top of page
8. CHIẾN THẮNG, VUI BUỒN LẪN LỘN CỦA ĐA-VÍT (IISa 16:15-18:33)
Khi...
...Ngài tổng thư ký Douglass MacArthur đứng trước Quốc hội Mỹ vào ngày 19 thánh 4 năm 1951, ông đã nói một câu rất nổi tiếng, “Trong chiến tranh không có gì thay thế cho chiến thắng”.
Nhưng không phải một vị tướng giỏi giữ được đội quân được trang bị là giành được thắng lợi, thật sự không ai chiến thắng trong chiến tranh, tại sao? Vì giá của nó rất đắt. Cứ mỗi chữ trong sách của Hitler, Mein Kampt, có 125 người chết trong Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Trong cái nhìn về vũ khí hạt nhân trong thời hiện đại, không ai có thể “thắng” trong Chiến Tranh Thế Giới thứ ba.
Đội quân của Đa-vít và đội quân của Áp-sa-lôm sắp sửa vướng vào cuộc nội chiến mà dù cha hay con đều không thể “chiến thắng”, nhưng cả hai đều sẽ thua. Nếu Đa-vít thắng, có nghĩa là con trai và bạn ông, Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe phải chết; nếu Áp-sa-lôm thắng, có nghĩa là Đa-vít và những người khác trong gia đình ông sẽ chết. Trong từ ngữ hiện đại, nó là tình trạng “chiến thắng chua cay” trong từ ngữ cổ, nó là “chiến thắng với giá quá đắt”
Áp-sa-lôm tin vào sức hút của mình, danh tiếng của mình, quân đội của mình và sự khôn ngoan của A-hi-tô-phe, nhưng Đa-vít tin nơi Đức Giê-hô-va. “Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy nghe tiếng kêu của tôi, lắng nghe lời cầu nguyện tôi. Khi tôi cực lòng, tôi sẽ kêu cầu cùng Chúa từ nơi cực địa; Xin hãy dẫn tôi lên hòn đá cao hơn tôi” (Thi 61:1-2)
Đa-vít đã kinh nghiệm được gì qua những ngày khốn khó nầy?
1. Ngôi Đa-vít bị chiếm đoạt (IISa 16:15-23)
Phân đoạn nầy là một bài tường thuật, nó bị xen vào ở IISa 15:37 nên chúng ta có thể biết được về sự trốn thoát của Đa-vít và sự chạm mặt giữa ông với Xíp-ba và Si-mê-i. Nhờ sự trốn thoát mau lẹ của Đa-vít, mà cuộc nổi loạn của Áp-sa-lôm không gây đổ máu và dễ dàng chiếm được Giê-ru-sa-lem, đó là điều Đa-vít muốn (IISa 15:14). Không giống Áp-sa-lôm, Đa-vít có tấm lòng của người một chăn, ông nghĩ đến lợi ích của dân sự trước hết (IISa 24:17; Thi 78:70-72).
• Hu-sai chiếm được lòng tin của Áp-sa-lôm (IISa 16:16-19).
Hu-sai nhanh chóng có chân trong bộ máy chính quyền và chính thức được diện kiến vị vua mới. Ông ta không muốn Áp-sa-lôm nghĩ mình là một thám tử, dù ông đúng là như vậy. Ông là người của Đức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem để vô hiệu hóa lời khuyên của A-hi-tô-phe. Chắc chắn Áp-sa-lôm không ngạc nhiên khi thấy vị cố vấn của cha mình ở Giê-ru-sa-lem, nhưng lời chào mai mỉa của ông không làm Hu-sai buồn lòng. Những lời Hu-sai nói với Áp-sa-lôm phải được suy gẫm thật cẩn thận nếu không chúng sẽ gây hiểu lầm.
Hu-sai chào Áp-sa-lôm với thái độ kính trọng thường thấy, “Vua vạn tuế! Vua vạn tuế!”, nhưng ông ta không nói “vua Áp-sa-lôm”; Trong lòng ông ta, ng ta muốn ám chỉ vua Đa-vít, nhưng vị vua mới không hiểu những gì Hu-sai nói.Trong sự kiêu căng của mình, Áp-sa-lôm nghĩ Hu-sai đang gọi ông là vua. Một lần nữa, chúng ta thấy Hu-sai không đề cập tên của Áp-sa-lôm hay nói rằng ông ta sẽ phục sự vua mới. Trong câu 18, Hu-sai đang nói về Đa-vít, vì Đức Giê-hô-va không bao giờ chọn Áp-sa-lôm làm vua Y-sơ-ra-ên; và Hu-sai không hứa phục sự Áp-sa-lôm, nhưng phục sự con trai Đa-vít. Nói cách khác, Hu-sai đang ra mắt Áp-sa-lôm, nhưng ông sẽ phục sự Đức Giê-hô-va và Đa-vít. Một Áp-sa-lôm kiêu ngạo hiểu rằng lời của Hu-sai ám chỉ đến ông ta, và nhận Hu-sai làm người cố vấn thứ hai của mình. Quyết định nầy thuộc về Đức Chúa Trời và mở đường cho sự thất bại của Áp-sa-lôm.
• Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe (IISa 16:20-23).
Áp-sa-lôm có hai nhiệm vụ quan trọng để thực hiện trước khi ông có thể cai trị vương quốc Y-sơ-ra-ên. Thứ nhất, ông phải chiếm được ngai vàng của cha và cho mọi người biết ông chính thức là vua. Không giống Đa-vít cha mình, là người thường tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời qua U-rim và Thu-mim hay qua tiên tri, Áp-sa-lôm tin vào kinh nghiệm và sự khôn ngoan của con người và theo quan điểm của con người, A-hi-tô-phe là một trong số những người giỏi nhất. Tuy nhiên, A-hi-tô-phe không tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời ông cũng không thích ý muốn Đức Chúa Trời. Mục đích chính của ông là trả thù Đa-vít vì có tội với Bát-sê-ba, cháu gái của ông, và U-ri người Hê-tít, chồng nàng.
Theo thông lệ, vua mới sẽ thừa hưởng những người vợ và hậu cung của vua tiềm nhiệm, nên khi Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe, ông đã xưng mình là vua Y-sơ-ra-ên (IISa 3:7; IISa 12:8; IVua 2:22). Qua việc lấy những vợ lẻ của cha, Áp-sa-lôm đã làm mình trở thành kẻ thù của cha và cắt đứt mọi nhịp cầu giải hòa có thể có. Vị vua mới nói với những người theo mình rằng sẽ không có con đường quay đầu lại và cuộc cách mạng sẽ tiếp tục. Nhưng ông ta cố ý làm nhiều hơn điều đó: ông làm ứng nghiệm lời của tiên tri Na-than, đó là những người vợ của Đa-vít sẽ bị sỉ nhục nơi công khai (IISa 12:11-12). Đa-vít đi dạo trên nóc cung điện thì nổi lòng ham muốn Bát-sê-ba (IISa 11:2-4), và đó cũng là nơi những người vợ của Đa-vít sẽ chịu sỉ nhục.
2. Lời cầu xin của Đa-vít được nhậm (IISa 17:1-28)
Đạt được mục đích thứ nhất của mình và tiếp quản vương triều, Áp-sa-lôm phải giải quyết đến vấn đề thứ hai là đảm bảo rằng Đa-vít và những người theo ông không quay về và lấy lại ngai vàng. Giải pháp nầy đơn giản nhưng quyết liệt: ông phải tìm và giết cha mình. Để tìm sự hướng dẫn, Áp-sa-lôm đã quay sang nhờ những người cố vấn giúp đỡ.
• Lời khuyên của Hu-sai chiếm ưu thế (IISa 17:1-14). Thành thật mà nói, nếu Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe, Đa-vít sẽ bị giết và vấn đề của Áp-sa-lôm được giải quyết. Nhưng Đa-vít đã cầu nguyện xin Chúa khiến cho lời khuyên trở nên ngu ngốc (IISa 15:31), và Đức Chúa Trời dùng Hu-sai để làm việc đó. Lưu ý rằng A-hi-tô-phe đặt chính mình ở phía trước và ngay trung tâm bằng cách dùng những cụm từ như, “Xin cho phép tôi chọn mười hai … Tôi sẽ kéo ra đuổi … Tôi sẽ xông vào …” vân vân.
Ông ta muốn làm quan tổng binh của đội quân vì ông muốn đích thân giết chết vua Đa-vít, kẻ thù mình. Kế hoạch của ông ta là một kế hoạch tốt: dùng một đội quân nhỏ, có thể di chuyển nhanh, đột ngột tấn công vào ban đêm, và giết chết Đa-vít là mục tiêu lớn của ông ta. Sau đó A-hi-tô-phe sẽ dẫn những người theo Đa-vít trở về và họ sẽ thề trung thành với vị vua mới. Đó sẽ là một chiến thắng nhanh chóng và không phải đổ nhiều máu.
Hu-sai không có mặt lúc A-hi-tô-phe vạch ra kế hoạch của ông ta, nên Áp-sa-lôm gọi Hu-sai đến và nói cho ông biết những gì A-hi-tô-phe đã nói. Được sự hướng dẫn từ Đức Chúa Trời, u-sai đưa ra giải pháp hoàn toàn khác và đánh vào cái tôi của vị vua trẻ. Lời của Hu-sai không có hàng loạt nhưng từ “tôi sẽ…” tập trung vào bản thân mình nhưng với hàng loạt những câu tập trung vào vị vua mới nhằm kích động trí tưởng tượng của vua và thổi phồng cái tôi của vua. Hu-sai đã giăng một cái bẫy hiệu quả bằng môi miệng mình, và Áp-sa-lôm đã rơi vào đó.
Thứ nhất, Hu-sai giải thích tại sao “lần nầy” lời khuyên của A-hi-tô-phe không khôn ngoan, mặc dù nó là khôn ngoan trong những lúc khác (c.7-10). Khi chỉ tập trung vào việc giết Đa-vít, Áp-sa-lôm biết rằng cha mình là một nhà chiến thuật vĩ đại và là một chiến binh tài giỏi, bên cạnh ông là những binh lính dày dạn kinh nghiệm và can đảm. Tất cả những người đó đang rất phẫn nộ vì phải bỏ nhà cửa mình mà chạy trốn. Họ giống như con gấu cái mất con. (Hu-sai là chuyên gia về cách nói ẩn dụ!). Hơn nữa, Đa-vít rất thông minh, ông ta sẽ ẩn mình nơi an toàn nên không thể bị mắc bẫy.
Những người của ông sẽ bảo vệ ông và phục kích giết chết những ai dám đến gần. Đội quân của Đa-vít rất có kinh nghiệm trận mạc nên không hề bị bất ngờ trước những cuộc tấn công đột ngột. Một cuộc tấn công bất ngờ với lực lượng nhỏ sẽ không là kế hoạch tốt. Nếu đội quân xâm lược bị đẩy lùi, lời đồn sẽ lan ra rằng đội quân của Áp-sa-lôm đã thất bại, và tất cả lính của ông đã bỏ trốn. Áp-sa-lôm rồi sẽ kết thúc triều đại của mình trong cảnh rối loạn hàng ngũ.
Và Hu-sai vạch ra kế hoạch nhằm giải quyết những khó khăn đó. Thứ nhất, vị vua mới phải đích thân lãnh đạo đội quân, và đó phải là đội quân lớn nhất mà ông ta có thể triệu tập được “từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba”. Đề xuất nầy hấp hẫn cái tôi bị thổi phồng của Áp-sa-lôm, và trong sự tưởng tượng của mình ông ta có thể nhìn thấy chính mình đang dẫn đầu một đội quân đại thắng. Dĩ nhiên, ông ta không phải là một chiến binh dày dạn, nhưng điều đó có ảnh hưởng gì? Thật đây là cách tốt nhất để mở đầu thời trị vì! Áp-sa-lôm không dừng lại để nghĩ đến việc ông phải dành thời gian để tập trung lực lượng “từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba”, trong lúc đó Đa-vít có thể vượt qua sông Giô-đanh và “thoát đi”.
Với một đội quân lớn như vậy dưới sự lãnh đạo của mình, Áp-sa-lôm không phải dựa vào sự tấn công bất ngờ và khó khăn nhưng có thể “đáp trên” quân của Đa-vít trong một vùng rộng lớn, như sương sớm sa xuống đất. Quân Đa-vít chạy đến đâu đều gặp phải quân của Áp-sa-lôm và sẽ không còn đường trốn thoát.
Thay vì giữ lại lính của Đa-vít, quân của Áp-sa-lôm sẽ xóa sổ họ để họ không thể gây phiền nhiễu được nữa. Nhận thấy Áp-sa-lôm lo lắng về yêu tố thời gian, Hu-sai trình bày ý kiến phản đối của mình trong câu 13. Nếu trong thời gian chờ đợi tập trung lực lượng mà nghe tin Đa-vít đã dẫn quân của ông vào thành có tường bao quanh thì nhiệm vụ sẽ càng dễ dàng hơn. Cả đất nước sẽ nghe theo lời của vua mới và hợp cùng nhau bao vây thành đó, và giết sạch không chừa một ai. Thật là một minh họa hùng hồn!
Kế hoạch đơn giản của A-hi-ô-phe đã bị quên lãng, khi kế hoạch lớn của Hu-sai, được nhấn mạnh với những hình ảnh sống động, lôi cuốn được trái tim, tâm trí của Áp-sa-lôm và những người lãnh đạo trong triều. Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu xin của Đa-vít và khước từ lời khuyên của A-hi-tô-phe. Áp-sa-lôm sẽ cầm đầu đội quân, mê mãi với chiến thắng, nhưng ông ta sẽ thất bại nhục nhã. “Đức Giê-hô-va làm bại mưu các nước, khiến những tư tưởng các dân tộc ra hư không. Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời, ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi 33:10-11).
• Bộ máy dọ thám của Đa-vít đã hoạt động (IISa 17:15-22).
Đa-vít và những người theo ông đóng trại tại những chỗ cạn của sông Giô-đanh, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 20 dặm, và hai người báo tin đang chờ sẵn tại Ên-rô-ghên trong trũng Xếp-rôn, cách Giê-ru-sa-lem chưa đến 1 dặm. Hu-sai đưa tin cho hai thầy tế lễ nầy và bảo họ nói với Đa-vít hãy vượt qua sông Giô-đanh càng sớm càng tốt. Ông đã không trì hoãn.
Nếu Áp-sa-lôm thay đổi ý kiến và nghe theo kế hoạch của A-hi-tô-phe, thì tất cả đã có thể thoát được hết. Xa-đốc và A-bia-tha nói với một đầy tớ gái khuyết danh; ông ta đem tin về cho Giô-na-than và A-hi-mát, họ chạy vội về nhà của một người ở Ba-hu-rim cách đó 1 dặm đường. Tuy nhiên, một người trai trẻ đã nhìn thấy họ và nhận ra họ là các con trai của các thầy tế lễ. Muốn gây ấn tượng cho vị vua mới, anh ta đã kể cho Áp-sa-lôm nghe những chuyện đang xảy ra, và lính của Áp-sa-lôm đã đuổi theo hai người ấy.
Trong thời điểm nầy, tình tiết giống như trong câu chuyện về hai thám tử được chép trong Giô-suê. Ra-háp đã giấu hai thám tử dưới những nhánh cây khô trên mái nhà. Vợ của một người Ba-hu-rim đã giấu hai người báo tin nầy dưới cái giếng, rồi trải mền lên miệng giếng và phơi lúa mạch trên đó. Không ai ép buộc người phụ nữ ấy hợp tác với kế hoạch gian ác của của Áp-sa-lôm, cô ta chỉ quân lính đi sai đường và hai người được thoát nạn. Hai người đến trại của Đa-vít, báo tin cho ông và giục ông vượt qua sông Giô-đanh ngay, Đa-vít đã làm theo như vậy. Quân lính trở về với hai bàn tay trắng, nhưng Áp-sa-lôm không xem thất bại của họ là nghiêm trọng. Ông ta thật sai lầm!
• A-hi-tô-phe kết liễu mạng sống mình (IISa 17:23).
Tại sao? Có phải vì Áp-sa-lôm làm tổn thương ông vì không nghe theo lời ông? Không phải vậy, vì ông ta biết rằng lời khuyên của Hu-sai sẽ dẫn đến thất bại cho Áp-sa-lôm, và A-hi-tô-phe đang phục sự một vị vua sai lầm. Là kẻ phản bội Đa-vít, A-hi-tô-phe hoặc sẽ bị giết chết hoặc sẽ bị trục xuất khỏi đất nước vĩnh viễn. Thay vì làm bản thân mình và gia đình mình chịu sỉ nhục, ông ta tự sắp xếp số phận của mình và đã tự treo cổ. Tình tiết nầy nhắc chúng ta nhớ đến chuyện của Giu-đa (Mat 27:5) và hai bài thi thiên của Đa-vít (Thi 41:9; Thi 55:12-15; Gi 13:18). Trong Công-vu 1:15-22, Phi-e-rơ cho rằng có hai bài thi-thiên khác có liên quan đến Giu-đa (Thi 69:25; Thi 109:8).
A-hi-tô-phe là đầy tớ trung thành của vua và đất nước cho đến khi ông ta nuôi ý định trả thù Đa-vít vì việc Đa-vít làm với Bát-sê-ba và U-ri. Mong muốn trả thù ám ảnh đến nổi ông ta không còn là một đầy tớ trung thành của Đức Chúa Trời mà bắt đầu phục vụ cho những mong muốn tội lỗi của chính mình. Ông ta biết những tham vọng của Áp-sa-lôm nhưng đã giấu Đa-vít, và hợp tác với Áp-sa-lôm ngay trong triều đình. Nhưng bằng sự khôn ngoan của mình, A-hi-tô-phe đang phục sự cho vị vua sai lạc, và Đức Giê-hô-va phải trừng phạt ông ta. Cả A-hi-tô-phe và Áp-sa-lôm điều bị treo trên cây mà chết. Thật bi thảm cho những ai từng là một tấm gương sáng và có đời sống ích lợi nhưng kết thúc cuộc đời trong hổ thẹn. Có những người trẻ tuổi ngu dại cũng có những người già rồi vẫn ngu dại, A-hi-tô-phe là một trong những người đó. Tất cả chúng ta cần cầu nguyện xin Chúa giúp để chúng ta có một kết thúc tốt đẹp cho cuộc đời mình.
• Bạn bè quan tâm đến Đa-vít (IISa 17:24-29).
Đa-vít và những người theo ông băng qua sông đến Ma-ha-na-im, thủ đô cũ của 10 chi phái khi Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ, làm vua (IISa 2:8). Chính tại Ha-ma-na-im Gia-cốp đã gặp đội binh thiên sứ của Đức Chúa Trời được sai đến để bảo vệ ông (Sa 32:1-22), nhưng Đa-vít không có khải tượng nào giống như vậy. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thường dùng những con người để giúp các đầy tớ Ngài, và lần nầy những người đó là Sô-bi, Ma-ki và Bát-xi-lai. Họ cung cấp lương thực cho vua và những người theo vua vì biết đây là những người đáng cho họ quan tâm chăm sóc. Đức Chúa Trời dọn bàn cho Đa-vít khi các kẻ thù của ông đang tiến gần (Thi 23:5).
Quân của Áp-sa-lôm chịu dưới sự chỉ huy của A-ma-sa, cháu của Đa-vít và anh em họ của Giô-áp (c.25). Dĩ nhiên, Áp-sa-lôm là người cầm quân chính (IISa 17:11). Thật đáng buồn thay khi con nghịch cùng cha, cậu nghịch cùng cháu, anh em nghịch cùng nhau và dân cùng một nước tranh chiến với nhau. Chiến tranh đã quá bi thảm, nội chiến càng bi thảm hơn. Áp-sa-lôm và quân của ông ta vượt qua sông Giô-đanh, định sẽ chạm trán với quân của Đa-vít ở đâu đó gần khu rừng ở Ép-ra-im, ách tây bắc Ha-ma-na-im khoảng 3 dặm. Rừng Ép-ra-im có thể được đặt tên bởi những người Ép-ra-im băng qua sông và cư trú ở bờ tây trong vùng Ga-la-át.
3. Con trai Đa-vít bị giết chết (IISa 18:1-18)
Biết kẻ thù sắp đến, Đa-vít đếm số quân của mình và chia thành 3 toán, rồi chọn Giô-áp, A-bi-sai và Y-tai làm ba người chỉ huy của ba toán đó. Dù Áp-sa-lôm và A-ma-sa có dùng cách đánh gì đi nữa, lính của Đa-vít cũng có thể theo đúng kế hoạch mà hỗ trợ nhau.
Đa-vít đã xung phong ra trận cùng lính của mình, nhưng dân chúng khuyên ông hãy ở nơi an toàn trong thành có tường bao bọc. (IISa 21:15-17, xảy ra đã lâu trước khi Áp-sa-lôm phản nghịch).
“Vua bằng một vạn chúng tôi”, dân chúng đã nói như vậy. Họ biết quân của Áp-sa-lôm sẽ đuổi theo vua và không quan tâm đến quân lính. Nếu Đa-vít ở trong thành, ông có thể gởi quân tiếp viện khi cần. Đa-vít nghe theo quyết định của họ, dù sao ông cũng không muốn trực tiếp đánh nhau với con trai mình.
Nhưng ông cũng không muốn quân lính chiến đấu với con trai ông! Áp-sa-lôm đã đứng trước cổng thành Giê-ru-sa-lem và tấn công cha mình (IISa 15:1-6) giờ đây Đa-vít đứng trước cổng thành và chỉ huy binh lính nhân nhượng cho Áp-sa-lôm. Chắc chắn Áp-sa-lôm không nhân nhượng cho cha mình! Ông ta đã giết Am-nôn, đánh đuổi Đa-vít ra khỏi Giê-ru-sa-lem, chiếm ngôi của Đa-vít, cưỡng hiếp vợ lẻ của Đa-vít, và bây giờ đang muốn ra tay giết Đa-vít.
Dường như đó không phải là loại người bạn muốn bảo vệ, nhưng nếu Đa-vít có phạm một sai lầm, thì sai lầm đó là ông đã quá nuông chiều con cái (IVua 1:5-6; ISa 3:13). Nhưng trước khi chúng ta phê phán Đa-vít, chúng ta phải nhớ rằng Đa-vít là người vừa lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy biết ơn vì Cha chúng ta ở trên trời không đối đãi chúng ta theo tội lỗi của chúng ta (Thi 103:1-14).
Trong ân điển của Ngài, Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta không đáng nhận được, và trong lòng nhân từ thuơng xót của Ngài, gài không giáng trên chúng ta những điều chúng ta đáng phải gánh chịu. Chúa Giê-xu không đáng phải chết, vì Ngài là vô tội; nhưng Ngài đã gánh hình phạt thay cho chúng ta. Ngài là Cứu Chúa của chúng ta!
Trận đánh lan tràn khắp vùng và nhiều binh lính đã ngã xuống vì khu rừng dày đặc. Chúng ta không biết mỗi bên có bao nhiêu binh lính ngã xuống, nhưng có thể đến 10 ngàn lính của Áp-sa-lôn tử trận. Cả gươm đao và khu rừng đã ăn tươi nuốt sống quân lính (Phép ẩn dụ nầy đã được sử dụng trong IISa 1:22; IISa 2:26). Nhưng Đức Chúa Trời không cần gươm để ngăn Áp-sa-lôm phản nghịch; Ngài chỉ dùng một nhành cây! Cái đầu tóc của ông ta góp phần gì cho tai nạn ấy không được chép lại, nhưng thật buồn cười là cái mà ông từng tự hào đã trở thành phương tiện giết chết ông. Thật vậy, sự kiêu ngạo dẫn đến sự đoán phạt. Một ví dụ khác là Sam-sôn (Cac 16:1-31).
“Ngài bắt kẻ khôn ngoan trong chước móc họ, mưu kế của kẻ quỷ quái bèn bị bại” (Giop 5:13).
Quân lính nhìn thấy Áp-sa-lôm bị treo trên cây thì không dám chạm vào, nhưng Giô-áp phải thực hiện phần việc của mình. Chính Giô-áp là người sắp xếp cho Đa-vít và Áp-sa-lôm giải hòa và giờ đây Giô-áp bỏ qua lệnh của Đa-vít và giết chết Áp-sa-lôm. Áp-sa-lôm không nghe theo kế hoạch của A-hi-tô-phe là “chỉ giết một mình vua”, nhưng Giô-áp làm theo điều đó! Có một ý trong câu 11, đó là Giô-áp ra giá thưởng cho ai giết chết Áp-sa-lôm.Người lính không chịu giết Áp-sa-lôm để nhận thưởng vì hai lý do: anh ta không muốn cãi lệnh vua, và ông không chắc Giô-áp có bảo vệ anh ta hay không khi vua phát hiện ra việc đó.
Xét cho cùng, Đa-vít đã từng giết chết người đã báo cho ông rằng Sau-lơ đã chết (IISa 1:1-16) cũng như giết hai người đã giết chết Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ (IISa 4:1), người lính ấy biết rằng Giô-áp không muốn bị vướng vào chuyện ra lệnh giết con trai vua trong khi vua ra lệnh ngược lại. Cái chết của Áp-sa-lôm đặt dấu chấm hết cho cuộc nội chiến và phản loạn, như vậy Giô-áp cho quân mình rút về.
Cả Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe đều chết trên cây, đối với người Y-sơ-ra-ên, treo mình trên cây là bằng chứng cho thấy cái chết đó bị Đức Chúa Trời rủa sả (Phuc 21:22-23; Ga 3:13). Khi bạn xét lại những tội mà hai người nầy đã phạm, thì có ngạc nhiên không khi họ bị Đức Chúa Trời rủa sả? Tuy nhiên trong ân điển Ngài, Đức Chúa Trời đã tha thứ cho Đa-vít với tội trạng tương tự và cho ông được sống. Có lúc, Áp-sa-lôm là người nổi tiếng nhất trong nước, nhưng cuối đời xác ông được chôn trong hố giữa rừng và bên trên là một đống đá lớn. Hình như ba con trai của Áp-sa-lôm đều chết (IISa 14:27), nên không còn ai trong gia đình ông lưu giữ danh ông ta; vì thế ông đã dựng một cái bia để lưu danh của chính mình (c.18). Bia ban đầu không còn nữa, là phần mộ của Áp-sa-lôm, như được gọi, mà chúng ta thấy ngày nay ở trũng Xếp-rôn có từ thời Hê-rốt. “Kỷ niệm người công bình được khen ngợi; song tên kẻ gian ác rục đi” (Ch 10:7).
4. Lòng Đa-vít tan nát (IISa 18:9-32)
Chiến tranh qua đi và cuộc phản loạn đã được dập tắt. Tất cả những việc còn lại là của Giô-áp; ông phải khai báo với vua và đem vua về Giê-ru-sa-lem an toàn. Nhưng đây là chiến thắng với buồn vui lẫn lộn của Đa-vít. Khi kẻ thù là chính con trai mình, thì không thể có chiến thắng và cũng không thể ăn mừng chiến thắng.
A-hi-mát là người đưa tin (“người chạy”) nổi tiếng (c.27) đã tình nguyện chạy báo tin cho vua ở Ma-ha-na-im, đoạn đường dài khoảng 3 dặm. Là một thanh niên đầy lòng nhiệt tình, anh ta không hiểu rõ vua đang nói gì; vì Đa-vít có tiếng là người hay trút cơn giận và sự buồn phiền trên người đưa tin (IISa 1:4-16 IISa 4:8-12)! Dù câu nói “Mọi sự may mắn” của A-hi-mát có thể ngụ ý một tin vui, như thường gặp, nhưng hômấy không có một tin vui nào. Giô-áp hiểu rõ vua của mình và biết rằng tin về cái chết của Áp-sa-lôm phải được báo với lòng trắc ẩn và sự khéo léo. Để giữ an toàn cho A-hi-mát, Giô-áp chọn một người chỉ được biết là “Cu-si”, có lẽ là một trong đầy tớ riêng của Giô-áp.
Thà một người ngoại bang bị giết còn hơn là con trai của một thầy tế lễ Do-thái. Tuy nhiên sau khi Cu-si đi khỏi, A-hi-mát tiếp tục làm phiền Giô-áp và xin phép được đi báo tin. Không có thưởng hay phạt gì cho việc báo tin nầy, vậy sao phải đi? Mệt mỏi vì phải nghe lời cầu xin của người thanh niên trẻ ấy, Giô-áp đã cho phép anh ta đi.
A-hi-mát nhắc chúng ta nhớ những người thích quấy rầy, muốn tỏ ra mình quan trọng nhưng không biết phải nói gì. Anh ta đi đường chính, dài hơn dễ đi hơn, đến Ma-ha-na-im băng qua trũng, trong khi Cu-si đi đường tắt, ngắn hơn, hiểm trở hơn. A-hi-mát và Cu-si đều không biết tin chính xác và cũng không biết cách báo tin cho thật khéo léo tế nhị. Khi Cu-si chạy đi, anh ta suy nghĩ cách nói cho vua biết tin con trai vua đã chết. Chạy còn ý nghĩa gì nếu bạn không biết cách báo tin?
Bối cảnh chuyển sang Ma-ha-na-im, nơi đó Đa-vít đang ngồi nửa trong nửa ngoài cổng thành, và chờ tin từ chiến trường. Dù không chuẩn bị sẽ báo tin thế nào, nhưng A-hi-mát cố gắng chạy về trước Cu-si. Đa-vít nói, “Ấy là một người tử-tế, người chắc đem tin lành” (c.27). Rõ ràng tính cách của người đưa tin không có liên quan gì đến nội dung của tin tức, nhưng Đa-vít đang cố nắm bắt tia hy vọng dù mong manh.
Trước khi đến cổng thành, A-hi-mát quá vội báo tin đến nổi anh ta la lớn, “Mọi sự may mắn”. Sau đó ông chạy đến quỳ trước mặt vua và báo với vua rằng Giô-áp đã thắng trận. Khi Đa-vít hỏi về Áp-sa-lôm, người đưa tin không chuẩn bị tinh thần để báo tin buồn nầy, nên anh ta cố lãng tránh. Cuối cùng anh ta không nói được điều Đa-vít rất muốn nghe. Anh ta nói đúng nhưng không đủ. Anh ta phải đứng một bên để chờ Cu-si đem đúng tin và đến đúng lúc.
Trong chức vụ của tôi, đôi lúc tôi buộc phải làm người đem tin buồn đến cho người khác. Tôi có thể tập trung cầu nguyện, cân nhắc, và ẩn mình nơi yên tĩnh để nghĩ xem phải nói sao cho giảm nhẹ được nổi buồn cho người nghe. Việc ấy không hề dễ dàng chút nào. Một số người định nghĩa “tài xử trí” là “một năng khiếu nêu rõ vấn đề mà không gây thù địch”, và Cu-si là một người có tài xử trí.
Kinh Thánh chép rằng Đa-vít đã “rất cảm thương” khi biết rằng Áp-sa-lôm đã chết. Chắc chắn ông đã cầu xin cho chuyện tồi tệ nhất ấy không xảy ra, nhưng nó đã xảy ra. Trong một chiều hướng, Đa-vít đã tự tuyên án cho mình khi nói với Na-than, “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con” (IISa 12:6), vì đây là sự trả giá cuối cùng trong món nợ lớn của Đa-vít. Con sơ sinh chết, a-ma bị cưỡng hiếp, Am-nôn bị giết và giờ đến lượt Áp-sa-lôm cũng chết. Một lần nữa Đa-vít đã nếm nổi đau của tội lỗi đã được tha thứ.
Nhưng nước mắt của Đa-vít cho thấy trái tim của một người cha thương con đang tan nát. Nói về nỗi đau buồn của Đa-vít, Charles Spurgeon đã nói, “Biết thông cảm nhiều như bạn có thể khôn ngoan hơn là ngồi xét đoán trường hợp mà không bao giờ là của mình.” Đa-vít khóc khi ông nghe tin về cái chết của Giô-na-than và Sau-lơ (IISa 1:11-12), Áp-ne (IISa 3:32), và Am-nôn (IISa 13:33-36), vậy thì làm sao ông lại không khóc cho cái chết của Áp-sa-lôm con trai yêu dấu của mình? Một lần nữa chúng ta thấy tấm lòng của Đức Chúa Trời được mặc khải qua tấm lòng của Đa-vít, vì Đấng Christ chết thay cho chúng ta khi chúng ta là những tội nhân và nghịch cùng Đức Chúa Trời (Ro 5:7-10). Đa-vít ước có thể chết thay cho Áp-sa-lôm, nhưng Chúa Giê-xu đã chết thay cho chúng ta rồi!
Vấn đề của Đa-vít không phải ông đau buồn vì con trai mình, vì sự đau buồn là một phản ứng rất con người và nước mắt là một liều thuốc rịt lành nổi đau. Vấn đề của ông là ông đau buồn quá mức và không để mình được an ủi. Phản ứng của ông không bình thường. Ông bỏ bê chính mình, trách nhiệm của mình và phải bị Giô-áp trách cứ trước khi quay bước về Giê-ru-sa-lem và giải cứu đất nước. Những rắc rối của ông đã qua đi, nhưng Đức Giê-hô-va thêm sức cho ông để trở thành một nhà lãnh đạo mà Ngài muốn ông trở thành.
Đức Giê-hô-va có thể chữa lành tấm lòng tan vỡ, nếu chúng ta giao phó cho Ngài và bởi đức tin vâng phục Ngài.
9. ĐA-VÍT TRỞ VỀ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐỔI MỚI (IISa 19:1-40)
Chủ đề được lập đi lập lại trong đoạn nầy là việc “đem vua trở về” (c.10,11,13,15,41). Đa-vít đã băng qua sông Giô-đanh đến Ma-ha-na-im, nhưng ông vẫn thuộc về Giê-ru-sa-lem.Tất cả các chi phái, kể cả chi phái Giu-đa của Đa-vít, đã góp phần trong sự phản nghịch của Áp-sa-lôm ở chừng mực nào đó; bây giờ là lúc họ trở về. Những năm tháng chiến tranh đã khiến cho Y-sơ-ra-ên mâu thuẩn nhau sâu sắc, rất cần sự hiệp một và lòng trung thành. Đoạn nầy mô tả quá trình xây dựng đất nước qua 5 bước mà Đa-vít đã thực hiện.
1. Đa-vít tập trung vào viễn cảnh của mình (IISa 19:1-8)
Một mục sư người Xcốt-len, Andrew Bonar (1810-1892) thường nói, “Chúng ta phải cảnh giác sau thắng lợi cũng giống như trước khi bước vào trận chiến”. Có thể thắng trận nhưng không chiến thắng, điều nầy xảy ra với Đa-vít sau khi Giô-áp đánh bại Áp-sa-lôm và đội quân của ông ta. Ngày lẽ ra là ngày mừng chiến thắng đối với đội quân của Đa-vít lại trở thành ngày buồn bã, ngượng ngùng và xấu hổ; dân chúng lặng lẽ trở về thành như thể họ chịu nhục nhã vì thất trận. Họ đã liều mạng sống mình cho vua và đất nước, bây giờ bị đối xử như những tội phạm!
Rất có thể Đa-vít không nhạy cảm với những hy sinh mà quân lính của ông dành cho ông (IISa 23:13-17; ISa 30:21-30), nhưng hôm đó Đa-vít quá bị ám ảnh với cái chết của Áp-sa-lôm đến nổi ông không còn nghĩ đến điều gì khác. Qua việc lánh mặt mọi người, Đa-vít đã biến chiến thắng về quân sự trở thành thất bại về mặt tình cảm.
Đa-vít không chỉ là một chiến binh vĩ đại mà còn là một nhà thơ, một nhạc sĩ, là người có cảm xúc mạnh mẽ; có thể đi từ vực sâu của tuyệt vọng rồi lên đến đỉnh vinh quang trong khi làm thơ. Đa-vít đã trải qua thời gian đau khổ sau cái chết của Am-nôn (IISa 13:37-39), và cái chết của con trai Áp-sa-lôm, những người ông yêu thương nhất khiến ông không thể nguôi được nổi buồn. Thái độ của Đa-vít làm những người theo ông bối rối, vì họ luôn xem Áp-sa-lôm là kẻ nói dối, giết người, phản bội và phiến loạn.
Chắc chắn chúng ta mong muốn người cha phải đau buồn trước cái chết bi thảm của đứa con và tha thứ cho những lỗi lầm và tội lỗi của con. Nhưng người lãnh đạo phải đứng vững, dù lòng họ có tan nát; đó là một trong những cái giá mà những người lãnh đạo phải trả. Vào ngày 10 thánh 10 năm 1950, Winston Churchill được giới thiệu trước trường Đại học Copenhagen như một “nhà tạo nên chiến thắng” trong Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Churchill đã trả lời rằng: “Tôi chỉ là một đầy tớ của đất nước tôi và nếu giây phút nào đó, tôi không thể hiện được quyết tâm không nao núng để đánh trận và chinh phục, thì tôi sẽ bị đào thải”. Người cha Đa-vít quên rằng ông cũng là một vua Đa-vít và ông còn có vương miện trên đầu bởi binh lính can đảm của ông đã đặt lợi ích của đất nước lên trên quyền lợi của cá nhân họ.
Lời nói đột ngột và sắc bén của Giô-áp đã kéo Đa-vít trở về thực tại, Đa-vít chổi dậy ngồi ở cửa thành nơi đó những người theo Đa-vít đã đến gặp ông và ở đó Đa-vít biết được sự phục vụ can đảm của họ. Có thể Đa-vít chưa biết chính Giô-áp đã bố trí giết và chôn Áp-sa-lôm, nếu không phản ứng của ông đã khác. Không lâu sau Đa-vít biết được những việc Giô-áp và lính của mình đã làm và điều đó khiến ông sớm đưa A-ma-sa lên làm quan tổng binh của đội quân (c.13 IVua 2:5).
Một điều thiếu sót trong toàn bộ tình tiết về Áp-sa-lôm là việc Đa-vít tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời khi ông đưa ra quyết định. Khi còn trẻ Đa-vít thường cậy vào U-rim và Thu-mim hoặc xin lời khuyên của tiên tri, nhưng ngoài lời cầu nguyện trong IISa 15:31, chúng ta không thấy Đa-vít cầu xin sự hướng dẫn nào. Dĩ nhiên, trong những bài thi thiên có chép về những nổi bận tâm và những lời cầu nguyện của ông, nên chúng ta biết Đa-vít đã không dựa vào sức riêng và những người lãnh đạo của mình. Nhưng chúng ta mong Đa-vít tìm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời khi xử lý Áp-sa-lôm và những vấn đề ông ta gây ra. Khi phải giải quyết các con trai mình, Đa-vít cần sự giúp đỡ nhất, nhưng có lẽ ông không thừa nhận nó. Không bao giờ quá trễ cho Đức Chúa Trời hành động.
2. Đa-vít nổ lực vì sự thống nhất đất nước (IISa 19:5-15)
Cuối cùng Đa-vít đã về đến Giê-ru-sa-lem, đây là dấu hiệu cho dân chúng thấy được rằng cuộc phản loạn đã kết thúc, và vị vua thật của họ đã lấy lại được ngai vàng. Nhưng trên đường về Giê-ru-sa-lem, Đa-vít phải đưa ra nhiều chiếu chỉ quan trọng và các sứ giả tín cẩn đã loan truyền cho dân chúng.
Chiếu chỉ thứ nhất, Đa-vít muốn đất nước mình là một đất nước thống nhất. Những thành kiến và oán thù trước đây phải bị chôn vùi, và dân sự phải một lòng phò tá vua. Trong vòng các chi phái đã có sự chia rẽ nhau, người theo Áp-sa-lôm người theo Đa-vít (câu 9-10), và sự chia rẽ giữa 10 chi phái (Y-sơ-ra-ên) và Giu-đa vẫn còn tồn tại.
• Đa-vít bắt đầu với Giu-đa (IISa 19:11-12).
Những lãnh đạo từ 12 chi phái nên đồng lòng có lời mời chính thức để Đa-vít trở về và tiếp tục cai trị đất nước, nhưng những cuộc tranh cãi giữa các đảng phái và những xung đột giữa các chi phái đang gây lộn xộn cho đất nước. Đa-vít biết rằng nếu còn chần chờ vấn đề càng thêm rắc rối, nên ông đã bắt tay ngay vào việc. Xét cho cùng ông là vua được Đức Chúa Trời xức dầu (c.22) và không cần trưng cầu ý dân trước khi dựng dậy vương triều đã ngã.
• Giu-đa là chi phái nhà vua (Sa 49:10),
Đa-vít xuất thân từ chi phái nầy, kinh đô của ông tại Giu-đa và chính các trưởng lão ở Giu-đa là những người đầu tiên lập Đa-vít lên làm vua (IISa 2:1-4), ên trước hết ông cần đến sự trợ giúp của các trưởng lão ở Giu-đa là điều hợp lý. Với hai thầy tế lễ của mình làm trung gian, Đa-vít nói với các trưởng lão Giu-đa rằng dân Y-sơ-ra-ên ở các chi phái khác đang nói về sự trở lại Giê-ru-sa-lem của vua, nhưng vua không nghe lời nào từ chi phái của chính mình, và các lãnh đạo Giu-đa phải hợp tác với vua, nên đây phải là lúc họ bày tỏ lòng trung thành đối với Đa-vít, vua hợp pháp của họ. Có thể tất cả những lãnh đạo ở các chi phái từng ngu muội đi theo Áp-sa-lôm đang phân vân không biết Đa-vít sẽ làm gì họ một khi đã lấy lại được ngai vàng.
• Đa-vít chọn A-ma-sa làm quan tổng binh (IISa 19:13-14).
Tin tức về sự chọn lựa nầy có lẽ làm những người lãnh đạo trong nước ngạc nhiên lắm và đã cất đi gánh nặng của họ, vậy là Đa-vít tha thứ cho tất cả những quan quân từng đi theo Áp-sa-lôm. A-ma-sa từng là quan tổng binh của Áp-sa-lôm được giao nhiệm vụ rượt đuổi và tìm giết Đa-vít, nhưng bây giờ Đa-vít đã chọn ông ta (cháu của Áp-sa-lôm và anh em họ của Giô-áp) làm người lãnh đạo cho đội quân lớn mạnh của mình.
Nhưng tại sao không chọn Giô-áp? Vì lý do thứ nhất, Đa-vít biết được chính Giô-áp đã bất tuân lệnh vua mà giết chết Áp-sa-lôm. Dù Áp-sa-lôm là kẻ đáng chết, nhưng phải bị bắt sống và dẫn ông ta về cho Đa-vít xử tội; Giô-áp không có quyền trái lệnh vua và tự xử lý như một đao phủ. Nếu Giô-áp làm được điều nầy với con vua, thì ông còn có thể làm điều gì khác với chính vua? Điều đó kéo theo lý do thứ hai: Giô-áp dần dần làm cho quyền hạn của mình tăng lên vì Đa-vít được khuyên không nên đích thân ra đánh trận (IISa 21:15-17).
Phương Đông ngày xưa, vua là người cầm quân chính của đội quân mình, và bất kỳ người nào giữ vị trí nầy, dù với bất cứ lý do gì, đều là người có quyền và được kính trọng. Chính Giô-áp đã bảo Đa-vít đến Ráp-ba để thực hiện cuộc chinh phục cuối cùng; nếu không Giô-áp sẽ chiếm thành đó và lấy tên mình đặt cho nó! trong thời gian đánh trận ở rừng Ép-ra-im Giô-áp có ít nhất 10 người vác binh khí theo mình (8:18:15)!
Giô-áp có tiếng là người thích trừ khử bất kỳ người nào đe dọa đến quyền hạn của mình.Ông ta và em trai A-bi-sai đã giết Áp-ne, quan tổng binh của Sau-lơ (8:3:2); và trước khi câu chuyện kết thúc, Giô-áp sẽ giết chết A-ma-sa (8,20:4-13).
Giô-áp và các em trai mình, dù là những chiến binh có năng lực, đã gây đau khổ cho Đa-vít ngay những ngày đầu lên ngôi (8:3,39; 8:16,10; 8:19,22). Dĩ nhiên, Giô-áp biết tất cả về vụ giết hại U-ri (8:11:14), à có lẽ thông tin đó đã làm tăng sức mạnh cho ông. Khi ông giết Áp-sa-lôm Giô-áp đã đi quá xa, và Đa-vít thấy đây là cơ hội để loại bỏ quan tổng binh tham quyền nầy và đưa A-ma-sa, người lãnh đạo đội quân phản nghịch, lên thay vị trí đó. Đa-vít đã hợp nhất hai đội quân và tuyên bố ân xá cho tất cả những binh lính phiến loạn, đem lại cho đất nước một sự khởi đầu mới.
Khi các chi phái khác tranh cãi và trì hoãn, dân sự trong chi phái Giu-đa một lòng ủng hộ Đa-vít, và họ chính thức mời Đa-vít trở về. Đa-vít đi xuống Giô-đanh, gần Ginh-ganh, dân Giu-đa đón tiếp người ở đó. Ginh-ganh cách Giê-ru-sa-lem không đến 20 dặm, là thành phố quan trọng trong lịch sử Do-thái. Ở đó, những người nam thuộc thế hệ mới đã bước vào giao ước với Đức Giê-hô-va và chịu cắt bì (Gios 3:1-5:15), và chính tại Ginh-ganh, Sa-mu-ên đã phục hồi giao ước khi Sau-lơ lên làm vua (ISa 11:14-15).
Kinh Thánh không nhắc đến, nhưng có lẽ Đa-vít cũng đã tái lập giao ước tại Ginh-ganh và cam đoan với dân sự rằng Đức Giê-hô-va vẫn trên ngôi của Ngài và Lời Ngài vẫn còn có hiệu lực. Có lẽ đây chính là lúc vua lập lại lời hứa nguyện. Vì suốt phần còn lại của sách nầy chúng ta sẽ thấy Đa-vít không buông lơi nhiệm vụ.
3. Đa-vít ban lệnh ân xá (IISa 19:16-23)
Không chỉ những người Giu-đa tại Giô-đanh tiếp đón Đa-vít, mà Si-mê-i người Bên-gia-min, “kẻ thù ông, cũng ở đó với hàng ngàn người từ chi phái của ông“ (8:16:5-14). Xíp-ba, người giữ đất cho Mê-phi-bô-sết (8:9:1-10) cũng có mặt trong đám đông cùng với 15 con trai và 20 đầy tớ của ông ta, và họ vượt qua sông để đón Đa-vít và hộ tống ông về bờ bên đây. Có người cho bè qua lại để đón vua và người nhà của vua qua sông Giô-đanh. Khi Đa-vít đến được bờ tây của sông, Si-mê-i phủ phục và xin ông tha thứ.
Chắc chắn Si-mê-i đáng phải chết vì cách ông đối đãi với vua (Xu 22:28), và A-bi-sai đang sẵn sàng ra tay, nhưng Đa-vít ngăn cháu mình như đã làm trước đây (IISa 16:9). Lần đầu tiên Đa-vít ngăn A-bi-sai, lý do của ông là Đức Giê-hô-va đã bảo Si-mê-i rủa sả vua, nên Đa-vít xem lời sỉ nhục của ông ta như đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng lần nầy lý do của ông là tha cho Si-mê-i vì hôm nay là ngày vui mừng, không phải là ngày báo thù. Nhưng trên hết, qua việc tha thứ cho Si-mê-i, vua Đa-vít muốn ban lệnh ân xá cho tất cả những ai từng ủng hộ Áp-sa-lôm trong cuộc phản nghịch.
Đa-vít đã giữ lời và không sai giết Si-mê-i vì tội của ông ta, nhưng khi Đa-vít sắp qua đời, ông nhắc Sa-lô-môn để mắt đến Si-mê-i (IVua 2:8-9). Sa-lô-môn giam lỏng ông ta, không cho ông ta ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng Si-mê-i không vâng lệnh, ông đã bị bắt và giết chết (IVua 2:36-46). Si-mê-i có một khuyết điểm là chống lại nhà cầm quyền và xem thường những người mà Đức Chúa Trời chọn lựa (Cac 8:1-35), đó là lý do Đa-vít cảnh giác Sa-lô-môn. Si-mê-i không cảm kích lòng khoan dung của Đa-vít hay ân huệ của Sa-lô-môn, tính độc lập và kiêu ngạo của ông ta cuối cùng đã làm hại chính ông ta.
4. Đa-vít sửa chữa sai lầm IISa 19:24-30)
Mê-phi-bô-sết, hoàng tử tật nguyền, đã được nhận vào nhà Đa-vít và được ăn nơi bàn của vua (8:9:1), ân huệ nầy Đa-vít muốn dành để tỏ lòng kính trọng Giô-na-than, cha của Mê-phi-bô-sết và là bạn thân thiết của Đa-vít. Khi Đa-vít làm vua toàn cõi Y-sơ-ra-ên, ông thừa huởng tất cả những gì trước đây thuộc về Sau-lơ, kể cả ruộng đất của ông ta, và miếng đất mà Đa-vít cho lại Mê-phi-bô-sết để ông và gia đình ông sinh sống.
Đa-vít ra lệnh cho Xíp-ba chăm lo ruộng đất của Mê-phi-bô-sết và nghe theo lệnh của Mê-phi-bô-sết, ng ta đã hứa làm theo. Nhưng khi Đa-vít trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, Xíp-ba đã bỏ chủ mình mà chạy theo giúp Đa-vít và binh lính của Đa-vít. Trong thời gian đó, a-vít đã có một quyết định vội vàng và giao tất cả ruộng đất đó cho Xíp-ba (IISa 16:1-4). Xíp-ba cũng đã giúp Đa-vít qua sông và trở về triều (8:19:17).
Không có Xíp-ba giúp đỡ, ê-phi-bô-sết khó có thể nào vượt 20 dặm từ Giê-ru-sa-lem đến Giô-đanh, nhưng ông ta đã làm được. Ông biết Xíp-ba đã vu khống rằng ông đang mong chờ cuộc phản loạn thành công và vương miện của Sau-lơ sẽ trở về nhà Sau-lơ. Mê-phi-bô-sết muốn có cơ hội trực tiếp giải bày với Đa-vít, phủ nhận lời vu cáo của Xíp-ba và khẳng định lòng trung thành của mình với vua, ông đã làm được tất cả điều đó. Câu nói lập đi lập lại của ông “Ôi vua chúa tôi” xuất phát từ tấm lòng ông. Mê-phi-bô-sết luôn trung thành với vua.
Khi Đa-vít nghe Mê-phi-bô-sết giải bày, ông nhận ra mình đã vội vàng quyết định giao hết đất cho Xíp-ba, hưng Đa-vít không có thời gian để giải quyết vấn đề nầy. Mê-phi-bô-sết tỏ rõ lòng mình rằng ông không cầu xin vua bất cứ điều gì. Vua đã ban cho ông cuộc sống nầy, ông còn đòi hỏi gì hơn? Câu nói của ông có thể được diễn giải như vầy: “Tôi đã nhận nhiều hơn những gì tôi đáng được nhận, tôi còn cần đến ngai vàng làm gì? Tôi lẽ ra phải chết, nhưng vua không chỉ cho tôi sống mà còn đem tôi vào nhà của vua.”
• Câu trả lời của Đa-vít thật khó hiểu.
Mới nghe có thể hiểu rằng “Không cần xét lại chuyện nầy làm gì nữa. Đất ấy sẽ được chia đôi cho ngươi và Xíp-ba”. Nhưng có phải Đa-vít là loại người nói hai lời? Làm thế nào để quyết định đó được hàng ngàn người Bên-gia-min có mặt ở đó chập nhận? Xét cho cùng, làm ơn cho Mê-phi-bô-sết sẽ củng cố mối quan hệ giữa Đa-vít và chi phái Bên-gia-min (chi phái của Sau-lơ) cũng như với 10 chi phái từng ủng hộ nhà Sau-lơ. Lấy phân nửa cơ nghiệp của Mê-phi-bô-sết thật không hợp với không khí vui mừng và khoan dung hôm đó, nhưng chia đất như vậy cũng chứng tỏ Đa-vít đã tha thứ cho Xíp-ba vì tội nói dối và phản chủ. Giải quyết bằng cách chia đôi đất cho hai người, Đa-vít gỡ được mối rối ấy cách dễ dàng.
Nhưng câu đáp lời của Mê-phi-bô-sết hẳn đã làm Đa-vít ngạc nhiên, “Xíp-ba lấy hết cũng được, bởi vì vua chúa tôi đã trở về nhà mình bình an vô sự” (c.30). Trường hợp nầy nhắc chúng ta nhớ “vụ đứa con chết ngạt” mà Sa-lô-môn xét xử (IVua 3:16-28). Khi ông quyết định chia đứa trẻ ra làm hai, người mẹ thật của đứa bé đã bảo vệ con mình, và đó là cách Sa-lô-môn xác định ai là mẹ thật. Không giống đứa bé sống động, đất có thể chia đôi mà không tổn hại gì đến nó; nhưng có lẽ Đa-vít muốn thử lòng Mê-phi-bô-sết. Kinh Thánh không cho chúng ta biết, nhưng có lẽ Mê-phi-bô-sết đã nhận lại được tất cả phần đất trước đây của mình. Dù sao, Xíp-ba là người làm việc trên miếng đất đó để chăm lo cho Mê-phi-bô-sết.
5. Đa-vít ban thưởng cho người trung thành (IISa 19:31-40)
Bát-xi-lai là một trong ba chủ đất mà Đa-vít gặp khi ông đến Ma-ha-na-im, họ cùng nhau chu cấp vật thực cho Đa-vít và quân lính của ông (8:17,27-29). Ông đã trở về nhà mình ở Rô-ghê-lim, khoảng từ 20 đến 25 dặm về phía Bắc. Khi ông nghe tin Đa-vít sẽ trở về Giê-ru-sa-lem, ông đã xuống đến nơi để tiễn.
Không giống Si-mê-i, ông không có tội để xin vua tha thứ, cũng không bị hiểu lầm để giải bày như Mê-phi-bô-sết. Bát-xi-lai không muốn nhận ân huệ nào của vua. Tất cả những gì ông muốn là vui mừng tiễn vua về cung trong sự bình an, và biết rằng chiến tranh đã kết thúc. Hai quảng đường cả đi và về thật quá khó khăn cho cụ già 80 tuổi, nhưng ông muốn dành cho vua điều tốt đẹp nhất.
Đa-vít muốn ban thưởng cho Bát-xi-nai; muốn dẫn ông về cung ở Giê-ru-sa-lem để chăm sóc. Đa-vít không chỉ muốn tỏ lòng biết ơn của mình, nhưng khi có được người quan trọng như vậy ở Giê-ru-sa-lem sẽ thắt chặt thêm tình thân với cư dân ở Trans-Jordan trong thời gian thống nhất đất nước là điều quan trọng nhất. Nhưng Bát-xi-lai từ chối lời đề nghị của Đa-vít vì viện lý do tuổi già. Những người già thường không muốn xa quê hương nguồn cội, và họ muốn được chết nơi quê nhà và được chôn chung với những người họ thương yêu. Ở tuổi đó, Bát-xi-lai không còn thích cuộc sống tiện nghi trong cung, và ông sẽ chỉ là gánh nặng cho vua, là người có quá nhiều chuyện phải lo lắng.
Tuy nhiên, Bát-xi-lai vui lòng cho con trai ông, Kim-ham, theo vua trở về Giê-ru-sa-lem (IVua 2:7). Điều Bát-xi-lai không cần cho chính mình, ông sẵn sàng dành cho người khác. Matthew Harry có nói, “Những người già không nên ganh tị với những người trẻ tuổi về những niềm vui mà mình đã trải qua rồi, cũng không nên bắt buộc họ rút lui như mình đã rút lui.”
Bát-xi-lai qua sông với Đa-vít và Kim-ham và đi theo một quãng ngắn nữa trước khi nói lời từ biệt, Đa-vít ôm hôn và chúc phước cho Bát-xi-lai, người bạn và người ơn của mình. Trong thời Giê-rê-mi, có một địa điểm có tên là trạm Kim-ham (nơi ở của Kim-ham) gần Bết-lê-hem (Gie 41:17), có thể đây là nơi con trai của Bát-xi-lai đã cư ngụ cùng gia đình mình.
Nhưng những rắc rối của Đa-vít chưa chấm hết, vì mối thù truyền kiếp giữa 10 chi phái (Y-sơ-ra-ên) và Giu-đa lại nổi lên gây ra một cuộc nội chiến khác. Shakespeare thật đúng khi nói rằng, “Đầu đội vương miện thật không dễ gì yên ổn”.
10. NHỮNG TRẬN CHIẾN MỚI CỦA ĐA-VÍT (IISa 19:41-21:22) (ISu 20:4-8)
Một nhà thơ hài hước, Ogden Nash đã gióng một tiếng chuông khi ông viết rằng: “Con người có thể vượt qua những trở ngại bình thường trong cuộc sống, miễn là đó không phải những trở ngại do chính họ gây ra cho mình”.
Khi chúng ta đọc về cuộc đời sau nầy của Đa-vít, chúng ta có thể thấy chân lý của câu nói nấy. Tất cả bậc cha mẹ đều gặp phải những vấn đề có thể biết trước được với con cái mình, nhưng tội lỗi của con cái Đa-vít dường như đã lập kỷ lục, đặc biệt những tội lỗi của Áp-sa-lôm.
Tất cả những người lãnh đạo thường có vấn đề với những người theo mình, nhưng trong trường hợp của Đa-vít, tranh chiến trong Y-sơ-ra-ên nhiều lần xảy ra giữa các anh em với nhau. Hậu quả của tội lỗi thật sự gây nhiều đau khổ! Những đoạn nầy mô tả 4 cuộc chiến khác nhau mà Đa-vít phải đương đầu sau khi cuộc phản nghịch của Áp-sa-lôm bị dẹp tan.
1. Xung đột giữa các chi phái (IISa 19:41-43) (IISa 19:41-20:4,14-26)
Một cuộc khủng hoảng có thể đem lại điều tốt lành cho người nầy nhưng điều rũi ro cho người khác.Những đại diện của các chi phái tập trung tại Ghinh-ganh để hộ tống vua về Giê-ru-sa-lem, và thay vì cùng vui mừng trong sự đắc thắng mà Đức Chúa Trời ban cho dân sự Ngài, các chi phái lại đang tranh cạnh với nhau.
“Dân Y-sơ-ra-ên” là dân thuộc 10 chi phái phía bắc, và họ nổi giận với chi phái Giu-đa ở phía nam, việc nầy cũng lôi kéo cả chi phái Si-mê-ôn. Y-sơ-ra-ên nổi giận vì Giu-đa không chờ họ đến hiện trường để hộ tống Đa-vít về Giê-ru-sa-lem.
Giu-đa đã “lén đem vua” đi mà đã bỏ quên và làm bẽ mặt 10 chi phái khác. Giu-đa trả lời rằng Đa-vít xuất thân từ chi phái của họ, nên họ phải có trách nhiệm quan tâm đến ông nhiều hơn. Y-sơ-ra-ên lại tranh cãi rằng họ có đến 10 chi phái còn Giu-đa chỉ có 1, như thể vua là một vật bảo đảm trong thị trường chứng khoán. Dường như không ai khuyên các chi phái phải cầu xin Đức Giê-hô-va giúp đỡ và nhớ rằng Ghinh-ganh là nơi Y-sơ-ra-ên đã có một khởi đầu mới trong thời Giô-suê (Gios 3:1-5:15).
Cuộc xung đột giữa Giu-đa và Y-sơ-ra-ên có nguồn gốc sâu xa, giống như những cuộc xung đột chính trị giữa các nước ngày nay. Khi vua Sau-lơ triệu tập đội quân đầu tiên của mình, đã có sự phân chia giữa Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (ISa 11:8), và sự chia rẽ nầy tồn tại suốt trong thời trị vì của người (IISa 15:4; 8:17,52; 8:18,16). Sau khi Sau-lơ qua đời, 10 chi phái Y-sơ-ra-ên ủng hộ Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ, trong khi Giu-đa ủng hộ Đa-vít (IISa 2:10-11). Dĩ nhiên chi phái Giu-đa đang vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, vì Ngài đã chọn Đa-vít làm vua kế vị của nước Y-sơ-ra-ên. Sự đối địch nầy tồn tại cả trong thời Đa-vít (IISa 11:11; IISa 12:8).
“Một nước mà chia xé nhau thì bị phá hoang; một thành hay là một nhà mà chia xé nhau thì không còn được” (Mat 12:25). Khi Rô-bô-am lên làm vua kế vị Sa-lô-môn, cha mình, sự rạn nứt càng lớn hơn và đất nước bị chia thành hai nước Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
Tất cả những gì cần để ngọn lửa thù địch ấy bùng phát là lời nói của một người thích trở thành nhà lãnh đạo, và Sê-ba là người lãnh đạo đó. Là người Bên-gia-min, ông có thiện cảm với nhà Sau-lơ, và có thể ông là một quan chức trong đội quân phía bắc. Nếu 10 chi phái ly khai khỏi đất nước, có lẽ ông dễ trở thành quan tổng binh quân đội của họ. Sê-ba không tuyên chiến; tất cả những gì ông ta làm là giải tán đội quân và những cư dân xuất thân từ các chi phái phía bắc và bảo họ đừng theo Đa-vít nữa. Nhưng trong bản chất đó là một lời tuyên chiến, vì Sê-ba đi khắp các chi phái phía bắc để kêu gọi người theo mình (c.14). Rõ ràng không có nhiều người đáp ứng, ê-ba và những người theo ông kết thúc cuộc đời họ tại thành A-bên, nơi có tường bao quanh.
Giô-áp một lần nữa chỉ huy quân của Đa-vít đuổi theo Sê-ba đến A-bên, và bắt đầu bao vây nó. lần thứ ba trong “câu chuyện về Đa-vít”, người một phụ nữ đã làm thay đổi chiều hướng của sự việc. A-bi-ga-in là người đầu tiên (ISa 25:1-44), và người đàn bà ở Thê-cô-a là người thứ hai (IISa 14:1-33). Một người phụ nữ khôn ngoan đứng trên bờ thành mà gọi Giô-áp và đoan chắc với ông rằng thành của cô không hề liên minh với bất kỳ kẻ phiến loạn nào và vì vậy không đáng bị tấn công. Có lẽ nàng nghĩ đến luật pháp trong Phuc 20:10-16 có qui định rằng trước hết phải giảng hòa trước khi muốn tấn công thành nào. Khi Giô-áp giải thích rằng ông chỉ đuổi theo một mình Sê-ba, nàng thuyết phục dân trong thành giết kẻ phản nghịch để cứu thành của mình. Tuy nhiên, Sê-ba không phải là kẻ giơ đầu chịu báng; là kẻ phản nghịch lại nhà vua nên ông ta đáng phải chết. Sê-ba muốn đứng đầu đội quân, nhưng cuối cùng đầu của ông ta bị ném qua tường thành.
Đoạn nầy kết thúc với danh sách thứ hai, liệt kê tên các quan chức của Đa-vít (IISa 8:15-18), và có hai tên mới được bổ sung: A-đô-ram có nhiệm vụ trông coi về thuế khóa (sự lao động khổ sai), và Y-ra, người Giai-rơ làm tể tướng thân cận của Đa-vít. “Lao động khổ sai” dành cho những tù binh chiến tranh, nhưng dân Y-sơ-ra-ên thỉnh thoảng bị bắt đi lao động để giúp nhà nước xây dựng những công trình trong nước. Suốt thời trị vì của Sa-lô-môn và sau đó, các quan trông coi việc thuế khoá nầy luôn phải bận rộn với công việc mình (IVua 4:6 IVua 5:14; IVua 12:18; IISu 10:18-19).
Bây giờ chúng ta quay lại một chút để xem Giô-áp được phục chức làm quan tổng binh trong đội quân của Đa-vít như thế nào.
-IISa 20:1-3; xem giải nghĩa IISa 19:41-43.
2. Xung đột cá nhân (IISa 20:4-13)
Khi Đa-vít nghe tin Sê-ba triệu tập quân phản nghịch, ông tức tốc ra lệnh cho A-ma-sa, quan tổng binh mới của mình (IISa 19:13), tập trung lực lượng trong vòng 3 ngày và đến Giê-ru-sa-lem. Là một nhà chiến lược dày dạn, Đa-vít biết rằng cần phải dập tắt cuộc nổi dây từ khi nó còn trong trứng nước, nếu không nó sẽ kích động những người bất mãn trong xứ và có thể bùng nổ thành chiến tranh. Hàng ngàn thần dân của Đa-vít đã đi theo Áp-sa-lôm. Và dường như 10 chi phái ở phía bắc đang sẵn sàng theo bất cứ người nào.
Nhưng A-ma-sa và đội quân không có mặt kịp thời trong vòng 3 ngày theo như lệnh, và Đa-vít trao quyền chỉ huy cho A-bi-sai. A-ma-sa từng là quan tổng binh của Áp-sa-lôm, nên có lẽ Đa-vít sợ ông ta phản bội và cấu kết với Sê-ba. Lời giải thích hợp lý nhất cho việc trễ nải của mình là vì dân chúng không tin ông, không sẵn sàng theo ông và liều mạng sống mình. Có lính của Giô-áp và “các dõng sĩ” của Đa-vít bên cạnh, A-bi-sai nhanh chóng triệu tập đội quân của Giu-đa và thẳng tiến về phương bắc để ngăn chăn việc tạo phản của Sê-ba. Hãy tưởng tượng xem họ ngạc nhiên như thế nào khi nhìn thấy A-ma-sa và đội quân của ông ta ở gần hòn đá lớn của Ga-ba-ôn, hoảng 6 dặm cách Tây Bắc Giê-ru-sa-lem. Lúc đó A-ma-sa đang trên đường đến gặp Đa-vít để báo cáo và nhận lệnh.
Dù không có địa vị chính thức, Giô-áp cũng đã đồng đi với A-bi-sai, em trai mình, để giúp đỡ khi cần. Hai người nầy từng bên nhau trong trận chiến ở rừng Ép-ra-im và đánh bại Áp-sa-lôm.Giô-áp không thích A-ma-sa, là người đã phản bội Đa-vít và cầm đầu quân của Áp-sa-lôm (IISa 17:25). Hơn nữa, chính A-ma-sa đã có được địa vị của Giô-áp, là quan tổng binh, việc nầy là một nổi nhục đối với Giô-áp. (Đa-vít có chọn lựa như vậy vì Giô-áp đã giết Áp-sa-lôm). Giô-áp biết rằng ông và A-bi-sai, em trai mình, ó thể giải quyết thành công cuộc nổi dậy của Sê-ba, còn A-ma-sa quá yếu kém và thiếu kinh nghiện để dẫn dắt đội quân chiến thắng.
Như khi họ giết Áp-ne (IISa 3:27-39), Giô-áp và A-bi-sai phải nhanh chóng bàn tính với nhau khi thấy A-ma-sa tiến đến gần. Giô-áp đã giết Áp-ne và Áp-sa-lôm, nên tay ông nay đã vấy máu. Với thanh gươm đút trong võ bên hông, Giô-áp đã làm cho A-ma-sa nghĩ rằng đây là sự gặp gỡ bình thường, nhưng đó là mánh khóe xảo quyệt của Giô-áp nhằm làm A-ma-sa không cảnh giác (Cac 3:20-23). Một lần nữa, thanh gươm đã không rời khỏi nhà Đa-vít, vì A-ma-sa là anh em họ của ông. Không có lý do cho cái chết của A-ma-sa.Thật vậy, ông đã gia nhập đội quân của Áp-sa-lôm, nhưng Đa-vít đã ban lệnh ân xá chung trong đó có Giô-áp, là người đã giết Áp-sa-lôm. Giô-áp có thể dễ dàng cướp đi quyền chỉ huy của A-ma-sa, nhưng người lính già từng trải nầy có tính khí như vậy, ông thích diệt tất cả những ai ngáng đường mình. Ông ta không muốn bất kỳ người lãnh đạo của Áp-sa-lôm còn sống để gây thêm rắc rối cho Đa-vít.
Giô-áp bỏ A-ma-sa nằm chết trên vũng máu bên đường, cảnh tượng nầy làm cuộc hành quân tạm gián đoạn. Vị tướng của họ đã ngã xuống trước khi trận chiến bắt đầu! Giô-áp và A-bi-sai đuổi theo Sê-ba, nhưng đội quân không đi theo họ. Một trong những binh lính của Giô-áp đã nhanh trí kéo xác chết vào lề đường và lấy áo choàng đắp lên. Sau đó anh ta tập hợp lính của A-ma-sa để hổ trợ Giô-áp và Đa-vít, quân lính đã đáp ứng theo. Về mặt chính trị, nói cho đúng là “Đa-vít và A-bi-sai”, vì Đa-vít đã trao quyền chỉ huy cho A-bi-sai; nhưng Giô-áp đã lấy lại vị trí cũ của mình và sẽ không rời nó nữa (c.23). Một lần nữa, Đa-vít phải trao quyền cho Giô-áp.
Chúng ta cứ tin rằng có người nào đó sẽ chôn xác của A-ma-sa, vì xác chết không được chôn bị xem là việc nghiêm trọng trong Y-sơ-ra-ên.
-IISa 21:1-10; xem giải nghĩa IISa 19:41-43.
3. Xung đột tôn giáo (IISa 21:11-14)
Sách kết thúc với ghi nhận về hai tại họa cho đất nước một trận hạn hán do tội lỗi của vua Sau-lơ (IISa 21:1-4) và một nạn bệnh dịch do bởi tội lỗi của Đa-vít (IISa 24:1-25). Giữa hai biến cố bi thương nầy, tác giả tóm tắc cho chúng ta 4 chiến thắng (IISa 21:15-22) và bảng liệt kê những dõng sĩ của Đa-vít (IISa 23:8-39), cũng như hai bài thơ của Đa-vít (IISa 22:1-23:7). Một lần nữa chúng ta thấy Đa-vít là một chiến binh, một thi sĩ và một tội nhân.
• Tội lỗi (IISa 21:1-4).
Không có chỗ nào trong Kinh Thánh cho chúng ta biết thời điểm và lý do Sau-lơ tàn sát người Ga-ba-ôn và như vậy vi phạm lời thề mà Y-sơ-ra-ên đã lập với họ trong thời Giô-suê (Gios 9:1-27). Giô-suê cố tận dụng sai lầm của mình vì ông ta muốn dùng họ làm người đốn củi và sách nước; nhưng lời thề của dân Y-sơ-ra-ên ràng buộc họ phải bảo vệ người Ga-ba-ôn (Gios 10:1-43). Sau-lơ đã giết nhiều người Ga-ba-ôn và có ý định xóa sổ họ, nên đây là trường hợp “thanh trừ tôn giáo” và tội diện chủng.
Đời sống tôn giáo của Sau-lơ là một mớ rối ren. Với nổ lực nhằm chứng tỏ mình là người tin kính, Sau-lơ đã lập những lời thề ngu dại mà không ai nên giữ (ISa 14:24-35), trong khi đó ông đã không vâng theo những mạng lệnh rõ ràng của Đức Giê-hô-va (ISa 13:1-23; ISa 15:1-35). Ông được lệnh giết tất cả người A-ma-léc và đã không vâng theo, nhưng ông cố sức tiêu diệt người Ga-ba-ôn! Một điều rối ren khác đó là Giê-i-ên, ông cố của Sau-lơ, là tổ phụ của người Ga-ba-ôn (ISu 8:29-33; ISu 9:35-39), như vậy Sau-lơ tàn sát những người bà con của mình.
Ga-ba-ôn đã trở thành một thành của người Lê-vi (Gios 21:17), và có lúc đền tạm có mặt ở đó (IVua 3:4-5). Thành nầy nằm trong chi phái Bên-gia-min – chi phái của Sau-lơ và đó lẽ đó là manh mối cho thái độ của Sau-lơ. Để cho người ngoại Ga-ba-ôn sống bình yên trong xứ Y-sơ-ra-ên đã quá nguy hiểm, nhưng có phải họ đang sống ở Bên-gia-min? Một trong chiến thuật “lãnh đạo” của Sau-lơ là ban ruộng đất và nhà cửa cho người nào theo ông (ISa 22:7), và có lẽ để đáp ứng nhu cầu nầy ông phải tịch thu của người Ga-ba-ôn. Dù động cơ và phương thức của ông là gì, Sau-lơ trong mồ mả mình đã làm cho Y-sơ-ra-ên chịu đoán phạt, hạn hán và đói kém kéo dài trong khoảng 3 năm (IISa 21:1,10).
Năm đầu tiên của cơn hạn hán có thể do thời tiết thay đổi bất ngờ, suốt năm thứ hai, người ta có thể nói rằng, “Thời tiết chắc sẽ tốt hơn”. Nhưng đến năm thứ ba đất chịu khô hạn và đói kém, Đa-vít đã tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời. Trong giao ước của Đức Giê-hô-va với Y-sơ-ra-ên có viết rằng, Ngài sẽ ban mưa móc cho xứ nếu dân sự biết kính trọng và vâng lời Ngài (Phuc 28:1-14). Đa-vít biết rằng tội sát nhân sẽ làm ô uế xứ mình (Dan 35:30-34), và đó chính là nguyên nhân gây ra mọi sự khốn khó nầy. Đức Giê-hô-va đã phán với Đa-vít, “Sự nầy xảy đến vì cớ Sau-lơ và nhà đổ huyết của người, bởi vì người có giết dân Ga-ba-ôn” (c.1). Sau-lơ đã chết hơn 30 năm, và Đức Giê-hô-va vẫn kiên nhẫn chờ cho tội lỗi nầy được giải quyết.
• Sự báo thù (IISa 21:5-9).
Khi biết sự thật nầy, Đa-vít liền đề nghị bồi thường cho những tội ác của người tiền nhiệm mình, vì ông muốn dân Ga-ba-ôn có thể chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên và như vậy cũng sẽ được phước Đức Chúa Trời (Sa 12:1-3). Nhưng người Ga-ba-ôn không muốn tiền; họ biết rằng tiền không thể chuộc được tội sát nhân và đền đáp cho người sống sót (Dân 35:31-33). Người Ga-ba-ôn nói rõ rằng họ biết vị trí của họ trong Y-sơ-ra-ên như những đầy tớ và người ngoại ở nhờ, và họ không có quyền đòi hỏi gì. Nhưng cần phải có sự đổ huyết để chuộc cho huyết người Ga-ba-ôn đã phải đổ ra (Xu 21:24; Le 19:21; Phuc 19:21).
Dân chúng đang chịu khổ vì tội lỗi của Sau-lơ, và nếu Đa-vít giết bất cứ người nào thì cũng sẽ không giải quyết được vấn đề. Người Ga-ba-ôn yêu cầu giao cho họ 7 người nam trong vòng con cháu của Sau-lơ để hiến tế trước mặt Đức Giê-hô-va và như vậy cơn hạn hán và đói kém sẽ kết thúc.
Đa-vít biết rằng Do-thái không được dâng của lễ là những con người (Le 18:21; 20:1-5; Phuc 12:29-32; Phuc 18:10), ông cũng không xem cái chết của 7 người ấy là những của lễ với giá trị chuộc tội. Chúng ta ngày này có Tân-ước và hiểu được Phúc-Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta nhìn toàn bộ tình tiết nầy với sự ghê rợn xen lẫn mất tinh thần, nhưng chúng ta nên nhớ rằng chúng ta đang giải quyết bằng luật pháp, không phải bằng ân điển, và với dân Y-sơ-ra-ên, không phải với Hội thánh.
Luật pháp Môi-se quy định rằng tội giết người chưa được giải quyết phải được chuộc bằng của lễ (Phuc 21:1-9), vì vậy tội tàn sát rõ ràng của vua phải được chuộc nhiều hơn là dường nào! Tuy nhiên chúng ta phải nhớ cái chết của 7 người ấy không phải là sự chuộc tội, nhưng là sự báo thù hợp pháp.
Dù Đa-vít không phạm tội đó, ông phải chọn ra 7 người để chịu chết, đó không phải là một việc làm dễ dàng (Có lẽ Đa-vít nghĩ về những người phải chết vì tội lỗi mình con của Bát-sê-ba, U-ri người Hê-tít, Am-nôn, Áp-sa-lôm và A-ma-sa). Vì lời thề sẽ bảo vệ con cháu của Giô-na-than (ISa 20:12-17), vua tránh tên Mê-phi-bô-sết và chọn hai con trai sanh bởi Rít-ba, vợ lẻ của Sau-lơ, và 5 con trai của Mê-ráp, con gái của Sau-lơ.
Là người đã lấy Át-ri-ên (c.8). Chúng ta không biết 7 người nầy bị xử tử như thế nào, có thể họ bị treo cổ rồi bị đẩy xuống từ một mõm đá. Chuyện nầy xảy ra trong mùa gặt lúa mạch vào giữa tháng Tư, và 7 xác chết bị phơi giữa trời trong 6 tháng, cho đến khi mưa xuống và cơn hạn hán trôi qua vào tháng Mười. Treo xác là một điều sỉ nhục và để người ấy chịu rủa sả (Phu 21:22-23).
• Lòng trắc ẩn (IISa 21:10-14).
Luật pháp quy định rằng xác chết treo phải được đem xuống và chôn khi mặt trời lặn. Để chắc chắn tội của Sau-lơ đã được giải quyết, Đa-vít cho phơi các xác ấy cho đến khi mưa xuống, để cho thấy Đức Giê-hô-va lại ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên. Suốt thời gian đó, Rít-ba đã bảo vệ xác của con và cháu mình, đây là việc làm của lòng yêu thương và can đảm. Chính Rít-ba có liên quan trong việc Áp-ne bỏ nhà Sau-lơ và đi theo Đa-vít (IISa 3:6-12).
• Nhưng Đa-vít đã đi trước một bước.
Ông lấy cốt của Sau-lơ, các con trai Sau-lơ mà người Gia-be ở Ga-la-át đã chôn cất (ISa 31:1-13), và đem tất cả về chôn trong phần mộ của gia đình họ (c.12-14). Được chôn chung với các tổ phụ mình là ao ước của mỗi một người Y-sơ-ra-ên, a-vít ban ân phước nầy cho Sau-lơ và gia đình ông ta. Dù vẫn còn vài điều bất thường, nhưng có một sự thật là: tội lỗi của một người có thể gây đau khổ và cái chết cho gia đình mình, dù người ấy đã chết và được chôn rồi. Chúng ta phải tin rằng Đa-vít đã vì ích lợi của đất nước khi giải quyết tội lỗi cách khắc khe, nhưng ông cũng tỏ lòng nhân từ với nhà Sau-lơ.
4. Xung đột giữa các quốc gia (IISa 21:15-22) (ISu 20:4-8)
Bốn cuộc chiến xảy ra trong những ngày đầu Đa-vít lên ngôi, có thể sau khi ông lập Giê-ru-sa-lem làm thủ đô và dân Phi-li-tin chống đối việc ông làm vua Y-sơ-ra-ên. Tất cả 4 cuộc chiến đều liên quan đến “con cháu của người khổng lồ” từ Phi-li-tin, một trong số đó là em của Gô-li-át (c.19).
- Trong cuộc chiến thứ nhất (c.15-17), Đa-vít thấy mình rất mệt mỏi vì Phi-li-tin tập trung vào ông nhiều hơn các binh lính khác. Ít-bi-bê-nốp muốn giết chết Đa-vít và có một ngọn giáo nặng đến 7,5 pound. Tuy nhiên A-bi-sai, cháu của Đa-vít, là người từng làm vua nổi giận, đã đến giải cứu vua và giết tên khổng lồ. Sau đó, các lãnh đạo quân sự quyết định không để vua ra trận để phải hy sinh trên chiến trường. Vua là “ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên” và phải được bảo vệ. (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IISu 21:7)
- Trận chiến thứ hai với dân Phi-li-tin (c.18 ISu 20:4), xảy ra ở Góp, chúng ta không thể xác định vị trí của nó, ở nơi nầy dân Y-sơ-ra-ên đã thắng vì một trong các dõng sĩ của Đa-vít đã giết tên khổng lồ (ISu 11:29). Việc tên của những người khổng lồ lưu danh cho thấy họ là những chiến binh nổi tiếng.
- Cuộc chiến thứ ba với dân Phi-li-tin (c.19), xảy ra tại Góp một lần nữa, và lần nầy em của Gô-li-át là người bị giết chết. Chúng ta rất ít biết về Ên-cha-nan, ngoại trừ chi tiết ông đến xuất thân từ Bết-lê-hem và là một trong những dõng sĩ của Đa-vít (IISa 13:24).
-Trận thứ tư xảy ra ở Gát trong lãnh thổ của kẻ thù (c.20-22 ISu 20:6-8), và Giô-na-than, cháu của Đa-vít đã giết chết tên khổng lồ, giống như Gô-li-át, tên khổng lồ nầy đã thách đố Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (ISa 17:10).
Khi còn trẻ Đa-vít đã giết chết Gô-li-át, chắc chắn ông là tấm gương sáng cho người Y-sơ-ra-ên về đức tin nơi Đức Chúa Trời; Ngài là Đấng ban chiến thắng. Biết làm thế nào để tự mình giết chết những tên khổng lồ là rất tốt, nhưng còn phải giúp người khác giết chết những tên khổng lồ trong đời sống của họ nữa.
11. BÀI CA CHIẾN THẮNG CỦA ĐA-VÍT (IISa 22:1-51 (Thi 18:1-50)
Sách Sa-mu-ên thứ nhất có chép lại bài ca của An-ne khi bà đem Sa-mu-ên dâng cho Đức Giê-hô-va tại đền tạm, và Sách Sa-mu-ên thứ hai có ghi lại bài ca của Đa-vít sau khi Đức Giê-hô-va giúp ông đánh bại quân thù (c.1 IISa 18:1-50 tiêu đề). Thật ý nghĩa khi hai sách với đầy những đau thương và gánh nặng lại có trong nó những bài ca ngợi khen! Dù trải qua những ngày tăm tối, dù ký ức của chúng ta toàn là đau khổ, chúng ta cũng có thể ca ngợi Đức Chúa Trời luôn luôn.
Trong bài ca nầy, Đa-vít tạ ơn Đức Giê-hô-va vì Ngài ban cho ông nhiều chiến thắng, trong sự khoan dung và đường lối khôn ngoan của Ngài, Đức Giê-hô-va đã đem ông lên ngai vàng của Y-sơ-ra-ên. Nên nhớ rằng Sau-lơ không bị kể là kẻ thù của Đa-vít, dù Sau-lơ làm gì cho ông đi nữa, ông không bao giờ đối xử với Sau-lơ như kẻ thù. Có thể II Sa-mu-ên 22 là bảng gốc, nhưng khi bài ca nầy được sủa lại cho hợp với sữ thờ phương Đa-vít đã viết câu mở đầu: “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là năng lực tôi, tôi yêu mến Ngài“ (Thi 18:1).
Từ Hy-bá-lai được dùng với nghĩa “yêu mến” có nghĩa là “tình yêu thương sâu xa và tha thiết”, không phải một cảm xúc chóng qua. Ông cũng bỏ đi một phần trong câu 3 “Hỡi Đấng che chở tôi! Ấy Ngài giải cứu tôi khỏi sự hung bạo”. Có những khác biệt khác, nhưng chúng ta vẫn dễ dàng hiểu được sứ điệp của bài ca ngơi khen nầy.
Có thể không phải bài ca nầy được viết ngay sau sự thất bại của Sau-lơ và sự mở đầu triều đại Đa-vít tại Hếp-rôn. Từ câu 51 chúng ta đoán rằng Đa-vít viết nó sau khi Đức Chúa Trời lập giao-ước Ngài với ông (IISa 7:1-29) và ban cho ông những chiến thắng được ghi nhận trong IISa 8 và 10. Chúng ta có thể suy luận thêm từ c.20-27 rằng ông đã viết bai ca nầy trước khi ông phạm tội với Bát-sê-ba và U-ri (IISa 11:1-12:31), vì ông không bao giờ viết được c.20-27 sau kinh nghiệm đau buồn đó.
Trọng điểm trong bài ca nầy là những việc mà Đức Chúa Trời, trong ân điển và lòng thương xót của Ngài, đã làm cho Đa-vít.
1. Đức Giê-hô-va giải cứu Đa-vít (IISa 22:1-19)
“Giải cứu” là từ chìa khóa trong bài ca nầy (c.1,2,18,20,44,49), nó mang nghĩa “cứu khỏi nguy hiểm, mang đi khỏi, cho thoát khỏi.” Ít nhất trong 10 năm trước khi lên làm vua, Đa-vít bị Sau-lơ và quân của Sau-lơ rượt đuổi, Kinh Thánh có ghi lại ít nhất 5 lần Sau-lơ tìm cách giết Đa-vít. (ISa 10:10-11; ISa 19:8-10,18-24). Sau khi được làm vua, Đa-vít phải ra trận chiến đấu cùng dân Phi-li-tin, Am-môn, Sy-ri, Mô-áp, Ê-đôm, và Đức Chúa Trời đã giúp ông chiến thắng tất cả kẻ thù của mình.
Đa-vít mở đầu bài thơ bằng lời ngợi khen Đức Giê-hô-va vì Ngài là - hòn đá và đồn lũy, Đấng giải cứu (c.20) –hình ảnh nầy có được qua những năm tháng Đa-vít sống trong đồng vắng khi ông và những người theo ông phải trốn trong hang đá và những nơi trú ẩn tự nhiên. “Đức Chúa Trời là hòn đá tôi” (c.3) có thể được dịch là “Đức Chúa Trời như hòn đá của tôi”. Hình ảnh Đức Chúa Trời là “hòn đá” đã có từ Sa 49:24 và thường được dùng trong “Những bài ca của Môi-se” trong Phục 32 (c.4,15,18,30-31). An-ne đã dùng nó trong bài ca của mình (ISa 2:2), và thường được thấy trong các bài thi thiên. Hòn đá nhắc chúng ta về sức mạnh và sự kiên định, có thể nương dựa và không hề thay đổi. Dù các kẻ thù của Đa-vít cố gắng tìm giết ông, ông luôn cầu xin Đức Chúa Trời hướng dẫn và bảo vệ. Đức Chúa Trời là cái khiên che quanh ông và là Đấng giải cứu ông thoát khỏi bao hiểm nguy.
Hình ảnh hòn đá làm rõ hình ảnh nước lụt (c.4-7), và điều nầy dẫn đến hình ảnh sống động của cơn dông bão (c.8-20). Trong khi lưu lạc trong đồng vắng, chắc chắn Đa-vít nhìn thấy nhiều trận mưa dông (Thi 29:1-11) biến những lòng sông khô cằn thành những dòng nước cuồn cuộn (Thi 126:4). Dù lý do gì đi nữa, Đa-vít luôn phải tranh đấu với những lực lương hùng mạnh của Sau-lơ. Các lượn sóng của tử vong, lụt gian ác, những dây của địa ngục (xứ sở của sự chết), và lưới sự chết làm cho cuộc sống của Đa-vít rất khó khăn và đầy nguy hiểm. Không ngạc nhiên khi ông nói với Giô-na-than, “chỉ còn một bước cách tôi và sự chết mà thôi” (ISa 20:3).
Bạn sẽ làm gì khi bạn đang chết đuối trong cơn lụt của sự thù địch? Bạn kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va và tin Ngài cứu giúp bạn (c.7). Đa-vít là một chiến sĩ cầu nguyện, ông nương dựa nơi sự khôn ngoan, sức mạnh và sự giải cứu của Đức Chúa Trời và Ngài không bao giờ quên ông. Tại sao Đức Chúa Trời phải chờ một thời gian dài trước khi giải cứu Đa-vít và đem ông lên ngôi? Vì Ngài đang huấn luyện ông thành một người lãnh đạo, điều nầy được thực hiện chỉ bởi sự thử thách, sự khốn khổ, và sự tranh chiến. Nhưng Đức Giê-hô-va cũng có cách sắp xếp thời gian riêng của Ngài, vì “khi kỳ hạn đã được trọn” (Ga 4:4) từ dòng dõi Đa-vít, Đấng Mê-si-a sẽ đến thế gian.
Khi Đức Giê-hô-va đáp lời kêu nài của Đa-vít, giải cứu ông khỏi tay Sau-lơ và các kẻ thù của dân sự Đức Chúa Trời, thì giống như cơn dông bão sấm sét đã trôi qua (c.8-20). Đa-vít mô tả sự can thiệp của Đức Chúa Trời như cơn động đất (c.8) kéo theo ánh chớp, lửa và khói (c.9). Đức Giê-hô-va nổi giận! (Thi 74:1; Thi 140:10). Nổi rõ trên nền trời đen kịt, Đức Chúa Trời ngự xuống trên đám mây ở trên lưng chê-ru-bim. Cơn dông bão dữ dội! Trong Kinh Thánh bão tố có thể là hình ảnh của một đội quân đang tiến công (Exe 38:9; Da 11:40; Ha 3:14) hoặc sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (Gie 11:6 Gie 23:19; Gie 25:32). Mũi tên của Đức Chúa Trời giống như tia chớp, tiếng của Ngài như sấm, và gió giống như hơi thở giận dữ từ mũi Ngài. Không ngạc nhiên khi các kẻ thù Ngài đã bỏ chạy trong khiếp sợ! Đa-vít không xem mình là một nhà lãnh đạo vĩ đại, là người cầm đầu đội quân chiến thắng, nhưng như một đầy tớ của Đức Chúa Trời, biết tin cậy Đức Giê-hô-va để thắng trận. Ông dâng mọi vinh quang cho Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời không chỉ “ngự xuống” (c.10), nhưng Ngài còn “giơ tay” và kéo Đa-vít ra khỏi vùng nước nguy hiểm.
2. Đức Giê-hô-va ban thưởng cho Đa-vít (IISa 22:22-28)
Ít nhất trong 10 năm Đa-vít phải ở những nơi “chật hẹp”, nhưng giờ ông được Đức Giê-hô-va đem ra nơi “rộng rãi” (c.20). Đức Chúa Trời có thể ban cho ông một nơi rộng lớn vì đời sống Đa-vít được thêm rộng mở qua những thử thách.
“Khi tôi bị gian truân Ngài để tôi trong nơi rộng rãi” (Thi 4:1) Đa-vít thường kêu lên rằng “Ngài đem tôi ra nơi rộng rãi” nhưng đồng thời, Đức Chúa Trời mở rộng đường cho tôi tớ Ngài và chuẩn bị anh ta cho một nơi rộng lớn hơn (IISa 18:19,36). “Trong gian truân tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va; Đức Giê-hô-va bèn đáp lời tôi, để tôi nơi rộng rãi” (Thi 18:5). Trong trường đời, Đức Chúa Trời đề cao những ai trong ngày khó khăn biết học bài học về đức tin và lòng kiên nhẫn (He 6:12), a-vít là người học tốt bài học ấy.
• Sự công bình của Đa-vít (IISa 22:21-25).
Đọc sơ những câu nầy chúng ta nghĩ rằng Đa-vít đang khoe khoan về chính mình, nhưng không phải như vậy. Đa-vít đang ngợi khen Đức Giê-hô-va vì giúp ông sống một đời sống không chỗ trách được trong nguy hiểm và khó khăn. Hãy nghĩ xem thật khó khăn thế nào khi vừa phải giữ trọn luật pháp của Đức Giê-hô-va trong đồng vắng Giu-đa vừa phải trốn chạy để bảo toàn mạng sống mình!
Trong tất cả những gì ông đã làm, Đa-vít luôn cố làm vui lòng Đức Chúa Trời, vâng theo luật pháp Ngài và tin nơi lời hứa của Ngài. Những câu Kinh Thánh nầy mô tả Đa-vít là một người thanh liêm (Thi 78:72), “một người theo lòng Ngài,”(ISa 13:14). Đa-vít biết nưong vào lời hứa của Đức Chúa Trời và Ngài khen ngợi ông. Vua Sau-lơ vi phạm những điều khoản của giao-ước ấy, và Ngài đã trừng phạt ông ta.
Điều nầy không có nghĩa là Đa-vít không có một vết nhơ nào và luôn làm điều đúng. Có những lúc Ngài làm ông nản lòng và nhờ kẻ thù giúp đỡ, nhưng đây là những sự việc ngoài ý muốn trong cuộc đời được dâng trọn vẹn cho Đức Giê-hô-va.
Đa-vít chỉ tôn vinh một mình Đức Giê-hô-va và không bao giờ xây qua các thần khác. Ông không làm ô danh Đức Giê-hô-va; ông yêu thương và bảo vệ cha mẹ mình (ISa 22:1-4) khi ông có cơ hội giết chết Sau-lơ, ông đã không ra tay với người được Đức Chúa Trời xức dầu.
Suốt trong những “năm tranh chiến” của mình không có bằng chứng nào cho rằng Đa-vít đã phạm tội ăn cắp, tà dâm hay làm chứng dối cho người khác. (thật ra, hính Sau-lơ đã nói dối về Đa-vít).
Đa-vít là người rộng lượng, ông không nuôi lòng tham. Chúng ta không biết Đa-vít tôn trọng ngày Sa-bát như thế nào khi ông ở xa cộng đồng của giao-ước, nhưng không có lý do để tin rằng ông vi phạm điều răn thứ tư. Theo sự công bình của luật pháp, Đa-vít là người có tay trong sạch, tấm lòng thánh khiết (Thi 24:3-6), và ông nhận được sự ban thưởng từ Đức Giê-hô-va.
• Sự thành tín của Đức Giê-hô-va (IISa 22:26-28).
Đức Giê-hô-va không bao giờ làm trái những thuộc tính của Ngài. Đức Chúa Trời đối đãi với dân sự tùy theo thái độ và hành động của họ. Đa-vít khoan dung cho Sau-lơ và tha mạng sống cho ông ít nhất hai lần, và Đức Giê-hô-va đã khoan dung với Đa-vít. “Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót!” (Mat 5:7).
Đa-vít thành tín với Đức Giê-hô-va, và Ngài thành tín với ông. Đa-vít có lòng ngay thẳng, ông một lòng phục sự Đức Chúa Trời. Đa-vít không phải là người vô tội – không người nào là vô tội trên thế gian nầy nhưng ông không chỗ trách được trong động cơ và lòng trung thành với Đức Giê-hô-va. Trong ý nghĩa đó, tấm lòng của ông thật thanh khiết: “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời!” (Mat 5:8).
Không giống Sau-lơ, Đa-vít không ngoan cố nhưng đầu phục ý muốn của Đức Chúa Trời (c.27). “Còn đối cùng kẻ trái nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt nhiệm lại” nhắc chúng ta rằng đức tin là sống mà không có mưu toan và lời biện hộ, Sau-lơ luôn mắc hai lỗi nầy. Từ Hy-ba-lai dịch cho từ ngữ “trái nghịch” xuất xứ từ một gốc từ có nghĩa là “chống nghịch với”. Đa-vít không tranh chiến với Đức Chúa Trời hoặc ý muốn của Ngài, nhưng Sau-lơ thì luôn như vậy; và đó là lý do tại sao Đa-vít được tôn cao còn Sau-lơ bị hạ thấp (IPhi 5:5-6; Gia 4:10).
Cuối cùng, Đa-vít kiêm hạ và tan vỡ trước mặt Đức Giê-hô-va, trong khi Sau-lơ đề cao chính mình và luôn xem mình là nhất. “Vì Chúa cứu dân bị khốn khổ; Nhưng mắt Chúa coi chừng kẻ kiêu căng đặng làm chúng nó bị hạ xuống” (c.28). An-ne đã đề cập đến chủ đề quan trọng nầy trong bài ca của mình cho Đức Giê-hô-va (ISa 2:3,7-8). Khi Sau-lơ bắt đầu thời trị vì của mình, ông đứng cao hơn người khác từ vai trở lên (ISa 10:23-24), hưng gần cuối đời ông đã té úp mặt tại nhà của một phù thủy (ISa 28:20) và té ngã trên chiến trường vì tự vẫn (ISa 31:1-6). “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo 10:12). Đa-vít cúi mặt trong sự đầu phục, và Đức Giê-hô-va nâng mặt ông lên trong vinh quang. Sau-lơ ngẩng mặt lên và cuối cùng phải cúi mặt trong nhục nhã.
Đức Chúa Trời luôn thành tín với thuộc tính của Ngài và giao-ước Ngài. Biết được thuộc tính của Đức Chúa Trời là yếu tố rất cần thiết để biết được ý muốn Ngài và làm đẹp lòng Ngài. Đa-vít biết giao ước của Đức Chúa Trời nên ông hiểu Ngài muốn ông làm gì. Thuộc tính của Đức Chúa Trời và Giao-Ước của Đức Chúa Trời là nền tảng cho những lời hứa của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta bỏ quên thuộc tánh và Giao-Ước của Đức Chúa Trời, húng ta không bao giờ nhận được lời hứa của Ngài.
3. Đức Giê-hô-va ban năng quyền cho Đa-vít (IISa 22:29-43)
Trong khúc ca nầy, Đa-vít đã nhìn về quá khứ và nhắc lại những gì Đức Chúa Trời đã cứu giúp ông trong những năm tháng lưu vong.
• Đức Giê-hô-va soi sáng cho Đa-vít (IISa 22:29).
Hình ảnh ngọn đèn chiếu sáng có thể ngụ ý lòng nhân từ của Đức Chúa Trời khi giữ mạng sống con người (Giop 18:5-6 Giop 21:17). Cuộc đời Đa-vít gặp nhiều nguy biến, nhưng Đức Giê-hô-va giữ gìn mạng sống ông và chu cấp mọi sự cần dùng cho ông.
Nhưng ngọn đèn sáng còn nói về thời trị vì của vua. Những người theo Đa-vít sợ rằng ngày nào đó Đa-vít ngã xuống nơi chiến trường và “ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên” sẽ tắt (IISa 21:17). Dù sau khi Đa-vít chết, ức Giê-hô-va vẫn thành tín với Giao-Ước Ngài và giữ cho ngọn đèn Đa-vít cháy mãi bằng cách duy trì triều đại của Đa-vít (IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IISu 21:7; Thi 132:17).
Nhưng Đức Chúa Trời soi sáng cho Đa-vít trong cách khác, vì Ngài mặc khải ý muốn của Ngài qua lời tiên tri trong việc dùng U-rim và Thu-mim. Sau-lơ đã tự mình quyết định, nhưng Đa-vít tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời trước. Suốt trong những ngày lưu vong tăm tối, Đa-vít có thể nói, “Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi tôi: Tôi sẽ sợ ai? Đức Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi: Tôi sẽ hãi hùng ai?” (Thi 27:1).
• Đức Giê-hô-va ban sức cho Đa-vít (IISa 22:30-35).
Hình ảnh ở đây cho thấy một chiến binh can đảm đạp bằng mọi thứ trên đường chiến thắng. Đức Chúa Trời ban sức cho Đa-vít để ông đối diện với kẻ thù mà không hề lo sợ, và xông ngang qua đạo quân và những chứng ngại mà họ giăng ra, và vượt qua các tường thành. Đường lối của Đức Chúa Trời thật trọn vẹn (c.31) và Ngài làm cho đường lối của Đa-vít ra trọn vẹn (c.33), vì Đa-vít tin cậy nơi Ngài. Đức Chúa Trời che chở cho Đa-vít trong chiến trận vì Đa-vít nương dựa hoàn toàn nơi Lời tinh tường của Đức Chúa Trời.
Thân thể Đa-vít thuộc về Đức Giê-hô-va (Ro 12:1), và Đức Chúa Trời dùng cánh tay, bàn chân và bàn tay ông (c.33-35) để đánh bại kẻ thù. Đa-vít là một chiến binh đầy ơn, nhưng chính quyền phép của Đức Chúa Trời giúp ông thành công. Giống như con nai nhanh nhẹn, ông có thể leo lên đến những đỉnh cao; dù vậy chân ông vẫn không xiêu tó (c.37). Đức Chúa Trời khiến cánh tay ông mạnh mẽ để có thể giương cung đồngvà bắn tên với một lực cực mạnh. Trong sức mạnh của Đức Giê-hô-va, Đa-vít không thể thất bại.
Đức Giê-hô-va mở rộng đường cho Đa-vít (IISa 22:36-43). Đức Chúa Trời mở đường cho Đa-vít (c.37) và để ông nơi rộng rãi (c.20), một lẽ thật tuyệt vời mà chúng ta đã xét qua rồi. Một câu đáng chú ý “sự hiền từ Chúa đã làm cho tôi nên sang trọng” (c.36) cho thấy giọng nói sửng sốt của Đa-vít vì Đức Giê-hô-va vạn quân đã chiếu cố ông và quan tâm đến ông.
Đa-vít luôn thấy mình là một người chăn chiên rất đỗi bình thường, không có một địa vị gì trong Y-sơ-ra-ên (ISa 18:18,23), nhưng Đức Giê-hô-va “bước xuống” và khiến ông nên cao trọng. Ngài khiến Đa-vít trở thành một chiến binh vĩ đại và làm nổi danh ông (IISa 7:23), Đa-vít biết lòng nhân từ lạ lùng nầy của Đức Chúa Trời, nhưng ước ao lớn nhất của Đa-vít là làm rạng danh Giê-hô-va khắp các nước (IISa 7:18-29).
Sự hạ cố bởi lòng nhân từ của Đức Giê-hô-va là chủ đề mà thường bị dân sự Đức Chúa Trời lãng quên. Như với Đa-vít, Đức Chúa Cha đã hạ cố để hành động trong cuộc đời chúng ta để tỉa sửa chúng ta chi phù hợp với công việc mà Ngài đặt để (Es 57:15), và Đức Chúa Con đã hạ mình vì chúng ta khi Ngài xuống thế gian như một tôi tớ và làm của lễ chuộc tội cho chúng ta (Phi 2:5-11). Đức Thánh Linh đã hạ cố xuống thế gian và sống trong dân sự Ngài! Đa-vít không nhìn lại những năm thánh lưu vong với những khó khăn gain khổ và “sự khắc nghiệt” của Đức Chúa Trời nhưng nhìn thấy sự hiềntừ của Đức Chúa Trời. Ông chỉ nhìn thấy sự nhân từ và thương xót dõi theo bước ông (Thi 23:6). Người đầy tớ trong thí dụ gọi đã chủ mình là “người nghiêm nhặt” (Mat 25:24), chắc chắc ông không có cái nhìn giống như Đa-vít!
Chúng ta có thể run rẩy khi đọc đến phần mô tả những chiến công của Đa-vít, nhưng chúng ta phải nhớ rằng ông đang đánh trận cho Đức Giê-hô-va. Nếu những nước nầy thắng trận và tiêu diệt Y-sơ-ra-ên, thì chuyện gì sẽ xảy ra cho kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời? Chúng ta sẽ không có Kinh Thánh, và chúng ta sẽ không có Cứu Chúa! Khi chống nghịch Đức Chúa Trời và thờ các thần tượng, những nước ngoại bang đã phạm tội nghịch cùng nguồn sự sáng, nên họ không có gì để bào chữa cho mình (Ro 1:18; Gios 2:1-24). Đức Giê-hô-va đã kiên nhẫn với họ trong nhiều năm (Sa 15:16), nhưng họ đã chối bỏ ân điển của Ngài. Đa-vít đuổi theo kẻ thù khi họ tìm đường tháo chạy (c.38,41) ông đánh bại họ, đè bẹp họ, và nghiền họ thành bụi đất! Họ thành ra như bùn trên đường.
4. Đức Giê-hô-va lập vững nhà Đa-vít (IISa 22:44-51)
Đánh trận và thắng kẻ thù là một chuyện, nhưng giữ vững đất nước dưới sự cai trị của mình là một chuyện khác. Đa-vít không chỉ thống nhất 12 chi phái Y-sơ-ra-ên, ông còn đương đầu với các nước lệ thuộc Y-sơ-ra-ên.
• Đức Giê-hô-va phong Đa-vít làm vua (IISa 22:44-46).
Các nước ngoại bang không muốn Y-sơ-ra-ên có vua, hất là có vua như vua Đa-vít, một nhà chiến lược khôn ngoan, một chiến binh can đảm, một người lãnh đạo được yêu mến. Tuy nhiên Đức Chúa Trời không chỉ lập Đa-vít làm vua, mà còn hứa cho triều đại của Đa-vít được tồn tại đời đời. Đức Giê-hô-va hứa ban ngai vàng cho Đa-vít, Ngài đã giữ lời. Ngài cũng giúp Đa-vít thống nhất đất nước và giải quyết những người còn trung thành với Sau-lơ. Từ “người ngoại quốc” trong câu 45-46 có nghĩa là những người ở các nước ngoại bang.Những chiến thắng của Đức Giê-hô-va làm những dân nầy khiếp sợ và tháo chạy tìm nơi ẩn núp. Cuối cùng họ sẽ ra khỏi đồn lũy mong manh của mình để đầu phục Đa-vít.
• Đức Giê-hô-va đưa Đa-vít lên địa vị cao trọng (IISa 22:47-49).
Lời ngợi khen của Đa-vít “Đức Giê-hô-va hằng sống” (c.47 là lời làm chứng cho các dân ngoại rằng các thần tượng của họ không thể giải cứu và bảo vệ họ (Thi thiên 115). Duy chỉ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, những chiến công và sự lên ngôi của Đa-vít chứng minh Đức Chúa Trời đã ở cùng ông. Đa-vít không bao giờ tự đề cao mình, ông tôn cao Đức Chúa Trời. Đa-vít kết thúc bài ca bằng lời ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời cao cả và thánh khiết của Y-sơ-ra-ên. Ông tôn cao Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời tôn cao ông (Mat 6:33; ISa 2:30). Nếu chúng ta tự tán dương danh của mình hay những việc làm của mình, chúng ta sẽ phạm tội, nhưng nếu Đức Chúa Trời tán dương chúng ta, chúng ta có thể đem vinh quang về cho danh Ngài (Gios 3:7).
• Đức Giê-hô-va lựa chọn Đa-vít (IISa 22:50-51).
Sự lựa chọn tối thượng của Đức Chúa Trời để cho Đa-vít làm vua và lập giao ước với ông, hình thành một nền tảng cho tất cả những gì Ngài làm cho tôi tớ Ngài. Y-sơ-ra-ên được kêu gọi làm nhân chứng với các nước, và Đa-vít có trách nhiệm xây dựng một đất nước sẽ làm rạng danh Đức Chúa Trời.
Thật là tệ vì tội lỗi của ông với Bát-sê-ba đã làm ô danh Đức Chúa Trời (IISa 12:14). Tuy nhiên, Đa-vít là vua được Đức Chúa Trời xức dầu, giao ước giữa Đức Chúa Trời và ông sẽ tồn tại. Cuối cùng sẽ được ứng nghiệm trong sự cai trị của Chúa Cứu Thế Giê-xu trong Nước của Ngài.
Phao-lô trích câu 50 trong Ro 15:9 để động viên tín hữu ở các Hội thánh tại Rô-ma. Các tín hữu là người ngoại bang ở Rôma vui hưởng sự tự do trong Cứu Chúa trong khi các tín hữu người Do-thái vẫn còn chịu ràng buộc dưới Luật pháp Môi-se. Phao-lô nói rõ rằng Chúa Cứu Thế đến cho cả người Do-thái lẫn người ngoại bang để làm trọn lời hứa với người Do-thái và chết cho cả người Do-thái lẫn người ngoại bang. Từ những ngày đầu tiên nước Y-sơ-ra-ên được khai sinh, khi Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, Đức Giê-hô-va đã có ý định cứu luôn người ngoại bang trong kế hoạch cứu rỗi bởi ân điển Ngài. (Sa 12:1-3; Lu 2:29-32; Gi 4:22; Eph 2:11).
Những câu liên tiếp trong Ro 15:8-12 thật có ý nghĩa. Chúa Giê-xu khẳng định lời hứa của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (c.8) và Y-sơ-ra-ên rao truyền sứ điệp cứu rỗi cho các dân ngoại bang (c.9). Cả người Do-thái và người ngoại bang tin Chúa đều như một thân thể thuộc linh cùng nhau ca tụng danh Ngài (c.10); và tất cả các nước nghe được tin lành của Phúc-Âm (c.11). Khi Chúa Giê-xu trở lại, Ngài sẽ cai trị cả người Do-thái và người ngoại bang trong Nước vinh hiển của Ngài (c. 12). Ngay từ những ngày đầu nầy, hoạch định của Đức Chúa Trời là dân Y-sơ-ra-ên sẽ làm phương tiện để rao sự cứu rỗi cho thế gian hư mất. “Sự cứu đến từ Đức Giê-hô-va!” (Gion 2:10) và “Sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:22). Người Ngoại bang mắc nợ người Do-thái (Ro 15:27), và người Cơ-đốc dân ngoại bang phải trả món nợ ấy. Họ có thể tỏ lòng cảm kích đối với dân Y-sơ-ra-ên qua lời cầu nguyện cho sự cứu rỗi của họ (Ro 9:1-5 Ro 10:1) và cho sự hòa bình của Giê-ru-sa-lem (Thi 122:6), hết lòng làm chứng khi có cơ hội (Ro 1:16) và chia xẻ những nhu cầu vật chất (Ro 15:27).
Khi đọc lại bài thi thiên nầy, ạn có thể thấy những gì đã làm cảm động lòng Đa-vít. Ông đã nhìn thấy Đức Chúa Trời và đề cập đến Ngài ít nhất 19 lần. Ông nhìn thấy Đức Chúa Trời trong mọi khía cạnh trong đời sống, cả lúc vui mừng cũng như trong hoạn nạn. Ông đã nhìn thấy những mục đích của Đức Chúa Trời trong cuộc đời ông và cho nước Y-sơ-ra-ên và vui mừng vì được là một phần trong những mục đích đó.
Nhưng phấn khỏi hơn hết, dù trong những lúc khó khăn nhất, Đa-vít vẫn nhìn thấy bàn tay nhân từ của Đức Chúa Trời, khuôn đúc cuộc đời ông và làm thành những mục đích của Ngài (c.35). Những vấn đề lớn (Thi 25:17) đã “làm Đa-vít lớn lên” (Thi 4:1) và chuẩn bị ông cho những nhiệm vụ lớn hơn (IISa 22:37) trong nơi rộng rãi mà Đức Chúa Trời dành sẵn cho ông (IISa 22:20). Đó cũng có thể là những kinh nghiệm của chúng ta.
12. NHỮNG KÝ ỨC VÀ NHỮNG LỖI LẦM CỦA ĐA-VÍT (IISa 23:1-24:25) (ISu 11:10-41; ISu 21:1-26)
Sự chết của vua Đa-vít không được ghi lại trong II Sa-mu-ên, nhưng có trong (IVua 2:1-12. Tuy nhiên trong II Sa-mu-ên 23-24 có bài thơ cuối cùng của ông, danh sách kể tên của những vị tướng của ông, và trải nghiệm buồn vì tội tu bộ dân Y-sơ-ra-ên. Đoạn 21-24 được xem là phần phụ lục của sách II Sa-mu-ên và các đoạn đó tập trung nói về hai mặt của sự lãnh đạo, của Chúa và của con người.
Những quyết định của một nhà lãnh đạo có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, như được thấy qua những tội lỗi của Sau-lơ (đoạn 21) và Đa-vít (đoạn 24). Những nhà lãnh đạo phải nương cậy nơi Đức Chúa Trời và dâng sự vinh hiển cho Ngài, như hai bài thi thiên của Đa-vít cho thấy; không người lãnh đạo nào có thể làm việc một mình, như chúng ta biết bên cạnh Đa-vít có các tướng lãnh. IISa 23:1-24:25 cho chúng ta những chân dung của Đa-vít, chúng minh họa sự vĩ đại và nhân tính trong cuộc đời của nhà lãnh đạo nầy.
1. Đa-vít, một ca sĩ được linh cảm (IISa 23:1-7)
Ít nhất có 73 bài trong sách Thi-thiên được cho là của Đa-vít sáng tác, nhưng bài thi-thiên cuối cùng của ông chỉ được chép trong IISa 23:1-39. Câu “Nầy là lời sau hết của Đa-vít” có nghĩa là “lời cuối cùng được viết ra bởi sự linh cảm từ Đức Chúa Trời”. Bài thi-thiên nầy có thể được viết ra trong những ngày cuối cùng trong cuộc đời Đa-vít, rước khi ông qua đời không lâu. Vì chủ đề của bài thi-thiên nầy nói về người lãnh đạo tin kính, có thể ông đặc biệt viết cho Sa-lô-môn, nhưng trong nó có nhiều điều dành cho tất cả dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay.
• Những đặc ân của người lãnh đạo (IISa 23:1-2).
Đa-vít không bao giờ thôi kinh ngạc vì Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông làm vua Y-sơ-ra-ên, chăn dắt dân sự của Đức Chúa Trời, đánh trận cho Đức Chúa Trời, và góp phần viết ra Lời Đức Chúa Trời. Qua dòng dõi của Đa-vít Đức Chúa Trời đưa Chúa Cứu Thế vào thế gian. Theo cái nhìn của con người, Đa-vít là “người bình thường”, một gã chăn chiên, đứa con út trong một gia đình Do-thái bình thường; nhưng Đức Chúa Trời đã chọn ông và lập ông làm vua vĩ đại nhất của Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-hô-va đã ban cho Đa-vít bàn tay khôn khéo và tấm lòng liêm chính (Thi 78:70-72), trang bị cho ông để ông biết và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Là con trai của Y-sai, Đa-vít là người thuộc chi phái Giu-đa, chi phái nhà vua, điều mà Sau-lơ, vua tiền nhiệm của ông không có được. (Sa 49:10).
Đa-vít không tự đề bạt mình vào địa vị cao trọng đó; chính Đức Giê-hô-va đã chọn ông và đưa ông lên ngai vàng (Phuc 17:15). Đức Giê-hô-va đã bỏ ra 30 năm rèn luyện Đa-vít, đầu tiên là với bầy chiên trên đồng cỏ, sau đó với Sau-lơ trong trại quân, và cuối cùng với những người lính của ông trong đồng vắng Giu-đa. Những nhà lãnh đạo vĩ đại được huấn luyện riêng trước khi họ công khai hoạt động.
Goethe có viết “Tài năng được nuôi dưỡng tốt nhất ở nơi tĩnh lặng, tư cách được hình thành tốt nhất trong nơi sóng to gió lớn của thế gian”. Đa-vít được cả hai. Ông thành tín trong nơi riêng tư như một đầy tớ, nên Đức Chúa Trời có thể đưa ông lên làm một nhà lãnh đạo (Mat 25:21). Đức Giê-hô-va đã theo đúng trình tự nầy khi Ngài chuẩn bị Môi-se, Giô-suê, Nê-hê-mi, các sứ đồ và cả Con của chính Ngài (Phi 2:5-11; He 5:8).
Tiến sĩ D. Martyn Lloyd-Jones từng nói, “Thật là một thảm kịch khi người trẻ tuổi thành công trước khi anh ta sẵn sàng nhận lấy nó”. Đa-vít đã sẵn sàng nhận lãnh ngai vàng.
Đức Chúa Trời ban sức cho những người Ngài kêu gọi, và Ngài đã xức dầu cho Đa-vít bằng Thánh Linh Ngài (ISa 16:12-13). Tiến sĩ A. W. Tozer có nói, “Đừng bao giờ đi theo người lãnh đạo nào nếu như bạn chưa thấy dầu trên trán ông ta”, điều nầy giải thích tại sao nhiều người có tài đã đến với Đa-vít và gia nhập quân đội của ông. Một người lãnh đạo hiệu quả không chỉ cần có tài và được rèn luyện, anh ta còn phải biết tuyển mộ và đào tạo người khác trở thành những nhà lãnh đạo giỏi nữa. Chúa Giê-xu đã nhắc các môn đồ của Ngài, và cả chúng ta, “Vì ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được”. Những người lãnh đạo tôn giáo nào theo những nguyên tắc mà thế gian gọi là “thành công” ít khi đạt được cái gì vĩnh viễn để làm vinh hiển Đức Chúa Trời. “Ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (IGi 2:17).
Được con người đào tạo cũng đã tốt, nhưng quan trọng hơn là được Đức Chúa Trời rèn luyện. Oawald Chambers đã viết, “Chúa chúng ta trải qua 30 năm chuẩn bị cho 3 năm phục vụ. Một con dấu ngày nay mất 3 giờ chuẩn bị cho 30 năm sử dụng”.
Nhưng Thánh Linh không chỉ thêm sức cho Đa-vít trong trận chiến, Ngài còn cảm động ông viết ra những bài thi thiên hay, an ủi được tấm lòng của mỗi một chúng ta. Khi bạn nghĩ đến những thử thách mà Đa-vít phải trải qua để cho ra đời những bài thi thiên nầy, bạn càng đánh giá chúng cao hơn nữa. Đa-vít đã nói rõ rằng ông đang viết Lời của Đức Chúa Trời, không chỉ là những bài thơ tôn giáo. Phi-e-rơ gọi Đa-vít là “đấng tiên tri” (Công 2:30) và trong phân đoạn viết về Sự Giáng Lâm của Đức Thánh Linh có trích lại những lời Đa-vít viết về sự sống lại và sự thăng thiên của Đấng Mê-si-a (Công 2:24-36). Khi bạn đọc sách Thi-thiên, bạn đang đọc Lời của Đức Chúa Trời và biết về Con của Đức Chúa Trời.
• Trách nhiệm của người lãnh đạo (IISa 23:3-7).
Đức Chúa Trời không huấn luyện Đa-vít chỉ để làm hàng mẫu, nhưng vì Ngài có nhiệm vụ quan trọng cho ông làm; và cũng như vậy với mọi nhà lãnh đạo chân chính. Đa-vít phải cai trị dân sự của Đức Chúa Trời, “bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi 100:3), đây là một trách nhiệm vô cùng to lớn. Nó đòi hỏi nghị lực và sự thanh liêm (“công bình”) và thái độ đầu phục Đức Giê-hô-va (“kính sợ Đức Chúa Trời”). Không công bình và kính sợ Đức Chúa Trời, người lãnh đạo trở thành kẻ độc tài và ngược đãi dân sự của Đức Chúa Trời, sẽ đuổi họ đi như bầy ngựa thay vì chăn dắt họ như bầy chiên. Lãnh đạo Đa-vít là người phục vụ và là đầy tớ của dân, và ông luôn để lòng quan tâm đến ích lợi của dân sự (IISa 24:17). Ngày nay tôi được khích lệ khi thấy những chuyên gia ngoại giao đang so sánh những người lãnh đạo giỏi với những người chăn.
Đa-vít dùng hình ảnh ẩn dụ rất hay để minh họa công việc của người lãnh đạo: mưa và tia nắng mặt trời kết hợp với nhau để cho cây sinh ra trái tốt thay vì chông gai (c.4-7). Đa-vít minh họa nguyên tắc nầy trong đời sống của chính mình, vì khi ông lên ngôi có nghĩa là một ngày mới mở ra cho dân Y-sơ-ra-ên. Trong đó, ông nhắc chúng ta về những gì xảy ra khi Chúa Giê-xu đến thế gian (Thi 72:5-7; Es 9:2; Es 58:8; Ma 4:13; Lu 2:29-32). Với sự lên ngôi của Đa-vít, những giông bão mà Sau-lơ gây ra trên đất sẽ trôi qua và ánh sáng của mặt Đức Chúa Trời sẽ chiếu rọi trên dân sự Ngài. Dưới sự lãnh đạo của Đa-vít, sẽ có mùa gặt ơn phước đến từ Đức Giê-hô-va.
Với sự trợ giúp của Đức Chúa Trời, các nhà lãnh đạo phải tạo nên một môi trường thuận lợi để sự hợp tác của họ có thể vững mạnh và sinh bông trái. Nhiệm vụ lãnh đạo phải như nắng và mưa, gày nắng đẹp và ngày mây mù, nhưng nhiệm vụ của người lãnh đạo tin kính sẽ tạo ra cơn mưa nhẹ, nó đem đến sự sống không phải gây ra bão tố hủy diệt. Thật vui mừng biết bao khi được đi theo người lãnh đạo thuộc linh biết đem lại điều tốt nhất cho chúng ta và giúp chúng ta sống có kết quả dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời! Những lãnh đạo không thuộc về Chúa sinh ra chông gai làm trầy xước dân sự và làm cho sự phát triển gặp phải rất nhiều khó khăn.
Nhưng trong bài ca của mình, Đa-vít đã vượt xa hơn những nguyên tắc của chức lãnh đạo để tôn vinh sự đến của Đấng Mê-si-a (c.5). Đa-vít đề cập giao ước của Đức Giê-hô-va lập với ông (IISa 7:1-29), iao ước ấy bảo đảm với ông rằng triều đại và ngôi của ông sẽ còn đến đời đời và giao ước ấy đã được ứng nghiệm trong Đức Chúa Giê-xu (Lu 1:32-33,68-79).
Câu 5 nên hiểu là một câu hỏi: “Nhà ta chẳng phải như vậy trước mặt Đức Chúa Trời sao? Ngài chẳng phải đã lập với ta một giao ước đời đời, vững bền trong mọi sự và chắc chắn sao?” Câu hỏi đầu tiên không ngụ ý rằng tất cả con cái của Đa-vít đều tin kính Chúa, vì chúng ta biết rằng họ không như vậy. Nó chỉ muốn nói rằng nhà (triều đại) của Đa-vít vững chắc vì Đức Chúa Trời đã hứa như vậy trong giao ước Ngài. Không gì có thể thay đổi giao ước nầy; nó được bảo đảm đời đời bởi thuộc tính của Đức Chúa Trời.
Trong câu 5, Đa-vít một lần nữa dùng hình ảnh ra hoa kết quả; “Ngài sẽ không làm nẩy nở sự cứu rỗi tôi và ban cho tôi điều tôi hằng ao ước sao?” Điều Đa-vít ao ước là Đức Chúa Trời sẽ làm thành lời hứa của Ngài và ban cho nhân loại Đấng Mê-si-a, Người sẽ được sinh ra từ dòng dõi nhà Đa-vít. Về mặt lịch sử ngôi của Đa-vít kết thúc năm 586 T.C với thời trị vì của Xê-đê-kia, nhưng đó không phải là sự kết thúc của dòng dõi Đa-vít hay của nước Y-sơ-ra-ên.
Bởi ơn thần hựu, Đức Giê-hô-va đã biệt riêng dân Y-sơ-ra-ên và dòng dõi Đa-vít để Chúa Cứu Thế Giê-xu có thể được sinh ra tại Bết-lê-hem, thành Đa-vít. Một dân yếu đuối và nhỏ bé, nhưng Đấng Mê-si-a cũng đến trong hoàn cảnh như vậy! “Có một chồi sẽ nứt lên từ gốc Y-sai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái” (Es 11:1; Es 4:2; Es 6:13; Es 53:2). Nhưng sẽ có một ngày, gười gian ác sẽ bị nhổ khỏi đất như gai góc và bị đốt đi (c.6-7; Mat 3:10,12; Mat 13:40-42)
2. Đa-vít, người lãnh đạo được ơn (IISa 23:8-39) (ISu 11:10-47)
Đây là danh sách liệt kê tên của những vị tướng đi theo Đa-vít và những chiến công của họ, những người nầy đã luôn bên cạnh Đa-vít suốt những năm tháng lưu vong đầy gian khó và trong lúc ông trị vì đất nước.
• “Nhóm ba dõng sĩ” đầu tiên (IISa 23:8-12; IISa 11:10-14).
- Giô-sép-Ba-sê-bết là người được kể tên đầu tiên, ông ta cũng được biết với tên Adino và Gia-sô-bê-am (c.8 ISu 11:11). Ông làm đầu lính thị vệ của Đa-vít và nổi tiếng vì giết được 800 tên giặc cùng một lúc. ISu 11:11 nói ông giết 300 người. Như chúng ta đã biết, các con số đôi khi có sự khác biệt do lỗi của người sao chép. Có phải sự kính sợ Đức Giê-hô-va đã khiến những người nầy dám xông vào nơi hiểm nguy, hay sự can đảm của Gia-sô-bê-am đã động viên người khác ra trận và người ta tin rằng ông ta sẽ chiến thắng? Ông ta đã đánh thắng quân thù như thế nào không được nói rõ, nhưng không thể nào ông giết họ cùng một lúc chỉ với một cây giáo.
- Ê-lê-a-sa (c.9-10), xuất thân từ chi phái Bên-gia-min (ISu 8:4) và đã ở bên cạnh Đa-vít trong trận chiến với quân Phi-li-tin, có thể tại Pha-đa-mim (ISa 17:1 ISu 11:12-13). Trong khi nhiều người lính Y-sơ-ra-ên đang rút lui, ông ta vẫn kiên cường đánh trận cho đến khi gươm “dính cứng” nơi tay ông. Đức Giê-hô-va xem trọng đức tin và sự can đảm của Đa-vít và Ê-lê-a-sa và cho Y-sơ-ra-ên chiến thắng, sau việc đó những người lính khác quay trở lại bãi chiến trường để tước lột vũ khí và của cải của kẻ thù. Giống như Đa-vít, Ê-lê-a-sa không ích kỷ về những chiến lợi phẩm ấy, vì chiến thắng đến từ Đức Giê-hô-va (ISa 30:21-25).
- Người thứ ba là Sa-ma (c.11-12), cũng được Đức Chúa Trời sử dụng để đem lại chiến thắng tại Pha-đa-mim (ISu 11:13-14). Nhưng tại sao phải liều mạng sống mình để bảo vệ ruộng đậu? Vì đất thuộc về Đức Giê-hô-va (Le 25:23) và được ban cho Y-sơ-ra-ên để sử dụng vì sự vinh hiển của Ngài (Le 18:24-30). Sa-ma không muốn dân Phi-li-tin sở hữu những gì thuộc về Đức Giê-hô-va, vì dân Do-thái là những trông coi đất của Đức Chúa Trời. Tôn trọng đất có nghĩa là tôn trọng Đức Chúa Trời và giao ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên.
• “Nhóm ba dõng sĩ” thứ hai (IISa 23:13-17; ISu 11:15-19).
Ba người nầy không được nêu tên, nhưng họ có mặt trong 30 dõng sĩ được liện kê trong câu 24-29. Điều nầy cho thấy họ không phải là 3 người được kể tên trước. Tất cả con người được dựng nên đều bình đẳng trước mặt Đức Chúa Trời và luật pháp, nhưng không phải tất cả đều có cùng những ân tứ và khả năng; một số người có những ân tứ và cơ hội nhiều hơn những người khác. Tuy nhiên, việc chúng ta không thể giành được 3 vị trí đầu sẽ không làm chúng ta nản lòng để rồi không nổ lực hết mình cho 3 vị trí tiếp theo. Đức Chúa Trời không đánh giá chúng ta theo những gì Ngài giúp người khác làm được nhưng theo những gì Ngài muốn chúng ta làm với khả năng và cơ hội mà bởi ân điển Ngài ban cho chúng ta.
Việc Đa-vít trốn trong hang đá ở gần Bết-lê-hem cho thấy sự kiện nầy xảy ra trong thời gian Đa-vít trốn Sau-lơ hoặc không lâu sau khi ông làm vua và bị dân Phi-li-tin tấn công (IISa 5:7; ISu 14:8). Lúc đó là vào mùa gặt, có nghĩa là trời không có mưa và các giếng thì khô cạn. Không có nước trong hang là điều chắc chắn, Đa-vít thèm nước giếng ở Bết-lê-hem mà ông từng được uống khi còn bé.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đa-vít đã tự nói với mình về sự khát đó và không hề ra lệnh, nhưng 3 người nầy muốn làm vui lòng người lãnh đạo mình hơn bất cứ điều gì. Họ ở gần bên Đa-vít đủ để nghe được những lời thầm thì của Đa-vít, lòng trung thành của họ đủ để biến những lời ước ao ấy thành lệnh, và sự can đảm của họ đủ để làm theo lệnh đó bằng mọi giá. Họ đã đi 12 dặm, vượt qua hàng ngũ của quân thù và đem nước về. Đây là tấm gương sáng cho chúng ta trong mối tương giao của chúng ta với Cứu Chúa của mình!
Dù Đức Giê-hô-va đặt để gì trong tay Đa-vít, ông cũng dùng nó để tôn vinh Ngài và giúp cho dân sự Ngài một cái trành ném đá, một thanh gươm, một cây đàn, một cây vương trượng, thậm chí một cốc nước và lần nầy cũng không ngoại lệ. Khi Đa-vít nhìn vào cốc nước, ông không thấy nước trong đó, nhưng thấy huyết của 3 người lính đã liều mạng sống mình để làm ông vui lòng. Uống nước đó là xem nhẹ mọi người và hành động dũng cảm của ba người lính của mình. Điều đó nói lên rằng mạng sống của họ không quan trọng gì đối với ông. Thay vì vậy, Đa-vít đã biến hang đá thành đền thờ và rãi nước đó ra như một của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va, hư ông từng nhìn thấy các thầy tế lễ làm trong đền tạm. Của lễ nước thường được dâng chung với những của lễ khác, như của lễ thiêu, và không được dâng riêng một mình. Hành động của Đa-vít nói lên sự tận hiến cuộc đời ông để phục sự Đức Giê-hô-va.
Ba người lính đó đã dâng cuộc đời họ như một của lễ cho Đức Giê-hô-va và Đa-vít (Ro 12:1), nên Đa-vít nhập chung ông và họ để dâng lên cho Đức Giê-hô-va nhằm cho họ thấy rằng ông làm một với họ trong sự tận hiến cho Đức Giê-hô-va. Để diễn giải lời của ông trong IISa 24:24, Đa-vít không xem nhẹ những sự hy sinh mà ba người lính của ông đã bỏ ra. Tất cả những lãnh đạo nên noi gương Đa-vít và hãy tỏ cho lính của mình biết mình xem trọng họ và những hy sinh của họ như thế nào.
Chính Chúa Giê-xu đã phó thân mình làm của lễ chuộc tội chúng ta, và Ngài đã đổ huyết vì chúng ta (Thi 22:14; Es 53:12). Phao-lô đã dùng hình ảnh huyết tưới trên của lễ để mô tả sự tận hiến của ông cho Đức Giê-hô-va (Phi 2:17; IITi 4:6). Mẹ Teresa thường nói, “Chúng ta không thể làm điều lớn lao, chỉ làm được điều nhỏ với một tình yêu lớn lao”.
Nhưng những việc nhỏ mà chúng ta làm vì yêu Chúa sẽ biến thành những việc lớn. Theo như Chúa Giê-xu, bất cứ khi nào chúng ta bày tỏ lòng nhân từ và tình yêu thương với người khác và giúp họ trong lúc thiếu thốn, tức là chúng ta đang làm cho chính Ngài (Mat 25:34-40).
• Hai “dõng sĩ” đặc biệt (IISa 23:18-23; ISu 11:20-25).
-A-bi-sai (c.18-19) là cháu của Đa-vít và là em của Giô-áp, quan tổng binh của đội quân Đa-vít. Ông cũng là anh của A-sa-ên, là người bị Áp-ne làm như vô tình giết chết; và Giô-áp và A-bi-sai đã giết Áp-ne, trong sự hối tiếc của Đa-vít (IISa 2:1-3:39).
A-bi-sai là một người can đảm, ở đây ông được khen ngợi vì đã giết 300 lính của quân thù. Nhưng đôi khi ông tỏ ra quá khích hơn là khôn ngoan. Khi ở trong trại của Sau-lơ với Đa-vít vào một buổi tối, ông muốn giết chết Sau-lơ, nhưng bị Đa-vít ngăn lại (ISa 26:1-25) và ông cũng đề nghị chém đầu Si-mê-i vì tội rủa sả Đa-vít (IISa 16:9-11; IISa 19:21). Ông ta đã dẫn quân đội trong cuộc vây bắt Ráp-ba (IISa 10:10-14; và cứu mạng Đa-vít trong trận chiến với người khổng lồ (IISa 21:15-17).
A-bi-sai trung thành với Đa-vít trong những ngày Áp-sa-lôm phản nghịch và có nhiệm vụ chỉ huy một phần ba đội quân của Đa-vít (IISa 18:2,12). A-bi-sai là người có danh tiếng.
-Bê-na-gia (c.20-23 ISu 11:22-25) là người đặc biệt, ông được sinh ra để làm thầy tế lễ (ISu 27:5) nhưng đã trở thành người lính và chỉ huy đội cận vệ của Đa-vít (IISa 8:18; IISa 20:23). Trong Kinh Thánh, có những thầy tế lễ trở thành nhà tiên tri, như Giê-rê-mi.
Ê-xê-chi-ên và Giăng Báp-tít, nhưng Bê-na-gia là thầy tế lễ duy nhất trở thành người lính. Trên chiến trường ông là người dũng cảm và đánh thắng một số trận đáng kể. F.W. Boreham có một bài giảng tuyệt vời về sự kiện Bê-na-gia giết một con sư tử, trong bài giảng đó ông cho biết Bê-na-gia đã gặp phải kẻ thù tồi tệ nhất (sư tử) trong nơi tồi tệ nhất (trong một cái hố) trong điều kiện tồi tệ nhất (vào ngày đầy tuyết) và ông ta đã thắng! Bê-na-gia là người trung thành với nhà Đa-vít và ủng hộ Sa-lô-môn khi Sa-lô-môn làm vua (IVua 1:8-10).
Khi Giô-áp nổ lực đưa A-đô-ni-gia lên làm vua, chính Bê-na-gia đã giết chết ông, như vậy để làm tròn mạng lệnh của Đa-vít về Sa-lô-môn (IVua 2:5-6). Sa-lô-môn lập Bê-na-gia là đầu đội quân mình thay chỗ của Giô-áp (IVua 2:35; IVua 4:4; ISu 27:5-6). Giê-hô-gia-đa, con trai của Bê-na-gia, không theo binh nghiệp nhưng làm mưu sĩ cho vua Sa-lô-môn, thay thế cho A-hi-tô-phên (ISu 27:34).
• Ba mươi dõng sĩ (IISa 23:24-39; ISu 11:26-47).
Sau-lơ đứng cao hơn người khác từ vai trở lên, nhưng chính Đa-vít có tính cách và vóc người thu hút những người đang mong chờ một nhà lãnh đạo chân chính. Một đặc điểm của nhà lãnh đạo chân chính là có bên mình những người trung thành và tận tụy, không xu nịnh tâng bốc và ăn bám. Những quan quân của Sau-lơ là những người không thể tin được và bị mua chuộc tùy theo địa vị của mình (ISa 22:6), nhưng lính của Đa-vít là người biết hy sinh vì người lãnh đạo mình, và một số người thật đã làm như vậy.
Vì người xưa thường có hai hoặc ba tên với cách viết khác nhau nên không dễ so sánh bảng liệt kê trong IISa 23:1-39 và bảng trong ISu 11:1-47. Một số tên trong sách Samuên không có trong Sử-ký, nhưng danh sách cuối cùng có thêm 16 tên nữa (IISa 11:41-47). Có lẽ chúng là những cái tên được thay thế hoặc thay đổi. Những người không được đề tên trong Sử ký là Sa-ma con trai của A-ghê (c.11), Ê-li-ca (c.25), Ê-li-am (c.34) và Di-ganh (c.36). Sự khác nhau giữa hai danh sách nầy không nhiều và không chắc chắn, thành viên của nhóm nầy thay đổi theo thời gian vì người nầy chết đi và người kia vào thay thế.
Trong danh sách nầy, họ được chia thành 4 nhóm: 3 dõng sĩ đầu tiên (c.8-12), nhóm ba dõng sĩ thứ hai (13-17), hai lãnh đạo đặc biệt (18-23) và “Ba mươi dõng sĩ” khác (24-29). Nhưng trong câu 36 ghi nhận tên một người (“Di-ganh, con trai của Na-than, là con của Ga-đi”) hay tên của hai người (“Di-ganh, con trai của Na-than, và con của Ga-đi”)? Trừ ba người đem nước về cho Đa-vít, những người khác đều được nêu tên, nên dường như thật lạ khi tên của một người nào đó bị bỏ sót.
Có thể câu 36 chỉ đề cập một người, như vậy có tất cả 32 dõng sĩ trong tiêu đề chung là “Ba mươi dõng sĩ”, 29 người được kể tên và 3 người không được kể tên. Có lẽ “Ba mươi” chỉ là một biệt danh dành cho các binh lính giỏi nhất của Đa-vít, bất kể họ có bao nhiêu người, giống như “Mười Hai môn đồ” là biệt danh dành cho các sứ-đồ của Chúa Giê-xu. Nếu chúng ta thêm vào 32 người đó 3 người trong câu 8-12, và A-bi-sai và Bê-na-gia, thì có tất cả 37 người được đưa ra trong câu 39.
Hai cái tên quen thuộc với chúng ta: A-sa-ên, cháu Đa-vít và là em của Giô-áp và A-bi-sai (c.24), và U-ri người Hê-tít, hồng của Bát-sê-ba (c.39 ISu 11:41). Cả hai người nầy đề đã chết, nhưng tên của họ vẫn còn trong danh sách các chiến binh dũng cảm. Thật đáng buồn vì Đa-vít đã lấy mạng sống của một trong những dõng sĩ mình chỉ để che đậy cho tội lỗi!
Hai sự kiện khác cũng đáng quan tâm. Thứ nhất, Đa-vít không hành động một mình; ông được nhiều người tận tụy bên cạnh giúp đỡ. Chúng ta nghĩ Đa-vít là một chiến binh dũng cảm, và ông thật sự là như vậy, nhưng ông sẽ làm được gì nếu không có các binh lính trung thành và tài giỏi bên cạnh? Hầu hết những người được kể tên trong danh sách đều xuất thân từ chi phái Giu-đa. Điều nầy dễ hiểu vì Giu-đa là chi phái của Đa-vít và ông làm vua ở đó trước khi đất nước thống nhất.
Nhưng “Ba mươi dõng sĩ” cũng có kể đến 3 người từ chi phái Bên-gia-min, chi phái của Sau-lơ, và một số người từ các nước láng giềng. Tất cả những người nầy đều nhận thấy bàn tay của Đức Chúa Trời ở trên Đa-vít và họ muốn góp phần trong công việc mà Đức Chúa Trời đang thực hiện. Tính đa dạng trong số những người chỉ huy quân đội của mình nói lên nhiều điều về sự lãnh đạo của Đa-vít.
Thứ hai, Đức Chúa Trời ghi nhớ từng người một, tên của những người nầy đã được ghi vào Kinh Thánh, và sẽ có một ngày họ sẽ được ban thưởng tùy theo công việc của mỗi người. Tên của Đa-vít được nhắc đến hơn một ngàn lần trong Kinh Thánh, trong khi hầu hết những người nầy được đề cập một hoặc hai lần. Tuy nhiên, khi họ gặp mặt Đức Giê-hô-va, “ai nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh” (ICo 4:5).
Giô-áp là quan tổng binh của cả đội quân (IISa 20:23), nhưng ông chỉ được nhắc tên trong danh sách nầy chung với hai em mình, A-bi-sa- (18) và A-sa-ên (24 ISu 11:20,26). Trong những ngày cuối đời, Giô-áp không còn trung thành với Đa-vít và nổ lực đưa A-đi-nô-gia lên ngôi, và vì việc làm nầy ông phải trả giá bằng cả mạng sống mình (IVua 2:28-34).
3. Đa-vít, một tội nhân biết ăn năn (IISa 24:1-25) (ISu 21:1-30)
IISa 24:1 cho biết rằng Đức Chúa Trời giục lòng Đa-vít đếm số dân, trong ISu 21:11 lại nói Sa-tan đã khiến ông làm việc đó. Cả hai đều đúng: Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan cám dỗ Đa-vít để làm thành những mục đích Ngài định sẵn. Sa-tan chắc chắn chống nghịch dân sự của Đức Chúa Trời xuyên suốt lịch sử Cựu-ước, nhưng đây là một trong 4 lần trong Cựu-ước Sa-tan được nêu tên cách cụ thể và hành động công khai. Ba lần khác là khi nó cám dỗ Ê-va (Sa 3:1-24), khi công kích Gióp (Giop 1:1-2:13) và khi buộc tội thầy tế lễ Giê-hô-sua (Xa 3:1-10).
• Vua kiêu ngạo (IISa 24:1-9; ISu 21:1-6).
Không có gì trái lẽ về việc kiểm tra dân số, nếu nó được tiến hành theo những luật lệ được viết trong Xu 30:11-16; Dân 3:40-51. Nửa siếc-lơ nhận nơi cuộc tu bộ được dùng trả những chi phí cho đền thờ của Đức Chúa Trời (Xu 38:25-28). Là một người Do-thái mẫu mực, Chúa Giê-xu đã nộp thuế đền thờ (Mat 17:24-27), dù Ngài biết rằng thời đó nhiều viên chức trong đền thờ suy đồi và bị Cha Ngài chối bỏ (Mat 23:37-24:1). Cụm từ “dân sự” được dùng trong IISa 24:2,4,9,10; chỉ những lực lượng quân sự và được dùng cách nầy theo bản A.V (Authorized Version) trong ISa 4:3,4,17.
Nhưng cuộc tu bộ mà Đa-vít thực hiện không phải để thu thuế cho đền thờ; nó là cuộc đếm số quân để xem quân đội mình lớn mạnh bao nhiêu, như trong câu 9 cho thấy. Nhưng từng có một cuộc kiểm tra số quân ở Y-sơ-ra-ên trong quá khứ và Đức Giê-hô-va không đoán phạt đất nước (Dân 1:1-54; Dân 26:1-65). Vậy thì cuộc đếm số dân nầy có gì sai?
Giô-áp và các quan tướng của ông phản đối việc làm nầy (c.4) và lời của Giô-áp trong câu 3 có thấy mệnh lệnh của Đa-vít bị thúc đẩy bởi tính kiêu ngạo. Vua muốn tán dương thành tựu của mình hơn là làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Đa-vít có thể hợp lý hóa mong muốn nầy bằng cách lý luận rằng Sa-lô-môn, con trai ông là người chuộng hòa bình không có kinh nghiệm về quân sự. Đa-vít muốn chắc rằng sau khi ông qua đời, Y-sơ-ra-ên sẽ có những lực lượng cần thiết để giữ yên đất nước. Một yếu tố khác có thể nằm trong kế hoạch của Đa-vít, đó là tổ chức một đội quân, một chính phủ và các thầy tế lễ, cùng người Lê-vi để Sa-lô-môn có thể điều hành mọi việc dễ dàng hơn và có khả năng xây được đền thờ (ISu 22:1-27:34).
Dù lý do là gì, thì Đức Giê-hô-va cũng không đẹp lòng (ISu 21:17), nhưng Ngài cho phép Giô-áp và các quan tướng dành ra chín tháng 20 ngày để kiểm tra dân số từ độ tuổi 20 trở lên, là những người có thể gia nhập quân ngũ. Đôi khi sự đoán phạt nặng nề nhất của Đức Chúa Trời chỉ để chúng ta đi đúng đường.
Những người đi kiểm tra số dân rời Giê-ru-sa-lem, đi về hướng đông vượt qua sông Giô-đanh, và bắt đầu tại A-rô-e.Sau đó họ đi qua phía bắc ngang Gát và Ga-la-át đến biên giới cực bắc của Y-sơ-ra-ên, là nơi Đa-vít chiếm được và mở mang bờ cõi (IISa 8:1-18). Họ tiếp tục đi về phía tây đến Ty-rơ và Si-đôn và sau đó sang phía nam đến Bê-e-sê-ba ở Giu-da, thành xa nhất của Y-sơ-ra-ên.
Từ Bê-e-sê-ba, họ trở về Giê-ru-sa-lem, nhưng họ không đếm người Lê-vi (những người được miễn nghĩa vụ quân sự, Dân 1:49; Dân 2:33) và người Bên-gia-min. Đền tạm được dựng ở Ga-ba-ôn ở Bên-gia-min (ISu 16:39-40; ISu 21:29) và Giô-áp có thể đã nghĩ rằng rất không khôn ngoan khi bước vào vùng đất thánh để thực hiện sứ mạng tội lỗi nầy. Dù sao, au-lơ cũng đã xuất thân từ Bên-gia-min và ở đó vẫn còn những nhóm phản nghịch.Bên-gia-min rất gần với quê hương của Giô-áp và Giô-áp không muốn làm liều. Con số chưa đầy đủ là 1.300.000 người.
• Vua bị vạch tội (IISa 24:10-14; ISu 21:17-13).
Nhận biết mình thật ngu dại khi thực hiện phương án tu bộ dân sự, Đa-vít đã xưng tội mình và tìm kiếm Đức Chúa Trời. Ít nhất 6 lần trong Kinh Thánh chúng ta thấy Đa-vít nhận, “Ta đã phạm tội”; nhưng khi ông xưng tội nầy, ông đã nói, “thật là đã phạm tội rất nặng”. Hầu hết chúng ta đều nhìn nhận rằng tội ông phạm với Bát-sê-ba là tội nặng hơn, và còn ngu ngốc hơn, tội tu bộ dân sự, hưng Đa-vít thấy việc mình làm là một tội rất nặng. Tội của Đa-vít phạm với Bát-sê-ba đã lấy đi mạng sống bốn con trai của Đa-vít (con của Bát-sê-ba, m-nôn, Áp-sa-lôm và A-di-nô-gia) và của U-ri; nhưng sau cuộc tu bộ, Đức Chúa Trời đã giáng nạn dịch hạch và lấy đi mạng sống của 7 ngàn người. Đức Giê-hô-va hẳn nhất trí với Đa-vít rằng ông ta thật đã phạm tội rất nặng.
Tội của Đa-vít với Bát-sê-ba là tội của phần xác, chịu thất bại trước dục vọng sau một buổi chiều biếng nhác (IISa 11:2; Ga 5:19), nhưng tội kiểm tra dân số nầy là tội của phần linh (IICo 7:1), ột hành động cố ý chống ngịch Đức Chúa Trời. Nó bị thúc đẩy bởi tính kiêu ngạo, kiêu ngạo là tội đứng đầu trong những tội mà Đức Chúa Trời ghét (Ch 6:6-17).
William Barclay có viết, “Kiêu ngạo là nguyên nhân gây ra những tội khác, và là kẻ sinh ra tất cả những tội khác”. Cả Kinh Thánh và luật dân sự đều phân biệt giữa những tội vì phút bồng bột của cảm xúc và những tội vì cố ý chống nghịch và xét xử hai nhóm tội đó khác nhau (Phuc 19:1-13; Xu 21:12-14). Tu bộ dân sự là sự cố ý chống nghịch, và Đa-vít đã phạm tội với Nguồn của sự sáng. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã cho Đa-vít thời gian hơn 9 tháng để ăn năn, nhưng ông không đầu phục Ngài.
Trong những lần khác trong cuộc đời Đa-vít, Giô-áp thường không phải là người tin kính, nhưng ngay cả Giô-áp cũng phản đối việc làm nầy của Đa-vít, à cả những quan chức khác cũng vậy. Lẽ ra Đa-vít nên để ý những lời khuyên của họ, nhưng ông vẫn kiên quyết tiến hành cuộc kiểm tra dân số ấy.
Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã tha thứ những tội lỗi của chúng ta khi chúng ta xưng tội lỗi mình (IGi 1:9), nhưng trong sự phán xét công bình của Ngài, Ngài để chúng ta nhận lãnh hậu quả.Trong trường hợp nầy, Đức Giê-hô-va ban cho Đa-vít đặc ân được chọn hậu quả.Tại sao như vậy? Vì sự không vâng lời của Đa-vít là tội của ý chí, là sự chọn lựa cố ý của Đa-vít, nên Đức Chúa Trời cho ông có một chọn lựa khác và tự nêu ra hình phạt cho mình. Tiên tri Gát cho vua 3 chọn lựa và bảo ông cân nhắc, uyết định và trả lời khi ông ta quay lại.
Giữa lần viếng thăm thứ nhất và thứ hai, Đa-vít phải tìm kiếm mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài gia giảm thời gian của cơn đói kém từ 7 năm xuống còn 3 năm, điều nầy giải thích sự không nhất quán giữa IISa 24:13; ISu 2:12. Trong sự nhân từ của Ngài, Đức Chúa Trời thu ngắn những ngày đau khổ cho tuyển dân của Ngài (Mat 24:22).
Ba hình phạt được kể trong giao ước của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên (Phu 28:1-68), nên Đa-vít không hề ngạc nhiên vì chúng:đói kém, (Mat 28:23-24,38-40), thất bại trong chiến tranh (Mat 28:25-26,41-48), bệnh dịch (Mat 28:21-22,27-28,60-62). Trong luật pháp Do-thái, tội không chủ tâm của thầy tế lễ cả được tính tương đương với tội của cả hội chúng (Le 4:1-3,13-14), thì hình phạt dành cho vị vua cố ý phạm tội nầy lớn đến thế nào! Biết được lòng nhân từ của Đức Giê-hô-va, Đa-vít đã khôn ngoan chọn nạn dịch hạch làm hình phạt cho tội lỗi mình.
• Vua ăn năn (IISa 24:15-25; ISu 21:14-30).
Nạn dịch bắt đầu ngay sáng hôm sau và tiếp tục kéo dài trong 3 ngày, các thiên sứ không ra tay trừng phạt tại Giê-ru-sa-lem, giống như Giô-áp và những quan quân của ông đã làm (c.8). Tấm lòng người chăn của Đa-vít tan nát vì hình phạt nầy và ông cầu xin Chúa giáng án phạt trên ông. Tại sao Đức Chúa Trời giết hàng ngàn người trong khi cho Đa-vít được sống? Nhưng chúng ta phải chú ý câu IISa 24:1 cho biết rằng Đức Chúa Trời nổi giận cùng dân Y-sơ-ra-ên mà không phải cùng Đa-vít, nên Ngài phải phạt dân sự. Người ta nghĩ rằng nạn bệnh dịch nầy lấy đi mạng sống của những người từng theo Áp-sa-lôm phản loạn và những người không muốn Đa-vít làm vua của họ. Có thể như vậy, nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta biết gì về điều đó.
Đức Chúa Trời cho Đa-vít nhìn thấy thiên sứ bay lượn trên Giê-ru-sa-lem gần sân đạp lúa của A-rau-na (Ọt-nan), người Giê-bu-sít. Người Giê-bu-sít là những cư dân nguyên thuỷ của Giê-ru-sa-lem, nên Ọt-nan đã đầu phục sự cai trị của Đa-vít và trở thành một cư dân có tiếng tốt ở Giê-ru-sa-lem. Chúng ta không biết Đa-vít có nghe lời Đức Chúa Trời bảo thiên sứ ngưng trừng phạt dân sự hay không, nhưng Đa-vít biết rằng Đức Chúa Trời nhân từ và khoan dung, nên ông cầu xin Ngài thương xót “bầy chiên nơi đồng cỏ” (Thi 100:3). Các trưởng lão trong Y-sơ-ra-ên đi với Đa-vít (ISu 21:16) và cùng với ông sấp mặt xuống đất tỏ lòng ăn năn và thờ lạy. Chính tội của Đa-vít đã gây ra nạn dịch nầy, nhưng có lẽ họ nhận ra dân sự cũng phạm tội và đáng gánh chịu roi phạt của Đức Chúa Trời.
Một lần nữa, tiên tri Gát lại có mặt, lần nầy ông mang theo một sứ điệp đầy hy vọng. Đa-vít phải lập một bàn thờ tại sân đạp lúa của Ọt-nan dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va, và bệnh dịch sẽ chấm dứt. Là một vị vua, Đa-vít có thể lấy hoặc mượn tài sản của dân chúng (ISa 8:14), hưng ông nhất định đòi mua chỗ đất ấy. Đa-vít biết giá ông phải trả cho tội lỗi mình rất cao và ông không muốn dâng cho Đức Giê-hô-va điều gì không đáng giá. Bỏ ra 50 siếc-lơ bạc Đa-vít mua một con bò làm của tế lễ và cái ách gỗ làm củi đốt, và khoảng 600 siếc-lơ vàng để mua sân đạp lúa ấy (IISa 24:24; ISu 21:25). Khi thầy tế lễ dâng của lễ, Đức Chúa Trời đã giáng lửa từ trời xuống thiêu chúng như dấu hiệu cho thấy sự tiếp nhận của Ngài (21:26; Le 9:24).
Biết rằng vua có thể mua tài sản của mình, tại sao Ọt-ba muốn tặng không cho Đa-vít? Hay đề nghị của ông ta chỉ là một thí dụ khác về phép xả giao trong nghệ thuật mặc cả của Phương Đông? (Sa 23:1-20). Có lẽ Ọt-ba còn nhớ những chuyện đã xảy ra với con cháu của Sau-lơ vì những việc Sau-lơ làm với dân Ga-ba-ôn (IISa 21:1-14) và ông không muốn cuộc sống của các con trai ông bị đe doạ (ISu 21:20). Câu 23 trong bản dịch King James là có một chút khó hiểu và có ý nói rằng chính Ọt-nan là vua, nên bản NIV hay NASB thường được tra khảo hơn.
Chỗ đất mà Đa-vít mua không phải là mãnh đất bình thường, vì nó là nơi Áp-ra-ham đã đưa con trai ông lên bàn thờ (Sa 22:1-24) và ở đó Sa-lô-môn sẽ xây đền thờ cho Đức Giê-hô-va (ISu 22:1; IISu 3:1). Sau khi bệnh dịch chấm dứt, Đa-vít dâng chỗ đất đó cho Đức Giê-hô-va (Le 27:20-21)và dùng nó làm nơi dâng tế lễ và thờ phượng. Bàn thờ và đền tạm ở Ga-ba-ôn, nhưng Đa-vít được phép thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem. Chỗ đất ấy được thánh hóa và đến một ngày nó sẽ là nền của đền thờ cho Đức Chúa Trời. Đa-vít đã tuyên bố, “Ấy đây là đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, đây là bàn thờ về của lễ thiêu của Y-sơ-ra-ên” (ISu 22:1), và từ thời gian đó Đa-vít bắt đầu chuẩn bị mọi thứ cần dùng cho Sa-lô-môn xây dựng đền thờ.
Nếu bạn được hỏi hai tội lớn nhất của Đa-vít, hì bạn có thể trả lời, “Ông phạm tội tà dâm với Bát-sê-ba và tội tu bộ dân Y-sơ-ra-ên”; đây là câu trả lời đúng. Nhưng từ hai trọng tội này, Đức Chúa Trời đã xây một đền thờ! Bát-sê-ba đã sanh Sa-lô-môn và Đức Chúa Trời chọn con trai nầy kế vị Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên.Trên miếng đất Đa-vít mua và lập bàn thờ trên đó, Sa-lô-môn đã xây dựng một đền thờ và dâng nó cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Những gì Đức Chúa Trời làm cho Đa-vít chắc chắn không phải là sự miễn trừ tội lỗi (Ro 6:1-2), vì Đa-vít đã trả giá cao cho những gì ông đã phạm. Tuy nhiên, biết được những gì Đức Chúa Trời đã làm cho Đa-vít chúng ta được khích lệ để tìm kiếm mặt Ngài và tin nơi ân điển Ngài khi chúng ta không vâng lời Ngài.
”Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Ro 5:20).
Chúng ta đang hầu việc một Đức Chúa Trời đầy lòng nhân từ!
bottom of page