top of page

II SA-MU-ÊN (1)

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Lịch Sử (Cựu-ước)



1. ĐA-VÍT, VUA GIU-ĐA (IISa 1:1-27 ISu 10:1-12)


Đa-vít...

...phải tha hương trong 10 năm để bảo toàn mạng sống, và trốn mặt Sau-lơ chờ đến ngày Đức Chúa Trời trao ngôi vua Y-sơ-ra-ên cho ông. Suốt những năm tháng khó khăn đó, Đa-vít được tăng trưởng trong đức tin và lòng tin kính, và được Đức Chúa Trời trang bị cho nhiệm vụ mà Ngài đã chọn ông làm.

Khi ngày chiến thắng xảy đến, Đa-vít cẩn thận để không gây đột ngột cho dân sự, nhiều người trong số họ vẫn còn trung thành với Sau-lơ. Ông từng bước tiếp cận, và chúng ta không thể không ngưỡng mộ Đa-vít vì sự khôn ngoan và tính kiên nhẫn của ông khi ông thu phục được lòng trung thành của dân sự và thống nhất được một đất nước tan rã. “Như vậy, người chăn giữ họ theo sự thanh liêm lòng người, và lấy sự khôn khéo tay mình mà dẫn dắt họ” (Thi 78:72)


1. Sự xác minh (IISa 1:1-16)

Đức Chúa Trời ngăn chặn Đa-vít và lính của ông để họ không giúp dân Phi-li-tin đánh lại sau-lơ và Y-sơ-ra-ên, nên Đa-vít trở về Xiếc-lác. Ở đó ông phát hiện dân A-ma-léc xâm nhập và đem đi tất cả con người, của cải; để lại một thành đổ nát hoang tàn. Đức Chúa Trời trong ơn thần hựu của Ngài đã dẫn đắt Đa-vít đến trại quân A-ma-léc, Đa-vít đánh kẻ thù tháo chạy, giải cứu phụ nữ và trẻ em, thu hồi tất cả những gì đã bị cướp đi. Sau đó họ trở về Xiếc-lác và chờ tin tức từ chiến trường (ISa 29:1-30:31)


Một người đưa tin nói dối (IISa 1:1-10).

Trong ngày Đa-vít tàn sát quân A-ma-léc, quân Phi-li-tin áp đảo Sau-lơ và quân của ông ta ở núi Ghinh-bô-a, và chính nơi nầy Sau-lơ và ba con trai ông ta bị giết chết (ISa 31:1-13 ISu 10:1-12). Ngày hôm sau, trong khi Đa-vít trở về Xiếc-lác, quân Phi-li-tin phỉ báng xác Sau-lơ và xác của các con trai người, một người đưa tin người A-ma-léc vội vã chạy đến báo cho Đa-vít. Ông ta mất ít nhất 3 ngày để đi từ chiến trường đến Xiếc-lác, cách khoảng 80 dặm. Như vậy, a-vít ở Xiếc-lác được 3 ngày thì nhận được tin Y-sơ-ra-ên thất trận, Sau-lơ và 3 con trai người đã chết.


Trong Kinh Thánh có ba chỗ chép về sự chết của Sau-lơ và các con trai người: ISa 31:1-13, tin tức của người đưa tin nói trên được chép trong IISa 1:1-10, và một chỗ khác nữa trong ISu 10:1-14. Theo ISu 10:4-5, Sau-lơ đã tự đâm gươm vào ngực mình mà chết, nhưng người đưa tin nói rằng chính ông ta đã giết Sau-lơ để Sau-lơ khỏi bị đau đớn và sỉ nhục nhiều hơn. ISu 10:14 cho chúng ta biết rằng chính Đức Chúa Trời đã giết sau-lơ vì tội chống nghịch, đặc biệt là tội đi tìm lời khuyên của bà bóng. Những đoạn tường thuật trong ISa 31:13 và ISu 10:1-14 khó có thể phù hợp với tin báo của người đưa tin nầy, nên rất có thể ông ta đã nói dối.


Chắc chắn người đàn ông nầy đã có mặt ngoài chiến trường. Trong khi ông ta đang tìm của cải trên những xác lính tử trận, ông thấy xác của Sau-lơ và các con Sau-lơ trước khi quân Phi-li-tin phát hiện ra, và ông ta đem về những biểu tượng vương quyền của Sau-lơ; vòng vàng và mão miện. Nhưng người A-ma-léc đó đã không giết Sau-lơ như lời ông ta kể, vì Sau-lơ và các con trai đã chết trước đó rồi. Vì lời nói dối nầy mà ông ta phải chết.


Một trong những từ chìa khóa trong đoạn nầy là “ngã chết”, được tìm thấy trong các câu 4,10,12,19,27. Khi Sau-lơ bắt đầu lên ngôi vua, ông được mô tả là “người cao hơn cả dân sự từ vai trở lên” (ISa 9:2; ISa 10:23; ISa 16:7) nhưng đến cuối cùng ông là vị vua ngã chết trên chiến trường.

Sau-lơ đã ngã té vì hoảng sợ trong nhà bà bóng (ISa 28:20), và ông đã ngã ngoài chiến trường trước mặt kẻ thù (ISa 31:4). Đa-vít hạ mình trước Chúa và Ngài đã nâng ông dậy, nhưng sự kiêu ngạo và phản nghịch của Sau-lơ đã dẫn ông đến kết cuộc đáng hổ thẹn. “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo 10:12). Sau-lơ là vua được xức dầu vào buổi binh minh của một ngày mới (ISa 9:26-27) nhưng ông chọn cách buớc đi trong sự tối tăm (ISa 28:8)và không vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời.


Một trại quân đau buồn (IISa 1:11-12).

Người đưa tin chắc phải bất ngờ và lo lắng lắm khi thấy Đa-vít và quân lính xé quần áo khóc than cho cái chết của Sau-lơ. Ông ta nghĩ rằng mọi người ở Xiếc-lác sẽ vui mừng khi biết tin Sau-lơ tử trận, và biết điều đó có nghĩa là kết thúc thời gian lánh nạn của họ. Ông ta mong chờ được ban thưởng vì tin vui mà ông mang về, nhưng ông không biết rõ tấm lòng của Đa-vít. Trong cái nhìn của Đa-vít, Sau-lơ chưa bao giờ là kẻ thù của mình (IISa 22:1) và qua hai cơ hội có thể giết chết Sau-lơ, ông cho thấy rõ ông không bao giờ tra tay trên người được Đức Chúa Trời xức dầu (ISa 24:1-7; ISa 26:1-11).


Người đưa tin xác nhận ông ta là người A-ma-léc, con trai của người ngoại bang (IISa 1:13). Nhưng nếu ông ta đang sống trong đất của Y-sơ-ra-ên, chắc chắc ông ta biết rằng vua của Y-sơ-ra-ên là người được Đức Chúa Trời xức dầu. Nếu một người Do-thái trung thành tìm thấy 4 cái xác nầy, anh ta sẽ tìm cách giấu chúng khỏi mắt kẻ thù; hưng người A-ma-léc là kẻ thù của Y-sơ-ra-ên, chính là dân mà Sau-lơ phải xóa sổ (ISa 15:1-35). Có thể người đưa tin nầy là người A-ma-léc chính cống, không phải là người ngoại bang kiều ngụ tại Y-sơ-ra-ên. Ông ta giống như người “theo sau trại quân”; sống bằng cách thu gom chiến lợi phẩm sau đội quân Phi-li-tin.

Khi xưng mình là con trai của người ngoại bang, ông ta muốn nhận được đặc ân theo luật pháp Môi-se, đặc ân mà chắc chắn ông không xứng đáng được nhận (Xu 22:21; Xu 23:9; Le 19:33; Le 24:22; Phuc 24:17).


Án phạt công bình (ISa 1:13-16).

Đến tối, khi thời gian than khóc kết thúc, Đa-vít chất vấn thêm người đưa tin và quyết định ông ta đáng phải chết. Nếu câu chuyện ông ta kể là đúng sự thật, thì ông ta đã giết vua được xức dầu của Đức Chúa Trời và như vậy phải chết. Nếu câu chuyện ông ta kể là sai, thì việc ông ta bịa ra câu chuyện giết vua cho thấy được ác tâm của ông ta.

“Ta cứ lời ngươi nói ra mà xét ngươi” (Lu 19:22). Người Do-thái được lệnh phải tiêu diệt người A-ma-léc (Xu 17:8-16; Phuc 25:17-19), nên khi Đa-vít ra lệnh giết người đưa tin, ông chỉ đang vâng theo Đức Chúa Trời, điều mà Sau-lơ không thực hiện (ISa 15:1-35).


Khi giết người đưa tin, Đa-vít chứng minh cho tất cả mọi người thấy rằng ông không phải là kẻ thù của Sau-lơ và không vui mừng trước cái chết của Sau-lơ. Đây là việc làm nguy hiểm vì Đa-vít đang sống trong đất của người Phi-li-tin, và vua Phi-li-tin vẫn nghĩ rằng Đa-vít là bạn và là một đồng minh của ông ta. Vì Đa-vít đứng về phía vua Y-sơ-ra-ên có thể bị xem là hành động mưu phản. Nhưng Đức Giê-hô-va biện hộ cho Đa-vít và Đa-vít biện hộ cho Sau-lơ nên Đa-vít không lo ngại gì. Cách cư xử của Đa-vít và quân lính mình trước tin tức về Y-sơ-ra-ên sẽ giúp thuyết phục họ tin rằng Đa-vít thật đã được Đức Chúa Trời chọn để làm vua của họ.


2. Sự than khóc (IISa 1:17-27)

Sự than khóc của Đa-vít trước cái chết của Sau-lơ và Giô-na-than xuất phát từ tấm lòng thành của ông, và để người ta thương nhớ đến họ, Đa-vít đã viết ra một khúc bi thương thật cảm động dành cho họ. Ông ra lệnh dân sự ở chi phái Giu-đa phải học thuộc và lưu truyền bài ai ca nầy, và chắc chắn các chi phái khác cũng biết đến và cảm kích vì điều đó. Người phương Đông không e ngại bày tỏ cảm xúc mình, và những bài thơ của họ thường được phổ nhạc để giúp họ thể hiện những trải nghiệm vui buồn. Môi-se dạy Y-sơ-ra-ên hát để cảnh cáo họ về sự bội đạo (Phuc 32:1-52), và các tiên tri thường viết những bài ca truy điệu để công bố về sự đoán phạt sắp xảy ra (Es 14:12; Exe 27:1; Exe 28:11-19).


Bài ai ca này về sau được biết với tên “bài ai ca về Cung” (c.18) và được chép lại trong sách của Gia-sa (Gios 10:12-13), là bộ sưu tập những bài thơ và bài hát viết về những sự kiện lớn trong lịch sử Y-sơ-ra-ên. “Nhân sao các kẻ anh hùng nầy bị ngã chết?” là chủ đề chính trong bài ai ca nầy (c.19,25,27), và trong đó có ý nhấn mạnh đến sự vĩ đại của Sau-lơ và Giô-na-than dù bị thất bại và tử trận. Đa-vít ca ngợi tài năng, sự dũng cảm và sự hy sinh của họ cho đất nước. Như Hêbơrơ 11, bài hát nầy không có ghi lại gì về tội lỗi và những sai lầm trong cuộc đời của Sau-lơ và Giô-na-than.


Đa-vít gọi dân Y-sơ-ra-ên (IISa 1:19-20).

Đa-vít gọi vua đã chết và quân đội của vua là “Ôi Y-sơ-ra-ên! Kẻ danh vọng của ngươi” và “các kẻ anh hùng”. Những lời ấy không nhằm nói về vinh quang hay hùng mạnh trong trận ở Ghinh-bô-a, nhưng Sau-lơ vẫn là người lãnh đạo được Đức Chúa Trời chọn và quân đội của ông là quân đội của Giê-hô-va vạn quân.

Chúng ta thường quên rằng Sau-lơ và quân đội của ông đã liều mạng sống mình để chiến đấu và thắng nhiều trận lớn (ISa 14:47-48) và người Do-thái đã từng hát “Sau-lơ giết hàng ngàn” (ISa 18:17). Đa-vít khuyên dân sự đừng đồn ra tin tức về sự thất bại của Y-sơ-ra-ên, ì dân Phi-li-tin rất quan tâm đến điều đó. Gát là thủ phủ của Phi-li-tin, nơi các lãnh đạo của họ đang vui mừng chiến thắng, và Ách-kê-lôn là trung tâm tôn giáo chính, nơi dân sự đang tạ ơn các thần tượng của họ vì đã giúp quân đội họ chiến thắng.


Đa-vít gọi các núi Ghinh-bô-ai (IISa 1:21).

Đây là chiến trường mà Sau-lơ đã bại trận (IISa 1:6 ISa 28:4; ISa 31:1). Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời từ bỏ nơi nầy và không ban mưa hay sương móc cho nó, cây cối của nó không sinh hoa kết quả và cư dân nó không có lễ đầu mùa dâng lên cho Đức Chúa Trời. Ông muốn mọi tạo vật của Đức Chúa Trời cùng với ông than khóc cho sự thất bại của Y-sơ-ra-ên và sự sụp đổ của vua họ. Khi Đa-vít nhắc đến cái khiên, ông nói theo nghĩa đen hay nghĩa bóng, hay cả hai?

Sau-lơ mang theo mình một cái khiên, và vua Y-sơ-ra-ên được so sánh với cái khiên (Thi 83:9; Thi 89:18). Các chiến binh thường thoa dầu những cái khiên bằng da của họ để bảo quản chúng, nhưng vua cũng là người lãnh đạo được xức dầu của Đức Chúa Trời.Sau-lơ và ba con trai đã đánh mất những cái khiên của mình và chúng đã vấy máu.


Đa-vít khen ngợi Sau-lơ và Giô-na-than (IISa 1:22-23).

Đây là trọng tâm của bài ai ca nầy, nó mô tả Sau-lơ và Giô-na-than như những chiến binh đắc thắng, mũi tên của Giô-na-than luôn trúng đích và gươm của Sau-lơ “không hề trở về mà không vinh quang”. Họ “bay như chim ưng” (Phuc 28:49) và mạnh như sư tử (IISa 17:10). Nhưng đối với Đa-vít, những người nầy không chỉ là những người lính vĩ đại, họ còn là những người tốt, được yêu mến khi còn sống và khi chết vẫn trung thành với nhau và với dân tộc.

Từ cuộc gặp gỡ với Sa-mu-ên trong nhà bà bóng, Sau-lơ biết rằng ông và các con ông sẽ chết cùng một ngày trên chiến trường (ISa 28:19), nhưng ông vẫn bước vào cuộc giao tranh và quyết tâm làm hết sức mình. Giô-na-than biết cha mình không vâng phục Đức Chúa Trời và có lỗi với Đa-vít, nhưng ông vẫn luôn sát cánh bên cha trong cuộc chiến. Dù quân Y-sơ-ra-ên thất bại, Đa-vít muốn dân sự phải ghi nhớ sự vĩ đại của vua và các con trai vua.


Đa-vít gọi các con gái của Giê-ru-sa-lem (IISa 1:24).

Dù phạm tội và thất bại, trong suốt triều đại của mình Sau-lơ đã đem lại sự ổn định cho đất nước. Các chi phái từng bỏ đi sống độc lập và tranh cạnh nhau, nay cùng chung vai vì số phận của dân tộc, cả về kinh tế lẫn chính trị. Những thắng lợi của Sau-lơ trên các nước thù nghịch, ự bình ổn ở các thành và những vùng nông thôn, sự chung sức của các chi phái là những yếu tố tạo nên một đất nước Y-sơ-ra-ên giàu có hơn. Đa-vít dường như đang nói đến những người phụ nữ giàu có và sự xa xỉ của họ, có lẽ họ là vợ một số quan chức của Sau-lơ mà Đa-vít có lần nhìn thấy khi còn ở trong cung. “Áo xống màu đỏ điều” có nghĩa tương tự với ‘khoe khoang sự giàu có”.


Đa-vít nói với Giô-na-than, người bạn yêu dấu của mình (IISa 1:25-26).

Trong các bài ca truy điệu người ta thường gọi tên người quá cố. “Giô-na-than, anh tôi!” có hai nghĩa, vì Đa-vít là em rể của Giô-na-than (Đa-vít cưới Mi-canh, em gái Giô-na-than) và họ cũng là anh em với nhau từ trong tấm lòng và tâm hồn. Đa-vít và Giô-na-than là những người bạn rất thân thiết, họ đã kết ước sẽ cùng giúp nhau cai trị đất nước, Đa-vít làm vua và Giô-na-than làm tể tướng (ISa 23:16-18).

Sẽ sai lầm nếu hiểu những lời mô tả của Đa-vít về tình cảm của ông dành cho Giô-na-than có ngụ ý đến đồng tính luyến ái. Sa-lô-môn mô tả tình cảm vợ chồng “mạnh như sự chết” (Nha 8:6), tình bạn của Đa-vít và Giô-ma-than cũng như vậy. ISa 18:1 có chép rằng, “lòng của Giô-na-than khế hiệp cùng lòng Đa-vít, đến đỗi Giô-na-than yêu mến Đa-vít như mạng sống mình”. Đa-vít kết thúc bài ai ca bằng điệp khúc cay đắng, “Cớ sao những anh hùng bị ngã xuống?” so sánh Sau-lơ và Giô-na-than với những binh khí của chiến tranh đã bị đánh mất và không bao giờ còn được sử dụng.


Khi sáng tác và cho lưu truyền bài ai ca nầy, Đa-vít có suy nghĩ đến nhiều mục đích. Thứ nhất, ông muốn tôn vinh Sau-lơ và Giô-na-than đồng thời dạy cho dân sự biết tôn trọng nền quân chủ.Vì Sau-lơ là vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, dân sự có thể sẽ cho rằng tất cả những vị vua kế vị sau nầy đều theo gương xấu của ông ta và phá hoại đất nước, ên Đa-vít tìm cách củng cố khái niệm về chế độ quân chủ. Bài ca nầy cũng cho mọi người thấy rõ rằng Đa-vít không hề hận thù cha vợ mình. Cuối cùng Đa-vít mong muốn chúng ta noi gương ông mà dành nhiều tình yêu thương cho những người đã hy sinh ngoài chiến trường để bảo vệ đất nước.


3. Lễ lên ngôi (IISa 2:1-4)

Đa-vít là vua hợp pháp của Y-sơ-ra-ên và không thể ở Xiếc-lác nữa, vì nó là đất của kẻ thù. Có thể A-Kích, vua của Phi-li-tin nghĩ rằng Đa-vít vẫn còn ở dưới quyền của mình, nhưng Đa-vít biết ông cần phải trở về với xứ xở của mình và bắt đầu trị vì dân sự của mình. Đa-vít có thói quen tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời trước khi đưa ra bất cứ quyết định nào, hoặc bởi thầy tế lễ A-bia-tha (ISa 23:9-12) hoặc qua tiên tri Gát để cầu xin Lời khôn ngoan từ Đức Chúa Trời (ISa 22:5).


Đa-vít xuất thân từ chi phái Giu-đa, nên ông sống giữa vòng dân sự mình là hợp lý, nhưng ông sẽ ở tại thành nào? Đức Chúa Trời cho phép ông trở về Giu-đa và sống tại Hếp-rôn, cách Xiếc-lác 25 dặm. Khi di chuyển đến đó, Đa-vít đã về lại với dân sự mình nhưng vẫn còn chịu ảnh hưởng của dân Phi-li-tin. Hếp-rôn rất quan trọng trong lịch sử Do-thái, vì các phần mộ của Áp-ra-ham và Sa-ra, Y-sác và Rê-bê-ca, Gia-cốp và Ra-chên đều ở gần nó.

Thành nầy nằm trong di sản của Ca-lép, một người có địa vị trong lịch sử Do-thái (Gios 14:14). A-bi-ga-in, một trong những người vợ của Đa-vít, đã từng kết hôn với một người Ca-lép, và Đa-vít thừa hưởng phần gia tài của A-bi-ga-in gần đồng vắng Ma-ôn (ISa 25:2). Hếp-rôn có thể là thành phố quan trọng nhất ở miền Nam Giu-đa, nên Đa-vít cùng quân lính của mình di chuyển đến đó, và họ sống trong các thành xung quanh Hếp-rôn. Sau 10 năm dài, đây là lần đầu tiên Đa-vít và lính của mình không còn là những người trốn chạy nữa. Lính của ông đã chịu khó nhọc cùng ông, và giờ đây họ được cùng ông cai trị đất nước (IITi 2:12)


Khi Đa-vít ổn định cuộc sống ở Hếp-rôn, sự trở về Giu-đa của ông là tín hiệu cho dân sự biết ông là người lãnh đạo họ, nên các trưởng lão của Giu-đa đã xức dầu cho Đa-vít lần nữa để ông lên ngôi vua (ISa 16:13). Nếu Áp-ne, vị tướng của Sau-lơ, ũng tiếp nhận ý muốn của Đức Chúa Trời và phục tùng Đa-vít, cuộc nội chiến với quá nhiều thiệt hại đã được ngăn chận, nhưng sự trung thành với vị vua cũ (Áp-ne là cháu của Sau-lơ) và lòng mong muốn bảo vệ lợi ích của mình là động cơ thúc đẩy Áp-ne tranh chiến với Đa-vít thay vì đi theo Đa-vít.


Trong lúc Đa-vít sống ở Xiếc-lác, nhiều người tình nguyện đến với ông từ các chi phái Bên-gia-min, Gát và Ma-na-se (ISu 12:1-22), nên Đa-vít không chỉ có một đội quân đông đảo và đầy kinh nghiệm mà còn có những đại diện của các chi phái khác. Mong ước lớn nhất là Đa-vít sẽ thu phục được lòng trung thành của toàn dân Y-sơ-ra-ên.


Trong sự lên ngôi của mình, Đa-vít minh họa cho công việc của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con vua Đa-vít. Giống như Đa-vít, là người chăn chiên, trước hết Chúa Giê-xu đến như một đầy tớ hạ mình và là vua được xức dầu một cách riêng tư. Giống như Đa-vít, người tha hương, Chúa Giê-xu là Vua ngày nay nhưng không trị vì trên ngôi Đa-vít. Giống Sau-lơ trong thời Đa-vít, Sa-tan vẫn tự do cản trở công việc của Đức Chúa Trời và chống nghịch dân sự Ngài. Đến một ngày, Chúa Giê-xu sẽ trở lại trong vinh quang, Sa-tan sẽ bị cầm tù, và Chúa Giê-xu sẽ cai trị trong vương quốc vinh hiển của Ngài (Kh 19:11-20:6). Dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay trung tín cầu nguyện “Nước Cha được đến” (Mat 6:10) và hết lòng mong đợi sự trở lại của Vua mình.


Đa-vít được 30 tuổi khi các trưởng lão Giu-đa xức dầu cho ông lên làm vua, và ông trị vì tại Hếp-rôn trong bảy năm rưởi (IISa 2:11). Thật là phước hạnh cho dân Giu-đa khi có được một vị lãnh đạo có ân tứ và tin kính Chúa như vậy!


4. Sự đánh giá đúng (IISa 2:4b-7)

Đa-vít có tấm lòng của một người chăn, là người luôn chăm lo cho dân sự mình (IISa 24:17), và một trong những mối quan tâm đầu tiên của ông là số phận của Sau-lơ và ba con trai cùng tử trận. Khi Đa-vít hỏi thăm những trưởng lão Giu-đa về việc chôn cất Sau-lơ và các con trai Sau-lơ, Đa-vít được biết những người ở Gia-be Ga-la-át đã liều mạng sống mình để tìm lại được 4 xác chết trong tình trạng thối rữa và không nguyên vẹn, sau đó đã chôn chúng tại Gia-be (ISa 31:8-13). Họ nhớ ơn Sau-lơ đã giải cứu thành của họ nhiều năm trước (ISa 11:1-15).


Gia-be Ga-la-át nằm đối ngang Giô-đanh trong chi phái Gát, và những người đã tìm lại được xác Sau-lơ và các con ông ta đã phải đi theo hướng tây bắc và băng qua sông Giô-đanh để đến Bết-San, một hành trình đi theo đường vòng mất 25 dặm. Đây quả là một nổ lực đáng khích lệ. Đa-vít đã cảm ơn họ vì sự hết lòng mà họ dành cho Sau-lơ và nước Y-sơ-ra-ên. Họ đã “có lòng nhân từ” và Đức Giê-hô-va sẽ tỏ cho họ thấy “sự nhân từ và thành thực” của Ngài. 25 năm sau, Đa-vít đã lấy cốt của Sau-lơ và các con trai người đem về chôn lại trong đất của chi phái Bên-gia-min, quê hương của họ (IISa 21:12-14)


Nhưng Đa-vít đã nhân cơ hội nầy mời gọi những người dũng cảm của Gia-be Ga-la-át đi theo ông. Họ đã cam đảm cho Sau-lơ, và giờ đây họ có thể cam đảm cho Đa-vít. Một số chiến binh từ Gát đã gia nhập đội quân của Đa-vít trong khi ông còn ở Xiếc-lác (ISu 12:8-15), hết lòng tin rằng Đa-vít là vua được xức dầu của Đức Chúa Trời. Đáng tiếc, dân sự ở Gia-be Ga-la-át không theo Đa-vít nhưng theo Áp-ne và Ích-bô-sét, đứa con trai yếu đuối của Sau-lơ.


Dân Gia-be Ga-la-át để cho ảnh hưởng của Sau-lơ làm họ không nhận thấy kế hoạch của Đức Chúa Trời cho dân tộc mình. Họ có động cơ rất tốt, nhưng đã có chọn lựa tồi. Đã bao lần trong lịch sử Hội thánh dân sự của Đức Chúa Trời đã để cho ảnh hưởng và sự đánh giá của con người thắng hơn ý muốn của Đức Chúa Trời! Chúa Cứu Thế Giê-xu là Vua và Ngài đáng để chúng ta đầu phục, trung thành và vâng lời cách trọn vẹn.

Đặt những người lãnh đạo lên trên Vua được xức dầu của Đức Chúa Trời là gây chia rẽ và làm suy yếu hàng ngũ của dân sự Đức Chúa Trời, mở cửa cho nhiều nan đề xâm nhập vào trong dân sự Ngài. Như Augustine đã nói “Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ là Chúa của tất cả hoặc Ngài sẽ không là Chúa của bất cứ gì”.



 


2. ĐA-VÍT CHĂM XEM VÀ CHỜ ĐỢI (IISa 2:8-4:12)


Trước khi qua đời Napoleon có nói rằng, “Để cai trị một đất nước, yêu cầu không phải là theo đuổi đến cùng một học thuyết hợp lý nào đó nhưng là xây dựng từ những gì có sẵn. Phải chấp nhận hoàn cảnh thực tại và biến nó thành ích lợi.” Nếu câu nói nầy đúng, thì Đa-vít thật là người lãnh đạo rất thành công suốt bảy năm rưởi mà ông ở Hếp-rôn.

Trong khi Giô-áp dẫn dắt đội quân Giu-đa, Đa-vít chăm xem và chờ đợi, và biết rằng đến một ngày Đức Giê-hô-va sẽ mở đường để ông trị vì cả đất nước Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời kêu gọi Đa-vít không chỉ để ông làm vua mà còn để ông chăn dắt dân sự và lãnh đạo họ trong đời sống thuộc linh. Đa-vít phải chờ đợi thời điểm mà Đức Chúa Trời quyết định trong khi nhẫn nhịn chịu đựng hậu quả của những tham vọng ích kỷ, những hành động hấp tấp của những lãnh đạo do lòng kiêu ngạo và sự thù hằn gây ra. Đa-vít biết xây dựng trên những gì sẵn có và tin cậy Đức Chúa Trời để lợi dụng những hoàn cảnh khó khăn hầu làm lợi cho dân sự mình.


1. Áp-ne, nhân vật chi phối (IISa 2:8-32)

Diễn viên chính trong vở kịch nầy là Áp-ne, em họ của Sau-lơ và là quan trưởng trong đội quân của ông ta (ISa 14:50). Chính áp-ne đã dẫn Đa-vít đến ra mắt Sau-lơ sau khi Đa-vít giết chết Gô-li-át (ISa 17:55-58) và là người cùng Sau-lơ đuổi bắt Đa-vít suốt 10 năm (ISa 26:5).

Áp-ne bị Đa-vít chỉ trích và sỉ nhục vì không bảo vệ được vua (ISa 26:13-16) và Áp-ne không yêu mến Đa-vít. Dân Y-sơ-ra-ên tôn vinh Đa-vít hơn Sau-lơ và cuối cùng dân sự biết Đa-vít là vua được Đức Chúa Trời chọn cho mình. Nhưng Đa-vít đã có Giô-áp làm quan trưởng rồi, nên khi Đa-vít lên làm vua, Áp-ne sẽ thế nào? Hầu hết những việc Áp-ne làm trong suốt bảy năm rưởi đó không vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời cũng không gây dựng Y-sơ-ra-ên, nhưng vì lợi ích của chính mình. Ông ta đang quan tâm đến vị trí số một.


 Áp-ne phủ nhận vương quyền của Đa-vít (c.8-11). Dân Giu-đa vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời và xức dầu cho Đa-vít làm vua, nhưng Áp-ne không vâng lời Chúa và đưa Ích-bô-sết, đứa con trai còn sống sót của Sau-lơ lên làm vua “cả Y-sơ-ra-ên”. Áp-ne biết rằng Đa-vít là sự chọn lựa của Đức Chúa Trời, là một người lãnh đạo được ơn và là một chiến binh can đảm, nhưng ông cố tình chống đối Đức Chúa Trời lập Ích-bô-sết. Y-sơ-ra-ên đã cầu xin một vua “y như các dân tộc khác” (ISa 8:5), và khi vua băng hà, các nước khác sẽ lập con trưởng nam của vua lên kế vị. Ba con trai của Sau-lơ đều tử trận, và Ích-bô-sết là người duy nhất còn sống trong hoàng tộc nầy.


Kinh Thánh không nói nhiều về Ích-bô-sết, nhưng rõ ràng ông ta là một vua bù nhìn yếu đuối chịu dưới sự điều khiển của Áp-ne (IISa 3:11; IISa 4:1). Ông ta chắc chắn còn trẻ để xông ra chiến trường với cha và các anh khác, nên Sau-lơ để ông ở lai coi sóc triều chính (Có thể ông ta không phải là người lính giỏi). Sau-lơ và Áp-ne đều biết rằng Đức Chúa Trời đã cất vương triều khỏi tay Sau-lơ (ISa 13:11-14).

Có thể do biết trước các con trai mình sẽ chết ngoài chiến trường, Sau-lơ đã sắp xếp để con trai thứ tư của mình lên làm vua. Ích-bô-sết được lên ngôi theo nhìn nhận chung, nhưng ông ta không bao giờ được Đức Chúa Trời xức dầu. Ông ta được gọi là Ếch-Ba-anh trong ISu 8:33, từ nầy có nghĩa là “người của Chúa”. Từ “ba-anh” có nghĩa là “chúa” và cũng là tên của một thần tượng của người Ca-na-an, nên đó là lý do tên của ông được thay đổi.


Áp-ne đưa Ích-bô-sết đến Ma-ha-na-im, bờ đông sông Giô-đanh. Đây là thành ẩn náu của người Lê-vi, ở đó ông ta được an toàn (Gios 21:38), Áp-ne đã chọn nơi đó là thủ đô của “cả Y-sơ-ra-ên”. Nhưng có thể đã mất ít nhất 5 năm Áp-ne mới thuyết phục được các chi phái (trừ chi phải Giu-đa) đi theo vị vua mới nầy. Ích-bô-sết được đội vương miện khi Đa-vít bắt đầu bảy năm rưởi trị vì của mình và ông ta đã bị ám sát sau khi trị vì “cả Y-sơ-ra-ên” được hai năm. Ích-bô-sết không cai trị “cả Y-sơ-ra-ên” lâu, nhưng mọi người đều biết rằng Áp-ne đang thao túng mọi việc.


Có một phong cách hiện đại trong tình tiết nầy, vì thế giới chính trị và tôn giáo của chúng ta cũng tồn tại ba loại người như vậy. Chúng ta có những người yếu đuối như Ích-bô-sết, là người có được chỗ của mình nhờ “các mối quan hệ”. Chúng ta có những người mạnh mẽ và ích kỷ như Áp-ne, là người biết làm thế nào để thao túng người khác vì ích lợi bản thân.

Chúng ta cũng có những người của Đức Chúa Trời như Đa-vít, là những được kêu gọi, được xức dầu và được trang bị nhưng biết chờ đợi thời cơ mà Chúa sắp đặt để hành động. Suốt hơn 50 năm chức vụ, tôi từng nhận thấy những Hội thánh và những tổ chức khác đã bỏ qua những người được Đức Chúa Trời chọn lựa nhưng đưa những người không đủ tư cách vào những vị trí lãnh đạo chỉ vì họ nổi tiếng và có “các mối quan hệ”.


Áp-ne có những gì ông ta muốn, nhưng chỉ trong một vài năm ông đã mất tất cả.


Áp-ne thách thức quân đội của Đa-vít (c.12-17).

Khi Áp-ne lập Đa-vít làm vua, chắc chắn ông ta đang muốn tuyên chiến với Đa-vít, và Đa-vít biết điều đó. Nhưng lúc nầy Áp-ne có về phía mình tất cả các chi phái trừ chi phái Giu-đa và ông ta biết mình có thể dễ dàng đánh bại Đa-vít, ông ta sẽ tiếp quản cả vương quốc.

Tin chắc chiến thắng nằm trong tầm tay, Áp-ne yêu cầu phải có cuộc giao tranh giữa hai đội quân, và cuộc chiến đó xảy ra ở hồ Ga-ba-ôn. Đây không giống với thách thức của Gô-li-át đưa ra khi ông ta gọi một trong những người lính của Sau-lơ ra giao tranh với ông ta (ISa 17:8-10). Nhưng Áp-ne đang chống nghịch Đức Chúa Trời trong khi Đa-vít là người lãnh đạo được Đức Chúa Trời chọn lựa!


Đây là lần đầu tiên Giô-áp được nhắc đến, ông là cháu của Đa-vít và là quan trưởng trong quân đội của Đa-vít.2 Hai đội quân gặp nhau tại hồ, và 12 người lính từ chi phái Bên-gia-min đối đấu với 12 người từ chi phái Giu-đa và tất cả 24 người nầy đều chết! Ngày đó, chiến trường nầy có một cái tên mới “cánh đồng gươm”. Giô-áp và Áp-ne không mất thời gian giàn trận, và “trong ngày đó có một cuộc chiến đấu rất dữ”. Áp-ne bại trận như một điềm gở cho tương lai ông.


Áp-ne giết cháu của Đa-vít (c.18-23).

Giô-áp, -bi-sai và A-sa-ên đều là cháu của Đa-vít, là con trai của Xê-ru-gia, chị Đa-vít (ISu 2:13-16). Có thể hoặc do tự ý hoặc nghe theo lệnh anh mình mà A-sa-ên đã đuổi theo Áp-ne, vì anh ta biết rằng giết được người lãnh đạo của kẻ thù sẽ gây hoang mang và làm tản lạc tất cả quân thù. Nếu Giô-áp ra lệnh cho người thanh niên “chạy lẹ làng như một con hoàng dương rừng” nầy đuổi theo Áp-ne, thì có lẽ ông ta đang nghĩ về tương lai của chính mình, vì Áp-ne là mối đe dọa cho địa vị quan trưởng của ông trong tương lai.


Đoạn thuật ghi lại rõ rằng Áp-ne không muốn làm hại đến chàng thanh niên A-sa-ên, nhưng A-sa-ên dai dẳng đuổi theo sau. Ban đầu Áp-ne bảo A-sa-ên tránh xa ông ra và lấy bất cứ gì anh ta thích từ những xác của các binh lính nằm đó. Sau đó Áp-ne cảnh cáo A-sa-ên rằng nếu ông ta ra tay giết A-sa-ên, thì điều đó sẽ gây ra một “mối thù truyền kiếp” về sau.

Áp-ne biết Giô-áp và không muốn tạo ra mối xung đột gia đình suốt đời. Giô-áp và Áp-ne là hai quan trưởng của hai phe đối địch là quá tội tệ rồi. Khi A-sa-ên không chịu tránh đi, Áp-ne đã khôn khéo dùng mưu mẹo của một người lính dày dạn: ông dừng lại đột ngột và để cho A-sa-ên tự sấn tới ngay cán giáo mình. Đầu cán giáo thường nhọn và sắc nên có thể dễ dàng đâm nó xuống đất (ISa 26:7). A-sa-ên té xuống đất và chết. A-sa-ên chết ngoài chiến trường, dù rõ ràng Áp-ne không có ý thậm chí không muốn giết chết anh ta.


Áp-ne xin ngừng chiến (c.25-32).

Hai anh của A-sa-ên, Giô-áp và A-bi-sai, có lẽ đã chạy theo ngay sau đó vì họ đã tiếp tục đuổi theo Áp-ne, chắc chắn với quyết tâm trả thù cho em mình, nhưng lực lượng của Áp-ne đã giải cứu ông ta. Áp-ne và người Bên-gia-min rút quân lên đồi A-ma. Áp-ne biết ông đang bị săn đuổi (c.30-31), ên ông xin ngưng chiến. Ông nghĩ rằng vì A-sa-ên tử trận nên Giô-áp và A-bi-sai phải ngưng chiến để lo chôn cất em mình. Giu-đa và Bên-gia-min là anh em với nhau, đều là con trai của Gia-cốp, tại sao anh em lại đánh nhau như vậy? Nhưng chính Áp-ne là người khai chiến, nên chỉ một mình ông phải chịu trách nhiệm. Là một người mưu mẹo, ông ta nghĩ ra kế hoạch nầy để chiếm trọn hai đội quân mà không cần đổ máu.


Giô-áp biết lòng của Đa-vít, đó là muốn thống nhất và bình định, không chia rẽ và gây chiến tranh, ên ông ta thổi kèn ra lệnh quân của mình dừng lại mà không đuổi theo kẻ thù nữa. Ông ta đã nói với Áp-ne rằng; “Ta chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề rằng, nếu ông chẳng có nói chi, thì dân sự không thôi đuổi theo anh em mình trước khi sáng mai” (c.27). Áp-ne và lính của người đi bộ suốt đêm để về lại Ma-ha-na-im, và Giô-áp và quân của người trở về Hếp-rôn, và trên đường trở về họ đã dừng lại tại Bết-lê-hem để chôn cất A-sa-ên. Suốt đoạn đường về đêm đó, Giô-áp và A-bi-sai âm thầm tính kế trả thù cho em trai mình.


2. Áp-ne, người thương thuyết (IISa 3:1-21)

Cụm từ “giao chiến nhau lâu ngày” (c.1) không gợi ý sự tranh chiến liên tục, nhưng nói lên tình trạng thù địch kéo dài khoảng 2 năm, và thỉnh thoảng những cuộc chiến mới xảy ra. Đa-vít đang chờ thời cơ, và biết rằng Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa của Ngài và ban cho ông ngai vàng của Y-sơ-ra-ên. Tại Hếp-rôn, chính quyền của Đa-vít ngày càng vững mạnh (Thi 84:7), trong khi liên minh của các chi phái dưới quyền của Ích-bô-sết và Áp-ne ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, Áp-ne tinh khôn đang sử dụng địa vị của mình trong nhà Sau-lơ để củng cố quyền lực của chính mình, vì ông ta đang sẵn sàng lấy Đa-vít ra để mặc cả mà nhà vua không thể phản kháng (c.6).


Về phần Đa-vít, dòng dõi của ông cũng ngày một tăng thêm (ISu 3:1-4), và vua Đa-vít cũng có nhiều hậu cung như các vua phương đông khác. Dĩ nhiên, Sa-lô-môn, con trai của Đa-vít, còn có nhiều hơn cha mình và các vua Do-thái khác (IVua 11:3). Đa-vít đến Hếp-rôn với hai vợ và trong thời gian nầy ông có được 6 con trai và 6 vợ. Tục đa thê bắt đầu từ thời Lê-méc, một hậu duệ của Ca-in (Sa 4:19), và không bị phản đối ở Y-sơ-ra-ên; nhưng bị cấm trong vòng các vua Y-sơ-ra-ên (Phuc 17:17).


Am-nôn, con trưởng của Đa-vít, đã cưỡng hiếp Ta-ma, em cùng cha khác mẹ của mình (IISa 13:1-38) và bị Áp-sa-lôm, nh ruột của Ta-ma, giết chết. Rồi Áp-sa-lôm cũng bị giết trong khi đang âm mưu lật đổ ngôi vua của cha mình (IISa 14:1-18:33). Có thể do được mẹ mình ủng hộ nên Áp-sa-lôm mới can đảm có âm mưu lớn như vậy.

Chắc chắn cuộc hôn nhân của Đa-vít với Ma-a-ca là vì lý do chính trị để Đa-vít có một đồng minh gần với Ích-bô-sết. Ki-lê-áp được gọi là Đa-ni-ên trong ISu 4:1. Trong những ngày Đa-vít nằm trên giường bệnh, A-đô-ni-gia tìm cách chiếm lấy ngai vàng và bị Sa-lô-môn xử tử (IVua 1:1-2:46). Chúng ta không biết gì về Sê-pha-tia và mẹ người là A-bi-tanh, và Dít-rê-am và mẹ là Éc-la. Sau khi tái lập thủ đô ở Giê-ru-sa-lem, Đa-vít cưới thêm các vợ khác và có thêm 11 con trai nữa (IISa 5:13-16).


Áp-ne bỏ theo Đa-vít (c.6-11).

Áp-ne là một nhà chính trị thực tế cũng là một vị tướng sắc sảo, phương châm của ông ta là “luôn đứng về phe thắng”. Khi ông ta thấy ngôi vua của Ích-bô-sết không có chút tương lai nào, ông ta quyết định đánh đổi lòng trung thành mình lấy sự an toàn cho bản thân. Đa-vít nổi tiếng là một người nhân từ, và ông ta đã tỏ ra rất kiên nhẫn với nhà Sau-lơ.


Chúng ta không được biết có thật Áp-ne đã quan hệ với Rít-ba, vợ lẻ của Sau-lơ, và ông ta phủ nhận điều đó; nhưng nếu đúng như vậy, ông ta đã phạm một tội nghiệm trọng. Hậu cung của vua quá cố sẽ thuộc về người kế vị của vua đó, trong trường hợp nầy là Ích-bô-sết (IISa 12:8; IISa 16:15-23), và bất kỳ người nào đòi hỏi đến một trong số họ tức là đòi hỏi vương quốc và phạm tội mưu phản. Điều nầy đã dẫn đến cái chết của A-đô-na-gia (IVua 2:13-25).

Rất có thể Áp-ne đã đến với Ríp-ba để gây bất hòa với Ích-bô-sết và từ đó dễ dàng tuyên bố sự xoay đổi lòng trung thành của mình. Nếu thật như vậy, ông ta đã thành công. Dĩ nhiên, vua Ích-bô-sết không đủ mạnh để địch cùng Áp-ne, nay đã tuyên bố đứng về phía Đa-vít. Từ “ngôi Đa-vít” được sử dụng trong câu 10, đây là lần đầu tiên xuất hiện trong Kinh Thánh, và về sau ý nghĩa của nó có liên quan đến Đấng Mê-si-a (Es 9:6-7).


Áp- ne thương thuyết với Đa-vít (c.12-21).

Tình tiết nầy là một thí dụ rõ ràng cho “thuật ngoại giao” ngày xưa.

- Áp-ne sai sứ giả đến gặp Đa-vít với đề nghị trao toàn bộ Y-sơ-ra-ên cho Đa-vít cai trị (c.12).

- Đa-vít sai sứ giả đến gặp Áp-ne để thông báo rằng ông nhận lời với điều kiện đầu tiên là dẫn Mi-canh về cho ông, Mi-canh là vợ Đa-vít và là em của Ích-bô-sết (c.13).

- Áp-ne bảo Ích-bô-sết tôn trọng yêu cầu của Đa-vít, và Đa-vít cũng nhắn gởi Ích-bô-sết phải cho Mi-canh đến Hếp-rôn (c.14).

- Áp-ne hội ý với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên (c.17-18).

- Áp-ne hội ý với các lãnh đạo của Bên-gia-min (c.19).

- Áp-ne và 12 người đại diện của các chi phái đến Hếp-rôn, Mi-canh cùng đi với họ (c.15-16,20).

- Áp-ne và Đa-vít thống nhất cách chuyển giao vương quốc, họ cùng dự tiệc với nhau và lập giao-ước (c.21).


Trong giai đoạn đầu của sự thương thuyết nầy, sẽ nguy hiểm và thiếu khôn ngoan khi Đa-vít và Áp-ne gặp nhau một cách cá nhân, nên họ dựa vào những quan chức của họ để tạo được mối liên hệ cần thiết. Đa-vít không có lý do gì để không hợp tác với Áp-ne vì bản thân ông không bao giờ thù địch với Áp-ne hay vua Sau-lơ. Rõ ràng Đa-vít là người ưa chuộng hòa bình. Ông đã là con rể của nhà Sau-lơ, và ông tỏ ra tôn trọng Áp-ne cũng như Ích-bô-sết, và quyết tâm thống nhất các chi phái càng sớm càng tốt để tránh đổ máu. Đa-vít đã chờ đợi 7 năm, và đây là thời điểm ông hành động.


Tại sao Đa-vít ra điều kiện phải dẫn Mi-canh đến cho ông? Thứ nhất, Mi-canh vẫn là vợ của Đa-vít, dù Sau-lơ đã đem nàng gả cho người khác. 10 năm trước, khi họ cưới nhau, Mi-canh rất yêu thương Đa-vít (ISa 18:20), và chúng ta có lý do để tin rằng Đa-vít cũng yêu thương nàng. Đưa “hoàng hậu” của Đa-vít về với Đa-vít chính là cách ngoại giao khéo léo, và thân thế của Mi-canh sẽ làm vững chắc hơn những ràng buộc trong sự thống nhất đất nước. Qua việc đòi lại con gái Sau-lơ, Đa-vít cũng tuyên bố đòi lại toàn bộ đất nước; và khi Áp-ne dẫn Mi-canh đến Hếp-rôn, đó là lời tuyên bố công khai rằng ông đã tuyệt giao với nhà Sau-lơ và liên minh với Đa-vít.


3. Áp-ne, một nạn nhân (IISa 3:22-39)

Có vẽ như mọi chuyện được dàn xếp ổn thỏa, nhưng vẫn còn đó những trở ngại sẳn sàng bùng phát bất cứ lúc nào.Ích-bô-sết vẫn cai trị trên ngôi vua và Đa-vít phải giải quyết ông ta và những người ủng hộ nhà Sau-lơ. Áp-ne đã giết A-sa-ên, và Giô-áp đang đợi cơ hội trả thù cho cái chết của em mình.


Giô-áp trách Đa-vít (c.22-25).

Đa-vít đã sai Giô-áp và một số quân lính đi đánh trận và đem về nhiều chiến lợi phẩm đóng góp cho đất nước. Khi trở về, Giô-áp nghe tin Đa-vít đã chấp nhận Áp-ne và cùng ngồi bàn với người, Giô-áp rất giận và buôn lời trách cứ vua.Giô-áp không thể hiểu được việc ấy; làm sao vị tướng của Sau-lơ và là người đã giết A-sa-ên có thể đến và đi bình an như vậy.

Lòng của Giô-áp vẫn còn đau đớn về cái chết của em mình, và Giô-áp không thể hiểu được cách cư xử của vua mình. Dĩ nhiên, Giô-áp cũng đang bảo vệ địa vị của mình và Áp-ne cũng vậy, nhưng không giống Đa-vít, Giô-áp không tin chút nào vào lời nói và việc làm của Áp-ne. Giô-áp chắc rằng Áp-ne đến để tìm cách lật đổ Đa-vít. Vị quan trưởng lắm mưu mẹo nầy chỉ có thể đang do thám tình hình và chuẩn bị tấn công.


Kinh Thánh không cho biết Đa-vít trả lời thế nào. Giô-áp không thể chịu được như vậy (IISa 3:39), và việc ông ta là một người bà con của vua đã làm cho tình hình thêm khó khăn. Những tác động của dòng họ nhà Đa-vít nhiều vợ, nhiều con và nhiều bà con thân thuộc có địa vị cao tạo ra những nan đề không bao giờ chấm dứt cho nhà vua, và chúng không dễ giải quyết. Sự im lặng của Đa-vít không phải là sự đồng ý, vì ông không nhất trí với quan trưởng của mình;

Đó là sự im lặng dồn nén và là bằng chứng cho thấy mối quan tâm lớn nhất của ông là làm thế nào để thống nhất đất nước. Đa-vít không chủ trương “hòa bình bằng mọi giá”, vì ông là một người liêm chính; nhưng ông không muốn vị quan trưởng nóng tính của mình lấy danh nghĩa của vua giải quyết mối thù cá nhân. Những ẩn ý trong Thi thiên 120 có lẽ nói đến tình trạng của Đa-vít trong giai đoạn nầy.


Giô-áp lừa Áp-ne và giết chết ông ta (c.26-27).

Giô-áp cho rằng Áp-ne là kẻ nói dối (c.25) nhưng chính ông ta đã lừa đối! Chúng ta thường phạm những tội mà chúng ta nói người khác phạm, và “lấy độc trị độc”. Giô-áp chắc đã lấy danh nghĩa của vua để sai sứ giả hoặc Áp-ne hẳn đã cẩn thận hơn. Áp-ne không thấy Giô-áp trong cung vua, nên nghĩ rằng ông ta vẫn còn ngoài chiến trường và bận rộn với những cuộc chinh phạt. Giô-áp và em trai, A-bi-sai (câu 30) đang chờ Áp-ne và dẫn ông ta đến nơi hẻo lánh ngoài cổng thành, đâm vào sườn ông ta ngay chỗ ông ta đã đâm A-sa-ên (IISa 2:23).


Mọi chuyện về cái chết của Áp-ne đều sai.

Hai anh em nầy biết vua mình muốn đều gì, nhưng họ đã cố ý đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của đất nước. A-sa-ên đã đuổi theo Áp-ne ngoài chiến trường, nên do vô tình mà ông ta chết, cái chết trong chiến tranh; nhưng cái chết của Áp-ne là một vụ ám sát. Hếp-rôn là thành ẩn náu, một nơi thánh mà những kẻ bị buộc tội giết người có thể được xét xử công bằng, nhưng hai anh em nầy không cho các trưởng lão tại Hếp-rôn có cơ hội biết sự việc việc ấy. Áp-ne đã giết A-sa-ên để tự vệ; nhưng Giô-áp và A-bi-sai giết Áp-ne là để trả thù và Áp-ne không có cơ hội bào chữa cho mình.

Cái chết của A-sa-ên xảy ra vào ban ngày và mọi người có thể chứng kiến sự việc xảy ra, nhưng Áp-ne bị lừa và bị dẫn đến nơi chỗ tối và vắng vẻ. A-bi-sai đã từng cùng Đa-vít và trại quân của Sau-lơ chứng kiến việc Đa-vít không thiếu cơ hội để giết Sau-lơ (ISa 26:6), nên ông ta biết Sau-lơ không bao giờ ủng hộ mình giết quan trưởng của Sau-lơ. Chúng ta không biết khi bị giết Áp-ne có nghĩ oan cho Đa-vít đã liên quan trong âm mưu sát hại nầy hay không.


Đa-vít tỏ lòng kính trọng Áp-ne (c.28-29).

Khi Đa-vít hay tin Áp-ne chết, ngay lập tức ông khẳng định mình không biết gì về việc hai cháu của mình đã làm. Thật vậy, ông đã rủa sả nhà Giô-áp, nhắc đến một số bệnh dịch mà Môi-se đã cảnh cáo trong Giao-ước (Phuc 28:25-29,58-62). Đa-vít ban lệnh cho quan trưởng Giô-áp và tất cả đội quân của ông ta phải than khóc và dự đám tang Áp-ne.

Cụm từ “cả dân sự” được lập lại nhiều lần từ câu 31-37, và ám chỉ đến lính trong đội quân của Giô-áp (IISa 2:28; IISa 12:29).

Đa-vít ra lệnh cho họ phải xé áo, thắt bao nơi lưng và than khóc cho cái chết của một vĩ nhân, và chính Đa-vít đã đi theo sau linh cữu đến nơi chôn cất. Vì Giô-áp và A-bi-sai có mặt trong số những người đưa tang, nên nhiều người không biết họ chính là những người đã giết chết Áp-ne. Đa-vít không đưa họ ra xét xử công khai, rất có thể câu 28 và 29 là những lời Đa-vít nói riêng với họ. Đa-vít cố hết sức bảo vệ họ dù họ không đáng được như vậy.


Như đối với Sau-lơ và Giô-na-than, Đa-vít đã viết một bài điếu cho Áp-ne (c33-34,38). Ông nói rõ Áp-ne không chết vì hành động ngu dại của bản thân, và ông ta không bao giờ là một tù binh trong suốt thời gian làm việc trong quân đội. Ông ta đã ngã xuống trước mặt những kẻ gian ác là những người đã lừa dối ông. Đa-vít đã tỏ lòng kính trọng Áp-ne, chôn người ở Hếp-rôn trong đất của hoàng tộc và không đem ông ta về lại Bên-gia-min. Sau đó, Đa-vít nói với các đầy tớ thân cận mình rằng Áp-ne là “một quan trưởng, một đại nhân”. Đa-vít cũng cho con trai Áp-ne là Gia-a-si-ên làm quan trong chi phái Bên-gia-min.


Lời ai oán của Đa-vít về chính mình trong câu 39 được nói ra cho những người trong “nội cung” và cho thấy những vấn đề trong chính gia đình của mình mà ông phải đối diện. Từ “yếu” không ngụ ý Đa-vít chưa đủ mạnh mẽ để làm vua, nhưng có ý nói Đa-vít còn “dè dặt và nhẹ nhàng” khi xử lý hai người cháu “cường bạo” của mình.

Đa-vít đã kinh nghiệm tính nhu mì hiền lành của Đức Chúa Trời (IISa 22:36), và ông cố gắng đối xử với người khác như Đức Chúa Trời đối xử với ông. Chắc chắn ông còn nhẹ nhàng hơn khi đối đãi với người trong gia đình mình (IISa 18:5,14), nhưng Đa-vít là người làm vừa lòng Đức Chúa Trời (Thi 103:8-14). Tất cả những gì Đa-vít có thể làm là để Đức Chúa Trời phán xét, vì Ngài không bao giờ phạm sai lầm.


4. Ích-bô-sết, người thất bại (IISa 4:1-12)

Nếu Đa-vít nghĩ rằng ông yếu đuối vì hành vi của hai người cháu mình, thì ông nên nghĩ đến tình trạng của Ích-bô-sết sau cái chết của Áp-ne. Đa-vít ít nhất cũng là một chiến binh vĩ đại và là một người lãnh đạo đầy ơn, trong khi Ích-bô-sết chỉ là con bù nhìn trong tay của quan trưởng Áp-ne, giờ đây vị quan trưởng ấy đã không còn.

Dân sự của các chi phái mà ông cai trị biết rằng cái chết của Áp-ne đồng nghĩa với sự kết thúc triều đại của vua họ, và chắc chắn họ biết trước rằng Đa-vít và quân của ông sẽ sớm tràn đến. Những người dân thường không biết gì về những ý định của Đa-vít và sự gặp gỡ gần đây giữa Đa-vít và Áp-ne. Đó là ngày đau buồn cho Ích-bô-sết và dân sự của ông ta.


Đoạn thuật về Ba-a-na và Rê-cáp nhắc chúng ta nhớ về người A-ma-léc trong IISa 1:1-16, là người tự nhận mình đã giết Sau-lơ. Hai người nầy là hai vị tướng nhỏ trong quân đội của Áp-ne, họ nghĩ rằng họ sẽ được Đa-vít ban thưởng và trọng dụng nếu họ giết Ích-bô-sết, và giống như người A-ma-léc kia, họ đã sai lầm. Người duy nhất kế vị ngôi Sau-lơ còn sống sót là một cậu bé 12 tuổi tật nguyền tên Mê-phi-bô-sết, nên nếu Ba-a-na và Rê-cáp giết vua, Đa-vít sẽ dễ dàng chiếm ngai vàng và thống nhất đất nước (Chúng ta sẽ gặp lại Mê-phi-bô-sết trong IISa 9:1-13; IISa 16:1-4; IISa 19:24-30; IISa 21:7-8).


Hai người giả vờ xâm nhập cung vua với ý định lấy lúa mì cho quân lính của họ, trong khi vua đang ngủ và không có người bên cạnh bảo vệ, họ đã giết chết vua. Nếu vụ ám sát Áp-ne là một tội ác đánh ghê tởm, thì vụ ám sát nầy còn ghê tởm hơn nhiều; vì “tội” duy nhất của Ích-bô-sết đó là ông ta là con trai của Sau-lơ! Ông ta không vi phạm luật pháp, không làm hại người nào, và cũng không có cơ hội để tự vệ. Những người giết ông còn không tôn trọng thi thể của ông, họ đã cắt đầu ông đem làm bằng chứng đến trước mặt Đa-vít với hy vọng được ban thưởng. Tồi tệ hơn khi hai người nói với Đa-vít rằng Đức Giê-hô-va đã báo thù!


Câu trả lời của Đa-vít cho thấy rõ chưa bao giờ trong sự nghiệp mình ông vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời để giết hại người khác nhằm đạt được mục đích của mình. Đức Giê-hô-va đã đoái xem ông và bảo vệ ông suốt 10 năm tha hương và hơn 7 năm làm vua ở Hếp-rôn. Khi Sau-lơ và Áp-ne chết, Đa-vít chứng tỏ mình không có liên quan gì. Kẻ thù của Đa-vít hẳn sẽ đồn đại rằng chính ông đã bày mưu để giết hại cả Sau-lơ và Áp-ne để mở đường tiến thẳng đến ngai vàng của Y-sơ-ra-ên.


Theo lệnh vua Đa-vít, hững đầy tớ ông đã giết hai kẻ sát nhân đó, cắt tay chân họ, và treo xác họ lên như bằng chứng cho sự công bình của vua. Bị treo xác nơi công cộng là một sĩ nhục rất lớn (Phuc 21:22-23). Đa-vít cho chôn đầu của Ích-bô-sết tại Hếp-rôn, trong phần mộ của Áp-ne, vì họ có bà con với nhau.


4 “người cai trị” mà Phao-lô đã nói đến trong Ro 5:1-21 thật sự đã sống động trong thời Đa-vít. Tội lỗi đang cai trị (Ro 5:21) khi con người lừa dối nhau, thù ghét nhau, và tìm cách diệt trừ nhau. Sự chết cũng cai trị (Ro 5:14,17) khi A-sa-ên, Áp-ne và Ích-bô-sết bị giết chết, cùng với gần 400 binh lính đã ngã xuống trong trận chiến ở hồ Ga-ba-ôn.Nhưng ân điển của Đức Chúa Trời cũng cai trị (Ro 5:21), vì Ngài bảo vệ Đa-vít và thắng hơn tội lỗi của con người để làm thành những mục đích thiêng liêng của Ngài.

“Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Ro 5:20). Nhưng Đa-vít “cai trị trong sự sống” (Ro Ro 5:17) và để Đức Chúa Trời điều khiển ông khi đối diện với sự nguy khốn hết lần nầy đến lần khác. Ông được Đức Chúa Trời ban sức lực, và chính Ngài đã dẫn ông qua khỏi từng hiểm nguy và giúp ông thành công.


Ngày nay trong những lúc khó khăn và thử thách, dân sự của Đức Chúa Trời có thể “cai trị trong sự sống bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu” nếu chúng ta biết đầu phục Ngài, chờ đợi Ngài và tin nơi lời hứa của Ngài.



 


3. ĐA-VÍT, VUA Y-SƠ-RA-ÊN (IISa 5:1-6:23; ISu 3:4-8; ISu 11:1-9; ISu 13:5-16:3)


Cuộc đời Đa-vít thật đặc biệt! Khi là một người chăn chiên, Đa-vít đã giết sư tử và gấu, và những thắng lợi nầy đã chuẩn bị để Đa-vít giết gã khổng lồ Gô-li-át. Đa-vít hầu việc như một người hầu cho vua Sau-lơ và thân thiết với Giô-na-than, con trai Sau-lơ. Trong suốt 10 năm Đa-vít lưu lạc trong đồng vắng Giu-đa để trốn Sau-lơ và ở đó càng ngày ông càng học biết tin cậy Đức Chúa Trời hơn. Ông đã kiên nhẫn chờ đợi Đức Chúa Trời ban cho ông ngai vàng như đã hứa, và thời điểm đó đã đến.

Chính bởi đức tin và lòng kiên nhẫn mà con cái Đức Chúa Trời hưởng được những gì Ngài đã hứa (He 6:12), và Đa-vít đã tin cậy Đức Chúa Trời trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đa-vít lên ngôi khi dân sự chia rẽ nhau, nhưng với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời ông đã hiệp họ lại và xây dựng Y-sơ-ra-ên thành một đất nước vững mạnh. Nhưng đoạn nầy cho chúng ta thấy những bước hành động của Đa-vít để thống nhất và củng cố đất nước.


1. Đa-vít lên ngôi (IISa 5:1-5)

Vụ ám sát Ích-bô-sết làm cho 11 chi phái không còn vua và người thừa kế ngôi Sau-lơ. Áp-ne đã qua đời, nhưng ông ta đã dọn đường cho Đa-vít làm vua cả 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên (IISa 3:17-21). Bước tiếp theo là các lãnh đạo của tất cả các chi phái tập trung tại Hếp-rôn và trao ngôi vua cho Đa-vít.


Phẩm chất của một vị vua Y-sơ-ra-ên được ghi lại trong Luật Pháp Môi-se trong Phục-truyền Phuc 17:14-20. Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất là vua ấy phải được Đức Chúa Trời chọn lựa từ dân Y-sơ-ra-ên, là người “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ chọn” (Phuc 17:15,20). Dân sự biết rằng Sa-mu-ên đã xức dầu cho Đa-vít làm vua khoảng 20 năm trước và Đức Chúa Trời định ý cho Đa-vít lên ngôi (IISa 5:2). Dân sự cần một người chăn dắt, à chính Đa-vít là người chăn đó (Thi 18:70-72). Sau-lơ đã là “vua của dân sự” nhưng ông ta không phải là sự lựa chọn đầu tiên của Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời đã dùng ông để trừng phạt Y-sơ-ra-ên bởi họ muốn giống các dân khác (ISa 8:1-22; Os 13:11).

Đức Giê-hô-va yêu thương dân sự Ngài và biết họ đang cần một người chăn, nên Ngài chuẩn bị Đa-vít để làm vua của họ. Không giống Sau-lơ, là người xuất thân từ chi phái Bên-gia-min, Đa-vít xuất thân từ chi phái Giu-đa, là chi phái nhà vua (Sa 49:10) và được sinh ra và lớn lên ở Bết-lê-hem. Bởi điều nầy, a-vít có thể lập một triều đại mà qua đó Chúa Cứu Thế Giê-xu bước vào thế gian, và Ngài cũng giáng sinh tại Bết-lê-hem.


Dân sự tập trung tại Hếp-rôn để nhắc Đa-vít rằng ông thuộc về cả dân sự, không phải chỉ thuộc một mình chi phái Giu-đa (IISa 5:1). Trong thời gian đầu của sự nghiệp Đa-vít, dân sự nhận thấy bàn tay của Đức Chúa Trời ở trên ông, vì Đức Chúa Trời ban ông nhiều chiến thắng vang dội về mặt quân sự. Những người đại diện của các chi phái đã có mặt tại Hếp-rôn và họ hết lòng trung thành với vị vua mới (ISu 12:23-40). Con số các quan chức lên đến 340.800 người, tất cả họ đều trung thành với Đa-vít. Dân sự ở lại đó với Đa-vít 3 ngày và ca ngợi sự nhân từ của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài.


Nền tảng của dân Y-sơ-ra-ên là giao ước của Đức Chúa Trời với họ được mô tả trong Luật Pháp Môi-se, đặc biệt Phuc 27:1-30:20; Le 26:1-49. Nếu vua và dân sự vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài sẽ ban ơn và gìn giữ họ; nhưng nếu họ không vâng lời và thờ thần tượng, Ngài sẽ trừng phạt họ. Mỗi vị vua mới phải xác nhận quyền uy tối thượng của luật pháp Đức Chúa Trời, hứa vâng theo nó, và còn phải chép luật pháp ấy ra một bản dành riêng cho mình (Phuc 17:18-20). Đa-vít lập giao ước của Đức Chúa Trời và dân sự, ứa gìn giữ và vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời để cai trị trong sự kính sợ Đức Chúa Trời (ISa 10:17-25; IIVua 11:17).


Khi Đa-vít còn là một thiếu niên, Sa-mu-ên đã xức dầu cho ông nơi riêng tư (ISa 16:13) và các trưởng lão của chi phái Giu-đa xức dầu cho ông làm vua ở tuổi 30 (IISa 2:4). Nhưng giờ đây các trưởng lão của cả đất nước đã xức dầu cho Đa-vít và công bố ông là vua của họ. Đa-vít không phải là một người thiếu kinh nghiệm, nhưng là một chiến binh dày dạn và là người có ân tứ lãnh đạo; đời sống và chức vụ ông được Đức Chúa Trời chúc phước. Sau những năm tháng nhiễu nhương và bị chia cắt, đất nước nay đã có một vua theo sự chọn lựa của Đức Chúa Trời và cả dân sự. Đức Chúa Trời phải bỏ thời gian để chuẩn bị cho Ngài những người lãnh đạo, và thật đáng tiếc cho người nào “thành công” trước khi sẵn sàng tiếp nhận sự thành công đó.


2. Đa-vít lập thủ đô mới (IISa 5:6-10) (ISu 11:4-9)

Áp-ne và Ích-bô-sết đã lập thủ đô của họ tại Ma-ha-na-im (IISa 2:8), bên kia sông Giô-đanh nằm trên biên giới của Gát và Ma-na-se, trong khi thủ đô của Đa-vít ở tại Hếp-rôn thuộc chi phái Giu-đa. Nhưng không thành nào thích hợp cho vị vua mới, là người đang nổ lực thống nhất đất nước và tạo nên một sự khởi đầu mới. Đa-vít rất khôn ngoan khi chọn thủ đô của mình tại thành Giê-bu thuộc Giê-ru-sa-lem nằm trên biên giới của Bên-gia-min (chi phái của Sau-lơ) và Giu-đa (chi phái của Đa-vít). Giê-ru-sa-lem chưa bao giờ thuộc về bất kỳ chi phái nào, nên không ai có thể buộc tội Đa-vít khi lập thủ đô mới của mình ở đó.


Quan tâm đến chính trị rất cần thiết, hưng tính về sự an ninh và địa thế thì Giê-ru-sa-lem là một thủ đô lý tưởng. Nằm trên một ngọn đồi, ba mặt của nó có thung lũng và đồi núi bao quanh, thành nầy chỉ có thể bị tấn công từ hướng bắc. Trũng Hin-nôm ở phía nam, trũng Xếp-rôn ở phía đông, và trũng Tyropean ở phía tây. “Núi Si-ôn đẹp đẽ nổi lên về phía bắc, là kinh đô của Vua cao cả, và là sự vui vẻ của cả thế gian” (Thi 48:2). “Từ Si-ôn tốt đẹp toàn vẹn, Đức Chúa Trời đã sáng chói ra” (Thi 50:2). Người Do-thái luôn yêu quý Giê-ru-sa-lem, à này nay Do-thái giáo, Cơ-đốc giáo và Hồi giáo đều tôn sùng nó. Được sinh ra ở Giê-ru-sa-lem thật sự là một vinh dự lớn (Thi 87:4-6).


Đức Giê-hô-va chắc đã hướng dẫn Đa-vít cách rất đặc biệt khi ông chọn Giê-ru-sa-lem làm thủ đô, vì Giê-ru-sa-lem đóng vai trò chiến lược trong việc thực hiện kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Ngài. Đức Chúa Trời có hứa với dân Do-thái rằng Ngài sẽ chọn ra một nơi để họ đến thờ phượng Ngài (Phuc 12:1-7), và Ngài đã mặc khải cho Đa-vít biết nơi đó chính là Giê-ru-sa-lem. Sau đó, Đa-vít mua đất ở Si-ôn, khu đất nầy là vị trí của đền thờ mà Sa-lô-môn, con trai Đa-vít, xây dựng (IISa 24:1-25).

Hội thánh ngày nay xem Giê-ru-sa-lem như là một thành phố bị ràng buộc trong chủ nghĩa hợp pháp, nhưng Giê-ru-sa-lem trên trời là biểu tượng của giao-ước bởi ân diển của Chúa Cứu Thế Giê xu (Ga 4:21-31) và là quê hương đời đời của dân sự thuộc về Chúa Cứu Thế (He 12:18-24; Kh 21:1-22:21). Đức Chúa Trời đã lập Vua của Ngài trên ngôi (Thi 2:6), và sẽ đến một ngày Ngài phán trong cơn thạnh nộ, trừng phạt những người chống nghịch Ngài và lẽ thật của Ngài.


Người Giê-bu-sít sống ở Giê-ru-sa-lem nghĩ rằng đồn lũy của họ vô vùng vững chắc và thậm chí người mù và người què cũng có thể bảo vệ được nó, lời khoát lác nầy làm Đa-vít nổi giận. Ông nhớ Đức Chúa Trời có hứa với Môi-se rằng Y-sơ-ra-ên sẽ đánh bại tất cả các dân sống ở Ca-na-an, kể cả dân Giê-bu-sít (Xu 23:23-24; Phuc 7:1-2; Phuc 20:17), nên bởi đức tin ông đã lên kế hoạch tấn công. Ông hứa rằng người nào vào được thành ấy và đánh bại nó ông sẽ cho làm quan trưởng cho đội quân của mình, và ông còn dạy cho người đó biết phải làm thế nào: đi theo khe nước.

Giô-áp, cháu của Đa-vít chấp nhận thách thức nầy, đã đánh chiếm thành và trở thành quan trưởng của đội quân Đa-vít. Những cuộc khai quật tại núi Si-ôn đã tìm thấy một khe nước hiểm trở nhưng không thể không vượt qua. Đa-vít chiếm được núi nầy và đặt tên cho vùng phía nam của nó là “thành Đa-vít”. Trong những năm sau, Đa-vít và những người kế vị ông đã cho xây những bức tường thành xung quanh để củng cố thành nầy.


Từ “Mi-lô” (c.9) có nghĩa là “trọn vẹn” và chỉ con đê được xây bằng đá ở sườn đông nam của núi ấy để làm vững chắc những công trình khác và bức tường thành. Những nhà khảo cổ đã tìm thấy một công trình mà họ gọi là “cấu trúc đá bậc thang” dài khoảng 1.500 feet và rộng khoảng 900 feet, đó là một nền móng cao nâng đỡ những công trình khác, à họ cho rằng nó là “mi-lô”. Cả Sa-lô-môn và vua Ê-xê-chia đã cũng cố vùng núi Si-ôn nầy. Ơn phước của Đức Chúa Trời ở trên Đa-vít và ban cho ông thành công trong việc ông làm cho dân sự.


Có thể đây là lúc Đa-vít đem đầu của Gô-li-át đến Giê-ru-sa-lem để nhắc dân sự nhớ sự thành tín của Đức Chúa Trời (ISa 17:54)


3. Đa-vít thiết lập các liên minh chính trị (IISa 5:11-16) (ISu 3:5-9 ISu 14:1-7)

Y-sơ-ra-ên là một nước nhỏ nhưng rất khác với các nước láng giềng vì có mối thông công giao ước với Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống (Dân 23:7-10), và dân Do-thái được cảnh cáo là đừng nên thiết lập liên minh với các nước láng giềng. Nếu người kế vị ông không trùng tên với ông, Hi-ram có thể vừa lên ngôi vua của Ty-rơ, vì ông ta thân với cả Đa-vít và Sa-lô-môn trong suốt những năm trị vì của mình (IVua 5:1-18).


Rất có thể cung điện của Đa-vít được xây cho ông sau những lần đánh thắng dân Phi-li-Tin (IISa 5:17-25), và đây có thể là cách Hi-ram thừa nhận ngôi vị của Đa-vít. Chắc chắn vua Phê-ni-xi cũng đánh giá cao sự kiện Đa-vít đánh thắng dân Phi-li-tin. Từ thực tế nầy, dân Phê-ni-xi cần phải giao hảo với dân Do-thái vì Y-sơ-ra-ên có thể dễ dàng ngăn trở tuyến đường thương mại đến Ty-rơ, và người Phê-ni-xi phải lệ thuộc vào người Do-thái về vấn đề lương thực. (Cong 12:20) Đa-vít giải thích lòng tốt của Hi-ram là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời thật đã lập ông trên ngôi Y-sơ-ra-ên.


Khi đề cập đến cung điện Đa-vít và mối quan hệ của ông với Hi-ram, tác giả có cơ hội đề cập đến gia đình của Đa-vít, “nhà” mà Đức Chúa Trời đang lập nên cho ông (Thi 127:1-5). Phuc 17:17 cấm vua Y-sơ-ra-ên cưới nhiều vợ, nhưng dường như Đa-vít bỏ qua luật lệ nầy, và Sa-lô-môn cũng noi theo gương ông (IVua 4:26; IVua 11:1-4). Trong số những người vợ của Đa-vít có ít nhất có một người là công chúa (IISa 3:3), điều nầy cho thấy cuộc hôn nhân ấy là vì mục đích chính trị, và chắc chắn có những cuộc hôn nhân khác. Đây là cách thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp với các nước khác.


Trong Kinh thánh có 4 chỗ liệt kê tên các con của Đa-vít – những người được sinh ra trong thời gian ông cai trị tại Hếp-rôn (IISa 3:2-5) và những người được sinh sau khi ông chuyển đến Giê-ru-sa-lem (IISa 5:13-16; ISu 3:1-9; ISu 14:4-7).

-Vợ đầu tiên của Đa-vít là Mi-canh, con gái Sau-lơ (ISa 18:27), người nầy không có con (IISa 6:23).

-Ở Hếp-rôn, A-hi-nô-am người Gít-rê-ên sinh Am-nôn, con đầu lòng của Đa-vít (IISa 3:2) A-bi-ga-in, quả phụ của Na-banh, sinh Ki-lê-át, hay còn gọi là Đa-ni-ên (IISa 3:3); công chúa Ma-a-ca sinh Áp-sa-lôm (IISa 3:3) và Ta-ma (IISa 13:1) Ha-ghít sinh A-đô-ni-gia (IISa 3:4) A-bi-tanh sinh Sê-pha-tia (IISa 3:4) và Ec-la sinh Dít-rê-am (IISa 3:5).

-Ở Giê-ru-sa-lem Bát-sê-ba sinh cho Đa-vít 4 con trai (ISu 3:5): Si-mê-a, ô-báp, Na-than và Sa-lô-môn. Những người vợ không được nhắc tên (ISu 3:6-9) đã sinh cho Đa-vít Gi-ba, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, (hay Bê-ên-gia-đa ISu 14:7), Ê-li-phê-lết.


Đa-vít cũng có con trai với những con đòi, nên ông phải cai quản một gia đình lớn. Dĩ nhiên trong số đó có những đứa con âm thầm mưu phản làm Đa-vít rất đau lòng. Luật pháp nói rõ rằng vua không được có nhiều vợ, nhưng cả Đa-vít và Sa-lô-môn đều bỏ qua luật lệ nầy, và cả hai đã phải trả giá đắt cho sự không vâng lời ấy. Trong số những người vợ của Đa-vít có một số người, giống như Ma-a-ca, là đại diện cho các mối liên minh mà Đa-vít lập với các vua láng giêng để bảo đảm an ninh cho Y-sơ-ra-ên.


4. Đa-vít đánh bại dân Phi-li-tin (IISa 5:17-25) (ISu 14:8-17)

Bao lâu Đa-vít còn ở Hếp-rôn, dân Phi-li-tin còn nghĩ ông là một trong những vua chư hầu của họ; hưng khi ông làm vua toàn cõi Y-sơ-ra-ên, ân Phi-li-tin nhận ra ông là kẻ thù và bắt đầu tấn công ông. Có thể những cuộc tấn công nầy xảy ra trước khi Đa-vít dời đến Giê-ru-sa-lem, vì ông và lính của mình đã đi đến “đồn” (IISa 5:17), khu vực đồng vắng mà ông đã sống trong những ngày bị Sau-lơ đuổi giết (ISa 24:4; ISa 23:13-14). Đa-vít ra lệnh đánh quân Phi-li-tin và nhanh chóng dẫn dắt binh lính của mình và chạm trán với những kẻ xâm lược tại trũng Rê-pha-im, cách Giê-ru-sa-lem không xa.


Như những lần trước, Đa-vít tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời trong kế hoạch tấn công của mình, có lẽ bằng U-rim và Thu-mim, hoặc qua tiên tri Gát mà ông tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời.Được Đức Chúa Trời bảo đảm rằng Ngài sẽ cho chiến thắng, Đa-vít gặp quân Phi-li-tin cách tây nam Giê-ru-sa-lem 2 dặm, và ông buộc họ rút lui. Họ rút quân ra khỏi đồng vắng nhanh đến mức đã đánh rơi các tượng thần của họ lại, và Đa-vít và lính của ông đã đem chúng đi thiêu hủy. Dân Phi-li-tin tin rằng có các thần tượng của họ bên cạnh chắc chắn chiến thắng sẽ đến với họ, nhưng họ đã sai lầm. Đa-vít đã dâng mọi vinh quang cho Đức Chúa Trời và gọi nơi đó là Ba-anh-Phê-rát-sim, có nghĩa là “Đức Giê-hô-va phát lộ”.


Một số nhà giải kinh cho rằng trong thời gian đó những binh lính người Gát đã gia nhập vào đội quân của Đa-vít (ISu 12:8-15), có thể đây là lần ba trong số những người “mạnh dạn” của Đa-vít đi băng qua trại quân Phi-li-tin để lấy nước từ giếng Bết-lê-hem về cho ông (IISa 23:13-27; ISu 11:15-19). Đây là hành động của người can đảm và có đức tin lớn, và việc làm của họ là sự đáp lại sự mong ước từ trong lòng Đa-vít, hông phải là sự tuân theo mệnh lệnh từ môi miệng ông. Họ đi lấy nước vì họ yêu mến vua của họ và muốn làm vua vui lòng. Thật họ là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo!


Quân Phi-li-tin lại gây chiến với Đa-vít lần thứ hai, và lần thứ hai Đa-vít tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời. Không giống Giô-suê sau chiến thắng tại Giê-ri-cô (Gios 6:1-7:26), Đa-vít không nghĩ sẽ dùng lại chiến lược cũ. Đức Chúa Trời cho ông một kế hoạch mới, ông vâng theo đó, và Ngài ban chiến thắng cho ông. Có tiếng gì trên các ngọn cây? Chỉ có tiếng gió? Tiếng thiên sứ (Thi 104:4)?

Tiếng của Đức Chúa Trời đến để dẫn đất dân sự Ngài giành chiến thắng? Kế hoạch được tiến hành và Đa-vít đuổi được kẻ thù từ Ghê-ba cho đến Ghê-xe, khoảng từ 15-20 dặm. Qua chiến thắng nầy, Y-sơ-ra-ên đã lấy lại được những vùng đất mà Sau-lơ đã đánh mất trong trận chiến cuối cùng của ông. Trong những chiến dịch sau nầy, Đa-vít cũng lấy lại được những thành mà dân Phi-li-tin chiếm được của Sau-lơ (IISa 8:1; ISu 18:1). Đa-vít đánh trận với quân Phi-li-tin nhiều lần, và Đức Giê-hô-va ban cho ông từ thắng lợi nầy đến thắng lợi khác.


Từ lâu rồi dân sự biết Đa-vít là một chiến binh khôn ngoan và gan dạ, và hai chiến công nầy càng tôn vinh Đức Chúa Trời và tôi tớ Ngài. Qua chiến thắng trên quân Phi-li-tin, Đa-vít làm cho các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên phải thận trọng hơn với những gì họ làm với ông và dân sự ông.


5. Đa-vít dời hòm giao-ước (IISa 6:1-23) (ISu 13:1-13; ISu 15:1-16:3)

Hòm giao-ước được đặt ở nơi Chí Thánh trong đền tạm, vì nó tượng trưng cho ngôi vinh hiển của Đức Chúa Trời (Thi 80:1 99:3) nhưng hơn 75 năm, hòm giao ước không có mặt trong đền thánh ở Si-lô. Dân Phi-li-tin đã cướp lấy hòm giao ước khi Hê-li làm quan xét (ISa 4:1-22), và sau đó trả nó về cho dân Do-thái vì Đức Giê-hô-va đã giáng sự đoán phạt Ngài trên dân Phi-li-tin. Ban đầu hòm giao-ước được gởi đến Bết-Sê-mết và sau đó được đem đến Ki-ri-át Giê-a-rim và được gìn giữ trong nhà A-bi-na-đáp (ISa 5:1-7:1).

Suốt thời trị vì của Đa-vít, có hai thầy tế lễ cả là Xa-đốc và A-hi-mê-léc (IISa 8:17), và có thể một người phụng sự trong đền thánh tại Si-lô sau đó chuyển đến Ga-ba-ôn (IISu 1:1-6), còn người kia nhận nhiệm vụ trong cung ở Giê-ru-sa-lem.

Đa-vít đã dựng một trại cho hòm giao-ước tại Thành Đa-vít, nhưng những vật dụng trong đền tạm không được chuyển đến Giê-ru-sa-lem mãi cho đến khi đền thờ mà Sa-lô-môn xây được hoàn tất (IVua 8:1-4; IISu 5:1-5).


Nổ lực đầu tiên (c.1-11).

Tại sao Đa-vít muốn đem hòm giao-ước về Giê-ru-sa-lem? Vì một điều, ông muốn tôn vinh Đức Giê-hô-va và dành cho Ngài một địa vị xứng đáng, là Vua của cả dân sự. Nhưng Đa-vít cũng có một mong ước thầm kín trong lòng là xây được một đền thờ cho Đức Giê-hô-va (xem đoạn 7 Thi 132:1-5), và bước đầu tiên là phải đặt hòm giao ước tại thủ đô.

Đa-vít biết rằng Đức Giê-hô-va muốn có một đền thờ chính cho Ngài (Phuc 12:5,11,21; Phuc 14:23-24; Phuc 16:2,6,11; Phuc 26:2), và hy vọng Đức Giê-hô-va cho phép ông xây dựng nó.

Mơ ước của Đa-vít không trở thành hiện thực, nhưng ông đã mua được đất để xây đền thờ (IISa 24:18) và ông cũng vẽ bản đồ và tích trữ của cải và những vật liệu cần thiết cho công trình đó (ISu 28:1-29:30).


Chắc chắn cũng có lý do chính trị khi Đa-vít dời hòm giao-ước về Giê-ru-sa-lem, vì nó tượng trưng cho “một nước chịu dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời”. Đa-vít kéo tất cả những quan chức cao cấp trong xứ vào kế hoạch nầy và có lời mời các thầy tế lễ và người Lê-vi từ khắp nơi đến Giê-ru-sa-lem. “Đa-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên lại, từ Si-ho, khe Ê-díp-tô, cho đến Ha-mát, để rước hòm của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim về” (ISu 13:5). Ha-mát được Đức Chúa Trời đánh dấu là biên giới ở cực bắc của Y-sơ-ra-ên (Dân 34:8). Đa-vít hy vọng rằng những chia rẽ và những khác biệt trong quá khứ sẽ được quên đi khi dân sự hướng lòng mình về Đức Chúa Trời. Sự hiện diện của hòm giao-ước có nghĩa là sự hiện diện của Đức Chúa Trời, và sự hiện diện của Đức Chúa Trời có nghĩa là sự bình yên và đắc thắng.


Nhưng một điều đang bị bỏ quên: không có chỗ nào chép lại rằng Đa-vít đã tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời trong vấn đề nầy. Dời hòm giao-ước về Giê-ru-sa-lem có vẻ là một ý kiến khôn ngoan và ai cũng nhiệt tình ủng hộ, nhưng vua đã không làm điều mà ông thường làm xưa nay đó là tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Xét cho cùng, điều làm vua và dân sự vui lòng lại không làm Đức Chúa Trời đẹp lòng, và điều Ngài không đẹp lòng thì Ngài không ban phước cho.

Nổ lực đầu tiên của Đa-vít đã thất bại thảm hại vì người Lê-vi không khiêng hòm giao-ước trên vai mình. Trong Luật Pháp Môi-se, Đức Chúa Trời dạy cẩn thận về cách dựng, tháo dỡ và di chuyển đền tạm (Dân 4:1-49), những vật dụng phải được khiêng trên vai của người Lê-vi, thuộc dòng dõi Kê-hát (IISa 4:9-20). Khi họ dùng cỗ xe bò mới để vận chuyển, họ đang làm theo cách người Phi-li-tin ngoại đạo thường làm (ISa 6:1-21), không phải theo cách được dạy cho Môi-se ở núi Si-na-i.


Bài học ở đây rất rõ ràng: công việc của Đức Chúa Trời phải được thực hiện theo cách của Đức Chúa Trời nếu muốn được Ngài chúc phước cho. Được tất cả những lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên nhất trí không làm cho việc dùng xe bò ấy trở thành việc phải lẽ. Khi thấy hòm giao ước như sắp rớt khỏi xe bò, U-xa đã dám đưa tay ra giữ nó lại. Nhưng Đức Chúa Trời có cảnh cáo việc nầy trong Luật Pháp Môi-se, và chắc chắc người Y-sơ-ra-ên nào cũng biết rõ điều đó (Dân 15:51; Dân 4:15,20). Không có bằng chứng nào cho rằng A-bi-na-đáp là người Lê-vi hay các con trai ông, U-xa và A-hi-giô không có đủ tư cách đến gần hòm giao-ước, huống hồ chạm vào nó. Đa-vít đưa hòm giao-ước vào nhà Ô-bết Ê-đôm, là một người Lê-vi, và nó được để lại đó trong 3 tháng.


Trong sự bắt đầu một thời đại mới của lịch sử Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đôi khi bày tỏ quyền năng của Ngài trong việc trừng phạt để nhắc nhở dân sự nhớ một điều không hề thay đổi: dân sự Đức Chúa Trời phải vâng Lời Đức Chúa Trời. Sau khi đền tạm được dựng xong và các thầy tế lễ làm lễ khách thành, các con trai A-rôn, Na-đáp và A-bi-hu, đã bị phạt chết vì cố ý bước vào nơi thánh (Le 10:1-20).

Khi Y-sơ-ra-ên bước và xứ Ca-na-an và bắt đầu chinh phục xứ ấy, Đức Chúa Trời đã phạt chết A-can vì đã không vâng theo luật pháp và đã giấu của cướp được của thành Giê-ri-cô (Gios 6:1-7:29). Trong những ngày sơ khai của Hội thánh thời Tân-ước, A-na-nia và Sa-phi-ra đã phải chết vì tội nói dối với Đức Chúa Trời và dân sự Ngài (Cong 5:1-42). Ở đây, ào những ngày đầu tiên trong thời trị vì của Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem, Đức Chúa Trời đã nhắc nhở dân sự Ngài rằng họ không được bắt chước những dân khác trong cung cách phụng sự Ngài, tất cả những gì họ cần biết đó chính là Lời Ngài.


Hội thánh ngày nay cần lưu ý lời nhắc nhở này và quay trở về với lời Đức Chúa Trời để hiểu được ý muốn của Ngài. Nhiệt tình hay hiệp một không thể bù đắp cho sự không vâng phục. Khi công việc Đức Chúa Trời được thực hiện theo cách loài người, và chúng ta bắt chước thế gian thay vì vâng theo Kinh Thánh, chúng ta đừng mong được Đức Chúa Trời chúc phước. Đám đông có thể tán thưởng việc làm của chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời thì sao? Cách của thế gian cuối cùng sẽ dẫn đến sự chết.


Nổ lực thứ hai (c.12-19).

Khi Đa-vít nghe biết được sự hiện diện của hòm giao ước đang đem lại phước hạnh cho nhà Ô-bết Ê-đôm, ông muốn ơn phước đó dành cho chính mình và dân sự mình. Hòm giao-ước phải ở trong trại mà ông dựng để dành riêng cho nó tại Giê-ru-sa-lem. Vì I và II Sủ-ký được viết theo cái nhìn của thầy tế lễ, đoạn viết về nổ lực thứ hai đầy đủ hơn đoạn viết trong sách Sa-mu-ên (ISu 15:1-16:3). Bây giờ Đa-vít quyết tâm làm công việc Chúa theo cách của Chúa, nên ông sai người Lê-vi đi một quảng đường 10 dặm đến nhà Ô-bết Ê-đôm, và họ đã khiêng hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem.

Để bảo đảm Đức Chúa Trời sẽ không nổi giận và trừng phạt, người Lê-vi đã dừng lại sau khi bước 6 bước đầu tiên và các thầy tế lễ đã dâng của lễ là một con bò đực mập béo. Khi không có hình phạt nào giáng xuống, họ biết Đức Chúa Trời đã đẹp lòng với cách họ đang làm (ISu 17:26). Khi đoàn người đi đến trại tại Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ dâng thêm 14 của lễ nữa (ISu 15:26).


Đa-vít nhảy múa hết mình để thờ phượng trước mặt Đức Giê-hô-va ông mặc áo vải gai và ê-phót của thấy tế lễ (c.14). Vì việc đó, vợ ông đã chỉ trích rằng ông đã hành động mà không biết xấu hổ (c.20), hưng ISu 15:27 cho chúng ta biết ông cũng có mặc áo dài của vua bên trong ê-phót. Dù ông không xuất thân từ chi phái Lê-vi, ông đã hành động như một vị vua vừa là thầy tế lễ – hình ảnh của Chúa Giê-xu, Con vua Đa-vít, là Đấng giữ hai chức vị “theo ban Mên-chi-xê-đéc” (He 6:20-8:13; Thi 110:1-7). Trong thời Áp-ra-ham, Mên-chi-xê-đéc vừa là vua vừa là thầy tế lễ của Sa-lem (Sa 14:17-24), à giờ đây Đa-vít đang thờ phượng như vua và thầy tế lễ của Giê-ru-sa-lem. Đoàn người nầy còn có ban nhạc đi theo, họ là những người Lê-vi chơi đàn và hát ngợi khen Đức Giê-hô-va.


Sự nhảy múa của Đa-vít xuất phát từ tấm lòng chân thành của riêng mình, khi ông nhảy múa trước mặt Đức Giê-hô-va ông muốn tôn vinh sự hiện điện của Ngài trong thủ đô của mình. Có thể một số bài Thi-thiên (Thi 24:1-10; Thi 47:1-9; Thi 95:1-11; Thi 99:1-9; Thi 68:1-35; Thi 105:1-45; Thi 106:1-48; Thi 132:1-18; ISu 19:7-36) đã phản ánh suy nghĩ và cảm xúc của Đa-vít trong sự kiện đó.

Ngày xưa, nhảy múa giữ vai trò quan trọng cả trong cách thờ phượng của người ngoại bang và người Do-thái (Thi 149:3) cũng như trong những dịp lễ đặc biệt, như đám cưới, họp mặt gia đình (Lu 15:25), và lễ mừng thắng trận (Cac 11:34). Thông thường phụ nữ là người hát và nhảy múa trước mặt Đức Giê-hô-va (Xu 15:20-21; ISa 18:6; Thi 68:14-26), và khi cả người nam và người nữ cùng nhảy múa, họ bị cô lập. Nhảy múa trong tôn giáo được đề cập hoặc ám chỉ trong sách Thi-thiên (Thi 26:6-7; Thi 30:11; Thi 42:4; Thi 150:4).


Trong Tân-ước không có bằng chứng nào cho thấy nhảy múa là “hình thức thờ phượng” được sử dụng trong nhà hội Do-thái hay trong nghi thức của Hội thánh đầu tiên. Người Hy-lạp đưa hình thức nhảy múa vào nghi thức thờ phượng trong Hội thánh hậu-các sứ đồ, nhưng tập tục nầy gây ra những vấn đề nghiêm trọng về mặt đạo đức và cuối cùng đã bị cấm. Thật khó cho hội chúng phân biệt giữa “nhảy múa trong Cơ-đốc giáo” và nhảy múa để tôn vinh các thần ngoại bang, nên Hội thánh loại bỏ tập tục nầy và sau đó nó bị lên án.


Khi hòm giao ước được đặt an toàn trong trại, Đa-vít chúc phước cho dân sự (một hành động mà thầy tế lể thường làm) và phát cho mỗi người một ít bánh, thịt (hoặc rượu) và bánh nho khô. Một lần nữa chúng ta được nhắc về Mên-chi-xê-đéc, thầy tế lễ nhà vua, là người từ Sa-lem đến và ban bánh và rượu cho Áp-ra-ham (Sa 14:18-19). Nhưng khi Đa-vít trở về nhà để chúc phước cho gia đình riêng của mình, ông biết được vợ ông đã xấu hổ vì ông và thậm chí còn xem thường ông vì đã nhiệt tình nhảy múa trước công chúng (c.16,20-23).

Thật đáng chú ý khi đoạn văn nầy đã viết rằng nàng thấy “Vua Đa-vít” mà không phải “chồng nàng” (c.16) và nàng được gọi là “con gái của Sau-lơ” mà không phải là “vợ Đa-vít” (c.20). Khi nói chuyện với Đa-vít, Mi-canh dùng ngôi thứ ba (“Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên được vinh hiển thay”) mà không dùng ngôi thứ hai, và lời lẽ của nàng đầy mỉa mai.

Thật đáng buồn cho Đa-vít vì một ngày đáng vui mừng hạnh phúc ấy lại kết thúc bằng sự tiếp đón vô cảm và lạnh lùng của vợ mình, nhưng đầy tớ của Đức Chúa Trời thường phải rơi từ đỉnh vinh quang xuống hố sâu vực thẩm một cách nhanh chóng như vậy.


Không có bằng chứng nào cho thấy Đa-vít đã phạm những tội mà vợ ông lên án. Ông ăn mặc phù hợp và chắc chắc đã không cởi trần trước mặt dân sự, và ông đã nhảy múa trước mặt Đức Chúa Trời, là Đấng hiểu rõ tấm lòng của ông. Đa-vít nhận ra trong Mi-canh có sự kiêu ngạo và sự đui mù thuộc linh của Sau-lơ, mong ước lớn nhất của ông ta là có được danh tiếng trước dân chúng.

Đa-vít thích sống là hành động sao cho Đức Chúa Trời đẹp lòng hơn.

Đa-vít nhắc Mi-canh nhớ rằng Đức Chúa Trời đã chọn ông để làm vua thay thế Sau-lơ, ha nàng, và ông sẽ làm những điều Đức Chúa Trời khiến ông làm. Nói cách khác, Đa-vít không cần con gái của vị vua thất sủng và đáng hổ thẹn ấy làm cố vấn thuộc linh cho ông. Có lẽ Mi-canh không thích những gì Đa-vít nói về sự xao lãng hòm giao ước của cha mình (ISu 13:3). Đa-vít yêu quý Mi-canh và đã rước nàng về khi ông được làm vua (IISa 3:12-16), nhưng tình yêu sẽ dễ dàng sứt mẻ nếu chúng ta không đặt hy vọng vào nó.


Mi-canh nói rằng Đa-vít đã làm chính ông mất mặt trước dân chúng, nhưng Đa-vít đã phản đối lời buộc tội sai trái của nàng với lời báo trước rằng nàng sẽ không được sủng ái nữa, và từ đó Đa-vít bỏ qua bổn phận làm chồng của mình đối với nàng. Trong thời đại đó người vợ nào không sinh được con cho chồng là một điều đáng sỉ nhục, nhất là khi bị chồng ruồng bỏ. Nhưng sự son sẻ của Mi-canh là một ơn phước từ Đức Chúa Trời.

Nó ngăn chặn gia đình của Sau-lơ tiếp tục tồn tại trong Y-sơ-ra-ên và vì vậy đe dọa đến ngai vàng của Đa-vít. Đa-vít và Giô-na-than có hứa sẽ cùng nhau cai trị đất nước (ISa 23:16-18), nhưng Đức Chúa Trời không chấp nhận kế hoạch đó nên đã để cho Giô-na-than tử trận. Đức Giê-hô-va muốn dòng dõi và ngai vàng của Đa-vít được an toàn trước mọi vương triều khác, vì từ dòng dõi Đa-vít sẽ sinh ra Đấng Mê-si-a, là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đó là chủ đề của đoạn sau trong câu chuyện về vua Đa-vít



 


4. VƯƠNG TRIỀU, LÒNG NHÂN TỪ, VÀ NHỮNG CHINH PHỤC CỦA ĐA-VÍT (IISa 7:1-10:19; ISu 17:1-19:19)


Trong 4 đoạn nầy chúng ta sẽ thấy Vua Đa-vít có liên quan đến 4 việc làm quan trọng: chấp nhận ý muốn của Đức Chúa Trời (đoạn 7), đánh trận cho Đức Chúa Trời (đoạn 8), thừa hưởng lòng nhân từ của Đức Chúa Trời (đoạn 9) và bảo vệ danh Đức Chúa Trời (đoạn 10). Tuy nhiên, những việc làm nầy không có gì lạ đối với Đa-vít, trước khi ông lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên, ông đã hầu việc Đức Chúa Trời và dân sự Ngài theo những cách nầy.

Được đội vương miện và ngồi trên ngai vàng không làm Đa-vít thay đổi, vì trong bản tánh và đạo đức của ông, ông đã sống như thể mình đã là vua từ lúc ông còn rất trẻ. Thảm kịch bắt đầu từ đoạn 11 trở đi, chúng ta sẽ thấy Đa-vít không vâng phục Đức Chúa Trời nữa và phải gánh chịu nhiều đau khổ vì tội lỗi mình. Andrew Bonar đã đúng khi nói rằng, “Chúng ta phải cảnh giác sau thắng lợi giống như trước khi bước vào trận chiến”.


1. Chấp nhận ý muốn của Đức Chúa Trời (IISa 7:1-29) (ISu 17:1-27)

Trong thời cổ đại, vua làm gì khi đất nước không có chiến tranh? Nê-bu-cát-nết-sa đi dạo trong thành mình và khoe khoang, “Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng…?” (Đa 4:30). Sa-lô-môn lo thâu trữ của cải, cưới thêm nhiều vợ, tiếp đãi khách nước ngoài và viết sách, trong khi Ê-xê-chia chọn những học giả uy tín để sao chép và lưu giữ Kinh thánh (Ch 25:1).

Nhưng từ IISa 7:1-3 cho thấy trong những giờ phút rãnh rỗi của mình, Đa-vít đã suy nghĩ về Đức Chúa Trời và bàn bạc với tiên tri thân cận của mình là Na-than về những hoạch định nhằm phát triển đời sống thuộc linh trong toàn cõi Y-sơ-ra-ên. Đa-vít không chỉ là một người cai trị, ông còn là một người chăn hết lòng chăm lo cho dân sự mình. Trong lúc nghỉ ngơi ông suy nghĩ đến những việc ông có thể làm, và khi thành công ông nghĩ về Đức Chúa Trời và sự nhân từ của Ngài đối với ông.


Trong đoạn nầy Đức Chúa Trời mặc khải cho Na-than và Đa-vít biết điều mà thường được gọi là Giao-ước của Đa-vít. Lời công bố nầy không chỉ có ý nghĩa rất lớn đối với Đa-vít, hưng còn có ý nghĩa quan trọng đối với Y-sơ-ra-ên, Hội thánh và phần lớn thế giới ngày nay.


Ý nghĩa của giao ước đối với Đa-vít (IISa 7:1-9).

Việc Đa-vít muốn xây cho Đức Giê-hô-va một đền thờ không làm chúng ta ngạc nhiên, vì Đa-vít là người làm Đức Chúa Trời đẹp lòng và ước ao làm vinh danh Đức Giê-hô-va bằng mọi cách có thể. Trong suốt những năm tha hương trong đồng vắng, Đa-vít hứa sẽ xây cho Đức Giê-hô-va một đền thờ (Thi 132:1-5), và việc đem hòm giao-ước về Giê-ru-sa-lem là bước đầu tiên để thực hiện lời hứa nầy.

Giờ đây ông đang lo âu vì mình đang ở trong cung điện tiện nghi sang trọng trong khi ngôi của Đức Chúa Trời đang ở trong trại, và ông tâm sự lòng mình với Na-than.


Đây là lần đâu tiên Na-than xuất hiện trong Kinh Thánh. Gát là tiên tri của Đa-vít trong thời gian ông tha hương (ISa 22:5), và sau khi Đa-vít lên ngôi, chúng ta không thấy Gát xuất hiện (IISa 24:1-28). Thật ra, ông và Na-than cùng nhau làm công việc viết sách (ISu 29:25,29) và tổ chức các buổi thờ phượng (IISu 29:25), nhưng dường như trong thời trị vì của Đa-vít Đức Chúa Trời đã phán với ông qua Na-than. Chính Na-than là người răn đe Đa-vít vì tội lỗi của ông (đoạn 12) và cũng là người biết được Sa-lô-môn sẽ làm vua (IVua 1:11).

Đa-vít có 4 con trai với Bát-sê-ba và một trong số đó được đặt tên là Na-than (ISu 3:1-5). Khi Na-than nói với Đa-vít nên làm điều gì mà lòng mình ao ước, ông không khẳng định rằng ao ước của Đa-vít thật sự là ý muốn của Đức Chúa Trời. Na-than đã khuyến khích vua theo đuổi mơ ước của mình và chờ xem Đức Giê-hô-va muốn ông làm gì. Đức Chúa Trời đã đáp lời bằng một sứ điệp đặc biệt cho vua qua Na-than, và Na-than truyền lại nó một cách trung thực.


Trong phần đầu của sứ điệp, Đức Chúa Trời nhắc Đa-vít rằng chưa bao giờ Ngài đòi hỏi chi phái nào hoặc lãnh đạo chi phái nào xây cho Ngài một đền thờ. Đức Chúa Trời có bảo Môi-se dựng một đền tạm làm nơi ngự của Ngài, và Ngài vui lòng đồng đi với dân sự và ngự bất cứ nơi nào họ dừng lại đóng trại. Giờ đây dân Y-sơ-ra-ên đã sống yên ổn trong xứ mình, họ đang cần một người chăn dắt biết quan tâm đến họ, không cần một đền thờ, đó là lý do Đức Chúa Trời kêu gọi Đa-vít chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã ở cùng Đa-vít, chúc phước cho công việc ông, và làm nổi danh ông. Dù Đa-vít có mơ ước có hứa nguyện đi nữa, người xây đền thờ cũng không phải là ông. Điều tốt nhất ông có thể làm cho Đức Giê-hô-va là tiếp tục chăn dắt dân sự và làm gương tốt cho họ.


Sứ điệp nầy chắc đã làm Đa-vít thất vọng, nhưng ông chấp nhận nó và dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự nhân từ của Ngài đối với ông. Khi Sa-lô-môn khánh thành đền thờ, ông giải thích rằng Đức Chúa Trời chấp nhận mong ước của Đa-vít vì một điều: “Khi ngươi có ý xây đền cho danh ta, thì lấy làm thậm phải” (IVua 8:18; IICôr 8:12). Các đầy tớ của Đức Chúa Trời phải biết chấp nhận những điều không vừa lòng trong cuộc sống, như A. T. Pierson từng nói “Những điều làm bạn nản lòng là những điều Đức Chúa Trời sắp đặt”.


Ý nghĩa của giao ước đối với dân Y-sơ-ra-ên (IISa 7:10-15).

Nền tảng cho mục đích và việc làm của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên là giao ước của Ngài với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3; Sa 15:1-15). Đức Chúa Trời chọn Áp-ra-ham bởi ân điển Ngài và hứa ban cho ông một xứ xở, một dòng dõi đông đúc, làm nổi danh ông, ban ơn và gìn giữ ông. Ngài cũng hứa rằng cả thế gian sẽ nhờ con cháu ông mà được phước, ý nói đến Chúa Cứu Thế Giê-xu (Ga 3:1-16). Đức Chúa Trời chọn Y-sơ-ra-ên làm ống dẫn để qua đó Con Ngài và Lời Ngài đến với thế gian.Giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít được lập trên giao ước nầy với Áp-ra-ham, vì nó nói về dân sự, xứ xở và Đấng Mê-si-a.


Đức Giê-hô-va bắt đầu với chủ đề về xứ xở của Y-sơ-ra-ên (c.10) và hứa cho dân sự Ngài được “bình an”. Từ “bình an” (hay “an nghỉ”, “nghỉ ngơi”) là một từ rất quan trọng trong từ vựng của các tiên tri và ngụ ý về những phước lành nằm trong hoạch định của Đức Chúa Trời dành cho dân sự Ngài. Khái niệm về “sự nghỉ ngơi” xuất hiện từ lúc Đức Chúa Trời nghỉ các công việc Ngài sau khi hoàn tất công cuộc sáng tạo (Sa 2:1-3), và đây là cơ sở để dân Y-sơ-ra-ên giữ ngày Sa-bát (Xu 20:8-11). Sau khi Đức Chúa Trời giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập, Ngài đã hứa cho họ “an nghỉ” trong xứ của mình (Xu 33:14; Phuc 25:19; Gios 1:13,15). Đa-vít quá bận rộn với những cuộc chiến nên không thể xây đền thờ (IVua 5:17), nhưng khi Đức Chúa Trời cho Y-sơ-ra-ên được an nghỉ, Sa-lô-môn đã xây đền thờ theo kế hoạch và những vật liệu mà Đức Chúa Trời dành cho Đa-vít, cha mình (IVua 5:1-4; IVua 8:56; Thi 89:19-23).


Nhưng khái niệm về “sự yên nghỉ” còn vượt xa hơn những điều ấy vì nó cũng nói về sự bình an thuộc linh mà tín hữu có được trong Chúa Cứu Thế (Mat 11:28-30; He 2:10-18; He 4:14-16). Khái niệm nầy cũng nhìn xa hơn về tương lai của nước Y-sơ-ra-ên và sự yên nghỉ mà dân sự Đức Chúa Trời sẽ có được khi Chúa Cứu Thế Giê-xu ngồi trên ngôi Đa-vít (Es 11:1-12; Es 65:17-25; Gie 31:1-14; Gie 50:34).


Sau đó Đức Giê-hô-va nói đến ngai vàng và dòng dõi Đa-vít (c.11-16). Vua nào cũng quan tâm đến tương lai của đất nước mình, và Đức Giê-hô-va hứa với Đa-vít nhiều hơn những gì ông mong đợi.

Đa-vít muốn xây nhà (đền thờ) cho Đức Chúa Trời, nhưng Ngài hứa dựng cho ông một cái nhà một vương triều đời đời! Từ “nhà” được dùng 15 lần trong đoạn nầy và ám chỉ cung điện của Đa-vít (c.1-2), đền thờ (c.5-7,13) và vương triều của Đa-vít, mà lên đến đỉnh điểm trong Đấng Mê-si-a, tức Chúa Cứu Thế Giê-xu (c.11,13,16,18-29).


Lần đầu tiên Đức Chúa Trời đề cập đến Chúa Cứu Thế là trong Sa 3:15, và cho chúng ta biết Chúa Cứu Thế sẽ là một con người không phải là thiên sứ. Sa 12:3 cho biết Ngài sẽ là người Do-thái, là nguồn phước cho cả thế gian, và Sa 40:10 cho biết Ngài sẽ đến qua chi phái Giu-đa.Trong giao ước nầy, Đức Chúa Trời thông báo cho Đa-vít biết Đấng Mê-si-a sẽ đến qua dòng dõi của ông, và Mi 5:2 tiên tri rằng Ngài sẽ giáng sinh tại Bết-lê-hem, Thành Đa-vít (Mat 2:6). Chắc chắn vua rất phấn khởi khi biết Đấng Mê-si-a sẽ được biết là “Con Cháu Đa-vít” (Mat 1:1).


Trong phần nầy, Đức Giê-hô-va nói về Sa-lô-môn cũng như về Chúa Cứu thế, là người “tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn” (Mat 12:42). Sa-lô-môn sẽ xây đền thờ mà Đa-vít ao ước xây, nhưng thời trị vì của ông sẽ kết thúc; tuy nhiên Đấng Mê-si-a sẽ còn đến đời đời. Đa-vít sẽ có một nhà đời đời (c.25,29), một nước đời đời (c.16) và một ngôi vững lập mãi mãi (c.13,16), và sẽ làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời mãi mãi (c.26).


Tất cả điều nầy được ứng nghiệm trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con cháu Đa-vít (Thi 89:34-37; Lu 1:32-33,69; Công 2:29-36; Công 13:22-23 IITi 2:8) và sẽ được phát lộ khi Ngài trở lại, lập nước như đã hứa, và ngồi trên ngôi Đa-vít. Những ơn phước thuộc linh dành cho Đa-vít ngày nay trong Chúa Cứu Thế Giê-xu được dành cho tất cả những người tin cậy Ngài (Es 55:1-3; Cong 13:32-39). Chúng thật sẽ được làm trọn bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu trong vương quốc tương lai như đã hứa cho Y-sơ-ra-ên (Es 9:1-7; Es 11:1-16; Es 16:5; Gie 33:15-26; Exe 34:23-24; Exe 37:24-25; Os 3:5; Xa 12:7-8). Ngôi Đa-vít đã kết thúc năm 586 TC với vua Sê-đê-kia, vị vua cuối cùng của Giu-đa, nhưng dòng dõi Đa-vít vẫn tiếp tục tồn tại và từ đó Chúa Cứu Thế Giê-xu, con cháu Đa-vít đến thế gian (Mat 1:12-25; Lu 1:26-38,54-55,68-79).


Người ta thường nói nước Y-sơ-ra-ên sẽ sớm diệt vong nếu Đức Chúa Trời không thành tín với giao-ước của Ngài với Đa-vít, là “ngọn đuốc Y-sơ-ra-ên” (IISa 21:17). Dù các vua và dân sự sa sút thế nào, thì Đức Chúa Trời vẫn giữ gìn ngọn đuốc cho Đa-vít và cho Y-sơ-ra-ên (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IISu 21:7; Thi 132:17). Dù họ có nhận ra điều đó hay không, Đa-vít đã làm cho dân Do-thái rất nhiều điều; ông góp phần xây dựng đền thờ, làm ra những nhạc cụ và sáng tác những bài hát được dùng trong đền thờ, tổ chức các bang nhóm phục vụ trong đền thờ, và bảo vệ đất nước trước nhiều kẻ thù.

Ngày nay chúng ta mang ơn Đa-vít vì đã giữ cho ngọn đuốc chiếu sáng để Chúa Cứu Thế bước bào thế gian. Dù dân sự nhiều lần phạm tội, Đức Chúa Trời nhiều lần trừng phạt họ, nhưng Ngài không phá bỏ giao ước của Ngài cũng không cất ơn thương xót Ngài khỏi họ (c.15; IISa 22:51; IVua 3:6; IISu 6:42; Thi 89:28,33,49).


Ý nghĩa của giao ước đối với tín đồ ngày nay (IISa 7:18-29). Chúng ta đã biết rằng ngày nay chúng ta có Hội thánh bởi Đức Chúa Trời đã dùng dòng dõi Đa-vít để đưa Chúa Cứu Thế Giê-xu đến thế gian, và có một tương lai cho Y-sơ-ra-ên vì Đức Chúa Trời ban cho Đa-vít ngôi đời đời. Cách Đa-vít đáp lại Lời tuyệt vời nầy của Đức Chúa Trời là một tấm gương tốt cho chúng ta ngày nay noi theo.

Ông hạ mình trước Chúa và ít nhất 10 lần xưng mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Tôi tớ thường đứng chú ý và chờ đợi lệnh, nhưng Đa-vít đã ngồi trước mặt Đức Giê-hô-va. Giao ước của Đức Chúa Trời dành cho Đa-vít là một giao ước không điều kiện; tất cả những gì Đa-vít cần làm là tiếp nhận nó và để Đức Chúa Trời hành động. Như một con trẻ nói chuyện với người cha yêu dấu của mình, vua xưng mình là “Đa-vít” (c.20), và ông dốc đổ lòng mình trước Chúa.


Đầu tiên ông tập trung nói về hiện tại khi ông ngợi khen ơn thương xót mà Đức Chúa Trời dành cho ông (c.18-21). Chính ân điển của Đức Chúa Trời đã thay đổi vận mệnh của Đa-vít một kẻ chăn chiên trở thành vua một nước và bây giờ Đức Chúa Trời phán với ông về con cháu ông trong tương lai. Câu 18-20 và 28-29, Đa-vít xưng Đức Chúa Trời là “Chúa Giê-hô-va”, từ nầy trong tiếng Hy-bá-lai là “Jehovah Adonai, Đức Giê-hô-va Đấng tể trị” (Trong câu 22 và 25, từ ấy là “Jehovah Elohim, Đức Chúa Trời quyền năng”).

Chỉ Đức Chúa Trời với ân điển cao cả của Ngài mới có thể lập một giao ước như vậy, và chỉ Đức Chúa Trời với quyền năng tối cao của Ngài mới có thể làm trọn giao ước ấy. “Lạy Chúa Giê-hô-va, iều nầy há theo cách thường của loài người sao?” (c.19).

Trong ý nghĩa nầy, âu trả lời là không, vì Đức Chúa Trời chọn nhà Đa-vít để đưa Con Ngài vào thế gian; nhưng trong nghĩa khác, câu trả lời là có, vì mọi tội nhân có thể tin cậy Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu và bước vào nhà Đức Chúa Trời. Đa-vít nhận thấy những lời hứa trong giao ước nầy là “những việc lớn” (c.21) vì tính đáng tin cậy của Lời và tình yêu của Đức Chúa Trời.


Trong câu 22-24, Đa-vít nhìn về quá khứ và ân điểnlạ lùng của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-hô-va chọn Y-sơ-ra-ên thay vì các nước khác trên thế gian, và mặc khải chính mình Ngài cho Y-sơ-ra-ên qua luật pháp được ban ra tại núi Si-na-i và phán Lời Ngài qua các tiên tri của Ngài.

Dân Do-thái phải ghi nhớ sự độc nhất của Đức Giê-hô-va và không được quỳ lạy trước các thần tượng ngoại bang. (Phuc 4:34; Phuc 7:6-8; Phuc 9:4-5; Ne 9:10). Đức Chúa Trời là Chúa của tất cả các nước nhưng Ngài làm những việc lớn cho Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài. Đa-vít nhận ra một lẽ thật tuyệt vời, đó là Đức Chúa Trời đã chọn Y-sơ-ra-ên làm tuyển dân đời đời của Ngài.


Phần thứ ba trong lời cầu nguyện và ngợi khen (c.25-29) nhìn đến tương lai như được mặc khải trong giao-ước chỉ được truyền cho một mình vua. Đức Chúa Trời ban Lời Ngài, Đa-vít tin Lời ấy, và ông cầu xin Đức Chúa Trời làm trọn Lời ấy cho dân sự. Ông muốn Y-sơ-ra-ên tiếp tục là một nước thống nhất và Đức Giê-hô-va sẽ được phát lộ qua Y-sơ-ra-ên. Ông cầu xin cho nhà ông được lập như lời Ngài đã hứa (c.27), dù nó làm Đa-vít thất vọng, vì ông sẽ không được phép xây nhà cho Đức Giê-hô-va. “Nước Cha được đến” là động lực của câu 27, và “Ý Cha được nên” là động lực của câu 28. Đối với Đa-vít chỉ cần nghe những lời hứa ấy là tin vào chúng là đã đủ; ông cũng cầu xin Đức Giê-hô-va làm trọn chúng.


Trong sự khiêm nhường, đức tin và sự đầu phục ý muốn Chúa, Đa-vít là một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo.


2. Đánh trận cho Đức Chúa Trời (IISa 8:1-18) (ISu 18:1-17)

Đoạn nầy tóm tắt những chiến công của đội quân Y-sơ-ra-ên trước những kẻ thù, là những sự kiện có thể đã diễn ra giữa đoạn 6 và 7 của II Sa-mu-ên (IISa 7:1). Đức Giê-hô-va giúp đỡ Đa-vít, Giô-áp và A-bi-sai đánh thắng các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên ở phương tây (c.1), phương đông (c.2), phương bắc (c.3-12)và phương nam (c.13-14). Có một đoạn thuật tương đương, (ISu 18:1-19:19). Vua Sau-lơ đã đánh trận với hầu hết những kẻ thù nầy (ISa 14:47).


Chúng ta phải nhìn những hoạt động quân sự của Đa-vít qua ánh sáng của giao ước Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên qua Áp-ra-ham (Sa 12:15), Môi-se (Phu 27:1-30:20) và Đa-vít (IISa 7:1-29). Đức Giê-hô-va đã hứa cho Y-sơ-ra-ên đất từ Sông Ê-díp-tô đến sông Ơ-phơ-rát (Sa 15:17-21; Phuc 1:6-8; Phuc 11:24; IVua 4:20-21), và Ngài dùng Đa-vít để làm thành lời hứa ấy.Y-sơ-ra-ên đã mất nhiều phần đất của mình về tay các kẻ thù trong thời trị vì của Sau-lơ, và Đa-vít không chỉ đã lấy lại chúng, nhưng ông còn mở mang lãnh thổ và chiếm được những xứ mà trong thời Giô-suê đã chưa chiếm được (Gios 13:1-7). Đa-vít đã lập hiệp ước chư hầu với hầu hết các nước nầy và bố trí những đồn trú trong xứ của họ để giữ vững quyền lực của Y-sơ-ra-ên (c.6). Là người có đức tin lớn, Đa-vít tin nơi những lời hứa của Đức Chúa Trời và hành động theo những lời ấy để dân sự ông được hưởng phước hạnh từ Đức Chúa Trời.


Nhưng những chiến công của Đa-vít cũng có nghĩa là sự hòa bình và yên ổn trong dân Y-sơ-ra-ên để họ có thể sống đời sống bình thường không bị các nước láng giềng liên tục đe dọa. Y-sơ-ra-ên có một việc lớn để thực hiện trên đất nầy, đó là làm chứng về Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống, đem Lời Chúa và Đấng Mê-si-a vào thế gian.

Hơn nữa những chiến công của Đa-vít làm giàu thêm ngân khố của Đức Giê-hô-va để Sa-lô-môn có đủ các vật liệu xây đền thờ (c.11-13 ISu 22:1-19). Hội thánh ngày nay không dùng vũ khí quân sự để đánh trận cho Đức Chúa Trời (Gios 18:36-38; IICo 10:3-6; Eph 6:14-18), nhưng chúng ta có thể sử dụng đức tin và lòng can đảm mà Đa-vít và quân lính của ông đã có và khai hoang phần lãnh thổ bị mất đi của Đức Chúa Trời.


Phương tây: dân Phi-li-tin (IISa 8:1) là kẻ thù truyền kiếp của đân Do-thái và lợi dụng mọi cơ hội đề tấn công họ. Trong IISa 21:15-22 có ít nhất 4 chiến dịch khác nhau của dân Phi-li-tin (ISu 20:4-8), và phân đoạn Kinh Thánh nầy mô tả sự ngã xuống của những người khổng lồ cũng như sự thất bại của dân Phi-li-tin. Y-sơ-ra-ên chiếm được nhiều thành, trong đó có thành Gát, quê hương của Gô-li-át.

Khi còn trẻ Đa-vít đã giết chết Gô-li-át, nhưng trong chiến dịch đầu tiên ông không thể giết chết người khổng lồ Ít-bi-bê-nốp, và A-bi-sa-i, cháu ông, đã phải giải cứu ông (IISa 21:15-17).

Lính của Đa-vít khuyên ông không nên đích thân tham gia cuộc chiến, và ông đã lưu ý lời khuyên đó. Thật phước hạnh khi một người lãnh đạo chịu thừa nhận khuyết điểm của mình và biết khi nào nên thay đổi mình! Địa danh “Methegammah” (Kinh Thánh tiếng Việt dịch là “kinh đô”) có nghĩa là “một thành phố đứng đầu” và ám chỉ một thành phố chính của Phi-li-tin mà Y-sơ-ra-ên đã chiếm được, vị trí của nó là một bí mật đối với chúng ta. “Cất quyền kinh đô khỏi…” có nghĩa là giữ quyền kiểm soát và bắt phục nó.


Phương đông: dân Mô-áp (IISa 8:2) từng làm bạn với Đa-vít vì tưởng Đa-vít là kẻ thù của Sau-lơ (ISa 14:47), và Đa-vít có liên hệ với dân Mô-áp vì Ru-tơ, bà cố của Đa-vít, là người Mô-áp (ISa 22:3-4). Dân Mô-áp chắc chắn có liên hệ với dân Do-thái vì Lót, cháu Áp-ra-ham là tổ phụ của dân Mô-áp (Sa 19:30-38). Vì dân Mô-áp đã mướn tiên tri Ba-la-am rủa sả dân Y-sơ-ra-ên và sau đó con gái Mô-áp đã quyến rũ trai tráng trong Y-sơ-ra-ên (Dân 22:1-25:18), Đức Giê-hô-va tuyên chiến với dân Mô-áp, và Đa-vít chỉ tiếp bước chiến dịch đó. Hầu hết những người đi chinh phục thường tàn sát tất cả quân thù, nhưng Đa-vít chừa lại một phần ba quân lính và bắt họ phải đóng thuế cho dân Y-sơ-ra-ên.


Phương bắc: dân A-ram và Sy-ri (IISa 8:3-13). Xô-ba nằm ở phía bắc Đa-mách và trong một số truyền thuyết nó là một phần trong một khối liên minh cách nước được gọi là “Sy-ri”, nhưng chính xác hơn họ là người “A-ram”. Tuy nhiên, láng giềng của họ, là người Sy-ri, cố gắng đến giải cứu họ và cũng bị bại trận, nên toàn bộ phía bắc đến Ơ-phơ-rát đều thuộc dưới quyền kiểm soát của Đa-vít. Điều nầy cho Y-sơ-ra-ên cơ hội bố trí nhiều hệ thống quân sự quan trọng và kiểm soát được các lộ trình mua bán đi qua lãnh thổ đó. Y-sơ-ra-ên có thể thu thuế khi các thương buôn đi qua và vì vậy tăng cao thu nhập cho quốc khố. Khi đánh bại được dân A-ram và Sy-ri, Đa-vít cũng có mối quan hệ tốt với các kẻ thù của họ và nhận được nhiều triều cống từ họ.


Phương nam: dân Ê-đôm (IISa 8:12-14). ISu 18:12-13 biết Ê-đôm là một kẻ thù (ISu 11:14b-18), nhưng có thể trong thời gian nầy dân Sy-ri và A-ram đang kiểm soát Ê-đôm và cũng có liên quan trong trận chiến ấy. Có lẽ trong lúc Y-sơ-ra-ên tấn công Sy-ri và A-ram ở phương bắc, dân Mô-áp đã tấn công họ từ phương nam, hưng Đức Giê-hô-va ban cho Y-sơ-ra-ên một chiến thắng lớn. Dù Đa-vít và Giô-áp là những lãnh đạo trong cuộc chinh phục nầy, nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng nhận được sự vinh hiển khi Đa-vít tưởng nhớ đến thắng lợi lớn nầy trong Thi-thiên 60.

“Ta xáng dép ta trên Ê-đôm” (Thi 60:8) là lối diễn tả ẩn dụ, nó có hai nghĩa: (1) Đức Chúa Trời xác nhận Ê-đôm là lãnh thổ của Ngài, và (2) Đức Chúa Trời đối đãi với Ê-đôm như một nô-lệ, là kẻ lau giầy cho chủ mình. Nó mô tả sự sỉ nhục mà Đức Chúa Trời gây cho những người Ê-đôm kiêu hãnh, nay đã bị Đa-vít chiếm lấy.


Đa-vít cũng đánh bại dân A-ma-léc (c.12), một bổn phận mà người tiền nhiệm ông, là Sau-lơ, đã không thực hiện được (ISa 15:1-35). Từ thời Môi-se, Đức Giê-hô-va đã tuyên chiến cùng dân A-ma-léc (Xu 17:8-12 Dân 14:45; Phuc 25:27-19), và Đa-vít chỉ là người tiếp tục chiến dịch đó. Như Đức Giê-hô-va đã hứa (IISa 7:9), a-vít đã thắng các kẻ thù mình. Đa-vít ngày càng nổi danh vì những chiến thắng nầy (c.13), và Đa-vít cẩn thận dâng sự vinh quang ấy cho Đức Chúa Trời (IISa 8:11-12).


Sự điều hành tại Giê-ru-sa-lem (IISa 8:15-18).

Thắng trận là một chuyện và quản lý điều hành mọi việc để xây dựng đất nước là một chuyện khác, à ở đây Đa-vít chứng minh được khả năng của chính mình. Ông lấy sự công bình và ngay thẳng mà cai trị và phục vụ tất cả dân sự (c.15).

Đa-vít mô tả người lãnh đạo như vậy trong IISa 23:1-7 ông so sánh mình với ánh bình minh và tia nắng mặt trời sau cơn mưa. Chắc chắn Đa-vít đã đem đến cho Y-sơ-ra-ên tia sáng đầu tiên của một ngày mới sau thời kỳ tăm tối trong thời Sau-lơ, và Đức Chúa Trời dùng Đa-vít để đem đến sự bình yên sau cơn dông bão.

Đức Chúa Trời yêu sự công bình và ngay thẳng (Thi 33:5) Ngài phát lộ hai đức tính đó khi cai trị vũ trụ (Thi 36:6; Thi 99:4; Es 5:16; Gie 9:24; Am 5:24). Đa-vít thật sự là người làm Đức Chúa Trời đẹp lòng.


Một người lãnh đạo tốt phải biết chọn lựa cho mình người cấp dưới khôn ngoan, tài giỏi, và Đa-vít là người như vậy. Giô-áp, cháu Đa-vít, đã giết Áp-ne (IISa 3:27-39), nhưng Đa-vít chọn ông làm quan tổng binh trong đội quân của mình. Chúng ta biết rất ít về Giô-sa-phát hay địa vị của ông trong chính phủ của Đa-vít. “Ký lục” (“thơ ký”) có thể là một quan chức có nhiệm vụ lưu giữ văn thư và cố vấn cho vua như một ngoại trưởng. Ông ta có thể là một chủ tọa trong hội đồng của vua. Chuỗi sự kiện trong Es 36:1-22 cho thấy rằng thầy ký lục / thơ ký là người có địa vị cao (c.3,22).


Xa-đốc và A-hi-mê-léc đều đảm nhiệm chức vụ tế lễ, vì hòm giao ước ở tại Giê-ru-sa-lem và lều tạm thì ở Ga-ba-ôn (ISu 16:39). Thầy tế lễ A-hi-mê-léc bị Đô-e giết chết theo lệnh Sau-lơ (ISa 22:6) và con trai người là A-bia-tha còn sống sót sau cuộc tàn sát các thầy tế lễ ở Nóp và đã gia nhập vào đoàn quân của Đa-vít tại Kê-li-át (ISa 22:20; ISa 23:6).

Ông sát cánh bên Đa-vít trong suốt những năm tha hương và có một con trai được đặt tên là A-hi-mê-léc, theo tên của ông nội. Khi trưởng thành, đứa con trai đó đã hầu việc cùng với cha mình và Xa-đốc. Chúng ta thấy Xa-đốc và A-bia-tha cùng bên nhau khi hòm giao ước được dời về Giê-ru-sa-lem (IISa 15:24,35) và khi Áp-sa-lôm phản loạn nghịch cùng Đa-vít (IISa 17:15; IISa 19:11-12).


Thơ ký Sê-ra-gia cũng được biết là Sê-gia (IISa 20:25), Sa-vê-sa (ISu 18:16) và Si-sa (IVua 4:3). Những đề cập trong hai sách Các-vua cho chúng ta biết hai trong số các con trai của ông đã thừa kế địa vị nầy của ông. Sự bổ nhiệm đáng chú ý nhất là chức vụ của Bê-na-gia, làm đầu trưởng các vệ sĩ binh lính của Đa-vít (IISa 23:20-23), người nầy là một thầy tế lễ (ISu 27:5).

Trong Cựu-ước, việc một thầy tế lễ trở thành một tiên tri cũng thường thấy (Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên), nhưng một thầy tế lễ trở thành một quan chức trong quân đội là chuyện bất thường. Người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít là những lính đánh thuê đến từ các nước khác, họ là những vệ sĩ riêng của Đa-vít. Bê-na-gia là người hầu cận thân tín của Sa-lô-môn (IVua 1:38-44).


Trong khi không phải tất cả các con trai của Đa-vít đều là những người đáng tin cậy, nhưng ông cho chúng những chức quan trong chính phủ của mình. Điều nầy không tốt cho chúng, nhưng đó là một cách để ông biết tin tức có liên quan đến những việc đang xảy ra trong đất nước mình. Tước hiệu “tể tướng” được dịch từ chữ Hy-bá-lai có nghĩa là “thầy tế lễ”. Vì Đa-vít xuất thân từ chi phái Giu-đa, cả ông và các con trai ông đều không được vào nơi Thánh của đền tạm và đảm nhận chức vụ thầy tế lễ, nên có lẽ từ nầy có nghĩa là “người cố vấn được tin cẩn”. Đây là những người được tiếp kiến vua và giúp vua coi sóc việc nước.


3. Thừa hưởng lòng nhân từ của Đức Chúa Trời (IISa 9:1-13)

“Ơn của Đức Chúa Trời” là một trong hai chủ đề chính của đoạn nầy (c.1,3,7), nó có nghĩa là lòng nhân từ thương xót và ân huệ của Đức Chúa Trời dành cho một dân tộc không đáng được hưởng. Phao-lô nhận thấy lòng nhân từ của Đức Chúa Trời qua việc Chúa Cứu Thế Giê-xu đến thế gian và chịu chết trên thập tự giá (Tit 3:1-7; Eph 2:1-7), và chúng ta thấy qua việc làm của Đa-vít đối cùng Mê-phi-bô-sết một hình ảnh về lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đối với tội nhân hư mất. Đa-vít đã hứa với cả Sau-lơ và Giô-na-than rằng ông sẽ không tận diệt con cháu họ khi ông lên làm vua (ISa 20:12-17,42; ISa 24:21), và trong trường hợp của Mê-phi-bô-sết, con trai của Giô-na-than, Đa-vít không chỉ giữ lời hứa mình mà còn làm hơn những gì được gọi là bổn phận.


Chủ đề chính thứ hai là chức vị vua của Đa-vít.

Tên “Đa-vít” được sử dụng 6 lần trong đoạn nầy: 6 lần ông được gọi là “vua” và một lần hai từ được dùng chung “Vua Đa-vít” (c.5). Không ai trong Y-sơ-ra-ên phản đối việc Đa-vít đối đãi nhân từ với Mê-phi-bô-sết vì Đa-vít là vua. Ông có thể thừa hưởng tất cả những gì thuộc về Sau-lơ, người tiền nhiệm của mình (IISa 12:8) và có thể quyết định theo ý ông cho là hợp lý. Chắc chắn ở đây chúng ta có được hình ảnh của Con Cháu Đa-vít, Chúa Cứu Thế Giê-xu, à qua sự chết, sự sống lại và sự thăng thiên của Ngài, Ngài được tôn vinh trên ngôi của Thiên Đàng và bấy giờ có thể ban phát sự giàu có thuộc linh của Ngài cho những tội nhân đang khao khát. Tên “Đa-vít” có nghĩa là “được yêu thương”, là Chúa Giê-xu là Con yêu dấu của Đức Chúa Trời (Mat 3:17; Mat 17:5) được sai xuống thế gian để cứu rỗi những tội nhân hư mất.


Tìm Mê-phi-bô-sết (IISa 9:1-4).

Cần lưu ý rằng động cơ để Đa-vít tìm Mê-phi-bô-sết không phải vì hoàn cảnh khó khăn của một người khuyết tật nhưng Đa-vít muốn tỏ lòng kính trọng Giô-na-than, cha người. Ông đã làm việc ấy ví cớ Giô-na-than (ISa 20:11-17). Mê-phi-bô-sết chỉ được 5 tuổi khi cha mình tử trận (IISa 4:4), nên lúc nầy ông khoảng 21 tuổi và có một con trai (c.12).

Đa-vít không thể bày tỏ tình thương và lòng nhân từ mình đối với Giô-na-than, ên ông tìm kiếm những người bà con của Giô-na-than để ông có thể bày tỏ tình cảm của mình. Với con cái của Đức Chúa Trời cũng như vậy, họ được kêu gọi và được cứu chuộc, không bởi vì họ xứng đáng gì trước mặt Đức Chúa Trời, nhưng vì chính Con Đức Chúa Trời, Chúa Cứu Thế Giê-xu (Eph 1:6; Eph 4:32). Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta không đáng được hưởng, và trong lòng nhân từ Ngài không ban cho chúng ta điều chúng ta đáng phải nhận lãnh.


Đa-vít đã tìm được nơi Mê-phi-bô-sết sinh sống qua Xíp-ba, người coi sóc ruộng đất của Sau-lơ. Xíp-ba trả lời các câu hỏi của Đa-vít về Mê-phi-bô-sết, nhưng ông ta trở nên dối trá với vua khi Đa-vít lẫn trốn Áp-sa-lôm (IISa 16:1-4) và khi Đa-vít trở về Giê-ru-sa-lem (IISa 19:17,24-30). Tính hấp tấp của Đa-vít và sự lừa dối của Xíp-ba làm Mê-phi-bô-sết mất một nửa tài sản.


Gọi Mê-phi-bô-sết về (IISa 9:5-8).

Vị hoàng tử khuyết tật nầy có suy nghĩ gì khi được lệnh ra mắt vua? Nếu anh ta tin những gì ông nội mình nói về Đa-vít, chắc anh ta sẽ lo sợ cho mạng sống mình; nhưng nếu anh ta nghe những gì cha mình nói về Đa-vít, chắc anh ta sẽ vui mừng lắm. Có người đã giúp đem Mê-phi-bô-sết đến cung vua và quỳ ra mắt Đa-vít một việc rất khó đối với người bị tật cả hai chân và nhận biết sự không xứng đáng của chính mình. Vua gọi tên và trấn an anh ta.

Sau đó Đa-vít ban lại cho Mê-phi-bô-sết tất cả những đất mà Giô-na-than, cha anh ta được hưởng từ Sau-lơ, mời anh ta ở lại cung và ăn chung bàn với mình. Đa-vít đã ăn tại bàn Sau-lơ và điều đó làm ông gần mất mạng, nhưng Mê-phi-bô-sết sẽ ăn tại bàn Đa-vít và mạng sống anh ta được gìn giữ.


Việc Đa-vít tìm kiếm Mê-phi-bô-sết nhắc chúng ta nhớ rằng chính Đức Chúa Trời đã đến với chúng ta trước không phải chúng ta là người tìm kiếm Ngài. Chúng ta bị xa cách Đức Chúa Trời và trở nên kẻ thù của Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương chúng ta và sai Con Ngài đến thế gian chết thay cho chúng ta.

“Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Ro 5:8).

Đa-vít đã cứu giúp và phục hồi cho Mê-phi-bô-sết, việc làm đó chỉ lấy mất của ông phần đất của Sau-lơ, thứ mà ông không phải trả một giá nào để có; nhưng đối với Đức Chúa Trời, để phục hồi và đem chúng ta vào nhà của Ngài, Chúa Giê-xu đã phải hy sinh mạng sống Ngài. Cơ nghiệp chúng ta lớn hơn miếng đất mà Mê-phi-bô-sết được hưởng rất nhiếu: đó là quê hương đời đời ở trên trời!


Làm cho Mê-phi-bô-sết được giàu có (IISa 9:9-13).

Đa-vít đã đem anh ta vào nhà mình, chu cấp, bảo vệ và cho anh ta ăn chung bàn với mình. Thật không dễ chăm sóc một người lớn bị tật cả hai chân, nhưng Đa-vít hứa làm được việc đó.

Trước đây Mê-phi-bô-sết có Xíp-ba và 20 người hầu (c.10), bây giờ tất cả tài nguyên và quyền lực của vị vua Y-sơ-ra-ên đều dành cho anh ta tùy ý sử dụng. Xíp-ba và các con trai ông sẽ vẫn ở nơi phần đất dành cho Mê-phi-bô-sết và làm lợi ra cho anh ta, nhưng những lợi nhuận ấy đáng gì so với của cải của Đa-vít.

Câu: “Sẽ ăn chung bàn ta” được lập lại 4 lần trong phân đoạn nầy (c.7,10,11,13) và cho thấy rằng con trai của Giô-na-than sẽ được đối xử như con trai của Đa-vít.


Mê-phi-bô-sết xem mình thấp hèn như “con chó chết” (c.8), và chúng ta đều “chết” trong những vi phạm và tội lỗi của mình khi Chúa Giê-xu kêu gọi chúng ta và ban cho chúng ta một đời sống mới (Eph 2:1-6). Chúng ta có địa vị cao hơn địa vị mà Đa-vít ban cho Mê-phi-bô-sết, vì chúng ta được ngồi trên ngôi với Chúa Cứu Thế Giê-xu và nhờ Ngài mà cai trị sự sống (Ro 5:17). Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lòng nhân từ và ân điển dư dật của Ngài (Eph 2:4-7) và “sự giàu có không dò được” của Chúa Cứu Thế (Eph 3:8).

Đức Chúa Trời chu cấp mọi sự cần dùng của chúng ta, không phải bằng của cải của vua thế gian, nhưng theo “sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển” (Phi 4:19).

Mê-phi-bô-sết đã sống cả cuộc đời còn lại của mình ở Giê-ru-sa-lem trên đất (c.13), hưng con cái của Đức Chúa Trời ngày nay đã là công dân của Giê-ru-sa-lem trên trời, nơi mà họ sẽ cư ngụ đời đời với Đức Chúa Trời (He 12:22-24).


Sự kiện cảm động nầy trong cuộc đời Đa-vít không chỉ là minh họa cho kinh nghiệm thuộc linh trong Chúa Cứu Thế của tín hữu, nhưng cũng cho chúng ta thấy rằng Đa-vít thật sự là người sống đẹp lòng Đức Chúa Trời (ISa 13:14; Cong 13:22). Ông là người chăn biết quan tâm đặc biệt đến con chiên khuyết tật trong bầy.


Sự kiện cuối cùng cần lưu ý: khi một số con cháu của Sau-lơ bị chọn ra để đem đi giết, Đa-vít đã bảo vệ mạng sống của Mê-phi-bô-sết (IISa 21:1-11, đặc biệt c.7). Trong đó có một người khác cũng có tên Mê-phi-bô-sết, nhưng Đa-vít phân biệt được hai người nầy! Bài học ứng dụng cho các tín hữu ngày nay rất rõ ràng: “Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Ro 8:1).

“Vì Đức Chúa Trời chẳng định sẵn cho chúng ta bị cơn thạnh nộ, nhưng cho được sự giải cứu bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (ITe 5:9).

“Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu; ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con một Đức Chúa Trời” (Gi 3:18).


Mê-phi-bô-sết là cái tên khó đọc, hó nhớ, nhưng ông nhắc chúng ta một lẽ thật tuyệt vời về “sự nhân từ của Đức Chúa Trời” được bày tỏ cho chúng ta qua Chúa Cứu Thế Giê-xu là Cứu Chúa của chúng ta.


4. Bảo vệ danh Đức Chúa Trời (IISa 10:1-9) (ISu 19:1-9)

Một lần nữa, Đa-vít muốn bày tỏ lòng nhân từ, nhưng lần nầy sự nổ lực của ông dẫn đến chiến tranh không phải hòa bình. Những lời đề nghị của Đa-vít với các nước láng giềng bị hiểu lầm, và Đa-vít phải bảo vệ danh dự của chính mình cũng như thanh danh của Đức Giê-hô-va và dân sự Ngài.


Sự xúc phạm công khai (IISa 10:1-5).

Chiến công đầu tiên của Sau-lơ là đánh thắng quân Na-hách và Am-môn khi họ tấn công Gia-be Ga-la-át (ISa 11:1-15). Giống dân Am-môn, dân Mô-áp cũng là con cháu của Lót (Sa 19:30) và như vậy là bà con của dân Do-thái. Làm thế nào Đa-vít trở thành bạn của dân Am-môn khi người tiền nhiệm ông đã tranh chiến với họ? Chuyện có thể đã xảy ra trong thời gian Đa-vít tha hương và dường như đang chuẩn bị tranh chiến với Sau-lơ. Trong suốt thời gian sống “ngoài vòng pháp luật” đó, Đa-vít cố gắng xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với các người lân bang, ông hy vọng điều đó sẽ giúp ích nhiều cho ông khi ông lên làm vua.

Cụm từ “làm ơn” có thể mang nghĩa “lập kết ước”, nên có thể Đa-vít không chỉ muốn yên ủi Ha-nun mà còn muốn lập một hiệp ước với ông ta.


Đa-vít sai đoàn sứ giả đến gặp Ha-nun, nhưng sự thiếu chín chắn và thiếu hiểu biết đã thắng hơn sự khôn ngoan và lương tri. Vị vua mới non trẻ ấy đã nghe theo lời của những người cố vấn đa nghi và đối xử với các sứ giả của Đa-vít như thể họ là những thám tử. (Nhiều năm sau, con trai của Sa-lô-môn, là Rê-bô-am, đã phạm sai lầm tương tự và nghe theo lời khuyên thiếu khôn ngoan, xem (IVua 12:1-33).

Dân Am-môn cạo nửa bên râu và cắt nửa quần áo cho đến hông của những sứ giả Do-thái. Người đàn ông Do-thái không cạo râu (Le 19:27; Le 21:5; Phuc 14:1-2), và đụng đến râu của họ là sự sỉ nhục nặng nề.Tất cả người Do-thái đều phải mặc đồ kín đáo, nên phơi trần thân thể còn đáng hổ thẹn hơn. Ha-nun đối đãi với các sứ giả Do-thái như những tù binh (Es 20:3-4), và đã cắt những dây tua trên áo của họ, dấu hiệu chứng minh họ là người Do-thái (Phuc 22:12; Dân 15:37-41).


Trận đánh thứ nhất (IISa 10:6-14).

Những sứ giả nầy có thể dễ dàng có được quần áo khác, nhưng phải cần có thời gian để râu họ mọc lại; nên họ ở lại thành Giê-ri-cô cho đến khi họ trông chỉnh tề hơn.Tuy nhiên, râu mới mọc không thể xóa đi những vết cắt cũ. Khi vua Ha-nun sai quan quân mình ngược đãi đoàn sứ giả, ông không chỉ xúc phạm đến cá nhân những người đó, ông còn xúc phạm đến vua Đa-vít, người đã sai họ đi và cả dân tộc mà họ đại diện. Tóm lại, hành động của Ha-nun như một lời tuyên chiến.


Nhưng vua Ha-nun không chuẩn bị gì cho chiến tranh, đặc biệt khi đối đầu với một quan tổng binh như Giô-áp và một vua nổi tiếng như Đa-vít; nên ông đã phải bỏ ra một ngàn ta-lâng bạc (ISu 19:6)để thuê lính từ phương bắc, bao gồm quân Sy-ri và A-ram, các dân mà cuối cùng Đa-vít đã đánh bại (IISa 8:12).

33.000 lính hợp cùng quân Am-môn tấn công quân Do Thái. Chắn chắn Giô-áp phải đối đầu với hai đội quân, họ đang dùng thế gọng kìm để đánh Y-sơ-ra-ên, với quân Sy-ri, A-ram từ phía bắc và Am-môn từ phía nam.

Giô-áp khôn ngoan chia lực lượng mình làm hai và để A-bi-sai, em trai mình, ãnh đạo mặt trận phía nam, với sự giúp sức của Đức Chúa Trời Giô-áp đã đánh bại quân ở phía bắc, chiến thắng nầy làm quân thù ở phía nam khiếp sợ và bỏ chạy đến Ráp-ba, một kinh đô kiên cố của Am-môn.


Trận đánh thứ hai (IISa 10:15-19).

Chính Đa-vít đã dẫn đắt Y-sơ-ra-ên đánh quân Sy-ri, ông và quân Y-sơ-ra-ên đã đánh bại họ, dân Sy-ri trở thành những bang chư hầu của vương quốc ngày càng lớn mạnh của Đa-vít. Giô-áp khôn ngoan đợi thời cơ bao vây kinh đô Ráp-ba của Am-môn trong thời đó, ên ông đã chờ qua năm mới để tiếp tục tấn công (IISa 11:1). Ông đã chiếm được thành, a-vít đến khép vòng vây và xưng danh mình (IISa 12:26-31). Trong khi Giô-áp và quân lính bao vây Ráp-ba, Đa-vít ở Giê-ru-sa-lem và phạm tội tà dâm với Bát-sê-ba.


Đa-vít thật là người của chiến trận và đã đánh trận cho Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va đã ở cùng ông để ban chiến thắng cho ông. Ông mở mang biên giới Y-sơ-ra-ên đến sông Ê-díp-tô ở phía nam, đến sông Ơ-phơ-rát ớ phía bắc; ở phía đông ông chiếm được Ê-đôm, Mô-áp, và Am-môn, ở phía bắc ông chiếm được A-ram và Sy-ri, trong đó có Ha-mát. Nhờ ân tứ và sự trợ giúp của Đức Chúa Trời, Đa-vít trở thành vua vĩ đại nhất và bậc kỳ tài nhất về quân sự của Y-sơ-ra-ên. Ông có được lòng trung thành của những người gan dạ như Giô-áp và A-bi-sai, cùng với “các lính mạnh dạn” của mình (IISa 23:1-39; ISu 11:10-47).



 


5. SỰ KHÔNG VÂNG LỜI, SỰ LỪA DỐI VÀ SỰ TRỪNG PHẠT (IISa 11:1-12:31)


Không giống những sách sử ký bình thường hay thông cáo báo chí, Kinh Thánh luôn nói ra sự thật về con người. Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng ngay cả những người tốt nhất trong các câu chuyện Kinh Thánh cũng đã phạm lỗi và thất bại như chúng ta, dù vậy trong ân điển cao cả của Ngài, Đức Giê-hô-va có thể sử dụng họ làm thành những mục đích của Ngài. Nô-ê là người có đức tin và biết vâng lời, nhưng có lần ông đã để mình say rượu, hai lần Áp-ra-ham đã nói dối về vợ mình, Gia-cốp đã lừa cả Y-sác và Ê-sau, cha và anh trai mình, Môi-se đã nổi giận khi ông đập vào hòn đá và Phi-e-rơ đã không can đảm nên chối Chúa ba lần.


Ở đây chúng ta thấy Đa-vít, người làm vừa lòng Đức Chúa Trời, đã phạm tội tà dâm và sau đó giết người để che đậy tội lỗi mình. Ít nhất trong 9 tháng, Đa-vít đã không xưng nhận tội lỗi mình, nhưng khi Đức Chúa Trời phán với ông và khi ông tìm kiếm mặt Ngài ông đã có một bắt đầu mới. Nhưng ông đã phải trả giá rất đắt cho tội lỗi mình, hư Charles Spurgeon có nói, “Đức Chúa Trời không để con cái Ngài phạm tội cách dễ dàng”.

Đáng tiếc, Đa-vít phải gánh chịu hậu quả vì tội lỗi mình cho đến cuối đời, và chúng ta cũng vậy nếu chúng ta chống nghịch Ngài. Vì Đức Giê-hô-va sửa phạt những người Ngài yêu và tìm cách khiến họ vâng lời Ngài. Những điều tốt đẹp mà chúng ta nhận được trong cuộc đời, chúng ta đã trả cho nó trước rồi, vì Đức Chúa Trời sửa soạn chúng ta cho những gì Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta.

Nhưng với những điều xấu xa mà chúng ta làm, chúng ta phải trả giá từ từ. Sự sự cay đắng, buồn rầu của chúng ta là hậu quả của những tội đã được tha thứ.


Hai đoạn Kinh Thánh nầy mô tả 7 giai đoạn trong kinh nghiệm của Đa-vít. Khi học Kinh Thánh, chúng ta nên nhớ lời nhắc nhở của Phao-lô, “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo 10:12).


1. Sự thai nghén tội lỗi (IISa 11:1-3)

Sự bị cám dỗ và tội lỗi của Đa-vít minh họa cho lẽ thật trong Gia 1:14-15 “Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết”. Thật không khó để nhận ra nó phát triển như thế nào.


Sự biếng nhác (IISa 11:1-2a).

Phân đoạn Kinh Thánh thuật về tội lỗi của Đa-vít nằm trong bối cảnh Giô-áp bao vây thành Ráp-ba, kinh đô của người Am-môn (IISa 11:1,16-17; ISu 20:1-3). Quân Am-môn chạy trốn đến thành Ráp-ba có tường rào bao quanh (ISu 10:14), Giô-áp và lực lượng Y-sơ-ra-ên chờ đến lúc dân chúng ra ngoài thành lấy nước và đồ ăn, thì họ sẽ tấn công. Đa-vít sai Giô-áp và quân lính bao vây thành Ráp-ba, còn chính ông ở lại thành Giê-ru-sa-lem.

Có thể lúc đó vào tháng tư hoặc tháng năm, và những cơn mưa đã dứt và thời tiết ấm áp hơn.Các nhà sử học cho rằng trong thời gian nầy Đa-vít khoảng 50 tuổi. Thật ra những lãnh đạo trong nước có khuyên Đa-vít không nên tham gia vào cuộc chiến (IISa 21:15-17), nhưng ông có thể ở cùng đội quân mình để giúp họ triển khai thế trận và cho họ thấy tinh thần lãnh đạo của ông.


Dù nguyên nhân, hoặc tốt hoặc xấu, khiến Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem là gì đi nữa, thì có một sự thật là: “Sa-tan tìm cho người biếng nhác việc quái ác gì đó để họ làm”. Biếng nhác không chỉ có nghĩa là không hoạt động, vì tất cả chúng ta cần phải có thời gian nghỉ ngơi; biếng nhác còn là hoạt động mà không có mục đích. Khi Đa-vít thức dậy sau giấc ngủ trưa, ông ta nên quay lại ngay với công việc triều chính, là những việc chiếm hết tâm hồn và thể xác ông, hoặc nếu ông muốn đi dạo, thì ông nên rủ ai đó đi chung với ông. Samuel Johnson có viết “Nếu bạn biếng nhác, bạn không có tính đoàn kết, nếu bạn có tính đoàn kết, bạn sẽ không biếng nhác.” 

Nếu Đa-vít nghe theo lời khuyên đó, ông ta đã cứu được chính mình và gia đình mình khỏi tình trạnh đau lòng.


Khi Đa-vít bỏ áo giáp qua một bên, ông đã bước một bước đầu tiên vào chỗ thất bại về mặt đạo đức, và chính nguyên tắc ấy cũng được áp dụng cho Cơ-đốc Nhân ngày nay (Eph 6:10-18). Nếu không có sự cứu rỗi làm mão trụ, chúng ta không suy nghĩ như những người được cứu; và nếu không có giáp bằng sự công bình, chúng ta không có gì bảo vệ được tấm lòng chúng ta. Thiếu lẽ thật làm dây nịt lưng, chúng ta dễ dàng tin vào những lời dối trá; và nếu không có Lời Đức Chúa Trời làm gươm và đức tin làm thuẫn, chúng ta sẽ trở nên vô dụng trước mặt kẻ thù. Nếu không cầu nguyện, húng ta sẽ không có sức mạnh. Để bình an, Đa-vít đã chiến đấu cho phần còn lại của cuộc đời mình. Ngoài chiến trường ông đã an toàn hơn tại nhà mình!


Sự tưởng tượng (IISa 11:2b).

Không thể trách được người đàn ông nhìn một phụ nữ đẹp đi qua tầm ngắm của anh ta, hưng nếu người đàn ông đó cố tình nấn ná một giây để nhìn cho thỏa dục vọng của mình, anh ta đang để mình gặp phiền toái. Chúa Giê-xu từng nói rằng: “Các ngươi có nghe lời phán rằng: Ngươi chớ phạm tội tà dâm. Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi” (Mat 5:27-28).

Khi Đa-vít dừng lại và nhìn lâu hơn, trí tưởng tượng của ông bắt đầu hoạt động và từ đó thai nghén tội lỗi. Trong lúc đó, tốt nhất là ông nên quyết tâm quay đi và rời khỏi đó để tìm chỗ an toàn hơn. Khi Giô-sép đối diện với cám dỗ tương tự, ông đã bỏ chạy khỏi chỗ đó (Sa 39:11-13). “Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối”. (Mat 26:41).


“Xin chớ để chúng con bị cám dỗ” là lời cầu nguyện mà Đa-vít nên thốt ra lúc nầy. Vì nấn ná và nhìn, Đa-vít đã tự cám dỗ chính mình. Bởi việc sai sứ giả, ông đã cám dỗ Bát-sê-ba; và vì chịu thua xác thịt mình, Đa-vít đã thách thức Đức Chúa Trời.


Sự cung cấp thông tin (IISa 11:3).

Khi Đức Chúa Trời cấm điều gì và cho rằng đó là tội, thì chúng ta đừng nên cố tìm hiểu thêm về nó.

“Sự anh em vâng phục thì ai ai cũng biết rồi, vậy tôi vì anh em vui mừng, mong rằng anh em khôn ngoan về điều lành, và thanh sạch đối với điều dữ” (Ro 16:19).

Đa-vít biết luật pháp nói gì về tội tà dâm, vậy tại sao ông còn sai người đem người phụ nữ ấy đến? Vì trong lòng ông, ông đã bị nàng ám ảnh rồi, và bây giờ ông chỉ lo chuyện gặp được nàng. Đa-vít biết Bát-sê-ba là người đã có chồng, và chỉ một sự thật đó không ngăn được ông tiến hành kế hoạch xấu xa của mình. Khi ông biết nàng là vợ của một trong số những người lính can đảm của mình, là người đang ở ngoài chiến trường (IISa 23:9), lẽ ra ông nên chạy đi khỏi nóc đền vua, úp mặt xuống đất mà khóc xin Đức Chúa Trời thương xót. Qua thông tin ngắn được người ta cung cấp, Đa-vít chắc phải biết Bát-sê-ba là cháu của A-hi-tô-phe, người tham mưu mà ông yêu quí (IISa 23:34; IISa 16:23). Thật không ngạc nhiên khi A-hi-tô-phe ở về phía Áp-sa-lôm khi Áp-sa-lôm làm phản và chiếm ngai vàng của cha mình!


Đa-vít biết luật pháp và nên ghi nhớ nó trong lòng. “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận ngươi, cũng đừng tham vợ người” (Xu 20:17)

“Ngươi chớ phạm tội tà dâm” (Xu 20:14).

Đa-vít cũng biết rằng các đầy tớ trong cung thấy và nghe mọi chuyện đã xảy ra và thuật lại cho người khác, nên không có cơ hội giữ được bí mật về tội lỗi mình. Việc ông đã để mắt đến vợ người khác có lẽ khắp nơi đều biết. Nhưng ngay cả không có ai ngoài những người ông sai đi biết chuyện ấy, thì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã biết và không chấp nhận việc Đa-vít đã làm. Đức Chúa Trời cho Đa-vít thời gian nhìn lại mình và ăn năn, nhưng ông chỉ cứng lòng và tiếp tục làm như không có chuyện gì xảy ra.


2. Sự phạm tội (IISa 11:4)

Một trong những điều khó hiểu trong biến cố nầy là sự ưng thuận của Bát-sê-ba; nàng đã chịu đi theo những sứ giả và thuận theo ý muốn của Đa-vít. Từ Hy-bá-lai được dịch là “đem” có nghĩa đơn giản là “có được, nhận được, giành được” hoặc nó được dịch là “bắt lấy, chiếm hữu hoặc mang đi”. Tuy nhiên, dường như trong phân đoạn Kinh Thánh nầy không có bằng chứng nào cho thấy Đa-vít đã dùng sức mạnh hay bạo lực uy hiếp Bát-sê-ba và độc giả nhận thấy nàng đã hợp tác với các sứ giả. Nhưng tại sao như vậy?


Bát-sê-ba có biết tại sao Đa-vít muốn nàng đến không? Nếu biết, nàng có dừng lại để suy xét việc mà nàng đủ trưởng thành để nhận thức không? Có lẽ nàng muốn có con với vua! (IVua 1:1-53 cho biết Bát-sê-ba là một phụ nữ khôn ranh. “Một người vợ trẻ có gây nên tình trạng đó không?” Giáo sư E. M. Blaiklock hỏi. “Đáng nghi hơn là nàng đã giăng một cái bẩy và Đa-vít do sơ ý đã rơi vào”. Có lẽ nàng nghĩ Đa-vít có tin tức từ mặt trận về chồng nàng, nhưng vua không có nhiệm vụ thông báo về quân sự. Có phải nàng đã quên tình yêu của chồng và tắm nơi công khai như lời mời gọi bất kỳ người đàn ông nào đi ngang qua trông thấy? Nếu nàng từ chối yêu cầu của Đa-vít, ông ta sẽ phạt chồng nàng không? (Mọi chuyện đều có thể xảy ra!).


Không người Do-thái nào phải tuân lệnh vua khi vua ấy không vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời, vì vua đã kết ước với Đức Chúa Trời và dân sự là phải tuân thủ luật pháp của Đức Chúa Trời. Có phải nàng nghĩ rằng phục tùng Đa-vít, nàng sẽ có được vũ khí tự vệ, đặc biệt nếu chồng nàng tử trận? Còn rất nhiều câu hỏi chúng ta có thể đặt ra, hưng chúng ta không thể dễ dàng trả lời chúng. Kinh Thánh không cho chúng ta biết và phỏng đoán thì không giúp ích gì nhiều.


Tội lỗi mà sự tham dục của Đa-vít thai nghén nay sắp được sinh ra, tội lỗi nầy sẽ mang theo nó sự buồn rầu và sự chết. Theo Châm-ngôn 6, Đa-vít sẽ bị cướp (c.26), bị thiêu đốt (c.27-28), bị sỉ nhục và tiêu diệt (c.30-33), chỉ vì một vài phút làm trái luật pháp Đức Chúa Trời và chịu thua tư dục mình. Điện ảnh, truyền hình Hollywood và tiểu thuyết hiện đại thường dùng những câu chuyện ngoại tình với mục đích giải trí, điều đó chỉ cho thấy tình hình đã trở nên tồi tệ như thế nào. Những người nổi tiếng thừa nhận rằng họ từng không chung thủy với người bạn đời của mình, hưng dường như điều đó không làm mất danh tiếng hay thu nhập của họ.

“Những cuộc ly hôn” ngày càng được đơn giản hóa thủ tục, nhưng chúng không ngăn được hậu quả đau lòng về tình cảm đối với lòng chung thủy. Những mục sư và các nhà tư vấn biết rằng thật không dễ để nạn nhân được chữa lành và xây dựng lại cuộc sống và gia đình mình, nhưng phương tiện truyền thông đại chúng tiếp tục dạy người ta làm thế nào để vi phạm và thoát khỏi lời thề trong ngày cưới của mình.


Đa-vít và Bát-sê-ba đã phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời, vì chính Ngài đã thiết lập hôn nhân và ban ra luật lệ cho nó. Tội tà dâm là một trọng tội trong Y-sơ-ra-ên, kẻ phạm tội nầy, dù là nam hay nữ, phải bị ném đá cho đến chết (Le 20:10; Phuc 22:22-24; Gi 8:16). Đức Chúa Trời xem trọng những lời thề trong ngày cưới của cô dâu và chú rễ, dù họ có xem trọng chúng hay không (Ma 2:14 He 13:4).


3. Sự che dậy tội lỗi (IISa 11:5-27)

“Người nữ nầy thọ thai, ai người tâu cùng Đa-vít rằng: Tôi có thai” (c.5). Đây là những lời nói duy nhất của Bát-sê-ba được ghi lại trong tình tiết nầy, nhưng đó là những lời Đa-vít không muốn nghe. Chúng ta có thể diễn giải ngắn gọn lời đó như sau, Tiếp theo là việc của vua”. Là một nhà mưu lược, Đa-vít liền lên kế hoạch che đậy tội lỗi mình. Đa-vít gọi U-ri từ chiến trường trở về với hy vọng người lính ấy sẽ về nhà và dành thời gian cho vợ. Thật ra, Đa-vít ra lệnh cho ông ta trở về nhà (c.8), nhưng người lính ấy không tuân theo và ở lại với các đầy tớ của vua suốt đêm đó. Đa-vít ban cho ông ta đồ ăn từ bàn mình để vợ chồng ông ta có thể mở tiệc, nhưng U-ri không đem chúng về nhà. Chúng ta không biết U-ri có nghe được tin gì làm ông nghi ngờ hay không? Đầy tớ trong cung có tiếng là nhiều chuyện.


Đa-vít phải nghĩ ra một kế hoạch khác, và cách tiếp theo là phải hỏi chuyện U-ri vào ngày hôm sau, trong cuộc trò chuyện đó vua mổ xẻ chuyện ông ta không trở về nhà. Là một người lính chân chính, U-ri nhẹ nhàng trách vua với lời lẽ ám chỉ rằng làm sao một người lính có thể nghĩ đến niềm vui riêng của mình trước trong khi anh em binh lính vẫn còn ở ngoài chiến trường.

Thậm chí hòm giao-ước của Đức Chúa Trời vẫn còn ở trong trại, thế thì làm sao U-ri có thể ở nhà vui vẻ với vợ mình? ISa 21:5 gợi ý rằng binh lính của Đa-vít kiêng chung đụng với đàn bà trong thời gian thi hành nhiệm vụ (luật lệ này căn cứ vào Le 15:16-18) nên U-ri lấy làm lạ khi nghe vua đề nghị những điều như vậy.


Kế hoạch thứ ba của Đa-vít là mời cơm U-ri trước khi ông ta trở ra chiến trường. Trong bửa cơm ấy, Đa-vít liên tục chuốc rượu cho U-ri say. Nhưng U-ri đang say vẫn còn là người tốt hơn là Đa-vít đang tỉnh táo, vì một lần nữa ông ta lại không chịu về nhà. U-ri là một người lính hết lòng, và dù rượu làm ông mất cảnh giác, ng vẫn trung thành với sự kêu gọi của mình. Nhưng vẫn còn một kế hoạch khác: U-ri phải chết.

Nếu Đa-vít không thể khiến U-ri về nhà, Đa-vít sẽ đưa ông ta vào chỗ chết để có thể cưới người quả phụ của ông ta, và Đa-vít cưới được nàng ta càng sớm, thì kế hoạch càng diễn tiến tốt hơn. Đa-vít đã từng bước một vi phạm 10 điều răn. Ông tham vợ người lân cận mình, phạm tội tà dâm với nàng, và giờ đây làm chứng dối đối với người lân cận mình, đưa ông ấy và chỗ chết.Đa-vít nghĩ ông đang lừa dối mọi người, nhưng ông chỉ đang lừa dối chính mình.Ông nghĩ mình có thể thoát tội và có thể thoát được sự trừng phạt của Đức Chúa Trời. “Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn” (Ch 28:13).


Giô-áp cho bao vây Ráp-ba và ra lệnh cho quân lính mình không đi đến quá gần tường thành nếu không họ sẽ bị giết chết. Thỉnh thoảng có một vài người lính Am-môn ra khỏi cổng thành để nhử lính Do-thái đến gần và tấn công họ, nhưng những lệnh Giô-áp ban ra phải được chấp hành. Giô-áp rất thông mình, nên sau khi đọc những dòng thư của Đa-vít đã luận ra rằng điều duy nhất U-ri có mà Đa-vít muốn chiếm lấy là người vợ xinh đẹp của ông ta, nên Giô-áp đã hợp tác với kế hoạch đó. Tóm lại, biết được âm mưu của Đa-vít sẽ là một vũ khí mà Giô-áp có thể sử dụng để bảo vệ mình một ngày nào đó. Bên cạnh đó, Giô-áp giết A-sa-ên, Áp-ne (IISa 2:17-24; IISa 3:27), và có một ngày sẽ giết A-ma-sa (IISa 20:6-10), nên ông ta hiểu những việc nầy. Giô-áp biết ông không thể sai một mình U-ri đến gần tường thành vì như vậy sẽ làm quân lính nghi ngờ, nên vài “tôi tớ vua” (c.24) đã chết chung với U-ri chỉ để Đa-vít che dậy những tội lỗi của mình. “Tôi tớ vua” có thể là những vệ sĩ của Đa-vít, những người giỏi nhất trong đội quân Y-sơ-ra-ên (IISa 8:18).


Sự đau buồn của Bát-sê-ba vì cái chết của chồng chắc chắc là thật lòng, nhưng nổi buồn ấy dịu bớt vì biết rằng mình sẽ sớm được đưa vào cung. Người ta có thể ngạc nhiên vì nàng vội kết hôn sau đám tang, và người nàng lấy lại là vua, nhưng 6 tháng sau khi nàng sinh một bé trai, thì mọi người đã vỡ lẽ. IISa 3:1-5 cho biết Bát-sê-ba là vợ thứ 7 của Đa-vít. Nhưng khi tính luôn Mi-canh, người vợ son sẻ, Bát-sê-ba đứng thứ 8. Trong Kinh Thánh số 8 thường là dấu hiệu của sự bắt đầu mới, và với sự ra đời của Sa-lô-môn, con của Đa-vít với Bát-sê-ba, hy vọng nầy đã được ứng nghiệm.


Tuy nhiên, Đa-vít đã có một việc chưa làm trọn để ông phải quan tâm vì Đức Giê-hô-va không hài lòng với tất cả những gì ông đã làm.


4. Sự xưng tội (IISa 12:1-14)

Na-than có đặc ân truyền sứ điệp về giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít và con cháu ông (IISa 7:1-29), nhưng lúc bấy giờ tiên tri nầy phải đảm nhiệm phần việc của một bác sĩ thuộc linh và đương đầu với vua vì tội lỗi của vua. Đa-vít đã che đậy tội lỗi mình ít nhất trong 6 tháng, và rồi con của Bát-sê-ba sắp ra đời. Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng đối với Na-than, nhưng rõ ràng ông đã chuẩn bị cẩn thận cho sự đối đầu với vị vua phạm tội nầy.


Sự xét xử (IISa 12:1-6).

Qua việc kể câu chuyện về tội ác của người khác, Na-than chuẩn bị cho Đa-vít để đối diện với tội lỗi của chính mình, và có thể Đa-vít nghĩ rằng Na-than đang đưa ông ra tòa với một vụ án thật sự. Na-than để Đa-vít mất cảnh giác hầu có thể tìm hiểu phản ứng của vua và biết nên làm gì tiếp theo. Vì Đa-vít từng là người chăn chiên, ông sẽ quan tâm đến câu chuyện về kẻ đã bắt trộm con chiên cái vô tội; và là một vị vua, ông phải nhìn nhận gia đình người nghèo cần được xử công bằng.


Đức Chúa Trời hướng dẫn Na-than cẩn thận lựa lời mình để chúng có thể nhắc Đa-vít nhớ những điều ông nói và làm. Tiên tri đã nói rằng con chiên cái “ăn đồ người ăn, uống đồ người uống, và ngủ trên lòng người” (c.3). Điều nầy nhắc Đa-vít nhớ đến câu nói của U-ri trong IISa 11:11: “Tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao?”.

Nhưng cho đến khi Na-than kể đến chỗ người giàu bắt và giết con chiên đó, Đa-vít mới có phản ứng, à như vậy Đa-vít đã tỏ ra giận dữ với tội lỗi của người khác! (ISa 25:13,22,32 để thấy những lần khác Đa-vít nổi giận). Đa-vít dường như không nhận ra chính mình là người giàu đó, U-ri là người nghèo, và Bát-sê-ba con chiên cái bị bắt đi. “Người khách” mà kẻ giàu đã tiếp đãi tượng trưng cho sự cám dỗ và dục vọng đã len vào trong lòng Đa-vít khi Đa-vít đi dạo trên nóc cung vua và bắt phục được ông. Nếu chúng ta mở cửa, tội lỗi sẽ bước vào như người khách và nó sớm trở nhành chủ của chúng ta (Sa 4:6-7)


Đa-vít xét đoán người giàu ấy mà không nhận ra mình đang tự xét đoán mình. Trong tất cả sự mù quáng, loại tồi tệ nhất là loại mù quáng về chính mình. “Nhiều người dường như hoàn toàn xa lạ với bản chất của chính mình” Joshep Butler đã nói, và Đa-vít là một trong số đó.

Thật dễ dàng lên án tội lỗi của người khác (Mat 7:1-3)! Ăn cắp và giết gia súc không phải là một vi phạm lớn ở Y-sơ-ra-ên, nhưng Đa-vít đã nổi giận quá mức như vậy. Cho đến lúc nầy, ông vẫn xem việc làm mình như không có gì, và như thể U-ri đáng phải chết. Cả Đa-vít và Bát-sê-ba lẽ ra phải bị ném đá đến chết (Le 20:10 Phuc 22:22-24; Gi 8:1-6). Biết luật pháp, Đa-vít biết rằng người chủ của con chiên cái phải được bồi thường với giá 4 con chiên (Xu 22:1).


Lời phán quyết (IISa 12:7-9).

Tiên tri nhận ra rằng dù Đa-vít nổi giận, nhưng ông cũng không cảnh giác và dễ dàng cho gươm Thánh Linh xuyên thấu tấm lòng mình (He 4:12; Eph 6:17). Với đòn tấn công ngay tức khắc, Na-than đã nói, “Vua là người đó!” (c.7) và tiếp tục cho vua thấy vua thật đã xấu xa như thế nào. Na-than giải thích cho Đa-vít lý do ông đã cướp con chiên cái của U-ri.

-Thứ nhất, vua không quên sự nhân từ của Chúa, là Đấng đã ban cho ông mọi thứ ông đã có và sẽ ban thêm cho ông nhiều hơn nữa (c.7-8).

-Thứ hai, Đa-vít đã xem thường điều răn của Đức Chúa Trời và hành động như thể ông được quyền phạm tội (c.9). Bởi tội tham vợ người, tà dâm, làm chứng dối và giết người, Đa-vít đã phạm 4 điều răn, và ông nghĩ ông có thể thoát khỏi tội đó! Sắp đặt cho U-ri đến chỗ chết đã quá tàn nhẫn, vậy mà Đa-vít còn dùng gươm của kẻ thù thực hiện điều đó!


Bản án (IISa 12:10-12).

Tội tà dâm của Đa-vít với Bát-sê-ba là tội do phút nông nổi không thể kiểm soát được tình cảm mình, nhưng tội giết U-ri là tội có trù tính, cố ý và đáng hổ thẹn. Đây có thể là lý do (IVua 15:5 nhấn mạnh “việc U-ri, người Hê-tít” và không nói gì về Bát-sê-ba. Nhưng Đức Giê-hô-va trừng phạt cả hai tội nầy và Đa-vít đã trả giá rất đắt cho dục vọng và mưu gian của mình. Đức Chúa Trời sửa phạt Đa-vít “đúng với những gì ông đã làm” (Phuc 19:21; Xu 21:23-25; Le 24:20), một nguyên tắc thuộc linh mà Đa-vít mô tả trong bài thi thiên mà ông viết sau khi Sau-lơ tử trận (Thi 18:25-27).


Gươm nầy không xa khỏi nhà của vua, và các bà vợ của vua đã bị bắt và bị xâm phạm như ông đã làm với Bát-sê-ba. Thật ra, Đa-vít phải trả giá gấp 4 lần, con của Bát-sê-ba chết, và các con trai của Đa-vít là Am-nôn, Áp-sa-lôm và A-đô-ni-gia bị giết chết (IISa 13:29; IISa 18:14-15; IVua 2:25).

Ta-ma, con gái xinh đẹp của Đa-vít bị anh cùng cha khác mẹ cưỡng hiếp (đoạn 13), các vợ lẻ của Đa-vít bị Áp-sa-lôn công khai sỉ nhục khi ông ta chiếm được vương quốc (IISa 16:22). Cho đến cuối đời, Đa-vít trải qua hết thảm kịch nầy đến thảm kịch khác, hoặc trong gia đình hoặc trong vương quốc. Giá mà Đa-vít phải trả cho phút nông nổi của mình thật đắt!


Những hình phạt của Đức Chúa Trời dành cho Đa-vít đã được nói trong giao ước Ngài lập với Y-sơ-ra-ên mà vua cần phải tuân giữ (Le 26:1-46; Phuc 27:30). Nếu dân sự chống nghịch Đức Chúa Trời, gài sẽ giết con cái họ trong chiến tranh (Le 26:17; Phuc 28:18), vợ của họ bị người khác bắt đi (Phuc 28:30), và dân sự phải bị lưu đày khỏi xứ mình (Phuc 28:63-68). Bởi sự phản loạn của Áp-sa-lôm, Đa-vít phải trốn khỏi Giê-ru-sa-lem và sống trong đồng vắng. Nhưng giao ước còn có phần nói về sự ăn năn và tha thứ.


Sự tha thứ (IISa 12:13-14).

Tù nhân bị kết án nầy biết rằng lời tuyên án đúng và bản án dành cho ông thật công bằng, nên không có lời tranh cãi nào, ông đã nhận: “Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va’ (c.13). Na-than cam đoan với Đa-vít rằng Đức Giê-hô-va đã tha thứ cho ông rồi. “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (IGi 1:9). “Hỡi Đức Giê-hô-va, nếu Ngài cố chấp sự gian ác, thì, Chúa ôi! Ai sẽ còn sống? Nhưng Chúa có lòng tha thứ cho, để người ta kính sợ Chúa” (Thi 130:3-4).


Chắc chắn sau đó Đa-vít đã viết rằng Đức Giê-hô-va “tha thứ các tội ác ngươi….Cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư nát… Phương đông xa cách phương tây bao nhiêu, thì Ngài đã đem sự vi pham chúng tôi khỏi xa chúng tôi bấy nhiêu” (Thi 103:3-4,12).


Có chữ “nhưng” trong lời đáp của Na-than, vì dù Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã tha thứ cho Đa-vít, nhưng Đức Chúa Trời trong quyền cai trị của Ngài phải để Đa-vít kinh nghiệm những hậu quả của những tội lỗi ông đã phạm, bắt đầu là cái chết của con Bát-sê-ba. Trong suốt những tháng Đa-vít im lặng, ông đã chịu rất nhiều đau khổ, bạn có thể nhận thấy điều đó khi đọc hai bài cầu nguyện ăn năn của ông (Thi 32:1-11; Thi 51:1-19).

Thi 32:1-11 cho ta thấy một người đàn ông già yếu thay vì một chiến binh anh dũng và Thi 51:1-19 mô tả một tín hữu gần như đã mất tất cả sự thánh khiết, vui mừng, khôn ngoan và bình an – một người đang lo sợ Đức Chúa Trời cất Thánh Linh Ngài ra khỏi mình như Ngài đã làm với Sau-lơ. Đa-vít kinh nghiệm nỗi đau về mặt tình cảm và thể xác, hưng ông đã để lại hai bài cầu nguyện quý báu nầy cho tất cả tín hữu đã từng phạm tội.


Bởi công việc đã trọn của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá, Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi những tội nhân hư mất và tha thứ những người không vâng lời Ngài, những tội nhân và các tín hữu không biết vâng lời càng sớm quay trở về ăn năn với Chúa, hì càng tốt hơn cho họ. Đa-vít đã viết, “Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi. Bởi cớ ấy phàm người nhân đức đều cầu nguyện cùng Chúa trong khi có thế gặp Ngài; Quả thật, trong lúc có nước lụt lan ra, thì sẽ chẳng lan đến người” (Thi 32:5-6).

“Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần!” (Es 55:6).


5. Sự sửa trị (IISa 12:15-23)

Sự sửa trị không phải là sự trừng trị mà chúng ta thường thấy trong các vụ xét xử của quan tòa bảo vệ luật pháp; nhưng đúng hơn là nỗi đau đớn chấp nhận bằng tình thương của người Cha mong muốn con cái Ngài phải phục tùng, và trở nên trung kiên với Ngài. Sự sửa trị biểu lộ tình thương của Chúa (Ch 3:11-12), và lời nhận xét của người Hy-lạp trong He 12:5-13 có ý nghĩa “dạy bảo, chỉ dẫn, sửa phạt”.

Một chàng trai Hy-lạp tập luyện thể hình từ khi anh ta còn bé và đi theo các môn đấu vật, quyền anh, bơi lội, và ném xa, việc chơi thể thao sẽ giúp cho các chàng trai tăng trưởng “trí tuệ minh mẫn trong thân thể tráng kiện”. Trong đời sống của một Cơ-đốc nhân, sự sửa trị không luôn là sự trừng phạt của Chúa vì sự bất tuân của chúng ta; đôi khi Ngài chuẩn bị những sự thử thách cho chúng ta vượt qua, giống như huấn luyện viên hướng dẫn các lực sĩ chuẩn bị O-lym-pic. Nếu không có hậu quả đau khổ của tội lỗi và sự sửa trị tất yếu của Đức Chúa Trời, thì chúng ta sẽ phải sống trong thế giới bạo ngược và vô trách nhiệm ra sao?


Bát-sê-ba sanh được một đứa con trai mà Na-than dự báo là sẽ chết, nhưng Đa-vít đã kiêng ăn và cầu nguyện xin Đức Chúa Trời chữa lành cho đứa trẻ. Đức Chúa Trời không ngắt ngang lời cầu xin của Đa-vít và bảo ông ngưng cầu thay, sau cùng những tội lỗi của Đa-vít đã được tha, điều này không làm hại Đa-vít trong việc dành cả ngày để cầu nguyện. Trong khoảng thời gian im lặng và xa cách Chúa, Đa-vít hiểu được nhiều điều! Đứa bé sống chỉ có một tuần, cha mẹ nó chưa thực hiện cắt bì và đặt tên con của họ trong ngày thứ tám. Con trai của họ là Sa-lô-môn có đến hai tên (c.24-25), nhưng đứa con này không có tên.


Tại sao Đức Chúa Trời yêu thương và công bình mà không nhậm lời cầu xin và chữa lành cho con trai của người cha đang đau khổ và ăn năn nầy? Xét cho cùng, đó không phải là do lỗi của đứa trẻ mà là do cha và mẹ của nó đã phạm tội cùng Đức Chúa Trời. Về việc này, tại sao Đức Chúa Trời cho phép U-ri và một số người lính chết tại Ra-mát tạo điều kiện cho Đa-vít cưới Bát-sê-ba? Nếu tiếp tục đặt ra những câu hỏi tương tự, bạn sẽ kết thúc bằng một câu: “Tại sao tình yêu của Đức Chúa Trời cho phép sự gian ác xâm nhập vào thế gian?” Sau cùng, Đa-vít đã nhìn lại và thấy những từng trãi đau khổ như là “sự tốt lành và sự nhơn từ” của Chúa (Thi 23:6), cho cả hai, Đa-vít và đứa trẻ. “Đấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?” Áp-ra-ham hỏi (Sa 18:25). Khi ông nghe tin không tốt về việc Đức Chúa Trời phán xử trên gia đình mình, thậm chí Hê-li khi sa ngã cũng đã thú nhận: “Ấy là Đức Giê-hô-va, guyện Ngài làm điều đẹp ý Ngài!” (ISa 3:18). Ở đây không có câu trả lời nào dễ dàng cho chúng ta chấp nhận, nhưng có nhiều lời hứa chữa lành tâm hồn chúng ta, à đức tin được nuôi dưỡng lớn lên trên nền tảng của những lời hứa, không phải trên những lời lý giải.


Điều chắc chắn hơn: tuần lễ mà Đa-vít kiêng ăn cầu nguyện cho đứa trẻ, chúng ta thấy đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời, tình yêu mà ôngdành cho bà Bát-sê-ba và đứa con của nàng. Hiếm thấy quốc vương phương Tây nào rơi nước mắt hoặc bày tỏ lòng đau đớn trước cái chết của đứa con được sanh ra bởi một cung phi. Bất chấp tội lỗi của mình, Đa-vít vẫn được xem là người chăn chiên nhân hậu, và là người làm vừa lòng Đức Chúa Trời; ông không “bị tội lỗi dỗ dành mà cứng lòng” (He 3:13). Đa-vít tắm sạch, đã thay đổi y phục, thờ phượng Đức Chúa Trời, trở về với cuộc sống đầy chán nãn và nhiều bổn phận.Trong Thánh Kinh, việc tắm sạch và thay đổi y phục là dấu hiệu cho một đời sống mới bắt đầu (Sa 35:1-2; Sa 41:14; Sa 45:22; Xu 19:10; Le 14:8-9; Gie 52:33; Kh 3:18). Không có việc Chúa sửa trị chúng ta bao lâu và như thế nào, “Ngài không bắt tội luôn luôn, cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời” (Thi 103:9). Bởi vì ân tứ và lòng nhân từ của Chúa, chúng ta sẽ luôn có một đời sống mới bắt đầu.


Những lời của Đa-vít trong câu 13 mang lại sự yên ủi cho những người đang đau buồn vì cái chết của con mình, nhưng không những người nghiên cứu Cựu Ước nào cũng đồng tình rằng lời của vua được khải thị từ Đức Chúa Trời.Có thể Đa-vít sẽ nói: “Con trai của ta không thể sống lại từ phần mộ hay âm phủ, nhưng sẽ có một ngày ta đến đó để gặp lại con ta.” Nhưng sự an ủi nào sẽ cho chúng ta biết rằng mọi người rồi sẽ chết? “Nó sẽ chẳng trở về với ta” là câu mà Đa-vít tin rằng con trai đã chết của mình sẽ không được tái sinh cũng như không được sống lại cho đến khi Chúa tái lâm.

Điều cũng này khẳng định rằng Đa-vít đã trông chờ sẽ thấy và nhận ra con trai mình ở nơi cuộc sống trong tương lai. Vậy cuối cùng Đa-vít sẽ đi về đâu? “Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài.” (Thi 23:6; Thi 11:7; Thi 16:11; Thi 17:15).


6. Sự an ủi (IISa 12:24-25)

Dù chúng ta cảm thấy khó chịu thể nào vì bàn tay sửa trị của người Cha yêu thương, thì vẫn có sự an ủi từ Đức Chúa Trời dành cho chúng ta (Es 40:1-2,9-11,28-31). Trước khi con trai của Bát-sê-ba chết, Đức Chúa Trời đã gọi nàng là “vợ của U-ri” (c.15), điều này hợp lý vì khi nàng thụ thai đứa trẻ, nàng còn là vợ U-ri; nhưng trong câu 24 nàng trở thành vợ của Đa-vít, điều này muốn nói rằng, tương tự như Đa-vít, nàng cũng bắt đầu đời sống hoàn toàn mới. Bằng chứng cho ân tứ của Đức Chúa Trời đó là “vợ của U-ri” được nhắc đến trong bảng gia phả của Đấng Mê-si-a (Mat 1:6), cùng với Ta-ma (c.3 Sa 38:1-30), Ra-háp và Ru-tơ (c.5 Gios 2:1-24; Gios 6:22-25; Phuc 23:3).


Ít nhất chín tháng đã trôi qua trong câu 24 và 25, chín tháng ân sũng và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời muốn mọi việc xảy ra như vậy và Ngài nhìn thấy rằng đứa trẻ có “cấu trúc gen di truyền” mà Ngài cần để thực hiện ý muốn của Ngài (Thi 139:13-16). Trong phương cách hết sức đặc biệt, “Đức Chúa Trời yêu thương Đa-vít” và ban cho Sa-lô-môn (“thái bình”) một cái tên rất đặc biệt, Giê-đi-đia được Đức Chúa Trời yêu thương.” Vì “Đa-vít” có nghĩa là “yêu mến”, cha và con cùng mang những cái tên tương tự với nhau về nghĩa. Đức Chúa Trời phán với Đa-vít rằng con trai ông sẽ được sanh ra và nó sẽ xây đền thờ cho Đức Chúa Trời (IISa 7:12-13; ISu 22:6-10), và Ngài đã giữ lời hứa. Mỗi khi Đa-vít và Bát-sê-ba nhìn con trai mình, họ được nhắc nhở rằng Chúa đã tha thứ lỗi lầm đã qua và bảo đảm cho những dự định của họ trong tương lai.


7. Sự chinh phục (IISa 12:26-31) (ISu 20:1-3)

Nhưng vẫn còn việc nước cho Đa-vít làm, rong đó có việc hỗ trợ Giô-áp hoàn tất cuộc vây hãm Ráp-ba (IISa 10:14; IISa 11:1; IISa 12:26-31). Dần dần, quân Y-sơ-ra-ên chiếm trọn cả thành phố nầy, trước hết là lâu đài hoàng gia (c.26), và đến khe nước (c.27).

Bây giờ Giô-áp chuẩn bị cuộc tấn công sau cùng nhằm kết thúc cuộc vây hãm, nhưng Giô-áp muốn đích thân vua có mặt ở đó và điều khiển trận đánh. Mặc cho các sai phạm của vua, ít nhất Giô-áp mong muốn mang lại danh dự cho vua. Đa-vít đã đến Ráp-ba và lãnh đạo quân đội chiếm lấy và quy phục thành phố.


Không có một vị vua nào có thể đội vương miện lâu trong khi nó nặng từ mười lăm đến mười bảy pound, nên lễ “lên ngôi” của Đa-vít diễn ra ngắn gọn nhưng khá trịnh trọng, và khẳng định Am-môn nằm trong lãnh thổ của Đa-vít. (Vương miện dành cho vua và hoàng hậu nước Anh nặng hơn đến ba pound, và các vị vua sẽ thấy đội vương miện như mang một gánh nặng!) Vương miện rất giá trị, vì Đa-vít đã lấy nó cùng với nhiều chiến lợi phẩm mà ông tìm thấy tại thành phố. Hầu hết của cãi thu được nầy được tích trữ vào kho của Đức Chúa Trời và được dùng để xây dựng đền thờ.


Đa-vít để vài tù binh chiến tranh làm việc riêng mình, cuốc đất, đốn cây, và số khác làm gạch. Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã ban cho Đa-vít chiến thắng nầy, dù ông từng là người chống nghịch Ngài. Ông và quân của mình trở về Giê-ru-sa-lem là nơi mà ông trãi qua nhiều sửa trị của Chúa, chính thế mà trong thời gian này các thành viên trong gia đình ông đều trưởng thành. Đa-vít đánh bại dân Am-môn và bắt họ hạ gươm, nhưng bây giờ gia đình ông dùng gươm mà tranh chiến với nhau.



 


6. NHỮNG ĐỨA CON BẤT TRỊ CỦA ĐA-VÍT (IISa 13:1-14:33)


Qua 10 đoạn đầu của II Sa-mu-ên, chúng ta đã biết được Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-vít quyền phép để ông đánh thắng các kẻ thù, xây dựng và mở mang đất nước như thế nào. Rồi Đa-vít phạm tội tà dâm, giết người và dối gạt (đoạn 11-12), các đoạn còn lại của sách nầy mô tả Đa-vít đang phải vật lộn với những vấn đề các con ông gây ra. Những tháng ngày của ông thật u ám và chán chường, nhưng ông vẫn nương mình nơi Đức Chúa Trời, Ngài đã giúp ông vượt qua và chuẩn bị đất nước tiếp nhận sự trị vì của Sa-lô-môn, con trai ông. Cuộc sống làm gì cho chúng ta tùy thuộc vào những gì cuộc sống tìm thấy nơi chúng ta, và trong Đa-vít là đức tin vững mạnh nơi Đức Chúa Trời Hằng Sống.


Áp-sa-lôm là nhân vật chính trong phân cảnh nầy, vì chính Áp-sa-lôm đã xoay chuyển tình thế thành bi kịch! Ba người thừa kế ngai vàng của Đa-vít là Am-nôn, con trai đầu lòng của Đa-vít, Áp-sa-lôm con trai thứ ba, và A-đô-ni-gia con trai thứ tư (ISu 3:1-2). Đức Chúa Trời cảnh cáo Đa-vít rằng gươm sẽ không lìa khỏi ông (IISa 12:10), và Áp-sa-lôm (có nghĩa là “bình an”) là người đầu tiên cầm thanh gươm đó.

Sự xét đoán của Đa-vít đối với người giàu trong câu chuyện của Na-than là “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con, vì đã làm như vậy, và vì không có lòng thương xót” (IISa 12:6), sự xét đoán đó giáng lại trên đầu Đa-vít. Con của Bát-sê-ba chết; Áp-sa-lôm giết Am-nôn vì cưỡng hiếp Ta-ma; Giô-áp giết Áp-sa-lôm trong trận chiến tại núi Ép-ra-im và A-đô-ni-gia bị giết vì âm mưu chiếm ngai vàng khỏi tay Sa-lô-môn (IVua 2:12-25).


Đa-vít đang cai trị Y-sơ-ra-ên, hưng tội lỗi và sự chết đang cai trị gia đình ông (Ro 5:14,17,21). Đức Chúa Trời đã tha thứ những tội lỗi của Đa-vít (IISa 12:13), nhưng Đa-vít nhận thấy rằng hậu quả của tội lỗi đã được tha thật đau đớn. Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-vít nhiều con trai (ISu 28:5), nhưng giờ đây Ngài biến những phước lành thành sự rủa sả (Ma 2:1-2).

“Tội ác ngươi sẽ sửa phạt ngươi, sự bội nghịch ngươi sẽ trách ngươi” (Gie 2:19). Những sự kiện trong đoạn 13 và 14 như một đoạn kết buồn với 5 bước di chuyển: từ tình yêu đến dục vọng (IISa 13:1-14), từ dục vọng đến căm ghét (IISa 13:15-22), từ căm ghét đến giết người (IISa 13:23-36), từ giết người đến tình trạng tha hương (IISa 13:37-39) từ cảnh tha hương đến sự giải hòa (IISa 14:1-3).


1. Từ tình yêu đến dục vọng (IISa 13:1-14)

Lần đầu tiên Áp-sa-lôm được đề cập vì đoạn 13-14 tập trung vào “câu chuyện của Áp-sa-lôm”, là Ta-ma là em ruột của Áp-sa-lôm. Cả Áp-sa-lôm và Ta-ma đều được ghi nhận là những người xinh đẹp (IISa 13:1; IISa 14:25). Mẹ của hai người là Ma-a-ca, công chúa của một nước nhỏ thuộc xứ A-ram, nằm gần biển Ga-li-lê. Chắc chắn Đa-vít đã cưới Ma-a-ca làm vợ để thiết lập hiệp ước hòa bình với cha nàng. Áp-sa-lôm thừa hưởng hai dòng máu hoàng gia từ cả cha và mẹ, điều đó đã khiến ông tự cao và quyết tâm tranh giành ngai vàng.


Am-nôn là con trưởng nam của Đa-vít và là người hiển nhiên thừa kế ngai vàng, nên có lẽ ông đã tự cho mình có đặc ân hơn những người con khác. Thật bất hạnh cho ông ta khi ấp ủ tình yêu bất bình thường với em gái cùng cha khác mẹ với mình, và lẽ ra ông phải ngưng ngay việc nuôi dưỡng dục vọng đó từ khi nó mới hình thành. (Mat 5:27-30).

Tội lỗi không phải chỉ bất bình thường, nó còn phá hủy tiêu chuẩn tình dục thánh khiết theo Luật Pháp của Đức Chúa Trời (Le 18:9-11; Le 20:17; Phu 27:22). Tuy nhiên, Am-nôn trở nên quá cuồng dại vì Ta-ma, ông ta nghĩ đó là tình yêu và có suy nghĩ bệnh hoạn vì nó. Một công chúa trinh trắng phải giữ mình nơi khuê các, ránh mọi tiếp xúc với những người khác giới thậm chí với những người bà con, à trí tưởng tượng của Am-nôn hoạt động liên tục khi nghĩ về nàng.


Giô-na-đáp là anh họ của Am-nôn, on trai của Sam-ma, là anh của Đa-vít, ở đây được gọi là Si-mê-a (ISa 16:9), và ông ta là người lắm mánh khóe, có thể đang giữ chức quan nhỏ trong triều. Chúng ta sẽ gặp lại ông trong IISa 14:32 sau khi Am-nôn bị người của Áp-sa-lôm giết chết. Trong cuộc sống, người dễ khiến chúng ta phạm tội nhất không ai khác là bạn của chúng ta, thật vậy, theo lời khuyên của Giô-na-đáp, Am-nôn đã trở thành người phạm tội cưỡng hiếp, loạn luân và cuối cùng bị giết chết.


Hẳn Am-nôn đã khỏi bệnh “tương tư” của mình, vì ông ta phải giả vờ bệnh khi Đa-vít đến thăm. Có lẽ Am-nôn suy nghĩ: “Nếu cha mình phạm tội tà dâm, tội giết người và thoát được tội, thì chắc chắn mình cũng thoát được tội cưỡng hiếp nầy”. Đây là sức mạnh tiêu cực của một tấm gương xấu. “Người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác, khác nào một suối nước bị dấy đục, một nguồn nước bị hư” (Ch 25:26). Gia đình của Đa-vít giờ đây bị vẫn đục và hậu quả của nó sẽ rất bi thảm.

Đa-vít nổi tiếng khắp nơi vì sự khôn ngoan và thông sáng của mình (IISa 14:17,20), nhưng sau “vụ việc liên quan đến Bát-sê-ba”, dường như ông đã suy sụp. Do Đa-vít buộc Ta-ma thuận theo những yêu cầu của người anh cùng cha khác mẹ với nàng đã gây đau khổ và sỉ nhục cho nàng; sau đó hai năm, khi ông cho phép Am-nôn đến dự tiệc của Áp-sa-lôm, ông đã đưa con trai đầu lòng mình vào chỗ chết. Đa-vít đã lừa dối và chính ông bị lừa dối!


Ta-ma nướng một chiếc bánh đặc biệt cho Am-nôn, và Am-nôn đuổi hết mọi người ra ngoài; chỉ còn ông ta cùng em gái mình trong phòng, và nhân dịp đó đã cưỡng hiếp em gái mình. Điều mà ông ta cho là tình yêu thật ra chỉ là dục vọng, sự đam mê đó cai trị ông và khiến ông trở nên như loài cầm thú. Dĩ nhiên Ta-ma đã cố hết sức có thể để kháng cự. Sự phản kháng của nàng dựa trên luật pháp của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của một cư dân trong tuyển dân Y-sơ-ra-ên khác với các nước lân bang (c.12).

Tội lỗi của Đa-vít đã tạo cơ hội cho kẻ thù nhạo báng Đức Chúa Trời (IISa 12:14). Những lời phản đối của Ta-ma (c.12-13) nhắc chúng ta nhớ đến Sa 34:1-31; Cac 19:1-20:48, ai tình huống tương tự khác. (Sa 34:7; Cac 1:23-24; Cac 20:6,10). Ta-ma cố kéo dài thời gian với một đề nghị, đó là Am-nôn phải xin vua cha cho phép được cưới nàng (c.13), dù nàng biết rằng Luập Pháp Môi-se cấm kiểu kết hôn giữa hai anh em như vậy (Le 18:9-11; Le 20:17; Phuc 27:22).


2. Từ dục vọng đến căm ghét (IISa 13:15-22)

Am-nôn nghĩ mình rất yêu Ta-ma. Ban đầu ông mê mệt vì nàng (c.1-2), sau đó ngã bệnh vì mong nhớ nàng (c.2) và ngày một hao mòn (c.4). Nhưng sau khi chiếm được nàng bằng bạo lực, ng ta vô cùng căm ghét nàng và muốn tống khứ nàng đi cho khuất mắt! Tình yêu chân thành không bao giờ xâm hại thân thể người khác chỉ để thỏa mãn mong muốn ích kỷ, tình yêu thật cũng không quyến dụ người khác vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời.

Trong dục vọng của mình, Am-nôn không khát khao một tình yêu và không biết có một ranh giới rất mong manh giữa tình yêu ích kỷ và sự căm ghét. Trước khi phạm tội, ông muốn Ta-ma là của mình; nhưng sau khi phạm tội, ông muốn tống khứ nàng càng nhanh càng tốt.


Những tội lỗi liên quan đến tình dục luôn gây tổn thương về mặt cảm xúc. Khi bạn đối xử với người khác như một món hàng, cuối cùng bạn sẽ vứt bỏ họ như món đồ chơi cũ hoặc chiếc áo rách. Trong câu 17 bảng tiếng Hy-bá-lai không có từ “đàn bà”, nên Am-nôn có thể đã nói rằng “Hãy vứt món đồ nầy khỏi mặt ta!”

Điều nầy giải thích tại sao Ta-ma kết tội Am-nôn là người độc ác do đã đuổi nàng đi hơn là đã cưỡng hiếp nàng. Không còn trinh tiết, Ta-ma không còn hy vọng kết hôn nữa, và có thể nàng cũng không còn được sống trong khuê các. Nàng sẽ đi về đâu? Ai sẽ tiếp rước nàng? Ai còn muốn cưới nàng? Làm sao nàng có thể chứng minh được Am-nôn đã xâm phạm đến nàng và nàng đã không quyến dụ ông ta trước?


Nàng đi đến chỗ của Áp-sa-lôm, anh ruột của mình, vì trong xã hội đa thê, anh trai phải có trách nhiệm bảo vệ danh dự cho em gái ruột của mình. Khi Áp-sa-lôm nhìn thấy Ta-ma khóc than, xé quần áo và rải tro lên đầu, ông biết nàng đã gặp phải điều đau khổ và sỉ nhục lớn, và ông đoán biết Am-nôn đã xâm hại nàng. Câu hỏi của Áp-sa-lôm, “Có phải Am-nôn, anh của em đã nằm cùng em chăng?” (c.20) đã nói lên điều đó. Tin đồn trong cung không bỏ sót chuyện gì, nên có thể Áp-sa-lôm đã nghe được chuyện Am-nôn ngã bệnh và đòi gọi Ta-ma đến chỗ của ông ta. Nhưng nếu Áp-sa-lôm quan tâm đến em gái mình, tại sao ông không cảnh báo Ta-ma nên tránh xa Am-nôn? Vua ra lệnh cho Ta-ma đến thăm Am-nôn, và Áp-sa-lôm không thể thay đổi được lệnh của vua. Tất cả những gì Áp-sa-lôm có thể làm là khuyên em mình không nên ở một mình với Am-nôn.


Có lẽ Ta-ma muốn đi tâu với vua cha mọi chuyện, nhưng Áp-sa-lôm bảo nàng phải chờ đợi. Tại sao như vậy? Vì trong đầu của Áp-sa-lôm đã sáng lên một âm mưu với ba mục đích: trả thù cho Ta-ma, trừ khử Am-nôn và như vậy người thừa kế ngai vàng sẽ là chính ông ta. Trong câu nói của Áp-sa-lôm, cụm từ “anh của em” có nghĩa là, “nếu người xâm hại em là người khác thì anh sẽ trả thù ngay tức khắc; nhưng vì đó chính là anh của em, anh sẽ kiên nhẫn chờ thời cơ”. Áp-sa-lôm đang cố gắng tránh được sự gièm pha mà có thể làm đau buồn cho gia đình và nguy hại đến âm mưu chiếm ngôi của mình.


Vua Đa-vít đã nghe được bi kịch đó và rất giận dữ, nhưng ông có thể nói gì? Ký ức về tội lỗi của chính mình khiến ông không thể mở miệng, và làm sao ông có thể trừng phạt con trai đầu lòng và là người thừa kế ngai vàng của ông? Theo luật pháp, nếu người nào cưỡng hiếp một người nữ đồng trinh, nh ta phải trả cho cha nàng tiền phạt và cưới người con gái đó, và không được ly hôn với nàng (Phuc 22:28-29).

Tuy nhiên, luật pháp cũng cấm anh em cùng cha khác mẹ cưới nhau (Le 18:9), nên ở đây không thể có chuyện cho hai người cưới nhau. Đa-vít đã phạm hai trọng tội tà dâm và sát nhân và Đức Chúa Trời đã không áp dụng luật pháp trên ông.


Như vậy, cả Đa-vít và Áp-sa-lôm đều không nói gì được về tội ác của Am-nôn. Thật ra, Áp-sa-lôm đã không nói chuyện với Am-nôn tiếng nào (dù tốt hay xấu) nhưng chỉ chờ thời cơ thích hợp để giết Am-nôn và trả thù cho em gái mình. Nhưng, bạn của Am-nôn là Giô-na-đáp biết Áp-sa-lôm muốn giết Am-nôn, vì ông ta đã nói “…ấy là việc Áp-sa-lôm đã định ý làm từ ngày Am-nôn gian hiếp Ta-ma, em gái của người” (IISa 13:32). Nếu Giô-na-đáp tiết lộ mọi chuyện đang xảy ra, có lẽ người khác cũng hoài nghi. Dục vọng của Am-nôn đã biến thành sự căm ghét, nhưng giờ đây chính Áp-sa-lôm đang nuôi thù hận trong lòng, và sự căm hận đó sinh ra tội sát nhân (Mat 5:21-22). Sau đó, khi Am-nôn bị trừ khử, Áp-sa-lôm có thể được làm vua.


3. Từ Căm ghét đến giết người (IISa 13:23-36)

Emile Gaboriau, một tác giả Pháp, có viết, “Sự trả thù là trái ngọt mà bạn phải để chờ đến lúc chín muồi”. Áp-sa-lôm đã chờ đợi trong hai năm để trả thù cho em gái mình, và khi thời cơ đến ông đã ra tay. Nhờ sự rộng lượng của vua cha, các hoàng từ không chỉ được chức vị cao trọng trong triều mà còn được chia cho phần đất và bầy gia súc riêng. Áp-sa-lôm có đất và đàn gia súc của mình tại Ba-anh-Hát-so, cách bắc Giê-ru-sa-lem 14 dặm. Người Y-sơ-ra-ên thường tổ chức tiệc lớn vào ngày hớt lông chiên và mời bà con và bạn bè đến dự.


Áp-sa-lôm mời vua cha đến dự và mời cả các quan chức theo, nhưng Đa-vít không tán thành; Đa-vít giải thích rằng nhiều khách mời sẽ tạo gánh nặng về tài chính cho con trai mình. Áp-sa-lôm đang mong chờ vua cha đáp lời như vậy vì ông ta không muốn Đa-vít và các quan cận thần có mặt khi ông ra tay giết Am-nôn. Sau đó, Áp-sa-lom thỉnh cầu vua cha cho phép Am-nôn, người sẽ kế vị vua, đến dự tiệc, một yêu cầu làm Đa-vít thấy lo sợ.

Nhưng Đa-vít biết rằng hoàng tử kế vị thường phải có mặt trong các buổi lễ tiệc để thay mặt cho vua cha, vậy thì tại sao Am-nôn không thể đến dự tiệc tại nhà Áp-sa-lôm? Hơn nữa, hai năm đã trôi qua từ khi Am-nôn xâm phạm Ta-ma, Áp-sa-lôm không làm gì tổn hại đến Am-nôn. Để bảo đảm an toàn cho Am-nôn hơn, Đa-vít đã cho tất cả các hoàng tử cùng đến dự tiệc, và nghĩ rằng Áp-sa-lôm không dám ra tay với Am-nôn trước mặt nhiều hoàng tử khác.


Nhưng trong suốt hai năm qua Áp-sa-lôm đã sắp xếp kế hoạch và vạch đường trốn thoát. Đa-vít đã lập mưu giết U-ri, người Hê-tít, và đã sống sót, thế thì có lý do gì Áp-sa-lôm con trai ông lại không thể sống sót? Giống như cha mình, Áp-sa-lôm đã dùng tay người khác để thực hiện mưu đồ của mình vào thời điểm mà nạn nhân không thể ngờ được. Đa-vít đã chuốc rượu cho U-ri say nhưng không đạt được mục đích, trong khi Áp-sa-lôm làm cho anh mình say và thực hiện được kế hoạch mà ông ta sắp đặt. Áp-sa-lôm theo gương xấu của cha mình và phạm tội cố ý giết người.


Khi Áp-sa-lôm ra lệnh cho các đầy tớ giết Am-nôn, các hoàng tử khác nghe được đều bỏ chạy để thoát thân, chắc họ nghĩ rằng Áp-sa-lôm âm mưu giết sạch hoàng tộc để cướp ngôi. Các hoàng tử leo lên lưng lừa; con lừa (hay la) được xem là “con vật của vua” (IISa 18:9 IVua 1:33,38,44), à thúc chúng chạy nhanh về Giê-ru-sa-lem. Nhưng Áp-sa-lôm cũng chạy trốn (c.34,37) và có thể các tôi tớ của ông cũng trốn theo ông.


Trong c.30-36, đây là phần được xen vào, chúng ta chuyển từ Ba-anh-Hát-so đến Giê-ru-sa-lem và nhìn nhận sự trốn chạy của các hoàng tử từ cái nhìn của vua Đa-vít. Trước khi các lính canh có thể nhận rõ đoàn người cỡi lừa chạy đến Giê-ru-sa-lem là các hoàng tử, có một người từ nhà Áp-sa-lôm đến báo tin rằng tất cả hoàng tử đều bị giết (tin xấu loan đi nhanh và bị phóng đại!).

Đa-vít xé quần áo mình và nằm dưới đất trong đau đớn (IISa 12:6), chắc chắn ông đang tự trách mình vì đã để cho các hoàng tử đến dự tiệc. Giô-na-đáp, cháu của Đa-vít, là người biết rõ hơn đã báo lại rằng chỉ Am-nôn bị giết; nhưng điều nầy cũng là một đòn kinh khiếp đối với Đa-vít vì Am-nôn là con trai đầu lòng và là người sẽ kế vị ông. Các hoàng tử chạy về đến nơi an toàn và mọi người đều đau buồn trước cái chết của Am-nôn và tội giết người của Áp-sa-lôm.


Trả thù thật sự không giải quyết được vấn đề gì mà cuối cùng nó quay lại làm tổn thương chính người đang tâm trả thù. Francis Bacon đã viết, “trong sự thù hằn, một người không hơn gì kẻ thù mình, nhưng trong sự tha thứ, người ấy được cao trọng hơn”.

Không ai bị đối xử bất công và tàn nhẫn hơn Chúa Giê-xu đã chịu khi Ngài bị xét xử và đóng đinh, nhưng Ngài không trả đũa; và Ngài là tấm gương sáng cho chúng ta (IPhi 2:18-25). Một câu ngạn ngữ, “Đừng nổi khùng hãy trả đũa” có thể làm hài lòng một vài người, nhưng nó không làm Đức Chúa Trời đẹp lòng. Nếp sống Cơ Đốc là nếp sống của sự tha thứ và đức tin, hãy tin rằng Đức Chúa Trời làm mọi sự để đem lại sự tốt lành cho chúng ta và sư vinh hiển cho Ngài (IPhi 4:12-19).


4. Từ giết người đến tình trạng tha hương (IISa 13:37-39)

Hai lần chúng ta được cho biết rằng Áp-sa-lôm bỏ trốn (c.34,37), và có thể ông ta lẫn trốn trong cảnh hoảng loạn sau khi các hoàng tử khác bỏ chạy về Giê-ru-sa-lem. Chỉ Áp-sa-lôm và những đầy tớ tội lỗi của ông ta biết chuyện gì đang xảy ra trong bữa tiệc, nên mọi người khác không hiểu được chuyện gì. Họ đều chứng kiến “vụ ám sát tàn bạo” ấy và có thể dễ dàng làm chứng rằng Áp-sa-lôm là thủ phạm.


Áp-sa-lôm bỏ trốn xa 80 dặm về phía đông bắc đến nhà ông bà ngoại mình; Thanh-mai, ông ngoại của ông ta đang làm vua ở xứ Ghê-su-rơ (IISa 3:3). Chắc chắn nơi an toàn đó đã được chuẩn bị sẵn, và Thanh-mai cũng rất mong nhìn thấy cháu ngoại mình được làm vua Y-sơ-ra-ên. Ở tại Giê-ru-sa-lem, Đa-vít khóc than cho Am-nôn, con trai đầu lòng của mình, hưng ở Ghê-ru-sơ, đứa con đang chạy trốn của ông ta đang lập mưu nhằm chiếm được ngai vàng từ tay cha mình. Thời gian là liều thuốc xoa dịu đi nổi buồn, và 3 năm sau, Đa-vít đã nguội ngoai về cái chết của người con kế vị.


Câu, “Vua Đa-vít bỏ không đuổi theo Áp-sa-lôm nữa” (c.39) ít nhất có hai lý giải. Hoặc Đa-vít rất muốn gặp lại con trai mình, điều nầy có thể hiểu được, hoặc Đa-vít có ý định đuổi theo và xử lý Áp-sa-lôm, nhưng cơn giận của ông đã nguội dần. Tôi thích lý giải thứ hai hơn. Nếu Đa-vít thật sự muốn Áp-sa-lôm trở về nhà, ông ta có thể làm điều đó cách dễ dàng, vì Giô-áp sẵn sàng thực hiện việc ấy (IISa 14:22) và những người bà con bên vợ của Đa-vít ở Ghê-ru-sơ sẽ hợp tác.

Tuy nhiên, khi Áp-sa-lôm được trở về, Đa-vít đã không cho ông ta ở gần mình trong 2 năm (IISa 14:28)! Nếu vua nóng lòng muốn gặp lại con trai mình, ông sẽ có cách đặc biệt để lo việc ấy. Dường như trong lòng Đa-vít có một sự tranh chiến: ông biết rằng con trai ông đáng bị trừng phạt, nhưng Đa-vít nổi tiếng là người nhân nhượng con cái (IVua 1:6). Ban đầu Đa-vít định xử Áp-sa-lôm thật nghiêm khắc nhưng phân xử điều đó khi thái độ của ông đã thay đổi. Như được giải thích trong đoạn 14, Đa-vít cuối cùng đã thỏa hiệp và cho gọi Áp-sa-lôm về, nhưng trừng phạt ông ta bằng cách không giải hòa hoàn toàn. Phải đến 5 năm cha con họ mới giáp mặt nhau (IISa 13:38; IISa 14:28).


5. Từ cảnh tha hương đến sự giải hòa (IISa 14:1-33)

Giô-áp biết rõ vua của mình và nhận thấy Đa-vít đang mong mỏi gặp mặt con trai lưu vong của mình.Là quan tổng binh, Giô-áp quan tâm đến người sẽ kế vị ngôi vua Y-sơ-ra-ên nếu như có chuyện chẳng lành xảy ra với Đa-vít, lúc này sắp bước sang tuổi 70. Nhưng Áp-sa-lôm không thể trở về nếu như Đa-vít không cho phép, và vua sẽ không cho phép nếu như ông không chắc đó là quyết định đúng. Chính vua là người có nhiệm vụ giữ gìn luật pháp, và Áp-sa-lôm đã phạm tội lập mưu giết anh cùng cha khác mẹ của mình.


Đa-vít yêu thương con trai mình và chắc chắc bị lên án vì cách ông ta nuông chìu con, nhưng làm sao ông có thể thoát được tình thế nan giải nầy? Giô-áp đưa ra cách giải quyết vấn đề.


Giô-áp dùng lý lẽ để thuyết phục vua (IISa 14:1-20).

Như Na-than đã đối mặt với Đa-vít, một tội nhân, ằng cách kể một câu chuyện (IISa 12:1-7), Giô-áp đã đến với Đa-vít, một người cha và một vị vua, bằng cách mượn môi miệng của một người đàn bà, được xem là khôn ngoan và giỏi diễn kịch, kể lại một câu chuyện bịa đặt về những nan đề trong gia đình. Bà ta đến gặp vua, han khóc và kể cho vua nghe những rắc rối trong gia đình bà. Hai con trai của bà tranh cải nhau ngoài đồng và đứa nầy đã giết đứa kia. (Câu chuyện nầy nghe có vẻ giống chuyện Ca-in và A-bên, Sa 4:8-16).

Những người bà con trong gia tộc muốn giết chết đứa con phạm tội ấy và báo thù huyết cho đứa con đã chết (Dân 35:6; Phuc 19:1-14), nhưng bà chống lại họ. Giết chết đứa con duy nhất còn lại của bà đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết cho gia đình bà và “tắt đốm lửa còn lại”của bà (c.7). Theo luật pháp, đứa con còn sống đã phạm tội và phải chết (Xu 21:12; Le 24:17), nhưng bà muốn vua tha cho đứa con trai còn sống của bà.


Câu chuyện của Na-than về con chiên cái đã cảm động lòng người chăn chiên Đa-vít, và câu chuyện về một gia đình xung đột nầy đã làm động lòng người cha Đa-vít. Phản ứng đầu tiên của ông là cam đoan với bà ta rằng ông sẽ “giải quyết việc nầy” (c.8), nhưng điều đó chưa đủ tốt cho bà. Đôi khi bộ máy chính quyền cần quay chậm lại, trường hợp của bà là vấn đề liên quan đến sự sống và cái chết. Khi bà nói rằng bà sẽ mang lấy án phạt mà vua ban ra thay cho con trai, Đa-vít đã hứa sẽ bảo vệ bà nếu có ai đụng đến chuyện của bà (c.9-10). Nhưng người đàn bà nầy vẫn chưa hài lòng, ên bà cầu xin vua thề với bà rằng con trai bà sẽ không bị giết hại, và Đa-vít đồng ý (c.11). Thề bất cứ điều gì trong danh Đức Giê-hô-va là phải buộc mình với lời thề đó và không được lãng quên nó.


Người đàn bà nầy đã dồn Đa-vít vào thế kẹt (c.12-17).

Nếu ông đồng ý bảo vệ đứa con trai tội lỗi mà ông không biết là ai, thì ông phải có trách nhiệm bảo vệ đứa con trai yêu dấu của chính mình càng hơn! Người đàn bà ấy đến gặp Đa-vít với vấn đề liên quan đến tương lai của một gia đình nhỏ, nhưng câu chuyện về Áp-sa-lôm liên quan đến vận mệnh của cả một dân tộc. Vua không muốn nhìn thấy con trai và là người thừa tự duy nhất của bà bị giết hại, nhưng ông đang yên lòng để cho con trai sẽ kế vị ngai vàng mình lưu lạc nơi đất khách. Ông đã tha thứ tội sát nhân của con trai người đàn bà ấy, nên có thể nào ông không tha thứ cho người đã có âm mưu và giết hại Am-nôn? Vua sẽ còn chờ bao lâu nữa mới cho người gọi con trai mình về? Cuối cùng, cuộc đời nầy thật ngắn ngũi, và khi cuộc đời kết thúc, nó giống như nước đổ xuống đất và không thể hốt lại được. Giết kẻ sát nhân thì người bị hại cũng không thể sống lại, thế thì tại sao không cho anh ta một cơ hội khác?


Đức Chúa Trời không thiên vị ai, và luật pháp của Ngài là đúng đắn, nhưng ngay chính Đức Chúa Trời còn đặt ra những cách để bày tỏ lòng khoan dung và tha thứ cho tội nhân (c.14). Ngài phạt tội lỗi, điều đó là chắc chắn, nhưng Ngài cũng tìm cách để tội nhân được làm hòa với Ngài. (Có lẽ người đàn bà nầy ghi nhớ Xu 32:30-35; Xu 34:6-9). Phải chăng Ngài đã không tha thứ cho Đa-vít? Người đàn bà ấy thú nhận rằng bà sợ gia đình bà sẽ giết con trai bà và cướp đi sản nghiệp mà Đức Chúa Trời ban cho họ.


Đây chính là những lời gây xúc động và Đa-vít ghi khắc nó vào lòng. Nhưng là một người khôn ngoan, ông nhận thấy toàn bộ nội dung của lời cầu xin của bà vượt khỏi ranh giới của gia đình và tài sản. Đa-vít đủ thông minh để hiểu bà đang nói về vua, Áp-sa-lôm và tương lai của dân Y-sơ-ra-ên, di sản của Đức Chúa Trời. Trong thời điểm nầy ông chắc cũng hiểu rằng toàn bộ câu chuyện là một chuyện bịa và có người nào đó đứng sau dựng nên câu chuyện cho người đàn bà ấy kể lai. Sau đó, sự thật được phơi bày, hính Giô-áp là người tính toán mọi việc, nhưng động cơ của ông ta là một động cơ đáng khâm phục: “Giô-áp, tôi tớ của vua, đã làm như vậy, để làm cho việc nầy thành ra cách mới” (c.20).


Giô-áp tạ ơn vua (IISa 14:21-27).

Chắc chắn chính Giô-áp đã dẫn người đàn bà đến để được ra mắt và trò chuyện với vua, à có thể ông cũng có mặt ở đó và nghe hết những gì vua và người đàn bà ấy nói với nhau. Đa-vít đã hứa bảo vệ bà và con trai bà, nên vua không thể nói gì ngoài việc cho phép Áp-sa-lôm trở về; và ông ra lệnh cho Giô-áp đi đến Ghê-ru-sơ và dẫn Áp-sa-lôm về Giê-ru-sa-lem. Những lời của Giô-áp trong câu 22 cho thấy rằng ông đã đề nghị chuyện nầy với Đa-vít nhiều lần rồi, và ông thật vui mừng khi vấn đề nay được giải quyết ổn thỏa. Ghê-ru-sơ cách Giê-ru-sa-lem 80 dặm, và Giô-áp không mất nhiều thời gian để đến đó; như vậy chỉ trong 1 tuần hoặc 10 ngày sau Áp-sa-lôm đã được về đến quê nhà mình.


Tuy nhiên, còn có những giới hạn đối với hoàng tử kế vị nầy. Ông phải ở trong đất của mình, gần giống như bị giam lỏng trong nhà của mình, không được đến cung và gặp mặt vua cha. Có lẽ Đa-vít đang thử lòng trung thành của con trai mình, hoặc ông nghĩ rằng những giới hạn nầy sẽ bảo đảm với dân sự rằng ông không quá nuông chìu đứa con trai bất trị nầy của ông. Tuy nhiên, những giới hạn ấy không ngăn được tiếng tăm của Áp-sa-lôm lan ra, vì dân sự yêu mến và ca ngợi ông.

Việc ông ta lập mưu giết anh khác mẹ của mình và đã bỏ trốn dường như là một tội rất nhỏ đối với dân sự, vì dân sự chắc chọn cho mình một thần tượng, và còn thần tượng nào tốt hơn vị hoàng tử trẻ đẹp nầy? Thiếu tư cách là điều không quan trọng; iều thật sự quan trọng là địa vị, của cải, và nhan sắc. Theo cách nói đương thời, Áp-sa-lôm xứng danh là một trang tu mi nam tử, là người “đầy nam tính”, dân sự ghen tị và ngưỡng mộ ông .


Dù Áp-sa-lôm có thể có được gì đi nữa, một điều mà ông ta không có là nhiều con trai để mang “danh tiếng” của ông. Ba con trai được đề cập trong câu 27 chắc đã chết trẻ, vì IISa 18:18 cho chúng ta biết rằng Áp-sa-lôm không có con trai trong thời điểm đó. Chúng ta không ngạc nhiên khi ông đặt tên cho con gái mình theo tên của Ta-ma, em gái ông. Luôn là một người tự cao tự đại, Áp-sa-lôm muốn dựng một bia tưởng niệm để nhắc nhở mọi người về sự vĩ đại của ông ta.


Giô-áp dẫn Áp-sa-lôm đến ra mắt vua (IISa 14:28-33).

“Người đàn bà khôn ngoan” lừa dối ấy có thể thấy mặt vua, nhưng chính con trai vua không được gặp mặt vua. Áp-sa-lôm sắp xếp việc nầy đã 2 năm, và tin rằng Giô-áp có thể giảng hòa cho hai cha con ông, hưng Giô-áp không làm được gì. Áp-sa-lôm biết rằng không được ra mắt vua có nghĩa là ông đừng mong được thừa kế ngôi vua, và Áp-sa-lôm lại muốn làm vua Y-sơ-ra-ên hơn bất cứ điều gì.

Một người sắc sảo như Giô-áp phải nhận ra rằng Áp-sa-lôm có ý muốn lên ngôi và rằng danh tiếng ngày càng lan ra của Áp-sa-lôm có thể giúp ích cho ông ta trong việc tiếp quản vương quốc. Biết được tình hình bất ổn như thế nào, viên quan tổng binh sáng suốt nầy tránh mặt Áp-sa-lôm vì sợ mình chịu dưới sự điều khiển của vị hoàng tử tự cao tự đại Áp-sa-lôm.


Sau hai năm chờ đợi, rong thời gian đó Áp-sa-lôm gọi Giô-áp đến tiếp kiến nhưng đều bị từ chối, ông quyết định ra tay mạnh hơn. Ông ra lệnh cho các đầy tớ mình đốt ruộng lúa mạch gần bên đất của mình, và ruộng lúa ấy chính là ruộng của Giô-áp. Việc làm đó khiến viên quan tổng binh phải lên tiếng, vì luật pháp có qui định kẻ cố ý đốt phá ruộng của người khác phải bồi thường cho chủ của nó (Xu 22:6). Dân chúng đều biết về vụ đốt phá nầy, nên Giô-áp đến gặp Áp-sa-lôm mà không sợ bị hiểu lầm.


Áp-sa-lôm đưa ra hai lựa chọn cho Giô-áp: hoặc dẫn ông ta đến ra mắt khuyên vua tiếp nhận và tha thứ cho ông , hoặc đem ông ra xét xử với tội giết người và xử tử ông. Áp-sa-lôm thà bị xử tử còn hơn phải tiếp tục sống trong cảnh giam lỏng nhục nhã nầy. Giô-áp rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, vì chính ông là người sắp xếp cho Áp-sa-lôm trở về Giê-ru-sa-lem. Giô-áp biết dân chúng không bao giờ để cho vị hoàng tử mà họ yêu quý bị xét xử và kết tội, nhưng làm sao ông có thể bảo đảm rằng vua sẽ giảng hòa với Áp-sa-lôm, con trai vua? Giô-áp cho Đa-vít biết những lời Áp-sa-lôm đã nói, Đa-vít cho gọi con trai đến, và vua hôn làm hòa với con trai mình. Hai cha con họ được gặp nhau sau 5 năm xa cách (IISa 13:38; IISa 14:28).


Không có chỗ nào chép rằng Áp-sa-lôm ăn năn và xin cha tha thứ, hoặc ông đã đến đền thờ để dâng của lễ như qui định. Cha con họ gặp nhau, nhưng đó là thời gian hòa hoãn ngắn ngũi, không phải sự hòa bình thật. Áp-sa-lôm vẫn âm thầm với kế hoạch riêng và quyết tâm chiếm được ngai vàng của Đa-vít. Giờ đây, hoàng tử Áp-sa-lôm được tự do, ông ta có thể xuất hiện trong thành và nhận được những lời nịnh hót của dân chúng, rong thời gian đó ông triệu tập những người ủng hộ ông để chuẩn bị cuộc phản loạn. Đa-vít sắp sửa mất ngai vàng và vương miện, mất những người vợ lẻ, người cố vấn đáng tin cậy, A-hi-tô-phe, và cuối cùng là con trai Áp-sa-lôm. Đây là thời kỳ tăm tối nhất trong cuộc đời Đa-vít.



 


7. ĐA-VÍT TRỐN VÀO ĐỒNG VẮNG (IISa 15:1-16:14)


Khi bạn đối mặt với những kẻ thù hung bạo và khi bạn đang gặp khó khăn nhất trong cuộc đời, bạn sẽ kinh nghiệm được quyền năng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang trừng phạt Đa-vít, nhưng Đa-vít biết rằng quyền năng của Đức Chúa Trời có thể giúp ông trong những phút đau khổ nhất cũng như trong phút huy hoàng nhất. Ông đã viết một bài thi thiên trong hoàn cảnh lưu lạc của mình, “Biết bao kẻ nói về linh hồn tôi rằng: Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó. Nhưng, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi; Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Đấng làm cho tôi ngước đầu lên” (Thi 2:2-3).

Đa-vít nhận thấy tay sửa phạt bởi tình yêu thương của Đức Chúa Trời giáng trên ông, và ông thú nhận rằng mình đáng bị như vậy. Nhưng ông cũng tin rằng tay nhân từ và quyền năng của Ngài vẫn hành động trên cuộc đời ông, rằng Đức Chúa Trời không bỏ ông như Ngài đã bỏ Sau-lơ. Đức Giê-hô-va vẫn thực hiện ý muốn tốt lành và trọn vẹn của Ngài, chưa bao giờ Đa-vít có đức tin mạnh mẽ và biết đầu phục Đức Chúa Trời như khi ông phải rời Giê-ru-sa-lem trốn trong đồng vắng.

Khúc Kinh Thánh nầy giới thiệu với chúng ta 3 vị vua.


1. Áp-sa-lôm vua giả mạo của Y-sơ-ra-ên (IISa 15:1-12)

Nếu người nào được trang bị để trở thành kẻ mị dân và dẫn dắt dân sự đi lầm đường lạc lối, thì người đó chính là Áp-sa-lôm. Ông là người có ngoại hình đẹp đẽ, sự quyến rũ của ông khó ai kháng cự nổi (IISa 14:25-26), ông thừa hưởng hai dòng máu hoàng tộc, từ cả cha và mẹ. Tính xấu của ông không quan trọng đối với hầu hết dân sự, là những người, giống con chiên, chỉ biết theo ai nói những điều họ thích nghe là cho cho họ những gì họ thích nhận. Một chủ bút, H. L. Mencken định nghĩa “kẻ mị dân” cực đoan hơn, hưng ông bỏ qua điểm nầy, “Người giảng một học thuyết mà ông ta biết là không đúng cho những người mà ông ta biết là ngu dại”. Một tiểu thuyết gia, James Fenimore Cooper, trình bày nó chính xác hơn: “Người đề cao những mối quan tâm của mình bằng cách tác động đến sự hết lòng của người khác đối với những mối quan tâm đó”.


Áp-sa-lôm không chỉ là một kẻ giỏi nói dối, mà còn là một người bền chí; ông ta biết chờ đúng thời cơ để hành động. Ông đã đợi 2 năm để giết chết Am-nôn (IISa 13:23), và giờ đây ông chờ thêm 4 năm nữa để phản nghịch cha và chiếm lấy ngai vàng (c.7).

Khi bạn đọc bài thi-thiên mà Đa-vít viết trong cảnh lưu lạc, bạn sẽ biết trong thời điểm đó vua Đa-vít đang bệnh và không thể giải quyết việc triều chính, vì vậy Áp-sa-lôm đã có cơ hội xen vào và lật đổ. Với tài năng của mình, vị hoàng tử tự cao tự đại nầy đã tận dùng mọi phương tiện trong tầm tay mình để mê hoặc dân chúng và có được sự ủng hộ của họ. Đa-vít đã chiếm được lòng dân nhờ sự hy sinh và phục vụ của mình, nhưng Áp-sa-lôm thu phục được lòng dân bằng phương cách dễ dàng hơn và hiện đại hơn bằng cách xây dựng chính mình thành một hình tượng mà dân sự không thể kháng cự. Đa-vít là một anh hùng; Áp-sa-lôm chỉ là một người nổi danh. Thật đánh tiếc, nhiều người đã quen thuộc với vua của mình và bây giờ lại lợi dụng vua.


Chiến dịch của Áp-sa-lôm bắt đầu ngay sau khi ông giảng hòa với cha, vì lúc nầy ông được tự do đi bất cứ nơi nào. Việc đầu tiên của ông là cỡi xe ngựa và 50 người tùy tùng đi khắp nơi để gây sự chú ý. Tiên tri Sa-mu-ên đã báo trước về thái độ nầy của các vua Y-sơ-ra-ên (ISa 8:11), và Môi-se đã cảnh cáo việc sắm nhiều ngựa (Phuc 17:16). Đa-vít viết trong Thi 20:7. “Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa, nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi”.


Vì Đa-vít không có mặt luôn luôn với dân sự, Áp-sa-lôm gặp gỡ họ trên đường đi đến cổng thành mỗi sáng sớm khi họ đến thưa kiện. Cổng thành là “tòa án” của các thành phố ngày xưa (Ru 4:1; Sa 23:10; Phuc 22:15; Phuc 25:17), và Áp-sa-lôm biết có nhiều người đang bất bình vì tòa án làm việc không hiệu quả. (IISa 19:1-8). Áp-sa-lôm chào những người nầy như những người bạn cũ và hỏi thăm họ nơi sống ở đâu, đang gặp vấn đề gì. Ông tỏ ra tán thành với những điều họ kiện tụng và nói ra những điều thiên vị cho họ.

Đây là kiểu tâng bốc của kẻ hèn hạ, nhưng dân chúng thích như vậy. Áp-sa-lôm khoác lác rằng ông sẽ quản lý việc triều chính tốt hơn nếu ông được làm quan xét (c.4), đây là cách ông ta phê phán cha mình một cách tinh vi. Khi dân sự cúi lạy ông ta, vì ông là hoàng thái tử, ông dang tay ôm họ vào lòng và hôn (c.5). Điều nầy nhắc chúng ta nhớ cái hôn giả hình của Giu-đa khi ông đến chào Chúa Giê-xu trong vười Ghết-sê-ma-nê (Mat 26:47-50; Mac 14:45).


Chỉ mất 4 năm, Áp-sa-lôm đã lôi kéo được rất nhiều người tận tâm tận lực cho mình ở khắp đất nước. Những người mà Áp-sa-lôm gặp sẽ trở về nhà mình và kể cho bạn bè, người thân nghe rằng họ được tiếp chuyện thân mật với hoàng thái tử, và sau khoảng thời gian 4 năm, Áp-sa-lôm đã có được rất nhiều bạn. Việc ông nhanh chóng tạo được ảnh hưởng đến suy nghĩ và tình cảm của nhiều người cảnh báo cho chúng ta rằng đến một ngày, một lãnh đạo sẽ dấy lên, người ấy sẽ điều khiển mọi suy nghĩ của dân chúng khắp thế giới (Kh 13:3; IITe 2:1-17).

Ngay cả dân Y-sơ-ra-ên cũng sẽ bị lừa và ký hiệp ước với vị lãnh đạo nầy, sau đó ông ta sẽ quay lại tìm cách tiêu diệt họ (Da 9:26-27). Chúa Giê-xu đã nói với những lãnh đạo Do-thái trong thời của Ngài, “Ta đã nhân danh Cha ta mà đến, các ngươi không nhận lấy ta. Nếu có kẻ khác lấy danh riêng mình mà đến, thì các ngươi sẽ nhận lấy” (Gi 5:43).


Áp-sa-lôm sống giả dối với anh chị em mình và dân Do-thái trong nhiều năm, khi thời cơ đến, ông dối gạt cả cha mình (c.7-9). Hoàng tử nầy không còn bị giam lỏng trong nhà, nên không cần phải xin phép vua cha khi muốn ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng ông lợi dụng điều đó để thực hiện những mục đích riêng.

-Thứ nhất, ông có thể nói với mọi người rằng ông được phép vua cha đi đến Hếp-rôn để làm trọn sự hứa nguyện mà ông đã lập trong thời gian tha hương ở Ghê-ru-sơ.

-Thứ hai, làm nguôi nổi sợ hãi về chuyện giết chết Am-nôn ngay trong bữa tiệc.

-Thứ ba, tạo được lòng tin trong lời mời hai trăm khách trong bộ máy chính quyền của vua cha đến dự tiệc, và họ vui vẻ tham dự. Khi khách nhìn thấy hai trăm người quyền cao chức trọng nầy, chắc chắn họ rất ấn tượng. Bữa tiệc nầy có liên quan đến việc làm trọn sự hứa nguyện, vì vậy có hơi hướng của một ngày hội tôn giáo (Phuc 23:21-23), vì các của lễ được dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Có điều gì sai khi tổ chức yến tiệc dâng lên cho Đức Giê-hô-va? Áp-sa-lôm đã lợi dụng danh Đức Giê-hô-va để che lấp tội lỗi của mình.


Kỳ công của Áp-sa-lôm là giành được sự ủng hộ của A-hi-tô-phe, vị cố vấn khôn ngoan nhất của Đa-vít; và khi khách khứa nhìn thấy vị cố vấn nầy trong bữa tiệc, họ cảm thấy yên lòng vì mọi việc. Nhưng A-hi-tô-phe không chỉ tham dự bữa tiệc đó thôi, ông còn cấu kết với Áp-sa-lôm nổi dậy chống nghịch vua Đa-vít. Có thể chính A-hi-tô-phe là người đã đạo diễn mọi việc. Xét cho cùng, Đa-vít là người đã xâm hại Bát-sê-ba, cháu của A-hi-tô-phe và đưa chồng nàng vào chỗ chết. (IISa 23:34; ISu 3:5).

Đây là cơ hội tốt để A-hi-tô-phe trả thù Đa-vít. Tuy nhiên, trong khi ủng hộ Áp-sa-lôm, -hi-tô-phe đã khước từ Sa-lô-môn, con trai của Bát-sê-ba và Đa-vít, là đứa con mà Đức Chúa Trời chọn làm vua kế vị. Đồng thời, A-hi-tô-phe đang tự dẫn mình vào chỗ chết, giống Giu-đa, vì ông khước từ vua thật và tự vẫn. (IISa 17:23; Thi 41:9; Thi 55:12-14; Mat 26:21-25; Gi 13:18; Cong 1:16) A-hi-tô-phe đã lừa dối Đa-vít, vua mình và phạm tội cùng Đức Giê-hô-va, là Đấng đã chọn lựa Đa-vít.


Tại sao Áp-sa-lôm quyết định bắt đầu cuộc nổi dậy ở Hếp-rôn? Vì một lý do, nó chính là thủ đô củ của Giu-đa, có lẽ ở đó nhiều người phẫn nộ vì Đa-vít dời thủ đô đến Giê-ru-sa-lem. Áp-sa-lôm sinh ra tại Hếp-rôn và được xem là có bà con thân thuộc với dân cư ở đó. Đối với dân Do-thái Hếp-rôn là một thành phố rất quan trọng về mặt tôn giáo, nó được giao cho các thầy tế lễ và có liện hệ với Ca-lép (Gios 21:8-16).

Cách Giê-ru-sa-lem 20 dặm về phía Tây Nam, Hếp-rôn là thành có tường bao quanh và là thành phố lý tưởng cho ai muốn xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và giành lấy ngai vàng.Với hai trăm viên quan của Đa-vít đang “bị giam” đằng sau các bức tường của Hếp-rôn, lật đổ vua Đa-vít là một chuyện rất đơn giản đối với Áp-sa-lôm.


2. Đa-vít, vua thật của Y-sơ-ra-ên (IISa 15:13-23)

Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe có những người lính kèn và các sứ giả sẵn sàng đợi lệnh, chỉ cần tín hiệu phát ra, tiếng tung hô “Áp-sa-lôm làm vua tại Hếp-rôn!” sẽ vang dậy khắp nơi. Một sứ giả ẩn danh đã kịp báo với Đa-vít để giúp ông bảo toàn mạng sống. Tuy nhiên sự thờ ơ của Đa-vít có thể chỉ là trước đây, ngay tức khắc, vua xông xáo vào cuộc, vì Đa-vít luôn làm hết sức mình trong cơn khủng hoảng.


Đa-vít chịu trách nhiệm (IISa 15:13-16).

Mệnh lệnh chính thức đầu tiên của Đa-vít là bảo gia đình mình, các quan chức và những lính thân cận rời Giê-ru-sa-lem ngay. Nếu Áp-sa-lôm thu phục được toàn bộ dân sự theo ông ta, thì các kẻ thù từ Giu-đa và các chi phái phía bắc sẽ dễ dàng bao vây Giê-ru-sa-lem và không còn đường trốn thoát. Đa-vít biết rằng Áp-sa-lôm có thể giết Am-nôn thì cũng có thể giết các anh em khác, kể cả Đa-vít, là cha của người, nên mọi người cần phải trốn đi.

Hơn nữa, nếu Áp-sa-lôm tấn công Giê-ru-sa-lem, ông ta sẽ giết các cư dân, và như vậy vô cớ mà hàng trăm người vô tội sẽ phải chết. Đa-vít đã liều mạng sống của chính mình và từ bỏ ngai vàng để bảo vệ dân chúng. Những đầy tớ cam kết một lòng trung thành với vua (c.16) và như vậy trở thành những vệ sĩ bên cạnh ông (c.18-22). 10 người vợ lẻ bị bỏ lại để trông coi cung vua sẽ bị Áp-sa-lôm cưỡng đoạt (IISa 16:20-23), một hành động nhằm tuyên bố ông ta đã chiếm được vương quốc của cha mình.


Đa-vít huy động lực lượng (IISa 15:17-22).

Đa-vít và những người theo ông chạy thoát về miền đông bắc, theo hướng ngược với Hếp-rôn tính từ Giê-ru-sa-lem. Khi họ đến ngôi nhà cuối cùng trong vùng ngoại ô Giê-ru-sa-lem, họ dừng lại nghỉ ngơi và Đa-vít hiệu triệu lực lượng của mình. Họ bao gồm những cận vệ riêng của Đa-vít (dân Kê-rê-thít và dân Phê-lê-thít IISa 8:18; IISa 23:22-23) cũng như 600 dân Phi-li-tin từ Gát đã theo Đa-vít và đang được Y-tai chỉ huy (ISa 27:3). Y-tai cam đoan với Đa-vít rằng họ hoàn toàn trung thành với vua. Bằng chứng của lòng trung thành của dân ngoại nầy (c.21)là một trong những lời tuyên xưng đức tin và sự trung thành lớn được tìm thấy trong Kinh Thánh được xếp ngang với đức tin của Ru-tơ (Ru 1:16) và thầy đội người La-mã (Mat 5:13).


Đa-vít khóc (IISa 15:23).

Từ chìa khóa trong câu nầy là “qua”, được dùng 9 lần. Đa-vít và dân chúng qua khe Xết-rôn (c.23), vào mùa đông khe nước nầy chảy rất mạnh về phía đông Giê-ru-sa-lem và muốn đến được núi Ô-li-ve phải băng qua nó, chi tiết nầy nhắc chúng ta về kinh nghiệm của Chúa khi Ngài đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê (Gi 18:1).

Trong chính thời khắc đó, Giu-đa, một trong những môn đồ của Ngài, phản Ngài và sắp xếp cho bọn lính bắt Ngài. Dân sự khóc khi vội vàng chạy trốn và vua cũng khóc với họ, ù có thể vì lý do khác hơn (c.23,30). Chính con trai của vua đã phản bội ông, ùng với những người bạn, vị cố vấn tín cẩn, và dân sự dại khờ, họ đã quên ông đã làm rất nhiều việc cho họ và không biết chuyện gì đang xảy ra. Đa-vít có thể đã cầu nguyện như Chúa Giê-xu đã cầu nguyện trên thập tự giá, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu 23:24).


Đa-vít có cảm giác tội lỗi không khi một lần nữa Áp-sa-lôm, con trai ông, đã xem thường ý muốn Đức Chúa Trời và làm lòng ông tan nát? Hai cha con ông đã giảng hòa, nhưng hoàng tử trẻ tuổi ấy không tỏ ra ăn năn vì tội lỗi của mình, cũng không xin cha hay Đức Chúa Trời tha thứ cho. “Gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi” là điềm gở từ miệng tiên tri của Đức Chúa Trời, và nó đã ứng nghiệm. Con sơ sinh của Bát-sê-ba đã chết, và Am-nôn cũng bị giết. Đa-vít không muốn thêm Áp-sa-lôm phải chết (IISa 18:5), hưng hoàng tử ấy sẽ chết dưới tay Giô-áp, “giá” thứ ba mà Đa-vít phải trả (12:6). A-đô-ni-gia cũng sẽ chết vì kế hoạch chiếm ngôi sớm thất bại (IVua 1:1-53), như vậy món nợ sẽ được trả xong.


Lần thứ hai trong đời Đa-vít phải chạy trốn vào đống vắng để bảo toàn mạng sống. Khi còn trẻ, ông trốn sự ganh ghét của Sau-lơ, và giờ đây ông phải trốn sự độc ác và giả hình của Áp-sa-lôm, on trai mình và A-hi-tô-phe, vị cố vấn của mình. Khi rời Giê-ru-sa-lem, Đa-vít để thành ấy lại trong cuộc tàn sát đẫm máu, nhưng giờ đây ông và gia đình mình đang trong tình cảnh nguy hiểm, tương lai của đất nước và giao-ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít là gì?


3. Giê-hô-va - Vua tối cao của Y-sơ-ra-ên (IISa 15:13-23) (IISa 15:24-16:14)

khi bạn đọc những bài thi-thiên của Đa-vít viết về cảnh lưu lạc, bạn không thể không nhận thấy đức tin của Đa-vít nơi Đức Chúa Trời; dù tình hình có khó khăn và rối ren thế nào, ng cũng quyết tin rằng Đức Giê-hô-va vẫn cai trị trên ngôi của Ngài. Dù cho Đa-vít có sa ngã thế nào, ông vẫn biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ luôn giữ giao ước Ngài và làm trọn lời hứa của Ngài. Thi-thiên 4 có thể là bài ca mà Đa-vít viết cho Đức Chúa Trời ngay đêm đầu tiên ông xa nhà, và Thi-thiên 3 là lời ông cầu nguyện vào sáng hôm sau. Trong Thi-thiên 41 và 55, ông dốc đổ lòng mình với Chúa, và Ngài lắng nghe ông và đáp lời cho ông đúng lúc.

Thi-thiên 61,62 và 63 cho chúng ta thấy rõ tấm lòng hỗn loạn của Đa-vít khi ông cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt và ban sức. Lưu ý mỗi một bài thi thiên trên đều kết thúc bằng lời khẳng định đức tin cách mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời. Ngày nay chúng ta có thể có lòng can đảm và đức tin trong những lúc khốn khó khi chúng ta nhận thấy Đức Chúa Trời đã đáp lời cho Đa-vít và đáp ứng những nhu cầu của ông như thế nào.


Đức Giê-hô-va hiểu rõ đức tin của Đa-vít (IISa 15:24-29). Xa-đốc và A-bia-tha cùng đảm nhiệm chức tế lễ và giúp đem hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem (ISu 15:11), nên họ nghĩ rằng đem hòm giao ước đến cho Đa-vít là việc làm khôn ngoan. Áp-sa-lôm chiếm ngai vàng của cha mình, nhưng các thầy tế lễ không để ông ta có được ngôi của Đức Chúa Trời. Họ gia nhập vào trại của Đa-vít và dắt theo nhiều người Lê-vi theo, A-bia-tha đã dâng của lễ (c.24) và chắc chắn đã cầu xin Đức Chúa Trời và bảo vệ vua.


Nhưng Đa-vít bảo họ đem hòm giao-ước trở về Giê-ru-sa-lem! Ông không muốn ngôi Đức Chúa Trời bị xem là tấm bùa may mắn như trong thời Hê-li khi sự vinh hiển đã rời bỏ Y-sơ-ra-ên (ISa 4:1-22). Áp-sa-lôm và người của ông đang cố gắng biến sự vinh hiển của Đa-vít thành ra sự xấu hổ (Thi 4:2), nhưng ân huệ của Đức Chúa Trời ở trên vua và Ngài sẽ phục hồi ngai vàng cho ông. Đa-vít đã nhìn thấy quyền năng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong nơi thánh của Ngài (Thi 63:2) và ông sẽ nhìn thấy nó bằng đức tin khi lưu lạc trong đồng vắng.

Nhưng thậm chí khi Đức Chúa Trời khước từ lời cầu xin của Đa-vít, vua được chuẩn bị để tiếp nhận ý muốn tối thượng của Đức Giê-hô-va (c.26). Hê-li có nói một câu tương tự (ISa 3:18), nhưng đó là với ý định từ chức, không phải chứng tỏ sự tận tâm. Trong trường hợp của Đa-vít, vua hoàn toàn đầu phục Đức Giê-hô-va và nói: “Nguyện Ngài xử ta theo ý Ngài lấy làm tốt!”


Đức tin không có việc làm là đức tin chết, nên Đa-vít phân công cho hai thầy tế lễ làm tai mắt cho ông tại Giê-ru-sa-lem và báo tất cả tin tức về cho ông, điều đó sẽ giúp ông lên kế hoạch chiến lược cho mình. Con trai của Xa-đốc, A-hi-mát và Giô-na-than, con trai của A-bia-tha sẽ là sứ giả và đem tin tức về cho ông. Đa-vít là một nhà chiến thuật có ân tứ, khi bạn đọc ISa 19:1-28:25, bạn sẽ phát hiện ra rằng ông có một hệ thống thám tử làm việc có hiệu quả, điều nầy giúp ông biết rõ từng bước đi của Sau-lơ. Đa-vít sẽ nhất trí với lời khuyên của Oliver Cromwell, “Hãy đặt lòng tin nơi Đức Chúa Trời, hỡi con, và hãy sẵn sàng ứng phó”. 

Dù Áp-sa-lôm có thể làm gì đối với các quan chức của vua, ông không thể tra tay nơi các thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và người Lê-vi, họ thực hiện nhiệm vụ mình một cách âm thầm. Khi hai thầy tế lễ và các con trai của họ trở về Giê-ru-sa-lem với hòm giao-ước, những người đi theo Áp-sa-lôm phải giải thích hành động của họ khi ủng hộ theo Áp-sa-lôm.


Đức Giê-hô-va nhìn thấy nước mắt của Đa-vít (IISa 15:30). “Kinh Thánh được viết trong nước mắt, và với nước mắt nó sẽ sinh ra những điều quý giá nhất của nó,” A.W. Tozer đã nói. Đa-vít là một người mạnh mẽ và can đảm, nhưng ông không ngại khóc trước mặt nhiều người. (người đàn ông cũng thường khóc, kể cả Chúa Giê-xu và Phao-lô). Trong Thi-thiên 6, chúng ta thấy nước mắt của Đa-vít, rất có thể đây là bài thi thiên viết trong thời gian lưu lạc (c.6-8), cũng như trong Thi 30:5; Thi 39:12; Thi 56:8. “Hỡi kẻ làm ác kia, khá lìa xa ta hết thảy; Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta” (Thi 6:8). “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương:Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi 51:17).


Đa-vít chắc chắn đã khóc rất nhiều, vì những tội lỗi của ông đã gây nên sự đau buồn và chết chóc trong gia đình ông. Am-nôn bị giết, Ta-ma bị hãm hiếp, và giờ đến Áp-sa-lôm con trai của vua đang âm mưu chiến đoạt ngai vàng Y-sơ-ra-ên và cái chết đang chờ ông phía trước. Bạn và là vị cố vấn của Đa-vít, A-hi-tô-phe đã phản bội ông và dân sự là những người Đa-vít đã liều mạng sống mình vì họ, đang xây lưng lại với ông mà đi theo kẻ phản nghịch không bao giờ được Đức Chúa Trời chọn lựa. Nếu có người đàn ông nào có quyền khóc, thì người đó chính là Đa-vít. Giống như con cái không biết vâng lời bị phát vào mông, con người dễ dàng khóc lóc khi họ đang bị trừng phạt vì tội lỗi mình, và thưòng quên đau khi sự trừng phạt ấy qua đi.

Nhưng nước mắt của Đa-vít sâu xa hơn nhiều. Ông không chỉ quan tâm đến sự an toàn của đứa con phản nghịch của mình mà còn sự an ninh của đất nước mình và tương lai của nhiệm mạng đối với thế gian mà Đức Chúa Trời giao cho dân Y-sơ-ra-ên.

Giao-ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít (IISa 7:1-29) đảm bảo với ông rằng ngôi của ông sẽ còn đến đời đời, và điều nầy được ứng nghiệm trong Chúa Cứu Thế; hưng lời hứa ấy cũng ngụ ý rằng Y-sơ-ra-ên sẽ không bị tiêu diệt vì ngọn đèn của Đa-vít chỉ tạm thời bị lu mờ (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IIVua 21:7; Thi 132:17). Đức Chúa Trời sẽ thành tín giữ giao-ước Ngài, và Đa-vít biết rằng ngai của ông sẽ được giữ vững trong bàn tay của Đức Chúa Trời.


Đức Giê-hô-va đáp lời cầu xin của Đa-vít (IISa 15:31-37).

Một sứ giả khác đến trại của Đa-vít và báo tin rằng A-hi-tô-phe đã phản bội ông để theo Áp-sa-lôm (c.12), “Đến đỗi người bạn thân tôi, mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi, cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi” (Thi 41:9).

“Vì chẳng kẻ thù nghịch sỉ nhục tôi; bằng vậy, tôi có thể chịu được … Nhưng chính là ngươi, kẻ bình đẳng cùng tôi, bầu bạn tôi, thiết hữu tôi” (Thi 55:11-14).

Bạn sẽ làm gì khi người bạn tri kỷ của bạn phản bội bạn? Bạn hãy làm như Đa-vít đã làm – bạn hãy cầu nguyện và thờ phượng. “Ôi, Đức Giê-hô-va! Xin làm cho những mưu chước của A-hi-tô-phe ra ngu dại…Đa-vít đã đi đến chót núi, tại nơi người ta thờ lạy Đức Chúa Trời” (c.31).


Và khi Đa-vít nhìn thấy Hu-sai, gười nầy là câu trả lời cho lời cầu nguyện của Đa-vít! Hu-sai được gọi là “bạn hữu của Đa-vít” (c.37 ISu 27:33), điều nầy ngụ ý ông ta là bạn và là người cố vấn đặc biệt cho vua. Ông ta là người Ạt-kít, cho thấy ông ta xuất thân từ nhóm người Ca-na-an và như vậy là người Ngoại bang (Sa 10:17; ISu 1:15). Thành Ạt-kít nằm ờ vùng Sy-ri, cách bắc Đa-mách khoảng hai trăm dặm và cách phía đông biển năm dặm. Những cuộc chinh phục của Đa-vít vượt xa đến miền bắc, và một số người ở đó đã bắt đầu thờ phương Đức Chúa Trời chân thần của Y-sơ-ra-ên và phục vụ vua Y-sơ-ra-ên.


Giống như đã bảo với Xa-đốc, A-bia-tha và hai con trai của họ, Đa-vít bảo Hu-sai trở về Giê-ru-sa-lem để “phục sự”Áp-sa-lôm. Cả năm người nầy đang liều mình vì Đức Giê-hô-va và đất nước của mình, nhưng họ xem việc phục vụ vua và giúp vua khôi phục lại ngai vàng là một vinh dự. Tất cả những người được Đa-vít giao cho những nhiệm vụ đặc biệt có thể nói, “Phàm việc gì vua chúa chúng tôi nhứt định, thì các tôi tớ vua sẽ sẳn sàng làm theo” (c.15). Đây nên là câu trả lời của Cơ-đốc nhân ngày nay khi bày tỏ lòng tận hiến của mình đối với Đấng Christ.


Hu-sai đến Giê-ru-sa-lem ngay khi Áp-sa-lôm đến, và sự nhiệt liệt chào đón vua mới của dân sự đã giúp cho Hu-sai vào thành mà không bị chú ý, hoặc có lẽ ông đã củng cố thêm vị trí của mình bằng cách nhập vào đoàn người. Dĩ nhiên, sau đó Hu-sai đón tiếp vua và thực hiện tất cả những gì ông có thể để ngăn chặn kế hoạch của vua mới và báo tin về cho Đa-vít. Nếu có một điều gì đó tốt hơn sự nhận được câu trả lời cho lời cầu nguyện, thì Hu-sai chính là câu trả lời cho lời cầu nguyện của Đa-vít. Theo cái nhìn của con người, nếu không có Hu-sai bên cạnh cố vấn cho Áp-sa-lôm, Đa-vít chắc đã bị giết ngoài đồng vắng.


Đức Giê-hô-va đáp ứng nhu cầu của Đa-vít (IISa 16:1-4). Khi Đa-vít gặp Hu-sai, đó chính là câu trả lời cho ông, nhưng khi ông gặp Xíp-ba, cuộc gặp gỡ nầy đáp ứng nhu cầu tức thời nhưng sinh ra một vấn đề mà mãi cho đến khi Đa-vít lấy lại ngai vàng mới giải quyết được. Xíp-ba là một trong những người giữ đất cho Sau-lơ, giống như người trông coi Mê-phi-bô-sết, con trai của Giô-na-than (đoạn 9).

Biết rằng Xíp-ba là một người cơ hội với những động cơ không tốt, Đa-vít nghi ngờ sự hiện diện của Xíp-ba, những lễ vật của ông ta và sự vắng mặt của Mê-phi-bô-sết, gười được Đa-vít chăm sóc. Xíp-ba đã dẫn theo một đàn lừa cho Đa-vít và gia đình ông sử dụng, cũng như nhiều bánh mì, rượu và trái cây. Những lễ vật nầy rất cần thiết và có giá trị, nhưng Đa-vít quan tâm đến động cơ đằng sau chúng.


Xíp-ba nói dối với vua và cố hết sức làm mất thể diện Mê-phi-bô-sết, người chủ trẻ của mình. Đa-vít đang mệt mỏi và bị tổn thương sâu sắc trong lòng, đây không phải là lúc tốt nhất để ông đưa ra những quyết định khôn ngoan. Ông chấp nhận những lời dối gạt của Xíp-ba sau nầy lời đó bị nghi ngờ (IISa 19:26-27) và đưa ra quyết định vội vàng đó là ban cho Xíp-ba những của cải mà đúng ra thuộc về Mê-phi-bô-sết. “Trả lời trước khi nghe, ấy là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm vậy” (Ch 18:13).

Những người lãnh đạo của Đức Chúa Trời phải luôn thận trọng để không đưa ra những quyết định thiếu khôn ngoan dựa vào những thông tin không đầy đủ.


Đức Giê-hô-va tôn cao sự đầu phục của Đa-vít (IISa 16:5-14).

Qua lời dối trá của Xíp-ba, Sa-tan tấn công Đa-vít như con rắn phỉnh gạt (IICo 11:3; Sa 3:1-7), và sau đó qua miệng lưỡi của Si-mê-i, Sa-tan đến như con sư tử cắn xé (IPhi 5:8). Xíp-ba nói dối và Si-mê-i đã ném đá, cả hai cùng gây khó khăn cho Đa-vít. Vua Đa-vít giờ đây đang ở Ba-hu-rim thuộc chi phái Bên-gia-min, nơi lực lượng ủng hộ Sau-lơ vẫn còn hùng mạnh.

Si-mê-i ở trên đồi đối ngang Đa-vít và đứng trên chỗ cao hơn Đa-vít, và như vậy ông ta dễ dàng ném đá và hất bụi đất lên Đa-vít và những người theo ông. Đa-vít mệt mỏi và chán chường, nhưng ông không bao giờ phẫn nộ trả miếng lại khi ông để cho Si-mê-i tiếp tục công kích mình. A-bi-sai chỉ muốn lên đồi và giết chết người đang công kích vua, nhưng Đa-vít không cho phép. A-bi-sai cũng từng muốn giết Sau-lơ trong trại Y-sơ-ra-ên (ISa 26:6-8). Và ông đã giao cho Giô-áp, em trai mình, nhiệm vụ giết Áp-ne (IISa 3:30), nên Đa-vít biết rằng không nên xem nhẹ những lời ông ta nói.


“Ớ người huyết, người gian tà kia! Hãy đi nà, hãy đi nà!”, Si-mê-i la lớn tiếng như vậy, nhưng Đa-vít không trả đủa. Si-mê-i đang đổ lỗi cho Đa-vít về cái chết của Sau-lơ và các con trai Sau-lơ, vì xét cho cùng, khi họ chết, Đa-vít chính thức ở trong đội quân Phi-li-tin.Việc Đa-vít ở cách xa chiến trường vài dặm khi họ ngã xuống dường như không là vấn đề đối với Si-mê-i. Người Bên-gia-min nầy có lẽ đã đổ tội cho Đa-vít về cái chết của Ích-bô-sết, là người thừa kế ngai vàng của Sau-lơ, và về cái chết của Áp-ne, quan tổng binh của vua, dĩ nhiên cũng có cái chết của U-ri, người Hê-tít.

“Chính ngươi bị hoạn nạn, bởi vì ngươi là một người huyết” (c.8). Si-mê-i đang vi phạm luật pháp trong khi tuôn ra những lời căm phẫn đối với Đa-vít, vì Xu 22:28 có chép, “Ngươi chớ nên nói lộng ngôn cùng Đức Chúa Trời, và cũng đừng rủa sả vua chúa của dân sự ngươi”.


Thái độ của Đa-vít là thái độ đầu phục vì ông chấp nhận lời rủa sả của Si-mê-i như là hình phạt từ tay Đức Chúa Trời. Đa-vít đã tuyên bố rằng ông sẽ chấp nhận mọi hình phạt từ Đức Chúa Trời giáng trên ông (IISa 15:26), và giờ đây ông chứng minh cho lời nói đó. khi Đa-vít biết rằng ông là người phạm tội tà dâm và tội giết người, là một người đáng phải chết, nhưng Đức Chúa Trời đã để ông sống, vậy thì lý do gì ông lại than phiền về những lời rủa sả và hành động sỉ nhục đó?

Và nếu Áp-sa-lôm, con trai của Đa-vít, ra tay giết ông, thì lý do gì người xa lạ nầy lại bị phạt vì những lời nói phạm đến vua và ném đá vào vua? Đa-vít có đức tin rằng sẽ có một ngày Đức Chúa Trời phán quyết công bình và gìn giữ những người như Áp-sa-lôm và Si-mê-i. Có lẽ Đa-vít đang nghĩ đến Phuc 32:35 “Sự báo thù sẽ thuộc về ta, phần đối trả sẽ qui về ta” (Ro 14:17-21). Khi Đa-vít khôi phục được ngai vàng, ông đã tha thứ cho Si-mê-i (IISa 19:16-23) và sau đó Sa-lô-môn giam lỏng ông tại Giê-ru-sa-lem. Khi ngạo mạn Si-mê-i bước ra khỏi giới hạn đó, ông đã bị bắt và xử tử (IVua 2:36-46).


Đa-vít và những người theo ông đi qua Bê-hu-rim khoảng 20 dặm đến chỗ cạn của sông Giô-đanh, có lẽ gần Ginh-ganh hoặc Giê-ri-cô, và họ nghỉ ngơi tại đó. Ngay sáng hôm sau họ băng qua sông và đến Ma-ha-na-im (IISa 17:22,24), nơi Gia-cốp sửa soạn gặp lại Ê-sau và vật lộn với Đức Chúa Trời (Sa 32). Có lẽ Đa-vít nhớ sự kiện đó và lấy lại can đảm khi ông nghĩ về đội binh thiên sứ mà Đức Chúa Trời sai đến bảo vệ Gia-cốp.


Sự khốn khổ nầy đã làm được điều gì cho Đa-vít? Nó khiến ông trở nên giống Chúa Cứu Thế Giê-xu hơn!Ông bị dân sự mình khước từ và bị bạn thân mình phản bội. Ông đã làm mọi việc cho dân sự và từ bỏ chính mình để cứu đứa con trai chống nghịch đáng phải chết mất. Giống như Chúa Giê-xu, Đa-vít đã đi qua Xếp-rôn và lên núi Ô-li-ve. Ông đã bị vu oan và bị sỉ nhục, nhưng ông đầu phục ý muốn tối thượng của Đức Chúa Trời. “Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình;” (IPhi 2:23).


Đa-vít đã mất ngai vàng của mình, nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời vẫn ở trên ngôi của Ngài và sẽ giữ lời hứa của Ngài với tôi tớ Ngài. Thành tín với giao ước của Ngài, Đức Giê-hô-va nhớ đến Đa-vít và tất cả những khổ nạn mà ông gánh chịu (Thi 132:1), và ngày nay Ngài luôn nhớ đến chúng ta.


 Đức Giê-hô-va đáp ứng nhu cầu của Đa-vít (IISa 16:1-4).

Khi Đa-vít gặp Hu-sai, đó chính là câu trả lời cho ông, nhưng khi ông gặp Xíp-ba, cuộc gặp gỡ nầy đáp ứng nhu cầu tức thời nhưng sinh ra một vấn đề mà mãi cho đến khi Đa-vít lấy lại ngai vàng mới giải quyết được. Xíp-ba là một trong những người giữ đất cho Sau-lơ, giống như người trông coi Mê-phi-bô-sết, con trai của Giô-na-than (đoạn 9).

Biết rằng Xíp-ba là một người cơ hội với những động cơ không tốt, Đa-vít nghi ngờ sự hiện diện của Xíp-ba, hững lễ vật của ông ta và sự vắng mặt của Mê-phi-bô-sết, người được Đa-vít chăm sóc. Xíp-ba đã dẫn theo một đàn lừa cho Đa-vít và gia đình ông sử dụng, ũng như nhiều bánh mì, rượu và trái cây. Những lễ vật nầy rất cần thiết và có giá trị, nhưng Đa-vít quan tâm đến động cơ đằng sau chúng.


Xíp-ba nói dối với vua và cố hết sức làm mất thể diện Mê-phi-bô-sết, người chủ trẻ của mình. Đa-vít đang mệt mỏi và bị tổn thương sâu sắc trong lòng, đây không phải là lúc tốt nhất để ông đưa ra những quyết định khôn ngoan. Ông chấp nhận những lời dối gạt của Xíp-ba sau nầy người lời đó bị nghi ngờ (IISa 19:26-27) và đưa ra quyết định vội vàng đó là ban cho Xíp-ba những của cải mà đúng ra thuộc về Mê-phi-bô-sết.

“Trả lời trước khi nghe, ấy là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm vậy” (Ch 18:13). Những người lãnh đạo của Đức Chúa Trời phải luôn thận trọng để không đưa ra những quyết định thiếu khôn ngoan dựa vào những thông tin không đầy đủ.

-IISa 15:24-37; xem giải nghĩa IISa 15:13-23.

-IISa 16:1-14; xem giải nghĩa IISa 15:13-23.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page