top of page
8. CON THÚ, THIÊN SỨ VÀ THỜI KỲ SAU RỐT (Da 8:1-27)
Từ...
...đoạn 8 cho đến cuối sách Đa-ni-ên, nội dung của sách được viết bằng tiếng Hê-bơ-rơ, vì những chương này nhấn mạnh chủ yếu đến chương trình của Đức Chúa Trời dành cho dân tộc Y-sơ-ra-ên trong kỳ sau rốt.
Từ Da 2:4-7:28, sách này được viết bằng tiếng A-ram bởi vì ở những đoạn này nhấn mạnh đến lịch sử và lời tiên tri về các vương quốc của Dân ngoại.
Chính dân tộc Y-sơ-ra-ên đã được Đức Chúa Trời chọn để làm phương tiện để bày tỏ sự mặc khải và cứu chuộc của Ngài ở thế gian. Thông qua dân Do-thái người ta có những hiểu về Đức Chúa Trời duy nhất hằng sống và chân thật, lời Kinh thánh, và điều quan trọng hơn cả là biết về Đấng Cứu Thế, là Chúa Giê-xu Christ. “Sự cứu rỗi từ người Do-thái mà đến” (Gi 4:22). Trong đoạn này, có năm nhân vật nổi bật trong giai đoạn trọng đại này của lịch sử và lời tiên tri.
1. Tiên tri Đa-ni-ên (Da 8:1-2,15-19,26-27)
Năm cai trị thứ ba của vua Bên-xát-sa là năm 551, vì thế khải tượng này đến với Đa-ni-ên trước khi có bữa tiệc định mệnh được mô tả trong đoạn 5. Điều này đã giải thích lý do tại sao Đế quốc Ba-by-lôn không còn được đề cập, vì trong vòng mười hai năm Ba-by-lôn đã bị Si-ru chinh phục.
Ông là người đã mở ra thời kỳ cai trị của người Mê-đi và Ba-tư. Căn cứ theo pho tượng lớn của vua Nê-bu-cát-nết-sa (Da 2:1-40), thời kỳ của cái đầu bằng vàng đã chấm dứt và thời kỳ của cánh tay và ngực bằng bạc đang bắt bắt đầu. Con sư tử có đôi cánh đại bàng đã bị con gấu miệng ngậm những chiếc xương sườn đánh bại (Da 7:4-5).
• Nhận khải tượng (Da 8:1-2).
Su-san (Su-sa) là một thành phố mằm cách Ba-by-lôn khoảng 200 dặm về phía đông nam, và vào thời điểm đó nó không có vai trò quan trọng đối với người Ba-by-lôn. Cuối cùng nó đã trở thành thủ đô của Vương quốc Ba-tư (Ne 1:1 Et 1:2). Con sông U-lai (Da 8:2,16) có thể là một con kênh chảy ngang qua Su-sa.
Có thể không phải là Đa-ni-ên đã rời Ba-by-lôn đi đến Su-sa để nhận khải tượng. [51]. Mà có lẽ là Đức Chúa Trời đã đưa ông đến Su-sa như cách Ngài đưa Ê-xê-chi-ên đến Giê-ru-sa-lem (Exe 8:40) và Sứ đồ Giăng đến đồng vắng (Kh 17:3) và lên trên núi cao (Kh 21:10). Vì Đa-ni-ên sắp mô tả về chiến thắng của người Mê-đi và Ba-tư trên dân Ba-by-lôn, nên Đức Chúa Trời đã cho ông thấy trước tương lai thủ đô của Đế Quốc Ba-tư này.
• Hỏi ý nghĩa của khải tượng này (Da 8:5-19).
Ở phần đầu của sách này, Đa-ni-ên đã có được khả năng giải nghĩa và giải thích những giấc chiêm bao và khải tượng của những người khác; nhưng ở đây ông đã phải hỏi vị thiên sứ về ý nghĩa của hình ảnh con cừu đực đánh bại con dê và hình ảnh chiếc sừng nhỏ trở thành một vương quốc hùng mạnh. Giọng nói đã ra lệnh cho thiên sứ Gáp-ri-ên có lẽ là giọng của Đức Chúa Trời.
Tên Gáp-ri-ên có nghĩa là “người của Đức Chúa Trời” và chính vị này đã giải thích cho Đa-ni-ên khải tượng được đề cập trong đoạn 8 cũng như khải tượng về bảy mươi tuần lễ (Da 9:21-22). Nhiều thế kỷ sau, thiên sứ Gáp-ri-ên đã được sai đến cùng với thầy tế lễ Xa-cha-ri để thông báo về sự ra đời của Giăng Báp-tít (Lu 1:11-20), và đến với Ma-ri để báo tin rằng bà sẽ hạ sanh Đấng Mê-si-a (c.26-38). Còn duy nhất một thiên sứ khác được kể tên trong Kinh thánh đó là thiên sứ Mi-chen (nghĩa là “Có ai như Đức Chúa Trời?”), vị này đặc biệt được bổ nhiệm để chăm lo cho dân tộc Y-sơ-ra-ên (Lu 10:13,21; Lu 12:1; Giu 1:9; Kh 12:7).
Khi thiên sứ Gáp-ri-ên tiến đến gần Đa-ni-ên, vị tiên tri này đã rất hoảng sợ và ngã ra bất tỉnh vả chìm vào một giấc ngủ sâu (Da 10:9,15,17; Kh 1:17). Thiên sứ Gáp-ri-ên đã gọi ông là “con của loài người”, đây vốn là một danh hiệu của đấng Mê-si-a (Da 7:13) nhưng ở đây nó được dùng để nói đến sự yếu đuối và bản tính con người của vị tiên tri này.
Thiên sứ đã đánh thức Đa-ni-ên dậy (Da 10:10-11,16,18) và người đã giải thích cho ông rằng khải tượng đó cho thấy những thời kỳ sau này của lịch sử Do-thái. “Sự phẫn nộ” cho thấy Đức Chúa Trời không hài lòng về dân sự Ngài và những thời kỳ dân Y-sơ-ra-ên phải gánh chịu sự cực khổ, trước khi thời kỳ cuối cùng xảy đến và vương quốc của lời hứa được thiết lập.
2. Si-ru, vua của Ba-tư (Da 8:3-4,20)
Đây là người đã chinh phục Ba-by-lôn. Nhiều thế kỷ trước khi Si-ru xuất hiện trên chính trường, tiên tri Ê-sai đã nhắc đến tên ông và thậm chí đã gọi ông là “người chăn bầy” [52]. của Đức Chúa Trời (Es 41:2,25; Es 44:28-45:4). Chính Si-ru là người đã được Đức Chúa Trời chọn để đánh bại người Ba-by-lôn và cho phép dân Do-thái trở về quê hương của họ.Ba-by-lôn đã được đồng hoá với sư tử và chim đại bàng, thì cũng vậy Ba-tư được đồng hóa với cừu đực. Hai chiếc sừng tượng trưng cho người Mê-đi và Ba-tư, trong đó người Ba-tư hùng mạnh hơn.
Si-ru và quân đội của ông thật sự đã “loán đến phía tây, phía bắc và phía nam” và đánh bại những kẻ thù của họ.
Họ đã chiếm được Ly-bi, Ai-cập, toàn bộ vùng Tiểu Á, và tiến đến tận Ấ-độ, hình thành một Đế quốc rộng lớn nhất ở phương đông thời cổ đại cho đến thời của A-lịch-sơn Đại đế. Khi đã thống nhất được những vùng đất mình đã chinh phục, ông đã tấn công Ba-by-lôn và chiếm được nó vào năm 539.
Vua Si-ru độ lượng với những dân mà người đã bắt làm phu tù và đã cho phép dân Do-thái trở về quê hương để xây lại đền thời và khôi phục đất nước (Es 44:28; IISu 36:22-23; Exo 1:1-3; Exo 6:2-5). Ông cũng đã cho phép họ mang theo về những bình thánh mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã lấy từ đền thờ (Exo 1:5-11).
Hình ảnh được dùng để miêu tả Sy-ru rất hấp dẫn. Ông được gọi là “người công bình” (Es 41:2), hay theo như cách dùng của bản NIV là ‘gọi người trong sự công bình”. Điều này có nghĩa là ông được gọi để làm trọn những mục đích công bình của Đức Chúa Trời trong việc giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi ách của người Ba-by-lôn, và cho phép họ trở về quê hương. Đức Chúa Trời tối cao của chúng ta có thể dùng cà vị vua ngoại giáo để thực hiện hoàn tất mục đích của Ngài! Es 4:25 đã dùng hình một người đang dẫm lên trên đất vôi hay trên đất sét mềm để miêu tả cuộc chinh phục thắng lợi của ông, bởi vì những chất liệu này không thể ngăn cản được ông (Es 45:1).
Tiên tri Ê-sai cũng đã gọi ông là người được Đức Chúa Trời xức dầu (Es 45:1), Ngài sẽ đi đặng mở các cửa thành trước mặt ông. Ngay cả những cánh cổng kiên cố của thành Ba-by-lôn cũng không thể đứng vững trước cuộc hành quân toàn thắng của ông!
Tại sao Đức Chúa Trời lại kêu gọi vua Si-ru? “Vì cớ Gia-cốp, tôi tớ ta, và Y-sơ-ra-ên kẻ chọn lựa của ta” (c.4). Dù các dân tộc ngoại bang có đối xử tàn nhẫn với dân Y-sơ-ra-ên thế nào, thì Đức Chúa Trời vẫn dùng các dân tộc này để làm thành những mục đích đã được định trước của Ngài. Những hoạch định của Ngài dành cho dân Y-sơ-ra-ên sẽ được hoàn tất cho dù các dân ngoại bang có chống đối họ đến đâu.
3. A-lịch-sơn Đại đế của Hy-lạp (Da 8:5-8,21-22)
Trong pho tượng của vua Nê-bu-cát-nết-sa, Hy-lạp được miêu tả là bụng và hông bằng đồng (Da 2:32,39), và trong khải tượng của Đa-ni-ên được mô tà ở đoạn 7. Hy-lạp là một con báo lanh lẹ có bốn cái đầu.
Còn ở đây Đa-ni-ên lại thấy Hy-lạp giống như một con dê đực đang giận dữ. Con dê đực này chạy nhanh đến nỗi chân nó không chạm đất! Chiếc sừng lớn nhô lên đại diện cho A-lịch-sơn Đại đế. Ông đã lãnh đạo những đội quân Hy-lạp đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác và mở rộng phạm vi của đế quốc mình thậm chí còn vượt xa hơn cả những gì vua Si-ru cùng với quân đội người đã đạt được.
Nhưng chiếc sừng này đã bị gãy, vì vào tháng Sáu năm 323 A-lịch-sơn Đại đế đã qua đời tại Ba-by-lôn, ở tuổi ba mươi ba. Vương quốc rộng lớn của ông đã được chia cho bốn vị tướng dưới quyền của ông, họ được tượng trưng bởi bốn chiếc sừng đã được mọc lên (Da 7:4-7; Da 11:4).
Tuy nhiên, những cuộc chinh phục đáng chú ý của A-lịch-sơn không chỉ là những chiến tích, vì chúng đã làm thành những mục đích của Đức Chúa Trời dành cho thế gian và giúp thế giới chuẩn bị cho sự đến của Đấng Cứu Thế và việc truyền bá Phúc-Âm.
Một mặt, A-lịch-sơn đã đặt dấu chấm hết cho ảnh hưởng của Phương Đông đang đe dọa thâu tóm thế giới Phương Tây. Cùng lúc đó, ông “đã làm lay chuyển chính nền móng của thế giới cổ đại” và “buộc thế giới cổ phải có lối nghĩ mới” [53]. Qua việc phổ biến rộng rãi văn hóa và ngôn ngữ Hy-lạp, ông đã mang mọi người đến gần nhau; và cuối cùng tiếng Hy-lạp phổ thông (koine) đã trở thành ngôn ngữ của Kinh thánh Tân ước. Mặc dù đế quốc của ông đã bị chia làm bốn ngã sau khi ông qua đời, A-lịch-sơn đã hiệp các quốc gia lại với nhau nên họ đã có những ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Chính sách độ lượng của ông đối với các dân tộc đã bị chinh phục đã làm sản sinh một gương mẫu về tình huynh đệ có tác động mạnh đối với thế giới. Ông đã kết hợp phương Đông với phương Tây đúng theo nghĩa đen khi 9,000 quân lính và quan chức của ông (có một số sử gia cho là 10,000) đã cưới những phụ nữ phương Tây trong một đám cưới tập thể.
Điều mà A-lịch-sơn và người Hy-lạp mở đầu đã được người La-mã hoàn tất, và giúp thế giới cổ đại chuẩn bị cho sự đến của Đấng Cứu Thế. Họ được đại diện bởi đôi chân bằng sắt (Da 2:33,40)và “con thú dữ tợn” (Da 7:7). Hệ thống cầu đường của người La-mã đã giúp cho con người lưu thông và trao đổi ý tưởng của họ với nhau; Luật La-mã nắm quyền điều khiển các nước; Ban đầu các quân đoàn La-mã buộc phải áp dụng kỷ luật sắt; và nền hoà bình (Pax Romana) của La-mã đã cho con người cơ hội tận hưởng sự an toàn nhiều hơn những gì họ từng biết trước đó. Tất cả những điều này đã góp phần giúp cho sứ điệp của Cơ-đốc nhân được truyền ba khắp Đế quốc La-mã. Và đôi khi La-mã đã trả chi phí cho các chuyến đi của các nhà truyền giáo, như trường hợp của Phao-lô!
4. An-ti-ốt Ê-pi-phan Đệ IV (Da 8:9-14)
[54]. Như chúng ta đã biết, sau cái chết của A-lịch-sơn Đại đế (“cái sừng rất to lổ lộ”, c.5), vương quốc của ông đã bị chia làm bốn phần cho bốn vị tướng lãnh của ông nắm quyền cai trị (c.8). Giữa những chiếc sừng này lại xuất hiện một “chiếc sừng nhỏ”, và sẽ trở thành một nhà lãnh đạo vĩ đại và đây chính là An-ti-ốt Ê-pi-phan, người cai trị Si-ry từ năm 175 đến 163 TC và được biết đến như một trong những bạo chúa khét tiếng trong lịch sử.
An-ti-ốt đã tự đặt cho mình tên “Epiphane”, tên này có nghĩa là “tiếng tăm, sự biểu lộ”, vì ông đã tuyên bố mình là một sự mặc khải của các thần. Thậm chí ông đã cho đúc lên mặt đồng tiền có hình ông chữ theos (thần). Thoạt nhìn, hình ông trên mặt đồng tiền trông rất giống hình của thần Zeus của Hy-lạp. Ông có một ước muốn cháy bỏng là biến người Do-thái thành những người Hy-lạp hoàn toàn.
Một trong những việc làm đầu tiên của ông chính là sa thải thầy tế lễ cả Onias, một người Do-thái nhiệt thành và dùng Jason một người bảo trợ của dân Hy-lạp để thay thế cho ông. Nhưng Jason đã bị Menelaus thế chỗ, ông này mơi thật sự là người theo đuổi chức vụ thầy tế lễ. Vì tin vào tin đồn rằng nhà vua đã chết, Jason đã tấn công Giê-ru-sa-lem và biết được rằng Aan-ti-ốt vẫn đang sống rất khỏe mạnh. Nhà vua nổi giận này đã tấn công Giê-ru-sa-lem và cướp phá đền thờ, Năm 168 ông đã gởi 20,000 quân dưới sự chỉ huy của Apollonius đến để san bằng Giê-ru-sa-lem. Họ đã tiến vào thành phố trong ngày lễ Sa-bát, giết tất cả những người nam, bắt phụ nữ và trẻ em làm nô lệ. Những người thoát được đã gia nhập vào hàng ngũ của nhà lãnh đạo Do-thái Giu-đa Mac-ca-bê.
Nhưng vị vua này vẫn chưa thấy hài lòng, nên ông đã ra một chiếu chỉ rằng trong phạm vi cai trị của ông chỉ có một tôn giáo, và đó sẽ không phải tôn giáo của người Do-thái. Ông cấm người Do-thái giữ ngày Sa-bát, thực hiện phép cắt bì, và vâng theo những luật lệ kiêng ăn của người lê-vi. Và đỉnh điểm của chiến dịch này là vào ngày 14, tháng Mười, năm 168, ông đã cho thay đền thờ của người Do-thái bằng đền thờ thần Zeus và cho tế một con heo trên bàn thờ ấy! Bất kỳ người Do-thái nào sao chép Luật Môi-se sẽ bị sử tử. Cuối cùng Giê-ru-sa-lem đã được giải cứu nhờ những cuộc chiến đấu anh dũng của Giu-đa Mac-ca-bê và những người đi theo ông. Vào 14, tháng Mười, năm 165 đền thờ đã được thanh tẩy, bàn thờ dâng của lễ thiêu đã được lập lại, và một lần nữa việc thờ phượng của dân Do-thái được khôi phục.Chính vì sự kiện này mà dân Do-thái đã kỷ niệm “Lễ Ánh Sáng” hay lễ Hanukkah (Gi 10:22). An-ti-ốt đã bị mất trí khi ở tại Ba-tư, và ông đã qua đời vào năm 163.
Những hiểu biết về An-ti-ốt giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản văn tiên tri của Da-ni-ên. Khởi đầu của An-ti-ốt chỉ ở mức độ tầm thường, nhưng dần dần ông đã thâu tóm quyền lực như để chứng tỏ chính mình và đối xử tàn nhẫn với người Do-thái. Ông đã tấn công người Do-thái ngay trong xứ sở xinh tươi của họ và buộc họ phải chấm dứt những sinh hoạt tôn giáo của họ.Thậm chí ông đã xưng mình là một vị thần. Trong câu 10, người Do-thái được mô tả là “đạo binh trên trời” (tức là “những người tin kính”) và “những ngôi sao” (Sa 15:5 Sa 22:17). Khi An-ti-ốt ra lệnh ngưng việc dâng của lễ mỗi ngày trong đền thờ và lấy việc thờ phượng tà thần thay vào đó, thì điều này được gọi là “ sự gớm ghiếc hoang tàn” (“tội ác kinh hoàng”, Da 8:13. Quan niệm này được tìm thấy trong Da 9:27; Da 11:31; Da 12:11, và đã được Chúa Giê-xu dùng trong Mat 4:15; Mac 13:14. Điều An-ti-ốt đã thực hiện là hình bóng về những điều Kẻ Chống Chúa sẽ làm khi người cho dựng tượng mình trong đền thờ và ra lệnh cho thế gian phải thời lạy mình (IITe 2:1-17; Kh 13:1-18). Da 8:13 và Da 11:31 đề cập về An-ti-ốt, và có những phân đoạn khác đề cập về Kẻ Chống Chúa, trong đó An-ti-ốt chính là hình ảnh của hắn.
Hai vị thiên sứ này đã nói chuyện với nhau (Da 8:13-14 “các thánh”) về vấn đề này và từ cuộc trao đổi của họ, Đa-ni-ên biết được về lịch trình của lời tiên tri này. Từ khi đền thờ bị ô uế cho đến khi được thanh tẩy và phục hồi là 2,300 ngày. Bản văn Hê-bơ-rơ ghi là “2,300 buổi chiều và buổi sáng”, bởi vì của lễ thiêu được dâng tại đền thờ mỗi buổi sáng và buổi chiều của ngày. Nhưng điều này có nghĩa là 2.300 ngày hay 1.150 ngày, tức là 2.300 chia đôi? Và ngày nào hay sự kiện nào sẽ là dấu hiệu cho việc bắt đầu đếm số ngày này? Một số nhà nghiên cứu đã chọn 2.300 ngày, tức là khoảng sáu năm, nếu chúng ta dùng một năm có 360 ngày. Những người khác lại thích chọn 1.150 ngày hơn, tức là hơi ngoài ba năm.
Nhưng điểm khởi đầu cho việc đếm số ngày này là gì? Những người chủ trương sáu năm thìchọn bắt đầu đếm từ năm 171 TC, là lúc An-ti-ốt sa thải thầy tế lễ cả chân chính. Trừ đi sáu năm thì chúng ta sẽ đến được năm 165, là lúc Giu-đa Mac-ca-bê đánh bại quân thù và tổ chức lại lễ cung hiến đền thờ. Tuy nhiên, những người chủ trương 3 năm lại bắt đầu đếm từ ngày bàn thờ tà thần được lập trong đền thờ, tức là vào ngày 25 tháng Kislev, năm 168, và cách này cũng đưa chúng ta đến năm 165. Giải pháp nào cũng thỏa mãn được những đòi hỏi của lời tiên tri.
Chúng ta sẽ gặp lại An-ti-ốt Ê-pi-phan trước khi chúng ta hoàn tất việc nghiên cứu Sách Đa-ni-ên.
5. Kẻ chống Chúa (Da 8:23-27)
Vị thiên sứ đánh thức Đa-ni-ên từ giấc ngủ sâu và nói với ông rằng vẫn còn lẽ thật tiên tri ông cần phải nghe, và nó có liên quan đến “thời kỳ thịnh nộ” (c. 19) và “thời kỳ cuối cùng” (c. 17, 19, 23), đây vốn là thời kỳ Đại nạn.
Các tiên tri trong Kinh thánh Cựu-ước gọi đây là “thời kỳ hoạn nạn của Gia-cốp” và “Ngày của Đức Giê-hô-va”, là giai đoạn lúc cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời đổ xuống trên thế gian tội lỗi (Gie 30:7; Es 2:11-12; Es 13:6,9; Gio 2:1 và những câu sau So 1:1-18). Nói cách khác, những điều Đa-ni-ên biết được trong Da 8:23-27 có liên quan đến thời kỳ cuối cùng, là lúc Kẻ Chống Chúa chống đối Đức Chúa Trời và dân sự Ngài.
“Vị vua có bộ mặt hung dữ” là Kẻ Chống Chúa, chứ không phải An-ti-ốt Ê-pi-phan. Nhưng nếu so sánh các câu 23-27 với các câu 9-14, chúng ta sẽ thấy được rằng tính cách và công việc của An-ti-ốt tương tự như của Kẻ Chống Chúa.
*Cả hai đều bắt đầu cách khiên tốn nhưng ngày càng gia tăng quyền lực và ảnh hưởng
*Cả hai đều phỉ báng Đức Chúa Trời bằng môi miệng vốn nói những điều vĩ đại
*Cả hai đều bắt bớ dân Do-thái
*cả hai đềy tuyên bố mình là thần và cho đặt tượng mình trong đền thờ
*Cả hai đều áp đặt tôn giáo của chính mình trên dân sự
*cả hai đều bị một số dân sót có lòng tin kính và biết Đức Chúa Trời chống đối
*Cả hai đều được ma quỷ ban cho năng lực và những kẻ đại lừa dối
*Cả hai sau cùng đều bị đánh bại bởi sự đến của một đấng cứu chuộc (Giu-đa Mac-ca-bê và Chúa Giê-su Christ)
Khi nghiên cứu những phân đoạn Kinh thánh có liên quan, bạn sẽ khám phá được nhiều điểm tương đồng khác.
“Hoàng tử của các hoàng tử” (c.25) là Chúa Giê-xu Christ, Đấng cũng chính là ”Chúa của các Chúa” (Da 11:36) và “Vua của các Vua” (Kh 19:16). Kẻ Chống Chúa chống lại Chúa Giê-su Christ và tìm cách thay thế Ngài, nhưng cuối cùng Chúa Giê-xu Christ đánh bại Kẻ Chống Chúa và phó hắn, tiên tri giả của hắn, và Da-tan vào hồ lửa (Kh 20:1-3).
Việc nhận khải tượng và trao đổi với các thiên sứ đã khiến Đa-ni-ên bị đau. Một nguyên nhân khiến cho thể chất và tinh thần của ông bị suy sụp đó là do ông không có khả năng hiểu được khải tượng về “vị vua có bộ mặt hung dữ”, được miêu tả trước bằng “chiếc sừng nhỏ” sẽ ứng nghiệm ở chỗ nào trong chương trình tiên tri dành cho dân Y-sơ-ra-ên. Ông biết rằng vào thời kỳ cuối cùng “chiếc sừng nhỏ” sẽ xuất hiện, nhưng những gì sẽ diễn ra trong khoảng thời gian từ thời của ông cho đến ngày ấy?
Có lẽ từ lời tiên tri của Giê-rê-mi ông biết được rằng dân sự mình sẽ được giải cứu khỏi vòng xiềng xích, được phép trở về quê hương và xây lại đền thờ, nhưng ông không biết gì về “sự mầu nhiệm” của Đức Chúa Trời liên quan đến hội thánh (Eph 3:1-13) hay “sự mầu nhiệm” liên quan đến một phần dân Y-sơ-ra-ên đã sa vào sự đuôi mù và cứng lòng (Ro 11:25-36). Và ai là (vị vua có bộ mặt hung dữ” và tại sao ông ta lại tấn công dân Do-thái? Đa-ni-ên cảm nhận được gánh nặng hoạn nạn mà dân sự ông đang phải trải qua và ông biết được hậu quả kinh khiếp của việc xem thường lẽ thật (Da 8:12; Es 59:14-15).
Đa-ni-ên là một gương sáng cho những người nghiên cứu lời tiên tri noi theo. Ông đã cầu xin Đức Chúa Trời diễn giải cho ông (Da 8:15) và để cho Ngài hướng dẫn ông. Nhưng việc ông tìm hiểu về chương trình tiên tri của Đức Chúa Trời không phải nhằm để thoả mãn tính tò mò hay để ông trở thành một người am hiểu trong mắt của người khác. Ông quan tâm đến dân tộc của mình và công việc họ đã phải làm trên đất. Ông đã quá đồng cảm với những gì ông được biết đến nỗi ông đã phát ốm!
Có rất nhiều “nhà nghiên cứu lời tiên tri” không chờ đợi để được sự hướng dẫn và soi sáng của Đức Chúa Trời, họ cũng không cảm thấy nặng lòng về những gì họ biết được từ lẽ thật của Đức Chúa Trời về tương lai. Thay vào đó, họ cố gắng bảy tỏ “sự hiểu biết” của mình và làm cho mọi người ấn tượng về những điều mình biết. Những việc này hoàn toàn mang tính học thuật; nó chỉ nằm trong tâm trí mà không bao giờ đến được tấm lòng.
Khi đã hồi phục, vị tiên tri này trở lại phục vụ nhà vua nhưng không nói cho bất cứ ai về những điều mình đã biết. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị lẽ thật khác để dạy ông, và ông sẵn sàng để tiếp nhận nó.
9. LỊCH TIÊN TRI (Da 9:1-27)
Khi nói chuyện tại một cuộc họp báo ở Cairo vào ngày 1 tháng Hai năm 1943, Ngài Winston Churchill đã nói, “tôi luôn tránh việc tiên đoán trước, bởi vì tiên đoán sau khi sự việc xảy ra là một chủ trương tốt hơn nhiều”.
Giữa vòng dân Do-thái, vị tiên tri nào có kiểu tiên tri như vậy đều phải bị xử tử (Phuc 18:20-22). Dân Y-sơ-ra-ên vì thờ phượng tà thần và nghe lời các tiên tri giả mà đã trở thành một dân tộc sa sút về thuộc linh và hầu như bị suy sụp hoàn toàn. Dân Y-sơ-ra-ên đã không nghe theo lời các vị tiên tri rao truyền, nên họ đã bị đày sang Ba-by-lôn; và ở đó họ đã học được cách phải lắng nghe lời tiên tri một cách nghiêm túc, bởi vì đó là nguồn hy vọng duy nhất mà họ có được. Hội thánh ngày nay cần phải để ý đến những lời tiên tri bởi vì đó chính là nguồn sáng rõ ràng trong một thế giới tối tăm và không rõ ràng (IIPhi 1:19-21).
Hãy lưu ý ba bước trong kinh nghiệm của Đa-ni-ên về sứ điệp tiên tri được rao ra liên quan đến dân sự ông và thành Giê-ru-sa-lem.
1. Sự soi sáng: Biết về kế hoạch của Đức Chúa Trời (Da 9:1-2)
Năm cai trị đầu tiên của vua Đa-ri-út là năm 539 TC., đó là năm Ba-by-lôn rơi vào tay của người Mê-đi và Ba-tư. [55]. Chiến thắng vĩ đại nàykhông làm Đa-ni-ên ngạc nhiên, bởi vì Đức Chúa Trời đã cho ông biết rằng Đế quốc Mê-đi-Ba-tư sẽ chinh phục Ba-by-lôn. Trong giấc chiêm bao của Nê-bu-cát-nết-sa về pho tượng lớn, cái đầu bằng vàng sẽ được thay thế bằng ngực và cánh ta bằng bạc (đoạn 2); và những khải tượng sau đó bày tỏ rằng con gấu sẽ chinh phục con sư tử (đoạn 7). Nhưng trước thời của Đa-ni-ên khá lâu, cả tiên tri Ê-sai và Giê-rê-mi đều đã tiên đoán về sự sụp đổ của Ba-by-lôn, nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên về việc Đa-ni-ên khởi sự nghiên cứu lại cuộn sách của tiên tri Giê-rê-mi.
• Lời Đức Chúa Trời.
Một trong những điều tuyệt vời của Lời được linh cảm của Đức Chúa Trời là sự tươi mới luôn luôn của nó. Dù chúng ta đọc nó bao nhiêu lần, thì vẫn luôn có điều gì đó mới mẻ để học hay có những điều quen thuộc được xem xét dưới một cách nhìn mới. Nếu như cuộn sách của Gi-rê-mi về Kinh thánh Cựu-ước được sắp xếp như Kinh thánh hiện nay của chúng ta, thì ông đã đọc Gie 24:1-10 và xác quyết được rằng Đức Chúa Trời sẽ chăm sóc cho dân sự của Ngài dù cho vị vua đang cai trị là ai.
Từ Gie 25:1-14, ông đã biết được lý do họ bị lưu đày cũng như thời gian của cuộc lưu đày là bảy mươi năm, và điều này đã được cũng cố thêm trong Gie 29:10-14. Cuộc lưu đày của dân Y-sơ-ra-ên ở Ba-by-lôn không phải là điều tình cờ; đó là do sự chỉ định của Đấng thánh, và họ sẽ được giải cứu đúng vào thời điểm mà Đức Chúa Trời đã định.
Đa-ni-ên gọi tác phẩm của Giê-rê-mi là “lời của Đức Giê-hô-va”. Vua Giê-hô-gia-kim đã tìm mọi cách để đốt các sách tiên tri của Giê-rê-mi, nhưng Đức Giê-hô-va đã bảo vệ chúng vì đó là lời của chính Ngài (Gie 36:1-32). “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời ta phán sẽ chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35).
“Cỏ khô, hoa rụng, nhưng lời của Đức Chúa Trời chúng ta đứng vững đời đời” (Es 40:8).
“Từ xa xưa, do các lời chứng của Chúa tôi biết rằng Ngài sẽ lập chúng đến đời đời” (Thi 119:152).
Trải qua nhiều thế kỷ, con người phớt lờ, khước từ, tấn công và tìm cách thủ tiêu Kinh thánh, nhưng Lời của Đức Chúa Trời vẫn còn đó! Đức Chúa Trời đã đặc biệt bảo vệ những cuộn sách được Giê-rê-mi viết bởi vì Ngài muốn Đức Chúa Trời sao chép chúng và mang sang Ba-by-lôn.
“Cả Kinh thánh đều được Đức Chúa Trời thần cảm” (IITi 3:16), cả Cựu-ước cũng như Tân-ước, lời Thánh Kinh là nguồn lẽ thật đáng tin cậy trình bày về Đức Chúa Trời, con người, tội lỗi, sự cứu chuộc, và những sự kiện tương lai mà Đức Chúa Trời đã sắp đặt trong chương trình vĩ đại của Ngài. Trong thời đại ngày nay, khi những ý tưởng, sự kiện và những hoàn cảnh liên tục đổi thay, lời không bao giờ thay đổi của Đức Chúa Trời là nguồn sáng đáng tin cậy và là nền tảng không rúng động của chúng ta.
• Đức Chúa Trời của Lời Kinh thánh.
Đây là lần đầu tiên từ Giê-hô-va, danh giao-ước của Đức Chúa Trời, được dùng trong sách Đa-ni-ên, và chỉ được dùng trong đoạn này (c.2-3,10,13-14,20). Nhưng chúng ta phải nhớ rằng vào thời điểm đó Đức Chúa Trời gọi dân tộc Y-sơ-ra-ên là “Lo-Ruhama - không được yêu” và “Lo-Ammi - không phải dân ta” (Os 1:1-11) bởi vì dân Y-sơ-ra-ên đã phá bỏ giao-ước thánh của Ngài. Khi bạn ở bên ngoài giao ước ấy, bạn không thể dùng danh giao ước của Ngài một cách chân thành và nghĩ đến việc nhận những phước hạnh của giao-ước.
Tuy nhiên, Đa-ni-ên đã chạy đến với Đức Chúa Trời để nài xin Ngài thương xót và tha thứ cho chính ông cũng như dân sự của ông, Đây chính là cách cầu nguyện mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời muốn nghe. Thực tế là lời hứa của Đức Chúa Trời về sự tha thứ đã được viết trực tiếp vào giao ước. “Nhưng nếu họ xưng tội của họ và của tổ tiên họ, tức là tội phản bội và chống nghịch Ta . . . thì Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta với Gia-cốp, giao ước Ta với Y-sác và giao ước Ta với Áp-ra-ham và Ta cũng sẽ nhớ đến đất của họ” (Le 26:40-42).
Rõ ràng là khi Đa-ni-ên nghiên cứu lời Kinh thánh và cầu nguyện với Đức Giê-hô-va, ông đã ghi nhớ trong trí và trong tâm khảm mình cả giao-ước thánh (Le 26:1-46 Phuc 27:1-28:68) và lời cầu nguyện của Sa-lô-môn trong lễ Khánh thành đền thờ (IVua 8:33-36).
Hoạch định của Đức Chúa Trời dành cho dân Ngài. Đức Chúa Trời đã tỏ cho Giê-rê-mi biết rằng dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị mang sang Ba-by-lôn và sống cảnh lưu đày trong bảy mươi năm (Gie 25:11-12; Gie 29:10). Đức Chúa Trời đã phán dạy với dân Ngài rằng cứ mỗi bảy năm phải để cho xứ có một “năm sa-bát an nghỉ” và mỗi năm năm phải có một “năm hân hỉ” (Le 25:1-55). Cả năm thứ bốn mươi chín và năm mươi đều là “những năm sa-bát, trong những năm này dân sự không được phép gieo trồng hoặc thu hoạch mùa vụ. Luật định này không chỉ tốt cho đất đai, giúp cho đất đai được màu mỡ trở lại, nhưng nó cũng ích lợi cho đời sống tâm linh của dân tộc này. Tuy nhiên, mãi cho đến khi dân tộc này bị lưu đày sang Ba-by-lôn xứ mới hưởng được những ngày sa-bát” (IISu 36:20-21).
Chúng ta phải tính con số bảy mươi năm kể từ ngày nào, và khi nào cuộc lưu đày này chính thức được chấm dứt?Để trả lời những câu hỏi quan trọng này, chúng ta phải chú ý đến những ngày tháng then chốt trong lịch sử của dân Do-thái vào thời đó. Ba-by-lôn bắt đầu tấn công vương quốc Giu-đa vào năm 606 TC., còn thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ đã bị huỷ phá vào năm 586. Dân Do-thái bị bắt sang Ba-by-lôn làm phu tù lần thứ nhất vào năm 605, Đa-ni-ên và ba bạn của ông cũng ở trong số này. Vào năm 538, vua Si-ru ra chiếu chỉ cho phép dân Do-thái trở về quê hương và xây dựng lại đền thờ (Exo 1:1-4), và vào năm 537 có khoảng 50,000 người Do-thái trở về Giê-ru-sa-lem dưới sự lãnh đạo của Giê-ru-ba-bên và thầy tế lễ cả Giô-sua (Exo 1:1-2:70).
Nếu chúng ta quyết định rằng cuộc lưu đày này chính thức bắt đầu vào năm 606-605 và cùng thời điểm này thành Giê-ru-sa-lem bị tấn công và đợt lưu đày đầu tiên được tiến hành, thì sau bảy mươi năm chúng ta sẽ đến được năm 537-36, đây là lúc những người lưu đày đầu tiên được trở về quê hương của họ và nền móng của đền thờ được xây dựng. Nói cách khác, những người bị bắt làm phu tù đầu tiên đã rời Giu-đa vào năm 605 và những người lưu đày được trả tự do đã trở về xứ sở vào năm 537-36, một khoảng thời gian xấp xỉ bảy mươi năm. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng khởi đầu là sự kiện đền thờ và thành Giê-ru-sa-lem bị hủy phá (586), và cuộc lưu đày chưa thật sự chất dứt cho đến khi đền thờ thứ hai được xây dựng và khánh thành (515), cũng là mmột khoảng thời gian tương đương bảy mươi năm. Vì cả hai cáach lý giải đều có ý nghĩa, nên có lẽ chúng ta không cần bàn cãi về vấn đề này.
• Chúng cần hiểu được ba sự thật quan trọng.
-Thứ nhất, Đức Chúa Trời vẫn đang giữ đúng giao ước của Ngài khi để dân Ngài chịu cảnh lưu đày, vì Ngài đã từng khuyến cáo họ rằng họ sẽ bị hình phạt nếu cứ tiếp tục không vâng lời Ngài (Le 26:1-46). Dường như những năm tháng dân Y-sơ-ra-ên lưu đày tại Ba-by-lôn đã giúp họ từ bỏ tội lỗi đáng ghê tởm đó là thờ hình tượng.
-Thứ hai, cuộc lưu đày đã khiến cho được phước, bởi vì xứ này đã bị người nông dân lạm dụng quá mức. Họ đã không để cho xứ được hưởng những năm sa-bát an nghỉ của nó. Xứ thuộc về Đức Giê-hô-va (Le 25:23; Phuc 11:12) và Ngài không muốn dân Ngài làm ô uế nó bởi tội lỗi và sự thờ thần tượng, và tàn phá nó vì không để cho nó có thời gian an nghỉ. Cứ mỗi năm sa-bát mà người Do-thái không tôn trọng, họ đã làm cho vòng xiềng xích của mình tại Ba-by-lôn dài thêm một năm nữa.
-Thứ ba, khi Đa-ni-ên có được khám phá này về bảy mươi năm thì thời gian lưu đày đã đến hồi kết thúc! Nếu Đa-ni-ên bị bắt sang Ba-by-lôn vào năm 605, và ông khám phá được lời tiên tri của Giê-rê-mi vào năm 539, thì ông đã ở Ba-by-lôn sáu mươi sáu hay sáu mươi bảy năm. Năm sau (538), vua Si-ru đã ra chiếu chỉ cho phép dân Do-thái trở về quê hương. Có thểvào thời điểm đó vị tiên tri này đã tám mươi mốt tuổi. Bản thân ông không trở về quê hương được, nhưng ông đã vui mừng khi những người khác có thể trở về.
2. Sự giải hòa: Cầu nguyện xin Đức Chúa Trời thương xót (Da 9:3-19)
Đa-ni-ên là một gương mẫu tuyệt vời về sự quân bình trong đời sống thuộc linh. Ông đã hết lòng với cả Lời Đức Chúa Trời lẫn sự cầu nguyện (Cong 6:4). Một số tín đồ đã quá bận rộn nghiên cứu lời tiên tri đến nỗi không còn quan tâm đến việc thực hiện những điều thực tiễn theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Tất cả những gì họ muốn là làm thoả mãn và chia sẻ “những hiểu biết sâu sắc” của mình với người khác. Khi Đa-ni-ên biết được lẽ thật của Đức Chúa Trời, kinh nghiệm này đã làm ông hạ mình và hướng lòng mình vào sự thờ phượng và cầu nguyện với Ngài.
• Chuẩn bị cho sự cầu nguyện (Da 9:3).
Chỉ mới đọc một ít trong sách Đa-ni-ên thì chúng ta cũng đã phát hiện ra rằng ông là một con người của sự cầu nguyện. Đa-ni-ên và ba bạn của ông đã tìm kiếm mặt Chúa khi vua Nê-bu-cát-nết-sa đe dọa sẽ giết tất cả thuật sĩ và những người thông thái (Da 2:16-23). Đa-ni-ên có thói quen cầu nguyện ba lần mỗi ngày (Da 6:10-11). Ông vẫn tiếp tục thực hiện điều này ngay cả khi ngoại trừ nhà vua người nào cầu nguyện đều bị xem là phạm luật. Khi Đức Chúa Trời cho Đa-ni-ên thấy những khải tượng về những sự kiện sẽ diễn ra trong tương lai, vị tiên tri này không thoả lòng cho đến khi ông hỏi được ý nghĩa của chúng (Da 7:15-28; Da 8:15-27). Cầu nguyện là một phần không thể thiếu trong đời sống của Đa-ni-ên.
Đa-ni-ên đã sửa soạn mình cho sự cầu nguyện vì ông biết rằng việc ông cầu nguyện sẽ ảnh hưởng đến tương lai của dân tộc Do-thái và đời sống của những người Do-thái đang bị lưu đày tại Ba-by-lôn. Ông có một nhiệm vụ thánh đó là xưng ra tội lỗi của dân tộc Do-thái, cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân Ngài và tiếp nhận họ trở lại.
Ông đã hạ mình mặc bao gai và ở trong tro bụi; ông đã kiêng ăn; và ông đã hướng lòng và tâm trí mình vào Đức Chúa Trời. Chuẩn bị cho sự cầu nguyện và thờ phượng cũng quan trọng không kém chính sự cầu nguyện, vì nếu không có một tấm lòng ngay thẳng với Đức Chúa Trời, lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là những lời lẽ tôn giáo. Đa-ni-ên đã thoã mãn những điều kiện để được đáp lời cầu nguyện được nêu ra trong (Le 26:40-45; IISu 7:14).
• Thờ phượng Đức Chúa Trời (Da 9:4).
Chúng ta thường vội vã bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời và cầu xin điều gì đó, mà trước hết không dành thời gian để thờ phượng Ngài. Đa-ni-ên đã chuẩn bị chính mình trước khi cầu nguyện, như Ê-xơ-ra (Exo 9:3-5) và những người Lê-vi đã làm (Ne 9:5-6). Điều quan trọng là chúng ta phải tập trung vài bản tánh của Đức Chúa Trời và đừng quá bận rộn với chính mình và những gánh nặng của mình.
Việc “viện dẫn” lời cầu nguyện của Đa-ni-ên là một bước ban đầu của thần học kinh thánh.Lời cầu nguyện của mô tả về một Đức Chúa Trời Đấng yêu thương dân Ngài và ban cho họ lời Ngài để họ vâng theo, hầu được Ngài ban phước. Ngài là một Đức Chúa Trời giàu lòng thương xót (Da 9:18), Đấng đã tha thứ cho tội lỗi của dân Ngài khi họ đến ăn năn và xưng nhận tội lỗi với Ngài. [56] Đây cũng là cách Nê-hê-mi đã cầu nguyện khi tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời về việc xây lại những bức tường của thành Giê-ru-sa-lem.
Cầu nguyện với Đức Chúa Trời là một việc nhưng làm một người thờ phượng với Đức Chúa Trời và giải hòa lại là một việc hoàn toàn khác. Khi chúng ta nhìn thấy sự vĩ đại cùng vinh hiển của Đức Chúa Trời, điều này giúp chúng ta đặt những gánh nặng và nhu cầu của mình ở chỗ thích hợp. Ngay cả khi đặt một đức tin nhỏ bé nơi một Đức Chúa Trời vĩ đại, chúng ta cũng có thể lay động cánh tay của Đức Chúa Trời để Ngài làm thành những việc lớn và điều đó sẽ làm cho danh Ngài được vinh hiển. Tiến sĩ Robert A. Cook đã từng nói, “Nếu bạn có thể giải thích những gì đang diễn ra trong chức vị của bạn, chứng tỏ Đức Chúa Trời đã không dự phần vào đó”.
• Xưng nhận tội lỗi (Da 9:5-15).
Trong lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên, có nhiều lần sự hòa giải của một cá nhân đã giúp cho dân tộc này thoát khỏi sự đoán phạt. Có hai lần Đức Chúa Trời chuẩn bị tiêu diệt toàn bộ dân Do-thái, nhưng chính sự hoà giải của Môi-se khiến Ngài dừng lại (Xu 32:7-14; Dan 14:10-25).
Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của Ê-li và cho mưa xuống đến nỗi quá mức mong đợi (IVua 18:1-46), Ngài cũng đã nghe lời cầu nguyện của Giô-sa-phát và cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng đạo quân xâm lượt lớn mạnh của dân Mô-áp và Am-môn (IISu 20:1-37). Vua Ê-xê-kia đã kêu cầu cùng Đức Chúa Trời khi quân A-si-ry vây thành Giê-ru-sa-lem, và Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ Ngài đến giết 185,000 quân giặc (Es 37:2 IVua 19:1-21).
“Người công bình lấy lòng sốt sắng cầu nguyện thật có linh nghiệm nhiều” (Gia 5:16). Đức Chúa Trời không chờ cho đến khi cả dân tộc này ăn năn và kêu cầu Ngài thương xót; Ngài sẽ hành động khi nghe được lời cầu nguyện của những người hoà giải trung tín.
Rõ ràng lời cầu nguyện của Đa-ni-ên chỉ mang tính cá nhân, nhưng ông đã quá cảm thông với dân sự Y-sơ-ra-ên đến nỗi lời cầu nguyện của ông liên quan đến những vấn đề của quốc gia. Đại từ mà ông đã dùng là chúng tôichứ không phải là họ hay tôi. Ông xưng nhận rằng ông và dân sự đã phạm tội trọng chống lại Đức Chúa Trời và phá vỡ những điều khoản trong giao ước nhân từ của Ngài. Theo Da 9:5-6, dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội, nổi loạn, xây bỏ luật lệ Ngài, không vâng theo những mạng lệnh của Ngài, làm điều sai trái, và không nghe lời những sứ giả mà Ngài đã phái đến cùng họ.
“Chúa, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ đã nhiều lần sai sứ giả Ngài đến với chúng vì Ngài thương xót dân Ngài và nơi Ngài ngự. Nhưng chúng nhạo báng các sứ giả của Đức Chúa Trời, khinh thường lời Ngài, chế giễu các tiên tri của Ngài, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa nổi lên trừng phạt dân chúng, không còn phương cứu chữa” (IISu 36:15-16). Đức Chúa Trời đã kiên nhẫn chịu đựng dân Ngài trong một thời gian dài, nhưng đến thời điểm đã định Ngài phải hành động.
Sự nổi loạn của dân tộc này đã đem đến những hậu quả gì? Họ trở thành một dân phạm tội, một dân đầy sự hổ thẹn (“sự hổ mặt” Da 9:8), và là một dân bị tan lạc. Xứ sở của họ bị quân thù giày xéo, thành Giê-ru-sa-lem vĩ đại của họ vị hủy phá, và đền thánh của họ bị làm cho ô uế, bị cướp bóc và bị đốt cháy. Dĩ nhiên là dân Do-thái rất hổ thẹn. Nhưng chính tội lỗi của họ đã mang lại những thảm cảnh này, bởi vì các vua, các quan trưởng và các thầy tế lễ của họ đã không vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời và không vâng theo những điều các tiên tri Ngài truyền đạt.
Các vị lãnh đạo cùng dân sự biết rõ những điều khoản trong giao ước với Đức Chúa Trời, nhưng họ đã cố tình vi phạm chúng. Người Do-thái đã không trung thành với giao ước của Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời vẫn trung tín giữ lời của Ngài. Giá như dân tộc này biết vâng lời, Đức Chúa Trời đã trung tín ban phước cho họ (Thi 81:11-16) nhưng vì cớ họ nổi loạn, nên Đức Chúa Trời đã luôn phải hình phạt họ. “Ngài đã thực hiện lời Ngài cảnh cáo chúng con và các bậc cầm quyền cai trị chúng con khi Ngài giáng đại họa xuống chúng con” (Da 9:12). Đa-ni-ên không hề biện hộ cho dân tộc mình cũng như ông đã không nói rằng giao ước của Đức Chúa Trời đòi hỏi quá khắt khe. Dân Y-sơ-ra-ên đã được ban phước nhiều khi họ làm đúng luật pháp, thế thì vì cớ gì họ lại phàn này khi phải chịu nhiều khổ sở vì đã không vâng theo luật pháp?
Nhưng có điều còn tồi tệ hơn cả những tội lỗi đã khiến dân Y-sơ-ra-ên phải chịu trừng phạt. Ấy là dân Do-thái không chịu ăn năn và xưng ra tội lỗi mình thậm chí sau khi họ đã bị lưu đày! Họ dành thời gian để cầu nguyện cho việc thành Ba-by-lôn bị đoán phạt (Thi 137:1-9)hơn là tìm kiếm mặt Chúa và cầu xin Ngài tha thứ. Ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên trong cảnh lưu đày đã được tóm tắt trong Gie 29:1-32, nhưng dân Do-thái đã không luôn tuân theo điều đó. Cách giải quyết của Đa-ni-ên là: “Lạy Chúa, Đức Chúa Trời chúng con, Ngài thật công bình trong mọi việc Ngài làm” (Da 9:14). Tại sao Ngài lại mang dân Ngài ra khỏi Ê-díp-tô và sau đó lại để cho họ bị hao mòn ở Ba-by-lôn? Đa-ni-ên biết rằng Đức Chúa Trời có những mục đích để dân Y-sơ-ra-ên làm thành, vì thế ông đã nhắc Đức Chúa Trời về những sự thương xót của Ngài trong quá khứ (c.15).
• Cầu xin cho dân Y-sơ-ra-ên được thương xót (Da 9:16-19). Trong lòng nhân từ của Ngài, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta điều chúng ta không đáng được nhận. Và trong sự thương xót của Ngài, Đức Chúa Trời đã không để chúng ta nhận chúng ta đáng phải nhận. Đa-ni-ên cầu xin Đức Chúa Trời xây cơn giận Ngài khỏi Giê-ru-sa-lem và đền thánh của Ngài. Đức Chúa Trời cho biết rằng tội lỗi của Y-sơ-ra-ên (trong đó có cả Đa-ni-ên) là nguyên nhân dẫn đến đại họa đó, nhưng Ngài công nhận rằng Ngài đã hứa sẽ tha thứ nếu dân Ngài ăn năn và xưng ra tội lỗi của họ.
“Chúng con không dựa vào việc làm công chính nào của chúng con, nhưng dựa vào lòng thương xót bao la của Ngài mà dâng lên Ngài lời cầu xin khẩn thiết” (c.18). Nhưng còn hơn thế nữa, Đa-ni-ên ước ao dân tộc mình sẽ được khôi phục hầu Đức Chúa Trời được vinh hiển. Suy cho cùng, dân Do-thái là dân tộc được Đức Chúa Trời chọn lựa, và Giê-ru-sa-lem là nơi có đền thánh của Ngài; dân sự và xứ sở này còn ở dưới sự thạnh nộ của Ngài bao lâu, thì Đức Chúa Trời chưa nhận được vinh hiển chừng ấy. “Thành và dân của Ngài mang tên Ngài” (c.19). [57]
Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của Đa-ni-ên. Một năm sau, vua Si-ru đã ra một chiếu chỉ cho phép dân Do-thái trở về quê hương của họ, mang theo về những cật giá trị của đền thờ, xây lại đền thờ, và khôi phục việc thờ phượng. Chức vụ của Đa-ni-ên tại Ba-by-lôn mới đặc biệt làm sao! Ông đã làm người cố vấn cho bốn đời vua, người hoà giải cho dân tộc Y-sơ-ra-ên, một chứng nhân trung tín cho Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, và là tác giả của một trong những sách tiên tri nền tảng trong Kinh thánh Cựu-ước.
Hiện tại thì Đa-ni-ên đã biết được kế hoạch trước mắt Đức Chúa Trời dành cho dân tộc Y-sơ-ra-ên, nhưng còn tương lai xa hơn thì sao? Từ khải tượng Đức Chúa Trời ban cho mình, ông đã học được rằng những ngày khó khăn đã được chờ đợi dân sự của Đức Chúa Trời, và sẽ có một vương quốc xuất hiện. Vương quốc này sẽ tiêu diệt tất cả những điều tốt đẹp và khuyết khích mọi điều xấu xa. Dân của Đức Chúa Trời có sống sót nổi không? Cuối cùng Đấng Mê-si-a của lời hứa có xuất hiện không? Vương quốc của Đức Chúa Trời có được thiết lập trên đất không?
Đa-ni-ên sắp sửa nhận được lời giải đáp cho những câu hỏi đó.
3. Sự dạy dỗ: phát hiện được thời gian biểu của Đức Chúa Trời (Da 9:20-27)
Chúng ta không biết Đa-ni-ên bắt đầu cần nguyện vào giờ nào trong ngày, nhưng ông đã tiếp tục cầu nguyện cho đến thời điểm dâng của lễ thiêu buổi tối, lúc này là khoảng ba giời chiều. Ông đang sống ở Ba-by-lôn nhưng vẫn tính thời gian theo những sinh hoạt tôn giáo của người Do-thái! Thân xác ông ở Ba-by-lôn, nhưng tâm trí và tấm lòng ông thì ở Giê-ru-sa-lem. Nếu như đền thờ vẫn tồn tại và các thầy tế lễ đang thi hành phận sự, thì đây hẳn là “giờ thứ chín” khi con chiên được dâng lên làm của lễ thiêu (Xu 29:38-41; Cong 3:1; Cong 10:20). Đây là một trong số ba lần của một ngày Đa-ni-ên đã biệt riêng thời gian để cầu nguyện đặc biệt với Đức Chúa Trời (Da 6:10; Thi 55:17). Đây cũng chính là thời điểm thầy thư ký Ê-xơ-ra cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi của những người Do-thái còn sót lại đã trở về xứ sở (Exo 9:5). Lời cầu nguyện cũng được Đức Chúa Trời xem như một của lễ thuộc linh mà con người dâng lên cho Ngài (Thi 141:1-2).
Trong lúc Đa-ni-ên đang cầu nguyện, thiên sứ Gáp-ri-ên bay nhanh đến bên ông, ngắt lời cầu nguyện của ông, chạm vào ông và trò chuyện với ông. Trước đó, Đa-ni-ên đã gặp vị thiên sứ này khi ông đã được Đức Chúa Trời cho thấy khải tượng về con cừu đực và dê đực, và vị thiên sứ này đã giải thích ý nghĩa nó cho ông (Da 8:15-27).
Còn bây giờ thiên sứ này đã đến để giải thích cho Đa-ni-ên những gì Đức Chúa Trời đã hoạch định cho thành Giê-ru-sa-lem, đền thờ, và dân Do-thái. Cụm từ “bay nhanh” (c.21) đã ủng hộ ý tưởng cho rằng các thiên sứ có cánh, và thường bay từ nơi này đến nơi khác, nhưng mũi tên, đạn, và tên lửa cũng bay nhanh mà đâu có cánh. Các thiên sứ là thần, vì thế họ không có thân xác (Thi 104:4 He 1:7).
Khi hiện đến với con người, họ tạm thời mặc lấy hình thể của con người. Các sinh vật giống như thiên sứ mà Ê-sai (Es 6:2) và Ê-xê-chi-ên (Exe 1:6,8,11) thấy đều có cánh, nhưng đó là những sinh vật đặc biệt đang thực thi một sứ mạng đặc biệt. Bản NIV đã dịch cụm từ “ trong tư thế bay nhanh” và không đề cập gì đến đôi cánh.
Bảy mươi “tuần lễ” (Da 9:24). Từ “tuần lễ” (số nhiều) có nghĩa là “bảy” (số nhiều), vì thế Gáp-ri-ên đang nói đến bảy mươi giai đoạn của 7 năm, hay 490 năm. Chúng ta phải ghi nhớ rằng những năm này liên quan mật thiết đến dân sự của Đa-ni-ên, là dân Do-thái, và Giê-ru-sa-lem thành thánh của họ. Trong lời cầu nguyện của mình, điều Đa-ni-ên đặc biệt quan tâm là dân sự ông được tha thứ tội đã chống nghịch Đức Chúa Trời, thành thánh được xây lại, và đền thờ được khôi phục (c.16). Đó cũng là những điều mà thiên sứ Gáp-ri-ên đã bàn đến sau đó. Nếu áp dụng lời tiên tri này cho một dân tộc hay một nơi nào khác, điều này đồng nghĩa với việc cướp mất ý nghĩa vốn có của lời tiên tri ấy.
Thiên sứ Gáp-ri-ên giải thích rằng trong vòng 490 năm đó, Đức Chúa Trời sẽ làm thành ssáu mục đích đặc biệt dành cho dân Do-thái. Ba mục đích đầu liên quan đến tội lỗi và ba mục đích sau liên quan đến sự công bình. Đức Chúa Trời sẽ “chấm dứt sự vi phạm”, ấy là sự vi phạm của dân Do-thái, và “diệt trừ” tội lỗi của dân tộc Y-sơ-ra-ên.Đây là một trong những điều Đa-ni-ên cưu mang cầu nguyện. Y-sơ-ra-ên là một dân tộc phải chịu nỗi khổ tản lạc vì họ là một dân tộc phạm tội. Đức Chúa Trời sẽ hoàn tất điều này bằng cách nào? Bằng cách “xoá bỏ tội ác”, tức là qua việc dâng một sinh tế có thể chuộc tội lỗi của họ. Điều này đưa chúng ta đến với thập tự giá của Chúa Giê-su Christ, Đấng Mê-si-a của dân Y-sơ-ra-ên.
Khi Chúa Giê-xu chết trên thập giá, Ngài đã chết vì tội lỗi của toàn nhân loại (IGi 2:2; Gi 1:29). Vì cớ đó, chúng ta có thể rao báo tin tức tốt lành này của Phúc Âm cho tội nhân khắp nơi.Nhưng Ngài cũng đã chết vì hội thánh (Eph 5:25) và vì dân Y-sơ-ra-ên. “Vì tội lỗi dân ta đáng bị đánh phạt” (Es 53:8). Chúa Giê-xu đã chết vì tội nhân của mọi chi phái và mọi quốc gia (Kh 5:9; Kh 7:9), nhưng theo một phương cách hết sức đặc biệt, Ngài đã chết vì tội lỗi của chính dân Ngài, dân tộc Do-thái (Gi 11:44-52).
Ba mục đích sau của Đức Chúa Trời tập trung vào sự công bình và vương quốc trong tương lai của Đấng Mê-si-a. Khi Chúa Giê-xu trở lại, Ngài sẽ thiết lập vương quốc công bình của Ngài (Gie 23:5-6; Gie 31:31-34) và cai trị trong sự công bình (Es 4:2-6). Lúc bấy giờ, những lời tiên tri trong Cựu-ước về vương quốc vinh hiển của dân Y-sơ-ra-ên sẽ được ứng nghiệm, và không còn cần đến những khải tượng và các nhà tiên tri nữa. Cụm từ “để xức dầu nơi chí thánh”đề cập đến sự thánh sạch của đền thờ trong tương lai, điều này cũng đã được mô tả trong Exe 40:1-48:35.
Sáu mục đích này đã giải toả cho những điều Đa-ni-ên cầu nguyện! Cuối cùng, tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên sẽ được tha (Xa 12:10-13:1), thành thánh Giê-ru-sa-lem được xây lại, và đền thờ cùng những công việc của nó sẽ được khôi phục, tất cả những điều này có được là nhờ sự chết đền tội của Chúa Giê-su Christ trên thập giá. Tất cả những thành tựu tuyệt vời này sẽ được ứng nghiệm trong vòng 490 năm mà thiên sứ Gáp-ri-ên tiếp tục giải thích. Người đã chia 490 năm này ra thành ba gia đoạn quan trọng:49 năm, 434 năm và 7 năm. [58].
• Giai đoạn Xa 1: - 49 năm (Da 9:25).
Trong giai đoạn này, dân Do-thái sẽ xây lại thành Giê-ru-sa-lem trong một thời điểm rối loạn. Vấn đề then chốt ở đây là ngày chiếu chỉ được lập. Đây không phải là chiếu chỉ mà vua Si-ru vào năm 538, cho phép dân Do-thái trở về quê hương và xây lại đền thờ của họ (Exo 1:1-11; Es 44:28), bởi vì chiếu chỉ này nhấn mạnh đến thành Giê-ru-sa-lem. Mặc dù có một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là chiếu chỉ của Ạt-ta-xét-xe vào năm 457, về việc cho Ê-xơ-ra trở về Giê-ru-sa-lem (Exo 7:12-26), nhưng chiếu chỉ này cũng nhấn mạnh đến đền thờ cũng như vai trò của nó. Chiếu chỉ trong Da 9:25 có thể là chiếu chỉ của Ạt-ta-xét-xe vào năm 445, ban cho Nê-hê-mi quyền được trở về thành Giê-ru-sa-lem để xây lại những bức tường và tu sửa lại cổng thành (Ne 2:5-8)
• Giai đoạn Ne 2:-483 năm (Da 9:26). Thiên sứ Gáp-ri-ên đã khẳng định rằng 483 năm sẽ được tính từ thời điểm ra chiếu chỉ cho đến khi có “Đấng Chịu Xức Dầu làm người cai trị” xuất hiện (7x7=49; 7x62=434; tổng cộng là 483). Khi chúng ta đếm 483 năm mặt trời này kể từ năm 445, thì chúng ta sẽ kết thúc ở năm 29/30 SC., đây chính là thời điểm Chúa Giê-su Christ thi hành chức vụ trên đất. [59] Nhưng con người đã không để cho Đấng Chịu Xức Dầu cai trị. Dân Ngài tuyên bố rằng, “chúng tôi không có vua nào khác ngoàn Sê-sa” (Gi 19:15). “Chúng tôi không muốn người này cai trị chúng tôi” (Lu 19:14). Đấng Mê-si-a sẽ bị “sát hại, nhưng không phải vì cớ chính mình” (và không có gì”, theo bản NIV). Điều này cho biết về việc Ngài bị dân tộc Do-thái khước từ (Gi 1:11; Lu 13:33-35) và việc Ngài bị đóng đinh như một kẻ phạm tội. Chính dân Ngài và một trong số các môn đồ của Ngài đã nộp Ngài cho chính quyền La-mã. Nhưng Ngàai đã chết vì cớ tội lỗi của toàn nhân loại, trong đó có cả tội lỗi của dân tộc Do-thái.
Chúng ta biết rằng Chúa Giê-xu đã từ cõi chết sống lại và thăng thiên. Ngài đã sai Đức Thánh Linh đến ban quyền phép cho dân Ngài để họ làm chứng cho toàn thế gian (Cong 1:8), khởi sự từ thành Giê-ru-sa-lem (Lu 24:46-53). Nhưng dân tộc đã để cho Giăng Báp-tít bị giết và đề nghị đóng đinh Chúa Giê-xu đã tiếp tục bắt bớ hội thánh, và cũng chính họ đã giết Ê-tiên (Cong 7:1-60).
Vào năm 70 SC. lời tiên tri trong Da 9:6 đã được ứng nghiệm khi quân La-mã đến hủy phá thành Giê-ru-sa-lem cùng đền thờ, và dân Do-thái đã bị tản lạc. Người La-mã là “dân của vị thủ lĩnh sẽ đến”, và vị thủ lĩnh này chính là Kẻ Chống Chúa trong tương lai mà Đa-ni-ên đã mô tả là “chiếc sừng nhỏ” và là vị vua nói lời phạm thượng (Da 7:8,24-25; Da 8:23-27). Sự việc này đưa chúng ta đến với giai đoạn thứ ba.
• Giai đoạn Da 3: - 7 năm (Da 9:27). Đại từ “ông ấy” đề cập về “vị thủ lĩnh sẽ đến” (c.26), đó là Kẻ Chống Chúa. [60]. Hiện chúng ta đang nói về 7 năm cuối cùng trong lịch tiên tri mà thiên sứ Gáp-ri-ên đã cho Đa-ni-ên biết, và chúng ta thường nhắc đến giai đoạn này là “thời kỳ Đại Nạn”hay “Ngày của Chúa”. Mặc dù thế giới vẫn luôn đối diện với chiến tranh và sự tàn phá (Mat 24:3-24), nhưng thời kỳ cuối cùng này sẽ là một thời kỳ có sự tai họa kinh khiếp mà đỉnh điểm của nó là sự trở lại của Chúa Giê-su Christ (Kh 6:19; Mat 24:15-35).
Sự kiện mở màng cho giai đoạn 7 năm cuối cùng này là việc ký kết hiệp ức giữa Kẻ Chống Chúa và dân tộc Do-thái. Vào thời điểm này, Kẻ Chống Chúa sẽ là một nhân vật chính trị quan trọng ở Châu Âu - một trong mười ngón chân của pho tượng trong Da 2:1-49, và là “chiếc sừng nhỏ” nhú lên từ mười chiếc sừng trong Da 7:8,24-28 -hắn có đủ thẩm quyền và khả năng để chấm dứt “vấn đề Trung Đông”.
Hắn lập những giao-ước để bảo vệ dân Do-thái khỏi những kẻ thù của họ, có lẽ cũng nhờ vậy mà họ có thể xây dựng đền thờ và khôi phục việc dâng tế lễ. Những vị lãnh tụ Do-thái đuôi mù thuộc linh, sao nhãn lời Thánh Kinh đã hớn hở ký kết những giao-ước này. Chúa Giê-xu đã nói với những người lãnh đạo Do-thái trong thời Ngài rằng, “Ta đã nhân danh cha ta mà đến, các ngươi không nhận lấy ta”; “nếu có kẻ khác lấy danh riêng mình mà đến, thì các ngươi sẽ nhận lấy” (Gi 5:43). Sau ba năm rưỡi, Kẻ Chống Chúa sẽ phá bỏ hiệp ước đó, chiếm đền thờ, cho đặt tượng mình trong đó, và buộc thế gian phải thờ lạy mình (IITe 2:1-17; Kh 3:1-22). Đây chính là “sự gớm ghiếc tàn hại; mà Chúa Giê-xu đã phán khi nói những điều đánh dấu trọng tâm của thời kỳ Đại nạn” (Mat 24:15; Mac 13:14).
Cho đến thời điểm này, “con người tội lỗi” và “con của sự huỷ diệt” (IITe 2:3), kẻ vẫn trước giờ lừa dối thế gian bằng trò chơi chính trị khôn khéo, sẽ tiết lộ mình là một công cụ của Sa-tan và là một kẻ chuyên quyền hung bạo của thế gian. Đấng Christ sẽ đánh bại hắn khi Ngài trở lại để thiết lập vương quốc của Ngài (Kh 19:11-12).
• Sự việc kỳ lạ được lồng vào.
Chúng ta không biết là Đa-ni-ên có hiểu rõ tất cả những điều ông đã nghe hay không, nhưng sứ điệp của thiên sứ Gáp-ri-ên đã bảo đảm với ông rằng dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ được trở về quê hương của họ, thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ sẽ được xây lại, và Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẳn sàng cho việc thanh tẩy dân tộc này. Nhưng thiên sứ này đã không cho Đa-ni-ên biết điều gì sẽ xảy ra giữa “tuần lễ” thứ sáu mươi chính và bảy mươi. Giữa Da 9:26-27 có một sự việc khác lạ được xen vào. Tại sao?
Vì dây là lời tiên tri dành riêng cho dân tộc Do-thái, đền thờ của người Do-thái và thành Giê-ru-sa-lem (c.24). Nhưng quãng thời gian giữa tuần lễ sáu mươi chín và bảy mươi phải được áp dụng cho hội thánh, là thân thể của Đấng Christ. Đây là một lẽ mầu nhiệm mà Đức Chúa Trời đã giữ kín trong thời Cựu ước và đã không bày tỏ cho đến thời của Đấng Christ và các sứ đồ (Eph 3:1-13). [61]. Đa-ni-ên đã không được cho biết việc Đấng Mê-si bị khước từ và sát hại sẽ mang đến một điều mới mẻ, đó là người Do-thái và dân ngoại sẽ được hiệp lại trong một thân thể thuộc linh và trong thân này mọi khác biệt về bản chất không còn quan trọng nữa (Eph 2:11-12; Ga 3:22-29).
Lý do khiến những người tuân thủ luật pháp Do-thái đã chống đống Phao-lô là vì ông đã đặt người Do-thái và dân ngoại đã tin Chúa ở địa vị ngang bằng nhau, còn những người theo chủ nghĩa truyền thống lại muốn duy trì “tính ưu thế” của người Do-thái theo như đã được bày tỏ trong luật pháp và những lời tiên tri về vương quốc của họ.
Một số lời tiên tri trong Da 9:24-27 đã được ứng nghiệm, và những lời còn lại sẽ đượng ứng nghiệm vào thời kỳ sau rốt. Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại của hội thánh, khi một bộ phận của dân Y-sơ-ra-ên đã bị mù quáng và tạm thời bị gạt sang một bên (Ro 9:1-11:36). Chúng ta cũng phải có lòng quan tâm đến dân Do-thái như Phao-lô.
Chúng ta phải cầu nguyện cho họ và tìm cách chia sẻ phúc âm cho họ. Những người tin chúaa là dân ngoại đã nợ dân Y-sơ-ra-ên (Ro 15:24-27) bởi vì nhờ họ mà chúng ta hiểu được về Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, về bản văn Kinh thánh được linh cảm, và về Đấng Cứu Thế là Chúa Chúa Giê-su Christ. Sau đó Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục dạy dỗ Đa-ni-ên về tương lai của dân tộc ông, nên chúng ta sẽ xem xét những lời tiên tri này ở chương kế tiếp.
10. MỘT KINH NGHIỆM ĐẶC BIỆT (Da 10:1-21)
Năm cai cai trị thứ ba của vuaa Si-ru nhằm vào năm 536 TC., đây là niên đại cuối cùng được sách Đa-ni-ên nhắc đến. Lời nhận xét này không đi ngược lại Da 1:21, là câu cho chúng ta biết Đa-ni-ên đã tiếp tục chầu vua bao lâu nữa. Như chúng ta đã biết, Đa-ni-ên đã sống cho đến khi lời tiên tri của Giê-rê-mi ứng nghiệm và nhóm người Do-thái đầu tiên được trở về quê hương và bắt tay vào việc xây lại đền thờ. Nếu như ông được mười lăm tuổi khi bị đưa sang Ba-by-lôn, thì vào thời điểm này ông đã được tám mươi tư hay tám lăm tuổi.
Việc Da 10:1 dùng ngôi thứ ba để nói về Đa-ni-ên đã gợi ý rằng lời nhận định mở đầu đoạn này có thể là một “lời tựa về nhân vật” chính thức cho ba đoạn trước của sách ông. Trong câu 2 và xuyên suốt đoạn này, Đa-ni-ên đều dùng ngôi thứ nhất để trình bày. Cũng vậy, việc tên gọi “Bên-xát-sa” của ông theo tiếng Ba-by-lôn được dùng chứng tỏ rằng lời nhận định mở đầu này có thể là “danh hiệu” chính thức cho tài liệu này. Khải tượng mà Đức Chúa Trời đã tỏ cùng ông là thật, và Đa-ni-ên đã hiểu được sứ điệp trong khải tượng và ý thức được rằng nhiều năm sau nữa, khải tượng đó sẽ được ứng nghiệm. Cụm từ “thời kỳ đã được định là dài” có thể được dịch là “ và của xung đột lớn” (bản NIV, “ và nó nói về một cuộc chiến tranh lớn”). Đa-ni-ên đã biết được rằng dân tộc ông sẽ phải trải qua hoạn nạn lớn trong những năm đầu, nhưng Đức Chúa Trời sẽ quan phòng họ và cuối cùng Ngài sẽ thiết lập vương quốc của lời hứa.
1. Một vị tiên tri được yêu mến (Da 10:1-3)
Trong ba tuần, Đa-ni-ên đã kiêng ăn và cầu nguyện, và ông cũng đã không xức dầu để tìm kiếm Đức Chúa Trời. Tại sao vậy? Có lẽ lý do là vì ông lo lắng cho gần 50,000 người Do-thái, một năm trước đây họ đã rời Ba-by-lôn trở về quê hương để xây lại đền thờ. Vì Đa-ni-ên đã nhận những báo cáo chính thức, rõ ràng ông đã biết tin rằng những người này đã trở về Giê-ru-sa-lem an toàn cũng như tất cả những tài sản của đền tạm vẫn còn nguyên vẹn. Ông cũng nghe tin rằng họ đã đặt móng cho đền thờ nhưng công việc này đã bị cản trở và cuối cùng phải ngưng lại (Exo 4:1-24). Ông biết rằng dân mình đã phải chịu nhiều khó nhọc ở thành phố Giê-ru-sa-lem đổ nát, và ông tự hỏi phải chăng Đức Chúa Trời không làm ứng nghiệm những lời hứa Ngài đã phán với tiên tri Giê-rê-mi (Gie 25:11-12; Gie 29:10-14).
Có lẽ Đa-ni-ên đã không hiểu được rằng lời tiên tri về bảy mươi tuần lễ có đến hai ứng dụng, đầu tiên là cho dân sự và sau đó là cho đền thờ. Những người Do-thái đầu tiên bị đưa đi lưu đày ở Ba-by-lôn vào năm 605, và những người phu tù đầu tiên được trở về quê hương vào năm 536, một giai đoạn dài bảy mươi năm. Đền thờ đã bị quân đội Ba-by-lôn huỷ phá vào năm 586, và đền thờ thứ hai được hoàn tất và khánh thành vào năm 515, đây cũng là một giai đoạn kéo dài bảy mươi năm.
Điều Đa-ni-ên nặng lòng là đền thờ phải được xây lại càng nhanh càng tốt, nhưng ông đã không nhận ra rằng Đức Chúa Trời đang làm ứng nghiệm những hoạch định của Ngài một cách hoàn hảo. Công việc này đã bị đình lại vào năm 536, sau đó được tiếp tục lại vào năm 520 và hoàn tất vào năm 515. Mười sáu năm bị ngưng trệ đó hoàn toàn nằm trong kế hoạch. Đây là một lời nhắc nhở rất hữu ích cho chúng ta ngày nay khi phụng sự Đức Chúa Trời, đó là thời biểu của chúng ta ở trong tay Ngài (Thi 31:15) và Ngài không bao giờ chậm trễ trong việc làm thành ý định của Ngài.
Nhưng có lẽ còn một lý do thứ hai khiến Đa-ni-ên kiêng ăn và cầu nguyện: ông muốn hiểu thêm về những khải tượng và lời tiên tri mà ông đã được nhận, và ông mong mỏi Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ cho ông lẽ thật tiếp theo về tương lai của Y-sơ-ra-ên. Đa-ni-ên là một người đã có tuổi, vì thế trước khi trở về cùng tổ phụ mình, ông muốn để lại một sứ điệp tiên tri có thể khích lệ và củng cố dân sự. Thực vậy, tiên tri Đa-ni-ên là một sách vô cùng quý giá đối với dân tộc Y-sơ-ra-ên trong nhiều thế kỷ sau đó. Họ biết mình sẽ phải trải qua những cuộc thử thách và bắt bớ kinh khiếp, nhưng họ cũng biết được rằng Đức Chúa Trời sẽ thành tín và sẽ có một ngày họ được bước vào vương quốc của lời hứa.
Một ngày nào đó khi hộp hiệp nhau trên thiên đàng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng những điều xảy ra cho dân sự Đức Chúa Trời ở trên đất tùy thuộc phần lớn vào lời cầu nguyện của những người có tấm lòng cưu mang như Đa-ni-ên.
“Hỡi Giê-ru-sa-lem, ai sẽ thương xót ngươi được sao? Ai sẽ than tiếc ngươi? Ai sẽ xây lại mà hỏi thăm ngươi?” (Gie 15:5). Tiên tri Nê-hê-mi hỏi về cảnh ngộ của Giê-ru-sa-lem và kết thúc bằng một câu trả lời cho những lời cầu nguyện của mìnnh! (Ne 1:1-2:20) Giê-rê-mi đã khóc về Giê-ru-sa-lem và dân sự nó và ông mong ước rằng ông có thể khóc nhiều hơn nữa (Gie 9:1-2; Gie 8:21; Gie 10:19; Gie 23:9). Chúa Giê-xu cũng đã khóc cho thành này (Mat 23:37-39), và sứ đồ Phao-lô đã sẵn sàng chịu sỉ nhục để dân tộcc ông có thể được cứu (Ro 9:1-3 Ro 10:1). “Mắt tôi tuôn tràn suối lệ vì người ta không giữ kinh luật của Chúa” (Thi 119:139).
Đức Chúa Trời đã đặt một gánh nặng vào lòng Đa-ni-ên, và vì Đa-ni-ên đã kiêng ăn và cầu nguyện mà ngày nay chúng ta có những lời tiên tri của ông để nghiên cứu. Cầu mong Đức Chúa Trời giúp chúng ta để lại cho hậu thế điều gì đó hầu cho những người đến sau chúng ta được khích lệ và giúp đỡ!
2. Một khải tượng đáng kinh (Da 10:4-9,14)
Ba ngày sau khi kết thúc kiêng ăn, Đa-ni-ên đã thấy một khải tượng đáng kinh khi người đứng bên cạnh sông Tigris. Lý do tại sao Đa-ni-ên lại có mặt ở đó không được giải thích trong đoạn này, nhưng đó chính là nơi Đức Chúa Trời đã gặp ông và tiết lộ về tương lai của Y-sơ-ra-ên qua một lời tiên tri vĩ đại nhất trong số những lời đã được ban cho tôi tớ Ngài.
Điều này diễn ra vào tháng thứ nhất trong năm của người Hê-bơ-rơ, vào tháng ngày người Do-thái kỷ niệm lệ Vượt Qua, Lễ Bẻ Bánh Không Men, và Lễ Đầu Mùa Giặt (Le 23:1-14). Đa-ni-ên không thể kỷ niệm những sự kiện này tại Ba-by-lôn, nhưng chắc chắn lòng ông đang suy gẫm về những điều đó.
• Lễ Vượt Qua nói về sự kiện dân Y-sơ-ra-ên được giải cứu khỏi vòng xiềng xích của người Ai-cập, và bấy giờ họ đang được phép rời Ba-by-lôn để trở về quê hương của chính họ. Trong suốt tuần lễ trước Lễ Vượt Qua, người Do-thái phải loại bỏ tất cả men làm bánh khỏi nhà họ, đây là hình ảnh cho việc tội lỗi được loại bỏ khỏi đời sống của họ (Mat 16:6-12 Mac 8:15 Lu 12:1 ICo 5:6-8 Ga 5:9). Mặc dù Đa-ni-ên đã sống tám thập kỷ nơi một xứ sở tà thần, nhưng ông vẫn giữ được tấm lòng và đời sống mình thánh sạch trước mặt Đức Chúa Trời. Ông cầu nguyện rằng dân Do-thái còn sót lại này sẽ trở thành một dân thánh cho Đức Giê-hô-va hầu Ngài ban phước cho họ trong những gì họ làm.
Đa-ni-ên đã nhìn thấy một cảnh tượng đáng kinh hoàng cách đột ngột và không được báo trước: môt người mặc bao gai và đeo thắt lưng bằng vàng, mình sáng như bích ngọc và mặt như chớp, đôi mắt người như đuốt cháy, tay và chân như đồng đánh bóng, tiếng nói như tiếng đám đông. Chúng ta không được cho biết người này đã nói gì, nhưng diệm mạo và giọng nói của người thật nổi bật. Những người đang ở cùng Đa-ni-ên không thấy khải tượng đó, nhưng họ cảm nhận được một sức mạnh kinh khiếp đang tồn tại nên đã chạy đi ẩn mình. [62] Đa-ni-ên ở lại đó một mình, không còn chút sức mạnh, ông lắng nghe lời của người này nhưng không thể đáp lại được. Điều ông có thể làm là đứng đó và nhìn chằm chằm vào khải tượng, sau đó ngã xuống đất và ngủ mê.
Người này là ai? Có phải người là vị thiên sứ được sai đến để xác chứng với Đa-ni-ên rằng những đạo thiên binh của Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ dân Do-thái và qua đó cho thấy rằng ý muốn của Đức Chúa Trời đã được làm trọn? [63].Phải chăng đó là Gáp-ri-ên, người đã từng đến gặp Đa-ni-ên? Hay đó chính là hình dạng trước khi nhập thể của Chúa Giê-su Christ, Con Đức Chúa Trời?
Có thể các nhà nghiên cứu Kinh thánh sẽ bảo vệ một trong ba quan điểm này, vì thế chúng ta không thể võ đoán. Nếu chúng ta quan niệm rằng con người vinh hiển này cũng chính là người đã chạm đến Đa-ni-ên và nói với ông (Da 10:10-15), thì chúng ta phải chọn đó là Gáp-ri-ên hay một thiên sứ khác, bởi vì Chúa Giê-xu sẽ không cần đến sự giúp đỡ của thiên sứ Mi-sen để đánh bại một thiên sứ tội lỗi (c.13). Tuy nhiên, dường như người đã chạm Đa-ni-ên và nói với ông khác với con người vinh hiển đã xuất hiện trong khải tượng, còn hầu hết các nhà nghiên cứu đều nghĩ rằng đó là Gáp-ri-ên.
Các mô tả vể con người vinh hiển này giống với cách mô tả về Đấng Christ đã được vinh hiển trong Kh 1:12-16, và cách đáp lại của Giăng cũng giống như cách của Đa-ni-ên! Đa-ni-ên đã từng nhìn thấy Con Người tại ngôi của Đức Chúa Trời nơi thiên đàng (Da 7:9-14), nhưng người này đã ở trên đất và rất gần với Đa-ni-ên. Tôi tin rằng đây là một khải tượng về Con vinh hiển của Đức Chúa Trời và vị thiên sứ đã nói với Đa-ni-ên chính là Gáp-ri-ên. Nhưng tại sao Con của Đức Chúa Trời lại xuất hiện cho Đa-ni-ên vào thời điểm này?
Trong những phần ký thuật của Kinh thánh về lịch sử cứu rỗi, chúng ta thường thấy Chúa Giê-xu Christ xuất hiện cho các tôi tớ Ngài vào những dịp đặc biệt, để chia sẻ một sứ điệp đặc biệt hay để chuẩn bị họ cho một sứ điệp đặc biệt. Ngài thường xuất hiện theo những cách phù hợp với hoàn cảnh và sự kêu gọi của họ. Đối với Áp-ra-ham, một người hành hương, Ngài xuất hiện như một người qua đường (Sa 18:1-33), nhưng với Gia-cốp một kẻ có âm mưu thì Ngài đến với tư cách là một đô vật (Sa 32:1-32). Trước khi Giô-suê tấn công thành Giê-ri-cô, Chúa Giê-xu đến với tư cách là Nguyên Soái đạo quân của Đức Chúa Trời (Gios 5:13-15), và đối với Ê-sai, Ngài xuất hiện như một vị Vua ngồi trên ngôi (Es 6:1-13 Gi 12:37-41). Nhưng đối với hai người Do-thái bị lưu đày là Đa-ni-ên ở Ba-by-lôn và Sứ đồ Giăng ở đảo Bát-mô, Chúa Giê-xu lại xuất hiện như một Thầy Tế Lễ Nhà vua vinh hiển. Sau khi thấy Con Đức Chúa Trời, cả hai người này đã được cho thấy những khải tượng về những sự kiện trong tương lai liên quan đến dân sự của Đức Chúa Trời, đó là những sự kiện khó hiểu và khó tiếp nhận.
Ngay từ khi mới bước vào chức vụ tiên tri, Đa-ni-ên đã giải được ý nghĩa của bức tượng đáng kinh mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã nhìn thấy trong giấc chiêm bao (Da 2:1-49), và bây giờ, cuối những năn chức vụ của mình, ông đã thấy một hình ảnh thậm chí còn vĩ đại hơn, đó là Vua của các vua và Chúa của các Chúa! Khi chúng ta biết được rằng Chúa Giê-xu đang đứng và chiến đấuc cùng bạn, chúng ta có thể chấp nhận mọi hoàn cảnh và hoàn thành bất cứ nhiệm vụ nào Ngài giao chúng ta.
Bên cạnh ý nghĩa mang tính tiên tri, có một nghĩa trong kinh nghiệm của Đa-ni-ên tại bờ sông Tigris là bài học cho tất cả những người lãnh đạo Cơ đốc. Nếu chúng ta muốn thấy điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta thấy và nghe được điều Ngài đang phán với chúng ta, thì chúng ta phải trả giá. Đa-ni-ên đã không nhận được khải tượng vĩ đại này ở giai đoạn đầu của chức vụ, mà là ở giai đoạn cuối của một cuộc đời sống lâu và đầy lòng trung tín.
“Phước cho những kẻ có lòng trong sách, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời” (Mat 5:8). Những vị lãnh đạo thộc linh thường nghe những điều người khác không thể nghe và thấy những điều người khác không thấy được. Họ phải đúng khi những người khác qụy ngã, và họ phải tiếp nhận sứ điệp chủa Đức Chúa Trời cho dầu điều đó khiến họ cảm thấy yếu duối và vô ích.Sau khi thấy sự vĩ đại và vinh hiển của Đức Chúa Trời, Đa-ni-ên chuẩn bị đón nhận và ghi lại sứ điệp tiên tri mà thiên sứ truyền đạt.
Vị thiên sứ đã đến cho Đa-ni-ên thấy một khải tượng đặc biệt liên quan đến dân Do-thái và những gì sẽ xảy đến cho họ sau này (Da 10:14). Khi nghiên cứ khải tượng tiên tri phức tạp này, chúng ta phải tập trung vào dân Y-sơ-ra-ên chứ không phải vào hội thánh, mặc dầu lời Kinh thánh ích lợi người tin Chúa ở mọi thời đại. Một số phần trong khải tượng tiêntri này đã ứng nghiệm, nhưng phần lớn sẽ được ứng nghiệm vào “thời kỳ cuối cùng”, tức là trong tuần lễ thứ bày mươi của “lịch tiên tri” đã được cho biết trong câu 24-27.
3. Một cuộc chiến vô hình (Da 10:10-21)
Chúng ta có ấn tượng rằng con người vinh hiển mặc áo gai ấy đã biến mất khói quang cảnh đó, và một trong các thiên sứ, có lẽ là Đa-ni-ên, đã đến chạm vào Đa-ni-ên. Vị tiên tri già này nằm sấp mặt trên đất, nhưng vị thiên sứ đã nâng ông lên để ông chống đầu gối và bàn tay trên đất. Sau đó vị thiên sứ nói với ông và những điều đó đã ban cho ông sức mạnh đứng thẳng dậy. Điều này nhắc chúng ta rằng nhớ đến những thiên sứ đã phục vụ Chúa chúng ta sau khi Ngài chịu cám dỗ (Mat 4:11 Mac 1:13) và khi Ngài ở trong vườn cầu nguyện (Lu 2:41-43). Đây là lần thứ ba Đa-ni-ên được thiên sứ chạm đến (Da 8:18 Da 9:21 Da 10:16,18-19).
Đây là lần thứ hai Đa-ni-ên được gọi là “kẻ được yêu nhiều” (Da 9:23 Da 10:19). Điều này gợi cho chúng ta nhớ rằng Chúa Giê-xu đã được Đức Chúa Cha nói theo cách này (Mat 3:17 Mat 17:5 Mac 1:11 Mac 9:7 Mac 12:6 Lu 3:22 Lu 20:12 và đối chiếu Es 42:1-4 với Mat 12:15-21). Vì chúng ta là con cái Ngài và được “ở trong Đấng Christ”, nên chúng ta “được chấp nhận trong Con yêu dấu” (Eph 1:6), và Đức Chúa Cha cũng yêu thương chúng ta như Ngài đã yêu Con Ngài (Gi 17:23,26). Đối với chúng ta, biết Đức Chúa Trời yêu thương mình thì chưa đủ; vì thế chúng ta phải sống trong mối thông công với Ngài để “giữ (mình) trong tình yêu của Đức Chúa Trời” (Giu 1:31 Gi 14:19-24).
Cuộc trò chuyện của Đa-ni-ên với vị thiên sứ đã cho chúng ta thấy một thực tế quan trọng, đó là có một cuộc chiến vô hình đang diễn ra trên các từng trời giữa lực lượng của ma quỷ và lực lượng của Đức Chúa Trời. Trong ba tuần Đa-ni-ên đã cầu xin Đức Chúa Trời ban cho sự khôn ngoan để có thể hiểu được những khải tượng mà ông đã nhìn thấy, nhưng nhậm lời cầu nguyện đó đã bị trì hoãn lại. Vì sao Đức Chúa Trời không nhậm lời ngay những điều mà vị tiên tri Ngài yêu cầu khẩn? Bởi vì “thủ lãnh của vương quốc Ba-tư” -một thiên sứ ác- đã tấn công vị thiên sứ giữ câu trả lời, có thể là Gáp-ri-ên. Vị thiên sứ ác này được chỉ định lo liệu để cho vua Ba-tư làm theo những gì Sa-tan muốn hắn làm. Thiên sứ trưởng Mi-chen được bổ nhiệm để chăm lo cho dân Y-sơ-ra-ên (Da 12:1 Kh 12:7 Giu 1:9), hỗ trợ thiên sứ Gáp-ri-ên và họ đã cùng nhau chiến thắng cuộc chiến này.
Những người có thiện ý có thể chế nhạo ý tưởng về những lực lượng tà linh, những vị thiên sứ thánh thiện và gian ác, và có thể họ chế giễu Sa-tan, nhưng thực tế đây là thần học của Kinh thánh.
Khi Lucifer nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời và bị đoán phạt và những câu sau, một số thiên sứ đã sa ngã theo ông, và trở thành những thiên sứ ác thuộc về ma qủi, họ sẽ chống lại Đức Chúa Trời và vâng lệnh Sa-tan (Es 14:12-15 Kh 12:7-12 Mat 25:41). Theo Eph 6:10-18, Sa-tan có một đội quân có tổ chức gồm các tà linh, và chúng sẵn sàng vâng theo mọi mệnh lệnh của Sa-tan. Qua việc phó mình trên thập tự giá làm của lễ chuộc tội, đấng Christ đã đánh bại Sa-tan cùng quân đội của hắn (Eph 1:20-23 Co 2:15 Gi 12:31 Kh 12:11), và chúng ta có thể khẳng định chiến thắng ấy bằng đức tin. Trách nhiệm của người tin Chúa là mặc lấy áo giáp của Đức Chúa Trời bằng đức tin, sử dụng lời của Đức Chúa Trời và những lời cầu nguyện tin kính để chống cự và đánh bại kẻ dữ.
Dường như mỗi quốc gia có một thiên sứ gian ác cụ thể được phái đến; một số nhà nghiên cứu thiên sứ học đã gọi họ là “linh theo vùng”. Cũng vì lý do này Phao-lô đã nói với các tín hữu Ê-phê-sô rằng không phải Cơ-đốc nhân chiến đấu cùng thịt và huyết, nhưng cùng các thế lực ma quỉ trên các từng trời mà thường chống đối các thiên sứ thánh, là những thiên sứ luôn làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Những nan đề mà những dân sót Do-thái đang đối diện vào thời điểm đó không phải do các quan chức tại địa phương gây ra, mà là do các thế lực tội lỗi của Sa-tan đã lợi dụng những người này để quấy phá.
Cơ-đốc nhân không được thờ phượng các thiên sứ (Co 2:18-19 Kh 19:10 Kh 22:8-9), hay cầu nguyện với họ, bởi vì sự thờ phượng và cầu nguyện của chúng ta thuộc về một mình Đức Chúa Trời. Nhưng khi chúng ta cầu nguyện, Đức Chúa Trời ra lệnh cho thiên binh chiến đấu thay chúng ta, mặc dù chúng ta không biết gì về những trận đánh đang được tiến hành trong cuộc chiến vô hình này (IIVua 6:17).
Thiên sứ Đa-ni-ên đã nhận ra ý nghĩa lớn lao trong những hoạch định Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên. Ông đã một lần nữa tái xanh mặt và không nói được. Tại đây ông đã can dự đến một cuộc xung đột thuộc linh trong vũ trụ, mà ông không hề biết gì về nó, và Đức Chúa Trời đã sai một số thiên sứ cao nhất của Ngài đến để thực hiện những lời ông cầu xin! Rõ ràng điều này khiến cầu nguyện không còn là thói quen tôn giáo buồn tẻ, và cho thấy nó là một trong những vũ khí thuộc linh quan trọng và mạnh mẽ nhất của chúng ta. Lý do khiến nhiều hội thánh và cá nhân yếu đuối và thất bại là do sao lãng việc cầu nguyện. Peter Deyneka, nhà truyền giáo cho người dủng ngôn ngữ Xla-vơ, thường nhắc nhở chúng ta rằng “Cầu nguyện nhiều, thì năng quyền nhiều; không cầu nguyện thì không có năng quyền! ”Chúa Giê-xu đã dạy các môn đồ Ngài rằng không thể chiến thắng được thế lực của ma quỉ nếu thiếu cầy nguyện và kiêng ăn. Đây chính là những điều Đa-ni-ên đã thực hiện trong ba tuần (Mat 17:14-21).
Chúa Giê-xu đánh giá nghiêm túc về sự hiện diện của Sa-tan và những thế lực ma quỉ của hắn. Điều này không có nghĩa là chúng ta nên đỗ lỗi cho ma quỷ về mọi vấn đề rắc rối và trục trặc, mà có nghĩa là chúng ta phải thừa nhận quyền của Sa-tan (như một con sư tử đang đói, IPhi 5:8) cùng sự khôn khéo của hắn (như rắn, ICo 11:3). Một trong những mưu chước chính của Sa-tan là làm cho người ta nghĩ rằng hắn không tồn tại, hay nếu có tồn tại thì cũng không có gì đáng phải sợ.
Một lần nữa, vị thiên sứ đã làm cho Đa-ni-ên được phục hồi sức lực để ông có thể nghe được sứ điệp tiên tri từ sứ giả và ghi chúng lại cho chúng ta suy gẫm. Vị thiên sứ đã nói với ông hai lần rằng, “Đừng sợ” (Da 10:12,19). Vị thiên sứ cũng đã nói, “Hãy an tâm. Hãy mạnh mẽ và can đảm lên” (c.19). Đa-ni-ên lúc ấy cần phải có sức mạnh mới có thể nghe được cả sứ điệp dài mà vị thiên sứ truyền đạt.
Cuối cùng, vị thiên sứ cho biết rõ rằng cuộc chiến này vẫn chưa chấm dứt. Ngay khi vừa kết thúc việc chỉ bảo cho Đa-ni-ên, thiên sứ Gáp-ri-ên trở về để hỗ trợ cho thiên sứ Mi-chen trong trận chiến với thủ lãnh của Ba-tư và thủ lãnh của Hy-lạp. hai thiên sứ ác thuộc về Sa-tan, là những kẻ đang chống lại những kế hoạch của Đức Chúa Trời dành cho các dân tộc này. Người cai trị Ba-tư đã tỏ ra rộng lượng và lòng thương xót khi để cho dân Do-thái được phép trở về quê hương, và Sa-tan đã tìm cách chống lại quyết định này. Đức Chúa Trời cũng đã có những hoạch định dành cho dân Hy-lạp (Da 11:2-4) nhưng Sa-tan muốn cản trở. Lý do khiến Đức Chúa Trời dạy dân sự Ngài phải cầu nguyện cho những người cầm quyền, đó là để ý muốn của Đức Chúa Trời, chứ không phải những kế hoạch của Sa-tan, được làm trọn qua đời sống họ (ITi 2:1-3). Số phận của nhiều quốc gia đã thay đổi vì dân sự Đức Chúa Trời đã cầu nguyện hết lòng.
“Vả những khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ đồn lũy: nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng phải làm tôi vâng phục Đấng Christ” (IICo 10:4-5).
Sứ điệp tiên tri trong đoạn 11 và 12 dài và phức tạp. Năm câu đầu của Da 11:1-45 là lờitiên tri trong thời của Đa-ni-ên nhung nói về lịch sử hiện nay. Chúng bàn về những nhân vật quan trọng, nhưng đã bị lãng quên trong lịch sử, với những cái tên rắc rối và những mối quan hệ phức tạp. Có thể tóm lượt hai đoạn này như sau:
1. Những lời tiên tri đã ứng nghiệm (Da 11:1-35)
- Về Ba-tư -11:1-2
- Về Hy-lạp -11:3-4
- Về Ai-cập và Sy-ri -11:5-20
- Về Antiochus Ephiphanes và Sy-ri -11:21-35
2. Những lời tiên tri chưa được ứng nghiệm (Da 11:36-12:3)
- Về thời kỳ Đại Nạn và Kẻ Chống Chúa -11:36-12:1
- Về vương quốc của lời hứa -12:2-3
3. Những lời chỉ dạy sau cùng dành cho Đa-ni-ên (Da 12: 4-13)
Những lời tiên tri này cung cấp chi tiết cho những lời tiên tri mà trước đó Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-ni-ên và là phần trả lời cho lời cầu xin của Đa-ni-ên mong được hiểu nhiều hơn về những hoạch định Đức Chúa Trời dành cho dân Y-sơ-ra-ên. Trọng tâm là dân Y-sơ-ra-ên trong quá khứ.
11. Một Lời Tiên Tri Đặc Biệt - Phần I (Da 11:1-35)
Lời tiên tri được ứng nghiệm là một trong những bằng chứng về sự linh cảm của Kinh thánh. Vì chỉ có một mình Đức Chúa Trời toàn năng mới có thể biết được những sự việc tương lai một cách chính xác và chỉ cho các tôi tớ Ngài viết chúng ra. “Chính Ngài tỏ những sự sâu xa kín nhiệm; chính Ngài biết những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với Ngài” (Da 2:22). Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi sách Đa-ni-ên, đặc biệt là những đoạn này, bị nhiều nhà phê bình cấp tiến tấn công, vì họ cho rằng không người nào có thể viết trước được quá nhiều chi tiết chính xác về nhiều những dân tộc và sự kiện đến vậy. Họ đã đưa ra kết luận mang tính khoa học” rằng Sách Đa-ni-ên là một sự lừa gạt; nhiều thế kỷ sau khi những sự kiện này xảy ra nó mới được viết ra, vì thế nó hoàn toàn không phải là một sách tiên tri. Tuy nhiên, những nhà phê bình này đã không thể phủ nhận được tính lịch sử của các sự kiện, bởi vì những phần ký thuật này có trong biên niên sử của lịch sử cổ đại để mọi người đọc và không thể phủ nhận được. Vì thế để duy trì những “thuyết mang tính khoa học” của mình, họ đã phải phủ nhận tính thực tế của lời tiên tri. [64]. Ai trong chúng ta tin vào một Đức Chúa Trời vĩ đại đều không gặp phải rắc rối khi chấp nhận “lời tiên tri” (IIPhi 1:19-21).
Trước tiên, chúng ta sẽ xem xét những câu được tiên tri trong thời Đa-ni-ên và đã được ứng nghiệm, và hiện nay đã trở thành lịch sử cổ đại. Như thường lệ, chúng ta sẽ cố gắng lượm lặt một số bài học thuộc linh thực tiễn để giúp cho việc theo Chúa hiện nay của chúng ta.
1. Những lời tiên tri về Ba-tư (Da 11:1-2)
Đáng lẽ ra câu 1 nên nằm ở cuối của đoạn trước vì nó bàn về sự xung đột giữa các thiên sứ thánh với các thiên sứ của Sa-tan. Những người lãnh đạo của Ba-tư không ý thức được rằng Sa-tan đang tìm cách khống chế tâm trí của họ và đưa họ đến chỗ ra những quyết định gây tổn hại cho dân Chúa. So với những người cai trị Ba-by-lôn, những người cai trị Ba-tư rộng lượng với người Do-thái hơn nhiều và Sa-tan không muốn điều đó xảy ra. Hắn ghét người Do-thái và chống lại phong cách Xê-mít ở bất cứ nơi nào có phong cách này (Kh 12:1-18). Tuy nhiên, thiên sứ Mi-ca-ên và Gáp-ri-ên đã thắng trong trận chiến này, vì thế vua Đa-ri-út và vua Si-ru đã thể hiện tình thương đối với những ngưòi Do-thái bị lưu đày. Thực tế, chính Si-ru là vị vua đã ra một chiếu chỉ quan trọng đó là cho phép dân Do-thái trở về quê hương và xây dựng lại đền thờ của họ (Exo 1:1-4).
Bốn vị vua có khả năng sẽ cai trị trong tương lai là Cambyses (529-522), Ngụy Smerdis (522-521), Đa-ri-út I Hystapes (521-486), và Xét-xe (496-465), là vua A-su-rơ trong sách Ê-xơ-tê.
Cambyses là con trai và cũng là người kế vị ngai vàng của Si-ru Đại đế, và có lẽ ông chính là vua A-su-rơ của Et 4:6.Tham vọng cháy bỏng của ông là xâm lượt Ai-cập và chiếm lại vùng đất mà trước đây Nê-bu-cát-nết-sa đã chiếm nhưng sau đã bị mất.Cambyses đã tạo ra một cái cớ để phát động chiến tranh, ông nói rằng ông đã đích thân cầu hôn một trong số các công chúa của Ai-cập nhưng đã bị vua cha nàng từ chối.Và ông đã chiếm được Ai-cập, nhưng khi cố chiếm Ê-thi-ô-pi và Carthage, ông đã thất bại thảm hại và phải rút quân. Ông đã cai trị Ai-cập một cách hà khắc và đây là dấu hiệu của bệnh mất trí. Ông đã cưới hai người chị của mình, giết anh trai mình và thừa hưởng gia tài của Smerdis. Sau đó ông đã giết người chị chống đối việc ông đã giết anh mình. Một trong những thầy tế lễ đứng đầu của người Ba-tư đã âm mưu thực hiện một cuộc đảo chính và đã chiếm được ngai vàng. Ông này đã lấy tên của vị vương tử đã chết. (Các sử gia gọi ông là Ngụy Smerdis). Cambyses đã chết trên đường trở về nhà để hạ bệ vị vua mới, người đã cai trị trong vòng một năm. Nhưng vị vua quan trọng nhất và giàu có nhất trong bốn vị là Xẹt-xe I, vua A-su-ra của Sách Ê-xơ-tê. Ông cai trị một vương quốc trải dài từ Ê-thi-ô-pi cho đến Ấn-độ, và niềm say mê lớn của ông là chinh phục hy-lạp. Vào năm 480, ông đã cố gắng chinh phục Hy-lạp, nhưng ông đã gặp thất bại tại Salamis và Samos, và quân đội của ông đã bị đánh bại tại Plataea. Tất cả những sự kiện này được ghi lại ở đoạn 1 và 2 của Sách Ê-xơ-tê.Ông trở về nhà với tâm trạng cay đắng và giận dữ, vì thế ông đã làm dịu lòng kiêu ngạo bị tổn thương của mình bằng cách đem hoàng hậu của mình ra đùa cợt.Chính lúc này nàng Ê-xơ-tê đã xuất hiện. Xẹt-xe bị sát hại vào tháng Tám, năm 465.
2. Những lời tiên tri về Hy-lạp (Da 11:3-4)
Dựa vào những khải tượng trước đó, đn đã biết được thứ tự ra đời của các đế chế vĩ đại
Pho tượng
Ba-by-lôn - đầu bằng vàng
Mê-đi-Ba-tư - cánh tay và ngực bằng bạc
Hy-lạp - bụng và vế bằng đồng
La-mã - chân bằng sắt và bàn
chân bằng đất sét
Khải tượng (đoạn 7)
Sư tử
Gấu
Báo
Con thú dữ tợn
Khải tượng (đoạn 8)
Chiên đực
Dê
Dĩ nhiên, vị vua hùng mạnh trong Da 11:3 là Alexander Đại đế, người đã vì cớ sự xâm lượt của vua Xẹt-xe mà quyết định trừng phạt người Ba-tư. Chúng ta cũng đã gặp Alexander và biết về đội quân đông đảo của ông cùng cuộc chinh phạt các nước chớp nhoáng của ông. Thật sự là ông đã làm những gì mình muốn và không ai có thể chặng đứng bước tiến của ông. Vào năm 332, Alexander đã đánh bại người Ba-tư và vào năm 323 ông qua đời, vương quốc của ông được chia cho các tướng lãnh của ông.
Một lần nữa, những cuộc chinh phạt thần tốc của ông là một phần trong kế hoạch tối thượng của Đức Chúa Trời. Việc phổ biến rộng khắp ngôn ngữ và văn hoá Hy-lạp rốt lại nhằm hỗ trợ cho công tác truyền bá Phúc Âm và Kinh thánh Tân ước bằng tiếng Hy-lạp. Mục đích của Alexander không chỉ là chinh phục lãnh thổ mà còn là mang mọi người hiệp lại thành một “vương quốc thống nhất”. Quân lính của ông đã lấy những phụ nữ của những nước họ đã chinh phục, và vương quốc của Alexander trở thành “nơi tụ cư” cho mọi dân tộc. Điều này cũng đã góp phần làm cho Phúc Âm được truyền ba nhiều thế kỷ sau đó.
3. Các vua ở phía Bắc và phía Nam (Da 11:5-20)
Các quốc gia này là Ai-cập (ở phía nam) và Sy-ri (ở phía Bắc), và người cai trị của các vương quốc này được thay đổi thường xuyên. Vương quốc nhỏ bé Y-sơ-ra-ên bị kẹt giữa hai thế lực lớn mạnh, và bị ảnh hưởng bởi những cuộc xung đột của họ. Tất cả những dân tộc và những sự kiện này có thể không hấp dẫn đối với bạn, nhưng những lời tiên tri Đa-ni-ên đã ghi lại hoàn toàn khớp với những ký thuật của lịch sử, điều này cho thấy Lời Đức Chúa Trời đáng để tin cậy. Dòng họ Ptolemy đã cung cấp những người cai trị ở A-cập, và dòng họ Seleucid cung cấp những người cai trị ở phía Bắc (Sy-ri). Những phân đoạn này chỉ là những nhận định tóm tắt, nhưng nếu bạn đọc những phần này kèm theo những câu Kinh thánh có liên quan, bạn sẽ thấy được những lời tiên tri của Đa-ni-ên đã ứng nghiệm ra sao. Song song việc đọc bản Kinh thánh KJV, bạn cũng có thể đọc những câu này trong bản NASB hay bản NIV.
C.5 - Ptolemy I Soter và Seleucus I Nicator. Trong hai người thì Selucus mạnh hơn và đã cai trị toàn bộ đế quốc rộng lớn, nhưng chính nhờ liên minh với mà ông đã chiếm được ngai vàng của Sy-ri.
C.6 - Ptolemy II Philadelphus và Antiochus II Theos. Thường trong thời kỳ quân chủ, những người cai trị thường dùng hôn nhân như một phương tiên để thiết lập những liên minh chính trị vững mạnh, đây là một chính sách mà Sa-lô-môn đã noi theo (IVua 3:1 IVua 11:1-43). Tuy nhiên, Ptolemy đã yêu cầu Antiochus ly dị vợ là Laodice để cưới con gái mình là Berenice. Hay năm sau đó, Ptolemy đã qua đời, nên Seleucus đã đón vợ mình về lại. Bà này là người về sau đã sát hại cả ông và Berenice. Vì cớ một cuộc hôn nhân mà cho đến mãi về sau, không ai trong số họ được sống hạnh phúc. “Nhưng sức của cánh tay công chúa chắc không được lâu;quyền của vua phương bắc và cánh tay người cũng chẳng còn” (Da 11:6).
C.7-9 - Ptolemy III Euergetes và Seleucus II Callinicus. Vị vua mới của Ai-cập là một người anh em của Berenice. Ông dốc sức bảo vệ danh dự cho em gái mình và trả thù cho cái chết của nàng. Ông đã đem quân tấn công thế lực ở phía bắc, dành được thắng lợi, và thâu được một số của cải. Sau đó vua của hai nước này không đả động đến nhau một khoảng thời gian cho đến khi Seleucus tấn công Ai-cập vào năm 240, bị thất bại và phải trở về nước trong hổ thẹn. Ông đã chết do ngã ngựa và con trai ông là Seleucus III Soter lên nắm ngôi. Chỉ bốn năm sau ông này đã bị giết. Antiochus III Đại đế đã lên kế vị ông, cai trị từ năm 223 đến năm 187.
C.10-19 - Ptolemy IV Philopater và Antiochus III Đại đế. [65]. Các con trai của Seleucus II là Seleucus III, một vị tướng tài nhưng đã chết trong chiến trận, và Antiochus III Đại đế, người đã vạch ra kế hoạch quân sự cho Sy-ri với năng lực đặc biệt. Ông đã lấy lại những vùng đất đã từng bị Ai-cập chiếm, nhưng vào năm 217 quân đội A-cập đã đánh bại quân Sy-ri. Điều này đã không làm Antiochus dừng bước, ông đã hành quân theo phía đông và đến tận Ấn-độ.
Vào năm 201, Antiochus tập hợp được một đội quân lớn khác, liên kết lực lượng với Philip V của Macedon, và tiến đánh Ai-cập (c. 13-6), tại chỗ ông đã thắng một trận lớn đối với Ptolemy Epiphanes. Trái với luật lệ của Đức Chúa Trời, nhưng đúng với lời tiên tri (khải tượng), một số người Do-thái ở Palestine đã ủng hộ Antiochus, với hy vọng được thoát khỏi vòng kiểm soát của người Hy-lạp. Nhưng cuộc khởi nghĩa của họ bị dẹp tan. Antiochus không chỉ chinh phục Ai-cập và Sidon (c.15), mà cả “ đất vinh hiển” của Palestine (c.16).
Một lần nữa chuyện hôn nhân lại xuất hiện trên sàn diễn. Antiochus đề nghị thương thuyết với các vị lãnh đạo của Ai-cập và đề nghị gả con gái của mình là Cleopatra I 3 cho Ptolemy V, người vào lúc này mới lên bảy! Ông hy vọng rằng con gái ông sẽ ngầm phá hoại chính quyền Ai-cập từ bên trong và dùng vị thế của bà giúp ông lật đổ chính quyền. Tuy nhiên, Cleopatra trung thành với chồng bà, vì thế mưu kế dùng hôn nhân đã không thành công.
Antiochus đã quyết định tấn công Hy-lạp, nhưng bị đánh bại tại Thermopylae (năm 191) và Magnesia (năm 189). Vị “vuơng tử thay mặt ông” (c.18) là một viên tướng và là quan chấp chính tối cao người La-mã Lucius Cornelius Scipio Asiaticus. Người này đã lãnh đạo quân lực của La-mã và Hy-lạp chiến thắng Antiochus. Trong một cuộc họp trước đó, Antiochus đã nhục mạ vị tướng người La-mã này, nhưng người La-mã đã nói những lời khiến phải hối tiếc. Người lãnh đạo Sy-ri này đã qua đời vào năm 187 và con ông là Seleucus IV Philopator đã lên kế vị. Ông đã đàn áp dân Do-thái bằng cách tăng các mức thuế để cống nạp cho La-mã. Chẳng bao lâu sau khi ông cử Heliodorus người giữ kho đến cướp bóc đền thờ của người Do-thái, Seleucus Philopator đã đột ngột qua đời (có thể là do bị đầu độc), điều này làm ứng nghiệm câu 20. Sự kiện này đã mở đường cho kẻ độc ác Antiochus Epiphanes lên nắm quyền.
Khi ôn lại lịch sử về mối quan hệ giữa Ai-cập và Sy-ri, và những mối quan hệ trong dòng họ Seleucus, chúng ta không khỏi nhận ra rằng bản chất con người vẫn không hề thay đổi trong hàng ngàn năm này. Thế giới cổ đại đã từng trải mưu mô, dối trá, bạo lực, tham lam và chiến tranh. Tham vọng quyền lực và giàu có đã đẩy con người đến chỗ vi phạm nhân quyền và phá vỡ những luật pháp của Đức Chúa Trời, và đi xa hơn nữa để đạt được cái họ muốn. Họ đã giết hại hànhg ngàn người vô tội, cướp bóc người vô tội, và đã giết cả những người thân thiết của chính họ, chỉ để đội được chiếc vương miện hay ngồi lên ngai vàng.
Mặc dù Đức Chúa Trời không chịu trách nhiệm về điều ác mà con người đã nhân danh chính quyền và tôn giáo làm ra, Ngài vẫn là Đức Chúa Trời của lịch sử và vẫn tiếp tục thực hiện những kế hoạch Ngài dành cho loài người. Có thể việc nghiên cứu về tội lỗi của những người cai trị của quá khứ khiến chúng ta hoài nghi, nhưng có một điều chúng ta cần phải ghi nhớ, đó là sẽ có một ngày “sự nhận biết vinh quang của Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất như nước đầy tràn biển” (Ha 2:14).
4. Những lời tiên tri về Antiochus Epiphanes và Sy-ri (Da 11:21-35)
Chúng ta đã từng gặp con người gian ác này (Da 8:9-14). Với tính cách và những việc làm của mình, ông là hình ảnh của Kẻ Chống Chúa trong tương lai. Ông tự đặt cho mình cái tên là “Epiphanes”, với ý nghĩa là “người vinh hiển”, nhưng thiên sứ Gáp-ri-ên đã gọi ông là “một con người ghê tởm (đáng kinh)”. Antiochus không được thừa kế ngai vàng, nhưng ông đã dùng thủ đoạn để đoạt lấy. Người thừa kế ngai vàng thật sự là Demetrius Soter, người còn rất trẻ, vì thế Antiochus đã xưng mình là quan nhiếp chính và cướp ngôi.
Ông đã rất thành công trong những nổ lực quân sự của mình và biết cách kết hợp chiến lược thủ đoạn và vũ lực với nhau. Trong cuộc hành quân đầu tiên của ông tiến đánh Ai-cập (Da 11: 25-28), ông đã dành chiến thắng dầu là không lấy được toàn bộ Ai-cập. Ông đã ngồi vào bàn thương lượng với những người lãnh đạo của Ai-cập, nhưng không bao giờ có ý định tuân thủ bất kỳ hiệp ước nào. Thay vì lừa dối cả hai bên, Đức Chúa Trời vẫn nắm quyền điều khiển và chờ đúng thời điểm. Ngài đã định rõ thời gian và Ngài luôn đúng giờ.
Khi về lại Sy-ri vào năm 170, Antiochus đã quay sang để ý Y-sơ-ra-ên và những của cải trong đền thờ (c.28). Ông đã cướp bóc và làm ô uế đền thờ, bải bỏ việc dâng tế lễ mỗi ngày, giết hại rất nhiều người Do-thái, cho quân lính canh phòng và kiềm soát. Hai năm sau (168), ông trở lại xâm lượt Ai-cập, nhưng lúc này người La-mã (c.30, “những chiếc tàu ở Kít-tim”) đã đương đầu với ông và ra lệnh cho ông dừng lại.Ông đã miễn cưỡng tuân lệnh và đổ hết những bực tức của mình lên người Do-thái, với sự giúp đỡ của những kẻ phản bội người Do-thái là những người đã gạt bỏ giao ước của chính họ để ủng họ cho ông. Ông hứa sẽ trọng thưởng cho họ vì sự giúp đỡ đó của họ.
Vào tháng 12, năm 168, Antiochus đã làm ô uế đền thờ bằng cách cho dựng lên trên đó một đền thờ thần Zeus và cho dâng một con heo làm của lễ. Thiên sứ Gáp-ri-ên gọi đây là “sự gớm ghiếc làm ra sự hoang vu” (c.31). Kẻ Chống Chúa tương lai sẽ:34-35).
Theo câu 34-35, sẽ có một nhóm nhỏ những người Do-thái trung tín. Những cho đặt tượng mình trong đền thờ của người Do-thái khi người phá vỡ giao ước đã lập với họ vào giữa của giai đoạn bày năm đại nạn, tức vào tuần lễ thứ bảy mươi trong khải tượng của Đa-ni-ên (Da 9:27 Da 11:31 Da 12:11 Mat 24:15 Mac 13:14). Antiochus đã nổ lực hết mình không chỉ để tiêu diệt dân Do-thái, mà còn để loại bỏ đạo của họ khỏi đất. Ông hứa sẽ ban thưởng cho những người Do-thái nào tuân theo mệnh lệnh của ông, vì thế đã có những người Do-thái gạt bỏ giao ước thánh của họ để vâng theo ông. Đây là một thời kỳ thử thách và thanh lọc dành cho người Do-thái, khi họ phải chọn lựa vâng theo Đức Chúa Trời của tổ phụ họ và có thể bị giết hay phục tùng những người lãnh đạo Sy-ri theo tà giáo và làm những kẻ phản bội lại niềm tin của họ (Da 11người này sẽ chống lại sự vô thần của Antiochus và Đức Chúa Trời thành tín sẽ khiến họ có khả năng để chiến đấu lại. Một thầy té lễ người Do-thái là Mattathias, cùng với các con trai người, sẽ tập hợp một đội quân và phản công. Con trai của ông là Giu-đa, với biệt hiệu là Giu-đa Mac-ca-bê (người cầm búa) là một trong những vị anh hùng của phong trào này.Nhiều người Do-thái đã xả thân vì thành phố của họ, đền thờ của họ, và vì niềm tin của họ và cuối cùng họ đã chiến thắng. Vào ngày 14, tháng 12 năm 165, đền thờ đã được thanh tẩy, và bàn thờ đã được lập lại. (Mac 8:9-14,23-25). Hằng năm, dân Do-thái kỷ niệm sự kiện này như Lễ Ánh Sáng (Lễ Hanukkah). Antiochus Epiphanes, kẻ thù của họ đã chết ở Ba-tư vào năm 163. Ông bị cho là mắc chứng bệnh mất trí, vì thế không lạ gì khi người ta gọi ông là “Antiochus Epimanes - tên khùng Antiochus.”
Thiên sứ Gáp-ri-ên kết thúc phần đề cập về Antiochus bằng cách nhắc nhở Đa-ni-ên rằng những điều liên hệ đến Antiochus có những ngụ ý dành cho dân Y-sơ-ra-ên ở “thời kỳ cuối cùng” (Mac 11:35). Mặc dù vị thiên sứ nói vể những vị lãnh đạo sẽ xuất hiện sau khi Ba-tư sụp đổ, nhưng thông qua những sự kiện ấy Đa-ni-ên đã nhận ra được một số điều sẽ xảy ra cho dân Do-thái vào thời kỳ cuối cùng. Điều này đặc biệt đúng đối với Antiochus Epiphanes, một bức tranh sống động về Kẻ Chống Chúa trong tương lai. Đa-ni-ên biết rằng vì cớ niềm tin mà dân sự ông sẽ phải chịu nhiều hoạn nạn, một số người sẽ bội đạo và đi theo kẻ thù, và những người khác sẽ tin cậy nơi Đức Giê-hô-va và “mạnh mẽ mà làm” (c.32). Dù thời kỳ này có khó khăn thế nào, thì Đức Chúa Trời vẫn luôn có những người trung tín với Ngài, và Ngài sẽ giữa giao ước của mình đã lập với dân Ngài cho đến cuối cùng.
Khi đã đề cập về “thời kỳ cuối cùng”, thiên sứ Gáp-ri-ên sẽ nói về Kẻ Chống Chúa trong tương lai và thời kỳ hoạn nạn kinh khiếp của Gia-cốp (Mac 11:36-12:1).
12. Một Lời Tiên Tri Đặc Biệt-Phần II (Da 11:36-12:13)
Từ Da 11:36, sứ điệp tiên tri đã chuyển từ Antiochus Epiphanes đến con người mà ông đã hình bóng, đó là Kẻ Chống Chúa, kẻ độc tài cuối cùng của thế gian này. [66]. Chúng ta bàn đến “thời kỳ cuối cùng” (c.35 Da 12:4), là khi những sự kiện sau được tiên đoán sẽ xảy ra:
*Sự xuất hiện của Kẻ Chống Chúa -11:36-39
*Cuộc Đại nạn - Da 12:1
*Chiến tranh và những cuộc xâm lượt - Da 11:40-43
*Trận chiến tại A-ma-ghê-đôn - Da 11:44-45a
*Đấng Christ trở lại để đánh bại Kẻ Chống Chúa - Da 11:45b
*Sự sống lại của kẻ chết - Da 12:2
*Vương quốc vinh hiển - Da 12:3, [67]
1. Thời kỳ Đại nạn (Da 11:36-12:1)
Cả Kinh thánh Cựu ước và Tân ước đều cho biết rằng sẽ có một ngày thế giới này phải đối diện với cuộc đại nạn, và theo cách giải thích của chúng ta về bảy mươi tuần lễ trong khải tượng tiên tri của Đa-ni-ên (Da 9:24-27) thì giai đoạn này rơi vào tuần lễ cuối cùng. Sự kiện đánh dấu sự khởi đầu của bảy năm cuối cùng đó chính là việc một vị lãnh đạo trong mười quốc gia thuộc liên minh Châu Âu sẽ lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên (Da 7:7,28). Có lẽ lý do lập ký giao ước này là nhằm bảo đảm vị này sẽ bảo vệ dân Y-sơ-ra-ên trong thời gian dân Do-thái xây lại đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Giai đoạn đại nạn này sẽ chấm dứt bằng sự tái lâm của Đấng Christ và việc Kẻ Chống Chúa và Sa-tan bị gian vào hồ lửa (Kh 19:11-21).
Sự xuất hiện của Kẻ Chống Chúa (Da 11:36-39). Kẻ cai trị độc ác này sẽ không đột ngột xuất hiện với bản chất thật của hắn và thâu tóm quyền lãnh đạo toàn thế giới. Ban đầu hắn chỉ nắm quyền hành một phần của liên minh Châu Âu gốm mười nước này. Hắn chính là “chiếc sừng nhỏ” nhú lên từ mười chiếc sừng (Da 7:24-28). Ông khởi sự là một con người ôn hòa, người “giải quyết” vấn đề Ả-rập/Y-sơ-ra-ên và chứng tỏ mình là một nhà chính trị xuất sắc. [68]. Dần dần những mưu đồ gian ác của hắn lộ ra, và vào giữa giai đoạn bảy năm này, hắn sẽ huỷ bỏ giao ước đã lập, tuyên bố điều khiển thế giới và tôn mình như một vị thần (Da 9:27 IITe 2:1-26 Kh 13:1-18).
Thiên sứ Gáp-ri-ên mô tả kẻ cai trị tội lỗi này là một con người ích kỷ và độc ác, một người có tài hùng biện, và dùng những lời lẽ ngạo mạn để tôn mình lên. Hắn là một người không có niềm tin vào bất kỳ tôn giáo nào. Hắn sẽ được thành công cho đến khi thời kỳ Đại nạn chấm dứt bằng sự trở lại của Chúa Giê-su Christ để thiết lập vương quốc của Ngài. [69]. “Người sẽ đến sự cuối cùng của mình, nhưng chẳng có ai đến giúp đỡ người cả” (Da 11:45). Vì câu 37 dùng cụm từ “ thần của tổ phụ mình”, phải chăng điều này có nghĩa người cai trị thế giới này phải là một người Do-thái? Một số người cho rằng câu trả lời là có, và lý luận rằng dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ không ký một hiệp ước với dân ngoại, nhưng không có lời nào trong Kinh thánh hỗ trợ cho quan điểm này. Nhiều thế kỷ trôi qua, người Do-thái vẫn thường đàm phán với nhiều nhà lãnh đạo chính trị không phải là người Do-thái. Cụm từ “Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta” (hay “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta”) thật sự đề cập đến Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (Phu 26:7 ISu 122:17 IISu 20:6 Exo 7:27 Cong 3:13 Cong 5:30 Cong 22:14), những đó có lẽ không phải là ý mà Da 11:37 muốn nói đến. Cụm từ này có thể được dịch là “các thần của tổ phụ người” theo như cách bản NIV và bản NASB đã dịch. [70]. Kẻ Chống Chúa là người theo thuyết vô thần, hắn chống lại mọi tôn giáo ngoại trừ đạo do hắn lập ra khi tuyên bố chính mình là “thần”.
Một số người gợi ý rằng việc hắn khước từ “niềm ao ước về phụ nữ” cho thấy hắn là kẻ có xu hướng đồng tính. Nhưng có thể cụm từ “niềm ao ước của phụ nữ” có liên quan đến Ag 2:7, một danh xưng của Đấng Mê-si, vì ước muốn của phụ nữ Do-thái là qua họ Đấng Mê-si của lời hứa sẽ được sinh ra. Kẻ Chống Chúa sẽ không chỉ khướt từ tất cả các tôn giáo nói chung, mà cụ thể hắn còn chống lại tôn giáo của người Do-thái, đặc biệt là hy vọng Đấng Mê-si của họ sẽ trở lại và giải cứu họ khỏi tay kẻ thù. Thần của người này là thần của sức mạnh và của thế lực quân sự. Khi các dân tộc ở thế gian thờ phượng con người tội lỗi này, đích thực họ đang thờ lại Sa-tan, kẻ ban năng quyền cho Kẻ Chống Chúa. Cũng giống như Antiochus người sống trước hắn nhiều thế kỷ, Kẻ Chống Chúa sẽ ban thưởng cho những người thờ phượng mình và thần tượng do hắn tạo ra.
Cuộc Đại nạn (Da 12:1). “Lúc bấy giờ”nghĩa là “trong suốt thời kỳ cuối cùng”, khoảng thời gian mà vị thiên sứ này đang mô tả trong phần này của sư điệp tiên tri. Bây giờ chúng ta bàn đến giữa thời kỳ Đại nạn, là lúc Kẻ Chống Chúa phá bỏ giao ước đã lập với Y-sơ-ra-ên, nắm quyền kiểm soát nhà thờ, và lập chính mình làm kẻ độc tài và vị thần của thế giới. Đây là “vật gớm ghiết tàn khốc mà Đa-ni-ên đã nói đến trong Da 9:27 Da 11:31 Da 12:11, và Chúa Giê-su Christ đã đề vập đến trong bài giảng trên đồi Ô-li-ve (Mat 24:15 Mac 13:14). Ba năm rưỡi cuối cùng thuộc tuần lễ thứ bảy mươi của Đa-ni-ên sẽ mở ra một thời kỳ hoạn nạn kinh khiếp. Chúa Giê-xu đã phán rằng, “Vì bấy giờ sẽ có hoạn nạn lớn đến nỗi từ khi tạo dựng trời đất đến nay chưa từng có như vậy, và sau này cũng sẽ không bao giờ có nữa” (Mac 24:31 Kh 13:1-19:21).
Một trong những điểm nổi bật của thời kỳ này sẽ là cuộc chiến của Kẻ Chống Chúa dấy lên nghịch cùng dân Do-thái (Kh 12:1-18), nhưng Mi-ca-ên, vị thiên sứ đã được bổ nhiệm để chăm sóc cho dân Do-thái (Da 10:13,21 Kh 12:7) sẽ đến để giúp đỡ họ. Dân tuyển của Đức Chúa Trời sẽ được toàn vẹn (Mat 24:22). Sẽ có 144,000 người được Đức Chúa Trời đóng ấn (Kh 7:1-8). Đức Chúa Trời sẽ giữ giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham và Ngài sẽ lo liệu để những người Do-thái còn sót lại được bước vào vương quốc đã được hứa ban cho họ.
Cuộc xâm lượt quân sự (Da 11:40-43). Khi Kẻ Chống Chúa tiến vào xứ Y-sơ-ra-ên, cho dựng tượng mmình trong đền thờ của người Do-thái và tuyên bố mình là người cai trị và chúa của toàn thế gian, thì không phải mọi người đều sẽ quỳ lạy theo ý muốn của hắn. Các vua ở phía Bắc và phía Nam sẽ chống lại hắn và đem quân đội của họ đến Palestine.Trong những lời tiên tri trước đây của sách Đa-ni-ên, vua của phía Nam là Ai-cập và vua của phía Bắc là Sy-ri, nhưng có lẽ những cách gọi như thế không được áp dụng cho các quốc gia trong thời kỳ cuối cùng. Một số nhà nghiên cứu đã cho rằng cuộc xâm lượt này tương đương với trận chiến được mô tả trong Exe 38:1-39:29, và trong đó có một liên minh ở phía Bắc đứng đầu là Nga và một liên minh phía nam đứng đầu là Ai-cập và các nước liên minh của nó. [71]. Kẻ Chống Chúa sẽ chiến thắng các kẻ thù của mình và thâu tóm được rất nhiều của cải.
Trận chiến A-ma-ghê-đôn (Da 11:44-45). Suốt ba năm rưỡi cuối cùng của giai đoạn Đại nạn này, các quốc gia sẽ qui phục quyền cai trị của Kẻ Chống Chúa, nhưng sẽ có sự bất đồng và chống đối nổi lên, dầu là công việc của hắn được Sa-tan trợ lực. Những thông tin ở câu 44 đề cập đến một đội quân đang lớn mạnh đến từ phía Bắc. Đội quân này sẽ chiến đấu với các lực lượng của Kẻ Chống Chúa tại Đồng bằng của Esdraelon, cuộc chiến này được gọi là “trận chiến A-ma-ghê-đôn” (Kh 9:13-21 Kh 16:12-16 Gio 3:1-2,12-14 Xa 14:1-3). Từ “A-ma-ghê-đôn” có nghĩa là “núi Megiddo”, và trận chiến “chiến dịch” này sẽ diễn ra vào cuối giai đoạn Đại nạn.
Sự trở lại của Đấng Christ. Khi đội quân đông đảo từ phía Bắc đã ở vào vị trí để chiến đấu với các lực lượng của Kẻ Chống Chúa tại Y-sơ-ra-ên, thì dấu hiệu trở lại của Con Người sẽ xuất hiện trên các tầng trời (Mat 24:29-30), và những đội quân đang chống nghịch nhau sẽ hiệp nhất lại để chiến đấu với Chúa Giê-su Christ. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ từ thiên đàng cùng đến với các thiên binh Ngài, đánh bại cả hai nhóm quân, bắt Sa-tan, Kẻ Chống Chúa cùng các tiên tri giả giam vào hồ lửa (Kh 19:11-21 Xa 12:1-9 Xa 14:1-3). “giờ cuối cùng của vua (Kẻ Chống Chúa) sẽ đến, nhưng không ai cứu giúp” (Da 11:45).
Đa-ni-ên không bày tỏ chân lý này, nhưng tiên tri Xa-cha-ri đã hứa rằng dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ nhìn thấy Đấng Mê-si của họ khi Ngài từ thiên đàng đến, họ sẽ nhận ra Ngài, ăn năn tội lỗi của họ, và tin cậy Ngài, và dân tộc này sẽ được tẩy sạch tội lỗi và ô uế (Xa 12:10-13:1). Chúa Giê-xu sẽ đứng trên núi Ô-li-ve (Xa 14:4 Cong 1:11-12), “và Chúa sẽ là vua cai trị toàn cầu” (Xa 14:9) và Ngài sẽ thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài trong một ngàn năm (Kh 20:1-7).
Kh 12:1; xem giải nghĩa Da 11:36-45
2. Vương quốc (Da 12:2-3)
Bạn sẽ thấy trong Kh 20:1-7 có sáu lần từ “ngàn năm” được dùng. Từ La-tinh dùng để chỉ “ngàn năm” (mille, annum) đã cho ra từ tiếng Anh là “millenium”, từ này được dùng để chỉ khoảng thời gian khi Đấng Christ trở lạicai trị trên đất này. Những Cơ đốc nhân tin rằng những lời tiên tri trong Cựu ước về một vương quốc sẽ được ứng nghiệm theo nghĩa đen thường được gọi là “những người theo thuyết một ngàn năm”, còn những người loại bỏ quan điểm này thì được gọi là “những người không theo thuyết một ngàn năm”. Họ thường thuộc linh hóa những lời tiên tri trong Cựu ước về vương quốc Do-thái và áp dụng chúng cho hội thánh ngày nay. Rõ ràng từ những lời tiên tri trong Kinh thánh Cựu ước về vương quốc ngàn năm này, chúng ra rút ra được những ứng dụng thuộc linh dành cho hội thánh, nhưng các giải nghĩa căn bản có lẽ là sẽ có một vương quốc trên đất theo nghĩa đen trong đó Chúa Giê-su Christ là Vua và dân Ngài sẽ cùng cai trị với Ngài. (Es 2:1-5 Es 4:1-6 Es 11:1-9 Es 12:1-6 Es 30:18-26 Es 35:1-10).
Đức Chúa Cha đã hứa ban một vương quốc cho Con Ngài (Thi 2:1-12 Lu 1:30-33), và Ngài sẽ giữ lời hứa. Và sẽ có một ngày Chúa Giê-xu sẽ giao lại vương quốc đó cho Cha Ngài (ICo 15:24). Vì biết được lời Đức Chúa Trời đã hứa, nên Sa-tan đã cám dỗ Chúa Giê-xu bằng cách dâng cho Ngài tất cả các vương quốc của thế gian nếu Ngài chịu thờ lạy hắn (Mat 4:8-10) nhưng Chúa Giê-xu đã từ chối. Chúa Giê-xu đã khẳng định vương quốc đã được hứa với các môn đồ mình (Lu 22:29-30). Và khi họ hỏi Ngài khi nào điều này được ứng nghiệm (Cong 1:6-8), Ngài chỉ phán với họ rằng đừng tính toán về thời gian những hãy chăm chỉ làm những việc Ngài đã giao cho họ. Tuy nhiên, Ngài không phủ nhận sự thật rằng có một ngày, vương quốc ấy sẽ đến. Sứ đồ Phao-lô đã dùng lời hứa về sự trở lại của Đấng Christ và việc vương quốc trong tương lai sẽ được thiết lập để khích lệ Ti-mô-thê trong chức vụ của ông (IITi 4:1-22), và lời hứa này cũng phải là một nhân tố có vai trò thúc đẩy trong đời sống của chúng ta.
Sự sống lại (Da 12:2). Thân thể loài người sẽ được sống lại là một giáo lý đã có từ Kinh thánh Cựu ước, nhưng không được trình bày rõ ràng như ở Kinh thánh Tân ước. Khi Áp-ra-ham lên núi Mô-ri-át để dâng Y-sác, ông tin rằng Đức Chúa Trời có thể khiến con ông sống lại (Sa 22:1 He 11:19). Gióp ước ao được chiêm ngưỡng Đức Chúa Trời khi ông được ở trong thân thể sống lại (Giop 19:25-27), và đây cũng là quan điểm được các tác giả thi thiên ủng hộ (Giop 17:5 Giop 49:15 Giop 71:20). Các tiên tri tin có sự sống lại trong tương lai (Es 25:7 Os 13:14). Chúa Giê-xu đã phô bày “sự sống và sự không hề chết ra cho rõ ràng” (IITi 1:10) và phán dạy cách rõ ràng về sự phục sinh của chính Ngài cũng như cho biết sự phục sinh ấy có ý nghĩa thế nào đối với những người tin theo Ngài (Gi 5:19-30 Gi 11:17-44). Trong Kinh thánh, I Cô-rinh-tô là một sách nổi bật về sự sống lại.
Sự sống lại không phải là “sự tái tạo”. Đức Chúa Trời không hàn gắn lại thân thể đã tan thành tro bụi (Sa 3:19), vì tro bụi ấy đã trở thành một phần của những cơ thể khác khi con người ăn những thức ăn được lớn lên từ đất. Thân thể sống lại là một thân thể mới và vinh hiển. Mối quan hệ giữa thân thể đã chết và thân thể được sống lại giống như của hạt giống và cây đã trưởng thành (ICo 15:35-53). Có một sự tiếp nối (đó là cây bắt nguồn từ hạt giống) như không giống nhau (cây không giống với hạt). Việc chôn thân thể cũng giống như cái hạt được gieo xuống đất, và sự sống lại là kết quả.
Khi Chúa Giê-su Christ đến trên không trung để gọi hội thánh Ngài, những người chết trong Đấng Christ sẽ sống lại trước nhất, sau đó những người tin Chúa còn sống sẽ được cất lên cùng với họ để ở với Chúa (ITe 4:13-18). Khi Chúa Giê-xu trở lại trần gian này vào cuối của giai đoạn Đại nạn, Ngài sẽ mang dân Ngài theo với Ngài để chung hưởng chiến thắng và vinh hiển. Lúc bấy giờ, những người thánh trong Cựu ước và những người đã tử đạo trong cuộc Đại nạn sẽ được sống lại để bước vào vương quốc này. Tuy nhiên, những người chết mà không đặt đức tin nơi Đấng Christ sẽ không được sống lại cho đến khi thời kỳ của Vương quốc một ngàn năm qua chấm dứt, và họ sẽ phải chịu sự phán xét (Kh 20:4-6,11-15). Đúng như Đa-ni-ên đã tuyên bố, có kẻ thức dậy để hưởng sự sống vinh hiển với Đức Chúa Trời, nhưng cũng có kẻ sống lại (sau một ngàn năm) để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời và sự phán xét đời đời. [72]. Địa ngục được gọi là “sự chết thứ hai” (Kh 20:14). Nếu bạn chỉ được sinh ra có một lần, thì bạn sẽ phải chết hai lần; nhưng nếu bạn đã được sinh ra hai lần - sự tái sanh thông qua đức tin đặt nơi Đấng Christ - thì bạn chỉ chết một lần.
Phần thưởng (Da 12:3). Các sống và phục vụ của chúng ta sẽ quyết định phần thưởng Chúa ban cho chúng ta trước toà phán xét của Đấng Christ (Ro 14:9-12 IICo 5:6-10). Trên thiên đàng thì chiếc tách nào cũng đầy như nhau, nhưng sẽ có một số tách lớn hơn so với những tách còn lại. Chúng ta sẽ cùng được hưởng sự vinh hiển của Đấng Christ, và những ai đã dắt đem nhiều người đến sự công bình sẽ sáng láng như các ngôi sao trên trời. Ở đây có một ứng dụng dành cho những người trung tín làm chứng trong giai đoạn diễn ra Đại nạn, lúc ấy được thuộc về Đấng Christ và trở nên dân sự của Ngài là điều vô cùng quý giá (Mat 24:14 Kh 7:9-17).
Chúa chúng ta đã nhấn mạnh chân lý rằng người nào trong hiện tại trung tín với Ngài sẽ nhận được phần thưởng và chức vụ trong vương quốc ở tương lai (Mat 13:43 Mat 19:27-28 Mat 25:14-30 Lu 19:12-27 Kh 2:26-27 Kh 5:9-10). Suốt thời gian Ngài cai trị trên đất, chúng ta sẽ được dự phần vào bất kỳ công tác nào Ngài dành cho chúng ta, tùy theo chúng ta đã sống vì Ngài và phục vụ Ngài ngay trên trần gian này ra sao. Những tín đó đã phải chịu khổ trong khi phục vụ Đấng Christ sẽ được đền bù bội phần hơn khi họ dự phần vào sự vinh hiển của Ngài (Ro 8:18 IICo 4:7-18).
3. Những lời dạy dỗ sau cùng dành cho Đa-ni-ên (Da 12:4-13)
Không bao giờ vị tôi tớ này của Đức Chúa Trời phải băn khoăn rằng phải làm gì kề tiếp, vì Đức Chúa Trời luôn khích lệ và chỉ dẫn ông đúng thời điểm. Trọn quãng đời của mình, Đa-ni-ên đã trung tín cầu nguyện, nghiên cứu lời Kinh thánh, và tìm cách phục vụ Đức Chúa Trời. Và Đức Chúa Trời đã luôn hướng dẫn ông, bảo vệ ông và dùng ông để làm vinh hiển danh Ngài. Chúng ta ngày nay có lời tiên tri để nghiên cứu là nhờ Đa-ni-ên đã trung tín trong thời của mình.
Quyển sách (Da 12:4). Vào thời cổ đại, các văn kiện chính thức thường được lập thàanh hai bộ tài liệu, một bộ được đóng dấu niêm phong và cất giữ ở một nơi an toàn, và bộ còn lại được để ngõ (Gie 32:1-12). Đức Chúa Trời xem quyển sách của Đa-ni-ên như một “việc làm” đã được bảo đảm, đó là Ngài sẽ trung tín giữ những điều Ngài đã hứa với dân Y-sơ-ra-ên.Sách được gấp lại và niêm phong không có nghĩa là để dấu đi, bởi vì sứ điệp của Đức Chúa Trời được ban ra thì dân Ngài mới biết được tương lai của họ. Quyển sách này sẽ được gìn giữ bảo vệ và được mang ra chia sẽ cho dân Do-thái. Tuy nhiên, sách này đã “được đóng ấn” theo nghĩa này: ý nghĩa đầy đủ của những điều Đa-ni-ên đã viết chỉ được tỏ bày trọn vẹn vào “thời kỳ cuối cùng” (Mat 24:15). Ngay cả Đa-ni-ên cũng không hiểu hết được những gì ông đã thấy, đã nghe và đã viết ra! (Da 12:8).
Khi sứ đồ Giăng hoàn tất sách Khải huyền, ông được phán đừng niêm phong sách này vì thời giờ đã gần đến (Kh 22:10). Nhờ có sách Đa-ni-ên mà chúng ta hiểu hơn về sách Khải huyền. Ít nhất có bảy mươi mốt phân đoạn của sách Đa-ni-ên được trích dẫn hay ám chỉ trong mười sáu sách của Tân ước, phần lớn những phân đoạn này đều nằm trong sách Khải huyền. Toàn bộ Đa-ni-ên 6 được đề cập đến trong He 11:33.
“ Nhiều người chạy đi chạy lại và kiến thức được gia thêm” không phải là câu đề cập về xe cộ, máy bay hay sự tiến bộ của giáo dục. Nó ám chỉ đến việc học hỏi Lời Đức Chúa Trời vào thời kỳ cuối cùng, đặc biệt là việc nghiên cứu lời tiên tri. Am 8:11-12 khuyến cáo chúng ta rằng những ngày đến sẽ có sự khan hiếm lời Đức Chúa Trời và người ta sẽ chạy đi đây đó để tìm kiến chân lý nhưng không tìm được. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa với Đa-ni-ên rằng, vào thời kỳ cuối cùng, dân sự của Ngài có thể gia tăng hiểu biết của họ về lời tiên tri trong Kinh thánh khi họ chuyên tâm tìm kiếm Lời Đức Chúa Trời. Một số người giải thích rằng “đi và lại”có nghĩa là đưa mắt qua các trang Kinh thánh.
Các kỳ (Da 12:5-7). Có thêm hai thiên sứ khác xuất hiện trong khải tượng này, một vị đứng một bên của sông Tigris. Người mặc áo gai có liên quan đến con người đáng kinh mà Đa-ni-ên đã thấy lúc ban đầu (Da 10:5-6), có thể là Chúa Giê-su Christ. Khi một trong hai thiên sứ hỏi: “đến khi nào những điều kinh khiếp ấy mới chấm dứt? Chúa đã đáp “một kỳ, những kỳ và nữa kỳ”, tức là ba năm rưỡi (Da 7:25). Nửa giai đoạn sau của cuộc Đại nạn được mô tả theo nhiều cách khác nhau: một kỳ, những kỳ và nữa kỳ (Da 12:7 Kh 12:14) bốn mươi hai tháng (Kh 11:2 Kh 13:5)và 1.260 ngày (Kh 11:3). Ngay khi hiệp ước giữa Kẻ Chống Chúa và dân Y-sơ-ra-ên được ký kết, thì đồng hồ bắt đầu điểm thời khắc bảy năm, và khi Kẻ Chống Chúa dựng tượng mình như một vị thần ngay trong đền thờ, thì nữa cuối cùng của tuần lễ thứ bảy mươi trong khải tượng của Đa-ni-ên bắt đầu. Chúa Giê-xu đã phán điều này dưới hình thức một lời thề, hai tay giơ lên trời, vì thế đây là điều chắc chắn.
Điểm then chốt trong thời điểm mà Đức Chúa Trời đã quyết định chính là mục đích Ngài sẽ hoàn tất cho “dân thánh”, dân tộc Y-sơ-ra-ên. Xuyên suốt sách Đa-ni-ên, Y-sơ-ra-ên là dân tộc được nhấn mạnh, và lý do duy nhất khiến các dân tộc khác được nhắc đến trong sách này là vì họ có liên quan đến dân Do-thái. Thời kỳ Đại nạn là một khoảng thời gian dành để hình phạt các dân Ngoại bang về những gì họ đã phạm tội chống lại dân Do-thái (Gio 3:2-8), đó cũng là thời kỳ dân Y-sơ-ra-ên được sàng lọc và thanh tẩy để chuẩn bị cho sự trở lại của Đấng Mê-si của họ (Am 9:9-12).
Kết thúc (Da 12:8-13). “Bao lâu?” và “Nó sẽ kết thúc ra sao?” là những câu hỏi chúng ta thường đặt ra khi đối diện những thời điểm khó khăn và nghi ngại về tương lai. “Mục đích của tất cả những điều này là gì?” Đa-ni-ên đã làm điều mà ai trong chúng ta cũng đều phải làm:ông hạ mình cầu xin Đức Chúa Trời ban cho ông sự khôn ngoan cần thiết. Nhưng có lẽ Ngài không cho chúng ta biết (Phu 29:29) Ngài biết chúng ta cần biết ở chừng mực nào và chúng ta có thể nhận thức được bao nhiêu (Gi 16:12). Ngài đã hứa rằng tất cả những điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn cho những kẻ sống vào thời kỳ cuối cùng, đây là một điều khích lệ chúng ta để nghiên cứu những lời tiên tri trong Kinh thánh trong tinh thần cầu nguyện.
Nhưng Chúa cũng đã bày tỏ rằng vào thời kỳ cuối cùng, là lúc thử thách đến với con người trên đất, những người tin Ngài trở nên thanh sạch hơn và khôn ngoan hơn, nhưng kẻ gian ác thì lại càng gian ác hơn. “Nhưng những gian ác, bịp bợm ngày càng tệ hại hơn, lường gạt người rồi bị lường gạt lại” (IITi 3:13 Kh 22:11). Những người vô tín sẽ làm ngơ trước chân lý, nhưng những người tin Ngài sẽ chăm xem lời chân lý của Kinh thánh. Lời tiên tri trong Kinh thánh là ngọn đèn của chúng ta khi mọi thứ trở nên tối tăm (IIPhi 1:19).
Ý nghĩa của 1.269 ngày và 1,335 ngày vẫn không được nói rõ, nhưng có một lời chúc phước đi kèm với con số thứ hai. Điểm khởi đầu chính là giữa giai đoạn Đại nạn, khi sự gian ác tàn hại được lập nên trong đền thờ. Vì cuộc Đại nạn sẽ kéo dài 1.260 ngày (ba năm rưỡi), nên 1290 ngày có nghĩa là kéo dài sau khi Chúa trở lại 30 ngày, và 1335 ngày có nghĩa là kéo dài thêm 75 ngày sau khi cuộc Đại nạn chấm dứt. Chúng ta không được cho biết vì sao những ngày này lại quan trọng hoặc chúng sẽ được dùng để mang lại phước hạnh cho dân Đức Chúa Trời ra sao. Chắc chắn là có những hoạt động được Đức Chúa Trời điều khiển và có những nhiệm vụ sẽ được hoàn tất, và tất cả những điều đó đều cần có thời gian. Có lẽ nhiệm vụ vĩ đại nhất chính là tập hợp dân Ngài lại từ khắp mọi nơi trên thế giới (Exe 20:33-38 Es 1:24-2:5 4:2-6 Es 11:1-16), thanh tẩy họ và giúp họ sẵn sàng để bước vào vương quốc của lời hứa.
Mặc dù Chúa đã phán dạy Đa-ni-ên nhiều điều và bày tỏ cho ông nhiều điều mầu nhiệm, nhưng không phải ông đã biết được tất cả trước khi qua đời. Khi gần kề ngày cuối cùng của đời mình, ông chỉ cần biết rằng mình đã trung tín với Đức Chúa Trời và sẽ có một ngày ông không còn phải lao nhọc nữa (Kh 14:3). Sẽ có một ngày ông được sống lại và nhận phần thưởng Đức Chúa Trời dành riêng cho ông (Mat 25:21). “Khi tôi thức dậy, tôi sẽ thoả nguyện trông thấy hình dạng Chúa” (Thi 17:15; IGi 3:1-3; Ro 8:29)
TÓM LƯỢT VỀ ĐA-NI-ÊN
(MỘT CON NGƯỜI CƯƠNG QUYẾT ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI YÊU QÚI)
Việc nghiên cứu những lời tiên tri Đa-ni-ên đã viết ra thật quan trọng, nhưng hiểu được Đa-ni-ên đã sống như thế nào cũng quan trọng không kém. Nhận thức được kế hoạch trong tương lai của Đức Chúa Trời cần đi đôi với việc vâng phục Đức Chúa Trời trong hiện tại. “Vậy, ai có hy vọng này trong Ngài, thì phải sống trong sạch, cũng như Ngài vốn là Đấng thanh sạch” (IGi 23:3). “Vì mọi vật đó sẽ tiêu tán thì anh em đáng nên thánh trong mọi sự ăn ở mình là dường nào?” (IIPhi 3:11).
Cả Đa-ni-ên và Giô-sép đều được Đức Chúa Trời kêu gọi để phục vụ Ngài ở những nơi khó khăn, ngay trong chính phủ của những đế quốc theo tà giáo. Cả hai người cùng bị bắt đưa ra khỏi quê hương và giao cho những người chủ ngoại bang.
Cả hai đều đã trải qua những giờ phút thử thách, đều đã bị chứng dối và vu cáo, nhưng họ đều đã giữ được phẩm hạnh của người tin kính Chúa và đã trở thành những người lãnh đạo được ngưỡng mộ của đất nước. Trên hết, họ đã chăm lo được cho dân sự Đức Chúa Trời và đã bảo vệ cũng như khích lệ dân tộc Y-sơ-ra-ên trong những giai đoạn khó khăn.
Những điều Đa-ni-ên viết đã mang đến sự khích lệ cho dân Do-thái trong những thế kỷ sau khi họ thoát khỏi ách phu tù, và điều đó cũng khích lệ họ vào thời kỳ cuối cùng, khi một lần nữa họ phải trải qua sự bắt bớ kinh khiếp của kẻ thù.
Thật thú vị khi biết rằng sách Đa-ni-ên và thư gởi người Ê-phê-sô của Phao-lô có rất nhiều điểm chung. Thư Ê-phê-sô dạy chúng ta về trận chiến thuộc linh diễn ra trên các từng trời (Eph 6:10-18), và Đa-ni-ên đã tham gia vào cuộc chiến ấy (Da 10:10-21). Trong thư Ê-phê-sô, Phao-lô đã ghi ra hai lời cầu nguyện của ông, lời thứ nhất để được thông sáng (Eph 1:15-23) và lời thứ hai để được quyền phép (Eph 3:14-21). Đa-ni-ên và các bạn ông cũng cầu nguyện theo cách ấy, ấy là họ có thể hiểu được kế hoạch của Đức Chúa Trời và nhận được năng quyền cần thiết để phục vụ Ngài và trung tín với lẽ thật cho đến cuối cùng.
Thư tín Ê-phê-sô của Phao-lô nhấn mạnh đến tư thế thuộc linh của người tin Chúa: chúng ta được ngồi với Đấng Christ (Eph 2:5-6), chúng ta bước đi với Ngài (Eph 4:1,17; Eph 5:1-2,8,15), chúng ta được mạnh dạn trong Đấng Christ (Eph 6:11,13-14), và chúng ta quì gối trước mặt Đấng Christ (Eph 3:14). Đa-ni-ên là một người đã quì gối trước mặt Đức Chúa Trời, bước đi với Ngài, và có thể dạn dĩ chống lại Sa-tan.
Ông đã được ban cho một vị trí quyền lực tại Ba-by-lôn, nhưng điều đó không đáng gì khi so sánh với thẩm quyền mà Đức Chúa Trời ban cho ông từ ngai Ngài trên thiên đáng. Đa-ni-ên là một người tha hương và là một khách lạ đối với Ba-by-lôn bởi vì quê ông ở Y-sơ-ra-ên, và chúng ta cũng là khách hành hương và là người lạ đối với thế gian này bởi vì chúng ta là công dân của thiên quốc (Phi 3:20-21).
Cũng giống như Đa-ni-ên và Giô-sép, chúng ta sống trong nền văn hóa trái ngược, với những con người mà cách nghĩ, giá trị, cách hành xử và mục tiêu họ hoàn toàn khác và đối nghịch với con dân Chúa. Như Đa-ni-ên và Giô-sép giữ mình thánh sạch, mang đến sự thay đổi cho con người và hoàn cảnh, chúng ta cũng có thể trở nên những con người mang lại sự thay đổi trong thế giới hiện tại của chúng ta.
Chìa khóa để Đa-ni-ên có được một đời sống và chức vụ thành công được chép trong Da 1:8 “Vả, Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng (sẽ) không chịu ô uế.” Đa-ni-ên thật sự là một con người cương quyết. Những người quyền thế đã không đe dọa được ông, và ông cũng không rúng động trước những hoàn cảnh khó khăn. Cũng vậy, tại buổi Kiêng Ăn của Những Người Hèn Hạ, Martin Luther đã nói: “Tôi hiện diện tại nơi này. Tôi không làm được điều gì khác. Đức Chúa Trời giúp tôi. A-men.”
Nhưng do đâu mà con người này có được tấm lòng can đảm và kiên quyết như vậy? Để trả lời cho câu hỏi quan trọng này, chúng ta hãy cùng ông lại đời sống của Đa-ni-ên.
1. Ông tin nơi một Đức Chúa Trời tối cao.
Một trong những chân lý được sách Đa-ni-ên truyền đạt đó là “Đấng Rất Cao cai trị trong vương quốc của loài người” (Da 4:25,32; Da 5:21). Những kẻ độc tài và những nhà chính trị cấp dưới cho rằng họ đang nắm quyền điều khiển, nhưng Đa-ni-ên biết rõ không phải như vậy.
Là một người Do-thái tận hiến, ông biết rằng chỉ có duy nhất một Đức Chúa Trời chân thật. là Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và Ngài cai trị mọi điều bằng sự khôn ngoan và quyền năng. Người Ba-by-lôn đã thay đổi tên họ, địa chỉ cùng nền giáo dục của Đa-ni-ên, họ đã cố gắng để làm thay đổi các tiêu chuẩn của ông, nhưng họ đã không thay đổi được quan niệm thần học có trong ông! Đức Chúa Trời có toàn quyền khi để cho Ba-by-lôn xâm chiếm Giu-đa, và Ngài cũng có toàn quyền khi gởi Đa-ni-ên và ba bạn ông sang Ba-by-lôn. Trong từng khía cạnh của đời sống và chức vụ mình, Đa-ni-ên đã nương dựa hoàn toàn vào Đức Chúa Trời của thiên đàng, Đấng đang cầm quyền tối cao trên mọi sự.
Một số người đã liên kết quyền tể trị với tình trạng nô lệ, trong khi thực tế là khi chúng ta phó mình cho ý muốn của Đức Chúa Trời tối cao chính là lúc chúng ta có được bước đi đầu tiên hướng về sự tự do. “Tôi sẽ bước đi thong dong vì đã tìm kiếm các ghiềng mối Chúa” (Thi 119:45). Chúng ta hoàn toàn có thể yên tâm nương mình trong Đức Chúa Trời, vì Ngài là Cha của chúng ta, Ngài quá yêu chúng ta nên không bao giờ Ngài làm tổn hại chúng ta và quá khôn ngoan nên không bao giờ mắc phải sai lầm.
Chúng ta không nên nhầm lẫn quyền tể trị của Đức Chúa Trời với thuyết định mệnh, “Mọi điều đã được sắp đặt”. Thuyết định mệnh tin là có một thế lực siêu nhiên đang tạo ra trong thế giới này những mục đích mù quáng nhưng không thể tránh khỏi được, có thể đó là những thế lực chính trị của chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa Cộng sản hay đó là “sự sống sót của các cá thể thích nghi” trong thuyết tiến hoá của Darwin. Có người bị cám dỗ thắc mắc rằng: “Thế lực này do đâu mà có? Điều gì khiến nó tiếp tục tồn tại? Nếu đây là điều không thể tránh khỏi, tại sao chúng ta có thể chống lại nó hay chọn không buông xuôi theo nó?” Niềm tin của Cơ-đốc nhân đặt nơi một Đức Chúa Trời khác hẳn, một Đức Chúa Trời yêu thương đang dự định cho chúng ta điều tốt nhất (Gie 29:11). “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi; Tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi 23:1).
2. Ông có một đời sống cầu nguyện nghiêm túc.
Người Do-thái có thói quen cầu nguyện vào lúc chín giờ sáng, giữa trưa và ba giờ chiều, tức giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín của ngày. Khi đến Ba-by-lôn, Đa-ni-ên vẫn giữ đúng theo nguyên tắc này. Những người biệt riêng thời gian cho sự cầu nguyện thì giống như “cầu nguyện không thôi” (ITe 5:17), vì những thì giờ cầu nguyện đặc biệt sẽ thánh hoá mọi thời điểm và giữ chúng ta trong mối thông công với Đức Chúa Trời.
Khi Đa-ni-ên vàa các bạn ông cần biết về giấc chiêm bao vua Nê-bu-cát-nết-sa và cần phải hiểu được nó, họ đã dốc lòng cầu nguyện, và khi Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của họ, họ vẫn cầu nguyện tiếp và dâng lời cảm tạ Ngài (Da 2:14-23). Khi mạng sống của Đa-ni-ên gặp nguy hiểm, ông đã trở về nhà và cầu nguyện, và Đức Chúa Trời đã giải cứu ông khỏi hang sư tử (Da 6:10). Đa-ni-ên thường cầu xin Đức Chúa Trời hay các sứ giả của Ngài cho ông sự khôn ngoan để có thể hiểu được những khải tượng Đức Chúa Trời đã ban cho ông. Đa-ni-ên đã nương cậy vào lời cầu nguyện.
Trong hội thánh ngày nay, dường như có nhiều người chỉ đến với sự cầu nguyện khi mọi việc đã đổ vỡ. Họ đã diễn dịch trong Thi 46:1 là “Đức Chúa Trời là chỗ ẩn náu sau cùng của chúng tôi khi sức mạnh của chúng tôi đã cạn kiệt và chúng tôi không còn chỗ nào khác để quay đầu”. Thật là một thảm kịch! A. W. Tozer đã từng nói: “Những gì Đức Chúa Trời có thể làm, thì đức tin cũng có thể làm, và điều gì đức tin làm được thì lời cầu nguyện cũng làm được, khi lời ấy được dâng lên trong đức tin” [73]. Đa-ni-ên không chỉ cầu nguyện một mình mà ông còn cầu nguyện với các bạn của ông, bởi vì ông biết giá trị của việc hai ba người cùng hiệp nhau kêu cầu với Đức Chúa Trời. Nhà truyền giáo D. L. Moody đã từng nói: “Tôi thà có được khả năng cầu nguyện còn hơn làm một nhà thuyết giảng vĩ đại”. Chúa Giê-xu Christ chưa từng dạy các môn đồ Ngài cách truyền giảng, mà chỉ dạy họ cách cầu nguyện”.
3. Ông nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời và tin cậy những lời ấy.
Khi Đa-ni-ên và các bạn ông rời Giê-ru-sa-lem để đến Ba-by-lôn, họ đã mang theo mình những cuộn sách của Kinh thánh Cựu-ước. Chúng ta biết rằng Đa-ni-ên đã nghiên cứu những lời tiên tri của Giê-rê-mi (Da 9:2) và chúng ta có thể đoán được rằng những thanh niên trẻ tuổi có lòng tin kính này cũng có phần trong lời Đức Chúa Trời.
• Sự cầu nguyện và Lời Đức Chúa Trời phải đi đôi với nhau (Cong 6:4).
Một số người đã hỏi một vị thánh đồ già rằng: “Giữa cầu nguyện và Lời Đức Chúa Trời, điều nào quan trọng cho đời sống Cơ-đốc của tôi hơn?” Vị thánh đồ trả lời, “với một con chim đang bay, thì cánh nào của nó quan trọng hơn, cánh bên phải hai bên trái?” Khi chúng ta đọc Lời Đức Chúa Trời và nghiên cứu những lời ấy, chúng ta phải cầu xin Đức Chúa Trời ban cho sự khôn ngoan và năng lực để có thể hiểu và vâng theo những lời ấy.Chúng ta cũng cần phải chuyển những lời Kinh thánh thành lời cầu nguyện.Khi cầu nguyện, chúng ta phải ghi nhớ những gì mình đã học được từ lời Thánh Kinh, vì lời Chúa làm cho đức tin chúng ta gia thêm (Ro 10:17) và giúp chúng ta cầu nguyện theo ý muốn Đức Chúa Trời. (Gi 15:7).
Đa-ni-ên không nghiên cứu Lời Đức Chúa Trời để tạo ấn tượng với người khác; ông nghiên cứu để biết chắc chắn về ý muốn của Đức Chúa Trời và vâng theo. Khi Đức Chúa Trời soi sáng cho ông biết về thời gian bảy mươi năm lưu đày, ông liền cầu nguyện xin Đức Chúa Trời tha tội cho dân sự Ngài và làm ứng nghiệm những điều Ngài đã hứa, và Đức Chúa Trời đã nhậm lời. Khi bạn biết được Lời Đức Chúa Trời và bước đi trong mối thông công với Ngài, bạn sẽ được một tấm lòng kiên định và có đủ khả năng để chống lại những sự tấn công của ma quỷ.
4. Ông có được hiểu biết về trận chiến thuộc linh.
Đa-ni-ên 10 là một đoạn Kinh thánh quan trọng dành cho các chiến sĩ cầu nguyện, cho những người chiến đấu trong sự cầu nguyện (Co 4:12) và tìm kiếm sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời để đánh đổ những đồn lũy đang ngăn chặn lẽ thật Đức Chúa Trời đến với tâm trí của người chưa tin (IICor 10:1-6). Khi tôi làm mục sư tại nhà thờ Moody ở Chicago, tôi thường gặp gỡ ba người bạn cùng hầu việc Chúa và chúng tôi đã dâng mình để tham gia cầu nguyện chiến trận.
Bởi đức tin, chúng tôi tìm cách tấn công các đồn lũy của Sa-tan và mở đường để Lời Đức Chúa Trời đến thay đổi đời sống của những người đang gặp nan đề. Đức Chúa Trời đã cho chúng tôi nhiều chiến thắng tuyệt vời theo những cách mà chúng tôi không bao giờ có thể hình dung nổi.
Khi bằng đức tin chúng ta mặc lấy tất cả những khí giới của Đức Chúa Trời và nương cậy vào quyền năng Ngài, Ngài sẽ ban cho chúng ta năng lực để “đứng vững” và “chống lại” (Eph 6:10-14). Chúng ta không chỉ nhắm đến sự can đảm, chúng ta là những chiến sĩ đã được ban năng lực! Chúng ta giữ lấy mảnh đất Ngài ban cho chúng ta và tiến lên phía trước để chiếm lấy những mảnh đất mới.
Tôi nhận ra một thực tế là toàn bộ quan niệm về cuộc chiến thuộc linh đã bị một sốngười lạm dụng, và giễu cợt. Nhưng chúng ta không nên để những điều đó không ngăn cản việc chúng ta noi gương những thánh đồ vĩ đại như Đa-ni-ên và Phao-lô, là những người đã tấn công vào lãnh địa của Sa-tan và vẫn giữ vững lập trường khi bị đe doạ. Isaac Watts đã nói về điều này một cách trọn vẹn rằng: Phải chăng không có kẻ thù cho tôi đối mặt
5. Ông chỉ tìm kiếm vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
“Có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm”, đó là lời Đa-ni-ên đã nói với vị quân vương đầy thế lực, ông dâng tất cả vinh hiển lên cho Đức Chúa Trời (Da 2:8), và sau đó chính vua Nê-bu-cát-nết-sa đã dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời (c.47, Da 4:34-35). Khi nhà vua ban thưởng cho Đa-ni-ên về những gì ông đã làm, Đa-ni-ên đề nghị nhà vua ban thưởng cho ba người bạn của ông nữa, vì họ đã góp một phần quan trọng vào việc cầu nguyện để được kết quả đó. Khi Bên-xát-sa cố gắng bưng bít Đa-ni-ên bằng những lời khen tặng và dùng các phần thưởng để gây ảnh hưởng trên ông, Đa-ni-ên đã gạt tất cả những điều này sang một bên và dạn dĩ giải nghĩa tin dữ cho nhà vua (Da 5:13-17).
Suốt quãng đời của mình, Đa-ni-ên đã làm một người vĩ đại trong vương quốc này, nhưng ông đã dùng những tặng phẩm, khả năng và cơ hội để tôn cao Đức Chúa Trời và phục vụ người khác. Có thể nói rằng sự khiêm nhường thực sự không phải là nghĩ về mình một cách hèn hạ, mà là không nghĩ gì đến mình cả! Chúa Giê-xu đã đến như một tôi tớ (Phi 2:1-30), và Ngài chính là gương mẫu chúng ta cần noi theo. Tôi thấy ngày nay, người ta quảng cáo nhiều hội nghị về vai trò hướng dẫn dành cho Cơ đốc nhân; có lẽ chúng ta cũng cần tổ chức một vài hội nghị về “vai trò tôi tớ”; bởi vì một người lãnh đạo chân chính luôn là một người đầy tớ khiêm nhường. Điều này đã đúng với Giê-ô-sép, Môi-se, Gio-suê, Đa-vít và Nê-hê-mi, cũng như Chúa chúng ta và các sứ đồ của Ngài. Liệu chúng ta có thể tốt hơn dựa trên những điều họ đã truyền lại cho chúng ta?
6. Ông nhận ra rằng mình có một việc phải làm.
Cũng giống như Giô-sép ở tại Ai-cập, Đa-ni-ên không hề than trách về những mất mát trong cuộc sống của mình, mà trái lại với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, ông đã tận dụng tối đa điều đó. Ông biết rằng Đức Giê-hô-va toàn năng Đấng ông tin cậy đã có một chương trình đặc biệt dành cho đời sống ông, và Ngài đang tìm cách để làm ứng nghiệm điều đó. Ông không tranh đấu để được thăng chức, và Đức Chúa Trời đã mang điều đó đến cho ông. Ông đã làm tốt công việc của mình, ông là một tôi tớ trung thành và thuận phục chủ, thậm chí kẻ thù cũng không tìm được điều gì để chỉ trích ông (Da 6:1-5). Nếu có một người xứng đáng với lời chấp thuận thánh của Chúa Giê-xu được tìm thấy trong Mat 25:21, thì người đó chính là Đa-ni-ên.
Đa-ni-ên vừa là một người phục vụ cho chính phủ vừa là một tiên tri của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho ông một vị trí cao trọng hầu ông có thể dùng nó để phục vụ Đức Chúa Trời và dân sự Ngài. Kinh thánh không ghi lại, nhưng có lẽ đã nhiều lần Đa-ni-ên trình bày với nhà vua chuyện dân Do-thái bị phu tù, và giúp cho cuộc sống họ được dễ dàng hơn. Có lẽ ông có ảnh hưởng đến quyết định của vua Sy-ru về việc cho phép dân Do-thái trở về quê hương. Chúng ta cần có những người tin Chúa giữ chức vụ cao trong chính phủ, những người có thể làm gương về đời sống tin kính và làm công cụ tỏ bày sự công bình.
7. Ông là một người khéo léo và rộng lượng.
Một số người có ý nghĩ rằng cách duy nhất để thay đổi mọi điều trong thế giới chính trị ấy là xây dựng những toà nhà, hạn chế giao thông, hay tấn công những người họ cho là phạm tội. Đa-ni-ên đã thể hiện ảnh hưởng lớn lao của mình trong suốt thời gian cai trị của bốn vị vua, nhưng ông chưa bao giờ dùng đến vũ lực, những lời buộc tội, hay đe doạ. “Tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người” (IITi 2:24).
Khi Đa-ni-ên và các bạn của ông muốn ăn những thức ăn thanh sạch, chứ không phải thức ăn được dâng cho thần tượng, họ không đình công tuyệt thực hau tranh luận với những người có trách nhiệm. Đa-ni-ên biết rằng bất kỳ vấn để gì họ tạo ra đều được phản ánh lên vị quan được chỉ định trông coi họ và gây khó khăn cho vị quan này, nên ông đã tìm một giải pháp khác. Ông đã hỏi khéo rằng liệu có thể thử họ trong mười ngày, nhưng ông biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ khiến cuộc thử nghiệm này được thành công.Ông đã nhận được sự tôn trọng và lòng tin cậy của vị quan đang lãnh trách nhiệm. Tin này lan truyền vào hoàng cung, và mọi người biết rằng bốn chàng trai Do-thái trong lớp huấn luyện không phải là những kẻ gây rối.
Chắc chắn là Đa-ni-ên không đồng tình với quan niệm tần họ hay lối sống của những người đang làm nhiệm vụ, nhưng ngay cả khi ông không thể kính trọng các vị quan, thì ông vẫn tôn trọng chức vụ của họ (Xem những lời dạy của Phao-lô về chủ đề này trong Ro 13:1-51). Ông đã nói với họ và nói về họ với thái độ tôn trọng và đã gieo ra “những lời lành mạnh, không chỗ trách được” (Tit 2:8). Người tin Chúa rất thường có quan niệm “thánh khiết hơn anh”, nên họ đã không bày tỏ được thái độ tôn trọng phải lẽ đối với các công chức, và điều này luôn làm tổn hại đến mục tiêu của Đấng Christ.
8. Ông được biết thấu đáo lịch sử của loài người.
Các học giả đã nổ lực ghép các mãnh của trò chơi ghép hình mà chúng ta thường gọi là “lịch sử” lại với nhau, nhưng họ vẫn không thành công dầu đã cố gắng hết sức. Cũng giống như sổ điện thoại, quyển sách lịch sử có vô số nhân vật nhưng lại không có cốt truyện. Nếu không có được những kiến thức của Kinh thánh, chúng ta không thể diễn giải được lịch sử cách chính xác.
• Y-sơ-ra-ên là quốc gia ở trung tâm của lịch sử.
Tại sao ư? Bởi vì Y-sơ-ra-ên là phương tiện được Đức Chúa Trời chọn lựa để mang sự cứu rỗi đến cho thế giới, vì “sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:22). Tại tung tâm của lịch sự Y-sơ-ra-ên là giao-ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3) cũng như giao ước của Đức Chúa Trời với dân Do-thái tại núi Si-nai (Xu 20:1-24:17) và trong đồng Mô-áp (Phuc 27:1-30:20). Nếu dân Y-sơ-ra-ên vâng lời, Đức Chúa Trời sẽ chúc phước cho họ và khiến họ trở thành một nguồn phước cho Dân Ngoại; nếu họ không vâng lời, Đức Chúa Trời sẽ sửa phạt học và dùng các quốc gia của Dân Ngoại để thực hiện điều đó.
Nhưng những khải tường cũng cho Đa-ni-ên biết được rằng các quốc gia này mang đặc tính của loài thú, như sư tử, gấu, báo, chiên đực và dê đực. Sự kiêu ngạo của Nê-bu-cát-nết-sa đã làm cho ông trở nên như một con vật (Da 4:1-37), và sự kiêu ngạo đó cũng đã khiến những người cai trị trở nên tệ hại hơn loài thú khi họ thôn tính lẫn nhau.
Ở một khía cạnh, thế giới chúng ta đang tiến triển, chúng ta được hưởng mọi tiến bộ của y tế, truyền thông, giao thông, an ninh, và thoải mái. Nhưng ở một khía cạnh khác, thế giới đang ngày một “nghèo đi”, như Đức Chúa Trời đã bày tỏ trong khải tượng về pho tượng lớn (Da 2:1-49). Pho tượng đó đi từ vàng đến bạc, bạc đến đồng, từ đồng đền sắt và từ sắt đến đất sét! Ở đây không chỉ có sự suy giảm về giá trị, mà còn cả về sức mạnh nữa. Khi ở vào thời kỳ của bàn chân và các ngón chân của pho tượng, không có gì ngoài đất sét gắn chúng với nhau!
• Đa-ni-ên không hề ảo tưởng về tương lai.
Ông biết lòng loài người ra sao và ông cũng biết điều Đức Chúa Trời đã lên kế hoạch thực hiện. Dẫu vậy, ông vẫn kiên định và không gì có thể lòng ông xao động hoặc làm ông thay đổi! Ông cũng có thể nói như Phao-lô đã từng nói khi gặp bão: “Vậy, hỡi các ông, hãy vững lòng, vì ta có lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời rằng sẽ xảy ra như lời Ngài phán vậy” (Cong 27:25).
9. Ông sống đúng với tên gọi của mình
Đa-ni-ên có nghĩa là “Đức Chúa Trời là quan xét tôi”. Ông đã sống một cuộc đời theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và làm những điều đẹp ý Ngài. Ông không lo điều nhà vua sẽ nghĩ về mình hoặc cách giải nghĩa của mình; ông chỉ truyền đạt sứ điệp Đức Chúa Trời đã phán với ông và giao mọi điều còn lại cho Ngài. Điều đó đã mang đến thay đổi gì khiến những thuật sĩ khác ghen ghét ông và tìm cách để ông phải chết? Cuộc đời và tiếmg tăm của ông đều ở trong tay của Đức Chúa Trời, và ý muốn của Đức Chúa Trời luôn tốt đẹp nhất. Có đáng ngạc nhiên không khi Đức Chúa Trời quá yêu Đa-ni-ên?
D. L. Moody thường giảng luận về Đa-ni-ên, và đây là một đoạn được trích từ bài giảng:
Đa-ni-ên lưu tâm đến những nguyên tắc của mình nhiều hơn những vinh dự của trần gian hay sự kính nể của con người. Với ông, lẽ phải luôn đúng. Ông đã làm theo lẽ phải cho dù sự việc có thế nào. Trong sự thêm sức của Đức Chúa Trời, mục tiêu kiên quyết đó chính là bí quyết thành công của ông. [74].
Nhạc sĩ Philip P.Bliss, một trong những người cộng tác của ông Moody, đã diễn tả chân lý này qua một bài hát. Tuy bài hát này không được sử dụng nhiều, nhưng sứ điệp của nó luôn cần thiết, với nội dung là:
Hãy làm một Đa-ni-ên!
Hãy giữ vững lập trường!
Hãy có một mục tiêu vững chắc!
Hãy bày tỏ nó ra!
Hãy kiên cường lên!
bottom of page