top of page
19. Đa-vít trốn vào đồng vắng (ISu 19:1-9) (IISa 15:1-16:14)
Khi...
...bạn đối mặt với những kẻ thù hung bạo và khi bạn đang gặp khó khăn nhất trong cuộc đời, bạn sẽ kinh nghiệm được quyền năng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang trừng phạt Đa-vít, nhưng Đa-vít biết rằng quyền năng của Đức Chúa Trời có thể giúp ông trong những phút đau khổ nhất cũng như trong phút huy hoàng nhất. Ông đã viết một bài thi thiên trong hoàn cảnh lưu lạc của mình, “Biết bao kẻ nói về linh hồn tôi rằng: Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó. Nhưng, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi; Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Đấng làm cho tôi ngước đầu lên” (Thi 2:2-3).
Đa-vít nhận thấy tay sửa phạt bởi tình yêu thương của Đức Chúa Trời giáng trên ông, ông thú nhận rằng mình đáng bị như vậy. Nhưng ông cũng tin rằng tay nhân từ và quyền năng của Ngài vẫn hành động trên cuộc đời ông, rằng Đức Chúa Trời không bỏ ông như Ngài đã bỏ Sau-lơ. Đức Giê-hô-va vẫn thực hiện ý muốn tốt lành và trọn vẹn của Ngài, chưa bao giờ Đa-vít có đức tin mạnh mẽ và biết đầu phục Đức Chúa Trời như khi ông phải rời Giê-ru-sa-lem và trốn trong đồng vắng.
Khúc Kinh Thánh nầy giới thiệu với chúng ta 3 vị vua.
20. Áp-sa-lôm - vua giả mạo của Y-sơ-ra-ên (ISu 19:1-9) (IISa 15:1-12)
Nếu người nào được trang bị để trở thành kẻ mị dân và dẫn dắt dân sự đi lầm đường lạc lối, thì người đó chính là Áp-sa-lôm. Ông ta là người có ngoại hình đẹp đẽ, sự quyến rũ của ông khó ai kháng cự nổi (IISa 14:25-26), và ông thừa hưởng hai dòng máu hoàng tộc, từ cả cha và mẹ. Tính xấu của ông không quan trọng đối với hầu hết dân sự, là những người, giống con chiên, chỉ biết theo ai nói những điều họ thích nghe là cho cho họ những gì họ thích nhận.
Một chủ bút, H. L. Mencken định nghĩa “kẻ mị dân” cực đoan hơn, nhưng ông bỏ qua điểm nầy, “Người giảng một học thuyết mà ông ta biết là không đúng cho những người mà ông ta biết là ngu dại”.
Một tiểu thuyết gia, James Fenimore Cooper, trình bày nó chính xác hơn: “Người đề cao những mối quan tâm của mình bằng cách tác động đến sự hết lòng của người khác đối với những mối quan tâm đó”.
Áp-sa-lôm không chỉ là một kẻ giỏi nói dối, mà còn là một người bền chí; ông ta biết chờ đúng thời cơ để hành động. Ông đã đợi 2 năm để giết chết Am-nôn (IISa 13:23), giờ đây ông chờ thêm 4 năm nữa để trước khi công phản nghịch cha và chiếm lấy ngai vàng (c.7). Khi bạn đọc bài thi-thiên mà Đa-vít viết trong cảnh lưu lạc, bạn sẽ biết trong thời điểm đó vua Đa-vít đang bệnh và không thể giải quyết việc triều chính, vì vậy Áp-sa-lôm đã có cơ hội xen vào và lật đổ.
Với tài năng của mình, vị hoàng tử tự cao tự đại nầy đã tận dùng mọi phương tiện trong tầm tay mình để mê hoặc dân chúng và có được sự ủng hộ của họ. Đa-vít đã chiếm được lòng dân nhờ sự hy sinh và phục vụ của mình, nhưng Áp-sa-lôm thu phục được lòng dân bằng phương cách dễ dàng hơn, hiện đại hơn bằng cách xây dựng chính mình thành một hình tượng mà dân sự không thể kháng cự. Đa-vít là một anh hùng; Áp-sa-lôm chỉ là một người nổi danh. Thật đánh tiếc, nhiều người đã quen thuộc với vua của mình và bây giờ lại lợi dụng vua.
Chiến dịch của Áp-sa-lôm bắt đầu ngay sau khi ông giảng hòa với cha, vì lúc nầy ông được tự do đi bất cứ nơi nào. Việc đầu tiên của ông là cỡi xe ngựa và 50 người tùy tùng đi khắp nơi để gây sự chú ý. Tiên tri Sa-mu-ên đã báo trước về thái độ nầy của các vua Y-sơ-ra-ên (ISa 8:11), Môi-se đã cảnh cáo việc sắm nhiều ngựa (Phu 17:16).
Đa-vít viết trong Thi 20:7. “Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa, nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi”.
Vì Đa-vít không có mặt luôn luôn với dân sự, Áp-sa-lôm gặp gỡ họ trên đường đi đến cổng thành mỗi sáng sớm khi họ đến thưa kiện. Cổng thành là “tòa án” của các thành phố ngày xưa (Ru 4:1; Sa 23:10; Phuc 22:15; Phuc 25:17), Áp-sa-lôm biết có nhiều người đang bất bình vì tòa án làm việc không hiệu quả. (IISa 19:1-8). Áp-sa-lôm chào những người nầy như những người bạn cũ và hỏi thăm họ nơi sống ở đâu, đang gặp vấn đề là gì. Ông tỏ ra tán thành với những điều họ kiện tụng và nói ra những điều thiên vị cho họ.
Đây là kiểu tâng bốc của kẻ hèn hạ, nhưng dân chúng thích như vậy. Áp-sa-lôm khoác lác rằng ông sẽ quản lý việc triều chính tốt hơn nếu ông được làm quan xét (c.4), đây là cách ông ta phê phán cha mình một cách tinh vi, khi dân sự cúi lạy ông ta, vì ông là hoàng thái tử, ông dang tay ôm họ vào lòng và hôn (c.5).
Điều nầy nhắc chúng ta nhớ cái hôn giả hình của Giu-đa khi ông đến chào Chúa Giê-xu trong vười Ghết-sê-ma-nê (Mat 26:47-50; Mac 14:45).
Chỉ mất 4 năm, Áp-sa-lôm đã lôi kéo được rất nhiều người tận tâm tận lực cho mình ở khắp đất nước. Những người mà Áp-sa-lôm gặp sẽ trở về nhà mình và kể cho bạn bè, người thân nghe rằng họ được tiếp chuyện thân mật với hoàng thái tử, sau khoảng thời gian 4 năm, Áp-sa-lôm đã có được rất nhiều bạn.
Việc ông nhanh chóng tạo được ảnh hưởng đến suy nghĩ và tình cảm của nhiều người cảnh báo cho chúng ta rằng đến một ngày, một lãnh đạo sẽ dấy lên, người ấy sẽ điều khiển mọi suy nghĩ của dân chúng khắp thế giới (Kh 13:3; IITe 2:1-17). Ngay cả dân Y-sơ-ra-ên cũng sẽ bị lừa và ký hiệp ước với vị lãnh đạo nầy, sau đó ông ta sẽ quay lại tìm cách tiêu diệt họ (Da 9:26-27). Chúa Giê-xu đã nói với những lãnh đạo Do-thái trong thời của Ngài, “Ta đã nhân danh Cha ta mà đến, các ngươi không nhận lấy ta. Nếu có kẻ khác lấy danh riêng mình mà đến, thì các ngươi sẽ nhận lấy” (Gi 5:43).
Áp-sa-lôm sống giả dối với anh chị em mình và dân Do-thái trong nhiều năm, khi thời cơ đến, ông dối gạt cả cha mình (c.7-9). Hoàng tử nầy không còn bị giam lõng trong nhà, nên không cần phải xin phép vua cha khi muốn ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng ông lợi dụng điều đó để thực hiện những mục đích riêng.
-Thứ nhất, ông có thể nói với mọi người rằng ông được phép vua cha đi đến Hếp-rôn để làm trọn sự hứa nguyện mà ông đã lập trong thời gian tha hương ở Ghê-ru-sơ.
-Thứ hai, làm nguôi nổi sợ hãi về chuyện giết chết Am-nôn ngay trong bữa tiệc.
-Thứ ba, tạo được lòng tin trong lời mời hai trăm khách trong bộ máy chính quyền của vua cha đến dự tiệc, và họ vui vẻ tham dự.
Khi khách nhìn thấy hai trăm người quyền cao chức trọng nầy, chắc chắn họ rất ấn tượng. Bữa tiệc nầy có liên quan đến việc làm trọn sự hứa nguyện, và vì vậy có hơi hướng của một ngày hội tôn giáo (Phuc 23:21-23), vì các của lễ được dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Có điều gì sai khi tổ chức yến tiệc dâng lên cho Đức Giê-hô-va? Áp-sa-lôm đã lợi dụng danh Đức Giê-hô-va để che lấp tội lỗi của mình.
Kỳ công của Áp-sa-lôm là giành được sự ủng hộ của A-hi-tô-phe, vị cố vấn khôn ngoan nhất của Đa-vít; khi khách khứa nhìn thấy vị cố vấn nầy trong bữa tiệc, họ cảm thấy yên lòng vì mọi việc.Nhưng A-hi-tô-phe không chỉ tham dự bữa tiệc đó thôi, ông còn cấu kết với Áp-sa-lôm nổi dậy chống nghịch vua Đa-vít. Có thể chính A-hi-tô-phe là người đã đạo diễn mọi việc. Xét cho cùng, Đa-vít là người đã xâm hại, Bát-sê-ba, cháu của A-hi-tô-phe và đưa chồng nàng vào chỗ chết. (IISa 23:34; ISu 3:5).
Đây là cơ hội tốt để A-hi-tô-phe trả thù Đa-vít. Tuy nhiên, trong khi ủng hộ Áp-sa-lôm, A-hi-tô-phe đã khước từ Sa-lô-môn, con trai của Bát-sê-ba và Đa-vít, là đứa con mà Đức Chúa Trời chọn làm vua kế vị. Đồng thời, A-hi-tô-phe đang tự dẫn mình vào chỗ chết, giống Giu-đa, vì ông khước từ vua thật và tự vẫn. (IISa 17:23; Thi 41:9; Thi 55:12-14; Mat 26:21-25; Gi 13:18; Cong 1:16) A-hi-tô-phe đã lừa dối Đa-vít, vua mình và phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, là Đấng đã chọn lựa Đa-vít.
Tại sao Áp-sa-lôm quyết định bắt đầu cuộc nổi dậy ở Hếp-rôn? Vì một lý do, nó chính là thủ đô cũ của Giu-đa, có lẽ ở đó nhiều người phẫn nộ vì Đa-vít dời thủ đô đến Giê-ru-sa-lem. Áp-sa-lôm sinh ra tại Hếp-rôn và được xem là có bà con thân thuộc với dân cư ở đó. Đối với dân Do-thái Hếp-rôn là một thành phố rất quan trọng về mặt tôn giáo, nó được giao cho các thầy tế lễ và có liện hệ với Ca-lép (Gios 21:8-16).
Cách Giê-ru-sa-lem 20 dặm về phía tây nam, Hếp-rôn là thành có tường bao quanh và là thành phố lý tưởng cho ai muốn xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và giành lấy ngai vàng. Với hai trăm viên quan của Đa-vít đang “bị giam” đằng sau các bức tường của Hếp-rôn, lật đổ vua Đa-vít là một chuyện rất đơn giản đối với Áp-sa-lôm.
21. Đa-vít - vua thật của Y-sơ-ra-ên (ISu 19:1-9) (IISa 15:13-23)
Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe có những người lính kèn và các sứ giả sẳn sàng đợi lệnh, chỉ cần tín hiệu phát ra, tiếng tung hô “Áp-sa-lôm làm vua tại Hếp-rôn!” sẽ vang dậy khắp nơi. Một sứ giả ẩn danh đã kịp báo với Đa-vít để giúp ông bảo toàn mạng sống. Tuy nhiên sự thơ ơ của Đa-vít có thể chỉ là trước đây, ngay tức khắc, vua xông xáo vào cuộc, vì Đa-vít luôn làm hết sức mình trong cơn khủng hoảng.
• Đa-vít chịu trách nhiệm (c.13-16).
Mệnh lệnh chính thức đầu tiên của Đa-vít là bảo gia đình mình, các quan chức và những lính thân cận rời Giê-ru-sa-lem ngay. Nếu Áp-sa-lôm thu phục được toàn bộ dân sự theo ông ta, thì các kẻ thù từ Giu-đa và các chi phái phía bắc sẽ dễ dàng bao vây Giê-ru-sa-lem và không còn đường trốn thoát. Đa-vít biết rằng Áp-sa-lôm có thể giết Am-nôn thì cũng có thể giết các anh em khác, kể cả Đa-vít, là cha của người, nên mọi người cần phải trốn đi.
Hơn nữa, nếu Áp-sa-lôm tấn công Giê-ru-sa-lem, ông ta sẽ giết các cư dân, như vậy vô cớ mà hàng trăm người vô tội sẽ phải chết. Đa-vít đã liều mạng sống của chính mình và từ bỏ ngai vàng để bảo vệ dân chúng. Những đầy tớ cam kết một lòng trung thành với vua (c.16) và như vậy trở thành những vệ sĩ bên cạnh ông (c.18-22). 10 người vợ lẻ bị bỏ lại để trông coi cung vua sẽ bị Áp-sa-lôm cưỡng đoạt (IISa 16:20-23), một hành động nhằm tuyên bố ông ta đã chiếm được vương quốc của cha mình.
• Đa-vít huy động lực lượng (c.17-22).
Đa-vít và những người theo ông chạy thoát về miền đông bắc, theo hướng ngược với Hếp-rôn tính từ Giê-ru-sa-lem. Khi họ đến ngôi nhà cuối cùng trong vùng ngoại ô Giê-ru-sa-lem, họ dừng lại nghỉ ngơi và Đa-vít hiệu triệu lực lượng của mình. Họ bao gồm những cận vệ riêng của Đa-vít (dân Kê-rê-thít và dân Phê-lê-thít IISa 8:18; IISa 23:22-23) cũng như 600 dân Phi-li-tin từ Gát đã theo Đa-vít và đang được Y-tai chỉ huy (ISa 27:3). Y-tai cam đoan với Đa-vít rằng họ hoàn toàn trung thành với vua. Bằng chúng của lòng trung thành của dân ngoại nầy (c.21) là một trong những lời tuyên xưng đức tin và sự trung thành lớn được tìm thấy trong Kinh Thánh và được xếp ngang với đức tin của Ru-tơ (Ru 1:16) và thầy đội người La-mã (Mat 5:13).
• Đa-vít khóc (c.23).
Từ chìa khóa trong câu nầy là “qua”, được dùng 9 lần. Đa-vít và dân chúng qua khe Xết-rôn (c.23), vào mùa đông khe nước nầy chảy rất mạnh về phía đông Giê-ru-sa-lem và muốn đến được núi Ô-li-ve phải băng qua nó.
Chi tiết nầy nhắc chúng ta về kinh nghiệm của Chúa khi Ngài đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê (Gi 18:1). Trong chính thời khắc đó, Giu-đa, một trong những môn đồ của Ngài, phản Ngài và sắp xếp cho bọn lính bắt Ngài. Dân sự khóc khi vội vàng chạy trốn và vua cũng khóc với họ, dù có thể vì lý do khác hơn (c.23,30).
Chính con trai của vua đã phản bội ông, cùng với những người bạn, vị cố vấn tín cẩn, dân sự dại khờ, họ đã quên ông đã làm rất nhiều việc cho họ và không biết chuyện gì đang xảy ra. Đa-vít có thể đã cầu nguyện như Chúa Giê-xu đã cầu nguyện trên thập tự giá, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu 23:24).
Đa-vít có cảm giác tội lỗi không khi một lần nữa Áp-sa-lôm, con trai ông, đã xem thường ý muốn Đức Chúa Trời và làm lòng ông tan nát? Hai cha con ông đã giảng hòa, nhưng hoàng tử trẻ tuổi ấy không tỏ ra ăn năn vì tội lỗi của mình, cũng không xin cha hay Đức Chúa Trời tha thứ cho.
“Gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi” là điểm gở từ miệng tiên tri của Đức Chúa Trời, và nó đã ứng nghiệm. Con sơ sinh của Bát-sê-ba đã chết, và Am-nôn cũng bị giết. Đa-vít không muốn thêm Áp-sa-lôm phải chết (IISa 18:5), nhưng hoàng tử ấy sẽ chết dưới tay Giô-áp, “giá” thứ ba mà Đa-vít phải trả (IISa 12:6). A-đô-ni-gia cũng sẽ chết vì kế hoạch chiếm ngôi sớm thất bại (IVua 1:1-53), như vậy món nợ sẽ được trả xong.
-Lần thứ hai trong đời Đa-vít phải chạy trốn vào đồng vắng để bảo toàn mạng sống. Khi còn trẻ, ông trốn sự ganh ghét của Sau-lơ, giờ đây ông phải trốn sự độc ác và giả hình của Áp-sa-lôm, con trai mình và A-hi-tô-phe, vị cố vấn của mình. Khi rời Giê-ru-sa-lem, Đa-vít để thành ấy lại trong cuộc tàn sát đẫm máu, nhưng giờ đây ông và gia đình mình đang trong tình cảnh nguy hiểm, và tương lai của đất nước và giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít là gi?
22. Giê-hô-va, Vua tối cao của Y-sơ-ra-ên (ISu 19:1-9) (IISa 15:24-16:14)
Khi bạn đọc những bài thi-thiên của Đa-vít viết về cảnh lưu lạc, bạn không thể không nhận thấy đức tin của Đa-vít nơi Đức Chúa Trời; dù tình hình có khó khăn và rối ren thề nào, ông cũng quyết tin rằng Đức Giê-hô-va vẫn cai trị trên ngôi của Ngài. Dù cho Đa-vít có sa ngã thế nào, ông vẫn biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ luôn giữ giao-ước Ngài và làm trọn lời hứa của Ngài.
Thi-thiên 4 có thể là bài ca mà Đa-vít viết cho Đức Chúa Trời ngay đêm đầu tiên ông xa nhà, Thi-thiên 3 là lời ông cầu nguyện vào sáng hôm sau. Trong Thi-thiên 41 và 55, ông dốc đổ lòng mình với Chúa, Ngài lắng nghe ông và đáp lời cho ông đúng lúc. Thi-thiên 61,62 và 63 cho chúng ta thấy rõ tấm lòng hỗn loạn của Đa-vít khi ông cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt và ban sức. Lưu ý mỗi một bài thi-thiên trên đều kết thúc bằng lời khẳng định đức tin cách mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời. Ngày nay chúng ta có thể có lòng can đảm và đức tin trong những lúc khốn khó khi chúng ta nhận thấy Đức Chúa Trời đã đáp lời cho Đa-vít và đáp ứng những nhu cầu của ông như thế nào.
• Đức Giê-hô-va hiểu rõ đức tin của Đa-vít (IISa 15:24-29).
Xa-đốc và A-bia-tha cùng đảm nhiệm chức tế lễ giúp đem hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem (ISu 15:11), nên họ nghĩ rằng đem hòm giao ước đến cho Đa-vít là việc làm khôn ngoan. Áp-sa-lôm chiếm ngai vàng của cha mình, nhưng các thầy tế lễ không để ông ta có được ngôi của Đức Chúa Trời. Họ gia nhập vào trại của Đa-vít và dắt theo nhiều người Lê-vi theo, và A-bia-tha đã dâng của lễ (c.24) và chắc chắn đã cầu xin Đức Chúa Trời và bảo vệ vua.
Nhưng Đa-vít bảo họ đem hòm giao-ước trở về Giê-ru-sa-lem! Ông không muốn ngôi Đức Chúa Trời bị xem là tấm bùa may mắn như trong thời Hê-li khi sự vinh hiển đã rời bỏ Y-sơ-ra-ên (ISa 4:1-22).
Áp-sa-lôm và người của ông đang cố gắng biến sự vinh hiển của Đa-vít thành ra sự xấu hổ (Thi 4:2), nhưng ân huệ của Đức Chúa Trời ở trên vua và Ngài sẽ phục hồi ngai vàng cho ông. Đa-vít đã nhìn thấy quyền năng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong nơi thánh của Ngài (Thi 63:2), ông sẽ nhìn thấy nó bằng đức tin khi lưu lạc trong đồng vắng.
Nhưng thậm chí khi Đức Chúa Trời khước từ lời cầu xin Đa-vít, vua được chuẩn bị để tiếp nhận ý muốn tối thượng của Đức Giê-hô-va (c.26). Hê-li có nói một câu tương tự (ISa 3:18), nhưng đó là với ý định từ chức, không phải chứng tỏ sự tận tâm. Trong trường hợp của Đa-vít, vua hoàn toàn đầu phục Đức Giê-hô-va và nói: “Nguyện Ngài xử ta theo ý Ngài lấy làm tốt!”
Đức tin không có việc làm là đức tin chết, nên Đa-vít phân công cho hai thầy tế lễ làm tai mắt cho ông tại Giê-ru-sa-lem và báo tất cả tin tức về cho ông, điều đó sẽ giúp ông lên kế hoạch chiến lược cho mình. Con trai của Xa-đốc, A-hi-mát và Giô-na-than, con trai của A-bia-tha sẽ là sứ giả và đem tin tức về cho ông.
Đa-vít là một nhà chiến thuật có ân tứ, khi bạn đọc ISa 19:1-28:25, bạn sẽ phát hiện ra rằng ông có một hệ thống thám tử làm việc có hiệu quả, điều nầy giúp ông biết rõ từng bước đi của Sau-lơ.
Đa-vít sẽ nhất trí với lời khuyên của Oliver Cromwell, “Hãy đặt lòng tin nơi Đức Chúa Trời, hỡi con, và hãy sẳn sàng ứng phó”. Dù Áp-sa-lôm có thể làm gì đối với các quan chức của vua, ông không thể tra tay nơi các thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và người Lê-vi, và họ thực hiện nhiệm vụ mình một cách âm thầm. Khi hai thầy tế lễ và các con trai của họ trở về Giê-ru-sa-lem với hòm giao ước, những người đi theo Áp-sa-lôm phải giải thích hành động của họ khi ủng hộ theo Áp-sa-lôm.
• Đức Giê-hô-va nhìn thấy nước mắt của Đa-vít (IISa 15:30).
“Kinh Thánh được viết trong nước mắt, và với nước mắt nó sẽ sinh ra những điều quý giá nhất của nó,” A.W. Tozer đã nói. Đa-vít là một người mạnh mẽ và can đảm, nhưng ông không ngại khóc trước mặt nhiều người. (người đàn ông cũng thường khóc, kể cả Chúa Giê-xu và Phao-lô). Trong Thi-thiên 6, chúng ta thấy nước mắt của Đa-vít, rất có thể đây là bài thi thiên viết trong thời gian lưu lạc (c.6-8), cũng như trong Thi 30:5; Thi 39:12; Thi 56:8.
“Hỡi kẻ làm ác kia, khá lìa xa ta hết thảy; Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta” (Thi 6:8).
“Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi 51:17).
Đa-vít chắc chắn đã khóc rất nhiều, vì những tội lỗi của ông đã gây nên sự đau buồn và chết chóc trong gia đình ông. Am-nôn bị giết, Ta-ma bị hãm hiếp, giờ đến Áp-sa-lôm con trai của vua đang âm mưu chiến đoạt ngai vàng Y-sơ-ra-ên và cái chết đang chờ ông ta phía trước. Bạn và là vị cố vấn của Đa-vít, A-hi-tô-phe, đã phản bội ông, dân sự là những người Đa-vít đã liều mạng sống mình vì họ, đang xây lưng lại với ông mà đi theo kẻ phản nghịch không bao giờ được Đức Chúa Trời chọn lựa.
Nếu có người đàn ông nào có quyền khóc, thì người đó chính là Đa-vít. Giống như con cái không biết vâng lời bị phát vào mông, con người dễ dàng khóc lóc khi họ đang bị trừng phạt vì tội lỗi mình, và thưòng quên đau khi sự trừng phạt ấy qua đi.
Nhưng nước mắt của Đa-vít sâu xa hơn nhiều. Ông không chỉ quan tâm đến sự an toàn của đứa con phản nghịch của mình mà còn sự an ninh của đất nước mình và tương lai của nhiệm mạng đối với thế gian mà Đức Chúa Trời giao cho dân Y-sơ-ra-ên. Giao-ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít (IISa 7:1-29) đảm bảo với ông rằng ngôi của ông sẽ còn đến đời đời, và điều nầy được ứng nghiệm trong Chúa Cứu Thế; nhưng lời hứa ấy cũng gnụ ý rằng Y-sơ-ra-ên sẽ không bị tiêu diệt vì ngọn đèn của Đa-vít chỉ tạm thời bị lu mờ (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IIVua 21:7; Thi 132:17).
Đức Chúa Trời sẽ thành tín giữ giao-ước Ngài và Đa-vít biết rằng ngai của ông sẽ được giữ vững trong bàn tay của Đức Chúa Trời.
• Đức Giê-hô-va đáp lời cầu xin của Đa-vít (IISa 15:31-37).
Một sứ giả khác đến trại của Đa-vít và báo tin rằng A-hi-tô-phe đã phản bội ông để theo Áp-sa-lôm (c.12), “Đến đỗi người bạn thân tôi, mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi, cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi” (Thi 41:9).
“Vì chẳng kẻ thù nghịch sỉ nhục tôi; bằng vậy, tôi có thể chịu được … Nhưng chính là ngươi, kẻ bình đẳng cùng tôi, bầu bạn tôi, thiết hữu tôi” (Thi 55:11-14). Bạn sẽ làm gì khi người bạn tri kỷ của bạn phản bội bạn? Bạn hãy làm như Đa-vít đã làm bạn hãy cầu nguyện và thờ phượng. “Ôi, Đức Giê-hô-va! Xin làm cho những mưu chước của A-hi-tô-phe ra ngu dại…Đa-vít đã đi đến chót núi, tại nơi người ta thờ lạy Đức Chúa Trời” (c.31).
Và khi Đa-vít nhìn thấy Hu-sai, người nầy là câu trả lời cho lời cầu nguyện của Đa-vít! Hu-sai được gọi là “bạn hữu của Đa-vít” (c.37; ISu 27:33), điều nầy ngụ ý ông ta là bạn và là người cố vấn đặc biệt cho vua. Ông ta là người Ạt-kít, cho thấy ông ta xuất thân từ nhóm người Ca-na-an và như vậy là người Ngoại bang (Sa 10:17; ISu 1:15).
Thành Ạt-kít nằm ờ vùng Sy-ri, cách bắc Đa-mách khoảng hai trăm dặm và cách phía đông biển năm dặm. Những cuộc chinh phục của Đa-vít vượt xa đến miền bắc, một số người ở đó đã bắt đầu thờ phượng Đức Chúa Trời chân thần của Y-sơ-ra-ên và phục vụ vua Y-sơ-ra-ên.
Giống như đã bảo với Xa-đốc, A-bia-tha và hai con trai của họ, Đa-vít cũng bảo như vậy với Hu-sai: ông sai ông ta trở về Giê-ru-sa-lem để “phục sự” Áp-sa-lôm. Cả năm người nầy đang liều mình vì Đức Giê-hô-va và đất nước của mình, nhưng họ xem việc phục vụ vua và giúp vua khôi phục lại ngai vàng là một vinh dự. Tất cả những người được Đa-vít giao cho những nhiệm vụ đặc biệt có thể nói, “Phàm việc gì vua chúa chúng tôi nhứt định, thì các tôi tớ vua sẽ sẵn làm theo” (c.15). Đây nên là câu trả lời của Cơ-đốc nhân ngày nay khi bày tỏ lòng tận hiến của mình đối với Đấng Christ.
Hu-sai đến Giê-ru-sa-lem ngay khi Áp-sa-lôm đến, sự nhiệt liệt chào đón vua mới của dân sự đã giúp cho Hu-sai vào thành mà không bị chú ý, hoặc có lẽ ông đã củng cố thêm vị trí của mình bằng cách nhập vào đoàn người. Dĩ nhiên, sau đó Hu-sai đón tiếp vua và thực hiện tất cả những gì ông có thể để ngăn chặn kế hoạch của vua mới và báo tin về cho Đa-vít. Nếu có một điều gì đó tốt hơn sự nhận được câu trả lời cho lời cầu nguyện, thì đó chính là câu trả lời cho lời cầu nguyện, và Hu-sai chính là câu trả lời cho lời cầu nguyện của Đa-vít. Theo cái nhìn của con người, nếu không có Hu-sai bên cạnh cố vấn cho Áp-sa-lôm, Đa-vít chắc đã bị giết ngoài đồng vắng.
• Đức Giê-hô-va đáp ứng nhu cầu của Đa-vít (ISu 16:1-4).
Khi Đa-vít gặp Hu-sai, đó chính là câu trả lời cho ông, nhưng khi ông gặp Xíp-ba, cuộc gặp gỡ nầy đáp ứng nhu cầu tức thời nhưng sinh ra một vấn đề mà mãi cho đến khi Đa-vít lấy lại ngai vàng mới giải quyết được. Xíp-ba là một trong những người giữ đất cho Sau-lơ, giống như người trông coi Mê-phi-bô-sết, con trai của Giô-na-than (đoạn 9).
Biết rằng Xíp-ba là một người cơ hội với những động cơ không tốt, Đa-vít nghi ngờ sự hiện diện của Xíp-ba, những lễ vật của ông ta và sự vắng mặt của Mê-phi-bô-sết, người được Đa-vít chăm sóc. Xíp-ba đã dẫn theo một đàn lừa cho Đa-vít và gia đình ông sử dụng, cũng như nhiều bánh mì, rượu và trái cây. Những lễ vật nầy rất cần thiết và có giá trị, nhưng Đa-vít quan tâm đến động cơ đằng sau chúng.
Xíp-ba nói dối với vua và cố hết sức làm mất thể diện Mê-phi-bô-sết, người chủ trẻ của mình. Đa-vít đang mệt mõi và bị tổn thương sâu sắc trong lòng, đây không phải là lúc tốt nhất để ông đưa ra những quyết định khôn ngoan. Ông chấp nhận những lời dối gạt của Xíp-ba –sau nầy người lời đó bị nghi ngờ (IISa 19:26-27) và đưa ra quyết định vội vàng đó là ban cho Xíp-ba những của cải mà đúng ra thuộc về Mê-phi-bô-sết.
“Trả lời trước khi nghe, ấy là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm vậy” (Ch 18:13).
Những người lãnh đạo của Đức Chúa Trời phải luôn thận trọng để không đưa ra những quyết định thiếu khôn ngoan dựa vào những thông tin không đầy đủ.
• Đức Giê-hô-va tôn cao sự đầu phục của Đa-vít (IISa 16:5-14).
Qua lời dối trá của Xíp-ba, Sa-tan tấn công Đa-vít như con rắn phỉnh gạt (IICo 11:3; Sa 3:1-7), sau đó qua miệng lưỡi của Si-mê-i, Sa-tan đến như con sư tử cắn xé (IPhi 5:8). Xíp-ba nói dối và Si-mê-i đã ném đá, cả hai cùng gây khó khăn cho Đa-vít. Vua Đa-vít giờ đây đang ở Ba-hu-em thuộc chi phái Bên-gia-min, nơi lực lượng ủng hộ Sau-lơ vẫn còn hùng mạnh.
Si-mê-i ở trên đồi đối ngang Đa-vít và đứng trên chỗ cao hơn Đa-vít, và như vậy ông ta dễ dàng ném đá và hất bụi đất lên Đa-vít và những người theo ông. Đa-vít mệt mõi và chán chường, nhưng ông không bao giờ phẫn nộ trả miếng lại khi ông để cho Si-mê-i tiếp tục công kích mình. A-bi-sai chỉ muốn lên đồi và giết chết người đang công kích vua, nhưng Đa-vít không cho phép. A-bi-sai cũng từng muốn giết Sau-lơ trong trai Y-sơ-ra-ên (ISa 26:6-8). Ông đã giao cho Giô-áp, em trai mình, nhiệm vụ giết Áp-ne (IISa 3:30), nên Đa-vít biết rằng không nên xem nhẹ những lời ông ta nói.
“Ớ người huyết, người gian tà kia! Hãy đi nà, hãy đi nà!”, Si-mê-i la lớn tiếng như vậy, nhưng Đa-vít không trả đủa. Si-mê-i đang đổ lỗi cho Đa-vít về cái chết của Sau-lơ và các con trai Sau-lơ, vì xét cho cùng, khi họ chết, Đa-vít chính thức ở trong đội quân Phi-li-tin. Việc Đa-vít ở cách xa chiến trường vài dặm khi họ ngã xuống dường như không là vấn đề đối với Si-mê-i. Người Bên-gia min nầy có lẽ đã đổ tội cho Đa-vít về cái chết của Ích-bô-sết, là người thừa kế ngai vàng của Sau-lơ, về cái chết của Áp-ne, quan tổng binh của vua, và dĩ nhiên cũng có cái chết của U-ri, người Hê-tít.
“Chính ngươi bị hoạn nạn, bởi vì ngươi là một người huyết” (c.8). Si-mê-i đang vi phạm luật pháp trong khi tuôn ra những lời căm phẫn đối với Đa-vít, vì Xu 22:28 có chép, “Ngươi chớ nên nói lộng ngôn cùng Đức Chúa Trời, cũng đừng rủa sả vua chúa của dân sự ngươi”.
Thái độ của Đa-vít là thái độ đầu phục vì ông chấp nhận lời rủa sả của Si-mê-i như là hình phạt từ tay Đức Chúa Trời. Đa-vít đã tuyên bố rằng ông sẽ chấp nhận mọi hình phạt từ Đức Chúa Trời giáng trên ông (IISa 15:26), và giờ đây ông chứng minh cho lời nói đó.
Khi Đa-vít biết rằng ông là người phạm tôi tà dâm và tội giết người, là một người đáng phải chết, nhưng Đức Chúa Trời đã để ông sống, vậy thì lý do gì ông lại than phiền về những lời rủa sả và hành đông sỉ nhục đó? Và nếu Áp-sa-lôm, con trai của Đa-vít, ra tay giết ông, thì lý do gì người xa la nầy lại bị phạt vì những lời nói phạm đến vua và ném đá vào vua? Đa-vít có đức tin rằng sẽ có một ngày Đức Chúa Trời phán quyết công bình và gìn giữ những người như Áp-sa-lôm và Si-mê-i.
Có lẽ Đa-vít đang nghĩ đến Phuc 32:35 “Sự báo thù sẽ thuộc về ta, phần đối trả sẽ qui về ta” (Ro 14:17-21). Khi Đa-vít khôi phục được ngai vàng, ông đã tha thứ cho Si-mê-i (IISa 19:16-23) sau đó Sa-lô-môn giam lõng ông tại Giê-ru-sa-lem. Khi ngao mạn Si-mê-i bước ra khỏi giới hạn đó, ông đã bị bắt và xử tử (IVua 2:36-46).
Đa-vít và những người theo ông đi qua Bê-hu-rim khoảng 20 dặm đến chỗ cạn của sông Giô-đanh, có lẽ gần Ghinh-ganh hoặc Giê-ri-cô, và họ nghỉ ngơi tại đó. ngay sáng hôm sau họ băng qua sông và đến Ma-ha-na-im (IISa 17:22,24), nơi Gia-cốp sửa soạn gặp lại Ê-sau và vật lộn với Đức Chúa Trời (Sa 32). Có lẽ Đa-vít nhớ sự kiện đó và lấy lại can đảm khi ông nghĩ về đội binh thiên sứ mà Đức Chúa Trời sai đến bảo vệ Gia-cốp.
Sự khốn khổ nầy đã làm được điều gì cho Đa-vít? Nó khiến ông trở nên giống Chúa Cứu Thế Giê-xu hơn! Ông bị dân sự mình khước từ và bị bạn thân mình phản bội. Ông đã làm mọi việc cho dân sự và từ bỏ chính mình để cứu đứa con trai chống nghịch đáng phải chết mất.Giống như Chúa Giê-xu, Đa-vít đã đi qua Xếp-rôn và lên núi Ô-li-ve. Ông đã bị vu oan và bị sỉ nhục, nhưng ông đầu phục ý muốn tối thượng của Đức Chúa Trời. “Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình;” (IPhi 2:23).
Đa-vít đã mất ngai vàng của mình, nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời vẫn ở trên ngôi của Ngài và sẽ giữ lời hứa của Ngài với tôi tớ Ngài. Thành tín với giao ước của Ngài, Đức Giê-hô-va nhớ đến Đa-vít và tất cả những khổ nạn mà ông gánh chịu (Thi 132:1), và ngày nay Ngài luôn nhớ đến chúng ta.
23. Chiến thắng vui buồn lẫn lộn của Đa-vít (ISu 19:1-9) (IISa 16:15-18:33)
Khi Ngài tổng thư ký Douglass MacArthur đứng trước Quốc hội Mỹ vào ngày 19 tháng 4 năm 1951, ông đã nói một câu rất nổi tiếng, “Trong chiến tranh không có gì thay thế cho chiến thắng”. Nhưng không phải một vị tướng giỏi giữ được đội quân được trang bị là giành được thắng lợi, thật sự không ai chiến thắng trong chiến tranh, tại sao? Vì giá của nó rất đắt. Trong sách của Hitler, Mein Kampt, có nói 125 người chết trong Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Trong cái nhìn về vũ khí hạt nhân trong thời hiện đại, không ai có thể “thắng” trong Chiến Tranh Thế Giới thứ ba.
Đội quân của Đa-vít và đội quân của Áp-sa-lôm sắp sửa vướng vào cuộc nội chiến mà dù cha hay con đều không thể “chiến thắng”, nhưng cả hai đều sẽ thua. Nếu Đa-vít thắng, có nghĩa là con trai và bạn ông, Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe phải chết; nếu Áp-sa-lôm thắng, có nghĩa là Đa-vít và những người khác trong gia đình ông sẽ chết. Trong từ ngữ hiện đại, nó là tình trạng “chiến thắng chua cay” trong từ ngữ cổ, nó là “chiến thắng với giá quá đắt”
Áp-sa-lôm tin vào sức hút của mình, danh tiếng của mình, quân đội của mình và sự khôn ngoan của A-hi-tô-phe, nhưng Đa-vít tin nơi Đức Giê-hô-va. “Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe tiếng kêu của tôi, lắng nghe lời cầu nguyện tôi. Khi tôi cực lòng, tôi sẽ kêu cầu cùng Chúa từ nơi cực địa; Xin hãy dẫn tôi lên hòn đá cao hơn tôi” (Thi 61:1-2)
Đa-vít đã kinh nghiệm được gì quan những ngày khốn khó nầy?
24. Ngôi Đa-vít bị chiếm đoạt (ISu 19:1-9) (IISa 16:15-23)
Phân đoạn nầy là một bài tường thuật, nó bị xen vào ở IISa 15:37 nên chúng ta có thể biết được về sự trốn thoát của Đa-vít và sự chạm mặt giữa ông với Xíp-ba và Si-mê-i. Nhờ sự trốn thoát mau lẹ của Đa-vít, cuộc nổi loạn của Áp-sa-lôm không gây đổ máu và dễ dàng chiếm được Giê-ru-sa-lem, đó là điều Đa-vít muốn (IISa 15:14). Không giống Áp-sa-lôm, Đa-vít có tấm lòng của người một chăn, ông nghĩ đến lợi ích của dân sự trước hết (IISa 24:17; Thi 78:70-72).
• Hu-sai chiếm được lòng tin của Áp-sa-lôm (c.16-19).
Hu-sai nhanh chóng có chân trong bộ máy chính quyền và chính thức được diện kiến vị vua mới. Ông ta không muốn Áp-sa-lôm nghĩ mình là một thám tử, dù ông đúng là như vậy. Ông là người của Đức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem để vô hiệu hóa lời khuyên của A-hi-tô-phe. Chắc chắn Áp-sa-lôm không ngạc nhiên khi thấy vị cố vấn của cha mình ở Giê-ru-sa-lem, nhưng lời chào mai mỉa của ông không làm Hu-sai buồn lòng. Những lời Hu-sai nói với Áp-sa-lôm phải được suy gẫm thật cẩn thận nếu không chúng sẽ gây hiểu lầm.
Hu-sai chào Áp-sa-lôm với thái độ kính trọng thường thấy, “Vua vạn tuế! Vua vạn tuế!”, nhưng ông ta không nói “vua Áp-sa-lôm” Trong lòng ông ta, ông ta muốn ám chỉ vua Đa-vít, nhưng vị vua mới không hiểu những gì Hu-sai nói. Trong sự kiêu căng của mình, Áp-sa-lôm nghĩ Hu-sai đang gọi ông là vua. Một lần nữa, chúng ta thấy Hu-sai không đề cập tên của Áp-sa-lôm hay nói rằng ông ta sẽ phục sự vua mới.
Trong câu 18, Hu-sai đang nói về Đa-vít, vì Đức Giê-hô-va không bao giờ chọn Áp-sa-lôm làm vua Y-sơ-ra-ên; và Hu-sai không hứa phục sự Áp-sa-lôm, nhưng phục sự con trai Đa-vít. Nói cách khác, Hu-sai đang ra mắt Áp-sa-lôm, nhưng ông sẽ phục sự Đức Giê-hô-va và Đa-vít. Một Áp-sa-lôm kiêu ngạo hiểu rằng lời của Hu-sai ám chỉ đến ông ta, và nhận Hu-sai làm người cố vấn thứ hai của mình. Quyết định nầy thuộc về Đức Chúa Trời và mở đường cho sự thất bại của Áp-sa-lôm.
• Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe (c.20-23).
Áp-sa-lôm có hai nhiệm vụ quan trọng để thực hiện trước khi ông có thể cai trị vương quốc Y-sơ-ra-ên. Thứ nhất, ông phải chiếm được ngai vàng của cha và cho mọi người biết ông chính thức là vua. Không giống Đa-vít cha mình, là người thường tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời qua U-rim và Thu-mim hay quan tiên tri, Áp-sa-lôm tin vào kinh nghiệm và sự khôn ngoan của con người và theo quan điểm của con người, A-hi-to-phe là một trong số những người giỏi nhất. Tuy nhiên, A-hi-to-phe không tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời ông cũng không thích ý muốn Đức Chúa Trời. Mục đích chính của ông là trả thù Đa-vít vì có tội với Bát-sê-ba, cháu gái của ông, và U-ri người Hê-tít, chồng nàng.
Theo thông lệ, vua mới sẽ thừa hưởng những người vợ và hậu cung của vua tiềm nhiệm, nên khi Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe, ông đã xưng mình là vua Y-sơ-ra-ên (IISa 3:7; IISa 12:8; IVua 2:22). Qua việc lấy những vợ lẻ của cha, Áp-sa-lôm đã làm mình trở thành kẻ thù của cha và cắt đứt mọi nhịp cầu giải hòa có thể có. Vị vua mới nói với những người theo mình rằng sẽ không có con đường quay đầu lại và cuộc cách mạng sẽ tiếp tục. Nhưng ông ta cố ý làm nhiều hơn điều đó: ông làm ứng nghiệm lời của tiên tri Na-than, đó là những người vợ của Đa-vít sẽ bị sỉ nhục nơi công khai (IISa 12:11-12). Đa-vít đi dạo trên nóc cung điện thì nổi lòng ham muốn Bát-sê-ba (IISa 11:2-4), và đó cũng là nơi những người vợ của Đa-vít sẽ chịu sỉ nhục.
25. Lời cầu xin của Đa-vít được nhậm (ISu 19:1-9) (IISa 17:1-28)
Đạt được mục đích thứ nhất của mình và tiếp quản vương triều, Áp-sa-lôm phải giải quyết đến vấn đề thứ hai và đảm bảo rằng Đa-vít và những người theo ông không quay về và lấy lại ngai vàng. Giải pháp nầy đơn giản nhưng quyết liệt: ông phải tìm và giết cha mình. Để tìm sự hướng dẫn, Áp-sa-lôm đã quay sang nhờ những người cố vấn giúp đỡ.
• Lời khuyên của Hu-sai chiếm ưu thế (c.1-14).
Thành thật mà nói, nếu Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe, Đa-vít sẽ bị giết và vấn đề của Áp-sa-lôm được giải quyết. Nhưng Đa-vít đã cầu nguyện xin Chúa khiến cho lời khuyên trở nên ngu ngốc (IISa 15:31), Đức Chúa Trời dùng Hu-sai để làm việc đó. Lưu ý rằng A-hi-tô-phe đặt chính mình ở phía trước và ngay trung tâm bằng cách dùng những cụm từ như, “Xin cho phép tôi chọn mười hai … Tôi sẽ kéo ra đuổi … Tôi sẽ xông vào …” v...v. Ông ta muốn làm quan tổng binh của đội quân vì ông muốn đích thân giết chết vua Đa-vít, kẻ thù mình.
Kế hoạch của ông ta là một kế hoạch tốt: dùng một đội quân nhỏ, có thể di chuyển nhanh, đột ngột tấn công vào ban đêm, và giết chết Đa-vít là mục tiêu lớn của ông ta. Sau đó A-hi-tô-phe sẽ dẫn những người theo Đa-vít trở về và họ sẽ thề trung thành với vị vua mới. Đó sẽ là một chiến thắng nhanh chóng và không phải đổ nhiều máu.
Hu-sai không có mặt lúc A-hi-tô-phe vạch ra kế hoạch của ông ta, nên Áp-sa-lôm gọi Hu-sai đến và nói cho ông biết những gì A-hi-tô-phe đã nói. Được sự hướng dẫn từ Đức Chúa Trời, Hu-sai đưa ra giải pháp hoàn toàn khác và đánh vào cái tôi của vị vua trẻ. Lời của Hu-sai không có hàng loạt nhưng từ “tôi sẽ…” tập trung vào bản thân mình nhưng với hàng loạt những câu tập trung vào vị vua mới nhằm kích động trí tưởng tượng của vua và thổi phồng cái tôi của vua. Hu-sai đã giăng một cái bẫy hiệu quả bằng môi miệng mình, và Áp-sa-lôm đã rơi vào đó.
-Thứ nhất, Hu-sai giải thích tại sao “lần nầy” lời khuyên của A-hi-tô-phe không khôn ngoan, mặc dù nó là khôn ngoan trong những lúc khác (c.7-10). Khi chỉ tập trung vào việc giết Đa-vít, Áp-sa-lôm biết rằng cha mình là một nhà chiến thuật vĩ đại và là một chiến binh tài giỏi, bên cạnh ông là những binh lính dày dạn kinh nghiệm và can đảm.
Tất cả những người đó đang rất phẫn nộ vì phải bỏ nhà cửa mình mà chạy trốn. Họ giống như con gấu cái mất con. (Hu-sai là chuyên gia về cách nói ẩn dụ!). Hơn nữa, Đa-vít rất thông minh, ông ta sẽ ẩn mình nơi an toàn nên không thể bị mắc bẫy. Những người của ông sẽ bảo vệ ông và phục kích giết chết những ai dám đến gần.
-Đội quân của Đa-vít rất có kinh nghiệm trận mạc nên không hề bị bất ngờ trước những cuộc tấn công đột ngột. Một cuộc tấn công bất ngờ với lực lượng nhỏ sẽ không là kế hoạch tốt. Nếu đội quân xâm lược bị đẩy lùi, lời đồn sẽ lan ra rằng đội quân của Áp-sa-lôm đã thất bại, và tất cả lính của ông đã bỏ trốn. Áp-sa-lôm rồi sẽ kết thúc triều đại của mình trong cảnh rối loạn hàng ngũ.
Và Hu-sai vạch ra kế hoạch nhằm giải quyết những khó khăn đó.
-Thứ nhất, vị vua mới phải đích thân lãnh đạo đội quân, đó phải là đội quân lớn nhất mà ông ta có thể triệu tập được “từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba”. Đề xuất nầy hấp hẫn cái tôi bị thổi phồng của Áp-sa-lôm, và trong sự tưởng tượng của mình ông ta có thể nhìn thấy chính mình đang dẫn đầu một đội quân đại thắng. Dĩ nhiên, ông ta không phải là một chiến binh dày dạn, nhưng điều đó có ảnh hưởng gì? Thật đây là cách tốt nhất để mở đầu thời trị vì! Áp-sa-lôm không dừng lại để nghĩ đến việc ông phải thời gian để tập trung lực lượng “từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba”, trong lúc đó Đa-vít có thể vượt qua sông Giô-đanh và “thoát đi”.
Với một đội quân lớn như vậy dưới sự lãnh đạo của mình, Áp-sa-lôm không phải dựa vào sự tấn công bất ngờ và khó khăn nhưng có thể “đáp trên” quân của Đa-vít trong một vùng rộng lớn, như sương sớm sa xuống đất. Quân Đa-vít chạy đến đâu đều gặp phải quân của Áp-sa-lôm và sẽ không còn đường trốn thoát. Thay vì giữ lại lính của Đa-vít, quân của Áp-sa-lôm sẽ xóa sổ họ để họ không thể gây phiền nhiễu được nữa. Nhận thấy Áp-sa-lôm lo lắng về yếu tố thời gian, Hu-sai trình bày ý kiến phản đối của mình trong câu 13.
Nếu trong thời gian chờ đợi tập trung lực lượng mà nghe tin Đa-vít đã dẫn quân của ông vào thành có tường bao quanh thì nhiệm vụ sẽ càng dễ dàng hơn. Cả đất nước sẽ nghe theo lời của vua mới và hợp cùng nhau bao vây thành đó, giết sạch không chừa một ai. Thật là một minh họa hùng hồn!
Kế hoạch đơn giản của A-hi-tô-phe đã bị quên lãng, khi kế hoạch lớn của Hu-sai, được nhấn mạnh với những hình ảnh sống động, lôi cuốn được trái tim và tâm trí của Áp-sa-lôm và những người lãnh đạo trong triều. Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu xin của Đa-vít và khước từ lời khuyên của A-hi-tô-phe. Áp-sa-lôm sẽ cầm đầu đội quân, mê mãi với chiến thắng, nhưng ông ta sẽ thất bại nhục nhã.
“Đức Giê-hô-va làm bại mưu các nước, khiến những tư tưởng các dân tộc ra hư không. Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời, ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi 33:10-11).
• Bộ máy dọ thám của Đa-vít đã hoạt động (c.15-22).
Đa-vít và những người theo ông đóng tại những chỗ cạn của sông Giô-đanh, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 20 dặm, hai người báo tin đang chờ sẳn tại Ên-rô-ghên trong trũng Xếp-rôn, cách Giê-ru-sa-lem chưa đến 1 dặm.
Hu-sai đưa tin cho hai thầy tế lễ nầy và bảo họ nói với Đa-vít hãy vượt qua sông Giô-đanh càng sớm càng tốt. Ông đã không trì hoãn. Nếu Áp-sa-lôm thay đổi ý kiến và nghe theo kế hoạch của A-hi-tô-phe, thì tất cả đã có thể thoát được hết. Xa-đốc và A-bia-tha nói với một đầy tớ gái khuyết danh; cô ta đem tin về cho Giô-na-than và A-hi-mát, họ chạy vội về nhà của một người ở Ba-hu-rim cách đó 1 dặm đường. Tuy nhiên, một người trai trẻ đã nhìn thấy họ và nhận ra họ là các con trai của các thầy tế lễ. Muốn gây ấn tượng cho vị vua mới, anh ta đã kể cho Áp-sa-lôm nghe những chuyện đang xảy ra, và lính của Áp-sa-lôm đã đuổi theo hai người ấy.
Trong thời điểm nầy, tình tiết giống như trong câu chuyện về hai thám tử được chép trong Giô-suê 2.
Ra-háp đã giấu hai thám tử dưới những nhánh cây khô trên mái nhà. Vợ của một người Ba-hu-rim đã giấu hai người báo tin nầy dưới cái giếng, rồi trải mền lên miệng giếng và phơi lúa mạch trên đó.
Không ai ép buộc người phụ nữ ấy hợp tác với kế hoạch gian ác của của Áp-sa-lôm, cô ta chỉ quân lính đi sai đường và hai người được thoát nạn. Hai người đến trại của Đa-vít, báo tin cho ông và giục ông vượt qua sông Giô-đanh ngay, và Đa-vít đã làm theo như vậy. Quân lính trở về với hai bàn tay trắng, nhưng Áp-sa-lôm không xem thất bại của họ là nghiêm trọng. Ông ta thật sai lầm!
• A-hi-tô-phe kết liễu mạng sống mình (c.23).
Tại sao? Có phải vì Áp-sa-lôm làm tổn thương ông vì không nghe theo lời ông? Không phải vậy, vì ông ta biết rằng lời khuyên của Hu-sai sẽ dẫn đến thất bại cho Áp-sa-lôm, A-hi-tô-phe đang phục sự một vị vua sai lầm. Là kẻ phản bội Đa-vít, A-hi-tô-phe hoặc sẽ bị giết chết hoặc sẽ bị trục xuất khỏi đất nước vĩnh viễn. Thay vì làm bản thân mình và gia đình mình chịu sỉ nhục, ông ta tự sắp xếp số phận của mình và đã tự treo cổ. Tình tiết nầy nhắc chúng ta nhớ đến chuyện của Giu-đa (Mat 27:5) và hai bài thi-thiên của Đa-vít (Thi 41:9; Thi 55:12-15; Gi 13:18). Trong Công 1:15-22, Phi-e-rơ cho rằng có hai bài thi-thiên khác có liên quan đến Giu-đa (Thi 69:25; Thi 109:8).
A-hi-tô-phe là đầy tớ trung thành của vua và đất nước cho đến khi ông ta nuối ý định trả thù Đa-vít vì việc Đa-vít làm với Bát-sê-ba- và U-ri. Mong muốn trả thù ám ảnh ông ta đến nổi ông ta không còn là một đầy tớ trung thành của Đức Chúa Trời mà bắt đầu phục vụ cho những mong muốn tội lỗi của chính mình. Ông ta biết những tham vọng của Áp-sa-lôm nhưng đã giấu Đa-vít, ông ta hợp tác với Áp-sa-lôm ngay trong triều đình. Nhưng bằng sự khôn ngoan của mình, A-hi-tô-phe đang phục sự cho vị vua sai lạc, và Đức Giê-hô-va phải trừng phạt ông ta. Cả A-hi-tô-phe và Áp-sa-lôm điều bị treo trên cây mà chết. Thật bi thảm cho những ai từng là một tấm gương sáng và có đời sống ích lợi nhưng kết thúc cuộc đời trong hổ thẹn. Có những người trẻ tuổi ngu dại cũng có những người già rồi vẫn ngu dại, A-hi-tô-phe là một trong những người đó. Tất cả chúng ta cần cầu nguyện xin Chúa giúp để chúng ta có một kết thúc tốt đẹp cho cuộc đời mình.
• Bạn bè quan tâm đến Đa-vít (c.24-29).
Đa-vít và những người theo ông băng qua sông và đến Ma-ha-na-im, thủ đô cũ của 10 chi phái khi Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ, làm vua (IISa 2:8). Chính tại Ha-ma-na-im Gia-cốp đã gặp đội binh thiên sứ của Đức Chúa Trời được sai đến để bảo vệ ông (Sa 32:1-22), nhưng Đa-vít không có khải tượng nào giống như vậy.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thường dùng những con người để giúp các đầy tớ Ngài, và lần nầy những người đó là Sô-bi, Ma-ki và Bát-xi-lai. Họ cung cấp lương thực cho vua và những người theo vua và biết đây là những người đáng cho họ quan tâm chăm sóc. Đức Chúa Trời dọn bàn cho Đa-vít khi các kẻ thù của ông đang tiến gần (Thi 23:5).
Quân của Áp-sa-lôm chịu dưới sự chỉ huy của A-ma-sa, cháu của Đa-vít và anh em họ của Giô-áp (c.25). Dĩ nhiên, Áp-sa-lôm là người cầm quân chính (IISa 17:11). Thật đánh buồn thay khi con nghịch cùng cha, cậu nghịch cùng cháu, anh em nghịch cùng nhau và dân cùng một nước tranh chiến với nhau.
Chiến tranh đã quá bi thảm, cuộc chiến càng bi thảm hơn. Áp-sa-lôm và quân của ông ta vượt quan sông Giô-đanh, định sẽ chạm trán với quân của Đa-vít ở đâu đó gần khu rừng ờ Ép-ra-im, cách tây bắc Ha-ma-na-im khoảng 3 dặm. Rừng Ép-ra-im có thể được đặt tên bởi những người Ép-ra-im băng qua sông và cư trú ở bờ tây trong vùng Ga-la-át.
26. Con trai Đa-vít bị giết chết (ISu 19:1-9) (IISa 18:1-18)
Biết kẻ thù sắp đến, Đa-vít đếm số quân của mình và chia thành 3 toán, rồi chọn Giô-áp, A-bi-sai và Y-tai làm ba người chỉ huy của ba toán đó. Dù Áp-sa-lôm và A-ma-sa có dùng cách đánh gì đi nữa, lính của Đa-vít cũng có thể theo đúng kế hoạch mà hỗ trợ nhau.Đa-vít đã xung phong ra trận cùng lính của mình, nhưng dân chúng khuyên ông hãy ở nơi an toàn trong thành có tường bao bọc. (IISa 21:15-17, xảy ra đã lâu trước khi Áp-sa-lôm phản nghịch). “Vua bằng một vạn chúng tôi”, dân chúng đạ nói như vậy. Họ biết quân của Áp-sa-lôm sẽ đuổi theo vua và không quan tâm đến quân lính. Nếu Đa-vít ở trong thành, ông có thể gởi quân tiếp viện khi cần. Đa-vít nghe theo quyết định của họ, dù sao ông cũng không muốn trực tiếp đánh nhau với con trai mình.
Nhưng ông cũng không muốn quân lính chiến đấu với con trai ông! Áp-sa-lôm đã đứng trước cổng thành Giê-ru-sa-lem và tấn công cha mình (IISa 15:1-6) giờ đây Đa-vít đứng trước cổng thành và chỉ huy binh lính nhân nhượng cho Áp-sa-lôm. Chắc chắn Áp-sa-lôm không nhân nhượng cha mình!
Ông ta đã giết Am-nôn, đánh đuổi Đa-vít ra khỏi Giê-ru-sa-lem, chiếm ngôi của Đa-vít, cưỡng hiếp vợ lẻ của Đa-vít, và bây giờ đang muốn ra tay giết Đa-vít. Dường như đó không phải là loại người bạn muốn bảo vệ, nhưng nếu Đa-vít có phạm một sai lầm, thì sai lầm đó là ông đã quá nuông chìu con cái (IVua 1:5-6; ISa 3:13).
Nhưng trước khi chúng ta phê phán Đa-vít, chúng ta phải nhớ rằng Đa-vít là người vừa lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy biết ơn vì Cha chúng ta ở trên trời không đối đãi chúng ta theo tội lỗi của chúng ta (Thi 103:1-14). Trong ân điển của Ngài, Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta không đáng nhận được, và trong lòng nhân từ thuơng xót của Ngài, Ngài không giáng trên chúng ta những điều chúng ta đáng phải gánh chịu. Chúa Giê-xu không đáng phải chết, vì Ngài là vô tội; nhưng Ngài đã gánh hình phạt thay cho chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa của chúng ta!
Trận đánh lan tràn khắp vùng và nhiều binh lính đã ngã xuống vì khu rừng dày đặc. Chúng ta không biết mỗi bên có bao nhiêu binh lính ngã xuống, nhưng có thể đến 10 ngàn lính của Áp-sa-lôn tử trận. Cả gươm đao và khu rừng đã ăn tươi nuốt sống quân lính (Phép ẩn dụ nầy đã được sử dụng trong IISa 1:22; IISa 2:26). Nhưng Đức Chúa Trời không cần gươm để ngăn Áp-sa-lôm phản nghịch; Ngài chỉ dùng một nhành cây! Cái đầu tóc của ông ta góp phần gì cho tai nạn ấy không được chép lại, nhưng thật buồn cười là cái mà ông từng tự hào đã trở thành phương tiện giết chết ông. Thật vậy, sự kiêu ngạo dẫn đến sự đoán phạt. Một ví dụ khác là Sam-sôn (Cac 16:1-31). “Ngài bắt kẻ khôn ngoan trong chước móc họ, mưu kế của kẻ quỉ quái bèn bị bại” (Gióp 5:13).
Quân lính nhìn thấy Áp-sa-lôm bị treo trên cây thì không dám chạm vào, nhưng Giô-áp phải thực hiện phần việc của mình. Chính Giô-áp là người sắp xếp cho Đa-vít và Áp-sa-lôm giải hòa và giờ đây Giô-áp bỏ qua lệnh của Đa-vít và giết chết Áp-sa-lôm. Áp-sa-lôm không nghe theo kế hoạch của A-hi-tô-phe là “chỉ giết một mình vua”, nhưng Giô-áp làm theo điều đó!
Có một ý trong câu 11, đó là Giô-áp ra giá thưởng cho ai giết chết Áp-sa-lôm. Người lính không chịu giết Áp-sa-lôm để nhận thưởng vì hai lý do:anh ta không muốn cãi lệnh vua, ông không chắc Giô-áp có bảo vệ anh ta hay không khi vua phát hiện ra việc đó. Xét cho cùng, Đa-vít đã từng giết chết người đã bảo ông giết Sau-lơ (IISa 1:1-16) cũng như đã giết hai người đã giết chết Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ (IISa 4:1), người lính ấy biết rằng Giô-áp không muốn bị vướng vào chuyện ra lệnh giết con trai vua trong khi vua ra lệnh ngược lại. Cái chết của Áp-sa-lôm đặt dấu chấm hết cho cuộc nội chiến và phản loạn, như vậy Giô-áp cho quân mình rút về.
Cả Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe đều chết trên cây, đối với người Y-sơ-ra-ên, treo mình trên cây là bằng chứng cho thấy cái chết đó bị Đức Chúa Trời rủa sả (Phuc 21:22-23; Ga 3:13). Khi bạn xét lại những tội mà hai người nầy đã phạm, thì có ngạc nhiên không khi họ bị Đức Chúa Trời rủa sả? Tuy nhiên trong ân điển Ngài, Đức Chúa Trời đã tha thứ cho Đa-vít với tội trạng tương tự và cho ông được sống. Có lúc, Áp-sa-lôm là người nổi tiếng nhất trong nước, nhưng cuối đời xác ông được chôn trong hố giữa rừng và bên trên là một đống đá lớn. Hình như ba con trai của ông ta đều chết (IISa 14:27), nên không còn ai trong gia đình ông lưu giữ danh ông ta; vì thế ông đã dựng một cái bia để lưu danh của chính mình (c.18). Bia ban đầu không còn nữa, và phần mộ của Áp-sa-lôm, như được gọi, mà chúng ta thấy ngày nay ở trũng Xếp-rôn có từ thời Hê-rốt. “Kỷ niệm người công bình được khen ngợi; song tên kẻ gian ác rục đi” (Ch 10:7).
27. Lòng Đa-vít tan nát (ISu 19:1-9) (IISa 18:19-33)
Chiến tranh qua đi và cuộc phản loạn đã được dập tắt. Tất cả những việc còn lại là của Giô-áp; ông phải khai báo với vua và đem vua về Giê-ru-sa-lem an toàn. Nhưng đây là chiến thắng với buồn vui lẫn lộn của Đa-vít. Khi kẻ thù là chính con trai mình, thì không thể có chiến thắng và cũng không thể ăn mừng chiến thắng.
A-hi-mát là người đưa tin (“người chạy”) nổi tiếng (c.27), ông ta đã tình nguyện chạy báo tin cho vua ở Ma-ha-na-im, đoạn đường dài khoảng 3 dặm. Là một thanh niên đầy lòng nhiệt tình, anh ta không hiều rõ vua đang nói gì; vì Đa-vít có tiếng là người hay trút cơn giận và sự buồn phiền trên người đưa tin (IISa 1:4-16 IISa 4:8-12)!
Dù câu nói “Mọi sự may mắn” của A-hi-mát có thể ngụ ý một tin vui, như thường gặp, nhưng hôm ấy không có một tin vui nào. Giô-áp hiều rõ vua của mình và biết rằng tin về cái chết của Áp-sa-lôm phải được báo với lòng trắc ẩn và sự khéo léo.
Để giữ an toàn cho A-hi-mát, Giô-áp chọn một người chỉ được biết là “Cu-si”, có lẽ là một trong đầy tớ riêng của Giô-áp. Thà một người Ngoại bang bị giết còn hơn là con trai của nột thầy tế lễ Do-thái. Tuy nhiên sau khi Cu-si đi khỏi, A-hi-mát tiếp tục làm phiền Giô-áp và xin phép được đi báo tin. Không có thưởng hau phạt gì cho việc báo tin nầy, vậy sao phải đi? Mệt mõi vì phải nghe lời cầu xin của người thanh niên trẻ ấy, Giô-áp đã cho phép anh ta đi.
A-hi-mát nhắc chúng ta nhớ những người thích quấy rầy, muốn tỏ ra mình quan trọng nhưng không biết phải nói gì.Anh ta đi đường chính, dài hơn dễ đi hơn, đến Ma-ha-na-im băng qua trũng, trong khi Cu-si đi đường tắt, ngắn hơn, hiểm trở hơn. A-hi-mát và Cu-si đều không biết tin chính xác và cũng không biết cách báo tin cho thật khéo léo tế nhị.
Khi Cu-si chạy đi, anh ta suy nghĩ cách nói cho vua biết tin con trai vua đã chết. Chạy còn ý nghĩa gì nếu bạn không biết cách báo tin?
Bối cảnh chuyển sang Ma-ha-na-im, nơi đó Đa-vít đang ngồi nửa trong nửa ngoài cổng thành, và chờ tin từ chiến trường. Dù không chuẩn bị sẽ báo tin thế nào, nhưng A-hi-mát cố gắng chạy về trước Cu-si. Đa-vít nói, “Ấy là một người tử-tế, người chắc đem tin lành” (c.27).
Rõ ràng tính cách của người đưa tin không có liên quan gì đến nội dung của tin tức, nhưng Đa-vít đang cố năm bắt tia hy vọng dù mong manh.
Trước khi đến cổng thành, A-hi-mát quá vội báo tin đến nỗi anh ta la lớn, “Mọi sự may mắn”. Sau đó ông chạy đến quỳ trước mặt vua và báo với vua rằng Giô-áp đã thắng trận. Khi Đa-vít hỏi về Áp-sa-lôm, người đưa tin không chuẩn bị tinh thần để báo tin buồn nầy, nên anh ta cố lãng tránh. Cuối cùng anh ta không nói được điều Đa-vít rất muốn nghe.Anh ta nói đúng nhưng không đủ. Anh ta phải đứng một bên để chờ Cu-si đem đúng tin và đến đúng lúc.
Trong chức vụ của tôi, đôi lúc tôi buộc phải làm người đem tin buồn đến cho người khác. Tôi có thể tập trung cầu nguyện, cân nhắc, và ẩn mình nơi yên tĩnh để nghĩ xem phải nói sao cho giảm nhẹ được nổi buồn cho người nghe. Việc ấy không hề dễ dàng chút nào. Một số người định nghĩa “tài xử trí” là “một năng khiếu nêu rõ vấn đề mà không gây thù địch”, và Cu-si là một người có tài xử trí.
Kinh Thánh chép rằng Đa-vít đã “rất cảm thương” khi biết rằng Áp-sa-lôm đã chết. Chắc chắn ông đã cầu xin cho chuyện tồi tệ nhất ấy không xảy ra, nhưng nó đã xảy ra. Trong một chiều hướng, Đa-vít đã tự tuyên án cho mình khi nói với Na-than, “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con” (IISa 12:6), vì đây là sự trả giá cuối cùng trong món nợ lớn của Đa-vít. Con sơ sinh chết, Ta-ma bị cưỡng hiếp, Am-nôn bị giết và giờ đến lượt Áp-sa-lôm cũng chết. Một lần nữa Đa-vít đã nếm nổi đau của tội lỗi đã được tha thứ.
Nhưng nước mắt của Đa-vít cho thấy trái tim của một người cha thương con đang tan nát. Nói về nổi đau buồn của Đa-vít, Charles Spurgeon đã nói, “Biết thông cảm nhiều như bạn có thể khôn ngoan hơn là ngồi xét đoán trường hợp mà không bao giờ là của mình.”
Đa-vít khóc khi ông nghe tin về cái chết của Giô-na-than và Sau-lơ (IISa 1:11-12), Áp-ne (IISa 3:32), và Am-nôn (IISa 13:33-36), vậy thì làm sao ông lại không khóc cho cái chết của Áp-sa-lôm con trai yêu dấu của mình?
Một lần nữa chúng ta thấy tấm lòng của Đức Chúa Trời được mặc khải qua tấm lòng của Đa-vít, vì Đấng Christ chết thay cho chúng ta khi chúng ta là những tội nhân và nghịch cùng Đức Chúa Trời (Ro 5:7-10). Đa-vít ước có thể chết thay cho Áp-sa-lôm, nhưng Chúa Giê-xu đã chết thay cho chúng ta rồi!
Vấn đề của Đa-vít không phải ông đau buồn vì con trai mình, vì sự đau buồn là một phản ứng rất con người và nước mắt là một liều thuốc rịt lành nỗi đau. Vấn đề của ông là ông đau buồn quá mức và không để mình được an ủi. Phản ứng của ông không bình thường. Ông bỏ bê chính mình và trách nhiệm của mình và phải bị Giô-áp trách cứ trước khi quay bước vể Giê-ru-sa-lem và giải cứu đất nước. Những rắc rối của ông đã qua đi, nhưng Đức Giê-hô-va thêm sức cho ông để trở thành một nhà lãnh đạo mà Ngài muốn ông trở thành.
Đức Giê-hô-va có thể chữa lành tấm lòng tan vỡ, nếu chúng ta giao phó cho Ngài và bởi đức tin vâng phục Ngài.
28. Đa-vít trở về và những vấn đề được đổi mới (ISu 19:1-29) (IISa 19:1-40)
Chủ đề được lập đi lập lại trong đoạn nầy là việc “đem vua trở về” (c.10,11,13,15,41). Đa-vít đã băng quan sông Giô-đanh đến ma-ha-na-im, nhưng ông vẫn thuộc về Giê-ru-sa-lem.
Tất cả các chi phái, kể cả chi phái Giu-đa của Đa-vít, đã góp phần trong sự phản nghịch của Áp-sa-lôm ở chừng mực nào đó; bây giờ là lúc họ trở về. Những năm tháng chiến tranh đã khiến cho Y-sơ-ra-ên mâu thuẩn nhau sâu sắc, và rất cần sự hiệp một và lòng trung thành. Đoạn nầy mô tả quá trình xây dựng đất nước qua 5 bước mà Đa-vít đã thực hiện.
29. Đa-vít tập trung vào viễn cảnh của mình (ISu 19:1-29) (IISa 19:1-8)
Một mục sư người Scốt-len, Andrew Bonar (1810-1892) thường nói, “Chúng ta phải cảnh giác sau thắng lợi cũng giống như trước khi bước vào trận chiến”. Có thể thắng trận nhưng không chiến thắng, điều nầy xảy ra với Đa-vít sau khi Giô-áp đánh bại Áp-sa-lôm và đội quân của ông ta. Ngày lẽ ra là ngày mừng chiến thắng đối với đội quân của Đa-vít lại trở thành ngày buồn bã, ngượng ngùng và xấu hổ; dân chúng lặng lẽ trở về thành như thể họ chịu nhục nhã vì thất trận. Họ đã liều mạng sống mình cho vua và đất nước, bây giờ bị đối xử như những tội phạm!
Rất có thể Đa-vít không nhạy cảm với những hy sinh mà quân lính của ông dành cho ông (IISa 23:13-17 ISa 30:21-30), nhưng hôm đo Đa-vít quá ám ảnh với cái chết của Áp-sa-lôm đến nỗi ông không còn nghĩ đến điều gì khác. Qua việc lánh mặt mọi người, Đa-vít đã biến chiến thắng về quân sự trở thành thất bại về mặt tình cảm. Đa-vít không chỉ là một chiến binh vĩ đại mà còn là một nhà thơ, một nhạc sĩ, là người có cảm xúc mạnh mẽ; có thể đi từ vực sâu của tuyệt vọng rồi lên đến đỉnh vinh quang trong khi làm thơ.
Đa-vít đã trải qua thời gian đau khổ sau cái chết của Am-nôn (IISa 13:37-39), và cái chết của con trai Áp-sa-lôm, ông yêu thương nhất, khiến ông không thể nguội được nổi buồn. Thái độ của Đa-vít làm những người theo ông bối rối, vì họ luôn xem Áp-sa-lôm là kẻ nói dối, giết người, phản bội và phiến loạn.
Chắc chắn chúng ta mong muốn người cha phải đau buồn trước cái chết bi thảm của đứa con và tha thứ cho những lỗi lầm và tội lỗi của con. Nhưng người lãnh đạo phải đứng vững, dù lòng họ có tan nát; đó là môt trong những cái giá mà những người lãnh đạo phải trả. Vào ngày 10 thánh 10 năm 1950, Ngài Winston Churchill được giới thiệu trước trường Đại học Copenhagen như một “nhà tạo nên chiến thắng” trong Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Churchill đã trả lời rằng: “Tôi chỉ là một đầy tớ của đất nước tôi và nếu giây phút nào đó, tôi không thể hiện được quyết tâm không nao núng của nó để đánh trận và chinh phục, thì tôi sẽ bị đào thải”. Người cha Đa-vít quên rằng ông cũng là một vua Đa-vít và ông còn có vương miện trên đầu bởi binh lính can đảm của ông đã đặt lợi ích của đất nước lên trên quyền lợi của cá nhân họ.
Lời nói đột ngột và sắc bén của Giô-áp đã kéo Đa-vít trở về thực tại, Đa-vít chổi dậy ngồi ở cửa thành nơi đó những người theo Đa-vít đã đến gặp ông và ở đó Đa-vít biết được sự phục vụ can đảm của họ. Có thể Đa-vít chưa biết chính Giô-áp đã bố trí giết và chôn Áp-sa-lôm, nếu không phản ứng của ông đã khác. Không lâu sau Đa-vít biết được những việc Giô-áp và lính của mình đã làm và điều đó khiến ông sớm đưa A-ma-sa lên làm quan tổng binh của đội quân (c.13 (IVua 2:5).
Một điều thiếu sót trong toàn bộ tình tiết về Áp-sa-lôm là việc Đa-vít tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời khi ông đưa ra quyết định. Khi còn trẻ Đa-vít thường cậy vào U-rim và Thu-mim hoặc xin lời khuyên của tiên tri, nhưng ngoài lời cầu nguyện trong IISa 15:31, chúng ta không thấy Đa-vít cầu xin sự hướng dẫn nào. Dĩ nhiên, trong những bài thi-thiên có chép về những nổi bận tâm và những lời cầu nguyện của ông, nên chúng ta biết Đa-vít đã không dựa vào sức riêng và những người lãnh đạo của mình.
Nhưng chúng ta mong Đa-vít tìm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời khi xử lý Áp-sa-lôm và những vấn đề ông ta gây ra. Khi phải giải quyết các con trai mình, Đa-vít cần sự giúp đỡ nhất, nhưng có lẽ ông không thừa nhận nó. không bao giờ quá trễ cho Đức Chúa Trời hành động.
30. Đa-vít nổ lực vì sự thống nhất đất nước (ISu 19:1-9) (IISa 19:5-15)
Cuối cùng Đa-vít đã về đến Giê-ru-sa-lem, đây là dấu hiệu cho dân chúng thấy được rằng cuộc phản loạn đã kết thúc, vị vua thật của họ đã lấy lại được ngai vàng. Nhưng trên đường về Giê-ru-sa-lem, Đa-vít phải đưa ra nhiều chiếu chỉ quan trong và các sứ giả tín cẩn đã loan truyền cho dân chúng. Chiếu chỉ thứ nhất, Đa-vít muốn đất nước mình là một đất nước thống nhất. Những thành kiến và oán thù trước đây phải bị chôn vùi, dân sự phải một lòng phò tá vua. Trong vòng các chi phái đã có sự chia rẽ nhau, người theo Áp-sa-lôm người theo Đa-vít (c.9-10), và sự chia rẽ giữa 10 chi phái (Y-sơ-ra-ên) và Giu-đa vẫn còn tồn tại.
• Đa-vít bắt đầu với Giu-đa (c.11-12).
Những lãnh đạo từ 12 chi phái nên đồng lòng có lời mời chính thức để Đa-vít trở về và tiếp tục cai trị đất nước, nhưng những cuộc tranh cãi giữa các đảng phái và những xung đột giữa các chi phái đang gây lộn xộn cho đất nước. Đa-vít biết rằng nếu còn chần chờ vấn đề càn thên rắc rối, nên ông đã bắt tay ngay vào việc. Xét cho cùng ông là vua được Đức Chúa Trời xức dầu (c.22) và không cần trưng cầu ý dân trước khi dựng dậy vương triều đã ngã.
• Giu-đa là chi phái nhà vua (Sa 49:10),
Đa-vít xuất thân từ chi phái nầy, kinh đô của ông tại Giu-đa và chính các trưởng lão ở Giu-đa là những người đầu tiên lập Đa-vít lên làm vua (IISa 2:1-4), nên trước hết ông cần đến sự trợ giúp của các trưởng lão ở Giu-đa là điều hợp lý.
Với hai thầy tế lễ của mình làm trung gian, Đa-vít nói với các trưởng lão Giu-đa rằng dân Y-sơ-ra-ên ở các chi phái khác đang nói về sự trở laị Giê-ru-sa-lem của vua, nhưng vua không nghe lời nào từ chi phái của chính mình, các lãnh đạo Giu-đa phải hợp tác với vua, nên đây phải là lúc họ bày tỏ lòng trung thành đối với Đa-vít, vua hợp pháp của họ. Có thể tất cả những lãnh đạo ở các chi phái từng ngu muội đi theo Áp-sa-lôm đang phân vân không biết Đa-vít sẽ làm gì họ một khi đã lấy lại được ngai vàng.
• Đa-vít chọn A-ma-sa làm quan tổng binh (c.13-14).
Tin tức về sự chọn lựa nầy có lẽ làm những người lãnh đạo trong nước ngạc nhiên lắm và đã cất đi gánh nặng của họ, vậy là Đa-vít tha thứ cho tất cả những quan quân từng đi theo Áp-sa-lôm. A-ma-sa từng là quan tổng binh của Áp-sa-lôm được giao nhiệm vụ rượt đuổi và tìm giết Đa-vít, nhưng bây giờ Đa-vít đã chọn ông ta (cháu của Áp-sa-lôm và anh em họ của Giô-áp) làm người lãnh đạo cho đội quân lớn mạnh của mình.
Nhưng tại sao không chọn Giô-áp? Vì lý do thứ nhất, Đa-vít biết được chính Giô-áp đã bất tuân lệnh vua mà giết chết Áp-sa-lôm. Dù Áp-sa-lôm là kẻ đáng chết, nhưng phải bị bắt sống và dẫn ông ta về cho Đa-vít xử tội; và Giô-áp không có quyền trái lệnh vua và tự xử lý như một đao phủ. Nếu Giô-áp làm được điều nầy với con vua, thì ông còn có thể là điều gì khác với chính vua? Điều đó kéo theo lý do thứ hai: Giô-áp dần dần làm cho quyền hạn của mình tăng lên vì Đa-vít được khuyên không nên đích thân ra đánh trận (IISa 21:15-17).
Ở Phương Đông ngày xưa, vua là người cầm quân chính của đội quân mình, và bất kỳ người nào giữ vĩ trí nầy, dù với bất cứ lý do gì, đều là người có quyền và được kính trọng. Chính Giô-áp đã bảo Đa-vít đến Ráp-ba để thực hiện cuộc chinh phục cuối cùng; nếu không Giô-áp sẽ chiếm thành đó và lấy tên mình đặt cho nó! trong thời gian đánh trận ở rừng Ép-ra-im Giô-áp có ít nhất 10 người vác binh khí theo mình (IISa 18:15)! Giô-áp có tiếng là người thích trừ khử bất kỳ người nào đe dọa đến quyền hạn của mình.
Ông ta và em trai A-bi-sai đã giết Áp-ne, quan tổng binh của Sau-lơ (IISa 3:2); trước khi câu chuyện kết thúc, Giô-áp sẽ giết chết A-ma-sa (IISa 20:4-13).
Giô-áp và các em trai mình, dù là những chiến binh có năng lực, đã gây đau khổ cho Đa-vít ngay những ngày đầu lên ngôi (IISa 3:39; IISa 16:10; IISa 19:22). Dĩ nhiên, Giô-áp biết tất cả về vụ giết hại U-ri (IISa 11:14), và có lẽ thông tin đó đã làm tăng sức mạnh cho ông. Khi ông giết Áp-sa-lôm, Giô-áp đã đi quá xa, Đa-vít thấy đây là cơ hội để loại bỏ quan tổng binh tham quyền nầy và đưa A-ma-sa, người lãnh đạo đội quân phản nghịch, lên thay vị trí đó, Đa-vít đã hợp nhất hai đội quân và tuyên bố ân xá cho tất cả những binh lính phiến loạn, và đem lại cho đất nước một sự khởi đầu mới.
Khi các chi phái khác tranh cãi và trì hoãn, dân sự trong chi phái Giu-đa một lòng ủng hộ Đa-vít, họ chính thức mời Đa-vít trở về. Đa-vít đi xuống Giô-đanh, gần Ginh-ganh, dân Giu-đa đón tiếp người ở đó. Ginh-ganh cách Giê-ru-sa-lem không đến 20 dặm và là thành phố quan trọng trong lịch sử Do-thái. Ở đó, những người nam thuộc thề hệ mới đã bước vào giao-ước với Đức Giê-hô-va và chịu cắt bì (Gios 3:1-5:15), chính tại Ghinh-ganh, Sa-mu-ên đã phục hồi giao-ước khi Sau-lơ lên làm vua (ISa 11:14-15).
Kinh Thánh không nhắc đến, nhưng có lẽ Đa-vít cũng đã tái lập giao-ước tại Ghinh-ganh và cam đoan với dân sự rằng Đức Giê-hô-va vẫn trên ngôi của Ngài và Lời Ngài vẫn còn có hiệu lực. Có lẽ đây chính là lúc vua lập lại lời hứa nguyện. Vì suốt phần còn lại của sách nầy chúng ta sẽ thấy Đa-vít không buông lơi nhiệm vụ.
31. Đa-vít ban lệnh ân xá (ISu 19:1-9) (IISa 19:16-13)
Không chỉ những người Giu-đa tại Giô-đanh tiếp đón Đa-vít, mà “Si-mê-i người Bên-gia-min, kẻ thù ông, cũng ở đó với hàng ngàn người từ chi phái của ông“ (IISa 16:5-14). Xíp-ba, người giữ đất cho Mê-phi-bô-sết (IISa 9:1-10) cũng có mặt trong đám đông cùng với 15 con trai và 20 đầy tớ của ông ta, họ vượt qua sông để đón Đa-vít và hộ tống ông về bờ bên đây.
Có người cho bè qua lại để đón vua và người nhà của vua qua sông Giô-đanh. Khi Đa-vít đến được bờ tây của sông, Si-mê-i phủ phục và xin ông tha thứ.
Chắc chắn Si-mê-i đáng phải chết vì cách ông đối đãi với vua (Xu 22:28), A-bi-sai đang sẳn sàng ra tay, nhưng Đa-vít ngăn cháu mình như đã làm trước đây (IISa 16:9). Lần đầy tiên Đa-vít ngăn A-bi-sai, lý do của ông là Đức Giê-hô-va đã bảo Si-mê-i rủa sả vua, nên Đa-vít xem lời sỉ nhục của ông ta như đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng lần nầy lý do của ông là tha cho Si-me-i vì hôm nay là ngay vui mừng, không phải là ngày báo thù. Nhưng trên hết, qua việc tha thứ cho Si-mê-i, vua Đa-vít muốn ban lệnh ân xá cho tất cả những ai từng ủng hộ Áp-sa-lôm trong cuộc phản nghịch.
Đa-vít đã giữ lời và không sai giết Si-mê-i vì tội của ông ta, nhưng khi Đa-vít sắp qua đời, ông nhắc Sa-lô-môn để mắt đến Si-mê-i (IVua 2:8-9). Sa-lô-môn giam lõng ông ta, không cho ông ta ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng Si-mê-i không không vâng lệnh, ông đã bị bắt và giết chết (IVua 2:36-46).
Si-mê-i có một khuyết điểm là chống lại nhà cầm quyền và xem thường những người mà Đức Chúa Trời chọn lựa (Cac 8:1-35), đó là lý do Đa-vít cảnh giác Sa-lô-môn. Si-mê-i không cảm kích lòng khoan dung của Đa-vít hay ân huệ của Sa-lô-môn, tính độc lập và kiêu ngạo của ông ta cuối cùng đã làm hại chính ông ta.
32. Đa-vít sửa chữa sai lầm (ISu 19:1-9) (IISa 19:24-30)
Mê-phi-bô-sết, hoàng tử tật nguyền, đã được nhận vào nhà Đa-vít và được ăn nơi bàn của vua (IISa 9:1), ân huệ nầy Đa-vít muốn dành để tỏ lòng kính trọng Giô-na-than, cha của Mê-phi-bô-sết và là bạn thân thiết của Đa-vít. Khi Đa-vít làm vua toàn cõi Y-sơ-ra-ên, ông thừa huởng tất cả những gì trước đây thuộc về Sau-lơ, kể cả ruộng đất của ông ta, miếng đất mà Đa-vít cho lại Mê-phi-bô-sết để ông và gia đình ông sinh sống.
Đa-vít ra lệnh cho Xíp-ba chăm lo ruộng đất của Mê-phi-bô-sết và nghe theo lệnh của Mê-phi-bô-sết, và ông ta đã hứa làm theo. Nhưng khi Đa-vít trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, Xíp-ba đã bỏ chủ mình mà chạy theo giúp Đa-vít và binh lính của Đa-vít. Trong thời gian đó, Đa-vít đã có một quyết định vội vàng và giao tất cả ruộng đất đó cho Xíp-ba (IISa 16:1-4). Xíp-ba cũng đã giúp Đa-vít qua sông và trở về triều (IISa 19:17).
Không có Xíp-ba giúp đỡ, Mê-phi-bô-sết khó có thể nào vượt 20 dặm từ Giê-ru-sa-lem đến Giô-đanh, nhưng ông ta đã làm được. Ông biết Xíp-ba đã vu khống rằng ông đang mong chờ cuộc phản loạn thành công và vương miện của Sau-lơ sẽ trở về nhà Sau-lơ. Mê-phi-bô-sết muốn có cơ hội trực tiếp giải bày với Đa-vít, phủ nhận lời vu cáo của Xíp-ba và khẳng định lòng trung thành của mình với vua, ông đã làm được tất cả điều đó. Câu nói lập đi lập lại của ông “Ôi vua chúa tôi” xuất phát từ tấm lòng ông. Mê-phi-bô-sết luôn trung thành với vua.
Khi Đa-vít nghe Me-phi-bô-sết giải bày, ông nhận ra mình đã vội vàng quyết định giao hết đất cho Xíp-ba, nhưng Đa-vít không có thời gian để giải quyết vấn đề nầy. Mê-phi-bô-sết tỏ rõ lòng mình rằng ông không cầu xin vua bất cứ điều gì. Vua đã ban cho ông cuộc sống nầy, ông còn đòi hỏi gì hơn? Câu nói của ông có thể được diễn giải như vầy: “Tôi đã nhận nhiều hơn những gì tôi đáng được nhận, tôi còn cần đến ngai vàng làm gì? Tôi lẽ ra phải chết, nhưng vua không chỉ cho tôi sống mà còn đem tôi vào nhà của vua.”
Câu trả lời của Đa-vít thật khó hiểu. Mới nghe có thể hiểu rằng “Không cần xét lại chuyện nầy làm gì nữa. Đất ấy sẽ được chia đôi cho người và Xíp-ba”. Nhưng có phải Đa-vít là loại người nói hai lời? Làm thế nào để quyết định đó được hàng ngàn người Bên-gia-min có mặt ở đó chậm nhận? Xét cho cùng, làm ơn cho Mê-phi-bô-sết sẽ cũng cố mối quan hệ giữa Đa-vít và chi phái Mên-gia-min (chi phái của Sau-lơ) cũng như với 10 chi phái từng ủng hộ nhà Sau-lơ. Lấy phân nữa cơ nghiệp của Mê-phi-bô-sết thật không hợp với không khí vui mừng và khoan dung hôm đó, nhưng chia đất như vậy cũng chứng tỏ Đa-vít đã tha thứ cho Xíp-ba vì tội nói dối và phản chủ. Giải quyết bằng cách chia đôi đất cho hai người, Đa-vít gỡ được mối rối ấy cách dễ dàng.
Nhưng câu đáp lời của Mê-phi-bô-sết hẳn đã làm Đa-vít ngạc nhiên, “Xíp-ba lấy hết cũng được, bởi vì vua chúa tôi đã trở về nhà mình bình an vô sự” (c.30). Trường hợp nầy nhắc chúng ta nhớ “vụ đứa con chết ngạt” mà Sa-lô-môn xét xử (IVua 3:16-28).
Khi ông quyết định chia đứa trẻ ra làm hai, người mẹ thật của đứa bé đã bảo vệ con mình, và đó là cách Sa-lô-môn xác định ai là mẹ thật. Không giống đứa bé sống động, đất có thể chia đôi mà không tổn hại gì đến nó; nhưng có lẽ Đa-vít muốn thử lòng Mê-phi-bô-sết. Kinh Thánh không cho chúng ta biết, nhưng có lẽ Mê-phi-bô-sết đã nhận lại được tất cả phần đất trước đây của mình. Dù sao, Xíp-ba là người làm việc trên miếng đất đó để chăm lo cho Mê-phi-bô-sết.
33. Đa-vít ban thưởng cho người trung thành (ISu 19:1-9) (IISa 19:31-40).
Bát-xi-lai là một trong ba chủ đất mà Đa-vít gặp khi ông đến Ma-ha-na-im, họ cùng nhau chu cấp vật thực cho Đa-vít và quân lính của ông (IISa 17:27-29). Ông đã trở về nhà mình ở Rô-ghê-lim, khoảng từ 20 đến 25 dặm về phía bắc. Khi ông nghe tin Đa-vít sẽ trở vể Giê-ru-sa-lem, ông đã xuống đến nơi để tiễn. Không giống Si-mê-i, ông không có tội để xin vua tha thứ, cũng không bị hiểu lầm để giải bày như Mê-phi-bô-sết.
Bát-xi-lai không muốn nhận ân huệ nào của vua. Tất cả những gì ông muốn là vui mừng tiễn vua về cung trong sự bình an, và biết rằng chiến tranh đã kết thúc. Hai quảng đường cả đi và về thật quá khó khăn cho cụ già 80 tuổi, nhưng ông muốn dành cho vua điều tốt đẹp nhất.
Đa-vít muốn ban thưởng cho Bát-xi-lai; muốn dẫn ông về cung ở Giê-ru-sa-lem để chăm sóc. Đa-vít không chỉ muốn tỏ lòng biết ơn của mình, nhưng khi có được người quan trọng như vậy ở Giê-ru-sa-lem sẽ thắt chặt thêm tình thân với cư dân ở Trans-Jordan trong thời gian thống nhất đất nước là điều quan trọng nhất. Nhưng Bát-xi-lai từ chối lời đề nghị của Đa-vít vì viện lý do tuổi già. Những người già thường không muốn xa quê hương nguồn cội, họ muốn được chết nơi quê nhà và được chôn chung với những người họ thương yêu. Ở tuổi đó, Bát-xi-lai không còn thích cuộc sống tiện nghi trong cung, ông sẽ chỉ là gánh nặng cho vua, là người có quá nhiều chuyện phải lo lắng.
Tuy nhiên, Bát-xi-lai vui lòng cho con trai ông, Kim-ham, theo vua trở về Giê-ru-sa-lem (IVua 2:7). Điều Bát-xi-lai không cần cho chính mình, ông sẳn sàng dành cho người khác.
Matthew Harry có nói, “Những người già không nên ganh tị với những người trẻ tuổi về những niềm vui mà mình đã trải qua rồi, cũng không nên bắt buộc họ rút lui như mình đã rút lui.” Bát-xi-lai qua sông với Đa-vít và Kim-ham và đi theo một quãng ngắn nữa trước khi nói lời từ biệt, Đa-vít ôm hôn và chúc phước cho Bát-xi-lai, người bạn và người ơn của mình. Trong thời Giê-rê-mi, có một địa điểm có tên là trạm Kim-ham (nơi ở của Kim-ham) gần Bết-lê-hem (Gie 41:17), có thể đây là nơi con trai của Bát-xi-lai đã cư ngụ cùng gia đình mình.
Nhưng những rắc rối của Đa-vít chưa chấm hết, vì mối thù truyền kiếp giữa 10 chi phái (Y-sơ-ra-ên) và Giu-đa lại nổi lên và gây ra một cuộc nội chiến khác. Shakespeare thật đúng khi nói rằng, “Đầu đội vương miện thật không dễ gì yên ổn”.
-1-3; xem giải nghĩa ISu 19:1-9.
5. NHỮNG TRẬN CHIẾN MỚI CỦA ĐA-VÍT (ISu 20:4-8 IISa 19:41-20:26)
Một nhà thơ hài hước, Ogden Nash đã gióng một tiếng chuông khi ông viết rằng: “Con người có thể vượt qua những trở ngại bình thường trong cuộc sống, miễn là đó không phải những trở ngại do chính họ gây ra cho mình”.
Khi chúng ta đọc về cuộc đời sau nầy của Đa-vít, chúng ta có thể thấy chân lý của câu nói này. Tất cả bậc cha mẹ đều gặp phải những vấn đề có thể biết trước được với con cái mình, nhưng tội lỗi của con cái Đa-vít dường như đã lập kỷ lục, đặc biệt những tội lỗi của Áp-sa-lôm. Tất cả những người lãnh đạo thường có vấn đề với những người theo mình, nhưng trong trường hợp của Đa-vít, tranh chiến trong Y-sơ-ra-ên nhiều lần xảy ra giữa các anh em với nhau. Hậu quả của tội lỗi thật sự gây nhiều đau khổ! Những đoạn nầy mô tả 4 cuộc chiến khác nhau mà Đa-vít phải đương đầu sau khi cuộc phản nghịch của Áp-sa-lôm bị dẹp tan.
1. Xung đột giữa các chi phái (ISu 20:4-8) (IISa 19:41-20:4,14-26)
Một cuộc khủng hoảng có thể đem lại điều tốt lành cho người nầy nhưng điều rũi ro cho người khác.
Những đại diện của các chi phái tập trung tại Ghinh-ganh để hộ tống vua về Giê-ru-sa-lem, và thay vì cùng vui mừng trong sự đắc thắng mà Đức Chúa Trời ban cho dân sự Ngài, các chi phái lại đang tranh cạnh với nhau.
“Dân Y-sơ-ra-ên” là dân thuộc 10 chi phái phía bắc, và họ nổi giận với chi phái Giu-đa ở phía nam, việc nầy cũng lôi kéo cả chi phái Si-mê-ôn. Y-sơ-ra-ên nổi giận vì Giu-đa không chờ họ đến hiện trường để hộ tống Đa-vít về Giê-ru-sa-lem. Giu-đa đã “lén đem vua” đi mà đã bỏ quên và làm bẽ mặt 10 chi phái khác.
Giu-đa trả lời răng Đa-vít xuất thân từ chi phái của họ, nên họ phải có trách nhiệm quan tâm đến ông nhiều hơn. Y-sơ-ra-ên lại tranh cãi rằng họ có đến 10 chi phái còn Giu-đa chỉ có 1, như thể vua là một vật bảo đảm trong thị trường chứng khoán. Dường như không ai khuyên các chi phái phải cầu xin Đức Giê-hô-va giúp đỡ và nhớ rằng Ghinh-ganh là nơi Y-sơ-ra-ên đã có một khởi đầu mới trong thời Giô-suê (Gios 3:1-5:15).
Cuộc xung đột giữa Giu-đa và Y-sơ-ra-ên có nguồn gốc sâu xa, giống như những cuộc xung đột chính trị giữa các nước ngày nay. Khi vua Sau-lơ triệu tập đội quân đầu tiên của mình, đã có sự phân chia giữa Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (ISa 11:8), sự chia rẽ nầy tồn tại suốt trong thời trị vì của người (IISa 15:4; IISa 17:52; IISa 18:16). Sau khi Sau-lơ qua đời, 10 chi phái Y-sơ-ra-ên ủng hộ Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ, trong khi Giu-đa ủng hộ Đa-vít (IISa 2:10-11). Dĩ nhiên chi phái Giu-đa đang vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, vì Ngài đã chọn Đa-vít làm vua kế vị của nước Y-sơ-ra-ên. Sự đối địch nầy tồn tại cả trong thời Đa-vít (IISa 11:11; IISa 12:8).
“Một nước mà chia xé nhau thì bị phá hoang; một thành hay là một nhà mà chia xé nhau thì không còn được” (Mat 12:25).
Khi Giê-rô-bô-am lên làm vua kế vị Sa-lô-môn, cha mình, sự rạn nứt càng lớn hơn và đất nước bị chia thành hai nước Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
Tất cả những gì cần để ngọn lửa thù địch ấy bùng phát là lời nói của một người thích trở thành nhà lãnh đạo, và Sê-ba là người lãnh đạo đó. Là người Bên-gia-min, ông có thiện cảm với nhà Sau-lơ, và có thể ông là một quan chức trong đội quân phía bắc. Nếu 10 chi phái ly khai khỏi đất nước, có lẽ ông dẽ trở thành quan tổng binh của quân đội của họ. Sê-ba không tuyên chiến; tất cả những gì ông ta làm là giải tán đội quân và những cư dân xuất thân từ các chi phái phía bắc và bảo họ đừng theo Đa-vít nữa.
Nhưng trong bản chất đó là một lời tuyên chiến, vì Sê-ba đi khắp các chi phái phía bắc để kêu gọi người theo mình (c.14). Rõ ràng không có nhiều người đáp ứng, Sê-ba và những người theo ông kết thúc cuộc đời họ tại thành A-bên, nơi có tường bao quanh.
Giô-áp một lần nữa chỉ huy quân của Đa-vít và đuổi theo Sê-ba đến A-bên, bắt đầu bao vây nó. lần thứ ba trong “câu chuyện về Đa-vít”, người một phụ nữ đã làm thay đổi chiều hướng của sự việc. A-bi-ga-in là người đầu tiên (ISa 25:1-44), người đàn bà ở Thê-cô-a là người thứ hai (IISa 14:1-33).
Một người phụ nữ khôn ngoan dứng trên bờ thành mà gọi Giô-áp và đoan chắc với ông rằng thành của cô không hề liên minh với bất kỳ kẻ phiến loạn nào và vì vậy không đáng bị tấn công. Có lẽ nàng nghĩ đến luật pháp trong Phuc 20:10-16 có quy định rằng trước hết phải giảng hòa trước khi muốn tấn công thành nào. Khi Giô-áp giải thích rằng ông chỉ đuổi theo một mình Sê-ba, nàng thuyết phục dân trong thành giết kẽ phản nghịch để cứu thành của mình. Tuy nhiên, Sê-ba không phải là kẻ giơ đầu chịu báng; là kẻ phản nghịch lại nhà vua nên ông ta đánh phải chết. Sê-ba muốn đứng đầu đội quân, nhưng cuối cùng đầu của ông ta bị ném qua tường thành.
Đoạn nầy kết thúc với danh sách thứ hai, liệt kê tên các quan chức của Đa-vít (IISa 8:15-18), có hai tên mới được bổ sung: A-đô-ram có nhiệm vụ trông coi về thuế khóa (“sự lao động khổ sai”, và Y-ra, người Giai-rơ làm tể tướng thân cận của Đa-vít. “Lao động khổ sai” dành cho những tù binh chiến tranh, nhưng dân Y-sơ-ra-ên thỉnh thoảng bị bắt đi lao động để giúp nhà nước xây dựng những công trình trong nước. Suốt thời trị vì của Sa-lô-môn và sau đó, các quan trông coi việc thuế khóa nầy luôn phải bận rộn vớ công việc mình (IVua 4:6; IVua 5:14; IVua 12:18; IISu 10:18-19).
Bây giờ chúng ta quay lại một chút để xem Giô-áp được phục chức làm quan tổng binh trong đội quân của Đa-vít như thế nào.
2. Xung đột cá nhân (ISu 20:4-8) (IISa 20:4-13)
Khi Đa-vít nghe tin Sê-ba triệu tập quân phản nghịch, ông tức tốc ra lệnh cho A-ma-sa, quan tổng binh mới của mình (IISa 19:13), tập trung lực lượng trong vòng 3 ngày và đến Giê-ru-sa-lem. Là một nhà chiến lược dày dạn, Đa-vít biết rằng cần phải tập tắt cuộc nổi dây từ khi nó còn trong trứng nước, nếu không nó sẽ kích động những người bất mãn trong xứ và có thể bùng nổ thành chiến tranh. Hàng ngàn thần dân của Đa-vít đã đi theo Áp-sa-lôm. Và dường như 10 chi phái ở phía bắc đang sẳn sàng theo bất cứ người nào.
Nhưng A-ma-sa và đội quân không có mặt kịp thời trong vòng 3 ngày theo như lệnh, và Đa-vít trao quyền chỉ huy cho A-bi-sai. A-ma-sa từng là quan tổng binh của Áp-sa-lôm, nên có lẽ Đa-vít sợ ông ta phản bội và cấu kết với Sê-ba. Lời giải thích hợp lý nhất cho việc trễ nải của mình là vì dân chúng không tin ông và không sẳn sàng theo ông và liều mạng sống mình. Có lính của Giô-áp và “các dõng sĩ” của Đa-vít bên cạnh, A-bi-sai nhanh chóng triệu tập đội quân của Giu-đa và thẳng tiến về phương bắc để ngăn chăn việc tạo phản của Sê-ba. Hãy tưởng tượng xem họ ngạc nhiên như thế nào khi nhìn thấy A-ma-sa và đội quân của ông ta ở gần hòn đá lớn của Ga-ba-ôn, khoảng 6 dặm cách tây bắc Giê-ru-sa-lem. Lúc đó A-ma-sa đang trên đường đến gặp Đa-vít để báo cáo và nhận lệnh.
Dù không có địa vị chính thức, Giô-áp cũng đã đồng đi với A-bi-sai, em trai mình, để giúp đỡ khi cần. Hai người nầy từng bên nhau trong trận chiến ở rừng Ép-ra-im và đánh bại Áp-sa-lôm.Giô-áp không thích A-ma-sa, là người đã phản bội Đa-vít và cầm đầu quân của Áp-sa-lôm (IISa 17:25). Hơn nữa, chính A-ma-sa đã có được địa vị của Giô-áp, là quan tổng binh, việc nầy là một nỗi nhục đối với Giô-áp. (Đa-vít có chọn lựa như vậy vì Giô-áp đã giết Áp-sa-lôm). Giô-áp biết rằng ông và A-bi-sai, em trai mình, có thể gải quyết thành công cuộc nổi dậy của Sê-ba, còn A-ma-sa quá yếu kém và thiếu kinh nghiện để dẫn đắt đội quân chiến thắng.
• Như khi họ giết Áp-ne (IISa 3:27-39)
Giô-áp và A-bi-sai phải nhanh chóng bàn tính với nhau khi thấy A-ma-sa tiến đến gần. Giô-áp đã giết Áp-ne và Áp-sa-lôm, nên tay ông nay đã vấy máu. Với thanh gươm đút trong võ bên hông, Giô-áp đã làm cho A-ma-sa nghĩ rằng đây là sự gặp gỡ bình thường, nhưng đó là mánh khóe xảo quyệt của Giô-áp nhằm làm A-ma-sa không cảnh giác (Cac 3:20-23).
Một lần nữa, thanh gươm đã không rời khỏi nhà Đa-vít, vì A-ma-sa là anh em họ của ông. Không có lý do cho cái chết của A-ma-sa. Thật vậy, ông đã gia nhận đội quân của Áp-sa-lôm, nhưng Đa-vít đã ban lệnh ân xá chung trong đó có Giô-áp, là người đã giết Áp-sa-lôm. Giô-áp có thể dễ dàng cướp đi quyền chỉ huy của A-ma-sa, nhưng người lính già từng trải nầy có tính khí như vậy, ông thích diệt tất cả những ai ngáng đường ông. Ông ta không muốn bất kỳ người lãnh đạo của Áp-sa-lôm còn sống để gây thên rắc rối cho Đa-vít.
Giô-áp bỏ A-ma-sa nằm chết trên vũng máu bên đường, cảnh tượng nầy làm cuộc hành quân tạm gián đoạn. Vị tướng của họ đã ngã xuống trước khi trận chiến bắt đầu! Giô-áp và A-bi-sai đuổi theo Sê-ba, nhưng đội quân không đi theo họ. Một trong binh lính của Giô-áp đã nhanh trí kéo xác chết vào lề đường và lấy áo choàng đắp lên.
Sau đó anh ta tập hợp lính của A-ma-sa để hổ trợ Giô-áp và Đa-vít, và quân lính đã đáp ứng theo. Về mặt chính trị, nói cho đúng là “Đa-vít và A-bi-sai”, vì Đa-vít đã trao quyền chỉ huy cho A-bi-sai; nhưng Giô-áp đã lấy lại vị trí củ của mình và sẽ không rời nó nữa (c.23). Một lần nữa, Đa-vít phải trao quyền cho Giô-áp.
Chúng ta cứ tin rằng có người nào đó sẽ chôn xác của A-ma-sa, vì xác chết không được chôn bị xem là việc nghiêm trọng trong Y-sơ-ra-ên.
3. Xung đột tôn giáo (ISu 20:4-8) (IISa 21:11-14).
Sách kết thúc với ghi nhận về hai tại họa cho đất nước – một trận hạn hán do bởi tội lỗi của vua Sau-lơ (IISa 21:1-4) một nạn bệnh dịch do bởi tội lỗi của Đa-vít (IISa 24:1-25). Giữa hai biến cố bi thương nầy, tác giả tóm tắc cho chúng ta 4 chiến thắng (IISa 21:15-22) và bảng liệt kê những dõng sĩ của Đa-vít (IISa 23:8-39), cũng như hai bài thơ của Đa-vít (IISa 22:1-23:7). Một lần nữa chúng ta thấy Đa-vít là một chiến binh, một thi sĩ và một tội nhân.
• Tội lỗi (c.1-4).
Không có chỗ nào trong Kinh Thánh cho chúng ta biết thời điểm và lý do Sau-lơ tàn sát người Ga-ba-ôn và như vậy vi phạm lời thề mà Y-sơ-ra-ên đã lập với họ trong thời Giô-suê (Gios 9:1-27).
Giô-suê cố tận dụng sai lầm của mình vì ông ta muốn dùng họ làm người đốn củi và xách nước; nhưng lời thề của dân Y-sơ-ra-ên ràng buộc họ phải bảo vệ người Ga-ba-ôn (Gios 10:1-43). Sau-lơ đã giết nhiều người Ga-ba-ôn nhưng có ý định xoá sổ họ, nên đây là trường hợp “thanh trừ tôn giáo” và tội diệt chủng.
- Đời sống tôn giáo của Sau-lơ là một mớ rối ren.
Với nỗ lực nhằm chứng tỏ mình là người tin kính, Sau-lơ đã lập những lời thể ngu dại mà không ai nên giữ (ISa 14:24-35), trong khi đó ông đã không vâng theo những mạng lệnh rõ ràng của Đức Giê-hô-va (ISa 13:1-23; ISa 15:1-35).
Ông được lệnh giết tất cả người A-ma-léc và đã không vâng theo, nhưng ông cố sức tiêu diệt người Ga-ba-ôn! Một điều rối ren khác đó là Giê-i-ên, ông cố của Sau-lơ, là tổ phụ của người Ga-ba-ôn (ISu 8:29-33; ISu 9:35-39), như vậy Sau-lơ tàn sát những người bà con của mình.
Ga-ba-ôn đã trở thành một thành của người Lê-vi (Gios 21:17), có lúc đền tạm có mặt ở đó (IVua 3:4-5). Thành nầy nằm trong chi phái Bên-gia-min, chi phái của Sau-lơ và có lẽ đó là manh mối cho thái độ của Sau-lơ. Để cho người ngoại Ga-ba-ôn sống và bình yên trong xứ Y-sơ-ra-ên đã quá nguy hiểm, nhưng có phải họ đang sống ở Bên-gia-min?
Một trong chiến thật “lãnh đạo” của Sau-lơ là ban ruộng đất và nhà cửa cho người nào theo ông (ISa 22:7), có lẽ để đáp ứng như cầu nầy ông phải tịch thu của người Ga-ba-ôn. Dù động cơ và phương thức của ông là gì , Sau-lơ trong mồ mả mình đã làm cho Y-sơ-ra-ên chịu đoán phạt, hạn hán và đòi kéo dài trong khoảng 3 năm (IISa 21:1,10).
Năm đầu tiên của cơn hạn hán có thể do thời tiết thay đổi bất ngờ, suốt năm thứ hai, người ta có thể nói rằng, “Thời tiết chắc sẽ tốt hơn”. Nhưng đến năm thứ ba đất chịu khô hạn và đói kém, Đa-vít đã tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời. Trong giao-ước của Đức Giê-hô-va với Y-sơ-ra-ên có viết rằng, Ngài sẽ ban mưa móc cho xứ nếu dân sự biết kính trọng và vâng lời Ngài (Phuc 28:1-14). Đa-vít biết rằng tội sát nhân sẽ làm ô uế xứ mình (Dan 35:30-34), đó chính là nguyên nhân gây ra mọi sự khốn khó nầy .
Có lẽ quan tiên tri Na-than hoặc tể tướng Y-ra, Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, “Sự nầy xảy đến vì cớ Sau-lơ và nhà đổ huyết của người, bởi vì người có giết dân Ga-ba-ôn” (c.1). Sau-lơ đã chết hơn 30 năm, và Đức Giê-hô-va vẫn kiên nhẫn chờ cho tội lỗi nầy được giải quyết.
• Sự báo thù (c.5-9).
Khi biết sự thật nầy, Đa-vít liền đề nghị bồi thường cho những tội ác của người tiền nhiệm mình, vì ông muốn dân Ga-ba-ôn có thể chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên và như vậy cũng sẽ được phước Đức Chúa Trời (Sa 12:1-3).
Nhưng người Ga-ba-ôn không muốn tiền; họ biết rằng tiền không thể chuộc được tội sát nhân và đền đáp cho người sống sót (Dan 35:31-33). Người Ga-ba-ôn nói rõ rằng họ biết vị trí của họ trong Y-sơ-ra-ên như những đầy tớ và người ngoại ở nhờ, họ không có quyền đòi hỏi gì. Nhưng cần phải có sự đổ huyết để chuộc cho huyết người Ga-ba-ôn đã phải đổ ra (Xu 21:24; Le 19:21; Phuc 19:21).
Dân chúng đang chịu khổ vì tội lỗi của Sau-lơ, nếu Đa-vít giết bất cứ người nào thì cũng sẽ không giải quyết được vấn đề. Người Ga-ba-ôn yêu cầu giao cho họ 7 người nam trong vòng con cháu của Sau-lơ để hiến tế trước mặt Đức Giê-hô-va và như vậy cơn hạn hán vá đói kém sẽ kết thúc.
Đa-vít biết rằng Do-thái không được dâng của lễ là những con người (Le 18:21; Le 20:1-5; Phuc 12:29-32; Phuc 18:10), ông cũng không xem cái chết của 7 người ấy là những của lễ với giá trị chuộc tội. Chúng ta ngày này có Tân-ước và hiểu được Phúc-Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta nhìn toàn bộ tình tiết nầy với sự ghê rợn xen lẫn mất tinh thần, nhưng chúng ta nên nhớ rằng chúng ta đang giải quyết bằng luật pháp, không phải bằng ân điển, và với dân Y-sơ-ra-ên, không phải với Hội thánh.
Luật pháp Môi-se quy định rằng tội giết người chưa được giải quyết phải được chuộc bằng của lễ (Phuc 21:1-9), vì vậy tội tàn sát rõ ràng của vua phải được chuộc nhiều hơn là dường nào! Tuy nhiên chúng ta phải nhớ cái chết của 7 người ấy không phải là sự chuộc tội, nhưng là sự báo thù hợp pháp.
Dù Đa-vít không phạm tội đó, ông phải chọn ra 7 người để chịu chết, đó không phải là một việc làm dễ dàng (Có lẽ Đa-vít nghị vể những người phải chết vì tội lỗi mình con của Bát-sê-ba, U-ri người Hê-tít, Am-nôn, Áp-sa-lôm và A-ma-sa). Vì lời thề sẽ bảo vệ con cháu của Giô-na-than (ISa 20:12-17), vua tránh tên Me-phi-bô-sết và chọn hai con trai sanh bởi Rít-ba, vợ lẻ của Sau-lơ, và 5 con trai của Mê-ráp, con gái của Sau-lơ.Là người đã lấy Át-ri-ên (c.8). Chúng ta không biết 7 người nầy bị xử tử như thế nào, có thể họ bị treo cổ rồi bị đẩy xuống từ một mõn đá.
Chuyện nầy xảy ra trong mùa gặt lúa mạch vào giữa tháng Tư, và 7 xác chết bị phơi giữa trời trong 6 tháng, cho đến khi mưa xuống và cơn hạn hán trôi qua vào tháng Mười. Treo xác là một điều sỉ nhục và để người ấy chịu rủa sả (Phuc 21:22-23).
• Lòng trắc ẩn (c.10-14).
Luật pháp quy định rằng xác chết treo phải được đem xuống và chôn khi mặt trời lặn. Để chắc chắn tội của Sau-lơ đã được giải quyết, Đa-vít cho phơi các xác ấy cho đến khi mưa xuống, để cho thấy Đức Giê-hô-va lại ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên. Suốt thời gian đó, Rít-ba đã bảo vệ xác của con và cháu mình, đây là việc làm của lòng yêu thương và can đảm. Chính Rít-ba có liên quan trong việc Áp-ne bỏ nhà Sau-lơ và đi theo Đa-vít (IISa 3:6-12).
- Nhưng Đa-vít đã đi trước một bước.
Ông lấy cốt của Sau-lơ, các con trai Sau-lơ mà người Gia-be ở Ga-la-át đã chôn cất (ISa 31:1-13), đem tất cả về chôn trong phần mộ của gia đình họ (c.12-14).
Được chôn chung với các tổ phụ mình là ao ước của mỗi một người Y-sơ-ra-ên, Đa-vít ban ân phước nầy cho Sau-lơ và gia đình ông ta. Dù vấn đề vẫn còn vài điều bất thường, nhưng có một sự thật là: tội lỗi của một người có thể gây đau khổ và cái chết cho gia đình mình, dù người ấy đã chết và được chôn rồi. Chúng ta phải tin rằng Đa-vít đã vì ích lợi của dất nước khi giải quyết tội lỗi cách khe khắc, nhưng ông cũng tỏ lòng nhân từ với nhà Sau-lơ.
4. Xung đột giữa các quốc gia (ISu 20:4-8) (IISa 21:15-22)
Bốn cuộc chiến xảy ra trong những ngày đầu Đa-vít lên ngôi, có thể sau khi ông lập Giê-ru-sa-lem làm thủ đô và dân Phi-li-tin chống đối việc ông làm vua Y-sơ-ra-ên. Tất cả 4 cuộc chiến đều liên quan đến “con cháu của người khổng lồ” từ Phi-li-tin, một trong số đó là em của Gô-li-át (c.19).
• Trong cuộc chiến thứ nhất (c.15-17)
Đa-vít thấy mình rất mệt mõi vì Phi-li-tin tập trung vào ông nhiều hơn các binh lính khác. Ít-bi-Bê-nốp muốn giết chết Đa-vít và có một ngọn giáo nặng đến 7,5 pound. Tuy nhiên A-bi-sai, cháu của Đa-vít, là người từng làm vua nổi giận, đã đến giải cứu vua và giết tên khổng lồ. Sau đó, các lãnh đạo quân sự quyết định không để vua ra trận để phải hy sinh trên chiến trường. Vua là “ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên” và phải được bảo vệ. (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IISu 21:7)
• Trận chiến thứ hai với dân Phi-li-tin (c.18 ISu 20:4)
Xảy ra ở Góp, chúng ta không thể xác định vị trí của nó, ở nơi nầy dân Y-sơ-ra-ên đã thắng vì một trong các dõng sĩ của Đa-vít đã giết tên khổng lồ (ISu 11:29). Việc tên của những người khổng lồ lưu danh cho thấy họ là những chiến binh nổi tiếng.
• Cuộc chiến thứ ba với dân Phi-li-tin (c.19)
Xảy ra tại Góp một lần nữa, lần nầy em của Gô-li-át là người bị giết chết. Chúng ta rất ít về Ên-cha-nan, ngoại trừ chi tiết ông đến xuất thân từ Bết-lê-hem và là một trong những dõng sĩ của Đa-vít (IISa 13:24).
• Trận thứ tư xảy ra ở Gát trong lãnh thổ của kẻ thù (c.20-22 ISu 20:6-8)
Giô-na-than, cháu của Đa-vít đã giết chết tên khổng lồ, giống như Gô-li-át, tên khổng lồ nầy đã thách đố Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (ISa 17:10).
Khi còn trẻ Đa-vít đã giết chết Gô-li-át, chắc chắc ông là tấm gương sáng cho người Y-sơ-ra-ên về đức tin nơi Đức Chúa Trời; Ngài là Đấng ban chiến thắng. Biết làm thế nào để tự mình giết chết những tên khổng lồ là rất tốt, nhưng còn phải giúp người khác giết chết những tên khổng lồ trong đời sống của họ nữa.
5. Bài ca chiến thắng của Đa-vít (ISu 20:4-8) (IISa 22:1-51; Thi 18:1-50)
Sách Sa-mu-ên thứ nhất có chép lại bài ca của An-ne khi bà đem Sa-mu-ên dâng cho Đức Giê-hô-va tại đền tạm, Sách Sa-mu-ên thứ hai có ghi lại bài ca của Đa-vít sau khi Đức Giê-hô-va giúp ông đánh bại quân thù (c.1 Thi 18:1-50 tiêu đề). Thật ý nghĩa khi hai sách với đầy những đau thương và gánh nặng lại có trong nó những bài ca ngợi khen! Dù trải qua những ngày tăm tối, dù ký ức của chúng ta toàn là đau khổ, chúng ta cũng có thể ca ngợi Đức Chúa Trời luôn luôn.
Trong bài ca nầy, Đa-vít tạ ơn Đức Giê-hô-va vì Ngài ban cho ông nhiều chiến thắng, trong sự khoan dung và đường lối khôn ngoan của Ngài, Đức Giê-hô-va đã đem ông lên ngai vàng của Y-sơ-ra-ên. Nên nhớ rằng Sau-lơ không bị kể là kẻ thù của Đa-vít, dù Sau-lơ làm gì cho ông đi nữa, ông không bao giờ đối xử với Sau-lơ như kẻ thù. Có thể II Sa-mu-ên 22 là bảng gốc, nhưng khi bài ca nầy được sủa lại cho hợp với sữ thờ phương Đa-vít đã viết câu mở đầu: “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là năng lực tôi, tôi yêu mến Ngài” (Thi 18:1).
Từ Hy-ba-lai được dùng với nghĩa “yêu mến” có nghĩa là “tình yêu thương sâu xa và tha thiết”, không phải một cảm xúc chóng qua. Ông cũng bỏ đi một phần trong câu 3 “Hỡi Đấng che chở tôi! Ấy Ngài giải cứu tôi khỏi sự hung bạo”. Có những khác biệt khác, nhưng chúng ta vẫn dễ dàng hiểu được sứ điệp của bài ca ngơi khen nầy.
Có thể không phải bài ca nầy được viết ngay sau sự thất bại của Sau-lơ và sự mở đầu triều đại Đa-vít tại Hếp-rôn.
Từ câu 51 chúng ta đoán rằng Đa-vít viết nó sau khi Đức Chúa Trời lập giao-ước Ngài với ông (IISa 7:1-29) và ban cho ông những chiến thắng được ghi nhận trong II Sa-mu-ên 8 và 10. Chúng ta có thể suy luận thêm từ câu 20-27 rằng ông đã viết bai ca nầy trước khi ông phạm tội với Bát-sê-ba và U-ri (IISa 11:1-12:31), vì ông không bao giờ viết được câu 20-27 sau kinh nghiệm đau buồn đó.
Trọng điểm trong bài ca nầy là những việc mà Đức Chúa Trời, trong ân điển và lòng thương xót của Ngài, đã làm cho Đa-vít.
6. Đức Giê-hô-va giải cứu Đa-vít (ISu 20:4-8) (IISa 22:1-19)
“Giải cứu” là từ chìa khóa trong bài ca nầy (c.1,2,18,20,44,49), và nó mang nghĩa “cứu khỏi nguy hiểm, mang đi khỏi, cho thoát khỏi.” Ít nhất trong 10 năm trước khi ông lên làm vua, Đa-vít được Sau-lơ và quân của Sau-lơ rượt đuổi, Kinh Thánh có ghi lại ít nhất 5 lần Sau-lơ tìm cách giết Đa-vít. (ISa 10:10-11; ISa 19:8-10,18-24). Sau khi được làm vua, Đa-vít phải ra trận chiến đấu cùng dân Phi-li-tin, Am-môn, Sy-ri, Mô-áp, Ê-đôm, và Đức Chúa Trời đã giúp ông chiến thắng tất cả kẻ thù của mình.
Đa-vít mở đầu bài thơ bằng lời ngợi khen Đức Giê-hô-va vì Ngài là hòn đá và đồn lũy, Đấng giải cứu (c.20) hình ảnh nầy có được qua những năm tháng Đa-vít sống trong đồng vắng khi ông và những người theo ông phải trốn trong hang đá và những nơi trú ẩn tự nhiên.
“Đức Chúa Trời là hòn đá tôi” (c.3) có thể được dịch là “Đức Chúa Trời như hòn đá của tôi”. Hình ảnh Đức Chúa Trời là “hòn đá” đã có từ Sa 49:24 thường được dùng trong “Những bài ca của Môi-se” trong Phuc 32:4,15,18,30-31). An-ne đã dùng nó trong bài ca của mình (ISa 2:2), thường được thấy trong các bài thi thiên. Hòn đá nhắc chúng ta về sức mạnh và sự kiên định, có thể nương dựa và không hề thay đổi. Dù các kẻ thù của Đa-vít cố gắng tìm giết ông, ông luôn Đức Chúa Trời hướng dẫn và bảo vệ. Đức Chúa Trời là cái khiên che quanh ông và là Đấng giải cứu ông thoát khỏi bao hiểm nguy.
Hình ảnh hòn đá làm rõ hình ảnh nước lụt (c.4-7), điều nầy dẫn đến hình ảnh sống động của cơn dông bão (c.8-20). Trong khi lưu lạc trong đồng vắng, chắc chắn Đa-vít nhìn thấy nhiều trận mưa dông (Thi 29:1-11) biến những lòng sông khô cằn thành những dòng nước cuồn cuộn (Thi 126:4). Dù lý do gì đi nữa, Đa-vít luôn phải tranh đấu với những lực lượng hùng mạnh của Sau-lơ. Các lượn sóng của tử vong, lụt gian ác, những dây của địa ngục (xứ sở của sự chết), và lưới sự chết làm cho cuộc sống của Đa-vít rất khó khăn và đầy nguy hiểm. Không ngạc nhiên khi ông nói với Giô-na-than, “chỉ còn một bước cách tôi và sự chết mà thôi” (ISa 20:3).
Bạn sẽ làm gì khi bạn đang chết đuối trong cơn lụt của sự thù địch? Bạn kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va và tin Ngài cứu giúp bạn (c.7). Đa-vít là một chiến sĩ cầu nguyện, ông nương dựa nơi sự khôn ngoan, sức mạnh và sự giải cứu của Đức Chúa Trời, Ngài không bao giờ quên ông. Tại sao Đức Chúa Trời phải chờ một thời gian dài trước khi giải cứu Đa-vít và đem ông lên ngôi? Vì Ngài đang huấn luyện ông thành một người lãnh đạo, điều nầy được thực hiện chỉ bởi sự thử thách, sự khốn khổ, và sự tranh chiến. Nhưng Đức Giê-hô-va cũng có cách sắp xếp thời gian riêng của Ngài, vì “khi kỳ hạn đã được trọn” (Ga 4:4) từ dòng dõi Đa-vít, Dấng Mê-si-a sẽ đến thế gian.
Khi Đức Giê-hô-va đáp lời kêu nài của Đa-vít, giải cứu ông khỏi tay Sau-lơ và các kẻ thù của dân sự Đức Chúa Trời, thì giống như cơn dông bão sấm sét đã trôi qua (c.8-20). Đa-vít mô tả sự can thiệp của Đức Chúa Trời như cơn động đất (câu 8) kéo theo ánh chớp, lửa và khói (c.9).
Đức Giê-hô-va nổi giận! (Thi 74:1; Thi 140:10). Nổi rõ trên nền trời đen kịt, Đức Chúa Trời ngự xuống trên đám mây ở trên lưng chê-ru-bin. Cơn dông bão dữ dội! Trong Kinh Thánh bão tố có thể là hình ảnh của một đội quân đang tiến công (Exe 38:9; Đa 11:40; Ha 3:14) hoặc sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (Gie 11:6; Gie 23:19; Gie 25:32). Mũi tên của Đức Chúa Trời giống như tia chớp, tiếng của Ngài như sấm, và gió giống như hơi thở giận dữ từ mũi Ngài.
Không ngạc nhiên khi các kẻ thù Ngài đã bỏ chạy trong khiếp sợ! Đa-vít không xem mình là một nhà lãnh đạo vĩ đại, là người cầm đầu đội quân chiến thắng, nhưng như một đầy tớ của Đức Chúa Trời, biết tin cậy Đức Giê-hô-va để thắng trận. Ông dâng mọi vinh quang cho Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời không chỉ “ngự xuống” (c.10), nhưng Ngài còn “giơ tay” và kéo Đa-vít ra khỏi vùng nước nguy hiểm.
7. Đức Giê-hô-va ban thưởng cho Đa-vít (ISu 20:4-8) (IISa 22:20-28)
• Sự công bình của Đa-vít (c.21-25).
Đọc sơ những câu nầy chúng ta nghỉ rằng Đa-vít đang khoe khang về chính mình, nhưng không phải như vậy. Đa-vít đang ngợi khen Đức Giê-hô-va vì giúp ông sống một đời sống không chỗ trách được trong nguy hiểm và khó khăn. Hãy nghĩ xem thật khó khăn thế nào khi vừa phải giữ trọn luật pháp của Đức Giê-hô-va trong đồng vắng Giu-da vừa phải trốn chạy để bảo toàn mạng sống mình! Trong tất cả những gì ông đã làm, Đa-vít luôn cố làm vui lòng Đức Chúa Trời, vâng theo luật pháp Ngài và tin nơi lời hứa của Ngài. Những câu Kinh Thánh nầy mô tả Đa-vít là một người thanh liêm (Thi 78:72), “một người theo lòng Ngài,” (ISa 13:14).
Đa-vít biết và vinh vào lời hứa của Đức Chúa Trời và Ngài khen ngợi ông. Vua Sau-lơ vi phạm những điều khoản của giao-ước ấy, và Ngài đã trừng phạt ông ta.
Điều nầy không có nghĩa là Đa-vít không có một vết nhơ nào và luôn làm điều đúng. Có những ngày ông nãn lòng và nhờ kẻ thù giúp đỡ, nhưng đây là những sự việc ngoài ý muốn trong cuộc đời được dâng trọn vẹn cho Đức Giê-hô-va. Đa-vít chỉ tôn vinh một mình Đức Giê-hô-va và không bao giờ xây qua các thần khác. Ông không làm ô danh Đức Giê-hô-va; ông yêu thương và bảo vệ cha mẹ mình (ISa 22:1-4) và khi ông có cơ hội giết chết Sau-lơ, ông đã không ra tay với người được Đức Chúa Trời xức dầu.
Suốt trong những “năm tranh chiến” của mình không có bằng chứng nào cho rằng Đa-vít đã phạm tội ăn cắp, tà dâm hay làm chứng dối cho người khác. (thật ra, chính Sau-lơ đã nói dối về Đa-vít). Đa-vít là người rộng lượng, ông không nuôi lòng tham. Chúng ta không biết Đa-vít tôn trọng ngày Sa-bát như thế nào khi ông ở xa cộng đồng của giao-ước, nhưng không có lý do để tin rằng ông vi phạm điều răng thứ tư. Theo sự công bình của luật pháp, Đa-vít là người có tay trong sạch và tấm lòng thánh khiết (Thi 24:3-6), ông nhận được sự ban thưởng từ Đức Giê-hô-va.
• Sự thành tín của Đức Giê-hô-va (c.26-28).
Đức Giê-hô-va không bao giờ làm trái những thuộc tính của Ngài. Đức Chúa Trời đối đãi với dân sự tuy theo thái độ và hành động của họ. Đa-vít khoan dung cho Sau-lơ và tha mạng sống cho ông ta ít nhất hai lần, và Đức Giê-hô-va đã khoan dung với Đa-vít. “Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót!” (Mat 5:7). Đa-vít thành tín với Đức Giê-hô-va, và Ngài thành tín với Đa-vít.
Đa-vít có lòng ngay thẳng, ông một lòng phục sự Đức Chúa Trời. Đa-vít không phải là người vô tội không người nào là vô tội trên thế gian nầy nhưng ông không chỗ trách được trong động cơ và lòng trung thành với Đức Giê-hô-va. Trong ý nghĩa đó, tấm lòng của ông thật thanh khiết: “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời!” (Mat 5:8).
Không giống Sau-lơ, Đa-vít không ngoan cố nhưng đầu phục ý muốn của Đức Chúa Trời (c.27). “Còn đối cùng kẻ trái nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt nhiệm lại” nhắc chúng ta rằng đức tin là sống mà không có mưu toan và lời biện hộ, Sau-lơ luôn mắc hai lỗi nầy. Từ Hy-ba-lai dịch cho từ ngữ “trái nghịch” xuất xứ từ một gốc từ có nghĩa là “chống nghịch với”. Đa-vít không tranh chiến với Đức Chúa Trời hoặc ý muốn của Ngài, nhưng Sau-lơ thì luôn như vậy; đó là lý do tại sao Đa-vít được tôn cao còn Sau-lơ bị hạ thấp (IPhi 5:5-6 Gia 4:10).
Cuối cùng, Đa-vít khiêm hạ và tan vỡ trước mặt Đức Giê-hô-va, trong khi Sau-lơ đề cao chính mình và luôn xem mình là nhất. “Vì Chúa cứu dân bị khốn khổ; Nhưng mắt Chúa coi chừng kẻ kiêu căng đặng làm chúng nó bị hạ xuống” (c.28). An-ne đã đề cập đến chủ đề quan trọng nầy trong bài ca của mình cho Đức Giê-hô-va (ISa 2:3,7-8). Khi Sau-lơ bắt đầu thời trị vì của mình, ông đứng cao hơn người khác từ vai trở lên (ISa 10:23-24), nhưng gần cuối đời ông đã té úp mặt tại nhà của một phù thủy (ISa 28:20) và té ngã trên chiến trường vì tự vẫn (ISa 31:1-6).
“Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo 10:12). Đa-vít cúi mặt trong sự đầu phục, và Đức Giê-hô-va nâng mặt ông lên trong vinh quang. Sau-lơ ngẩng mặt lên và cuối cùng phải cúi mặt trong nhục nhã.
Đức Chúa Trời luôn thành tín với thuộc tính của Ngài và giao ước Ngài. Biết được thuộc tính của Đức Chúa Trời là yếu tố rất cần thiết để biết được ý muốn Ngài và làm đẹp lòng Ngài. Đa-vít biết giao ước của Đức Chúa Trời nên ông hiểu Ngài muốn ông làm gì. Thuộc tính của Đức Chúa Trời và giao-ước của Đức Chúa Trời là những nền tảng cho những lời hứa của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta bỏ quên thuộc tánh và giao ước của Đức Chúa Trời, chúng ta không bao giờ nhận được lời hứa của Ngài.
8. Đức Giê-hô-va ban năng quyền cho Đa-vít (ISu 20:4-8) (IISa 22:29-43).
Trong khúc ca nầy, Đa-vít đã nhìn về quá khứ và nhắc lại những gì Đức Chúa Trời đã cứu giúp ông trong những năm tháng lưu vong.
• Đức Giê-hô-va soi sáng cho Đa-vít (c.29).
Hình ảnh ngọn đèn chiếu sáng có thể ngụ ý lòng nhân từ của Đức Chúa Trời khi giữ mạng sống con người (Giop 18:5-6 Giop 21:17). Cuộc đời Đa-vít gặp nhiều nguy biến, nhưng Đức Giê-hô-va giữ gìn mạng sống ông và chu cấp mọi sự cần dùng cho ông. Nhưng ngọn đèn sáng còn nói về thời trị vì của vua.
Những người theo Đa-vít sợ rằng ngày nào đó Đa-vít ngã xuống nơi chiến trường và “ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên” sẽ tắt (IISa 21:17). Dù sau khi Đa-vít chết, Đức Giê-hô-va vẫn thành tín với giao-ước Ngài và giữ cho ngọn đèn Đa-vít cháy mãi bằng cách duy trì triều đại của Đa-vít (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IISu 21:7; Thi 132:17).
Nhưng Đức Chúa Trời soi sáng cho Đa-vít trong cách khác, vì Ngài mặc khải ý muốn của Ngài qua lời tiên tri và việc dùng U-rim và Thu-mim. Sau-lơ đã tự mình quyết định, nhưng Đa-vít tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời trước. Suốt trong những ngày lưu vong tăm tối, Đa-vít có thể nói, “Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi tôi: Tôi sẽ sợ ai? Đức Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi: Tôi sẽ hãi hùng ai?” (Thi 27:1).
• Đức Giê-hô-va ban sức cho Đa-vít (c.30-35).
Hình ảnh ở đây cho thấy một chiến binh can đảm đạp bằng mọi thứ trên đường chiến thắng. Đức Chúa Trời ban sức cho Đa-vít để ông đối diện với kẻ thù mà không hề lo sợ, xông ngang qua đạo quân và những chướng ngại mà họ giăng ra, và vượt qua các tường thành. Đường lối của Đức Chúa Trời thật trọn vẹn (c.31) Ngài làm cho đường lối của Đa-vít ra trọn vẹn (c.33), vì Đa-vít tin cậy nơi Ngài. Đức Chúa Trời che chỡ cho Đa-vít trong chiến trận vì Đa-vít nương dựa hoàn toàn nơi Lời tinh tường của Đức Chúa Trời.
Thân thể Đa-vít thuộc về Đức Giê-hô-va (Ro 12:1), Đức Chúa Trời dùng cánh tay, bàn chân và bàn tay ông (c.33-35) để đánh bại kẻ thù. Đa-vít là một chiến binh đầy ơn, nhưng chính quyền phép của Đức Chúa Trời giúp ông thành công. Giống như con nai nhanh nhẹn, ông có thể leo lên đến những đỉnh cao; dù vậy chân ông vẫn không xiêu tó (c.37).
Đức Chúa Trời khiến cánh tay ông mạnh mẽ để có thể giương cung đồng và bắn tên với một lực cực mạnh. Trong sức mạnh của Đức Giê-hô-va, Đa-vít không thể thất bại.
• Đức Giê-hô-va mở rộng đường cho Đa-vít (c.36-43).
Đức Chúa Trời mở đường cho Đa-vít (c.37) và để ông nơi rộng rãi (c.20), một lẽ thật tuyệt vời mà chúng ta đã xét qua rồi. Một câu đáng chú ý “sự hiền từ Chúa đã làm cho tôi nên sang trọng” (c.36) cho thấy giọng nói sửng sốt của Đa-vít vì Đức Giê-hô-va vạn quân đã chiếu cố ông và quan tâm đến ông. Đa-vít luôn thấy mình là một người chăn chiên rất đỗi bình thường, không có một địa vị gì trong Y-sơ-ra-ên (ISa 18:18,23), nhưng Đức Giê-hô-va “bước xuống” khiến ông nên cao trọng. Ngài khiến Đa-vít trở thành một chiến binh vĩ đại và làm nổi danh ông (IISa 7:23), Đa-vít biết lòng nhân từ lạ lùng nầy của Đức Chúa Trời, nhưng ước ao lớn nhất của Đa-vít là làm rạng danh Giê-hô-va khắp các nước (IISa 7:18-29).
Sự hạ cố bởi lòng nhân từ của Đức Giê-hô-va là chủ đề mà thường bị dân sự Đức Chúa Trời lãng quên. Như với Đa-vít, Đức Chúa Cha đã hạ cố để hành động trong cuộc đời chúng ta để tỉa sửa chúng ta cho phù hợp với công việc mà Ngài đặt để (Es 57:15), Đức Chúa Con đã hạ mình vì chúng ta khi Ngài xuống thế gian như một tôi tớ và làm của lễ chuộc tội cho chúng ta (Phi 2:5-11).
Đức Thánh Linh đã hạ cố xuống thế gian và sống trong dân sự Ngài! Đa-vít không nhìn lại những năm tháng lưu vong với những khó khăn gian khổ và “sự khắc nghiệt” của Đức Chúa Trời nhưng nhìn thấy sự hiền từ của Đức Chúa Trời. Ông chỉ nhìn thấy sự nhân từ và thương xót dõi theo bước ông (Thi 23:6). Người đầy tớ trong thí dụ gọi đã chủ mình là “người nghiêm nhặt” (Mat 25:24), chắc chắc ông không có cái nhìn giống như Đa-vít!
Chúng ta có thể run rẩy khi đọc đến phần mô tả những chiến công của Đa-vít, nhưng chúng ta phải nhớ rằng ông đang đánh trận cho Đức Giê-hô-va. Nếu những nước nầy thắng trận và tiêu diệt Y-sơ-ra-ên, thì chuyện gì sẽ xảy ra cho kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời?
Chúng ta sẽ không có Kinh Thánh, và chúng ta sẽ không có Cứu Chúa! Khi chống nghịch Đức Chúa Trời và thờ các thần tượng, những nước Ngoại bang đã phạm tội nghịch cùng nguồn sự sáng, nên họ không có gì để bào chữa cho mình (Ro 1:18; Gios 2:1-24). Đức Giê-hô-va đã kiên nhẫn với họ trong nhiều năm (Sa 15:16), nhưng họ đã chối bỏ ân điển của Ngài. Đa-vít đuổi theo kẻ thù khi họ tìm đường tháo chạy (c.38,41) ông đánh bại họ, đè bẹp họ, nghiền họ thành bụi đất! Họ thành ra như bùn trên đường.
9. Đức Giê-hô-va lập vững nhà Đa-vít (ISu 20:4-8) (IISa 22:44-51)
Đánh trận và thắng kẻ thù là một chuyện, nhưng giữ vững đất nước dưới sự cai trị của mình là một chuyện khác. Đa-vít không chỉ thông nhất 12 chi phái Y-sơ-ra-ên, ông còn đương đầu với các nước lệ thuộc Y-sơ-ra-ên.
• Đức Giê-hô-va phong Đa-vít làm vua (44-46).
Các nước Ngoại bang không muốn Y-sơ-ra-ên có vua, nhất là có vua như vua Đa-vít, một nhà chiến lược khôn ngoan, một chiến binh can đảm, một người lãnh đạo được yêu mến. Tuy nhiên Đức Chúa Trời không chỉ lập Đa-vít làm vua, mà còn hứa cho triều đại của Đa-vít được tồn tại đời đời. Đức Giê-hô-va hứa ban ngai vàng cho Đa-vít, và Ngài đã giữ lời. Ngài cũng giúp Đa-vít thống nhất đất nước và giải quyết những người còn trung thành với Sau-lơ.
Từ “người ngoại quốc” trong câu 45-46 có nghĩa là những người ở các nước Ngoại bang. Những chiến thắng của Đức Giê-hô-va làm những dân nầy khiếp sợ và tháo chạy tìm nơi ẩn núp. Cuối cùng họ sẽ ra khỏi đồn lũy mong manh của mình để đầu phục Đa-vít.
• Đức Giê-hô-va đưa Đa-vít lên địa vị cao trọng (c.47-49).
Lời ngợi khen của Đa-vít “Đức Giê-hô-va hằng sống” (câu 47 là lời làm chứng cho các dân ngoại rằng các thần tượng của họ không thể giải cứu và bảo vệ họ (Thi-thiên 115). Duy chỉ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, những chiến công và sự lên ngôi của Đa-vít chứng minh Đức Chúa Trời đã ở cùng ông. Đa-vít không bao giờ tự đề cao mình, ông tôn cao Đức Chúa Trời. Đa-vít kết thúc bài ca bằng lời ngơi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời cao cả và thánh khiết của Y-sơ-ra-ên.
Ông tôn cao Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời tôn cao ông (Mat 6:33; ISa 2:30). Nếu chúng ta tự tán dương danh của mình hay những việc làm của mình, chúng ta sẽ phạm tội, nhưng nếu Đức Chúa Trời tán dương chúng ta, chúng ta có thể đem vinh quang về cho danh Ngài (Gios 3:7).
• Đức Giê-hô-va lựa chọn Đa-vít (c.50-51).
Sự lựa chọn tối thượng của Đức Chúa Trời để cho Đa-vít làm vua và lập giao ước với ông, hình thành một nền tảng cho tất cả những gì Ngài làm cho tôi tớ Ngài. Y-sơ-ra-ên được kêu gọi làm nhân chứng với các nước, và Đa-vít có trách nhiệm xây dựng một đất nước sẽ làm rang danh Đức Chúa Trời. Thật là tệ vì tội lỗi của ông với Bát-sê-ba đã làm ô danh Đức Chúa Trời (IISa 12:14). Tuy nhiên, Đa-vít là vua được Đức Chúa Trời xức dầu, giao-ước giữa Đức Chúa Trời và ông sẽ tồn tại và cuối cùng sẽ được ứng nghiệm trong sự cai trị của Chúa Cứu Thế Giê-xu trong Nước của Ngài.
Phao-lô trích câu 50 trong Ro 15:9 để động viên tín hữu ở các Hội thánh tại Rô-ma. Các tín hữu là người Ngoại bang ở Rô-ma vui hưởng sự tự do trong Cứu Chúa trong khi các tín hữu người Do-thái vẫn còn chịu ràng buộc dưới Luật pháp Môi-se. Phao-lô nói rõ rằng Chúa Cứu Thế đến cho cả người Do-thái lẫn người Ngoại bang để làm trọn lời hứa với người Do-thái và chết cho cả người Do-thái lẫn người Ngoại bang.
Từ những ngày đầu tiên nước Y-sơ-ra-ên được khai sinh, khi Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, Đức Giê-hô-va đã có ý định cứu luôn người Ngoại bang trong kế hoạch cứu rỗi bởi ân điển Ngài. (Sa 12:1-3; Lu 2:29-32; Gi 4:22; Eph 2:11).
Những câu liên tiếp trong Ro 15:8-12 thật có ý nghĩa. Chúa Giê-xu khẳng định lời hứa của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (c.8) và Y-sơ-ra-ên rao truyền sứ điệp cứu rỗi cho các dân Ngoại bang (c.9). Cả người Do-thái và người Ngoại bang tin Chúa đều như một thân thể thuộc linh cùng nhau ca tụng danh Ngài (c.10) ; tất cả các nước nghe được tin lành của Phúc-Âm (c.11). Khi Chúa Giê-xu trở lại, Ngài sẽ cai trị cả người Do-thái và người Ngoại bang trong Nước vinh hiển của Ngài (c.12). “Ngay từ những ngày đầu nầy, hoạch định của Đức Chúa Trời là dân Y-sơ-ra-ên sẽ làm phương tiện để rao sự cứu rỗi cho thế gian hư mất.”
“Sự cứu đến từ Đức Giê-hô-va!” (Gion 2:10) và “Sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:22). Người Ngoại bang mắc nợ người Do-thái (Ro 15:27), người Cơ-đốc nhân Ngoại bang phải trả món nợ ấy.
Họ có thể tỏ lòng cảm kích đối với dân Y-sơ-ra-ên qua lời cầu nguyện cho sự cứu rỗi của họ (Ro 9:1-5; Ro 10:1) cho sự hòa bình của Giê-ru-sa-lem (Thi 122:6), hết lòng làm chứng khi có cơ hội (Ro 1:16) và chia xẻ những nhu cầu vật chất (Ro 15:27).
Khi đọc lại bài thi-thiên nầy, bạn có thể thấy những gì đã làm cảm động lòng Đa-vít. Ông đã nhìn thấy Đức Chúa Trời và đề cập đến Ngài ít nhất 19 lần. Ông nhìn thấy Đức Chúa Trời trong mọi khía cạnh trong đời sống lúc vui mừng cũng như trong hoạn nạn. Ông đã nhìn thấy những mục đích của Đức Chúa Trời trong cuộc đời ông và cho nước Y-sơ-ra-ên và vui mừng vì được là một phần trong những mục đích đó. Nhưng phấn khởi hơn hết, dù trong những lúc khó khăn nhất, Đa-vít vẫn nhìn thấy bàn tay nhân từ của Đức Chúa Trời, khuôn đúc cuộc đời ông và làm thành những mục đích của Ngài (c.35).
Những vấn đề lớn (Thi 25:17) đã “làm Đa-vít lớn lên” (Thi 4:1) chuẩn bị ông cho những nhiệm vụ lớn hơn (IISa 22:37) trong nơi rộng rãi mà Đức Chúa Trời dành sẳn cho ông (IISa 22:20). Đó cũng có thể là những kinh nghiệm của chúng ta.
-1-26; xem giải nghĩa ISu 11:10-41.
6. DI SẢN CỦA ĐA-VÍT (ISu 22:1-29:30)
Đa-vít “lúc còn sống, làm theo ý chỉ Đức Chúa Trời” (Cong 13:36). Khi bạn phục vụ cách trung tín lúc còn sống, những gì bạn làm cũng còn có ích cho đời sau, “Ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (IGi 2:17).
Di sản của Đa-vít làm giàu cho dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời qua hàng thế kỷ sau. Không chỉ Đa-vít chu cấp tất cả những gì cần thiết để xây dựng đền thờ, ông còn viết nhiều bài hát và làm ra nhiều nhạc cụ để phục vụ cho việc thờ phượng trong đền thờ (ISu 23:5). Hơn nữa, từ chính dòng dõi của Đức Chúa Trời mà Cứu Chúa đã đến thế gian, “Chồi và hậu tự của Đa-vít” (Kh 22:16), nên Đa-vít vẫn còn góp phần vung đắp cho Hội thánh ngày nay.
Khi chúng ta nghe đến tên của Đa-vít, chúng ta thường nghĩ đến Bát-sê-ba và những tội lỗi của ông trước tiên, nhưng những đoạn nầy cho thấy Đa-vít là một người sáng lập, người đã liều mạng sống mình để thu góp của cải xây dựng đền thờ cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Ông là một tấm gương sáng cho các tín hữu trong mọi thời đại, là những người muốn dâng đời sống mình cho Cứu Chúa và muốn để lại cho người sau những di sản là chính ơn phước của mình.
1. Sự thúc đẩy thuộc linh (ISu 22:1-19)
Một số độc giả Kinh Thánh ngày nay có thể dễ dàng bỏ qua những đoạn nầy, sẳn sàng lướt qua những danh sách với nhiều cái tên khó nhớ để đọc ngay vào thời trị vì của Sa-lô-môn trong I Sử-ký; nhưng làm như vậy là một sai lầm lớn. Hãy nghĩ đến sự khích lệ và sự hướng dẫn trong các đoạn nầy đã đem lại cho dân Y-sơ-ra-ên sót, là những người đã trở về Giê-ru-sa-lem sau khi bị Ba-by-lôn bắt đi lưu đày. (Xem sách E-xơ-ra, Nê-hê-mi, A-ghê và Xa-cha-ri).
Những người can đảm nầy đã xây lại đền thờ và tổ chức những hoạt động trong đó, và đọc những đoạn nầy sẽ nhắc nhở rằng họ đang làm công việc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời hướng dẫn Đa-vít từng chi tiết của đến thờ nguyên gốc và Đa-vít truyền lại cho Sa-lô-môn. Những “danh sách nầy” giúp Xô-rô-ba-bên và thầy tế lễ cả Giê-hô-sua xem xét và tuyển chọn người phục vụ trong đền thờ (Exo 2:59-64), và loại ra những người không đủ tư cách.
Những đoạn nầy khích lệ người Do-thái trong những thế kỷ nhọc nhằn đã qua của họ, chúng có thể động viên chúng ta ngày hôm nay khi chúng ta định xây dựng Hội thánh mình (Eph 2:19-22).
Khi bạn đọc ICo 3:9-12 và so sánh phân đoạn đó với ISu 22:1-19; ISu 28:1-29:30, bạn sẽ nhận ra những sự tương tự, chúng khuyến khích chúng ta xây dựng Hội thánh theo như mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Đa-vít biết rằng đền thờ của Đức Chúa Trời phải được xây bằng vàng, bạc và đá quý (ISu 22:14; ISu 29:1-5), Phao-lô lấy những vật liệu nầy và áp dụng chúng với ý nghĩa thuộc linh cho Hội thánh địa phương.
Chúng tượng trưng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời như được tìm thấy trong Lời Ngài (Ch 2:1-10; Ch 3:23-25; Ch 8:10-21). Gỗ, cỏ khô, và rơm rạ có thể được tìm thấy dễ dàng trên mặt đất, nhưng vàng, bạc và đá quí bạn phải đào sâu mới tìm được chúng. Chúng ta không xây dựng Hội thánh chúng ta theo sự khôn ngoan của loài người hay bắt chước theo thế gian; chúng ta xây bằng sự dạy dỗ và vâng theo lẽ thật quý báu của Lời Đức Chúa Trời (Xem ICo 3:18-20 về quan điểm của Phao-lô về sự khôn ngoan của thế gian).
Sa-lô-môn không thiết kế đền thờ mà ông xây vì Đức Giê-hô-va hướng dẫn Đa-vít thiết kế nó rồi (ISu 28:11-12).
Khi chúng ta đọc Kinh Thánh và cầu nguyện, Đức Chúa Trời sẽ chỉ cho chúng ta biết những hoạch định của Ngài dành cho Hội thánh chúng ta.
“Lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình” (Phi 2:12-13) được viết cho những tín hữu ở Phi-líp, và dù nó cũng áp dụng riêng cho tất cả tín hữu, ý nhấn mạnh của nó là nhắm vào nhiệm vụ của Hội thánh nói chung. Một số lãnh đạo Hội thánh chạy ngược chạy xui để nghiên cứu nhằm tìm ra cách xây dựng Hội thánh, nhưng họ có thể ngồi ở nhà, cầu nguyện cho Hội thánh, và tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời trong Lời Ngài. Đức Chúa Trời có hoạch định khác nhau cho từng Hội thánh, và chúng ta không nên bắt chước nhau một cách mù quáng.
Hội thánh được xây dựng nhằm bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và nhiệm vụ của chúng ta trong Hội thánh là làm vinh hiển Đức Chúa Trời (ICo 10:31; ICo 14:25). Khi Sa-lô-môn làm lễ khánh thành đền thờ, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy ở đó (IVua 8:6-11), nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên phạm tội thì sự vinh hiển Ngài không còn nữa (Exe 10:4,18-19; Exe 11:22-23). Chúng ta không biết bao nhiêu Hội thánh làm đúng theo những nghi thức thờ phượng từ Chúa nhật nầy đến Chúa nhật khác, nhưng không có dấu hiệu gì của sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Đền thờ là “nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Es 56:7), nhưng các lãnh đạo tôn giáo trong thời Chúa Giê-xu đã biến đền thờ thành ổ trộm cướp (Mat 21:13; Lu 19:46; Gie 7:11). Ổ trộm cướp là nơi kẻ trộm chạy vào trốn sau khi họ làm việc gián ác, điều nầy ngụ ý rằng sự phục vụ trong nhà thờ có thể là một chỗ tốt để người ta làm ra vẻ thiêng liêng (IGi 1:5-10).
Bao nhiêu Hội thánh được biết đến vì chức vụ và sự cầu nguyện của họ có kết quả? Chúng có thể là những nhà hát, trường học, và thậm chí là nơi dành cho những hoạt động xã hội, nhưng chúng có phải là nhà cầu nguyện không?
Đền thờ được xây dựng và Đức Chúa Trời làm vinh hiển nó bằng sự hiện diện của Ngài vì các lãnh đạo và dân sự đã dâng điều tốt nhất cho Đức Giê-hô-va, hy sinh và làm theo những lời dạy của Ngài. Đây là một gương tốt cho chúng ta ngày nay. Chúng ta được đặc ân góp sức mình trong việc xây dựng Hội thánh, và động cơ của chúng ta phải là vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.
2. Sự chuẩn bị cẩn thận (ISu 22:1-19)
Đức Giê-hô-va không cho phép Đa-vít xây đền thờ, nhưng Ngài tôn trọng sự chuẩn bị mà Đa-vít đã làm để Sa-lô-môn con trai ông thực hiện nhiệm vụ đó. Một câu ngạn ngữ cổ nói rằng, “Bắt đầu tốt là một nữa thành công”, và Đa-vít cẩn thận chuẩn bị Sa-lô-môn, dân sự, những vật liệu cho công trình vĩ đại nầy (c.3,5,14).
• Địa điểm, vật liệu và nhân công (c.1-4).
Chúng ta không biết rõ Đức Chúa Trời bắt đầu cho Đa-vít những bản thiết kế đền thờ khi nào, nhưng mua đất của Ọt-nan có lẽ là dấu hiệu của việc làm đó. Khi Đức Chúa Trời giáng lửa từ trời xuống thiêu những của lễ của Đa-vít (ISu 21:26), Đa-vít biết rằng tội lỗi ông đã được tha và ông được hàn gắn mối thông công với Đức Chúa Trời.
Nhưng Đa-vít cũng hiểu rằng bàn thờ của ông giờ rất đặc biệt đối với Đức Giê-hô-va và tiếp tục dâng của lễ ở đó thay vì đi đến đền tạm ở Ga-ba-ôn. Đức Giê-hô-va cho ông biết rằng Núi Mô-ri-a là nơi Đức Chúa Trời muốn đền thờ của Ngài được xây dựng. Có thể Đa-vít đã viết Thi-thiên 30 trong thời gian đó, dù không có một đền thờ thật sự được khánh thành. Bởi đức tin, ông dâng cho Đức Chúa Trời chỗ đất mà ông mua được và đền thờ mà một ngày nào đó sẽ được xây lên ở nơi ấy.
Đa-vít thu nhận cả người Do-thái lẫn người ngoại kiều (IVua 5:13-18) để giúp xây đền thờ. Sự phân cấp chính quyền nầy của Đa-vít do A-đô-ram chịu trách nhiệm (IISa 20:24), cũng được gọi là A-đô-ni-ram (IVua 4:6). 30 ngàn người Do-thái lấy gỗ ở Li-ban khoảng 1 tháng và trở về nhà trong 2 tháng, trong đó có 15 ngàn người ngoại kiều, dưới sự giám sát của những người Do-thái, có nhiệm vụ đẽo những khối đá to từ các ngọn núi (IVua 5:13-18; IVua 9:15-19; IISu 2:17-18).
Việc người Ngoại bang làm việc chung với người Do-thái cho thấy đền thờ thật sự là nhà của mọi dân tộc. Chúng ta không nên nghĩ rằng những người ngoại kiều nầy bị đối xử như những nô lệ, vì Luật pháp Môi-se cấm điều đó (Xu 22:21; Xu 23:9; Le 19:33).
Khoảng một vài năm, Đa-vít đã thu góp được một khối lượng lớn nguyện vật liệu cần thiết cho việc xây dựng đền thờ, tổng giá trị của chúng không thể nào tính được. Nhiều trong số đó là những chiến lợi phẩm lấy được từ những cuộc chiến mà Đa-vít thắng trận (ISu 18:9-11; ISu 26:26-28).
Chiến binh Đa-vít đã đánh bại các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên và cướp đi những của cải của họ để Sa-lô-môn, con trai ông sẽ sống trong hòa bình và có nguồn tài chánh cần thiết để xây nhà cho Đức Chúa Trời.
• Sa-lô-môn, người xây dựng đền thờ (c.5-16).
Một số học giả Kinh Thánh cho rằng Đa-vít khoảng 60 tuổi khi ông bắt đầu chuẩn bị cho kế hoạch xây đền thờ, nhưng chúng ta không biết lúc đó Sa-lô-môn bao nhiêu tuổi. Đa-vít nhận xét về con trai mình là “còn thơ ấu và non nớt” (ISu 22:5; ISu 29:1) và sau khi được lên ngôi, Sa-lô-môn cho mình là “một đứa trẻ nhỏ” (IVua 3:7).
Điều nầy giải thích tại sao Đa-vít đã khuyên răn và động viên con trai ông nhiều lần rằng phải vâng phục Đức Giê-hô-va và làm thành công việc mà Ngài giao phó (ISu 22:6-16; ISu 28:9-10,20-21). Đa-vít cũng khuyên các lãnh đạo hãy khích lệ và giúp đỡ vị vua mới trong trách nhiệm to lớn ấy. Đa-vít muốn mọi việc được chuẩn bị thật chu đáo trước khi ông qua đời hầu cho Sa-lô-môn có mọi thứ ông cần thiết để xây đền thờ cho Đức Chúa Trời.
Đa-vít động viên Sa-lô-môn bằng cách cam đoan rằng việc xây đền thờ là ý muốn của Đức Chúa Trời; như vậy Ngài sẽ giúp hoàn thành nó (c.6-10). Đức Chúa Trời đã giúp cha ông đánh trận cho Đức Giê-hô-va và đem lại sự hòa bình cho Y-sơ-ra-ên, bây giờ là thời điểm xây dựng nhà cho Đức Chúa Trời (IISa 7:9). Đức Giê-hô-va đã cho Đa-vít biết rằng một con trai của ông sẽ hoàn tất công việc nầy (IISa 7:12-16; ISu 17:11; Phuc 12:8-14).
Đa-vít nhấn mạnh rằng đền thờ được xây không phải để tôn vinh Đa-vít hay Sa-lô-môn, nhưng làm vinh danh Đức Giê-hô-va (c.7,8,10,19). Đa-vít muốn tin chắc rằng Sa-lô-môn sẽ làm vinh hiển Đức Giê-hô-va và không xây một công trình nhằm làm rạng danh chính ông ta.
Đa-vít còn động viên con trai mình bằng cách nhắc cho ông ta nhớ về sự thành tín của Đức Chúa Trời (c.11-13).
Nếu ông tin Đức Giê-hô-va và vâng theo Ngài hoàn toàn, Ngài sẽ giữ cho nước Y-sơ-ra-ên hoà bình và an ninh và giúp xây xong đền thờ. (ISu 28:7-9,20).Những từ “Khá vững lòng bền chí; chớ sợ sệt, chớ kinh hãi chi” nhắc chúng ta nhớ những lời Môi-se động viên Giô-suê (Phuc 31:5-8,23) Đức Giê-hô-va nhắc lại lời động viên đó sau khi Môi-se qua đời (Gios 1:6,9). Môi-se và Giô-suê là những người trung tín, và Đức Chúa Trời nhìn thấy họ qua tất cả những thử thách của họ và giúp họ có thể hoàn thành những nhiệm vụ của mình. Ngài cũng sẽ làm như vậy với Sa-lô-môn.
Sự động viện thứ ba của Đa-vít dành cho con trai là số tài sản to lớn mà vua thâu trữ được cùng với rất nhiều nhân công mà ông tuyển mộ (c.14-16). Dường như không thể tin được, nhưng vua nói rằng ông đã tích lũy được 3.750 tấn vàng và 37.500 tấn bạc, còn đồng và sắt thì không thể tính nỗi. Ít nhất, Sa-lô-môn không cần phải lo thu góp những vật liệu nầy.
• Những lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên (c.17-19).
Đa-vít ra lệnh cho các lãnh đạo hợp sức với Sa-lô-môn và giúp ông ta hoàn thành dự án. Ông nhắc họ rằng sự hòa bình và yên ổn mà họ có được chỉ bởi Đức Chúa Trời đã dùng Đa-vít đánh bại các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên và mở mang bờ cõi (Chú ý từ “an tịnh” trong câu 9 và 18 và trong ISu 23:25). Nhưng đền thờ là dành cho Đức Giê-hô-va, nên các lãnh đạo phải tìm kiếm Đức Chúa Trời và có lòng ngay thẳng trước mặt Ngài. Đa-vít đặt ngai vàng mình ở Giê-ru-sa-lem và ông muốn hòm giao ước, ngôi của Đức Chúa Trời cũng ở đó. Điều duy nhất ông quan tâm là danh của Đức Giê-hô-va được vinh hiển.
3. Tổ chức trong đền thờ (ISu 22:1-19) (ISu 24:1-27:34)
Đa-vít biết rằng những chức vụ trong đền thờ cũng phải được tổ chức và chuẩn bị nếu muốn làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Những dự án xây dựng của các Hội thánh thường tập trung nhiều vào tài chính và vật liệu mà họ quên đi khía cạnh thuộc linh, và sau đó hội chúng sa ngã và chia rẽ ấy gặp nhau để cung hiến đền thờ mới xây! Nhà quản trị tài giỏi, Đa-vít đã tổ chức người Lê-vi (đoạn 23), các thầy tế lễ (đoạn 24) ban hát trong đền thờ (đoạn 25), và những nhân sự trong đền thờ (đoạn 26). Đa-vít muốn chắc rằng mọi việc trong nhà Đức Chúa Trời phải “phải phép và theo thứ tự” (ICo 14:40). Khi đưa ra những quyết định nầy, Đa-vít và hai thầy tế lễ đã rút thăm (ISu 24:5-6,31; ISu 25:8; ISu 26:13-14,16). Đây là việc mà Giô-suê đã thực hiện khi ông phân đất ở Đất Hứa cho các chi phái (Gios 14:2; Gios 23:4).
Nhưng tổ chức không phải tự nó là quan trọng, vì những người nầy là những người được sắp xếp để phục vụ. Cụm từ “cai quản công việc của đền Đức Giê-hô-va” được dùng nhiều lần trong những đoạn nầy để nhắc chúng ta rằng chức việc đó là trách nhiệm chính của các đầy tớ của Đức Chúa Trời trong nhà Đức Chúa Trời. (ISu 23:24,26,28,32; ISu 25:1,6,8,30; ISu28:13,14,20,21; ISu 29:5,7; IISu 31:16,17)
Thực hiện công việc là một chuyện, dùng công việc đó để phục vụ Đức Chúa Trời và dân sự Ngài là một chuyện khác.
• Người Lê-vi (ISu 23:1-32 xem thêm đoạn 6).
Tác giả các sách Sử-ký không chép lại những tranh chiến trong hoàng tộc xảy ra khi Sa-lô-môn lên làm vua (IVua 1:1-2:46), nhưng câu 1 cho thấy lễ lên ngôi lần đầu và IVua 29:22; là lần thứ hai, câu ấy có nghĩa đơn giản là Đa-vít tuyên bố Sa-lô-môn là người kế vị ông, như trong ISu 28:4-5, trong khi ISu 29:22 mô tả buổi lễ lên ngôi thật sự. (Chúng ta thường có ấn tượng rằng lễ lên ngôi của Sa-lô-môn được mô tả trong IVua 1:1-53 chỉ được chuẩn bị vội vàng). Lễ lên ngôi chính thức và công khai của Sa-lô-môn được mô tả trong ISu 29:21-25.
Người Lê-vi giúp thầy tế lễ trong đền thánh và theo luật phải từ 30 tuổi trở lên (c.3; Dan 4:3; Dan 8:24). Sau đó độ tuổi được hạ xuống còn 20 tuổi (c.24). 38.000 người Lê-vi được chia thành 4 ban, mỗi ban có một nhiệm vụ riêng: 24.000 người Lê-vi giúp các thầy tế lể trong đền thờ, 6.000 người làm quan xét và các quản lý khác (ISu 26:1-32),4.000 người có nhiệm vụ giữ cửa (ISu 26:1-19), 4.000 người là những người ca hát (ISu 25:1-31).
Có một đền thờ, một thầy tế lễ, một luật pháp thánh, và một Đức Giê-hô-va để phục sự, nhưng có rất nhiều ban thứ và chức việc, không giống như Hội thánh ngày nay. Việc người Lê-vi trông coi đền thờ trong khi các thầy tế lễ hầu việc tại bàn thờ không có nghĩa là công việc của họ kém quan trọng hơn đối với Đức Giê-hô-va. Mỗi một đầy tớ đều quan trọng trước mặt Đức Chúa Trời và mỗi chức vụ đều cần thiết.
Đa-vít không tổ chức ban nhạc trong đền thờ, nhưng ông làm ra những nhạc cụ thích hợp cho họ sử dụng ca ngợi Chúa trong đền thờ (c.5; IISu 29:25-27; Am 6:5). Không có việc gì mà các thầy tế lễ và người Lê-vi làm trong đền thờ lại bị bỏ mặc hoặc theo sự khôn ngoan của con người, nhưng được quy đinh bởi Đức Giê-hô-va. Na-đáp và A-bi-hu, các con trai của A-rôn, thầy tế lễ cả (ISu 24:1-2), Đức Chúa Trời bị giết chết vì đã thờ phượng theo cách riêng (Le 10:1-20).
Những nhiệm vụ của người Lê-vi được nêu ra trong 24-32. Dân Y-sơ-ra-ên được yên ổn trong xứ của mình và không còn là người du cư nữa, nên người Lê-vi không phải vác những vật dụng của đền tạm từ nơi nầy đến nơi khác (Dan 4:1-49). Xây dựng đền thờ có nghĩa là người Lê-vi cần được giao nhiệm vụ mới. Một trong những nhiệm vụ của họ là dọn dẹp và tu sửa đền thờ và các sân để đảm bảo nó luôn sạch đẹp. Bất cứ khi nào, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm khi của lễ được dâng lên, ban hát của người Lê-vi sẽ dâng lời ngơi khen Đức Giê-hô-va.
• Các thầy tế lễ (ISu 24:1-31).
Điều quan trọng là các thầy tế lễ phải đúng là con cháu của A-rôn. Trong thời Đa-vít, ông có hai thầy tế lễ, Xa-đốc là hậu duệ của A-rôn qua Ê-lê-a-xa, và A-hi-mê-léc, con trai của A-bia-tha, xuất thân từ dòng dõi của Y-tha-ma. A-bia-tha là bạn của Đa-vít và là thầy tế lễ trong suốt những ngày tháng lưu vong của ông (ISa 20:20) và cũng trong những ngày Áp-sa-lôm phản nghịch (ISa 15:24-29).
Thật đáng tiếc, A-bia-tha không trung thành với Sa-lô-môn mà ở về phía A-đô-ni-gia trong âm mưu chiếm ngôi của A-đô-ni-gia, và Sa-lô-môn phải trục xuất ông ta ra khỏi Giê-ru-sa-lem (IVua 2:22-27). A-bia-tha xuất thân từ dòng dõi Hê-li, và dòng dõi đó đã bị Đức Chúa Trời chối bỏ và trừng phạt (ISa 2:30-33 xem thêm IISa 22:26-27).74 dòng dõi thầy tế lễ được chọn bằng cách rút thăm để phục sự trong đền thờ theo thời gian biểu và thời gian còn lại phải ở trong thành của thầy tế lễ và dạy dỗ dân sự. Thủ tục nầy vẫn được làm theo khi Xa-cha-ri hầu việc trong đền thờ (Lu 1:5-9). Ông xuất thân từ dòng dõi của A-bi-gia (ISu 24:10).
• Ban nhạc (ISu 25:1-31).
Ngoài thổi kèn theo nghi lễ (Dan 10:1-36), không có chỗ nào trong Luật Pháp Môi-se có đề cập đến việc kết hợp âm nhạc với thờ phượng, tuy nhiên đoạn nầy mô tả việc tổ chức thật chu đáo 24 ban nhạc. Đa-vít là tác giả các bài thi-thiên và là người có tài đánh đàn (IISa 23:1-2; IISa 16:18) và có thể chính Đa-vít là người đầu tiên đưa âm nhạc vào sự thờ phượng trong đền thờ (câu 6), và Đức Giê-hô-va tán thành những cải cách nầy (IISu 29:25). Đàn cầm, đàn sắt, và chập chỏa được đề cập ở đây (câu 1), và kèn được nhắc đến ở những chỗ khác (ISu 13:8; ISu 15:24,28; IISu 5:13; IISu 20:28). Cũng có những ban hát nữa (ISu 15:27).
Ba người Lê-vi có ân tứ được giao việc hướng dẫn ban nhạc trong đền thờ. A-sáp đã viết 12 bài thi-thiên (50,73-83) và chơi chập chỏa (ISu 16:5). Hê-man cũng được gọi là “đấng tiên kiến của vua” (ISu 25:5), có nghĩa là ông có ân tứ nhận biết ý muốn Đức Chúa Trời. Đức Giê-hô-va hứa ban cho ông một gia đình lớn (c.5), tất cả các con của ông đều ở trong ban nhạc. Tên của Giê-đu-thun có thể viết là “Giu-đa” có nghĩa là “ngợi khen”, một cái tên thích hợp với chức vụ hướng dẫn ban hát. Giê-đu-thun cũng có liên quan với Thi thiên chương 39,62 và 77.
Từ “nói tiên tri” được dùng 3 lần trong 1-3 để mô tả chức vụ của A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun. Từ nầy thường chỉ về chức vụ của các tiên tri trong việc công bố Lời của Đức Chúa Trời. Họ nói những điều cần thiết trong hiện tại và không chỉ tiên báo về tương lai.
Mi-ri-am hướng dẫn những người phụ nữ ca ngợi Đức Chúa Trời, bà được gọi là nữ tiên tri (Xu 15:20).Gốc từ hy-ba-lai naba có nghĩa là “sôi nổi” để nói lên sự nhiệt tình và sôi nổi của tiên tri khi công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời. Có người nói nó xuất xứ từ gốc từ tiếng A-rập có nghĩa là “công bố”. Tâm điểm là những người hướng dẫn ban nhạc trong đền thờ không nhất thiết phải là những tiên tri trong nghĩa chuyên môn, nhưng họ và ban nhạc của họ công bố Lời (sứ điệp) của Đức Chúa Trời với niềm vui và sự nhiệt tình.
• Những nhân sự khác trong đền thờ (ISu 26:1-32). Những nhân sự nầy có thể kể đến như người giữ cửa (c.1-19) người trông coi kho tàng (câu 20-28), các quan chức khác ở ngoài Giê-ru-sa-lem (c.29-32). Những người giữ cửa được giao việc giữ cửa đền thờ, 4 người ở cửa bắc và nam, và 6 người ở cửa đông và tây (c.17-18). Hai người canh giữ kho tàng, và cũng có những người canh gác khuôn viên bên ngoài đền thờ.
Có những chi tiết về khu vực đền thờ không được ghi lại trong Kinh Thánh và điều nầy làm cho chúng ta khó mô tả chính xác. Có lẽ những người gác cửa có nhiệm vụ quan sát người ra kẻ vào để bảo đảm không ai cố ý làm ô uế đền thờ hoặc có thái độ không xứng với nơi thánh của Đức Giê-hô-va.
Những người giữ kho tàng (c.20-28) canh gác hai kho tàng của đền thờ, một kho chứa các của lễ nói chung và kho còn lại chứa những “các vật thánh” mà dân sự dâng lên , đặc biệt là những của cải đoạt được từ chiến trường (c.20-28). (IIVua 12:14-16) Sau-lơ và Đa-vít đã làm giàu thêm cho kho tàng nầy, những lãnh đạo khác cũng như vậy, như tiên tri Sa-mu-ên và hai tướng Áp-ne và Giô-áp.
Nhóm viên chức thứ ba trong đền thờ (c.29-32) là các quan trưởng và quan xét có nhiệm vụ ở bên ngoài đền thờ và cả vùng phía tây Giô-đanh. Họ giúp vua giữ mối liên hệ với các chi phái Ru-bên và Gát và phân nữa chi phái Ma-na-se. Nhưng họ còn có nhiệm vụ nhắc cho các chi phái nầy quan tâm đến công việc của Đức Chúa Trời (c.32) đó là những việc rất quan trọng của đất nước. Bị tách biệt với các chi phái khác, dân Y-sơ-ra-ên bên bờ tây sông Giô-đanh có thể dễ dàng xao lãng những ngày lễ hàng năm thậm chí cả ngày Sa-bát. Điều nầy giải thích tại sao các quan chức nầy được kể là những người hầu việc trong đền thờ. Có thể họ còn có nhiệm vụ thu thuế.
-1-32; xem giải nghĩa ISu 22:1-19.
-1-31; xem giải nghĩa ISu 22:1-19.
-1-31; xem giải nghĩa ISu 24:1-31.
-1-32; xem giải nghĩa ISu 24:1-31.
4. Điều hành quân (ISu 27:1-34)
Để cho Sa-lô-môn có thể xây đền thờ, nước Y-sơ-ra-ên phải được giữ vững và hòa bình với các nước láng giềng, vì Sa-lô-môn còn trẻ và không kinh nghiệm trận mạc như Đa-vít cha người. Nên rất cần phải thành lập quân đội, các lãnh đạo chi phái, những người quản lý và cố vấn để giúp riêng cho vua.
• Các quan trưởng (c.1-5).
Đội quân của Đa-vít bao gồm 288.000 người, không phải là một lực lượng quá lớn được chia thành 12 ban với 24.000 người mỗi ban, như vậy mỗi người phục vụ một tháng trong năm. Tuy nhiên, nếu có chuyện khẩn cấp, toàn bộ đội quân có thể được triệu tập.
Mỗi tháng một ban có nhiệm vụ làm “người mạnh dạn” của Đa-vít, tên của họ được kể trong ISu 11:1-35. Mười hai quan trưởng lần lượt Gia-sô-bê-am (c.2-3 ISu 11:11), Đô-đai (c.4 ISu 11:12), Bê-na-gia, làm đầu nhóm cận vệ của Đa-vít (c.5-6; ISu 11:22-25), A-sa-ên, cháu của Đa-vít (c.7; ISu 11:26), Sa-mê-hút (c.8; ISu 11:27;), Y-ra (c.9; ISu 11:28), Hê-lết (c.10; ISu 11:27), Si-bê-cai (c.11; ISu 11:29), A-bi-ê-xe (c.13; ISu 11:30), Ma-ha-rai (c.13; ISu 11:30), Bê-na-gia (c.14; ISu 11:31), và Hiên-đai (c.15; ISu 11:30).
• Các quan trưởng chi phái (c.16-24).
Mỗi chi phái có một người đứng đầu (Dan 1:1-2:34 4:1-49) và các chi phái phải được chia nhỏ ra (10 người, 50 người, 100 người, 1000 người Xu 18:17-23), một đơn vị nhỏ đó có một người đứng đầu. Vì lý do nào đó mà Gát và A-se không được đề cập trong danh sách nầy, nhưng để đủ số 12, chi phái Lê-vi được kể chung với cả hai chi phái Giô-sép (Ép-ra-im và Ma-na-se). Vua có thể triệu tập 12 người và qua họ có thể truyền chiếu chỉ cho tất cả dân chúng.
Sự đề cập những chi phái và những người lãnh đạo các chi phái gợi nhớ cuộc tu bộ đáng buồn của Đa-vít (ISu 21:1-17; IISa 24:1-25). Những thông tin bổ sung nầy giúp chúng ta hiểu tại sao các con số có sự khác nhau trong hai lần đếm số dân (ISu 24:9; ISu 21:5), vì Giô-áp không hoàn tất việc tu bộ và không phải tất cả con số đều được ghi lại.
• Các quản lý của vua (c.25-31).
Suốt thời trị vì của Sau-lơ, có một vài loại thuế (ISa 17:25), nhưng chúng không được đề cập trong đoạn thuật lại thời trị vì của Đa-vít. Dưới thời Sa-lô-môn, những loại thuế trở nên quá đáng (IVua 4:7,26-28; IVua 12:1-24). Đa-vít có ruộng, vườn cây, vườn nho, đàn gia súc …riêng và nhờ đó ông được đáp ứng những nhu cầu cần thiết cho cung điện. Đa-vít có kho thâu trữ sản vật của ông, và vì cách chi tiêu của ông ông xa xỉ như của Sa-lô-môn, những gì Đa-vít nhận được từ Đức Chúa Trời nhiều hơn nhu cầu của ông.
• Những vị cố vấn của vua (c.32-34).
Mỗi người lãnh đạo cần nhóm cố vấn riêng để khuyên nhủ vua, xem xét những quyết định và động cơ của vua, giúp vua tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời.
Giô-na-tha, cậu của Đa-vít, nhận địa vị cao trọng nầy. Giê-hi-ên là giáo sư cho các vương tử. A-hi-tô-phên là người bạn thân tín và và người cố vấn khôn ngoan của Đa-vít, nhưng ông theo phe Áp-sa-lôm chống nghịch vua và tự vẫn khi Áp-sa-lôm không nghe theo lời khuyên của ông (IISa 15:30-31; IISa 16:15-17:23). Hu-sai là người cố vấn mà lời khuyên của ông được Áp-sa-lôm nghe theo, và làm cho quân phiến loạn thất bại.
“Giê-hô-gia-đa, con trai của Bê-na-gia” thay thế vị trí của A-hi-tô-phên.
Bê-na-gia nầy có thể là contrai của thầy tế lễ Bê-na-gia, là người làm đầu nhóm cận vệ của Đa-vít. Thầy tế lễ A-bia-tha là một trong những người thân tín nhất của Đa-vít (ISa 22:20-23), dù cho Giô-áp và Đa-vít không thân nhau, Đa-vít rất cần sự lãnh đạo của ông ta trong quân đội mình khi biết rõ suy nghĩ của ông ta. Giô-áp không luôn được Đa-vít hết lòng thương mến.
5. Sự dâng hiến thành tâm (ISu 27:1-34; ISu 28:1-29:20).
Không cơ cấu hay tổ chức nào của con người có thể thay thế được tấm lòng thành tâm dâng hiến cho Đức Giê-hô-va. Đa-vít rồi sẽ rời khỏi cuộc đời nầy, đứa con trai trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm của ông sẽ kế vị ông, và việc xây dựng đền thờ là nhiệm vụ vượt quá khả năng của bất kỳ người nào. Nếu không có sự ban ơn của Đức Chúa Trời, con người đừng hy vọng thành công. Những người lãnh đạo đến và đi, nhưng Đức Chúa Trời còn lại đời đời; chính Ngài là Đấng mà chúng ta phải làm đẹp lòng.
• Đa-vít triệu tập những người lãnh đạo (ISu 28:1-8). Đa-vít triệu tập các lãnh đạo, được đề cập trong đoạn trước, tại Giê-ru-sa-lem và nhắc họ nhớ rằng ông rất ước ao xây một đền thờ cho Đức Giê-hô-va.Một người dân rất nên biết lòng của người lãnh đạo mình và cách Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của người đó. Đa-vít nhấn mạnh rằng chính Đức Chúa Trời đã chọn và xức dầu cho ông làm vua và chính Ngài cũng đã chọn Sa-lô-môn làm người kế vị cho ông.
Ông nhắc các lãnh đạo nhớ lại giao ước đầy lòng khoan dung của Đức Chúa Trời với nhà Đa-vít và nhớ trách nhiệm của họ là phải vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời. Nếu họ giữ những điều khoản trong giao ước và vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài và ban phước cho đất nước. Một khi họ vâng giữ giao ước của Đức Chúa Trời, họ sẽ có được xứ và hưởng được phước lành của đất.
Đa-vít giao nhiệm vụ cho Sa-lô-môn (ISu 28:9-10).Sa-lô-môn phải có bổn phận làm gương trong việc vâng giữ luật pháp của Đức Chúa Trời.
“Hết lòng” có nghĩa là dâng cho Chúa tất cả tấm lòng mình, không chia xẻ nó cho ai. Thật đáng tiếc là trong những năm cuối đời Sa-lô-môn đã ăn ở hai lòng; ông bắt đầu thờ hình tượng, vì điều nầy mà Đức Chúa Trời đã trừng phạt và đất nước bị chia cắt. Lần thứ hai Đa-vít động viên Sa-lô-môn hãy “mạnh dạn” (ISu 22:13), và ông đã lập lại lần nữa trước khi dứt lời (c.20). Tiến sĩ Lee Roberson thường nói, “Mọi chuyện có thể xảy ra với người lãnh đạo, hoặc thành công hoặc thất bại” . Nếu người lãnh đạo trung tín với Đức Giê-hô-va và tin cậy Ngài, Đức Chúa Trời sẽ cho họ thành công.
Đa-vít trao những món quà của mình cho dự án (c.11-21). Món quà đầu tiên của Đa-vít dành cho Sa-lô-môn là bản thiết kế nhà thờ và những vật dụng trong nó (c.11-19). Đền thờ phải xây theo kiểu của đền tạm nói chung; đền thờ Sa-lô-môn xây rộng lớn hơn và công phu hơn đền thờ Môi-se xây. Đa-vít nhắc Sa-lô-môn rằng những bản thiết kế nầy không phải là những gợi ý của Đức Chúa Trời, nhưng là nhiệm mạng mà Ngài ủy thác.
Việc tổ chức các thầy tế lễ, người Lê-vi cũng là nhiệm vụ Đức Chúa Trời giao phó.Môi-se phải làm mọi việc theo khuôn khổ mà Đức Chúa Trời ban cho ông trên núi (Xu 25:9,40; He 8:5), và Sa-lô-môn cũng vậy. Những bản thiết kế đền thờ cho biết cần bao nhiêu nguyên vật liệu cho mỗi bộ phận của công trình và mỗi vật dụng trong nó (c.13-19), không được thay đổi một chút gì.
Món quà thứ hai Đa-vít cho là lời khích lệ để Sa-lô-môn được thêm vững đức tin và ý chí (c.20). Giống như Môi-se đã khích lệ Giô-suê (Phuc 31:6-7), Đa-vít nói với Sa-lô-môn rằng Đức Giê-hô-va sẽ không bao giờ lìa bỏ ông và ông sẽ tìm thấy trong Ngài tất cả sự khôn ngoan và sức mạnh mà mình cần để hoàn tất dự án xây đền thờ.
Món quà thứ ba dành cho Sa-lô-môn là một dân tộc đã được chuẩn bị sẳn sàng cho dự án (c.21). Chúng ta thấy cách Đa-vít tổ chức các cấp lãnh đạo, cả về dân sự lẫn tôn giáo, nên họ có thể làm việc với nhau cách đồng bộ và nghe theo lệnh vua mới. Giống như Đức Giê-hô-va ban cho những con người khôn ngoan để dựng đền tạm (Xu 35:25-35; Xu 36:1-2), thì Ngài cũng ban cho Sa-lô-môn những nhân công cần thiết để xây dựng đền thờ cho Ngài. Lời hứa nầy sẽ được thực hiện (IISu 2:13-14). Hơn nữa, tất cả dân sự sẽ nghe lệnh của vua mới và vâng theo ông.
Món quà thứ ba của Đa-vít chính là kho của cải của ông mà ông đã tích lũy để xây đền thờ (ISu 29:1-5). Theo ISu 22:14, những chiếm lợi phẩm trong chiến tranh dâng cho Đức Giê-hô-va có đến 3.750 tấn vàng, 37.500 tấn bạc. Đa-vít bổ sung thêm vào đó của cải riêng của mình là 110 tấn vàng và 260 tấn bạc (c.4). Như vậy có nghĩa Đa-vít đã cung cấp cho việc xây đền thờ 3.860 tấn vàng và 37.760 tấn bạc.
Nhưng vua còn kêu gọi các lãnh đạo dâng rời rộng cho “quỹ xây dựng” (c.6-9), và họ đóng góp được 190 tấn và 185 pao vàng, 375 tấn bạc, 675 tấn đồng và 3.750 tấn sắt, cùng nhiều đá quý khác. Điều nầy nghe giống như “vàng, bạc, bửu thạch” của Phao-lô (ICo 3:12).
Điều đánh ghi nhận về những người lãnh đạo và những lễ vật của họ đó là họ đã dân ghiến cách vui lòng, lần nầy chúng ta được nhắc về lời dạy của Phao-lô trong IICo 8:1-5; IICo 9:7.
• Đa-vít cầu khẩn Đức Giê-hô-va (ISu 29:10-21).
Lời cầu nguyện trang nghiêm nầy bắt đầu bằng lời ngợi khen và tôn vinh Đức Giê-hô-va (c.10-14). Đức Chúa Trời ban ơn dư dật cho Đa-vít, nên ông dâng lời chúc tạ cho Ngài! Ông chúc tạ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và nhận biết sự cao cả, quyền năng, vinh hiển, đắc thắng và oai nghi của Ngài.
Mọi sự thuộc về Đức Chúa Trời! Đức Chúa Trời là Chúa tể muôn vật! Danh Ngài cao cả và vinh quang! Nhưng Đa-vít và dân sự là gì mà có thể dâng cho Đức Giê-hô-va cách rời rộng như vậy? Xét cho cùng, mọi thứ đều thuộc về Đức Giê-hô-va, và khi chúng ta dâng cho Ngài, chúng ta chỉ trả lại cho Ngài những gì Ngài ban cho chúng ta.
Trái ngược với Đức Chúa Trời đời đời, Đa-vít nhận mình giống như bao người khác, là người khách lạ ở trọ trên đất nầy. Đức Chúa Trời đời đời vô cùng, nhưng sự sống của con người rất ngăn ngủi và không ai có thể ngăn được sự chết. (Ở đây Đa-vít nói giống như Môi-se nói trong Thi 90:1-17). Vì tất cả mọi vật đều thuộc về Đức Chúa Trời, cuộc sống nầy ngắn ngủi, điều khôn ngoan nhất mà chúng ta có thể làm là dâng lại cho Đức Chúa Trời tất cả những gì Ngài ban cho chúng ta và đầu tư vào chỗ đời đời.
Ông cam đoan với Đức Chúa Trời rằng những lể vật ấy xuất phát từ tấm lòng của ông và của dân sự, họ đã dâng lên với lòng vui mừng và thành thật. Đa-vít cầu xin Chúa cho dân sự luôn có lòng rộng rãi, biết ơn và vui mừng, và họ luôn trung thành với Đức Chúa Trời của họ. Nói cách khác, họ chỉ thờ phượng một mình Đức Chúa Trời và không làm Đức Chúa Trời của họ buồn lòng.
Như một người cha tin kính, Đa-vít cầu thay cho Sa-lô-môn trước khi dứt lời cầu nguyện; ông xin Chúa cho con trai ông luôn biết vâng theo luật pháp và xây xong đền thờ để dâng vinh quang cho Đức Giê-hô-va. Sau đó ông kêu gọi dân sự chúc tạ Đức Chúa Trời, và họ nghe theo, quì gối, sấp mặt xuống đất để tỏ lòng tôn kính và đầu phục. Thật là một sự bắt đầu cho chương trình xây dựng!
-1-20; xem giải nghĩa ISu 28:1-21.
6. Ngày lễ vui mừng (ISu 29:21-25)
Ngày hôm sau, Đa-vít dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va và mở tiệc cho những người lãnh đạo. Của lễ thiêu được dâng lên để bày tỏ tấm lòng tận hiến của cả dân sự. Nhưng Đa-vít cũng dâng các của lễ thù ân, và một phần trong các của lễ nầy được dùng làm đồ ăn trong buổi tiệc thông công. Đỉnh điểm của lễ nầy là lễ lên ngôi của Sa-lô-môn. Điều quan trọng là tất cả những người đại điện cho cả dân Y-sơ-ra-ên đều công nhận Sa-lô-môn là vua được Đức Chúa Trời xức dầu; nếu không, ông không bao giờ hướng dẫn được họ xây đền thờ.
Đa-vít được Sa-mu-ên xức dầu nơi riêng tư (ISa 16:13) hai lần nơi công khai tại Hếp-rôn (IISa 2:4; IISa 5:3), nên ông được xức dầu 3 lần. Trong buổi lễ nầy, Xa-đốc được xức dầu làm thầy tế lễ cả, điều nầy có nghĩa là A-bia-tha đã bị loại ra một bên. Cuối cùng A-bia-tha phản bội và ủng hộ A-đô-ni-gia và bị cho lui về ở ẩn (IVua 2:26-27,35).
Sách II Sa-mu-ên kết thúc một cách trang trọng bằng đoạn thuật về sự băng hà của vua Đa-vít. Một câu châm-ngôn Nga có nói, “Ngay cả vị vua vĩ đại nhất cuối cùng cũng bị chôn dưới 3 tất đất”. Đúng vậy, nhưng có một vài người có thể làm vinh hiển Đức Giê-hô-va từ mồ mả mình!
Từ ngày đó trở đi, các vua của Y-sơ-ra-ên đều được đem ra so sánh với Đa-vít (IVua 3:3; IVua 15:5; IIVua 18:3; IIVua 22:2; IIVua 14:3; IIVua 15:3,34; IIVua 16:2; IIVua 18:3; IIVua 20:3).
Di sản của Đa-vít để lại thật giàu có và tồn tại lâu đời. Ông đã thống nhất đất nước, đem lại cho dân chúng sự hòa bình trên đất của họ, và mở mang bờ cõi của đất nước. Đức Chúa Trời đã chọn ông để lập một triều đại, mà qua đó Chúa Cứu Giê-xu đến thế gian. Ông để lại rất nhiều của cải dùng cho việc xây đền thờ. Ông là người đã mua miếng đất để xây đền thờ. Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-vít bản đồ thiết kế của đề thờ, và Đa-vít đã tuyển mộ nhân công xây dựng nó.
Đa-vít đã viết bài hát cho người Lê-vi ca ngợi trong giờ thờ phượng Đức Chúa Trời, và ông cũng cung cấp những nhạc cụ. Ông tổ chức các chức việc trong đền thờ và dạy cho dân sự rằng thờ phượng Đức Chúa Trời phải là ưu tiên một đối với họ và đất nước của họ. Trước khi qua đời, ông đã động viện Sa-lô-môn, chỉ dạy những người lãnh đạo, trao cho vua mới một đất nước thống nhất, với những con người đang nhiệt tình với dự án xây đền thờ cho Đức Chúa Trời. Chúng ta ngày nay học được từ cuộc đời Đa-vít cả những điều nên làm theo và những điều nên tránh. Chúng ta có những bài thi-thiên của Đa-vít để đọc, để suy gẫm và để hát nữa.
bottom of page