng núi! Lưu ý rằng Dân Ép-ra-im và Ma-na-se dường như có thói quen chỉ trích và kiêu ngạo. Họ không chỉ sinh chuyện cho Giô-suê mà còn cho Ghê-đê-ôn (Cac 8:1-3), Giép-thê (Cac 12:1-7) và cho cả Đa-vít (IISa 20:1-5). “Vì ở đâu có những điều ghen tương tranh cạnh ấy, thì ở đó có sự lộn lạo và đủ mọi thứ ác” (Gia 3:16).


Bài học 6. Không phải bởi sự khoe khoang, nhưng chính bởi lòng tin mà bạn được ban cho sự chiến thắng và giành được đất mới. Đôi khi những người nói nhiều nhất lại là những người làm được ít nhất.

-Gios 14:1-15;xem giải nghĩa Gios 13:1-33.

-Gios 15:1-63; xem giải nghĩa Gios 13:1-33.

-Gios 16:1-10; xem giải nghĩa Gios 13:1-33.

-Gios 17:1-18; xem giải nghĩa Gios 13:1-33.


2. Sự phân chia tại Si-lô (Gios 17 :1-33) (Gios 18:1-19:51)

Đến lúc nầy đã có 5 chi phái nhận được sản nghiệp mình. Sau đó Giô-suê dời trại đến Si-lô, trong vùng đất thuộc về chi phái Ép-ra-im; đền tạm ở nơi đó cho đến khi Đa-vít đời hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem (xem giải nghĩa Gios 13:1-33; IISa 16:1-23). Chắc chắn Đức Chúa Trời hướng dẫn Giô-suê trong việc di dời nầy nếu không thì ông ta không dời chỗ như vậy (Phuc 12:5-7). Si-lô nằm ngay trung tâm của xứ và thuận lợi hơn cho tất cả các chi phái.


7 chi phải vẫn chưa được chia sản nghiệp, và dường như họ đáp ứng chậm chạp với thách thức nầy. Không giống Ca-lép và các con gái của Xê-lô-phát, các chi phái nầy không có đức tin và cũng chẳng có lòng nhiệt tình về mặt thuộc linh. Những chi phái nầy đã giúp trong các cuộc chiến và đánh bại kẻ thù, nhưng giờ họ do dự khi nhận lấy sản nghiệp để được hưởng xứ mà Đức Chúa Trời ban cho. “Kẻ biếng nhác không chiên nướng thịt mình đã săn; Song người siêng năng được tài vật quý báu của loài người” (Ch 12:27)


Vào thời điểm nầy, Giô-suê và các lãnh đạo đưa ra cách mới để chia đất. Sau khi mỗi chi phái cử ra 3 người đại diện, thì tất cả 21 người trong 7 chi phái còn lại ấy sẽ đi khắp các vùng đất chưa chia để xem qua các thành và các biên giới. Họ về báo cáo lại cho Giô-suê để ông chia đất cho 7 chi phái còn lại bằng cách rút thăm trước mặt Đức Giê-hô-va.


Vì Bên-gia-min là em ruột của Giô-sép, nên phần đất của chi phái nầy nằm canh chi phái Ép-ra-im và Ma-na-se (Gios 18:11-28). Si-mê-ôn hưởng chung sản nghiệp với Giu-đa (Gios 19:1-9; Sa 49:7) và cuối cùng cư ngụ trong thành được chỉ định trong Gios 15:21. Con cháu của Giô-sép muốn có thêm đất, nhưng lại không muốn lấy đức tin để đấu tranh vì nó;nhưng dân Giu-đa có quá nhiều đất đến nỗi chia xẻ cho Si-mê-ôn. Thật là một sự tương phản!


Vùng phía bắc Ma-na-se được giao cho chi phái Sa-bu-lôn (Gios 19:10-16), Y-sa-ca (c.17-23), A-se (c.24-31), à Nép-ta-li (c.32-39). Sa-bu-lôn và Nép-ta-li về sau trở thành “Ga-li-lê thuộc về dân ngoại” (Mat 4:15-16), Chúa Giê-xu thi hành chức vụ ở đây khi Ngài sống trên đất. “Biển Ki-nê-rết” (Gios 12:3; Gios 13:27) là biển Ga-li-lê. Từ Hy-bá-lai chinnereth có nghĩa là “đàn hạc”, và biển Ga-li-lê có hình dáng giống cây đàn hạc.


Chi phái cuối cùng nhận phần đất của mình là Đan (Gios 19:40-48), chi phái nầy bắt tay ngay vào công việc và mở mang lãnh thổ của mình. Đan và Bên-gia-min hình thành một “dây đai” chạy ngang qua xứ, nối Biển Chết và Địa Trung Hải.


Là người lãnh đạo, Giô-suê là người cuối cùng nhận sản nghiệp mình; Chúa ban cho ông Thim-nát-Sê-rách (c.49-50). Giống Ca-lép, bạn mình, Giô-suê thích sống ở miền núi.

-Gios 18:1-28;xem giải nghĩa Gios 13:1-33.

-Gios 19:1-51; xem giải nghĩa Gios 13:1-33.


3. Phân định các thành ẩn náu (Gios 20:1-9)

Khi cả nước vẫn còn ở bên kia sông Giô-đanh, Đức Chúa Trời phán dặn Môi-se dành riêng các thành cho người Lê-vi (Dân 35:1-5), và 6 thành “ẩn náu” (Xu 21:13 Dân 35:6-34; Phuc 19:1-3). Giờ đây các chi phái đều đã nhậnphần đất của mình rồi, Giô-suê lo phân định các thành ẩn náu nầy.


Ngay từ trước khi Luật Pháp Môi-se được ban ra, Đức Chúa Trời đã đặt ra quy định cơ bản là tội làm đổ huyết phải trả bằng huyết của chính mình (Sa 9:5-6). Nguyên tắc nầy được nói rõ nhiều lần trong Luật Pháp, nhưng Đức Chúa Trời có phân biệt giữa tội mưu sát và tội ngộ sát (Xu 21:12-14; Le 24:17; Dân 35:16-21; Phuc 19:11-13). “Vì huyết làm ô uế xứ.Nhược bằng có kẻ làm đổ huyết ra trong xứ, nếu không làm đổ huyết nó lại, thì không thể chuộc tội cho xứ được. Vậy, các ngươi chớ làm ô uế xứ, là nơi các ngươi sẽ ở” (Dân 35:33-34).


Sáu “thành ẩn náu” nầy rất cần thiết vì xã hội thời đó không có lực lượng cảnh sát để điều tra tội phạm. Mỗi gia đình phải có nhiệm vụ báo thù kẻ sát nhân, nhưng làm thế nào họ biết đâu là tội mưu sát và đâu là tội ngộ sát? Trong khi nóng lòng trả thù vì cái chết của người thân, họ có thể giết lầm người vô tội.


Giô-suê để riêng 3 thành ẩn náu ở mỗi bên bờ sông Giô-đanh. Ở bờ tây có thành Kê-đe, thuộc vùng cực bắc trong phần đất của chi phái Nép-ta-li; Si-chem, thuộc miền trung nằm trong chi phái Ma-na-se; và Hếp-rôn, thuộc niềm nam nằm trong chi phái Giu-đa. Bên bờ đông sông Giô-đanh có các thành Gô-lan, thuộc miền bắc trong chi phái Ma-na-se, Ra-mốt trong chi phái Gát, và Bết-se ở cực nam thuộc phần đất của chi phái Ru-bên. Vì Đất Hứa rộng tương đương bang Ma-ry-land, nên không ai ở quá xa thành ần náu.


Luật lệ liên quan đến thành ẩn náu thật đơn giản. Bất cứ ai phạm tội giết người đều có thể chạy vào thành ẩn náu để trốn “người báo thù huyết” cho đến khi các trưởng lão của thành điều tra vụ việc. Nếu kẻ giết người ấy thật sự có tội, thì phải lãnh án tử; nhưng nếu các trưởng lão kết luận anh ta chỉ ngộ sát, thì anh ta được phép sống trong thành, và khi ở trong thành ẩn náu anh ta được bảo vệ để không ai có thể báo thù anh ta. Sau khi thầy tế lễ cả qua đời, người trốn trong thành ẩn náu có thể trở về nhà mình.


Nhiều học giả xem thành ẩn náu là hình ảnh về sự cứu rỗi trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng mà chúng ta “đã trốn đến nơi ẩn náu” (He 6:18). Dĩ nhiên, tội nhân hư mất đang trong cảnh nguy hiểm vì “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Ro 6:23). Kẻ báo thù huyết đang rượt đuổi sau anh ta! Chúa Cứu Thế do Đức Chúa Trời sai xuống là Chúa Giê-xu (Cong 4:12), nhưng tội nhân phải lấy đức tin đến với Ngài để được cứu (Mat 11:28-30; Gi 6:37). Con đường dẫn đến mỗi thành ẩn náu đã được dọn sẳn (Phuc 19:3). Đức Chúa Trời muốn người lánh nạn dễ dàng tìm thấy con đường dẫn tới sự an toàn.


Ngoài điều nầy, thì có sự khác biệt.Khi chúng ta đến Chúa Cứu Thế để được cứu rỗi, chúng ta không phải bị điều tra và xét xử nữa, vì chúng ta biết mình phạm tội; và chúng ta nhận tội rồi!. Những người được Chúa Giê-xu cứu là những người xưng nhận tội lỗi mình và phó mình trong sự nhân từ của Ngài.


Nếu kẻ lánh nạn rời khỏi thành ẩn náu trước thời hạn thì sẽ bị giết chết; nhưng sự cứu rỗi của chúng ta trong Chúa Cứu Thế thì vô điều kiện. Thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta sẽ không bao giờ chết, và chúng ta được an toàn vĩnh viễn. “Nhưng Ngài, vì hằng có đời đời, nên giữ lấychức tế lễ không hề đổi thay. Bởi đó Ngài có thể cứu toàn vẹn những kẻ nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho những kẻ ấy” (He 7:24-25).


Ý nghĩa của tên các thành ẩn náu nầy thật hay.

Theo thứ tự được kể trong Gios 20:7-8, chúng ta có Kê-đe = “công chính”; Si-chem = “bờ vai”; Hếp-rôn = “thông công”; Bết-se = “đồn lũy” hay “mạnh mẽ”; và Ra-mốt = “các đỉnh cao”. Những nhà ngôn ngữ có sự giải thích khác nhau về ý nghĩa của tên Gô-lan, nhưng trong quyển Gesenius Lexicon giải nghĩa nó là “lưu đày”.


Vì vậy các tên nầy có thể được dùng để mô tả kinh nghiệm của tội nhân khi lấy đức tin chạy đến với Chúa Cứu Thế Giê-xu. Trước hết, Ngài dành cho họ sự công chính của Ngài, và họ không còn bị cáo buộc nữa. Không còn có sự đoán phạt nào nữa! (Ro 8:1) Giống như một người chăn, Ngài vác họ trên vai, và họ bước vào mối thông công với Ngài. Ngài là đồn lũy của họ, và họ được an toàn. Họ ở trên đỉnh cao cho dù họ là những kẻ bị lưu đày, những người hành hương, và người khách lạ trong thế gian nầy.


Bài học 7. Nếu không lấy đức tin chạy đến với Chúa Cứu Thế Giê-xu, ạn không bao giờ được cứu! Vì tội lỗi của chúng ta, Chúa Giê-xu phải chịu treo trên thập giá, nên tất cả chúng ta đều mắc tội với cái chết của Ngài, Ngài là Cứu Chúa duy nhất, và nếu không tin Ngài, thì không có sự cứu rỗi. Bạn đã chạy đến với Cứu Chúa chưa?


Trước khi nói sang chủ đề khác, chúng ta nên chú ý rằng còn có một áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên. Cả nước Y-sơ-ra-ên đều mắc tội trong cái chết của Chúa Cứu Thế Giê-xu, nhưng đó là tội không hiểu biết của một phần dân chúng (Cong 3:12-18). Khi Chúa Giê-xu cầu nguyện trên thập tự giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu 23:34), tức là Ngài tuyên bố họ phạm tội ngộ sát, không phải mưu sát (ICo 2:7-8). Con đường cứu rỗi đang rộng mở cho họ, và Đức Chúa Trời dành cho họ gần 40 năm để ăn năn trước khi Ngài giáng hình phạt trên họ. Nguyên tắc nầy cũng được áp dụng cho sứ đồ Phao-lô (ITi 1:12-14). Tuy nhiên, hông một tội nhân nào ngày nay có thể nói rằng mình không biết, vì Đức Chúa Trời đã tuyên bố cả thế gian đều phạm tội và không thể biện hộ (Ro 3:9-19).


4. Xác định các thành cho người Lê-vi (Gios 21:1-45)

Như đã lưu ý trước, chi phái Lê-vi không được chia đất mà phải sống rãi rác khắp xứ. Bởi đó, họ có thể dạy Luật Pháp cho dân chúng và nhắc nhở các chi phái phải trung thành với Đức Chúa Trời.Nhưng người Lê-vi cần có nơi để cư ngụ và đồng cỏ cho súc vật của họ. Vì vậy, ức Chúa Trời dành 48 thành cho họ, cùng với các đồng cỏ (Dân 35:15). Đồng cỏ của họ không được bán, nhưng nhà thì có thể bán; và người Lê-vi còn có quyền chuộc tài sản (Le 23:32-34).


Hai bảng liệt kê các thành dành cho người Lê-vi mà chúng ta có Gios 21:1-45 và ISu 6:54-81 không hoàn toàn nhất quán với nhau; tên các thành và cách viết có thay đổi theo thời gian, và đôi khi có những thành mới thêm vào và thành củ bị loại bỏ đi.


Có 48 thành cho người Lê-vi, 6 thành trong số đó là thành ẩn náu. Mỗi chi phái dành ra 4 thành, ngoại trừ Giu-đa và Si-mê-ôn góp chung 9 thành, Nép-ta-li dành ra 3 thành. Con cháu của ba con trai A-rôn Kê-hát, Ghẹt-sôn và Ma-ra-ri được giao nhiều thành khác nhau, dù cũng có người Do-thái sống chung trong đó. Trong Dân 26:62, tác giả cho biết có 23.000 người Lê-vi trước khi Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa. Đây là một dòng dõi đông đúc, do vậy phải chia ra sinh sống trong 48 thành ấy.


Điều quan trọng là dân Y-sơ-ra-ên, một dân tộc có những người đủ phẩm chất và quyền hạn phục vụ trong đền tạm và sau nầy là trong đền thờ. Chúng ta không được xem thường chức vụ giảng dạy của thầy tế lễ và người Lê-vi (IISu 17:7-9). Vì dân thường không có Kinh Thánh, nên người Lê-vi cần phải sống hoà mình với dân chúng để giải thích Luật Pháp cho họ. Các thành của người Lê-vi không quá xa cụm dân cư, nên ai cũng có thể đến gặp người có thể giúp đỡ mình hiểu biết và áp dụng Luật Pháp Môi-se.


Kết thúc phần khá dài nầy là 3 lời khẳng định tuyệt vời:

-Thứ nhất, Đức Chúa Trời là thành tín và đã ban xứ cho Y-sơ-ra-ên (Gios 20:43). Ngài giữ giao ước mà Ngài đã lập, đầu tiên là với Áp-ra-ham (Sa 12:7) và sau là với hậu duệ của ông.

-Thứ hai, Đức Chúa Trời giúp cho Y-sơ-ra-ên đánh thắng kẻ thù và cho họ được yên nghĩ sau chiến tranh (Gios 20:44;Gios 1:13,15; Gios 11:23). Điều mà 10 thám tử vô tín nói ở Ca-đe Ba-nê-a rằng không bao giờ có thể xảy ra, giờ đã xảy ra, vì Giô-suê và dân sự tin cậy và vâng phục Đức Chúa Trời.

-Thứ ba, Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài (Gios 20:45). Trong những ngày cuối đời, Giô-suê nhắc cho dân sự điều nầy (Gios 23:14); Sa-lô-môn cũng nhắc dân chúng điều ấy khi ông cung hiến đền thờ (IVua 8:56).


Là con dân của Đức Chúa Trời, chúng ta lấy đức tin nhận lãnh những lời đảm bảo nầy. Giao ước của Đức Chúa Trời với chúng ta sẽ không kết thúc, quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời có thể giúp chúng ta đánh bại mọi kẻ thù; và lời hứa của Đức Chúa Trời thật đáng tin cậy, dù hoàn cảnh trước mặt có như thế nào.


Giao-ước của Đức Chúa Trời, quyền năng của Đức Chúa Trời, và lời hứa của Đức Chúa Trời đó là những tài nguyên thuộc linh để chúng ta nương cậy khi nhận lãnh sản nghiệp mình trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.



 


10. VÀ KHI CHIẾN TRANH KẾT THÚC (Gios 22:1-34)


Tôi nhớ mãi ngày VE (Chiến thắng tại Âu Châu), ngày 8 tháng 5 năm 1945, Tổng thống Truman hùng hồn loan báo trên đài phát thanh: “Tướng Eisenhower vừa thông báo các lực lượng Đức đã đầu hàng Liên Hiệp Quốc. Những lá cờ tự do bay phấp phới trên khắp bầu trời Châu Âu”.


Tôi cũng nhờ ngày VJ (Chiến thắng Nhật), ngày 14 thánh 8 năm 1945, khu phố nơi tôi sinh sống đông nghẹt người và toàn là những người xa lạ đã ôm nhau reo hò. Người Nhật đã chấp nhận đầu hàng Đồng Minh, cuộc chiến kết thúc. Hai anh trai tôi phục vụ trong Đoàn Thủy Quân Lục Chiến sẽ trở về nay mai!


Binh lính của các chi phái Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-na-se chắc rất vui mừng khi cuộc chinh phục Ca-na-an kết thúc trong khải hoàn. Suốt hơn 7 năm, họ phải chiến đấu xa gia đình và giờ đây họ là những chiến binh chiến thắng được tự do trở về nhà.


Nhưng sự trở về của họ không phải là suôn sẻ. Thật ra, những điều họ làm, có ý tốt, hưng suýt chút nữa gây nên một cuộc chiến khác. Chúng ta cùng xem xét sự việc và rút ra những bài học từ chúng.


1. Sự trở về trong vinh dự (Gios 22:1-8)

“Thắng không kiêu, bại không nản” là lời Ông Winston churchill mô tả một sĩ quan Anh Quốc. “Bại không nản” đúng là phong cách của Giô-suê, vì ông biết chuyển bại thành thắng. Và “thắng không kiêu” cũng vậy. Giô-suê tỏ ra rất hào hiệp với quân lính của ông sau khi giành chiến thắng. Một câu châm ngôn có ý nói rằng xương máu của binh lính làm nên uy danh cho người lãnh đạo. Nhưng Giô-suê, tướng của đội quân Đức Chúa Trời, chỉ đề cao danh tiếng của cấp dưới. Cách cư xử cao thượng nầy được thấy rõ qua việc ông cho phép các binh lính bên kia sông Giô-đanh được trở về với gia đình.


Giô-suê khen ngợi họ (Gios 22:1-3).

Hai chi phái rưỡi nầy đã hứa với Môi-se rằng họ sẽ không xuất ngũ cho đến khi chinh phục hoàn toàn xứ Ca-na-an, và họ đã giữ lời (Dân 32:1-42; Phuc 3:12-20). Sau khi Môi-se qua đời, họ hứa sẽ trung thành với Giô-suê, vị lãnh đạo mới của họ (Gios 1:12-18). Các chi phái nầy đã trung thành với Môi-se, với Giô-suê và với các anh em mình trong những chi phái khác. “Trong khoảng lâu ngày nay, các ngươi không có bỏ anh em mình cho đến ngày nay, và có vâng giữ mọi điều phải vâng giữ, tức là mạng lịnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi” (Gios 22:3).


Tại sao họ có lòng trung thành như vậy? Trước hết vì họ trung thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Họ thực hiện sứ mạng của chính Ngài và họ muốn làm vinh hiển danh Ngài. Trong sự phục vụ Chúa, lòng trung thành của chúng ta với Chúa phải được đặt lên trên lòng trung thành dành cho người lãnh đạo, với đường lối, thậm chí với quốc gia dân tộc. “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta, vì biết rằng anh em sẽ bởi Chúa mà được cơ nghiệp làm phần thưởng. Hãy hầu việc Đấng Christ, tức là Chúa” (Co 3:23-24).


Giô-suê cho họ xuất ngũ trở về nhà (Gios 22:4).

Sau khi làm trọn sứ mạng và giữ vẹn lời hứa của họ, các binh lính trong các chi phái nầy được trở về nhà; vì Đức Chúa Trời đã cho dân sự Ngài được yên nghỉ. Khái niệm về sự yên nghỉ rất quan trọng trong sách Giô-suê và mang nhiều ý nghĩa, ngoài ý nghĩa chiến tranh đã kết thúc. Từ nầy hàm ý cả sự chiến thắng và sự an ninh, còn có ý rằng từ đây dân Y-sơ-ra-ên có được nơi an nghỉ cố định trong xứ. Đức Chúa Trời hứa ban sự an nghỉ cho dân sự Ngài (Xu 33:14; Phuc 12:9-10; Phuc 25:19; Gios 1:13,15), và Ngài giữ lời hứa của Ngài (Gios 11:23; Gios 14:15; Gios 21:44; Gios 22:4; Gios 23:1).


Ứng dụng thuộc linh của sự an nghỉ này đối với dân sự Đức Chúa Trời ngày nay được nói trong Hê-bơ-rơ 3 và 4. khi chúng ta tin Đấng Christ là Cứu Chúa, húng ta được bước vào sự an nghỉ vì chúng ta không còn chống nghịch Đức Chúa Trời nữa (Ro 5:1). Khi chúng ta đầu phục hoàn toàn Đức Chúa Trời và nhận lãnh sản nghiệp bằng đức tin, chúng ta bước vào sự yên nghỉ sâu nhiệm hơn và vui hưởng sự giàu có thuộc linh trong Chúa Cứu Thế. (Mat 11:28-32) về lời mời gọi của Chúa chúng ta). Khi chúng ta đến với Ngài, Ngài ban cho chúng ta sự yên nghỉ. Khi mang lấy ách môn đồ của Ngài, chúng ta tìm được sự yên nghỉ sâu nhiệm hơn.


Hãy tưởng tượng cảnh vui mừng khi các binh lính trở về nhà sau nhiều năm xa cách! Hãy tưởng tượng đến tình yêu thương họ được trải nghiệm, niềm vui họ tìm thấy, và của cải họ được chia! Đó chỉ là một phần nhỏ về hình ảnh sẽ diễn ra khi mà con cái Đức Chúa Trời hưởng khi bước vào sự yên nghỉ mà Đức Chúa Trời ban cho những ai hết lòng tận hiến cho Ngài và tin nơi Lời Ngài.


Giô-suê khuyên bảo họ (Gios 22:5).

Như mọi người lãnh đạo tốt lành khác, Giô-suê quan tâm đến đời sống thuộc linh của dân sự mình hơn bất cứ điều gì khác. Đội quân của ông đã kinh nghiệm chiến thắng ở Ca-na-an vì Giô-suê yêu kính Chúa và vâng phục Lời Ngài (Gios 1:7-8). Đó là “điều bí mật mà ai cũng biết” của nền hòa bình và thịnh vượng lâu dài trong Y-sơ-ra-ên. Họ siêng năng trong chiến đấu, vâng phục người lãnh đạo mình thể nào, giờ họ phải chuyên cần trong sự thờ phượng và vâng phục Đức Chúa Trời của họ thể ấy. Đây là lời hứa của mỗi chi phái với Đức Chúa Trời tại núi Ga-ri-xim và núi Ê-banh.


Động cơ để họ vâng phục là tình yêu họ dành cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Nếu yêu mến Ngài, họ sẽ thích bước theo đường lối của Ngài và vâng giữ mọi điều răn của Ngài. Thay vì cứ làm tôi hai chủ, họ sẽ bám chặt Đức Chúa Trời và chỉ hầu việc một mình Ngài với tất cả tấm lòng và linh hồn. Chúa Giê-xu phán đây là điều răn thứ nhất và lớn nhất (Mat 22:36-38) vì vậy nếu không vâng giữ nó tức là phạm tội lớn nhất. “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta” (Gi 14:15).


Giô-suê chúc phước cho họ (Gios 22:6-8).

Thầy tế lễ thượng phẩm là người chúc phước cho dân sự Đức Chúa Trời (Dân 6:22-27), nhưng người bình thường có thể cầu xin Chúa ban phước cho người khác, nhất là người lãnh đạo cầu xin Chúa ban phước cho dân sự mình và người cha xin Chúa ban phước cho gia đình mình (Sa 27:4; Sa 48:9; IISa 6:18,20; IVua 8:5). Thật cảm động khi thấy vị tướng cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho binh lính mình!


Nhưng phước lành nầy còn có những chiến lợi phẩm dư dật được chia cho họ và cho những thành viên trong gia đình họ. Y-sơ-ra-ên có một thông lệ là những ai ở nhà, hoặc những người không tham chiến vì lý do nào đó cũng được chia chiến lợi phẩm (Dân 31:25-27; ISa 30:23-25). Dù thế nào, những người nầy đã bảo vệ các thành ở nhà và duy trì hoạt động trong cộng đồng mình trong khi những người khác đi chinh chiến, và vì vậy họ được chia chiến lợi phẩm là điều hợp lý.


Thật vậy, ối với hai chi phái rưỡi sống bờ đông sông Giô-đanh, đây là sự xuất ngũ trong danh dự.


2. Sự quan tâm chân thành (Gios 22:9-10)

Trong khi những người nam Ru-bên, Gát, và nửa chi phái Ma-na-se tiến về phía đông, vượt qua từng cột mốc đánh dấu những điều lớn lạ mà Đức Chúa Trời đã làm cho họ, thì lòng họ bắt đầu bùi ngùi. Vui vì được trở về nhà, nhưng không dễ dàng chia tay với các anh em mình và xa rời thầy tế lễ và đền tạm. Họ đang từ từ rời xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban phước cho. Đúng vậy, họ đang trở về nhà, về với chốn mà họ đã chọn lựa cho mình; nhưng họ cảm thấy bị cô lập thế nào đó với cả nước Y-sơ-ra-ên.


Khi đọc và suy gẫm Dân 32:1-42, ta không thấy chỗ nào chép rằng Môi-se có cầu hỏi Đức Chúa Trời về quyết định nầy. Điều Môi-se quan tâm là những nam đinh của Ru-bên, Gát, và Ma-na-se có dự phần chiến đấu với kẻ thù và chinh phục Đất Hứa; và họ đã đồng ý theo như vậy. Phản ứng đầu tiên của Môi-se vừa giận vừa lo, ông sợ Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt cả nước như Ngài đã làm tại Ca-đe Ba-nê-a. Có lẽ phản ứng đầu tiên nầy là đúng.


Chắc chắn Ca-na-an là xứ mà Đức Chúa Trời định ý ban cho dân sự Ngài; bất cứ điều gì thiếu Ca-na-an đều không phải là điều Ngài muốn dành cho họ. Hai chi phái rưỡi đã tự mình quyết định, không dựa trên giá trị thuộc linh, nhưng dựa trên nền tảng vật chất; vì đất ở bờ đông sông Giô-đanh rất lý tưởng cho việc chăn thả gia súc. Tôi được nhắc nhở về sự chọn lựa của Lót (Sa 13:10-11). Trong cả hai trường hợp, con người đều bước đi bằng mắt thấy, không phải bởi đức tin.


Bởi quyết định nầy, người Ru-bên, át và Ma-na-se đã chia rẽ đất nước và tự cô lập mình với những phước lành của xứ Ca-na-an. Họ ở xa đền tạm và gần với kẻ thù. Họ trở thành những “tín đồ đứng bên lề”. Nên nhớ rằng Ai-cập tiêu biểu cho thế gian và Ca-na-an tiêu biểu cho sản nghiệp của tín đồ nhận được trong Chúa Cứu Thế. Những ngày lưu lạc trong đồng vắng tượng trưng cho những kinh nghiệm của người tín đồ không lấy đức tin bước vào sự yên nghỉ mà Đức Chúa Trời dành sẳn cho (He 3:1-4:16). Hai chi phái rưỡi nầy tiêu biểu cho những tín đồ đã kinh nghiệm được ơn phước và những chiến trận của Ca-na-an tức sản nghiệp của họ trong Chúa Cứu Thế nhưng lại thích sống ngoài lề, bền ngoài phần đất mà Đức Chúa Trời ban cho.


C.H MacIntosh có viết trong quyển Notes on Numbers rằng: “Đức tin không bao giờ hài lòng với sự thiếu hụt so với địa vị thật và sản nghiệp thật mà Đức Chúa Trời ban cho dân sự Ngài. Một Cơ-đốc nhân do dự và nửa vời còn mâu thuẩn hơn kẻ vô tín và công khai sống theo thế gian” (trang 457, 460).


Họ giải quyết vấn đề mà họ tự gây ra như thế nào? Họ dựng một bàn thờ lớn bằng đá bên sông Giô-đanh, hướng về phía Ca-na-an, để nhắc nhở mọi người rằng hai chi phái rưỡi nầy cũng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên. Nếu những chi phái nầy sống trong Ca-na-an, vốn là nơi dành cho họ, hì chắc chắn không ai hỏi về nguồn gốc của họ. Nhưng vì sống ngoài biên giới, ọ làm người khác lầm tưởng rằng họ không phải là dân Y-sơ-ra-ên.


Đây là bia kỷ niệm thứ tám được dựng lên tại Ca-na-an (Gios 4:9,20-24; Gios 7:26; Gios 8:29-32; Gios 10:27). Nhưng đáng tiếc khi các tín hữu phải nhờ vào những phương tiện nhân tạo để cho người khác biết mình là dân sự của Đức Chúa Trời. Trong những năm gần đây, tôi thấy xuất hiện rất nhiều những vật dụng “mang tính tôn giáo”, như những nhãn dán, những món đồ trang sức (kể cả trên gương và lược cũng có in câu Kinh Thánh), như có ý lên tiếng cho mọi người biết chủ nhân của nó là người tin Chúa Giê-xu.

Dù đôi khi những món đồ đó mở ra cơ hội để chúng ta chia sẻ Kinh Thánh, nhưng sẽ tốt hơn nếu nếp sống và lời nói của chúng ta được Đức Thánh Linh hướng dẫn để khiến cho tội nhân hư mất dừng lại và nhận biết chúng ta là Cơ-đốc nhân. khi sống theo cách Đức Chúa Trời mong muốn, chúng ta sẽ là muối và ánh sáng; và Đức Chúa Trời sẽ dùng lời làm chứng của chúng ta cho danh Ngài được vinh hiển.


Nếu người Ru-bên, Gát, và Ma-na-se trung tín tham dự những kỳ lễ tại Giê-ru-sa-lem (Xu 23:17), tôn kính Đức Chúa Trời qua sự vâng theo Lời Ngài, và nói Lời Ngài trong gia đình mình (Phuc 6:6-9), hì họ có thể dạy dỗ con cái biết Đức Chúa Trời và phục vụ Ngài. Tuy nhiên, bàn thờ bên bờ sông không phải là sự đảm bảo cho thành công như vậy.


3. Sự hạ mình đầu phục của họ (Gios 22:11-29)

Sự báo động (Gios 22:11-14).

Tin tức về việc các chi phái bên bờ đông Giô-đanh lập bàn thờ được lan đi rất nhanh.Trong khi đó các chi phái ấy rất thành tâm trong việc làm của mình, nhưng họ bị hiểu lầm; nên các chi phái khác chuẩn bị nghênh chiến. Nhưng họ thật khôn ngoan khi sai người đi điều tra sự tình. “Trả lời trước khi nghe, ấy là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm vậy” (Ch 18:13).


Phái đoàn thanh tra gồm 10 quan trưởng, mỗi chi phái cử đi một người, và dẫn đầu đoàn là Phi-nê-a, con trai của thầy tế lễ thượng phẩm, ông ta rất can đảm trong việc bảo vệ Luật Pháp của Đức Chúa Trời (Dân 25:1-18; Thi 106:30-31). Người đứng đầu chi phái và các thầy tế lễ có nhiệm vụ điều tra từng trường hợp vi phạm Luật Pháp trong vòng dân Y-sơ-ra-ên (Phuc 13:1-18). Đức Chúa Trời có phán dặn dân Do-thái phải phá hủy các bàn thờ của dân ngoại đạo ở Ca-na-an và cũng không được dựng bàn thờ cho riêng mình. Họ chỉ được phép dựng một bàn thờ dâng của lễ tại một nơi thờ phượng được chỉ định (Phuc 12:1-32; Le 17:8-9).


Sự kêu gọi (Gios 22:15-20).

Có thể là lời kêu gọi của Phê-ni-a, nhưng lưu ý lời của ông là ý kiến chung của tất cả các chi phái. Phi-nê-a nói việc họ làm là sự vi phạm (c.16,20,22, -sự phản nghịch, 31), có nghĩa là “hành động phản bội”. Giô-suê đã từng khen ngợi hai chi phái rưỡi nầy vì lòng trung thành của họ, nhưng giờ đây họ tỏ ra bất trung. Họ đã xây bỏ (c.16,18,23,29) tức họ không còn theo Chúa (c.5). Từ nầy có nghĩa là “rút lui”, họ từ từ xa Chúa dần.


Từ có nghĩa mạnh nhất là phản nghịch (c.16,18-19,22,29), có nghĩa là cố ý chống lại ý chỉ của Đức Chúa Trời và bất tuân Luất Pháp Ngài. Khi dựng một bàn thờ mà không được phép, họ đã phạm tội bội đạo.“Sự bội nghịch cũng đáng tội bằng sự tà thuật; sự cố chấp giống như tội trọng cúng lạy hình tượng” (ISa 15:23).


Qua lịch sử gần đây của dân tộc, Phi-nê-a kể lại hai trường hợp phản nghịch và cảnh cáo những chi phái nầy. Trường hợp thứ nhất là dân Y-sơ-ra-ên tham dự các nghi lễ ngoại giáo của người Mô-áp, và khi đó những người nam Do-thái ăn ở với người nữ Mô-áp (Gios 22:17; Dân 25:1-18). Kết quả là 24.000 người chết. Trường hợp thứ hai là tội của A-can sau khi chiến thắng Giê-ri-cô, ông ta đã cố ý lấy những chiến lợi phẩm thuộc riêng Đức Chúa Trời (Gios 22:20; Gios 7:1-26). Tội của ông dẫn đến thất bại tại A-hi và cái chết của 36 binh lính Do-thái. Và cũng gây ra cái chết của chính ông và những người thân trong gia đình ông.


Đoàn thanh tra có lời khuyên khôn ngoan: “Hãy đi qua đất mà Đức Giê-hô-va đã chiếm lấy, là nơi đã lập đền tạm của Đức Giê-hô-va, và hãy lập nghiệp ở giữa chúng ta” (Gios 22:19). Không có bàn thờ nhân tạo nào thay thế được sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đền tạm giữa vòng dân sự Ngài. Thật đáng buồn những chi phái nầy đã không nghe lời khuyên ấy để nhận sản nghiệp mình trong xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban phước cho (Phuc 11:10-32).


Sự tranh cãi (Gios 22:21-29).

Các chi phái bị lên án đã viện dẫn danh Chúa 6 lần để đáp lại sự cáo buộc đó; và trong khi đó họ dùng 3 danh xưng của Chúa: “El (Đấng Quyền Năng), Elohim (Đức Chúa Trời), Jehovah (Chúa) ”. Chính lời thề trang trọng nầy tỏ rõ mục đích của họ và Đức Chúa Trời biết tấm lòng của họ.


Dĩ nhiên, việc Chúa biết lòng chúng ta và chúng ta đã buông lời thề nguyện cũng không bảo đảm rằng chúng ta hành động đúng, vì chúng ta không biết rõ lòng mình (Gie 17:9). Nhiều người cố che đậy ác ý của mình bằng câu nói: ”Chúa biết lòng tôi!”. Phao-lô cho chúng ta một phương pháp đúng đắn trong ICo 8:21, “Vì chúng tôi tìm tòi điều lành, chẳng những ở trước mặt Chúa, mà cũng ở trước mặt người ta nữa”. Khi việc làm được nghĩ là đúng đắn lại bị cả nước hiểu lầm, và vì nó chiến tranh suýt xảy ra, thì nên xét lại vì chắc chắc có điều gì đó bất ổn trong việc làm đó.


Các chi phái bị buộc tội giải thích rõ rằng họ không dựng bàn thờ cho tôn giáo của kẻ thù, họ dựng bàn thờ không phải để dâng tế lễ nhưng để nhắc nhở các chi phái ở phía tây rằng họ, chi phái Ru-bên, Gát, và nửa chi phái Ma-na-se bên bờ đông, cũng thuộc về dân Y-sơ-ra-ên.


Điều đáng chú ý là các chi phái bên kia sông Giô-đanh quan tâm đến con cháu của họ. Nhưng không phải con cái họ hỏi: “Chúng ta có liên quan gì với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên?”. Con cái họ sẽ bị các chi phái trong đất Ca-na-an chọc tức! Chi phái Ru-bên, át, Ma-na-se thậm chí không sống trong xứ mà Đức Chúa Trời đã chọn, nhưng họ lại sợ con cái bên bờ tây sông Giô-đanh dẫn con cái họ đi lạc! Đối với tôi, dường như nguy hiểm là điều ngược lại.


Các chi phái bên kia sông Giô-đanh không chỉ buộc tội anh em mình vì có các con cái theo thế gian, mà còn buộc tội Đức Chúa Trời vì đã tạo ra vấn đề nầy! “Đức Giê-hô-va đã đặt sông Giô-đanh làm giới hạn giữa chúng ta và các ngươi” (Gios 22:25). Không! Chính họ là người biến sông Giô-đanh thành ranh giới phân cách! Khi quyết định ở lại bên bờ đông sông Giô-đanh, các chi phái nầy tự cách ly mình với cả dân tộc và với xứ mà Đức Chúa Trời ban cho cả dân tộc. Họ xem trọng việc chăn nuôi của mình hơn tình đồng bào, nhưng lại đổ tội cho Đức Chúa Trời và anh em mình.


Nhưng đống đá lớn nầy là loại “bằng chứng” gì? Có phải là bằng chứng cho sự hiệp một của dân tộc và cho sự vâng phục của các chi phái bên kia sông Giô-đanh? Không phải! Đó là bằng chứng cho một âm mưu, sự khôn ngoan của con người khi cố tìm cách “hưởng lợi từ hai bên”. Hai chi phái rưỡi nầy nói về con cái họ một cách ngoan đạo, nhưng chính của cải mới thật sự là động cơ khiến họ quyết định sống bên kia sông Giô-đanh.


Gần “bàn thờ chứng cớ” ấy là 12 hòn đá được các người nam khiêng về từ giữa sông Giô-đanh (Gios 4:20-24). Nó nhắc người Do-thái rằng họ đã vượt sông và chôn vùi quá khứ vĩnh viễn. Ru-bên, Gát, và nửa chi phái Ma-na-se đã qua sông và quay trở lại. “Bàn thờ” của họ trái ngược với bàn thờ Giô-suê dựng lên vì sự vinh quang của Đức Chúa Trời. “Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời” (Co 3:1).


4. Sự vui vẻ đồng ý của họ (Gios 22:30-34)

Phi-nê-a bằng lòng, đoàn thanh tra bằng lòng, và con cái Y-sơ-ra-ên bên bờ tây cũng bằng lòng sau khi nghe các chi phái ấy giải thích, nhưng Đức Chúa Trời có bằng lòng không? Mọi người vui vì bàn thờ được dựng lên để làm bằng chứng chứ không phải để dâng của lễ, hư vậy vấn đề dường như đã được giải quyết. Họ vui vì Đức Chúa Trời sẽ không đoán phạt cả xứ (câu 31) và sẽ không xảy ra nội chiến trong Y-sơ-ra-ên (c.33). Nhưng quốc gia của họ vẫn bị chia cắt, dù có bàn thờ làm bằng chứng hay không. Giống như Áp-ra-ham và Lót (Sa 13:1-18) một bên quan tâm đến vấn đề thuộc linh, còn một bên chỉ quan tâm đến vật chất.


“Hoà bình bằng mọi giá” không phải là ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho dân sự Ngài. Quyết định ở Ga-la-át được đưa ra dựa trên sự khôn ngoan của con người, không phải dựa trên lẽ thật của Đức Chúa Trời. “Nhưng sự khôn ngoan từ trên mà xuống thì trước hết là thanh sạch, sau lại hòa thuận, tiết độ, nhu mì, đầy dẫy lòng thương xót và bông trái lành, không có sự hai lòng và giả hình” (Gia 3:17). Sự hòa bình mà dân sự Đức Chúa Trời có được phải trả giá bằng sự thánh sạch và lẽ thật chỉ là sự đình chiến tạm thời để rồi sẽ bùng phát thành sự chia rẽ thật đau lòng. Luôn có một nơi trong các mối liên hệ của con người dành cho sự hòa giải vì tình yêu thương nhưng không bao giờ có chỗ cho sự thỏa hiệp một cách hèn nhát. “Trước mặt Đức Chúa Trời, trước mặt Đức Chúa Jêsus Christ, à trước mặt các thiên sứ được chọn, ta răn bảo con giữ những điều đó, đừng in trí trước, phàm việc gì cũng chớ tây vị bên nào” (ITi 5:21).


Các chi phái bên kia sông gọi bàn thờ của họ là “chứng cớ giữa chúng ta rằng Chúa là Đức Chúa Trời” (từ Hy-bá-lai edh có nghĩa là “làm chứng”). Nhưng nếu Chúa là Đức Chúa Trời, thì tại sao họ không vâng lời Ngài và sống trong xứ mà Ngài đã định ý ban cho họ? Các vầng đá có thể là một bằng chứng, nhưng dân sự chắc chắn không phải. Xung quanh họ là các dân ngoại bang, lại sống cách biệt với các anh em mình, các chi phái nầy sớm sa ngã và thờ thần tượng, rồi cuối cùng bị quân A-si-ri bắt đi (ISu 5:25-26).


Ngày 30 tháng 9 năm 1938, Thủ tướng Anh Sir Nevile Chaberlain, vừa từ Đức trở về, nói trong cuộc họp mặt tại phủ thủ tướng: “Các bạn thân mến, đây là lần thứ hai trong lịch sử của chúng ta hòa bình và vinh quang trở về với Downing Street từ Đức. Tôi tin nó là nền hòa bình cho thời đại của chúng ta. Từ tận đáy lòng chúng ta vô cùng biết ơn. Và bây giờ tôi thiết nghĩ các bạn nên trở về nhà và ngủ một giấc bình yên!”


Chưa đầy một năm sau, nước Anh lại có chiến tranh với nước Đức; và Chiến Tranh Thế Giới Thứ II bùng nổ trên toàn thế giới.


Lịch sử Hội thánh có quá nhiều những hiệp ước và hiệp định nhằm thổi phồng sự hiệp nhất trên sự thánh sạch và lẽ thật, và vì vậy không bao giờ tồn tại lâu dài. Dù các mối quan hệ của chúng ta với gia đình, Hội thánh và đất nước như thế nào đi nữa, nền hoà bình duy nhất có thể tồn tại là nền hoà bình được đặt trên lẽ thật và sự thánh sạch. Chính sự hòa bình nầy đòi hỏi lòng can đảm và sự hy sinh, và sự sẵn sàng đứng lên vì Lời Đức Chúa Trời, nhưng cuối cùng kết quả thật xứng đáng.


Nhà giải kinh nổi tiếng, Matthew henry, nói thật hay, “Hòa bình là thứ trang sức quý báu mà tôi sẽ trả giá mọi thứ vì nó, ngoại trừ lẽ thật”.



 


11. CON ĐƯỜNG CỦA CẢ THẾ GIAN (Gios 23:1-24:33)


Một nhà phân tâm học nổi tiếng Eric Fromn viết trong quyển Man for Himself: “Chết thật là sự cay đắng tột cùng, nhưng ý nghĩ phải chết mà chưa được sống thì không thể chịu đựng được”.


Giô-suê, con trai của Nun đã sống! Cuộc đời khá dài của ông bắt đầu từ khi Y-sơ-ra-ên còn nô lệ ở Ai-cập và kết thúc trong buổi thờ phượng nơi Đất Hứa. Giữa những sự kiện nầy, Đức Chúa Trời đã dùng ông dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên, đánh bại kẻ thù, chinh phục xứ, và nhận lãnh sản nghiệp như đã được hứa. Giô-suê có thể đồng thanh với Phao-lô mà nói rằng, “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin” (IITi 4:7).


Giô-suê sắp đi “đường cả thế gian phải đi” (Gios 23:14), con đường ấy bạn và tôi cũng sẽ đi nếu Chúa chưa đến. Vào những ngày cuối của một cuộc đời lâu dài và mãn nguyện ấy, Giô-suê cũng không nghĩ đến bản thân mình. Điều ông quan tâm nhất là dân sự và mối tương giao giữa họ với Đức Chúa Trời. Ông không muốn lìa xa họ cho đến khi một lần nữa giục lòng họ kính mến Đức Chúa Trời và gìn giữ điều răn của Ngài. Công việc cả đời ông sẽ vô ích nếu họ không giữ được giao-ước và hưởng được những phước lành của Đất Hứa.


Trước hết ông triệu tập các lãnh đạo lại (c.2) hoặc tại Si-lô hoặc tại nhà riêng của ông ở Ép-ra-im, và cảnh cáo họ rằng nếu họ từ bỏ Đức Chúa Trời thì ắt sẽ gánh chịu tai hoạ. Sau đó ông tập họp “các chi phái Y-sơ-ra-ên tại Si-chem” (Gios 24:1) và nói lời từ biệt, nhắc lại lịch sử Y-sơ-ra-ên, bắt đầu từ Áp-ra-ham và giục lòng dân sự yêu mến Đức Chúa Trời và hầu việc một mình Ngài. Trong lời từ biệt với hai bài nói nầy, Giô-suê nhấn mạnh 3 ý chính


1. Những nguy cơ trước mắt của Y-sơ-ra-ên (Gios 23:1-16)

Sau khi triệu tập các lãnh đạo trong nước lại, Giô-suê trình bày cho họ hai viễn cảnh: Vâng phục Chúa, thì sẽ được Ngài ban phước và gìn giữ; không vâng phục Ngài, thì sẽ bị Ngài phạt và đuổi ra khỏi xứ. Đó là những điều khoản trong giao ước Đức Chúa Trời đã đặt ra cho dân Y-sơ-ra-ên tai núi Si-na-i, và được Môi-se nhắc lại ở đồng vắng Mô-áp, và được Y-sơ-ra-ên tái khẳng định tại núi Ê-banh và núi Ga-ri-xim.


Giô-suê nhấn mạnh đến việc sở hữu xứ (câu 5) và hưởng những phước lành của nó (c.13,15-16). Trong khi Y-sơ-ra-ên nắm quyền kiển soát xứ Ca-na-an, nhưng vẫn còn nhiều vùng đất và nhóm người chống nghịch cần được chinh phục. (Gios 13:1-13; Gios 15:63; Gios 16:10; Gios 17:12-13; Gios 18:3; Cac 1:1-2:23). Nhiệm vụ của các chi phái vẫn chưa kết thúc! Dĩ nhiên, nguy hiểm lớn nhất là dân Y-sơ-ra-ên dần thay đổi thái độ đối với dân ngoại đạo xung quanh họ và bắt đầu chấp nhận lối sống của họ và bắt chước theo họ.


Để chống lại mối nguy hiểm nầy, Giô-suê nêu ra ba động cơ mạnh mẽ để dân sự gìn giữ đặc ân làm một dân biệt riêng và trung tín hầu việc Chúa.


Điều Đức Chúa Trời làm cho Y-sơ-ra-ên (Gios 23:3-4).

Từ ngày Y-sơ-ra-ên rời Ai-cập, Đức Chúa Trời đã chiến đấu cho dân sự Ngài và giải cứu họ khỏi nhiều kẻ thù. Ngài nhấn chìm quân Ai-cập dưới biển và sau đó đánh bại quân A-ma-léc, những kẻ tấn công Y-sơ-ra-ên ngay sau khi họ rời Ai-cập (Xu 17:1-16). Đức Giê-hô-va đánh bại tất cả kẻ thù của Y-sơ-ra-ên gặp trên đường đến Ca-na-an, và Ngài ban cho dân sự Ngài chiến thắng các dân cư ngụ trong Đất Hứa.


Phần ôn lại lịch sử nhắc Y-sơ-ra-ên hai sự kiện lớn: Các dân Ngoại bang là kẻ thù của Đức Chúa Trời và vì vậy là kẻ thù của Y-sơ-ra-ên; và chính Đức Chúa Trời đã thắng kẻ thù trong quá khứ có thể giúp Y-sơ-ra-ên đánh bại chúng trong tương lai. Đức Chúa Trời không bao giờ thất hứa với dân sự Ngài, và nếu họ tin cậy và vâng phục Lời Ngài, Ngài sẽ giúp họ chinh phục hoàn toàn Đất Hứa. “Vì ấy là Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã chiến đấu cho các ngươi” (Gios 23:3).


Điều nầy cũng nhắc nhở con cái Chúa ngày nay.

Khi chúng ta đọc Kinh Thánh và thấy những điều Đức Chúa Trời đã làm cho những người tin cậy Ngài trong quá khứ, húng ta sẽ được khích lệ để tin cậy Ngài và đối diện với kẻ thù cách can đảm và đầy lòng tin cậy. Một lãnh đạo hội truyền giáo Trưởng lão, A.T. Pierson thường nói, “Lịch sử là câu chuyện về Đức Chúa Trời” và điều nầy rất đúng. từ thời đại nầy qua thời đại khác, Đức Chúa Trời có thể thay đổi phương cách của Ngài; nhưng bản tánh Ngài không bao giờ thay đổi, và Ngài thật đáng cho chúng ta tin cậy.


Điều Đức Chúa Trời đã nói với Y-sơ-ra-ên (Gios 23:5-10).

Bí quyết thành công của Giô-suê, cũng là bí quyết chiến thắng của Y-sơ-ra-ên, đó chính là sự trung thành với Lời Đức Chúa Trời (Gios 23:6,14; Gios 1:7-9,13-18; Gios 8:30-35; Gios 11:12,15; Gios 24:26-27). Giô-suê vâng phục điều răn của Đức Chúa Trời và tin nơi lời hứa của Ngài, và Đức Chúa Trời đã hành động vì ông. Hơn nữa, lòng trung thành của Giô-suê đối với Lời Đức Chúa Trời đã giúp ông biết Chúa rõ ràng hơn, để yêu Ngài hơn và muốn làm đẹp lòng Ngài hơn. Biết Lời Đức Chúa Trời thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng phải biết chính Đức Chúa Trời và tăng trưởng trong mối tương giao với Ngài.


Đức Chúa Trời giữ mọi lời hứa của Ngài, và Ngài có quyền đòi hỏi dân Y-sơ-ra-ên gìn giữ điều răn của Ngài. Một số lời hứa của Chúa không có điều kiện kèm theo, nhưng một số thì có và lời hứa được thực hiện hay không tuỳ thuộc vào sự vâng phục của chúng ta.Y-sơ-ra-ên bước vào và chinh phục xứ để làm trọn lời hứa của Ngài, nhưng họ có hưởng được xứ đó hay không tùy thuộc họ có vâng giữ Luật Pháp Đức Chúa Trời hay không. Đức Chúa Trời sẽ giúp họ giành lấy mọi sản nghiệp của họ nếu họ vâng phục Ngài bằng cả tấm lòng mình.


Điều quan trọng nhất là Y-sơ-ra-ên phải giữ mình là một dân tộc được biệt riêng và không bị tiêm nhiễm sự gian ác của các nước Ngoại bang xung quanh (Gios 23:7-8; Xu 34:10-17; Phuc 7:2-4). Giô-suê cảnh báo rằng họ càng ngày càng thường không vâng lời hơn. Ban đầu là sự giao tiếp bình thường; sau đó là bàn luận về những tập quán tôn giáo; rồi không lâu sau Y-sơ-ra-ên sẽ thờ phượng những thần giả của kẻ thù. Người nam Do-thái lúc ấy sẽ cưới những người nữ Ngoại bang, và đến một ngày không ai phân biệt được đâu là tuyển dân của Chúa và đâu là dân thường. Thật dại dột khi thờ phượng thần của kẻ thù bại trận!


Chúng ta đều cảm nhận được áp lực của thế giới xung quanh mình, có cố đẩy chúng ta rập khuôn theo nó (Ro 12:1-21; IGi 2:15-17) bạn phải thật can đảm mới vượt qua được những áp lực nầy để giữ lòng trung tín với Chúa (Gios 23:7). Bạn cũng phải yêu Chúa thật lòng và mong muốn làm đẹp lòng Ngài (c.8). Từ được dịch là “tríu mến” trong câu 8 đã được dùng trong Sa 2:24 để mô tả mối liên hệ của chồng đối với vợ. Y-sơ-ra-ên đã “kết hôn” với Đức Giê-hô-va tại núi Si-nai (Gios 2:1-3 Exe 16:1-63) và phải chung thủy với Ngài và tríu mến Ngài (Phuc 4:4; 10:20; Phuc 11:22; Phuc 13:4). Thật bi thảm vì dân Y-sơ-ra-ên đã trở thành người vợ không thủy chung, một người phạm tội ngoại tình, khi quay sang thờ phượng các thần của dân tộc khác!


Lời hứa trong Gios 23:10 được trích từ Phuc 32:30, cho thấy Giô-suê biết rõ Lời Đức Chúa Trời như thế nào (Le 26:7-8). Ông ngày đêm suy gẫm Lời Đức Chúa Trời (Gios 1:8; Thi 1:2) và giấu Lời Ngài trong lòng (Thi 119:11).


Điều Đức Chúa Trời sẽ làm cho Y-sơ-ra-ên (Gios 23:11-16). Lời Đức Chúa Trời như gươm hai lưỡi (He 4:12): Nếu chúng ta vâng phục, Đức Chúa Trời sẽ ban phước và giúp đỡ chúng ta; nếu chúng ta bất tuân, Ngài sẽ sửa phạt cho tới khi chúng ta đầu phục Ngài. Nếu chúng ta yêu mến Chúa (Gios 23:11), chúng ta sẽ muốn vâng phục Ngài và làm vui lòng Ngài; như vậy điều quan trọng là chúng ta phải nuôi dưỡng mối quan hệ với Đức Chúa Trời một cách thỏa đáng.


Giô-suê nhắc nhở dân sự rằng Đức Chúa Trời không bao giờ không thực hiện lời hứa của Ngài, dù lời hứa sẽ ban phước hay lời hứa sẽ sửa phạt. Cả hai đều nói lên tình yêu của Ngài, vì “Vì Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì trách phạt nấy” (Ch 3:11-12; He 12:6).

Charles Spurgeon nói: “Đức Chúa Trời sẽ không để cho con cái Ngài phạm tội thành công”.


Môi-se đã cảnh cáo Y-sơ-ra-ên về sự thỏa hiệp với các dân xấu xa trong xứ (Xu 7:12-26), và Giô-suê tái xác nhận lời cảnh cáo đó (Gios 23:13). Nếu Y-sơ-ra-ên bắt đầu hoà mình với các dân tộc nầy, thì có hai điều sẽ xảy ra: Đức Chúa Trời sẽ cất hết những phước lành của Ngài, và Y-sơ-ra-ên sẽ thất bại trong chiến tranh; rồi các dân nầy sẽ đem lại sự đau khổ và thất bại cho Y-sơ-ra-ên. Giô-suê dùng những từ ngữ thật sinh động như lưới, bẫy, roi đánh, và chông gai để nói lên sự đau đớn mà dân Do-thái phải trải qua nếu họ không vâng lời Chúa. Roi sửa phạt sẽ giáng trên Y-sơ-ra-ên và họ bị lưu đày sang xứ khác. Xét cho cùng, nếu bạn muốn sống và thờ phượng giống như dân Ngoại, thì hãy sống với dân Ngoại! Điều nầy xảy ra khi Đức Chúa Trời cho phép Ba-by-lôn chinh phục Giu-đa, tiêu diệt Giê-ru-sa-lem, và đem hàng ngàn người Do-thái lưu đày sang Ba-by-lôn.


Trong lời nói ngắn gọn nầy, có 3 lần Giô-suê gọi Ca-na-an là “xứ tốt đẹp” (c.13,15-16). Khi Đức Chúa Trời gọi Môi-se nơi bụi gay cháy, Ngài hứa sẽ đưa dân Y-sơ-ra-ên vào “xứ kia đẹp đẽ” (Xu 3:8) và sau 40 ngày do thám Giô-suê và Ca-lép mô tả Ca-na-an là “xứ rất tốt” (Dân 14:7). Trong sứ điệp từ biệt. Môi-se dùng cụm từ “xứ tốt đẹp” ít nhất 10 lần (Phuc 1:25,35; Phuc 3:25; Phuc 4:21-22; Phuc 6:18; Phuc 8:7,10; Phuc 9:6; Phuc 11:7). Lý lẽ nầy rõ ràng: Vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta xứ tốt đẹp nầy, nên ít nhất chúng ta phải sống đẹp lòng Ngài.


Suy gẫm về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời là động cơ mạnh mẽ để thúc đẩy chúng ta vâng phục Chúa.Gia-cơ liên hệ sự ngay lành của Đức Chúa Trời với sự chống lại cám dỗ của chúng ta (Gia 1:13-17), Na-than dùng cách nầy khi ông đối diện với Đa-vít nói về tội lỗi của vua (IISa 12:1-15). Không phải sự xấu xa của chính mình nhưng bởi lòng tốt của cha mà con trai hoang đàng đã ăn năn quay trở về (Lu 15:17). “Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đem ngươi đến sự ăn năn” (Ro 2:4). Mối nguy hiểm ở đây là những ơn phước về mặt vật chất từ Đức Chúa Trời có thể ám ảnh trong lòng chúng ta đến nỗi chúng ta chú tâm vào chúng mà quên đi Đấng ban cho chúng ta, và điều nầy khiến chúng ta phạm tội.


Ngày nay chúng ta cần lưu ý ba lời khuyên của Giô-suê: Giữ Lời Đức Chúa Trời (Gios 23:6), trung tín với Ngài (c.8), là yêu mến Ngài (c.11). Quá nhiều Cơ-đốc nhân không chỉ thoả hiệp với kẻ thù mà còn đầu hàng kẻ thù, không xem Đức Chúa Trời là ưu tiên một trong cuộc đời họ.


2. Phước hạnh trong quá khứ của Y-sơ-ra-ên (Gios 24:1-13)

Trong tờ Saturday Review số ra ngày 15 tháng 4 năm 1978, tác giả và chủ biên tập quá cố Norman Cousins gọi lịch sử là “hệ thống cảnh báo rộng lớn ban đầu”; và triết gia George Santayana nói: “Những người không thể nhớ quá khứ bị buộc tội lập lại quá khứ”. Biết nguồn gốc của mình là điều quan trọng đối với người Do-thái vì họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời, họ có nhiệm vụ trọng đại phải thi hành trên thế gian nầy.


Si-chem là chỗ lý tưởng cho các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên nói lời từ biệt với dân sự mình. Chính tại Si-chem, Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham là hậu duệ của ông sẽ được thừa hưởng xứ nầy (Sa 12:6-7), và tại đó Gia-cốp đã lập một bàn thờ (Sa 33:20). Si-chem nằm giữa núi Ê-banh và núi Ga-ri-xim, nơi dân Y-sơ-ra-ên tái khẳng định lòng trung thành của họ với Đức Chúa Trời (Gios 8:30-35). Si-chem thật sự là “đất thánh” đối với Y-sơ-ra-ên.


Nếu 2 từ dân và xứ là những từ quan trọng trong bài nói chuyện đầu của Giô-suê, thì từ Đức Giê-hô-va là từ quan trọng trong bài thứ hai; vì Giô-suê nhắc đến Đức Giê-hô-va 21 lần. Thật ra, trong Gios 24:2-13, chính Đức Giê-hô-va phán khi Giô-suê ôn lại lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Một từ quan trọng khác là phục sự, được dùng 15 lần.Đức Giê-hô-va ban cho họ xứ nếu họ yêu mến và hầu việc Ngài.


Đức Chúa Trời chọn Y-sơ-ra-ên (Gios 24:1-4).

Áp-ra-ham cùng gia đình ông là những người thờ thần tượng khi Đức Chúa Trời gọi ông rời xứ U-rơ của người Canh-đê để đến Ca-na-an (Sa 11:27; Sa 12:9). Ê-tiên có nói trong lời từ biệt của mình rằng: “Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng tổ chúng ta là Áp-ra-ham” (Cong 7:2), lời nầy nhắc nhở dân Do-thái rằng họ được lập quốc là nhờ ân điển của Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham đã không tìm kiếm Đức Chúa Trời và không tìm thấy Ngài, nhưng chính Đức Chúa Trời đến với Áp-ra-ham trước! Dân Do-thái không có gì đặc biệt để được Đức Chúa Trời chọn (Phuc 7:1-11; Phuc 26:1-11; Phuc 32:10) và điều nầy khiến họ hạ mình và vâng phục Ngài.


Chúa Giê-xu nói với các môn đồ Ngài: “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi” (Gi 15:16). Những tín đồ được chọn trong Chúa Cứu Thế từ “trước khi sáng thế” (Eph 1:4) và được gọi là “kẻ lựa chọn của Đức Chúa Trời” (Ro 8:33 Tit 1:1). Một trong những giáo sư dạy tôi trong trường thần học thường nói: “Nếu cố giải thích sự lựa chọn, bạn có thể sẽ mất trí, nhưng nếu lợi dụng điều đó, bạn có thể mất linh hồn”. Dù ta thuộc “trường phái” thần học nào, ta phải thừa nhận rằng Đức Chúa Trời đã chủ động trong sự cứu rỗi chúng ta.


Con trưởng nam của Áp-ra-ham là Ích-ma-ên (Sa 16:1-16), nhưng Đức Chúa Trời khước từ ông và lập giao ước Ngài với Y-sác, con trai của Áp-ra-ham với Sa-ra có được trong tuổi già (17-18, 21). Y-sác có hai con trai, Gia-cốp và Ê-sau; nhưng Đức Chúa Trời chọn Gia-cốp. Phao-lô gọi sự lựa chọn nầy là mục đích của Đức Chúa Trời “bởi sự kén chọn tự do” (Ro 9:11). Ê-sau trở thành tổ phụ của dân Ê-đôm ở núi Seir, và Gia-cốp trở thành tổ phụ của 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Cuối cùng, con cháu của Y-sơ-ra-ên đi đến Ai-cập, và ở đó Đức Chúa Trời lập họ thành một dân lớn.


Một trong những danh xưng của Đức Chúa Trời được lập đi lập lại trong sách Giô-suê là “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên”, được dùng 15 lần (Gios 7:13,19-20; Gios 8:30; Gios 9:18-19; Gios 10:40,42; Gios 13:14,33; Gios 14:14; Gios 22:16,24; Gios 24:2,23). Dân Do-thái thật là một tuyển dân đặc biệt; vì Đức Chúa Trời ở trên trời gắn danh Ngài với họ và là Đức Chúa Trời của họ.


Đức Chúa Trời giải cứu Y-sơ-ra-ên (Gios 24:5-7).

Đức Chúa Trời để Giô-sép đến Ai-cập trước để kịp thời cứu dân mình qua cơn đói kém (Thi 105:16-22), rồi sau đó Ngài dùng Môi-se và A-rôn giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ ở Ai-cập (câu 23-45). Ai-cập được thoát khỏi nạn đói là nhờ người Do-thái; nhưng họ không biết ơn, mà còn bắt người Do-thái làm nô lệ thật cực nhọc (Xu 3:7,9). Mọi việc xảy ra đều ứng nghiệm điều Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham nhiều thế kỷ trước (Sa 15:1-17), nhưng sự đau khổ của họ ở Ai-cập chỉ làm cho dân số Y-sơ-ra-ên càng đông thêm.


Đức Chúa Trời trừng phạt các thần và những bậc cầm quyền của Ai-cập bằng cách giáng 10 tai vạ trên xứ của họ, và đỉnh điểm là cái chết các con trai đầu lòng (Xu 7:1-12:50). Đến lúc đó, Pha-ra-ôn cứng lòng mới để cho dân Do-thái rời khỏi xứ, nhưng ông ta lại đổi ý và cho quân đuổi theo. Đức Chúa Trời không chỉ đem dân sự Ngài ra khỏi, mà còn dẫn họ vượt qua Biển Đỏ và nhấn chìm quân Ai-cập dưới biển (đoạn 14-15).


Đức Chúa Trời phán dặn dân sự Ngài giữ lễ Vượt Qua để nhắc nhở họ về sự giải cứu ra khỏi ách nô lệ Ai-cập (đoạn 12-13). Trong lời từ biệt, Môi-se nhắc dân Do-thái nhiều lần rằng lúc trước họ là nô lệ cho Ai-cập nhưng Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi đó (Gios 5:15; Gios 6:12; Gios 8:14; Gios 13:5,10; Gios 15:15; Gios 16:3,6; Gios 20:1; Gios 24:22). Các tín đồ nên nhớ lại tình trạng nô lệ cho tội lỗi của mình để thoả vui trong sự cứu chuộc mà phải trả bằng huyết Chúa Cứu Thế Giê-xu trên thập tự giá. Thật nguy hiểm khi lợi dụng món quà cứu rỗi đó.


Đức Chúa Trời dẫn dắt dân sự (Gios 24:8-10).

Đức Chúa Trời đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi để Ngài dẫn họ vào (Phuc 6:23). Mục đích của Ngài dành cho họ là Đất Hứa, nhưng tội lỗi của họ tại Ca-đe Ba-nê-a đã khiến họ phải lưu lạc trong đồng vắng cho đến khi thế hệ vô tín ấy qua đời hết. Khi Y-sơ-ra-ên diễu hành sau hòm giao ước của Đức Chúa Trời, Ngài đánh bại các kẻ thù của họ. Khi Ba-la-am cố rủa sả Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã biến lời rủa sả ấy thành lời chúc phước (Dân 22:1-24:25; Phuc 23:5; Ne 13:2). Dù Sa-tan chống lại Y-sơ-ra-ên cách hung hăng như con sư tử (quân A-mô-rít) hay nhẹ nhàng như con rắn (sự rủa sả của Ba-la-am), thì Đức Chúa Trời cũng đánh bại chúng.


Đức Chúa Trời ban xứ cho họ (Gios 24:11-13).

Chính Đức Chúa Trời đã dắt Y-sơ-ra-ên qua Biển Đỏ cũng đã dắt họ qua sông Giô-đanh và vào Đất Hứa. Ngoại trừ lần thất bại trước A-hi (Gios 7:1-26) và việc lập giao ước với người Ga-ba-ôn (Gios 9:1-27), Giô-suê và đội quân của ông luôn đánh thắng mọi kẻ thù trong xứ vì Đức Chúa Trời ở cùng họ.


“Ong lỗ” được đề cập trong Gios 24:12 (Xu 22:28; Phuc 7:20) là loài côn trùng có nọc cực độc, nhưng ở đây nó còn ngụ ý điều gì đó khác. Quân xâm lược được so sánh với loài ong (Phuc 1:44; Thi 118:12; Es 7:18), và một số học giả cho rằng ở đây muốn nói đến ý nghĩa nầy. Đức Chúa Trời sai những đội quân khác vào Ca-na-an để làm suy yếu dân chúng và chuẩn bị cho cuộc xâm lược của Y-sơ-ra-ên.


Nhưng có lẽ ong lỗ ở đây là những tin tức về những cuộc chinh phục của Y-sơ-ra-ên được đưa đến Ca-na-an, những tin báo nầy đã làm cư dân ở đó khiếp sợ và gần như bị tê liệt. Những lời của Ra-háp mô tả lại sự hoảng loạn của dân Ca-na-an vì những gì nghe được về Y-sơ-ra-ên: “Chúng tôi có hay điều đó, lòng bèn tan ra, chẳng ai trong chúng tôi còn can đảm trước mặt các ông nữa” (Gios 2:11; Gios 5:1; Gios 9:24). Đức Chúa Trời đã hứa về điều nầy và Ngài đã thực hiện nó (Phuc 2:25).


Trong Gios 24:13, Lời Chúa nhắc chúng ta điều Môi-se đã nói với Y-sơ-ra-ên trong Phuc 10:1-22 và những đoạn sau đó. Một lần nữa, Lời Chúa nhắc về sự nhân từ của Đức Chúa Trời và những điều Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên bởi tình yêu Ngài dành cho họ. Khi người Do-thái xem thường những ơn phước Chúa, thì đó là lúc họ xao lãng việc thờ phượng Chúa. Lòng biết ơn là đồn luỹ vững chắc chống lại sự cám dỗ của ma quỉ.


3. Trách nhiệm hiện tại của Y-sơ-ra-ên (Gios 24:14-33)

Một trong những từ quan trọng trong phân đoạn nầy là phục sự, được dùng 15 lần. Phục sự Đức Chúa Trời có nghĩa là kính sợ, vâng phục và thờ phượng chỉ một mình Ngài. Nó có nghĩa là yêu mến Ngài và hết lòng vì Ngài, vâng phục Ngài vì bạn muốn như vậy, không phải vì bạn bị bắt buộc.


Quyết định (Gios 24:14-18).

Giô-suê nói rõ rằng Y-sơ-ra-ên phải quyết tâm phục sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ. Không thể do dự hay chần chờ. Nhưng nếu phục sự Đức Chúa Trời, họ phải từ bỏ những thần giả mà một số người trong vòng họ đang bí mật thờ phượng. Dù đã kinh nghiệm về sự giải cứu khỏi Ai-cập, một số người Do-thái vẫn dâng của lễ cho các thần của Ai-cập (Le 17:7; Am 5:25-26; Cong 7:42-43; Exe 20:6-8). Gia-cốp cũng đã cảnh cáo gia đình ông về điều nầy (Sa 35:2), a-mu-ên cũng làm như vậy trong thời của ông (ISa 7:1-17 và các đoạn tiếp theo).


Giô-suê không nói rằng dân sự có quyền quyết định thờ các thần giả hay không, và Đức Chúa Trời sẽ đành chấp nhận sự chọn lựa đó; vì ở đây không có sự lựa chọn nào khác ngoài Đức Giê-hô-va. Là người khôn ngoan và thuộc linh, Giô-suê biết rằng mọi người phải thờ điều gì đó hoặc một ai đó, dù họ nhận ra điều ấy hay không, vì con người có “bản tánh tôn giáo”. Nếu người Do-thái không thờ Đức Chúa Trời chân thật, thì họ sẽ thờ các thần giả của các dân gian ác trong xứ Ca-na-an. Vấn đề của ông đặt ra là họ không thể làm cả hai việc.


Dân sự cam đoan rằng họ muốn thờ phượng và phục sự một mình Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và họ đưa ra các lý do. Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi Ai-cập, em họ qua đồng vắng và đưa họ vào Đất Hứa. (Bài nói chuyện đầu tiên của Giô-suê Gios 24:1-13 có ảnh hưởng đến họ). Giô-suê nói rõ rằng ông và gia đình ông chỉ hầu việc một mình Đức Chúa Trời (c.15), và dân sự đáp lời, “chúng tôi cũng sẽ phục sự Đức Giê-hô-va, bởi Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi” (c.18).


Sự tận hiến (Gios 24:19-28).

Khi thế hệ trước gặp Đức Chúa Trời tại núi Si-na-i, họ nói: “Chúng tôi xin làm mọi việc Đức Giê-hô-va đã phán dặn” (Xu 19:8). Nhưng chỉ vài tuần sau, họ đã đúc và thờ bò con vàng! Giô-suê biết dân sự hay hứa nhưng ít khi giữ lời. Những lời nghiêm khắc của ông nhằm kìm lại sự tự tin của họ và khiến họ thành thật xét lại lòng mình (Gios 24:19).


Y-sơ-ra-ên đã “kết hôn” với Đức Giê-hô-va, và Ngài không dung thứ cho bất cứ đối thủ nào trong lòng họ. Ngài là Đức Chúa Trời hay ghen tương (Xu 25:5) và là Đức Chúa Trời thánh khiết, Ngài không cho phép họ chia xớt lòng chung thủy của họ cho bất kỳ ai. Giống như chồng vợ chung thủy với lời hứa nguyện của mình và hết lòng gìn giữ tình cảm của người phối ngẫu, Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Trời cũng phải chung thủy với nhau như vậy.


Giô-suê cảnh báo những điều có thể xảy ra nếu họ không từ bỏ các thần tượng: cuối cùng họ sẽ chối bỏ Đức Chúa Trời, và vì vậy Ngài sẽ phạt họ. Họ sẽ đánh mất mọi ơn phước mà Ngài từng ban cho họ trong Đất Hứa. Nhu cầu lớn nhất của họ là tháo bỏ tất cả những ràng buộc với các thần khác và hướng lòng về một mình Đức Chúa Trời (Gios 24:23). Nếu họ vẫn âm thầm bất trung, thì Đức Chúa Trời sẽ không dung thứ cho họ nữa (Xu 23:21), hưng sẽ đoán phạt họ.


Ba lần dân sự cam đoan rằng họ chỉ muốn phục sự một mình Đức Chúa Trời (Gios 24:16-18,21,24), và Giô-suê tin lời họ. Để họ không quên giao ước trang trọng nầy với Giê-hô-va Đức Chúa Trời, iô-suê ghi nó vào Sách Luật Pháp rồi dựng một bia đá lớn làm chứng đời đời cho giao ước của họ. Đây là bia kỷ niệm thứ 9, và là bia cuối cùng được đề cập trong sách Giô-suê. Chín bia kỷ niệm gồm có:

(1). Những hòn đá giữa sông Giô-đanh (Gios 4:9).

(2). Những hòn đá bên bờ tây Giô-đanh (Gios 4:20-24).

(3). Những hòn đá trong Trũng A-cô (Gios 7:26).

(4). Đống đá ở A-hi (Gios 8:29).

(5). Bàn thờ trên núi Ê-banh (Gios 8:30).

(6). Những hòn đá có khắc Luật Pháp trên núi Ê-banh (Gios 8:32).

(7). Những hòn đá ở hang Ma-kê-đa (Gios 10:27).

(8). Bàn thờ do các chi phái bờ đông Giô-đanh dựng (Gios 22:10).

(9). Tảng đá làm bằng chứng của Giô-suê (Gios 24:26-28).

Đặt bia tưởng niệm sự kiện trọng đại hay một quyết định thiêng liêng không phải là việc làm trái với Kinh Thánh, nếu bia tưởng niệm đó không trở thành chỗ thờ thần tượng. Nhớ lại những việc làm của Đức Chúa Trời đối với chúng ta và cách chúng ta đáp ứng Ngài như thế nào cũng tốt, nhưng chúng ta đừng nên sống trong quá khứ. Những truyền thống tôn giáo có thể là con dao hai lưỡi, tùy cách chúng ta sử dụng chúng như thế nào.


Sách Giô-suê kết thúc với ba vụ an táng.

Giô-suê qua đời ở tuổi 110 và được chôn trong phần đất của ông.Ê-lê-ê-sa, thầy tế lễ thượng phẩm (Dan 20:28) qua đời và được chôn tại Ép-ra-im, gần Si-lô, trong phần đất của con trai ông là Phi-nê-a. Hài cốt của Giô-sép được chôn tại Si-chem, trong phần đất mà Gia-cốp mua của Hê-mô (Sa 33:19). Si-chem trở nên một thành quan trọng đối với Ép-ra-im và Ma-na-se, hai con trai của Giô-sép. Như vậy, các tổ phụ lớn của họ đều được chôn tại đó (Sa 50:25; Xu 13:19; He 11:22).


Môi-se chọn Giô-suê làm người kế nhiệm cho mình, nhưng đáng lưu ý là Đức Chúa Trời không bảo Giô-suê chọn người kế nhiệm. Sau khi Giô-suê qua đời, các trưởng lão từng làm việc với Giô-suê hướng dẫn dân sự, nhưng rồi dân sự đi lầm đường lạc lối và bắt đầu không vâng phục Đức Chúa Trời mà đi theo các thần giả của người Ca-na-an (Cac 2:6-15). Tại sao thế hệ sau không biết Đức Chúa Trời và những việc Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên? Vì dân sự trong thời Giô-suê không giữ lời hứa của mình, họ không dạy dỗ con cái kính sợ và phục sự Đức Chúa Trời.


Đức Chúa Trời đã không quên lời Ngài hứa, Ngài đã sửa phạt họ, đầu tiên Ngài đưa các dân khác vào chiếm xứ (c.14-19), rồi bắt họ đi lưu đày, Vương Quốc Phía Bắc bị đày sang A-si-ri, còn Vương Quốc Phía Nam bị đày sang Ba-by-lôn. Nhưng đến một ngày, Đức Giê-hô-va sẽ gom họ trở về xứ mình (Es 11:1-12:6 Es 51:1-52:15 Exe 36:24). Sau đó, “vinh quang Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất như nước đầy tràn biển” (Ha 2:14).



 

NHÌN LẠI MỘT CUỘC ĐỜI VĨ ĐẠI


Trong quyển tự truyện của mình, Mark Twain có viết: “Tiểu sử không là gì ngoài những bộ quần áo và những hạt nút áo của một người - tiểu sử của chính con người không thể nào viết ra được”.


Sách Giô-suê không phải là sách viết về tiểu sử của Giô-suê theo nghĩa chính xác, nhưng nó cho ta biết nhiều về con người tin kính nầy. Giống như những sách còn lại của Cựu-ước, sách Giô-suê được viết ra vừa để cảnh cáo chúng ta (ICo 10:11), ừa để khích lệ chúng ta (Ro 15:4). Vì vậy chúng ta nên để thời gian nhìn lại cuộc đời và chức vụ của Giô-suê và rút ra những bài học bổ ích để chúng ta biết Chúa rõ hơn và hầu việc Ngài cách kết quả hơn.


1. Sự chuẩn bị Giô-suê

Khi Đức Chúa Trời muốn thực hiện việc gì, Ngài thường chuẩn bị một đầy tớ cho công việc đó và chuẩn bị công việc cho đầy tớ của Ngài. Đức Chúa Trời đầu tư 17 năm để chuẩn bị Giô-sép cho công việc Ngài tại Ai-cập và 8 năm để chuẩn bị Môi-se cho 40 năm lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên. Đa-vít trải qua nhiều năm thử thách trước khi bước lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên. “Một đầy tớ được chuẩn bị cho một vị trí được chuẩn bị” là phương cách của Đức Chúa Trời.


Đức Chúa Trời dùng “những công cụ” nào để chuẩn bị Giô-suê cho chức vụ của ông?


Sự khốn khổ.

Giô-suê ra đời trong cảnh dân Y-sơ-ra-ên bị nô lệ ở Ai Cập và nếm biết sự khốn khổ. Trong Xu 3:7-9, lời của Đức Chúa Trời nói rõ rằng dân Do-thái đã kinh nghiệm sự khổ cực ở Ai-cập và van xin Đức Chúa Trời giải cứu. Nhưng có ít nhất 3 điều khích lệ họ trong cảnh khốn khổ ấy: Lời hứa của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham rằng con cháu ông sẽ được hưởng xứ (Sa 12:7); lời tiên tri của Đức Chúa Trời về sự giải cứu khỏi ách nô lệ (Sa 15:12-17; Phuc 4:20); và lời của Giô-sép liên quan đến sự giải cứu và sở hữu Đất Hứa của Y-sơ-ra-ên (Sa 50:22-26).


Khuôn mẫu của Đức Chúa Trời cho một cuộc đời là đau khổ đi trước và vinh quang theo sau. Điều nầy thật đúng với cuộc đời Chúa Cứu Thế của chúng ta (Lu 24:26; IPhi 1:11) và cũng đúng với dân sự Ngài (IPhi 4:13; IPhi 5:10). Khi chúng ta chịu đau khổ trong ý muốn Đức Chúa Trời và nương nhờ ân điển Ngài, thì nỗi khổ đó có tác dụng làm trưởng thành và thanh tẩy đời sống chúng ta. Đáng tiếc là ngày nay chúng ta có quá nhiều những lãnh đạo kiêu ngạo, phô trương thành tích, mà không cho bạn thấy những vết thương của họ. Những vết thương của Chúa Cứu Thế trên Gô-gô-tha đang được tôn vinh trên thiên đàng luôn là những lời nhắc nhở rằng đau khổ và vinh quang thường đi đôi trong mục đích của Đức Chúa Trời.


Đau khổ tự nó không làm cho con người tốt hơn. Đôi khi nó còn làm cho họ cay đắng. Nhưng khi đau khổ được hòa lẫn với đức tin và ân điển của Đức Chúa Trời, nó sẽ trở thành phương tiện tuyệt vời để gây dựng đức tin kính (IICo 12:1-10). Nếu đau khổ đem lại cho con người sự khôn ngoan và tính cách, thì thế giới chúng ta sẽ là nơi thật tốt đẹp, bởi mọi người đều chịu khổ bằng cách nầy hay cách khác. Khi chúng ta chấp nhận đau khổ như một món quà từ Đức Chúa Trời và sử dụng nó cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, thì đau khổ ấy giúp chúng ta làm trọn ý muốn của Đức Chúa Trời.


Sự đầu phục.

Giô-suê biết cách đầu phục cấp trên. Là người lãnh đạo đội quân Do-thái, ông vâng phục Môi-se và đánh bại dân A-ma-léc (Xu 17:8-16). Là “kẻ hầu” của Môi-se trong nhiều năm (Xu 24:13), iô-suê ở bên cạnh chủ và trung thành phục vụ chủ. Khuôn mẫu của một người lãnh đạo của Đức Chúa Trời được tóm tắt trong Mat 25:21, và khuôn mẫu đó vẫn còn áp dụng cho ngày nay: khi chúng ta chứng tỏ mình trung thành như một đầy tớ trong một số việc nhỏ, Đức Chúa Trời sẽ cho chúng ta coi sóc nhiều việc hơn. Giô-suê có tài ra lệnh vì ông biết cách vâng lệnh.


Vì ông biết đầu phục cấp trên, Giô-suê là một đầy tớ biết vâng phục. Suốt nửa quãng đời đầu của mình, ông vâng lệnh Môi-se; và nửa quảng đời sau, ông nhận lệnh từ Đức Chúa Trời. Câu Kinh Thánh then chốt trong cuộc đời Giô-suê là, “Chỉ hãy vững lòng bền chí, và cẩn thận làm theo hết thảy luật pháp mà Môi-se, tôi tớ ta, đã truyền cho ngươi; chớ xây qua bên hữu hoặc bên tả, để hễ ngươi đi đâu cũng đều được thạnh vượng” (Gios 1:7). Câu Kinh Thánh nầy cần được bổ sung thêm câu Gios 11:15, “Mạng lịnh mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài thì Môi-se đã truyền lại cho Giô-suê, và Giô-suê làm theo phàm điều gì Đức Giê-hô-va phán dặn Môi-se, iô-suê không bỏ sót gì hết”.


Sự trì hoãn.

Chính nhờ đức tin và sự kiên nhẫn, chúng ta hưởng được điều Đức Chúa Trời đã hứa (He 6:12). Nếu dân Y-sơ-ra-ên chịu nghe lời Giô-suê và Ca-lép, chắc họ đã nhận được sản nghiệp sớm hơn 40 năm (Dân 13:26-14:10). Cả Giô-suê và Ca-lép đều kiên nhẫn chịu đựng những thử thách trong đồng vắng vì họ biết sẽ có một ngày họ được nhận sản nghiệp mình trong Đất Hứa. Vì vô tín, dân Do-thái đã khước từ “công việc của đức tin” và không chịu vào xứ; nhưng họ không thể làm cho Giô-suê mất đi “sự bền đỗ về sự trông cậy” (ITe 1:3).


Người lãnh đạo phải rèn tập tính chờ đợi. Thường những người môn đệ của họ không phải lúc nào cũng nhìn xa như họ hoặc có đức tin như họ. Khải tượng về chiến thắng trong tương lai là động lực cho người lãnh đạo chân chính; nhưng cũng như Y-sơ-ra-ên, hiều người hay nhìn lại sau lưng. Tôi nghĩ rằng mỗi người lãnh đạo đều có một lúc nào đó đồng cảm với Chúa Giê-xu khi Ngài nói, “Hỡi dòng dõi không tin và bội nghịch kia, ta ở với các ngươi và nhịn các ngươi cho đến chừng nào? Hãy đem con của ngươi lại đây” (Lu 9:41). Hơn một lần Giô-suê chứng kiến Môi-se dốc đổ lòng mình với Đức Chúa Trời vì sự vô tín và cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên.


2. Vai trò lãnh đạo của Giô-suê

Tài lãnh đạo là bẩm sinh hay do rèn luyện? Có lẽ cả hai. Đức Chúa Trời ban cho người lãnh đạo khả năng bẩm sinh, à khả năng ấy được phát triển thêm lên khi va chạm thực tế. Ngày nay có những lớp đào tạo các nhà quản trị, nhưng muốn trở thành nhà quản tri trước hết phải có một ít năng khiếu quản trị. Nếu không, dù có cố gắng rèn luyện đến đâu đi nữa cũng không thể trở thành nhà quản trị tài giỏi.Ta có thể học các nguyên tắc lãnh đạo trong sách vở, nhưng muốn trở thành nhà lãnh đạo thật sự ta phải kinh qua hành động thực tế. Nếu đã học qua một khóa đào tạo người lãnh đạo và tự cho rằng mình đã là người lãnh đạo giỏi rồi thì chẳng khác gì tin rằng mình là lực sĩ vì đã thường xuyên xem các trận so găng trên truyền hình.


Nét đặc trưng trong cách lãnh đạo của Giô-suê là gì?

Ông bước đi với Đức Chúa Trời. Giống như Môi-se, người tiền nhiệm, Giô-suê là người của Đức Chúa Trời. Bất cứ ai được Thánh Linh chọn để hoàn tất sách Giô-suê đều phải gọi ông là “đầy tớ Chúa”, không phải ai trong Kinh Thánh cũng được gọi như vậy. Chúng ta không được biết Đức Chúa Trời có mặt đối mặt trò chuyện với Giô-suê như đã làm với Môi-se hay không (Phuc 34:10); nhưng chúng ta biết Đức Chúa Trời truyền đạt ý muốn Ngài cho Giô-suê và ông đã vâng phục theo, Giô-suê suy gẫm Luật Pháp của Chúa mỗi ngày (Gios 1:8) và làm theo những điều được dạy trong đó (Gios 11:15). Ông là người cầu nguyện (Gios 7:6-9), vì Lời Chúa và sự cầu nguyện luôn đi đôi với nhau (Cong 6:4).


Ông can đảm.

Những ngày đầu nhận chức Giô-suê được khuyên “hãy vững lòng bền chí!” cả thảy 4 lần (Gios 1:6-7,9,18). Người lãnh đạo thành công rất cần lòng can đảm, an đảm bênh vực cho niềm tin, và can đảm làm theo những gì bạn biết Đức Chúa Trời muốn bạn làm. Tất cả chúng ta cần bắt chước Martin Luther khi ông nói: “Tôi phải vững vàng. Tôi không thể làm gì khác hơn.”


Tướng Omar Bradley định nghĩa can đảm là “khả năng làm đúng điều phải làm dù khó khăn cách mấy”. Chúng ta không biết có khi nào Giô-suê lo sợ khi đối mặt với kẻ thù không, nhưng chúng ta biết ông đã quyết tâm với nhiệm vụ mình và thắng trận liên tiếp. Hầu hết chúng ta không được kêu gọi để lãnh đạo đội quân, nhưng người lãnh đạo trong lĩnh vực nào cũng có rủi ro và cần lòng can đảm. “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất đi, ai ghét sự sống mình trong đời nầy thì sẽ giữ lại đến sự sống đời đời” (Gi 12:25). Nếu chúng ta hèn nhát trong cuộc sống và chức vụ, chúng ta sẽ không bao giờ làm được gì nhiều cho Chúa. Chính vì hèn nhát nên người đầy tớ mới đem giấu tiền của chủ mà không dám đầu tư vì không dám mạo hiểm (Mat 25:24-30).


Nhưng sự can đảm của Giô-suê không chỉ ở chỗ đối mặt với kẻ thù. Ông can đảm khi đối diện với tội lỗi trong trại quân Y-sơ-ra-ên (Gios 7:1-26), khuyến giục các chi phái “tấn tới” và giành lấy sản nghiệp (Gios 17:14-18). Đôi khi cần can đảm để đối diện với dân tộc mình hơn là đối mặt với kẻ thù ngoài chiến trường.


Ông có kế hoạch là làm theo kế hoạch.

Sự chinh phục Ca-na-an không phải là việc làm bừa bãi, hưng phải được lên kế hoạch cẩn thận và được thực thi khéo léo. Trước hết, Giô-suê cắt ngang xứ ấy, chia cắt miền bắc với miền nam. Sau đó, ông chinh phục các thành phía nam, tiếp đến là các thành phía bắc. Ông tiến quân nhanh chóng để nắm quyền kiểm soát các trung tâm và làm chủ cả xứ. Nhiều lần Giô-suê dùng chiến lược đánh bất ngờ vào ban đêm.


Muốn làm công việc Chúa thành công, cần có kế hoạch và chiến lược hợp lý. Người lãnh đạo mà không lên kế hoạch, làm việc tùy tiện, thì không thể lãnh đạo ai được. Có một câu châm ngôn La-mã nói, “Thuyền trưởng không biết cập bến ở cảng nào, thì không có chiều gió nào là thuận lợi cho anh ta”. Nếu biết mình đi đâu, anh ta mới căng buồm đúng hướng và lái thuyền đi về đúng chỗ.


Ông không bỏ cuộc.

Khi ông bị thất bại tại A-hi, Giô-suê chấp nhận thất bại của mình và tìm kiếm Đức Chúa Trời, bắt đầu lại, và giành chiến thắng. Khi dại dột kết ước với người Ga-ba-ôn, ông đã thừa nhận sai lầm của mình. Người lãnh đạo thành công không phải luôn luôn đúng, bởi không ai được như vậy. Người lãnh đạo thành công là người biết quyết định và không nản lòng khi thất bại. Mỗi khi thất bại, họ biết rút kinh nghiệm và biết cách chuyển bại thành thắng


Một nhà văn hài hước người Mỹ, Elbert Hurbard nói, “Kinh nghiệm là tên mà mọi người đặt cho lầm lỗi của mình”. Một số người nói kinh nghiệm là người thầy khó tính vì nó luôn bắt ta thi trước khi học. Nếu biến lỗi lầm mình thành tấm gương soi, húng ta chỉ thấy chính mình và như vậy chúng ta chỉ đau buồn thêm. Nhưng nếu lấy đức tin để biến lỗi lầm thành cửa sổ, chúng ta thấy được Đức Chúa Trời và được thêm sức để làm lại.

Xin được trích lời của Elbert Hubbard: ”Không bao giờ có thất bại ngoại trừ không chịu cố gắng nữa”.


Ông được người khác ủng hộ và kính trọng.

Trừ A-can, người phản bội tại Giê-ri-cô, và Ca-lép, người có đức tin, được nên rõ tên, ngoài ra không ai biết thêm tên của một binh lính nào khác, nhưng nếu không có họ thì Giô-suê không làm được gì.Cuộc chinh phục Ca-na-an không phải là việc của một người; đó là công việc của hàng ngàn người trung thành ngoài chiến trường cũng như ở quê nhà.


Người ta kính trọng một vị lãnh đạo không phải vì bị ép buộc, nhưng chính tư cách của vị lãnh đạo đó khiến người ta kính trọng ông. Khi đọc Gios 1:10-18 và thấy các binh lính đáp ứng mệnh lệnh của Giô-suê, ta có thể kết luận rằng ông đã được họ kính trọng và hết lòng trung thành. Ông phục vụ Chúa và dân sự của Ngài, và dân sự theo ông vì họ tin cậy ông. Động cơ của ông trong sạch, cuộc đời ông tin kính, và tính tình ông không chỗ trách được.


Là người kế nhiệm Môi-se và là lãnh tụ do Đức Chúa Trời chọn lựa, Giô-suê có quyền hạn, nhưng quyền hạn đó chưa đủ để làm người lãnh đạo. Người lãnh đạo chân chính phải cần thêm uy danh và thành quả để mọi người tôn trọng và vâng phục. Trong thời đại “ma thuật truyền thông” nầy có thể “thổi phồng” một kẻ không ra gì trở thành một người nổi tiếng trên thế giới; nhưng người ta không thể cho người nổi tiếng ấy cái uy danh mà phải trả giá bằng sự hy sinh và phục vụ.Chúng ta không cần nhiều người nổi tiếng, nhưng chắn chắn chúng ta cần nhiều đầy tớ.


Những lãnh đạo chân chính không lợi dụng cấp dưới để tạo uy tín cho mình nhưng dùng quyền hạn của mình để phục vụ mọi người. Dưới quyền lãnh đạo của Giô-suê, nhiều người Do-thái đã trở thành những anh hùng. Người lãnh đạo chân chính là người ủng hộ người khác để họ đạt thành quả cao nhất.


Ông quan tâm đến tương lai.

Khi vua Ê-xê-chia được tiên báo rằng nước Giu-đa sẽ bị lưu đày sang Ba-by-lôn, vua đã nói, “Vì trong ngày ta còn sống, sẽ được bình yên và lẽ thật” (Es 39:8). Tôi không muốn phê bình vị vua lớn ấy, nhưng lời của ông ta nghe có vẻ thật ích kỷ. Vua là phải quan tâm đến những thế hệ sau hay sao?


Hai bài diễn văn từ biệt của Giô-suê (đoạn 23-24) cho thấy ông là một người lãnh đạo chân chính, ông nặng lòng với tương lai của đất nước. Ông muốn dân sự ông đều biết đến Chúa và phục vụ Ngài hết lòng. Người nào chỉ nghĩ đến thành công nhất thời, là những kẻ cơ hội, không phải là những người lãnh đạo chân chính. Người lãnh đạo là người gieo giống tốt để người đi sau thu kết quả tốt. Giô-suê đã làm điều đó.


Ông làm vinh hiển Đức Chúa Trời.

Có lúc Giô-suê ganh tị với vinh quang Môi-se (Dân 11:24-30); nhưng ông biết điều quan trọng hơn hết là sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Khi cả nước vượt sông Giô-đanh, chính Đức Chúa Trời được vinh hiển. Ông nói với dân sự: “Nhờ điều nầy các ngươi sẽ biết rằng Đức Chúa Trời hằng sống ngự giữa các ngươi” (Gios 3:10). Khi cuộc diễu hành lạ lùng kết thúc trong khải hoàn, Giô-suê dựng một bia kỷ niệm để Y-sơ-ra-ên và “các dân tộc thế gian biết rằng tay của Đức Giê-hô-va là rất mạnh, và cho các ngươi kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi luôn luôn” (Gios 4:24). Người nào không đáng được tôn vinh mới dựng bia tự tôn vinh mình.


Qua sách Giô-suê, ta thấy Giô-suê luôn dâng vinh quang cho Đức Chúa Trời về tất cả những gì đã xảy ra (Gios 6:16; Gios 8:1; Gios 10:14; Gios 11:6-8; Gios 13:6; Gios 18:3; Gios 21:43-45). Chính Đức Chúa Trời là Đấng chiến thắng kẻ thù và ban xứ cho dân sự. Danh của Ngài thật đáng được ca tụng khắp đất. Có người nói rằng người lãnh đạo thường bị trách gấp đôi và được thưởng phân nửa, và Giô-suê có đủ cả hai điều đó.


3. Sứ điệp của Giô-suê

Sứ điệp thực tế của sách Giô-suê là Đức Chúa Trời giữ lời hứa và giúp các đầy tớ Ngài thành công nếu họ tin cậy và vâng phục Ngài. Sứ điệp thuộc linh là Đức Chúa Trời dành sẳn cho con cái Ngài hôm nay một sản nghiệp giàu có, và họ có thể nhận lãnh bằng đức tin. Sứ điệp nầy được trình bày chi tiết trong sách Hê-bơ-rơ, đặc biệt là trong đoạn 3 và 4.


Chúng ta thấy rằng, khi nói về những điều thuộc về Đức Chúa Trời, trên thế gian có nhiều loại người khác nhau. Hầu hết vẫn đang trong tình trạng nô lệ ở Ai-cập và cần được giải phóng bởi đức tin trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Số khác đã tin Cứu Chúa và đã được giải phóng rồi nhưng còn đang lang thang trong đồng vằng một cách vô định vì không dám lấy đức tin mà bước vào sản nghiệp mình. Còn những người khác thì đã nhận sản nghiệp nhưng thích sống ngay ranh giới của ơn phước. Cuối cùng là những người đi theo Giô-suê (Giê-xu = “Giê-hô-va là sự cứu rỗi”) và bước vào Đất Hứa để nhận lãnh sản nghiệp cho mình.


Hãy nhớ việc vượt sông Giô-đanh và bước vào Đất Hứa không phải là hình ảnh của sự qua đời và bước vào thiên đàng. Đó là hình ảnh về cái chết của bản ngã và nếp sống cũ để bước vào sản nghiệp thuộc linh trong hiện tại và hưởng được sự trọn vẹn của ơn phước của Đức Chúa Trời trong cuộc đời hầu việc Chúa và làm vinh hiển danh Chúa.


Điều cần thiết nhất trong Hội thánh ngày nay là dân sự Đức Chúa Trời phải biết mình đang đánh mất nhiều điều thế nào khi lang thang trong sự vô tín, hoặc sống bên lề của ơn phước. Biết được điều đó để chúng ta bám chặt lời hứa của Đức Chúa Trời và bước vào sản nghiệp thuộc linh. Chúng ta là những người thiếu thốn vì không chịu nhận lấy sản nghiệp thuộc linh nếu không tin rằng Giô-suê của chúng ta đưa chúng ta đến chiến thắng. Rất nhiều người trong chúng ta giống như A-can, ăn cắp của Đức Chúa Trời, trong khi chúng ta phải giống Ca-lép, đòi lên núi để đánh bại những kẻ khổng lồ.


4. Đức Chúa Trời của Giô-suê

Chính Đức Chúa Trời, không phải Giô-suê, là Nhân Vật then chốt trong sách này. Khi đọc sách Giô-suê, chúng ta phát hiện được nhiều lẽ thật tuyệt vời về Đức Chúa Trời.


Trước tiên, Ngài là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời của giao ước mà Ngài đã lập với Y-sơ-ra-ên qua Môi-se. Dù Môi-se đã qua đời, Đức Chúa Trời hằng sống vẫn đang vận hành trong và qua tuyển dân của Ngài. Khi Giô-suê lãnh đạo dân sự, ông thường gọi Đức Chúa Trời là “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi”. Y-sơ-ra-ên thuộc về Đức Chúa Trời.


Nhưng Ngài cũng là “Chúa của cả thế gian” (Gios 3:11). Dù Ngài có mối quan hệ đặc biệt với dân Y-sơ-ra-ên, nhưng mục đích để Ngài thiết lập mối quan hệ đó là để đem lại phước hạnh cho mọi dân tộc (Sa 12:1-3). Các nước Ngoại bang ở Ca-na-an nghe về những việc Đức Chúa Trời đã làm cho Y-sơ-ra-ên, và họ kinh hãi (Gios 2:10-11); vì không một thần nào làm được việc lớn dường ấy.


Ngài là Đức Chúa Trời giữ lời hứa.

Ngài đã hứa với các tổ phụ của dân Do-thái rằng Ngài sẽ ban xứ cho họ, và Ngài giữ lời hứa ấy. Ngài có hứa với Môi-se rằng Y-sơ-ra-ên sẽ đánh đuổi được các dân ra khỏi Ca-na-an, và Ngài không quên lời hứa đó. Trong những ngày cuối đời, iô-suê nói với dân sự rằng không có một điều nào trong tất cả những điều tốt đẹp mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán về họ. (Gios 23:14).


 Ngài là Đức Chúa Trời thánh khiết, không dung thứ tội lỗi. Khi A-can không vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, gài đã rút lại những ơn lành của Ngài. Quân Y-sơ-ra-ên bị thất bại trước A-hi, à họ không thể chiến thắng cho đến khi Giô-suê giải quyết tội lỗi trong trại quân. Nhưng Ngài cũng là Đức Chúa Trời tha thứ, Ngài thanh tẩy tội lỗi khi chúng ta xưng tội mình, rồi Ngài sẽ ban cho chúng ta cơ hội khác để giành lấy chiến thắng.


Ngài là Đức Chúa Trời đòi hỏi con cái Ngài vâng phục. 

Trước khi Y-sơ-ra-ên có thể bước vào xứ, họ phải vâng giữ những điều kiện mà Đức Chúa Trời đã đặt ra; vì họ là dân giao ước của Ngài.Chúa cho Giô-suê biết bí quyết thành công của ông đó là đức tin và sự vâng phục Lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có kế hoạch cho sự chinh phục xứ Ca-na-an; tất cả những gì Giô-suê cần làm là vâng theo kế hoạch đó.


Ngài là Đức Chúa Trời không bao giờ sai lời!

Chúng ta có thể thất hứa vời Ngài, nhưng Ngài không bao giờ thất hứa với chúng ta. “Khi Đức Chúa Trời ra lệnh bảo chúng ta phục sự Ngài, thì Ngài chắc chắn sẽ giúp chúng ta làm thành” Oswald Sanders viết (robust in Faith, rang 72).


Dù có thể nói thêm nhiều điều nữa, hưng chúng ta dừng lại ở ý nầy: Ngài là Đức Chúa Trời nhân từ. Trước cảnh hàng ngàng người ngã xuống trong cuộc chinh phục Ca-na-an, lại nói về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời thì thật lạ, nhưng lòng nhân từ Ngài vẫn y nguyên ở đó. Đức Chúa Trời nhân từ nên chậm trễ trừng phạt suốt nhiều thế kỷ trước khi đem Y-sơ-ra-ên vào xứ (Sa 15:16). Ngài nhân từ vì đã cho loan tin về Y-sơ-ra-ên đến khắp các dân ở Ca-na-an để dân ở đó sợ và quay về với Ngài giống như Ra-háp.Ngài nhân từ khi xoá sạch các tôn giáo bẩn thỉu của người Ca-na-an để con cái Y-sơ-ra-ên có thể được lớn lên trong xứ chỉ thờ phượng một mình Đức Giê-hô-va.


Khi tôi chuẩn bị tốt nghiệp trường thần học, lớp của chúng tôi tổ chức một kỳ trại để lắng lòng trong dịp cuối tuần, trong lần trại nầy, một diễn giả đã dùng câu Kinh Thánh Gios 3:5 để chia sẻ, “Hãy làm cho mình ra thánh, vì ngày mai Đức Giê-hô-va sẽ làm những việc lạ lùng giữa các ngươi”. Tôi không nhớ bố cục của bài giảng ấy, nhưng không thể nào quên bài học: Tương lai của chúng ta đầy hứa hẹn và tuyệt vời nếu chúng ta trở thành người như Đức Chúa Trời mong muốn.


Ngài vẫn là Đức Chúa Trời của phép lạ, và Ngài vẫn đang kêu gọi chúng ta trở nên một dân thánh, biết tin cậy và vâng phục. Đức Chúa Trời của Giô-suê đang sống vậy còn những Giô-suê thì đang ở đâu?



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023-2025 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page