top of page
Bài Đọc...
1. TRƯỚC CÔNG NGUYÊN: TRƯỚC SỰ SÁNG TẠO (Sáng 1-50:26)
Mặc...
...dù tên “Sáng-thế ký” nghĩa là “sự khởi đầu” và mặc dù vị trí của nó là sách đầu tiên trong Kinh Thánh, nhưng sách Sáng-thế ký không phải là khởi đầu của mọi sự. (Sa 1:1) nhắc nhở chúng ta “Ban đầu Đức Chúa Trời”. Vì vậy, trước khi chúng ta học những nền tảng đặt ra trong (Sa 1:1-11:33), hãy làm quen với điều Đức Chúa Trời đã làm trước những gì được ghi lại trong Sáng-thế ký.
Xét cho cùng, chúng ta sẽ xem xét điều Ngài đã làm được chép trong Sáng-thế ký, và sau cùng, điều xảy ra sau Sáng-thế ký. Điều này sẽ cho chúng ta cái nhìn khái quát chúng ta cần để học phần còn lại về sự mạc khải của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh.
1. Trước Sáng-thế ký: Sự Cứu Chuộc được hoạch định.
Điều gì xảy ra trước khi Đức Chúa Trời phán vũ trụ được dựng nên? Điều đó có vẻ giống như một câu hỏi giả thuyết “Có bao nhiêu thiên sứ có thể đứng trên mũi nhọn của một đinh ghim?” Nhưng không phải vậy [1] Xét cho cùng, Đức Chúa Trời không hành động độc đoán, và việc Ngài tạo nên vật gì đó gợi ý rằng Ngài chắc đã nghĩ đến những mục đích tuyệt vời nào đó.
Vậy, hoàn cảnh trước (Sa 1:1) là gì, và nó dạy chúng ta điều gì về Đức Chúa Trời và chính chúng ta?
Đức Chúa Trời đã tồn tại trong sự vinh hiển siêu phàm. Đức Chúa Trời còn đời đời, Ngài không có khởi đầu và kết thúc. Vì thế, Ngài hoàn toàn đầy đủ khả năng và không cần gì ngoài chính Ngài để tồn tại hoặc để hành động.
A. W. Tozer đã viết “Đức Chúa Trời có một mối liên hệ tự nguyện với mọi vật Ngài tạo nên nhưng Ngài không có mối liên hệ cần thiết nào với bất cứ điều gì ngoài chính Ngài” [2] Đức Chúa Trời không cần gì, vũ trụ vật chất hay dòng dõi loài người, nhưng Ngài đã dựng nên cả hai.
Nếu bạn muốn điều gì đó khiến tâm trí bạn kinh ngạc, hãy suy gẫm khái niệm về những sự đời đời, không có khởi đầu và kết thúc.
Là những tạo vật của thời gian, bạn và tôi có thể dễ dàng tập trung vào những điều tạm thời quanh chúng ta, nhưng thật khó nếu không muốn nói là không thể được để hiểu về điều mang tính đời đời [3]
Suy tưởng về bản chất và tính cách của Đức Chúa Trời Ba Ngôi Đấng luôn luôn đã, đang và sẽ y nguyên và là Đấng không bao giờ thay đổi, là một công việc vượt quá sức chúng ta “Ban đầu Đức Chúa Trời”.
Môi-se viết: “Trước khi núi non sanh ra hoặc Chúa dựng nên đất và thế gian, từ trước vô cùng cho đến đời đời Chúa là Đức Chúa Trời” (Thi 90:2 NIV)
Frederick Faker trình bày điều này như vầy:
Vô tận, vô biên, độc nhất, một mình [4]
Nhưng Ba ngôi siêu phàm
Ngài luôn là Đức Chúa Trời duy nhất
Trong sự hiệp một đầy hùng vĩ! [5]
“Tiến trình thần học” là một tà giáo xưa trong cái vỏ hiện đại, quả quyết một “Đức Chúa Trời giới hạn” đang ở trong tiến trình trở thành một Đức Chúa Trời “lớn hơn”. Nhưng nếu Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời, như chúng ta hiểu từ này, thì Ngài tồn tại đời đời và không cần gì cả, và Ngài toàn tri, toàn năng và toàn tại. Để có một “Đức Chúa Trời giới hạn”, bạn trước hết phải định nghĩa lại chính từ “Đức Chúa Trời” vì Đức Chúa Trời không thể bị giới hạn bởi định nghĩa.
Hơn nữa, nếu Đức Chúa Trời bị giới hạn và “trở nên lớn hơn”, vậy quyền năng nào sẽ khiến Ngài trở nên lớn hơn? Quyền năng đó sẽ lớn hơn “Đức Chúa Trời” và vì vậy là Đức Chúa Trời! Và điều đó sẽ chẳng cho chúng ta hai Đức Chúa Trời thay vì một hay sao? [6] Nhưng Đức Chúa Trời của Kinh Thánh là đời đời và không có khởi đầu, Ngài vô tận và không biết những giới hạn về thời gian hay không gian. Ngài trọn vẹn và không thể “cải tiến”, bất biến và không thể thay đổi.
Đức Chúa Trời mà Áp-ra-ham đã thờ phượng là Đức Chúa Trời hằng hữu (Sa 21:33) và Môi-se bảo với dân Y-sơ-ra-ên. “Đức Chúa Trời hằng sống là nơi ẩn náu của các ngươi, và ở dưới có cánh tay đời đời” (Phu 33:27 NIV). Ha-ba-cúc nói rằng Đức Chúa Trời “từ đời đời vô cùng” (Ha 1:12 và Ha 3:6 Phao-lô đã gọi Ngài là “Đức Chúa Trời hằng sống (đời đời)” (Ro 16:26 ITi 1:17).
Ba Ngôi thiêng liêng ở trong sự giao thông yêu thương. “Ban đầu Đức Chúa Trời” sẽ là một nhận định gây sửng sốt cho công dân U-rơ thuộc xứ Canh-đê nơi Áp-ra-ham xuất thân, vì dân Canh-đê và mọi láng giềng của họ đã thờ nhiều thần và nữ thần lớn nhỏ. Nhưng Đức Chúa Trời ở Sáng-thế ký là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất và không có “thần đối thủ” nào để cạnh tranh, như bạn đã đọc trong các chuyện thần thoại và truyền thuyết từ thế giới cổ đại (Xu 15:1 Xu 20:3 Phu 6:4 IVua 8:60 IIVua 19:15 Thi 18:31).
Một Đức Chúa Trời chân thật này tồn tại với tư cách Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh (Mat 3:16-17; Mat 28:18-20) [7]Gi 3:34-35; Gi 14:15-17; Cong 2:32-33, 38-39; Cong 10:36-38; ICo 12:1-6; IICo 13:14; Eph 1:3-14; Eph 4:1-6; IITe 2:13-14; Tit 3:4-6; IPhi 1:1-2).
Điều này không có nghĩa rằng một Đức Chúa Trời biểu lộ chính Ngài trong 3 dạng khác nhau, hay có ba thần; Nó có nghĩa là một Đức Chúa Trời tồn tại trong Ba Ngôi bình đẳng về thuộc tính nhưng mang vẻ riêng biệt và rõ ràng trong vị trí và chức vụ.
Như Nicene Creed (325 SC) nhận định về điều đó, “Chúng ta tin một Đức Chúa Trời. Và một Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời, được sinh từ Cha, sự sáng của mọi sự sáng, là Đức Chúa Trời của chính Đức Chúa Trời, được sinh ra, không phải được tạo nên, thuộc một thể với Cha, và chúng ta tin nơi Đức Thánh Linh.”
Tôi có lần nghe một người thi hành chức vụ mở đầu buổi thờ phượng bằng lời cầu nguyện “Lạy Cha, cảm tạ Ngài đã chết thay chúng con trên thập tự giá”. Nhưng chính Đức Chúa Con, không phải Đức Cha, là Đấng đã lên án tội nhân hư mất và đem họ đến sự ăn năn cùng sự cứu rỗi. Làm lộn xộn và nhầm lẫn các Ngôi của Đức Chúa Trời thiêng liêng là thay đổi điều được dạy trong Kinh Thánh, và đây là một việc làm nguy hiểm.
Giáo lý Ba Ngôi đã không được bày tỏ rõ ràng trong Cựu-ước, vì sự nhấn mạnh trong Cựu-ước là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là một Đức Chúa Trời, tự hữu và vô song, Đức Chúa Trời chân thật duy nhất.
Thờ phượng các tà thần của những người láng giềng là sự cám dỗ lớn và là tội lỗi thường xuyên của Y-sơ-ra-ên, vì vậy Môi-se và các tiên tri đã hết sức nhấn mạnh về sự hiệp nhất và vô song nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Thậm chí ngày nay, những người Do-thái thờ phượng trung tín đều đọc thuộc lòng bài tín điều “Shema” mỗi ngày: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai! Ngươi phải kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Phu 6:4-5 NKJV). Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh không có ai ngang hàng và không có đối thủ.
Nhưng Cựu-ước cho những cái nhìn thoáng qua và những ngụ ý nói đến lẽ thật kỳ diệu về Ba Ngôi, một lẽ thật sau đó sẽ được bày tỏ rõ ràng bởi Đấng Christ và các sứ đồ. Những câu nói “chúng ta hãy” trong (Sa 1:26 Sa 3:22; Sa 11:7; Es 6:8) gợi ý rằng các Ngôi của Đức Chúa Trời làm việc với nhau trong sự hội ý, và nhiều trường hợp khi “thiên sứ của Đức Giê-hô-va” xuất hiện chỉ về sự hiện diện của Con Đức Chúa Trời (Sa 16:7-1; Sa 21:17; Sa 22:11, 15; Sa 24:7, 40; Sa 31:11; Sa 32:24-30; Xu 3:1-4; Cong 7:30-34; Cong 14:19; Sa 23:20-26; Sa 32:33-33:17; Giop 5:13; Cac 2:1-5; Cac 6:11).
Đấng Mê-si-a (Đức Chúa Con) phán về chính Ngài, Đức Thánh Linh và Đức Giê-hô-va (Đức Cha) trong (Es 48:16-17 Es 61:1-3 Thi 2:7) xác định rằng Đức Giê-hô-va có một con trai. Chúa Giê-xu đã áp dụng c.7 cho chính Ngài khi Ngài thách thức những kẻ thù không thừa nhận Ngài là Con Đức Chúa Trời (Mat 22:41-46).
Trong Sa 1:2 và Sa 6:3. Thánh Linh Đức Chúa Trời được phân biệt với Chúa (Đức Cha), và chính sự phân biệt này được tìm thấy trong (Dan 27:18 Thi 51:11 Es 40:13 Es 48:16 Ag 2:4-5).
Mặc dù từ “Ba Ngôi” không được sử dụng nơi nào trong Kinh Thánh, nhưng giáo lý này chắc chắn có ở đó, được ẩn giấu trong Cựu-ước và được bày tỏ trong Tân-ước. Giáo lý sâu sắc và mầu nhiệm này có ý nghĩa thực tiễn gì cho tín hữu ngày nay không?
Có, vì Ba Ngôi của Đức Chúa Trời đều có liên quan trong việc hoạch định và thực hiện ý muốn thiêng liêng đối với vũ trụ kể cả kế hoạch cứu rỗi.
Ba ngôi Đức Chúa trời đã hoạch định sự cứu chuộc. Kế hoạch cứu chuộc kỳ diệu không phải là một suy nghĩ đến sau của Đức Chúa Trời, vì dân sự Đức Chúa Trời đã được chọn trong Đấng Christ “trước khi sáng thế” (Eph 1:4 Kh 17:8) và được Cha giao cho Con để thuộc về Vương quốc Ngài (Mat 25:34)và để dự phần vinh hiển Ngài (Gi 17:2, 6, 9, 11-12, 24). Sự chết hy sinh của Con không phải là một tai nạn, đó là một sự chỉ định (Cong 2:23; Cong 4:27-28). Vì Ngài “đã bị giết từ buổi sáng thế” (Kh 13:8).
Trong những ý định về sự vĩnh cửu, Đức Chúa Trời đã quyết định sáng tạo một thế giới sẽ gồm có những con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Đức Cha có liên quan trong sự sáng tạo (Sa 1:1; IIVua 19:15; Cong 4:24), nhưng Đức Chúa Con (Gi 1:1-3, 10; Co 1:16; He 1:2) và Đức Thánh Linh (Sa 1:2; Thi 104:30) cũng có liên quan.
Đức Chúa Trời không tạo ra một thế giới để đáp ứng nhu cầu của Ngài vì Ngài khôngcần bất cứ điều gì nhưng để Ngài có thể chia sẻ tình yêu Ngài với những tạo vật mà không giống như các thiên sứ, được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và có thể tự nguyện đáp ứng với tình yêu của Ngài.
Đức Chúa Trời quyết định rằng Con sẽ đến trên đất và chịu chết vì tội lỗi thế gian, và Chúa Giê-xu đã đến để làm theo ý muốn của Cha (Gi 10:17-18; He 10:7). Những lời Chúa Giê-xu phán đều đến từ Cha (Gi 14:24) và những việc Ngài làm đều đã được Cha giao cho (Gi 5:17-21, 36; Cong 2:22) và được Thánh Linh ban quyền năng (Sa 10:38). Con làm vinh hiển Cha (Gi 14:13; Gi 17:1, 4) và Thánh Linh làm vinh hiển Con (Gi 16:14). Các Ngôi của Ba Ngôi Thánh đồng công với nhau để thực hiện ý muốn thiêng liêng.
Theo Eph 1:3-14 kế hoạch cứu rỗi mang tính Ba Ngôi: Chúng ta được Cha chọn lựa (c.3-6), được Con cứu chuộc (c.7-12) được Thánh Linh ấn chứng (c.13-14) [8] và tất cả mọi điều này là để ngợi khen vinh hiển của Đức Chúa Trời (c.6, 12, 14). Cha đã ban cho Con quyền ban sự sống đời đời cho những ai Ngài đã giao cho Con (Gi 17:1-3). Mọi điều này đã được hoạch định trước khi có một thế giới!
Thật quan trọng để thấy rằng cả Ba Ngôi ở trong Đức Chúa Trời dự phần trong sự cứu rỗi tội nhân hư mất. Nói về Đức Chúa Cha, tôi đã được cứu khi Ngài nhân từ chọn tôi trong Đấng Christ trước khi sáng thế, nhưng tôi không biết gì về sự lựa chọn thiêng liêng mãi đến sau khi tôi được thay đổi [9]
Nói về Đức Chúa Con, tôi đã được cứu khi Ngài chết thay tôi trên thập tự giá, và tôi biết lẽ thật tuyệt vời đó từ những ngày đầu của đời tôi. Nhưng nói về Đức Thánh Linh, tôi đã được cứu vào 5/1945 khi Thánh Linh Đức Chúa Trời lên án tôi và tôi tin nhận Chúa Giê-xu Christ. Khi đó điều mà Đức Chúa Trời đã hoạch định từ trước vô cùng đều xảy ra trong đời tôi.
Sự sanh thuộc linh là điều gì đó giống như sự sanh con người: Bạn kinh nghiệm nó nhưng phải mất thời gian để hiểu nó! Xét cho cùng, tôi sẽ không biết ngày sinh của tôi nếu ai đó không cho tôi biết. Chính sau khi chúng ta được sinh trong gia đình của Đức Chúa Trời thì sự kỳ diệu về điều đó đều được bày tỏ cho chúng ta từ Lời Chúa và khi ấy chúng ta muốn chia sẻ điều đó với người khác.
Khi bạn tìm cách thăm dò chiều sâu của những ý định thiêng liêng đời đời, bạn sẽ bị thất bại. Nhưng đừng nản lòng, vì qua bao thế kỷ, các học giả đức hạnh và tin kính đã bất đồng về những suy đoán và kết luận của họ. Một trong những giáo sư thần học viện của tôi thường nhắc nhở chúng tôi: “Cố tìm cách giải thích những điều này thì các bạn có thể mất trí, nhưng cố tìm cách bỏ qua chúng thì bạn sẽ mất linh hồn mình.”
Môi-se đã nói điều đó hay nhất: “Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, nhưng những sự được bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta có thể làm theo mọi lời của luật pháp này” (Phu 29:29 NKJV). Điều quan trọng không phải là biết mọi điều Đức Chúa Trời biết nhưng là làm mọi điều Đức Chúa Trời bảo chúng ta làm. “Vì chúng ta biết có giới hạn” (ICo 13:9).
2. Sáng-thế ký: Sự Cứu Chuộc được hứa ban.
Khi Đức Chúa Trời viết Kinh Thánh, Ngài không ban cho chúng ta một cuốn sách thần học nặng nề được chia thành những phân đoạn mang nhãn hiệu Đức Chúa Trời, sự sáng tạo, loài người, tội lỗi, v. v. . Ngược lại, Ngài ban cho chúng ta một câu chuyện, một ký thuật bắt đầu trong quá khứ vĩnh hằng và kết thúc trong tương lai vĩnh hằng.
Đó là một câu chuyện về Đức Chúa Trời cùng những cách Ngài đối xử với mọi loại người và cách họ đáp ứng với Lời Ngài. Khi chúng ta đọc những ký thuật này, chúng ta học rất nhiều về Đức Chúa Trời, chính chúng ta và thế giới của chúng ta, và chúng ta khám phá rằng câu chuyện của cá nhân chúng ta được tìm thấy đâu đó trong những trang Kinh Thánh. Nếu bạn đọc đủ lâu và đủ thành thật, bạn sẽ gặp chính mình trong Kinh Thánh.
Trong những bản dịch Kinh Thánh của chúng ta thì Sáng-thế ký có 50 chương, nhưng nguyên bản Hê-bơ-rơ không được phân chia. Sau khi mô tả sự sáng tạo (Sa 1:1-2:3), Môi-se liệt kê 11 “thế hệ” tạo nên ký thuật Sáng-thế ký: Trời và đất (Sa 2:4-4:26), A-đam (Sa 5:1-6:8), Nô-ê (Sa 6:9-9:29), các con trai của Nô-ê, Sem, Cham và Gia-phết (Sa 10:1-11:9) với một sự nhấn mạnh về Sem, tổ phụ của dân Xê-mít (Sa 11:10-26), Tha-rê, cha của Áp-ra-ham (Sa 11:27-25:11) Ích-ma-ên (Sa 25:12-18), Y-sác (Sa 25:19-35:29), Ê-sau (Sa 36:1-8) cũng là Ê-đôm (Sa 36:9- 37:1) và Gia-cốp (Sa 37:2-50:26). Đây là những cá nhân được giới thiệu trong Sáng-thế ký.
• Bảy chương đầu của Sáng-thế ký đề cập đến loài người nói chung và tập trung vào những sự kiện lớn: sự sáng tạo (c.1-2), sự sa ngã của loài người và những hậu quả của nó (c.3-5), Cơn Nước Lụt (c.6-9) và sự chống nghịch tại Ba-bên (c.10-11).
• Phần còn lại của Sáng-thế ký tập trung vào Y-sơ-ra-ên nói riêng (c.12-50) và tường thuật đời sống của bốn nhân vật vĩ đại: Áp-ra-ham (Sa 12:1-25:18), Y-sác (Sa 25:19-27:46), Gia-cốp (Sa 28:1-36:43), và Giô-sép (Sa 37:1-50:25) [10]. Chúng ta gọi những người này là “các tộc trưởng” vì họ là tổ phụ lập nên dân tộc Hê-bơ-rơ.
Khi bạn nghiên cứu Sáng-thế ký, hãy nhớ rằng Môi-se đã không viết một lịch sử chi tiết về mỗi người hay mỗi sự kiện. Ông chỉ ghi lại những sự việc giúp ông đạt đến mục đích của mình, là để giải thích nguồn gốc của mọi sự, đặc biệt là nguồn gốc của dân tộc Do-thái. Sa 1:1-11:33 là một ghi chép về sự thất bại, nhưng với sự kêu gọi Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời đã tạo một khởi đầu mới.
Tôi lỗi loài người đã đem đến sự rủa sả của Đức Chúa Trời (Sa 3:14, 17 Sa 4:11), nhưng giao ước nhân từ của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham đã đem đến phước hạnh cho cả thế giới (Sa 12:1-3).
Bạn cũng sẽ để ý trong sự ghi chép của Sáng-thế ký khi con người làm điều tồi tệ nhất và đi đến chỗ thấp nhất thì Đức Chúa Trời ban cho con người một khởi đầu mới.
Tiến sĩ G. Campbell Morgan nói rằng chu kỳ trong Sáng-thế ký là “thế hệ, sự suy đồi và sự đổi mới” [11] Ca-in đã giết A-bên, nhưng Đức Chúa Trời ban Sết để tiếp tục dòng dõi tin kính. Đất trở nên đầy bạo lực và gian ác, vì vậy Đức Chúa Trời đã tiêu diệt loài người nhưng chọn Nô-ê và gia đình ông để thực hiện công việc Ngài.
Tại U-rơ của xứ Canh-đê ngoại đạo, Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham với Sa-ra và ban cho họ một con trai. Y-sác, và tương lai về kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời tùy thuộc vào con trai ấy. Y-sác và Rê-bê-ca có hai con trai, Ê-sau và Gia-cốp nhưng Đức Chúa Trời từ chối Ê-sau và chọn Gia-cốp để xây dựng 12 chi phái Y-sơ-ra-ên và hưởng những phước hạnh của giao-ước.
Nói cách khác, từ đầu đến cuối, Sáng-thế ký là câu chuyện về ý muốn tối cao và ân điển chọn lựa của Đức Chúa Trời. Điều này không gợi ý rằng những người trong câu chuyện chỉ là những rô-bốt, vì họ đã phạm những lỗi lầm và thậm chí tìm cách ngăn trở những kế hoạch của Đức Chúa Trời. Nhưng mỗi khi con người chống lại phép tắc của Đức Chúa Trời thì Ngài đều tể trị và thực hiện những mục đích thiêng liêng của Ngài. Ý định của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời, những kế hoạch của lòng Ngài còn đến mọi thế hệ” (Thi 33:11 NKJV).
Điều bắt đầu trong Sáng-thế ký được phát triển suốt Kinh Thánh và sau đó tìm thấy sự hoàn thành của nó trong sách Khải-huyền, như bạn có thể thấy từ tóm tắt này.
Sáng-thế ký | Khải-huyền |
- Trời và đất bắt đầu | - Trời và đất mới |
- Khu vườn đầu tiên, cây sự sống được canh giữ | - “Thành là khu vườn” và cây sự sống có thể sử dụng |
- Hôn nhân đầu tiên | - Hôn nhân cuối cùng, hôn nhân của Chiên Con |
- Sa-tan cám dỗ Ê-va phạm tội | - Sa-tan bị ném vào hồ lửa |
- Sự chết bước vào hiện trường | - “Không có sự chết” |
- Ba-by-lôn được xây dựng | - Ba-by-lôn bị tiêu diệt |
- Đấng Cứu Chuộc được hứa ban | - Đấng Cứu Chuộc cai trị |
Có nhiều so sánh và sự tương phản khác giữa 2 sách này, nhưng tóm tắt này cho bạn ý niệm nào đó về tầm quan trọng của Sáng-thế ký đối với một sự hiểu biết về chương trình của Đức Chúa Trời và phần còn lại của Kinh Thánh.
3. Sau Sáng-thế ký: Sự Cứu Chuộc thực hiện.
Đức Chúa Trời đã bày tỏ kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Ngài dần dần. Trước tiên, Ngài ban một lời hứa (Sa 3:15), là lời hứa về sự cứu rỗi đầu tiên được tìm thấy trong Kinh Thánh. Đó là lời hứa về một Đấng Cứu Chuộc sẽ được sinh ra bởi một người nữ, đánh bại Sa-tan và đem sự cứu rỗi đến cho nhân loại. Chúa Cứu Thế được hứa ban sẽ là một con người chớ không phải một thiên sứ và sẽ cứu loài người chớ không không những thiên sứ sa ngã (He 2:5-18).
Đấng Cứu Chuộc được hứa ban này sẽ từ đâu đến? (Sa 12:1-3) trả lời câu hỏi đó: Đấng Cứu Chuộc sẽ là một người Do-thái, từ dân tộc của Áp-ra-ham. Qua một phép lạ của Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham và Sa-ra có Y-sác, và Y-sác là cha của Gia-cốp. Nhưng Gia-cốp có 12 con trai là những người đã sáng lập 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Chi phái nào sẽ ban cho thế giới Chúa Cứu Thế? (Sa 49:10) cho chúng ta biết: Đấng Cứu Chuộc sẽ đến từ chi phái Giu-đa.
Sách Xuất Ê-díp-tô ký cho biết thế nào Đức Chúa Trời đã xây dựng dân tộc Hê-bơ-rơ vĩ đại khi họ chịu khổ trong xứ Ê-díp-tô, và sau đó giải phóng họ bởi đại quyền của Ngài. Lẽ ra họ phải giành được di sản mình ở Ca-na-an, nhưng trong sự vô tín họ đã bất tuân Đức Chúa Trời và đi đến chỗ lang thang 40 năm trong hoang mạc (Dan 13:1-14:45). Giô-suê đã dẫn dắt thế hệ mới vào xứ và ở đó thiết lập quốc gia.
Sau kỷ nguyên bi thảm về sự cai trị của Các quan-xét và sự trì vì của Sau-lơ, được chép trong sách Các quan-xét, và ISa-mu-ên, Đức Chúa Trời đã xức dầu cho Đa-vít làm vua và tỏ cho biết rằng Đấng Cứu Chuộc được hứa ban sẽ đến từ dòng dõi Đa-vít (IISa 7:1-29). Ngài sẽ không những là “con cháu Đa-vít”, mà sẽ sinh ra ở Bết-lê-hem, thành Đa-vít (Mi 5:1). Qua tiên tri Ê-sai Đức Chúa Trời tuyên bố rằng Đấng Cứu Chuộc sẽ được sinh ra bởi một nữ đồng trinh một cách kỳ diệu (Es 7:14 Lu 1:26-38).
Dĩ nhiên, suốt những thời đại Cựu-ước, Sa-tan đã làm mọi điều nó có thể để ngăn trở những kế hoạch của Đức Chúa Trời. Ca-in thuộc về ma quỷ (IGi 3:12) và đã giết A-bên em trai mình, nhưng Đức Chúa Trời đã ban Sết để tiếp nối dòng dõi tin kính (Sa 4:25-26). Suốt Cơn Nước Lụt, Đức Chúa Trời giữ lại Nô-ê cùng gia đình ông và từ gia đình của Sem, Áp-ra-ham được sinh ra, là tổ phụ của dân tộc Hê-bơ-rơ.
Ít nhất vào 4 thời điểm, dòng dõi tin kính đã bị đe dọa bởi sự tiệt chủng. Hai lần Áp-ra-ham đã nói dối về Sa-ra vợ ông và bà bị các vua ngoại đạo đem đi (Sa 12:10-20; Sa 20:1), và con trai ông là Y-sác đã phạm tội tương tự và gây nguy hiểm cho vợ mình là Rê-bê-ca (Sa 26:6-16). Suốt những này tối tăm của nền quân chủ Hê-bơ-rơ, sau đó nữ hoàng A-tha-lia gian ác đã ra lệnh giết hết thảy con vua, nhưng một vị hoàng tử nhỏ, Giô-ách, được cứu thoát để tiếp nối dòng Đa-vít (IIVua 11:1-21).
Điều đó kết thúc ra sao?
“Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài bởi một người nữ sanh ra, sanh ra dưới luật pháp, để chuộc những kẻ ở dưới luật pháp” (Ga 4:4-5 NKJV). Thiên sứ đã loan báo cho những người chăn chiên: “Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ là Chúa” (Lu 2:11).
Lời hứa đã được làm trọn! Và tất cả bắt đầu ở Sáng-thế ký!
Giờ đây chúng ta hãy dự phần với Môi-se và đọc sự ghi chép hùng hồn đầy thần cảm của ông về sự sáng tạo trời, đất và sự sống loài người.
Một số người gọi Tổng thống nước Mỹ là “người lãnh đạo uy quyền nhất thế giới”, nhưng nhiều cựu tổng thống sẽ không đồng ý. Các cựu Tổng thống đã thú nhận rằng mệnh lệnh hành pháp của họ không phải lúc nào cũng được vâng theo và họ không thể làm được gì nhiều cho điều đó.
Chẳng hạn, suốt nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Nixon, ông ra lệnh cất bỏ những toà nhà tạm bợ xấu xí trên thương xá, những cái chướng mắt đã ở đó từ thời đại Thế chiến thứ I, nhưng phải mất nhiều tháng trước khi lệnh này được tuân hành. Khi các nhà báo bắt đầu viết về “chức Tổng thống uy quyền”, Nixon đã gọi toàn bộ ý tưởng này là “lố lăng” [12] Tổng thống có thể nói và ký vào những mệnh lệnh chính thức, nhưng điều đó không đảm bảo rằng bất cứ điều gì sẽ xảy ra.
Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời phán, điều gì đó xảy ra! “Vì Ngài phán thì việc được thực hiện; Ngài ra lệnh, thì vật đứng vững bền!” (Thi 33:9 NKJV). Khi bạn xem xét những hành động của Đức Chúa Trời được chép trong Sa 1:1-31, bạn không khỏi quỳ xuống trong sự thờ phượng tôn kính, vì những hành động sáng tạo của Ngài bày tỏ một Đức Chúa Trời quyền năng và khôn ngoan có lời phán mang uy quyền.
2. KHI ĐỨC CHÚA TRỜI PHÁN, ĐIỀU GÌ ĐÓ XẢY RA (Sa 1:1-31)
1. Đức Chúa Trời sáng tạo (Sa 1:1-2)
Ba sách của Kinh Thánh bắt đầu với “Ban đầu” (Sa 1:1 Mac 1:1 Gi 1:1). Mỗi khởi đầu này thật quan trọng. “Ban đầu có Ngôi Lời” (Gi 1:1) đưa chúng ta vào quá khứ vĩnh hằng khi Chúa Giê-xu Christ, Ngôi Lời hằng sống của Đức Chúa Trời, đã tồn tại với tư cách Con đời đời của Đức Chúa Trời. Giăng không gợi ý rằng Chúa Giê-xu có một khởi đầu. Chúa Giê-xu Christ là Con đời đời của Đức Chúa Trời Đấng đã tồn tại trước muôn vật vì Ngài đã tạo nên muôn vật (Sa 1:3 Co 1:16-17 He 1:2). Vì thế, “ban đầu” của Giăng xảy ra trước Sa 1:1) [13]
Phúc-âm của Mác mở đầu với “Đầu Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ Con Đức Chúa Trời”. Sứ điệp Phúc-Âm không bắt đầu với chức vụ của Giăng Báp-tít, vì tin mừng về ân điển của Đức Chúa Trời đã được rao ra trong Sa 3:15. Như (He 11:1-40) làm chứng, lời hứa của Đức Chúa Trời được con người tin theo suốt lịch sử Cựu-ước và những người tin đều được cứu (Ga 3:1-9 và Ro 4:1-25). Chức vụ của Giăng Báp-tít, người báo trước về Chúa Giê-xu, là khởi đầu sự rao báo sứ điệp về Chúa Giê-xu Christ ở Na-xa-rét (Cong 1:21-22; Cong 10:37).
“Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời và đất” (Sa 1:1) đề cập đến quá khứ bất tận khi Đức Chúa Trời hình thành vũ trụ từ chỗ không có gì (Thi 33:6; Ro 4:17; He 1:3) [14] Sa 1:1-2 là sự tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ, sự giải thích chi tiết về 6 ngày của công tác sáng tạo của Đức Chúa Trời được trình bày trong phần còn lại của chương.
Ba mươi hai lần trong chương này, Đức Chúa Trời sáng tạo được gọi là “Elohim” một từ Hê-bơ-rơ nhấn mạnh sự uy nghi và quyền năng của Ngài. (Danh giao-ước “Đức Giê-hô-va” xuất hiện lần đầu tiên trong Sa 2:4). “Elohim” là một danh từ số nhiều được sử dụng thích hợp có liên quan với những động từ và tính từ số ít. (Các thì của tiếng Hê-bơ-rơ ở số ít, số ít lẫn số nhiều, hoặc số nhiều).
Một số người nghĩ rằng dạng số nhiều này là điều mà các nhà ngữ pháp gọi là “số nhiều về sự uy nghi”, hoặc nó cũng có thể là một ngụ ý rằng Đức Chúa Trời tồn tại trong Ba Ngôi. Trong Kinh Thánh sự sáng tạo đuợc quy cho Cha (Cong 4:24), Con (Gi 1:1-3) và Thánh Linh (Thi 104:30).
“Elohim” bày tỏ quyền năng của Ngài bằng cách sáng tạo mọi vật chỉ bởi phán ra lời. Vật chất không phải là đời đời, nó bắt đầu khi mọi vật bắt đầu hiện hữu bởi lời phán của Đức Chúa Trời (Eph 3:9; Co 1:16; Kh 4:11; Kh 5:13).
Kinh Thánh không bày tỏ vì sao Đức Chúa Trời quyết định bắt đầu công việc sáng tạo của Ngài với một đống hỗn độn tối tăm, vô hình và trống không [15], sẽ đem đến trật tự từ chỗ hỗn độn và sự xinh đẹp cùng sự đầy đủ từ chỗ trống [16] không Ngài vẫn có thể làm điều đó hôm nay với đời sống của tất cả những ai đầu phục Ngài.
Các quốc gia quanh dân Y-sơ-ra-ên đã có những truyền thống cổ xưa “giải thích” nguồn gốc của vũ trụ và loài người. Những chuyện thần thoại này nói về những quái vật chiến đấu ở các đại dương sâu thẳm và các thần tham chiến để hình thành vũ trụ. Nhưng câu chuyện đơn giản trong Sáng-thế ký giới thiệu với chúng ta một Đức Chúa Trời Đấng duy nhất sáng tạo mọi vật và vẫn điều khiển sự sáng tạo của Ngài. Nếu dân Do-thái để ý kỹ điều Môi-se viết, họ sẽ không bao giờ thờ phượng các hình tượng của những người láng giềng ngoại đạo.
2. Đức Chúa Trời hình thành (Sa 1:3-13)
Có một kiểu mẫu cho những hoạt động của Đức Chúa Trời suốt tuần lễ sáng tạo: Trước hết Ngài hình thành và sau đó Ngài làm cho đầy dẫy. Ngài tạo ra 3 phạm vi hoạt động: trời, đất và nước. Và sau đó Ngài làm đầy dẫy chúng với những dạng sự sống thích hợp.
• Ngày thứ nhất (Sa 1:3-5).
Đức Chúa Trời ra lệnh cho ánh sáng chiếu ra và phân cách ánh sáng với bóng tối.
Nhưng làm sao có thể có ánh sáng khi các vì sáng đến ngày thứ tư mới được đề cập đến? (c.14-19). Vì chúng ta không được cho biết rằng sự sáng này đến từ bất cứ vật sáng nào Đức Chúa Trời đã dựng nên, nó có thể đến từ chính Đức Chúa Trời là Sự Sáng (Gi 1:5) và mang lấy sự sáng vô tận mà không cần có sự giúp đỡ của mặt trời hay mặt trăng (Kh 22:5), vậy tại sao lại không thể có ánh sáng từ ban đầu trước khi các vật sáng được tạo nên? [17]
Như chúng ta biết, sự sống không thể tồn tại mà không có ánh sáng mặt trời. Phao-lô đã nhìn thấy trong hành động sáng tạo này công việc của Đức Chúa Trời trong sự sáng tạo mới, là sự cứu rỗi những kẻ hư mất. “Vì Đức Chúa Trời là Đấng đã ra lệnh cho sự sáng phải soi từ trong tối tăm, đã soi sáng trong lòng chúng tôi để ban ánh sáng của sự thông biết về vinh hiển Đức Chúa Trời nơi mặt Đức Chúa Giê-xu Christ” (IICo 4:6 NKJV). “Trong Ngài (Chúa Giê-xu) có sự sống, và sự sống là sự sáng của loài người” (Gi 1:4).
Trong Kinh Thánh, sự sáng có liên quan đến Đấng Christ (Gi 8:12), Lời Đức Chúa Trời (Thi 119:105, 130), dân sự Đức Chúa Trời (Mat 5:14-16 Eph 5:8), và phước hạnh của Đức Chúa Trời (Ch 4:18), còn sự tối tăm có liên quan đến Sa-tan (Lu 23:53; Eph 6:12), tội lỗi (Mat 6:22-23; Gi 3:19-21), sự chết (Giop 3:4-6, 9), sự ngu dốt thuộc linh (Gi 1:5) và sự xét đoán thiêng liêng (Mat 8:12).
Điều này giải thích lý do Đức Chúa Trời phân cách sự sáng với sự tối tăm, vì cả 2 không có chung điều gì. Dân sự Đức Chúa Trời phải “bước đi trong sự sáng” (IGi 1:5-10) vì “sự sáng có mối giao thông vào với sự tối chăng?” (IICo 6:14-16; Eph 5:1-14).
Ngay ngày đầu tiên của sự sáng tạo, Đức Chúa Trời đã thiết lập nguyên tắc về sự phân rẽ. Ngài không chỉ phân rẽ sự sáng với sự tối (Sa 1:4) và ngày với đêm (c.14), nhưng sau đó Ngài còn phân rẽ nước ở phía trên với nước ở phía dưới (c.6-8), và đất với nước (c.9-10). Qua Môi-se, Đức Chúa Trời đã ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên phân rẽ khỏi những dân tộc quanh họ (Xu 34:10-17; Phu 7:1-11) và khi họ vi phạm mệnh lệnh này, họ bị hoạn nạn. Dân sự Đức Chúa Trời ngày nay cần phải cẩn thận trong cách ăn ở của mình (Thi 1:1) và đừng bị ô uế bởi thế gian (Ro 12:1-2; Gia1:7, 4:4; IGi 2:15-17).
Vì Đức Chúa Trời là Đấng Sáng tạo, Ngài có quyền gọi mọi vật là gì Ngài muốn. Và vì vậy chúng ta có “ngày” và “đêm”. Từ “ngày” có thể chỉ về phần thời gian 24 giờ đồng hồ gồm có “buổi chiều tối và buổi mai” (Sa 1:5) [18] Đôi khi những người viết Kinh Thánh sử dụng “ngày” để mô tả một khoảng thời gian dài hơn trong đó Đức Chúa Trời thực hiện mục đích đặc biệt nào đó, chẳng hạn như “ngày của Đức Giê-hô-va” (Es 2:12) hoặc “ngày phán xét” (Mat 10:15).
Khi chúng ta nói về những điều thuộc linh, thật quan trọng để chúng ta sử dụng từ điển của Đức Chúa Trời cũng như từ ngữ của Ngài. Những từ ngữ mang những ý nghĩa riêng, và việc cho một ý nghĩa sai đối với một từ có thể dẫn đến rắc rối nghiêm trọng. Nó sẽ gây chết người đối với bệnh nhân nếu một thầy thuốc lẫn lộn “arsenic” với “aspirin” vì vậy những người giới y học rất cẩn thận để sử dụng danh từ chuyên môn chính xác.
“Từ vựng Cơ-đốc” thậm chí quan trọng hơn vì sự chết đời đời có thể là hậu quả của sự nhầm lẫn. Kinh Thánh giải thích và minh họa những từ như tội lỗi, ân điển, sự tha thứ, sự xưng công nghĩa và đức tin. Và thay đổi ý nghĩa của chúng là thay thế chân lý của Đức Chúa Trời bằng những sự dối trá. “Khốn thay cho kẻ gọi dữ là lành, gọi lành là dữ, lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối vật chi cay trở cho là ngọt, vật chi ngọt trở cho là cay” (Es 5:20).
• Ngày thứ nhì (Sa 1:6-8).
Đức Chúa Trời đặt một khoảng không giữa nước ở phía trên với nước ở phía trước và tạo ra “trời” cái mà chúng ta biết là “bầu trời”. Dường như nước này là một “tấm mền” hơi nước phủ lên khối sáng tạo ban đầu. Khi được phán cách với đất, nước ở phía dưới cuối cùng trở thành đại dương và biển, còn nước ở phía trên đóng một vai trò trong Cơn Nước Lụt thời Nô-ê (Sa 7:11-12 Sa 9:11-15).
Từ được dịch là “bầu trời” (khoảng không) nghĩa là “đập bẹt ra”. Trong Kinh Thánh, bầu trời đôi khi được đề cập như một cái vòm hay một vật che phủ, tuy nhiên, không chỗ nào Kinh Thánh ủng hộ ý niệm thần thoại ngoại đạo rằng bầu trời là loại lớp che phủ rắn chắc nào đó. Những vì sáng được đặt trong khoảng không này (Sa 1:14-17) và đó là nơi chim bay (c.20).
• Ngày thứ ba (c.9-13).
Đức Chúa Trời gom nước lại và làm cho đất khô xuất hiện, vì vậy tạo ra “đất” và “biển”. Những láng giềng ngoại đạo của Y-sơ-ra-ên tin mọi loại chuyện thần thoại về trời, đất, và biển, nhưng Môi-se cho biết rõ ràng Elohim, Đức Chúa Trời chân thật duy nhất, là Chúa của tất cả. Vì lần đầu tiên Đức Chúa Trời phán rằng điều Ngài đã làm là “tốt lành” (c.10). Sự sáng tạo của Đức Chúa Trời vẫn tốt lành, dù nó chịu khó nhọc vì tội lỗi (Ro 8:20-22) bị tàn phá và bị bóc lột bởi con người tội lỗi.
Đức Chúa Trời cũng khiến sự sống thực vật xuất hiện trên đất: cỏ, cỏ kết hột giống và các cây sinh quả. Đức Chúa Trời định rằng mỗi thứ sẽ sinh sôi “tuỳ theo loại” giúp tạo ra trật tự hợp lý trong thiên nhiên. Đức Chúa Trời đặt những giới hạn sinh sản cho cả thực vật và động vật (Sa 1:21) vì Ngài là Chúa của sự sáng tạo. Ở đây không có gợi ý gì về bất kỳ “sự tiến hóa” nào. Đức Chúa Trời chuẩn bị đất để loài người và loài vật ở, và loài cây cỏ để giúp cung cấp thực phẩm cho chúng. Lần thứ hai, Đức Chúa Trời phán rằng công việc của Ngài là tốt lành (c.12)
3. Đức Chúa Trời làm cho đầy dẫy (Sa 1:3-13) (Sa 1:24-27 Sa 2:7)
Đức Chúa Trời giờ đây tạo ra ba “khoảng trống” đặc biệt: đất, biển và khoảng không của bầu trời. Suốt 3 ngày sáng tạo, Ngài sẽ làm đầy dẫy những khoảng trống này.
• Ngày thứ tư (Sa 1:14-19).
Đức Chúa Trời đặt trong khoảng trống của bầu trời những thiên thể và định công việc của chúng: phân ra ngày với đêm và cung cấp “những dấu hiệu” để đánh dấu ngày, năm và mùa. Sự sáng đã xuất hiện vào ngày thứ nhất, nhưng giờ đây nó được tập trung trong những thiên thể này.
Vì những quy tắc tôn giáo của mình, dân Do-thái cần biết thời gian và mùa, khi nào ngày Sa-bát đến và chấm dứt, khi nào là một tháng mới và khi nào là thời gian để giữ những kỳ lễ hàng năm (Le 26:1-46). Trước khi có sự phát minh đồng hồ và la bàn, những hoạt động của đời sống con người được ràng buộc chặt chẽ với những chu kỳ của thiên nhiên, và tàu bè tùy thuộc vào những ngôi sao để hướng dẫn chúng. Y-sơ-ra-ên sẽ cần sự giúp đỡ của các thiên thể để hướng dẫn những hoạt động của họ, và Đức Chúa Trời đôi khi sẽ sử dụng những dấu hiệu trên trời để phán với dân sự Ngài trên đất. [19]
Y-sơ-ra-ên được ra lệnh không nên bắt chước những láng giềng ngoại đạo của họ bằng cách thờ phượng những thiên thể (Xu 20:1-6 Phu 4:15-19 Phu 17:2-7). Họ phải thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật Đấng đã dựng nên “thiên binh”, đội quân trên trời làm theo mệnh lệnh của Ngài. Tuy nhiên, dân Do-thái đã không vâng theo điều răn của Đức Chúa Trời (Gie 8:2 Gie 19:13 Exe 8:16 So 1:4-6) và chịu nhiều hoạn nạn về tội lỗi của họ.
Người xưa bị mê hoặc bởi mặt trăng với các ngôi sao cùng những chuyển động của mặt trời với các hành tinh, và đó chỉ là một bước ngắn từ sự thán phục đến sự thờ phượng. Ralph Waldo Emerson đã viết: “Nếu các ngôi sao phải xuất hiện một đêm trong một ngàn năm, làm sao con người sẽ tin, tôn thờ và duy trì nhiều thế hệ kỷ niệm về thành của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ…” [20]
• Ngày thứ năm (Sa 1:20-23).
Đức Chúa Trời đã tạo ra bầu trời và nước, và giờ đây Ngài làm đầy dẫy chúng với những sinh vật. Ngài tạo ra loài chim để bay trên bầu trời và sinh vật dưới nước để nô đùa dưới biển. “Hỡi Đức Giê-hô-va công việc Ngài nhiều biết bao! Ngài đã tạo nên hết thảy trong sự khôn ngoan. Trái đất đầy dẫy tài sản Ngài. Biển lớn và rộng này, trong đó là vô số các vật, những sinh vật nhỏ và lớn” (Thi 104:24-25 NKJV).
Một yếu tố mới được thêm vào công việc của Đức Chúa Trời vào ngày này: Ngài không chỉ gọi công việc Ngài là “tốt lành”, Ngài còn ban phước cho những tạo vật Ngài đã dựng nên. Đây là lần đầu tiên từ “ban phước” được sử dụng trong Kinh Thánh.
Sự ban phước của Đức Chúa Trời giúp các tạo vật và loài chim có thể sinh sản đầy dẫy và hưởng mọi điều Ngài đã làm cho chúng. Đức Chúa Trời cũng ban phước cho người nam và người nữ đầu tiên (Sa 1:28 Sa 5:2), ngày Sa-bát (Sa 2:3) và Nô-ê với gia đình ông (Sa 9:2). Sau sự sáng tạo, có thể dịp quan trọng nhất cho sự ban phước của Đức Chúa Trời là khi Ngài ban giao-ước nhân từ của Ngài cho Áp-ra-ham và con cháu ông (Sa 12:1-3). Phước hạnh đó đã đến với dân sự Đức Chúa Trời ngày nay (Ga 3:1-9).
• Ngày thứ sáu (c.24-31 Sa 2:7).
Đức Chúa Trời đã tạo nên bầu trời và làm đầy dẫy nó với những thiên thể phát sáng cùng các loài chim bay. Ngài đã tạo nên biển và làm đầy dẫy nước với nhiều sinh vật dưới nước. Sự sáng tạo đạt đến đỉnh điểm của nó khi vào ngày thứ 6 Ngài làm đầy dẫy đất bằng sự sống của loài vật và sau đó dựng nên người nam đầu tiên, là người cùng với vợ mình sẽ có quyền quản trị trên đất và những sinh vật của đất.
Giống như người nam đầu tiên, các loài vật đã được tạo nên từ bụi đất (Sa 2:7) điều này giải thích vì sao thân xác của loài người lẫn loài vật trở về với bụi đất sau khi chết (Tr 3:19-20). Tuy nhiên, loài người và loài vật khác nhau. Cho dù một số loài vật có vẻ thông minh ra sao, hay chúng được dạy dỗ ở mức độ nào, loài vật không được phú cho “hình ảnh của Đức Chúa Trời” như loài người. [21]
- Sự sáng tạo người nam đầu tiên được xem như một cơ hội rất đặc biệt, vì có một “cuộc hội đàm”trước sự kiện này. “Chúng ta hãy làm nên loài người như hình chúng ta” nghe như kết luận của một suy nghĩ thận trọng thiêng liêng trong vòng các Ngôi của Đức Chúa Trời. [22] Đức Chúa Trời không thể nói với các thiên sứ về những kế hoạch của Ngài vì các thiên sứ không được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (“hình Ta”) và các thiên sứ không có liên quan gì với sự sáng tạo A-đam.
“Đức Giê-hô-va nắn nên người từ bụi đất, hà sanh khí vào lỗ mũi người, và người trở nên một loài sanh linh” (Sa 2:7). Động từ “nắn nên” gợi ý người thợ gốm thực hiện một tác phẩm nghệ thuật bằng đôi tay khéo léo của mình. Thân thể loài người thật sự là một tác phẩm nghệ thuật, một cơ quan phức tạp đến kỳ diệu mà chỉ có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời mới có thể sắp đặt và quyền năng của Đức Chúa Trời tạo nên.
Thể chất cho thân xác của A-đam đến từ đất, vì tên “A-đam” nghĩa là “được đem ra từ đất”, nhưng sự sống A-đam có đến từ Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời là thần và không có phổi để thở. Nhận định này là điều mà các nhà thần học gọi là một “Thần nhân đồng hình thuyết” (thuyết hình người), là việc sử dụng đặc điểm của loài người để giải thích một công việc hay thuộc tính thiên thượng. [23]
Nhiều sự thật quan trọng phải được để ý về nguồn gốc của loài người. Trước hết, chúng ta được Đức Chúa Trời dựng nên. Chúng ta không phải là những sản phẩm của một sự cố ngân hà nào đó, cũng không phải là những kẻ chiếm giữ thanh ngang cao nhất của chiếc thang tiến hoá. Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta, nghĩa là chúng ta là những tạo vật và hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài. “Vì trong Ngài, chúng ta được sống động và có” (Cong 17:28). Lu 3:38 gọi A-đam là “con Đức Chúa Trời”.
- Thứ hai, chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sa 2:26-27), không giống như các thiên sứ và loài vật, con người có thể có một mối liên hệ đặc biệt với Đức Chúa Trời. Ngài không chỉ ban cho chúng ta nhân cách, tâm trí để suy nghĩ, những cảm xúc để cảm nhận, và ý chỉ để thực hiện những quyết định. Ngài còn ban cho chúng ta một bản chất thuộc linh bên trong giúp chúng ta có thể biết Ngài và thờ phượng Ngài.
Hình ảnh Đức Chúa Trời trong người nam và người nữ đã bị làm hư hỏng bởi tội lỗi (Eph 4:18-19), nhưng bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ và sự đầu phục công việc của Thánh Linh, tín hữu có thể có bản chất thiêng liêng được đổi mới trong họ (IIPhi 1:4; Eph 4:20-24; Col 3:9-10; Ro 12:2; IICo 3:18). Một ngày nào đó khi chúng ta gặp Chúa Giê-xu, mọi con cái Đức Chúa Trời sẽ dự phần trong hình ảnh vinh hiển của Đấng Christ (IGi 3:1-3; Ro 8:29; ICo 15:49). [24]
- Thứ ba, chúng ta được dựng nên để có quyền quản trị đất (c.26-28). A-đam và Ê-va là những người đầu tiên quản trị sự sáng tạo của Đức Chúa Trời (Thi 8:6-8). “Trời, thậm chí các tầng trời đều thuộc về Đức Giê-hô-va, nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người” (Thi 115:116 NKJV). Nhưng khi A-đam tin lời giả dối của Sa-tan và ăn trái cấm, ông đánh mất vương quyền, và giờ đây tội lỗi cùng sự chết cai trị đất (Ro 5:12-21).
Khi Chúa Giê-xu Christ, A-đam sau cùng (ICo 15:45) đến trần gian, Ngài thực thi quyền tể trị mà A-đam đầu tiên đã đánh mất. Ngài bày tỏ rằng Ngài có quyền trên loài cá (Lu 5:1-7 Gi 21:1-6 Mat 17:24-27), loài chim (Mat 10:29) và loài thú (Mac 1:13 Mac 11:3-7) khi Ngài chết trên thập tự giá, Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để giờ đây ân điển có thể trị vì (Ro 5:21) và dân sự Đức Chúa Trời có thể “trị vì trong sự sống” nhờ Chúa Giê-xu Christ (c.17). Ngày nào đó khi Ngài tái lâm, Chúa Giê-xu sẽ phục hồi cho chính Ngài quyền thống trị đã bị đánh mất vì A-đam (He 2:5).
Cả A-đam và loài vật đều là những loài ăn rau quả cho đến sau Cơn Nước Lụt (Sa 1:29-30 Sa 9:1-4 Es 11:7 cho thấy loài thú ăn thịt sẽ trở lại với thức ăn này khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm và thiết lập Vương quốc Ngài trên đất.
- Thứ tư, Đấng sáng tạo kỳ diệu này xứng đáng được sự thờ phượng, ca ngợi và vâng phục của chúng ta. Khi Đức Chúa Trời xem xét sự sáng tạo của Ngài, Ngài thấy điều đó “rất tốt lành” (Sa 1:31). Trái với điều mà một số tôn giáo và triết học dạy, sự sáng tạo không phải là điều xấu và hưởng những sự ban cho tốt lành mà Đức Chúa Trời chia sẻ với chúng ta không phải là một tội lỗi (ITi 6:17).
Đa-vít xem xét sự sáng tạo của Đức Chúa Trời và hỏi: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi mà Chúa thăm viếng nó?” (Thi 8:4). Trái đất chỉ là một hành tinh nhỏ xíu quay trong một dải ngân hà bao la, nhưng “đất thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi 24:1). Đó là một hành tinh được Ngài chọn để thăm viếng và để cứu chuộc.
Các tạo vật trên trời ở trước ngôi Đức Chúa Trời ngợi khen Ngài vì sự sáng tạo của Ngài, và chúng ta cũng phải làm như vậy. “Lạy Chúa, Chúa đáng được vinh hiển, tôn quí và quyền lực, vì Chúa đã dựng nên muôn vật, và ấy là vì ý Chúa muốn mà muôn vật mới có và đã được được dựng nên” (Kh 4:11).
Khi chúng ta cúi xuống trước bữa ăn để cảm tạ Ngài vì thức ăn Ngài cung cấp, khi chúng ta nhìn thấy ánh mặt trời cùng cơn mưa được ban cho chúng ta miễn phí, và khi chúng ta quan sát tiến trình của các mùa, chúng ta phải dâng lòng mình để ca ngợi Đấng sáng tạo vì sự thành tín và rời rộng của Ngài.
- Cuối cùng, chúng ta phải là những quản gia tốt của sự sáng tạo. Điều này có nghĩa chúng ta phải tôn trọng đồng loại là những người cũng được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời (Sa 9:6). Điều này nghĩa là đánh giá cao những sự ban cho chúng ta trong sự sáng tạo chớ không phải lãng phí hay bóc lột chúng.
Chúng ta sẽ nhìn vào những vấn đề này trong chi tiết lớn hơn ở những bài học khác, nhưng đáng chú ý rằng chúng ta không thể tôn trọng Đức Chúa Trời của sự sáng tạo nếu chúng ta không tôn trọng sự sáng tạo của Ngài. Chúng ta phải tiếp nhận sự sáng tạo như một món quà, bảo vệ nó như một của báu, và đầu tư nó vì vinh hiển của Đức Chúa Trời, Isaac Watts đã nói điều đó một cách tốt đẹp:
Tôi ca ngợi sự nhân từ của Chúa
Đã làm đầy dẫy đất thức ăn;
Ngài đã nắn nên các tạo vật bằng Lời Ngài,
Và rồi công bố chúng là tốt lành.
Hỡi Chúa, những sự kỳ diệu của Ngài được tỏ ra dường bao,
Bất cứ nơi đâu tôi hướng mắt mình đến;
Nếu tôi xem xét đất mình bước lên
Hoặc nhìn chăm lên bầu trời.
“Đức Giê-hô-va là tốt lành cho tất cả, và sự thương xót dịu dàng của Ngài giáng trên mọi công việc Ngài” (Thi 145:9).
Sa 1:14-27 xem giải nghĩa Sa 3-13
3. NHỮNG VIỆC ĐẦU TIÊN TRƯỚC HẾT (Sa 2:1-25)
Nếu bạn có thể hiện diện để chứng kiến bất cứ sự kiện nào trong lịch sử Kinh Thánh, bạn sẽ chọn sự kiện nào?
Tôi từng đặt câu hỏi đó với nhiều lãnh đạo Cơ-đốc nổi tiếng, và những câu trả lời đều khác nhau: Sự đóng đinh Đấng Christ trên thập tự giá, Sự phục sinh của Đấng Christ, Cơn Nước Lụt, Y-sơ-ra-ên đi qua Biển Đỏ và thậm chí Đa-vít giết Gô-li-át. Nhưng một người trong số họ nói: “Tôi thích có mặt khi Đức Chúa Trời hoàn tất sự sáng tạo của Ngài. Đó chắc hẳn là một cảnh tượng đáng kinh ngạc!”
Một số khoa học gia tuyên bố rằng nếu chúng ta có thể du lịch trong không gian đủ nhanh và đủ xa, chúng ta có thể “bắt kịp” những tia sáng từ quá khứ và nhìn xem lịch sử mở ra trước mắt chúng ta. Có lẽ Chúa sẽ cho phép chúng ta làm điều đó khi chúng ta đến Thiên Đàng. Tôi hy vọng như vậy, vì tôi muốn thấy những sự kiện lạ thường được Môi-se mô tả trong Sa 1:1-2:25.
Sa 2:1-25 giới thiệu với chúng ta một chuỗi những “việc đầu tiên” quan trọng đối với chúng ta nếu chúng ta muốn xây dựng đời sống mình theo những nền tảng Đức Chúa Trời đã đặt trong vũ trụ của Ngài.
1. Ngày Sa-bát đầu tiên (Sa 2:1-3)
Từ “Sa-bát” không được tìm thấy trong phân đoạn này, nhưng Môi-se đang viết về ngày Sa-bát ngày thứ 7 của tuần lễ. Nhóm từ “ngày thứ 7” được đề cập 3 lần trong các câu 2-3. “Sa-bát” đến từ một từ Hê-bơ-rơ “Sabbat” nghĩa là “ngưng làm việc, nghỉ ngơi” và có liên hệ với từ Hê-bơ-rơ nói về số “bảy” [25] Chúng ta cần phải xem xét 3 ngày Sa-bát khác nhau được tìm thấy trong Kinh Thánh.
Ngày Sa-bát riêng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Sa 2:1-4). Ngày Sa-bát đầu tiên này đã xảy ra không phải vì Đức Chúa Trời mệt mỏi bởi công việc sáng tạo của Ngài, vì Đức Chúa Trời không mệt mỏi (Es 40:28). Đức Chúa Trời biệt riêng ngày thứ 7 vì “công việc sáng tạo của Ngài đã hoàn tất và Ngài đã làm thật rất tốt lành” (Sa 1:31).
Có 3 điều đặc trưng về ngày thứ bảy này của tuần lễ sáng tạo.
- Thứ nhất, không có sự đề cập nào về “buổi chiều và buổi mai” gợi ý rằng sự nghỉ ngơi ngày Sa-bát của Đức Chúa Trời sẽ không có kết thúc. Tiếc thay, tội lỗi loài người đã làm gián đoạn sự nghỉ ngơi của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời phải tìm kiếm A-đam với Ê-va và đối phó với họ (Sa 3:8-9; Gi 5:9, 17).
- Thứ hai, không có ghi chép nào cho thấy Ngài ban phước bất kỳ ngày nào trong sáu ngày kia, nhưng Ngài thật đã ban phước cho ngày thứ 7 (Sa 2:3). Khi ban phước cho ngày đó, Ngài biến nó thành một phước hạnh.
- Thứ ba, khi ban phước cho ngày thứ bảy, Đức Chúa Trời thánh hóa ngày ấy (c.3) nghĩa là Ngài biệt riêng ngày ấy vì những mục đích đặc biệt của Ngài. [26]
Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của thời gian cũng như Chúa của sự vĩnh hằng. Chính Ngài là Đấng đã tạo nên thời gian và thiết lập sự xoay vòng của các hành tinh cùng quỹ đạo của chúng quanh mặt trời. Chính Ngài là Đấng đã đánh dấu tuần lễ 7 ngày và biệt riêng một ngày cho chính Ngài.
Mọi vật sống Ngài đã dựng nên đều sống từng ngày một ngoại trừ con người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời! Con người đổ xô quanh “cuộc ganh đua quyết liệt” điên cuồng của đời sống, luôn luôn lập kế hoạch để nghỉ ngơi nhưng dường như không bao giờ thực hiện được kế hoạch của mình.
Người ta nói rằng hầu hết con người trong thế giới chúng ta đều đang “bị đóng đinh trên thập tự giữa 2 tên cướp”: những hối hận của hôm qua và những lo lắng về ngày mai. Đó là lý do vì sao họ không thể vui hưởng hôm nay.
Nhờ cậy vào những phương tiện vận chuyển và thông tin hiện đại, chúng ta tìm cách sống 2 hoặc 3 ngày cùng một lúc, chỉ để liều lĩnh va vào chu kỳ sự sáng tạo của vũ trụ, và kết quả đầy đau đớn và thường tai hại. Đức Chúa Trời đã làm nhiều việc kỳ diệu suốt 6 ngày của sự sáng tạo, nhưng đỉnh điểm của tuần lễ sáng tạo là “sự nghỉ ngơi” của Đức Chúa Trời sau công việc của Ngài. Như chúng ta sẽ thấy, Đức Chúa Trời đã thánh hóa công việc cũng như sự nghỉ ngơi, nhưng chính sự nghỉ ngơi dường như là nhu cầu lớn nhất trong lòng người ngày nay.
Augustine đã đúng khi ông viết: “Ngài đã tạo nên chúng tôi vì chính Ngài và lòng chúng tôi không yên nghỉ cho đến khi chúng tôi yên nghỉ trong Ngài.”
Ngày Sa-bát quốc gia của Y-sơ-ra-ên. Không có đề cập nào về ngày Sa-bát trong Kinh Thánh cho đến Xu 16:23 khi Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên những quy tắc về việc thâu lượm ma-na hằng ngày. Từ cách điều răn này được phán ra, nó gợi ý rằng dân Do-thái đã biết tầm quan trọng của ngày Sa-bát và tuân giữ nó như một ngày nghỉ ngơi. Khi ban ngày Sa-bát cho Y-sơ-ra-ên, Chúa liên hệ ngày đặc biệt này với những sự kiện khác trong thánh sử.
• Trước hết, khi Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên luật pháp tại núi Si-na-i, ngày Sa-bát được liên hệ với sự sáng tạo (Xu 20:8-11). Đức Chúa Trời là Đấng ban cho rời rộng mọi điều họ cần, và họ phải nhận biết Ngài bằng cách thờ phượng Đấng sáng tạo chớ không phải sự sáng tạo. Họ không nên bắt chước những dân tộc ngoại đạo quanh họ (Ro 1:18).
Môi-se thậm chí đề cập đến sự nghỉ ngơi hằng tuần mà các tôi tớ và gia súc cần có (Xu 23:12), vì vậy giữ ngày Sa-bát là một hành động nhân đạo cũng như một nhiệm vụ tôn giáo. Chúa đã ra lệnh cho dân Ngài kỷ niệm mỗi năm thứ 7 làm một năm Sa-bát và mỗi năm thứ 50 làm một năm Hân Hỉ. Điều này sẽ cho phép đất hưởng những ngày Sa-bát và được cải tạo (Le 25:1-55).
Ngày Sa-bát không chỉ có liên hệ với sự sáng tạo, mà ở cuối phần ban Luật pháp, nó được ban cho ý nghĩa đặc biệt như một dấu hiệu giữa Y-sơ-ra-ên và Đức Giê-hô-va (Xu 31:12-17 Ne 9:13-15). “Các ngươi chắc chắn hãy giữ ngày Sa-bát, vì là một dấu giữa ta và các ngươi, trải qua mọi đời, để các ngươi có thể biết rằng ta là Đức Giê-hô-va, làm cho các ngươi nên thánh” (Xu 31:13 NKJV). Không có chứng cớ nào cho thấy Đức Chúa Trời đòi hỏi bất cứ dân tộc nào khác giữ ngày Sa-bát, vì chỉ dân Do-thái là tuyển dân của Đức Chúa Trời.
Có một sự liên hệ thứ 3 giữa ngày Sa-bát với dân Do-thái. Khi Môi-se nhắc lại Luật pháp cho thế hệ mới về việc đi vào Ca-na-an, ông liên hệ ngày Sa-bát với sự giải cứu họ khỏi Ai-cập (Phu 5:12-15).
Ngày Sa-bát hằng tuần và lễ Vượt qua hằng năm đều sẽ nhắc nhở Y-sơ-ra-ên về sự thương xót và quyền năng Đức Chúa Trời trong việc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Hơn nữa, ngày nghỉ ngơi hằng tuần này cũng sẽ là một sự nếm trước về sự nghỉ ngơi mà họ sẽ hưởng trong Đất Hứa (Phu 4:37-38). Trong sách Hê-bơ-rơ, ý niệm này về một “sự nghỉ ngơi được hứa ban” được ứng dụng cho các tín hữu hôm nay.
Dân tộc Y-sơ-ra-ên cuối cùng đã suy sụp về thuộc linh và không tuân giữ Luật pháp của Đức Chúa Trời, kể cả luật ngày Sa-bát, và họ cuối cùng bị trừng phạt vì sự bất tuân của họ (IISu 36:14-21; Exe 20:1; Es 58:13-14; Gie 17:19-27). Vương quốc phía Bắc của Y-sơ-ra-ên đã bị A-sy-ri nuốt mất, và Vương quốc phía Nam của Giu-đa đã bị Ba-by-lôn lưu đày.
Vào thời điểm chức vụ của Chúa Giê-xu, các thầy thông giáo cùng người Pha-ri-si thêm vào Lời của Đức Chúa Trời những lời truyền khẩu của họ và biến Luật pháp nói chung với ngày Sa-bát nói riêng thành cái ách tôn giáo. Một số điều cấm kỵ được tìm thấy trong luật Môi-se (Xu 16:29; Xu 35:2-3; Dan 15:32-36) đã được triển khai thành vô số quy tắc. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu đã bác bỏ những truyền khẩu của họ và thậm chí thực hiện những phép lạ vào ngày Sa-bát! Ngài phán: “Vì loài người mà lập ngày Sa-bát, chớ chẳng phải vì ngày Sa-bát mà dựng nên loài người” (Mac 2:27).
Ngày Sa-bát thuộc linh của tín hữu Cơ-đốc. He 4:1-11 kết hợp sự nghỉ ngơi ở sự sáng tạo của Đức Chúa Trời (c.4) với sự nghỉ ngơi ở Ca-na-an của Y-sơ-ra-ên (c.8) để dạy chúng ta về sự nghỉ ngơi thuộc linh mà tín hữu có trong Đấng Christ (c.9-11).
Khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ, bạn bước vào “sự sáng tạo mới” (IICo 5:17) và vào sự yên nghỉ của Ngài về thuộc linh (Mat 11:28-30). Bạn cũng bước vào di sản thuộc linh Ngài ban cho tất cả những ai tin nơi Ngài (Cong 20:32; Eph 1:18; Co 1:12). Tín hữu không ở dưới ách nô lệ để giữ Luật pháp (Ga 5:1), vì Thánh Linh đã làm trọn trong chúng ta sự công bình của Luật pháp khi chúng ta đầu phục Ngài (Ro 8:1-3).
Những tín hữu Cơ-đốc đầu tiên đã nhóm lại hằng ngày để thờ phượng và thông công (Cong 2:46), nhưng họ cũng nhóm nhau vào ngày đầu tiên, ngày Đấng Christ sống lại từ cõi chết (Gi 20:19, 26; Cong 20:7; ICo 16:2). Ngày đầu tiên được biết là “ngày của Chúa” (Kh 1:10) và biến ngày của Chúa thành một “ngày Sa-bát Cơ-đốc” là làm lẫn lộn điều mà 2 ngày này đại diện trong kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Ngày thứ 7 trong tuần, ngày Sa-bát của Do-thái, tượng trưng cho sự sáng tạo cũ và giao-ước của luật pháp: trước hết bạn làm việc, sau đó bạn nghỉ ngơi. Ngài đầu tuần, ngày của Chúa, tượng trưng cho sự sáng tạo mới và giao ước của Ân điển: trước hết bạn tin nơi Đấng Christ và tìm thấy sự yên nghỉ, sau đó họ làm việc (Eph 2:8-10). Trong sự sáng tạo mới, Thánh Linh Đức Chúa Trời giúp chúng ta có thể khiến cả tuần lễ trở thành một kinh nghiệm về sự thờ phượng, ngợi khen và hầu việc vì vinh hiển Đức Chúa Trời.
Luật Sa-bát Do-thái đã được Đấng Christ làm trọn trên thập tự giá và không còn trói buộc trên dân sự Đức Chúa Trời (Ga 4:1-11; Co 2:16-17). Tuy nhiên, một số tín hữu có thể quyết định tôn trọng ngày Sa-bát “như đối với Chúa và Cơ-đốc nhân không nên xét đoán hay lên án nhau trong vấn đề này.” Khi những người tốt lành và tin kính bất đồng về những vấn đề lương tâm, họ phải thực hành tình yêu cùng sự chấp nhận lẫn nhau và cho nhau sự tự do (Ro 14:1-15:7).
“Vì vậy, chớ có ai xét đoán anh em về của ăn uống (những luật ăn kiêng) hoặc ngày lễ, hoặc ngày mặt trăng mới (những kỳ lễ của Do-thái) hoặc ngày Sa-bát” (Co 2:16 NKJV).
2. Gia đình đầu tiên (Sa 2:4-14)
Một số học giả Cựu-ước đã tuyên bố rằng phần Sáng-thế ký đoạn 2 này là một câu chuyện thứ hai về sự sáng tạo được viết bởi một tác giả khác có sứ điệp mâu thuẫn với điều được tìm thấy trong chương 1.
Lý thuyết đó không được đề xướng rộng rãi ngày nay, vì trong những câu này, Môi-se kể câu chuyện sáng tạo tương tự nhưng thêm vào những chi tiết chúng ta cần biết để hiểu những sự kiện xảy ra sau đó. Sa 2:4 là nhận định đầu tiên trong 11 nhận định về “sự phát sinh” đánh dấu tiến trình câu chuyện Môi-se viết trong sách Sáng-thế ký (xem chương 1, phân đoạn 2).
• A-đam người làm việc.
Nhìn lại ngày thứ 3 (Sa 1:9-13), Môi-se cho biết thể nào Đức Chúa Trời đã đem lại thực vật và cung cấp “sương mù” để tưới thực vật. Bạn sẽ không bắt gặp mưa trong Sáng-thế ký cho đến thời Nước Lụt. Thật thú vị rằng Đức Chúa Trời cần ai đó để cày cấy đất và giúp sản sinh thức ăn cần thiết. Loài người là những quản gia về những phước hạnh của sự sáng tạo của Đức Chúa Trời và phải sử dụng những sự ban cho của Ngài như Ngài đã truyền bảo. Đức Chúa Trời và con người đồng công nhau, vì Đức Chúa Trời đã đặt A-đam trong vườn để làm công việc của Ngài trong việc cày cấy và chăm sóc đất (c.15).
Một người về hưu sống trong một thành phố mệt mỏi khi nhìn thấy một lô đất xấu bỏ hoang khi ông tản bộ mỗi ngày, vì vậy ông xin phép chủ đất để trồng vườn ở đó, phải mất nhiều ngày để kéo đi rác rưởi chất đống và thậm chí mất nhiều thời gian hơn để chuẩn bị cho đất, nhưng người đàn ông làm việc chăm chỉ. Năm sau, lô đất rạng rỡ sự sống và đẹp đẽ, mọi người đều chú ý.
Một vị khách đã nói khi ông trầm trồ nhìn ngắm các bông hoa và phong cảnh: “Đức Chúa Trời chắc chắn đã ban cho ông một phần bất động sản đẹp đẽ.”
Người làm vườn bận rộn đáp lại: “Vâng, đúng vậy, nhưng lẽ ra bạn phải thấy bất động sản này khi chỉ một mình Đức Chúa Trời sở hữu nó.”
Lời đáp này là một lời đáp khôn ngoan và không hề thiếu tôn kính. Chính Đức Chúa Trời Đấng chỉ định mục đích - một khu vườn xinh đẹp - cũng chỉ định phương tiện cho mục đích ai đó để làm công việc. Xét cho cùng “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia 2:26) và không có số lượng cầu nguyện hay bài học Kinh Thánh nào có thể chiếm chỗ của một người làm vườn cày đất, gieo giống, tưới cây và nhổ cỏ.
“Chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời” (ICo 3:9).
Công việc không phải là một sự rủa sả, Nó là một cơ hội để sử dụng những khả năng cùng cơ hội của chúng ta trong việc hợp tác với Đức Chúa Trời và làm những quản gia trung tín về sự sáng tạo của Ngài. Sau khi con người phạm tội, công việc đã trở nên sự khó nhọc (Sa 3:17-19), nhưng đó không phải là ý định ban đầu của Đức Chúa Trời.
Chúng ta đều có những khả năng và cơ hội khác nhau, và chúng ta phải khám phá điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm với đời sống chúng ta trên thế gian này, vì ích lợi của người khác và vinh hiển của Đức Chúa Trời. Một ngày nào đó, chúng ta muốn mình có thể đứng trước mặt Đức Chúa Trời và đồng thanh với Chúa Giê-xu: “Con đã tôn vinh Cha trên đất. Con đã làm xong công việc Cha giao cho Con làm” (Gi 17:4 NKJV).
• A-đam người tá điền.
Đức Chúa Trời lập vườn của Ngài “ở hướng Đông tại Ê-đen” (Sa 2:8). “Ê-đen” nghĩa là “sự sung sướng” hoặc “nơi có nhiều nước” và gợi ý rằng khu vườn này là một lạc viên từ tay Đức Chúa Trời. Lịch sử Kinh Thánh bắt đầu bằng một khu vườn xinh đẹp nơi con người đã phạm tội, nhưng câu chuyện kết thúc với một “thành vườn” (Kh 21:1-22:21) nơi không có tội lỗi nào. Điều gì đã đem đến sự thay đổi? Một khu vưòn thứ 3, Ghết-sê-ma-nê, nơi Chúa Giê-xu đã đầu phục ý muốn Cha và đi đến chỗ chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi của thế gian.
Chúng ta không có thông tin nào về sông Bi-sôn hay sông Ghi-hôn; Mặc dù sông Hi-đê-ke (Tigris) và sông Ơ-phơ-rát quen thuộc đối với chúng ta, chúng ta vẫn không có đủ dữ kiện để xác định vị trí chính xác của vườn Ê-đen. Vị trí của vùng đất Ha-vi-la cũng không chắc chắn, một số người đặt nó ở Ac-mê-ni-a, những người khác đặt nó ở Mê-sô-bô-ta-mi. Bản dịch King James nhận diện vùng đất Cu-sơ là Ê-thi-ô-pi, nhưng sự giải thích này nói chung không được chấp nhận ngày nay. May thay, không cần thiết để nắm vững địa lý ngày xưa để hiểu những bài học thuộc linh của những chương đầu này trong Sáng-thế ký.
Trong khu vườn xinh đẹp này, Đức Chúa Trời đã cung cấp sự dư dật và sự xinh đẹp. A-đam và Ê-va có thực phẩm để ăn và vui hưởng các công trình do tay Chúa làm nên. Nhưng nếu tội lỗi không bước vào khu vườn, thì hạnh phúc của họ đã không bị phá hỏng.
3. Giao ước đầu tiên (Sa 2:16-17)
Một giao ước là một sự thỏa thuận ràng buộc giữa 2 hay nhiều bên để điều khiển mối liên hệ của họ. [27] Từ “ra lệnh” được giới thiệu ở thời điểm này vì chính Đức Chúa Trời là Đấng lập những điều khoản của hiệp ước. Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo và loài người là tạo vật, một “tá điền hoàng gia” trong thế giới kỳ diệu của Đức Chúa Trời, vì vậy Đức Chúa Trời có quyền bảo con người điều con người có thể và không thể làm.
Đức Chúa Trời không yêu cầu lời khuyên của A-đam, Ngài chỉ ban cho ông điều răn của Ngài.
Đức Chúa Trời đã ban vinh dự lớn và và đặc quyền cho A-đam trong việc khiến ông trở thành quan nhiếp chính của Ngài trên đất (Sa 1:28), nhưng trách nhiệm luôn đến cùng với đặc quyền. Chính Lời Đức Chúa Trời đã hình thành vũ trụ cũng bày tỏ tình yêu với ý muốn của Đức Chúa Trời cho A-đam với Ê-va và con cháu họ (Thi 33:11).
Sự vâng theo Lời này sẽ giữ họ trong phạm vi mối giao thông và sự chấp nhận của Đức Chúa Trời. Mọi mệnh lệnh của Đức Chúa Trời đều là những mệnh lệnh tốt lành và đem lại những điều tốt lành cho những ai vâng theo (Thi 119:39; Ch 6:20-23). “Điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề” (IGi 5:3).
Đức Chúa Trời đã đặt 2 cây đặc biệt giữa vườn: Cây sự sống với cây biết điều thiện và điều ác (Sa 2:9, 17; Sa 3:3, 22, 24). Ăn trái cây sự sống sẽ được sự sống đời đời (c.22). Ăn trái cây thứ 2 sẽ được sự hiểu biết đầy kinh nghiệm về điều thiện và điều ác, nhưng nó sẽ đem lại sự chết (Sa 2:17) [28]
Vì chưa bao giờ kinh nghiệm điều ác, A-đam và Ê-va giống như những đứa trẻ ngây thơ (Phu 1:39; Es 7:15-16). Khi họ bất tuân Đức Chúa Trời, họ trở nên giống Ngài trong việc có thể phân biệt giữa điều thiện và điều ác, nhưng họ trở nên không giống Ngài khi họ đánh mất sự vô tội của mình và cuối cùng phải chết.
Nhưng tại sao Đức Chúa Trời phải thử nghiệm A-đam và Ê-va? Có thể có nhiều câu trả lời cho câu hỏi đó, nhưng một điều chắc chắn là: Đức Chúa Trời muốn con người yêu mến và vâng phục Ngài cách tự do và tự nguyện chớ không phải vì họ được lập chương trình như những rô-bốt phải vâng lời.
Theo một ý nghĩa nào đó, Đức Chúa Trời “liều lĩnh” khi Ngài dựng nên A-đam cùng Ê-va theo hình ảnh của Ngài và ban cho họ đặc quyền lựa chọn, nhưng đây là cách Ngài định cho họ để học biết về sự tự do và sự vâng lời. Một trong những lẽ thật cơ bản của đời sống đó là sự vâng lời đem đến phước hạnh và sự bất tuân đem đến sự phán xét.
4. Hôn nhân đầu tiên (Sa 2:19-25)
Vào cuối ngày thứ 6 của sự sáng tạo, Đức Chúa Trời xem xét mọi vật Ngài đã dựng nên và tuyên bố điều đó “rất tốt lành” (Sa 1:31). Nhưng giờ đây Đức Chúa Trời phán rằng có điều gì đó trong thế giới kỳ diệu của Ngài không tốt lành: loài người ở một mình. Thật ra trong bản văn Hê-bơ-rơ, nhóm từ “không tốt” ở đầu lời nhận định của Chúa trong Sa 2:18.
Điều gì “không tốt” về tình trạng cô đơn của con người? Xét cho cùng, A-đam có thể giao thông với Đức Chúa Trời, hưởng vẻ đẹp của khu vườn và ăn trái của nó, thực hiện công việc hằng ngày của mình và thậm chí chơi đùa với các loài vật. Ông có thể muốn gì hơn? Đức Chúa Trời biết điều A-đam cần: “Một kẻ giúp đỡ thích hợp cho nó” (c.18 NIV). Không có người giúp đỡ nào như thế giữa vòng loài vật, vì vậy Đức Chúa Trời dựng nên người nữ đầu tiên và giới thiệu nàng với người nam với tư cách vợ của ông, người bạn, người giúp đỡ. Nàng là món quà tình yêu đặc biệt của Đức Chúa Trời cho A-đam (Sa 3:12).
• Giá trị của người nữ (Sa 2:18-22).
Người nữ chẳng hề là một “tạo vật kém hơn” chút nào. Chính Đức Chúa Trời Đấng dựng nên A-đam cũng đã dựng nên Ê-va và tạo ra nàng theo hình ảnh của Ngài (Sa 1:27).
Cả A-đam và Ê-va đều thực hiện quyền cai quản sự sáng tạo (c.29).
A-đam được dựng nên từ bụi đất nhưng Ê-va được dựng nên từ sườn của A-đam, xương bởi xương ông và thịt bởi thịt ông (Sa 2:23).
Vấn đề đơn giản là A-đam cần Ê-va.
Không một loài vật đơn độc nào Đức Chúa Trời đã dựng nên có thể làm được cho A-đam điều mà Ê-va có thể làm. Nàng là người giúp đỡ “thích hợp cho ông”. Khi Đức Chúa Trời đem các loài vật đến trước mặt A-đam để ông đặt tên cho chúng, chúng chắc chắn đến trước mặt ông theo cặp, mỗi con với bạn của nó và có lẽ A-đam đã tự hỏi: “Vì sao tôi không có một người bạn?”
Dù Ê-va được dựng nên để làm một “người giúp đỡ thích hợp” cho A-đam, nàng được dựng nên không phải để làm một nô lệ. Nhà giải nghĩa Kinh Thánh nổi tiếng Mathew Henry đã viết: “Nàng đã được dựng nên không phải từ cái đầu của ông để cai trị ông, cũng không phải từ cái chân của ông để bị ông chà đạp, nhưng từ cái sườn của ông để bình đẳng với ông, dưới cánh tay của ông để được bảo vệ, và gần trái tim của ông để được yêu mến”. Phao-lô viết rằng “đàn bà là sự vinh hiển của đàn ông” (ICo 11:7). Vì nếu đàn ông là đầu (ICo 11:1-16; Eph 5:22-33), thì đàn bà là mão triều làm vinh dự cái đầu.
• Sự thánh hóa hôn nhân (Sa 2:23-24) [29]
Kiểu mẫu của Đức Chúa Trời cho hôn nhân không do A-đam nghĩ ra, như hôn lễ truyền thống xác định. “Hôn nhân được sinh ra trong trái tim yêu thương của Đức Chúa Trời vì phước hạnh và lợi ích của nhân loại”. Cho dù các tòa án có thể ra sắc lệnh gì, hay xã hội có thể cho phép điều gì, khi nói đến hôn nhân, Đức Chúa Trời đã có lời đầu tiên và Ngài sẽ có lời cuối cùng (He 13:4; Kh 22:15).
Có lẽ Chúa nhìn thấy nhiều cuộc hôn nhân ngày nay trái với tinh thần Kinh Thánh và phán: “Từ lúc ban đầu không phải như vậy” (Mat 19:8) kế hoạch ban đầu của Ngài là một người nam và một người nữ sẽ là một thịt suốt một đời.
Đức Chúa Trời đã nghĩ đến ít nhất 4 mục đích khi Ngài thực hiện hôn nhân đầu tiên trong vườn Ê-đen.
- Thứ nhất, Ngài muốn tình bạn thích hợp cho A-đam vì vậy Ngài ban cho ông một người vợ. Ngài ban cho A-đam một con người chớ không phải một con vật, một người bình đẳng với ông và qua đó có thể hiểu ông và giúp đỡ ông. Martin Luther đã gọi hôn nhân là “một trường dành cho tính cách” và đúng vậy.
Khi hai ngưới chung sống trong hôn nhân thánh khiết, kinh nghiệm đem đến điều tốt nhất trong họ hoặc đều tồi tệ nhất trong họ. Đó là một cơ hội để thực hành đức tin, hy vọng cùng tình yêu và để trưởng thành trong sự hy sinh và sự phục vụ cho nhau vì vinh hiển Đức Chúa Trời.
- Thứ hai, hôn nhân cung cấp quyền lợi Đức Chúa Trời ban cho để vui hưởng tình dục và có con cái. Chúa đã ra lệnh cho họ “Hãy sanh sản, thêm nhiều và làm cho đầy dẫy đất” (Sa 1:28). Điều này không ngụ ý rằng tình yêu tính dục chỉ dành cho sự sinh sản vì nhiều người kết hôn vượt quá thời gian sinh con, nhưng việc sinh con cái là một phần quan trọng của sự hiệp nhất hôn nhân (ITi 5:14). [30]
- Mục đích thứ ba cho hôn nhân là để khích lệ sự tự chủ (ICo 7:1-17). “Thà cưới gả còn hơn là đốt cháy sự đam mê” (c.9, NKJV). Một cuộc hôn nhân chỉ được xây dựng trên sự đam mê tình dục có lẽ không bền chắc hoặc trưởng thành. Tình yêu tính dục phải phong phú chớ không chỉ say mê, và các đối tác hôn nhân cần phải tôn trọng nhau chớ không chỉ lợi dụng nhau.
Suốt Kinh Thánh, sự kết hợp tình dục ngoài hôn nhân bị lên án và được cho thấy là mang tính phá hoại, và những sự hiểu sai về sự kết hợp tình dục cũng vậy (Ro 1:24-27). Cho dù các quan toà hay những người tư vấn về hôn nhân nói gì đi nữa, “Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình” (He 13:4).
Cuối cùng, hôn nhân là một sự minh họa về mối liên hệ đầy yêu thương và mật thiết giữa Đấng Christ với Hội Thánh của Ngài (Eph 5:22-23). Phao-lô gọi điều này là một “sự mầu nhiệm lớn”, đó là một lẽ thật thuộc linh sâu sắc đã từng được ẩn giấu nhưng giờ đây được Thánh Linh bày tỏ. Chúa Giê-xu Christ là A-đam sau cùng (ICo 15:45) và vì vậy là một dạng của A-đam thứ nhất.
A-đam được làm cho ngủ mê và sườn của ông được mở ra để ông có một người vợ, nhưng Chúa Giê-xu Christ đã chết trên thập tự giá và huyết Ngài đổ ra để Ngài có thể có một vợ mới, là Hội thánh (Gi 19:33-37). Đấng Christ yêu Hội thánh, chăm sóc Hội thánh, tìm cách làm Hội thánh tinh sạch và khiến Hội thánh đẹp đẽ hơn và làm vinh hiển Ngài. Một ngày nào đó Đấng Christ sẽ xác nhận vợ mới của Ngài và giới thiệu nàng trong sự tinh sạch và vinh hiển trên trời (Giu 1:24; Kh 19:1-9).
Khi A-đam nhìn thấy vợ mới của ông, ông bật lên lời ngợi khen vui mừng (Sa 2:23) như thể ông nói: “Cuối cùng tôi có một người bạn thích hợp!” (Kinh Thánh NIV biệt riêng lời này như một bài thơ). Đặc tính của nàng là “người nữ” sẽ “nhắc nhở” mọi người rằng nàng được đem ra từ “người nam” và thuật ngữ “người nam” sẽ luôn là một phần của “người nữ” [31] Nàng được dựng nên từ chàng và vì chàng và chàng cần nàng. Vì vậy, họ sẽ luôn thuộc về nhau và phục vụ nhau cách yêu thương.
A-đam không nói những lời được chép trong các c.24-25. Đó là sự phản ánh của Đức Chúa Trời trên sự kiện này và lời phán của Ngài về nguyên tắc của sự hiệp nhất hôn nhân do A-đam tuyên bố. Người nữ là một với người nam cả trong nguồn gốc (này đến từ người nam) và trong hôn nhân. Trong sự kết hợp tình dục và qua con cái họ người nam và người nữ là “một thịt”.
Hôn nhân là một mối liên hệ dân sự, được Luật pháp quy định, và phải là một mối liên hệ thuộc linh và là một mối liên hệ tấm lòng, được điều khiển bởi Lời Đức Chúa Trời và được thúc đẩy bởi tình yêu.
Nhưng hôn nhân về cơ bản là một mối liên hệ về thể xác. Người nam và người nữ không phải chủ yếu là “một linh hồn”, hay “một trái tim”, dù những điều đó là cần thiết, nhưng là “một thịt”. Do đó, tầm quan trọng của việc “lìa” gia đình ban đầu và “dính díu” với người bạn đời của mình (Eph 5:30-31), việc tạo nên một mối liên hệ mới phải được nuôi dưỡng và bảo vệ.
Nhóm từ “một thịt” ngụ ý rằng bất cứ điều gì phá vỡ sự ràng buộc về xác thịt trong hôn nhân cũng có thể phá vỡ chính hôn nhân. Một điều như vậy là sự chết; và khi một người bạn đời chết, người bạn đời kia được tự do tái hôn vì sự ràng buộc hôn nhân đã bị phá vỡ (Ro 7:1-3; ICo 7:8-9; ITi 5:14).
Trong Mat 19:1-9 Chúa Giê-xu dạy rằng tội ngoại tình có thể phá vỡ mối dây hôn nhân. Dưới Luật pháp Cựu-ước, bất cứ ai phạm tội ngoại tình đều bị ném đá đến chết (Phu 22:22-24; Gi 8:3-7), và vì vậy để người bạn đời vô tội được tái hôn, nhưng luật này không được ban ra trong Hội thánh thời Tân-ước. Có vẻ như sự ly hôn trong thời Tân-ước tương đương với sự chết trong Cựu-ước và bên vô tội được tự do tái hôn. Tuy nhiên, những tội lỗi nghịch với mối dây hôn nhân có thể được tha thứ và vợ chồng có thể thực hiện sự tha thứ và tạo một khởi đầu mới trong Chúa.
Chúng ta sống trong một thế giới do Đức Chúa Trời sáng tạo, chúng ta là những tạo vật được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và chúng ta vui hưởng những phước hạnh dư dật từ bàn tay Đức Chúa Trời. Bi thảm thay khi có quá nhiều người đặt Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống họ và trở nên những kẻ lang thang bối rối trong một thế giới cừu địch, khi mà họ có thể làm con cái của Đức Chúa Trời trong thế giới của Cha họ.
Đây là thế giới của Cha tôi- Phải không?.
Tôi thú nhận trước sự hổ thẹn rằng suốt những năm đầu tiên của chức vụ mình, tôi đã tránh cho hội chúng hát “Đây là thế giới của Cha tôi” trong những lễ thờ phượng của chúng tôi. Không kể một dòng, bài hát nhấn mạnh Đức Chúa Trời của thiên nhiên chớ không phải Đức Chúa Trời của thập tự giá và tôi muốn mọi điều trong những lễ thờ phượng của chúng tôi mang tính “Phúc-Âm”.
Hơn nữa, ngôn ngữ của bài hát quá đa cảm đối với tôi, và tôi không biết người sáng tác là loại người nào. Thậm chí không tìm hiểu, tôi kết luận bất cứ ai có một cái tên giống như Maltbie D. Babcock phải là người sống ẩn dật mắc bệnh lao đã giết chết hằng giờ đồng hồ dài mỗi ngày để nhìn ra cửa sổ và viết nhạc ủy mị.
Hãy tưởng tượng tôi ngạc nhiên và bối rối thế nào khi khám phá rằng Maltbie D. Babcock (1858-1901) là một mục sư hội thánh Trưởng Nhiệm đầy hùng dũng từng là một vận động viên ném bóng xuất sắc trong đội bóng chày và là một nhà vô địch bơi lội. Hầu hết các buổi sáng, ông đi bộ 8 đến 10 dặm! Ông cho mọi người biết ông đang đi ra “để xem thế giới của Cha tôi”.
Dĩ nhiên, tôi đã trưởng thành một chút kể từ những ngày nông nổi ấy, và tôi đã ăn năn về sự dại dột của mình. Ngày nào đó tôi muốn gặp Mục sư Babcock trên Thiên Đàng và xin lỗi ông. Tôi nhận ra rằng Đa-vít đã đúng khi ca ngợi Đấng sáng tạo trong những Thi-thiên của ông và các tạo vật được tô điểm trên trời đang làm việc đúng khi chúng tôi thờ Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo (Kh 4:1-11) và Đấng Cứu Chuộc Kh 5:1-14, vì hai ngôi vị đi đôi với nhau.
Sự sáng tạo và sự cứu chuộc thuộc về một kế hoạch vĩ đại, vì sự cứu chuộc do Chúa Giê-xu thực hiện trên thập tự giá sẽ đem lại sự tự do cho mọi loài. Một ngày nào đó sự sáng tạo của Đức Chúa Trời sẽ vui mừng bước vào “sự tự do vinh hiển của con cái Đức Chúa Trời” (Ro 8:21) Ha-lê-lu-gia!
Nhưng không phải mọi người đều đồng ý với Đa-vít và Phao-lô cùng những tạo vật thờ phượng trên trời rằng đây thật sự là “thế giới của Cha chúng ta”.
Trong “những thành kiến: đợt ba” của mình, chủ bút nhật báo kiêm nhà văn tiểu luận người Mỹ H. L. Mencken đã viết: “Vũ trụ là một bánh xe khổng lồ thực hiện 10. 000 vòng tua một phút. Con người là một con ruồi bệnh hoạn đi trên đó một cách hoa mắt. Tôn giáo là một học thuyết mà bánh lái được thiết kế và được làm quay vòng để cho con người dạo chơi”. Nhà văn tiểu luận người Anh Walter Savage Landor đã nói: “Xem như một tổng thể thì vũ trụ là vô lý”, và nhà vật lý người Mỹ Steven Weiberg đã viết: “Vũ trụ càng có vẻ hiểu được thì nó cũng càng có vẻ vô nghĩa.”
Nào, bạn hãy chọn lựa! Nhưng hãy cẩn thận, vì sự chọn lựa bạn thực hiện sẽ quyết định loại đời sống bạn sẽ sống trên đất này và số phận đời đời của bạn khi bạn lìa đời. Kẻ vô thần nói rằng vũ trụ chỉ là một sự tình cờ có trật tự. Những người theo tiểu thuyết bất khả tri thừa nhận rằng họ chỉ không biết và không quá lo lắng. Những kẻ theo thuyết hữu thần thú nhận rằng Đức Chúa Trời từ ban đầu đã sáng tạo mọi vật nhưng từ lâu đã từ bỏ những gì Ngài dựng nên. Nhưng tín hữu Cơ-đốc vẫn ca ngợi: “Đây là thế giới của Cha tôi”.
Có gì khác biệt khi Cơ-đốc nhân tin nơi một Đấng sáng tạo là Đấng không chỉ dựng nên vũ trụ mà còn chỉ huy nó và điều khiển vận mệnh của nó? Nếu trong Hội thánh chúng ta hát “Đây là thế giới của Cha tôi”, vậy chúng ta phải sống thế nào ở nơi phố chợ và làng xóm để chứng tỏ rằng chúng ta thật sự muốn nói điều đó?
Chúng ta sẽ thờ phượng một mình Đức Chúa Trời. “Cả trái đất khá kính sợ Đức Giê-hô-va, mọi dân thế gian hãy tôn kính Ngài. Vì Ngài phán, thì việc liền có, Ngài ra lệnh, thì vật bèn đứng vững bền” (Thi 33:8-9 NIV).
Sự sáng tạo bày tỏ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời, quyền năng của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Vấn đề vũ trụ phức tạp này nếu xuất hiện do sự tình cờ từ chỗ không có gì bởi một “vụ nổ lớn” thì có khả năng xảy ra giống như những tác phẩm của Shakespeare ra đời từ một vụ nổ trong nhà máy in. Chỉ một Đức Chúa Trời quyền năng mới có thể sáng tạo cái gì đó từ chỗ không có gì, và chỉ một Đức Chúa Trời khôn ngoan mới có thể khiến nó thực hiện chức năng như vậy. Khoa học gia chỉ đang suy nghĩ những tư tưởng của Đức Chúa Trời sau Ngài và khám phá những định luật Đức Chúa Trời đã đặt trong thế giới của Ngài ở sự sáng tạo.
Phao-lô khẳng định rằng sự sáng tạo chứng tỏ “quyền phép đời đời và bổn tánh của Đức Chúa Trời” (Ro 1:20) và Đa-vít ca ngợi: “Các từng trời rao truyền sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, bầu trời giãi tỏ công việc tay Ngài làm” (Thi 19:1). Chúa Giê-xu đã không ngần ngại sử dụng từ “sự sáng-thế” (Mac 10:6; Mac 13:19), Phao-lô (Ro 8:1-20, 22) và Phi-e-rơ (IIPhi 3:4) cũng vậy.
Ro 1:18-32 giải thích sự thoái hóa của loài người từ “sự nhận biết Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật đến sự thờ phượng các tà thần và những hình tượng chết…” Trái với điều mà một số học giả tôn giáo so sánh dạy dỗ, loài người đã không khởi đầu hành trình tôn giáo của mình bằng cách thờ phượng các vật trong thiên nhiên và sau đó dần dần lên đến chỗ thờ phượng một Đức Chúa Trời.
Thật ra, loài người đã bắt đầu tại đỉnh cao, biết Đức Chúa Trời chân thật, nhưng để thỏa mãn những khao khát đam mê của mình, họ đã từ chối thờ phượng Ngài và quay sang các hình tượng. Augustine đã viết: “Vì vậy thế gian thật sự quên Ngài, Đấng sáng tạo nó và yêu những gì Ngài đã tạo nên thay vì yêu Ngài.”
Khi Đa-vít ngắm xem sự vĩ đại của các từng trời, ông phải hỏi: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con loài người là chi, mà Chúa thăm viếng nó?” (Thi 8:4) “Tiên tri Ê-sai đã suy gẫm sự vĩ đại của Đấng sáng tạo và thấy rõ ràng sự dại dột của việc thờ hình tượng” (Es 40:12-26 Es 45:5-18).
“Hỡi Chúa, những sự kỳ diệu của Ngài được tỏ ra dường bao, Bất cứ nơi đâu tôi hướng mắt mình đến:
Nếu tôi xem xét đất mình bước lên. Hoặc nhìn chăm chăm lên bầu trời!” (Isaac Watts)
Một hướng dẫn viên du lịch tại một phòng thí nghiệm nguyên tử, cho nhóm của anh ta cơ hội đặt những câu hỏi, và một du khách đã hỏi: “Anh nói rằng cả thế giới có vẻ rất rắn chắc này chỉ là những hạt mang điện đang chuyển động. Nếu điều đó đúng, cái gì giữ nó lại với nhau?”. Câu trả lời thành thật của hướng dẫn viên là: “chúng tôi không biết”.
Nhưng Phao-lô đã trả lời câu hỏi đó từ bao thế kỷ trước: “Muôn vật đã được dựng nên bởi Ngài (Chúa Giê-xu Christ) và vì Ngài, Ngài có trước muôn vật và muôn vật đứng vững trong Ngài” (Co 1:16-17 NIV). Đây là Đức Chúa Trời chúng ta thờ phượng, và sự sáng tạo dự phần với chúng ta trong việc ca ngợi Ngài (Thi 19:1-5; Thi 96:10-13; Thi 148:1-13).
Chúng ta sẽ là những quản gia tốt về sự sáng tạo của Ngài.Khi Đức Chúa Trời ban cho người nam và người nữ đầu tiên quyền cai quản sự sáng tạo (Sa 1:26-30), Ngài đặt họ và con cháu họ dưới nhiệm vụ quí trọng những sự ban cho của Ngài và sử dụng chúng cẩn thận vì vinh hiển Ngài. Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi vật vì vinh hiển và ý muốn của Ngài (Kh 4:11) cũng như vì sự vui mừng và ích lợi của chúng ta (ITi 6:17; Cong 17:24-28); và chúng ta phải luôn nhìn thấy mình là những quản gia trong thế giới của Đức Chúa Trời. Hủy hoại sự sáng tạo và lãng phí những sự dư dật của nó là phạm tội nghịch với Đức Chúa Trời.
Trong vũ trụ này, chúng ta có Đức Chúa Trời, con người và những vật Đức Chúa Trời đã dựng nên, trong đó là nước, đất, loài vật và sự sống thực vật, không khí và những tài nguyên bao la dưới lòng đất. Chúng ta được ra lệnh phải thờ phượng Đức Chúa Trời, yêu mến người khác, và sử dụng mọi sự vì vinh hiển Đức Chúa Trời vì ích lợi của người khác.
Khi trật tự thiêng liêng này trở nên bị lẫn lộn, thì sự sáng tạo của Đức Chúa Trời bị tổn thương. Khi chúng ta trong tính tham lam của mình bắt đầu ham muốn mọi sự thì chúng ta sẽ nhanh chóng bắt đầu lơ là Đức Chúa Trời, ngược đãi con người và hủy hoại sự sáng tạo.
Nhà tiểu thuyết Alan Paton đã viết: “Đất là thánh, hiện diện như nó đã đến từ Đấng sáng tạo. Hãy giữ nó, bảo vệ nó, chăm sóc nó, vì nó giữ con người, bảo vệ con người, chăm sóc con người, huỷ hoại nó thì con người bị hủy hoại.”
Đức Chúa Trời đã viết trong luật của Môi-se sự quan tâm của Ngài đối với con người, loài vật, thực vật và đất với những người nguồn tài nguyên của nó. Ngày Sa-bát ban sự yên nghỉ cho người làm việc cùng súc vật của họ (Xu 20:8-11; Xu 23:12) và năm Sa-bát với năm Hân hỉ cho đất được nghỉ ngơi (Le 25:1-55). Vì dân Do-thái đã không vâng theo những luật này, họ bị lưu đày để đất có thể hưởng những ngày Sa-bát của nó và được cải tạo (IISu 36:14-21).
Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sơ-ra-ên những quy tắc về súc vật bị lạc và bị té (Phu 22:1-4) chim làm tổ (Phu 22:6-7) súc vật cày cấy (Phu 22:10) và súc vật mới sinh (Le 22:26-28). Người viết Thi-thiên đã ca ngợi Đức Chúa Trời về sự quan tâm và chăm sóc thường trực của Ngài đối loài vật và loài người (Thi 102:10-30).
Không có gì có thể phủ nhận được sự kiện Đức Chúa Trời đã không bỏ rơi sự sáng tạo của Ngài, nhưng loài người chắc chắc đã báng bổ và hủy hoại sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Vì sao? Vì con người nghĩ họ làm chủ sự sáng tạo. Họ quên rằng họ là những tá điền của Đức Chúa Trời và là những quản gia về những sự ban cho của Ngài.
Các nhà chuyên môn về sinh thái học tuyên bố rằng mỗi ngày có 100 loài thực vật và động vật trở nên bị tuyệt chủng, và sự tàn phá rừng cùng sự ô nhiểm nước với không khí đang ngày càng sinh ra nhiều bi kịch về sinh thái học khi thời gian tiếp diễn. “Đức Giê-hô-va là tốt lành cho tất cả, Ngài giáng sự thương xót trên mọi vật Ngài làm nên… Đức Giê-hô-va là thành tín với mọi điều Ngài hứa và đầy lòng yêu thương đối với mọi vật Ngài dựng nên…. Đức Giê-hô-va là công bình trong mọi đường Ngài và đầy yêu thương đối với mọi vật Ngài dựng nên” (Thi 145:9, 13, 17 NIV). Chúng ta lại dám bóc lột và hủy hoại sự sáng tạo mà Đức Chúa Trời yêu mến sao?
Chúng ta sẽ tin cậy nơi sự lo liệu của Đức Chúa Trời và không lo lắng. Những người theo thuyết bất khả tri và thuyết vô thần có mọi quyền để lo lắng vì (như ai đó đã nói) “họ không có phương tiện giúp đỡ vô hình”. Đối với họ, vũ trụ là một bộ máy tự tạo vô ngã, không phải là sự sáng tạo của một Đức Chúa Trời khôn ngoan và là Cha yêu thương. Nhưng tín hữu Cơ-đốc xem sự sáng tạo là thế giới của Cha họ. Họ gọi Đấng sáng tạo là “Cha” và họ phó thác cho Ngài đời sống của họ, hoàn cảnh của họ và tương lai của họ.
Mọi vật trong thiên nhiên ngợi khen Chúa và trông đợi Ngài để được bất cứ điều gì chúng cần. “Hết thảy loài vật này trông đợi Chúa, hầu cho Chúa có thể ban đồ ăn cho chúng nó đúng mùa” (Thi 104:27 NKJV). Không có chứng cớ nào cho thấy loài chim cổ đỏ bị ung loét hay loài thỏ bị suy sụp thần kinh.
• Chim cổ đỏ nói với chim sẻ.
“Tôi thật sự muốn biết, Vì sao những con người lo âu đó. Vội vã tới lui và lo lắng như vậy”
• Chim sẻ nói với chim cổ đỏ,
“Tôi thật nghĩ rằng chắc là: Họ không có Cha trên trời
Đấng chăm sóc bạn và tôi”
Vũ trụ không phải là một bộ máy vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã tạo dựng, lên dây cót, và rồi bỏ rơi.
“Đất là của Đức Giê-hô-va, và mọi vật trong đó, thế gian và mọi kẻ sống trong đó” (Thi 24:1 NIV).
“Điều gì Đức Giê-hô-va đẹp ý, Ngài bèn làm, trên trời và dưới đất, trong biển và trong mọi nơi sâu” (Thi 135:6 NKJV).
“Trong tay Ngài là sự sống của mọi sinh vật và hơi thở của cả loài người” (Giop 12:10).
Từ “sự quan phòng” đến từ những từ La-tinh có ý nghĩa “thấy trước”. Cho dù bất cứ điều gì phải được thực hiện, Chúa sẽ lưu ý đến (Sa 22:13-14). Hành tinh trái đất không phải đang lảo đảo quanh không gian như một kẻ say rượu không tự lo liệu. Đức Chúa Trời có cả thế giới trong tay Ngài và đang thực hiện những mục đích thiêng liêng của Ngài vì ích lợi của dân sự Ngài và vinh hiển của danh Ngài.
Chính sự bảo đảm đó cho dân Ngài sự bình an cho dù những hoàn cảnh có thể khó khăn ra sao. “Đức Giê-hô-va vạn quân ở cùng chúng tôi, Đức Chúa Trời Gia-cốp là nơi nương náu của chúng tôi… Hãy yên lặng, và biết rằng ta là Đức Chúa Trời” (Thi 46:7, 10).
Trong Bài giảng Trên Núi (Mat 5:1-7:29), Chúa Giê-xu cho chúng ta biết cách chữa trị sự lo lắng. Chúng ta phải đặt đời sống mình trong tay của Cha và tin cậy Ngài hướng dẫn chúng ta và chu cấp cho chúng ta từng ngày từng giờ (Mat 6:24-34). Nếu chúng ta đặt vật chất trước trên trong đời sống mình, thì chúng ta sẽ lo lắng và phiền muộn, nhưng nếu chúng ta đặt Vương Quốc Đức Chua Trời trước hết, Ngài sẽ đáp ứng những nhu cầu của chúng ta và ban cho chúng ta sự bình an (c.33). Ngài đang thực hiện mọi sự vì ích lợi ngay bây giờ (Ro 8:28), dù chúng ta có thể không thấy hoặc không hiểu mọi điều Ngài đang làm cho chúng ta.
Chúng ta sẽ cầu nguyện với Cha chúng ta. Nếu Đức Chúa Trời Đấng Sáng Tạo và Chúa của vũ trụ là Cha chúng ta, thì việc chúng ta phải nói với Ngài về những điều khiến chúng ta quan tâm là điều hợp lý. “Nếu các ngươi là xấu, còn biết cho con cái mình những vật tốt thay, thì Cha các ngươi ở trên trời sẽ ban các vật tốt cho những người xin Ngài nhiều hơn biết bao” (Mat 7:11 NKJV).
Nhưng nếu Đức Chúa Trời là tối cao, và có một kế hoạch cho dân sự Ngài với thế giới của Ngài, thì tại sao lại cầu nguyện? Cầu nguyện không phải là can thiệp vào ý muốn của Đức Chúa Trời sao? Không, không phải vậy. Sự cầu nguyện là một trong những phương tiện Đức Chúa Trời đã chỉ định để thực hiện ý muốn của Ngài trên thế giới này.
Người ta thường nói rằng mục đích của sự cầu nguyện không phải để làm cho ý muốn của chúng ta được thực hiện trên trời nhưng là để ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện trên đất. “Ý Cha được nên, ở đất như trời” (Mat 6:10). Nếu chúng ta không cầu xin chúng ta không thể nhận lãnh lãnh (Lu 11:9-10 Gia 4:1-3). Và Chúa Giê-xu khích lệ chúng ta cầu xin bằng gương mẫu, sự dạy bảo và những lời hứa của Ngài.
Chúng ta cầu nguyện với Cha vì chúng ta biết Ngài là Đấng Sáng Tạo và “Chúa của trời và đất”. Những người cầu thay cao trọng trong Kinh Thánh đều có thể nói, “Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên trời và đất” (Thi 121:2). Điều này đúng đối với Áp-ra-ham (Sa 14:22), Ê-xê-chia (IIVua 19:15), các Sứ-đồ và Hội thánh đầu tiên (Cong 4:24), Phao-lô (Eph 3:15) và cả Chúa Giê-xu Christ của chúng ta (Lu 10:21). Khi bạn tập trung vào sự vĩ đại của Đức Chúa Trời, những vấn đề và gánh nặng của bạn sẽ trở nên nhỏ hơn và nhẹ hơn.
Chúng ta sẽ không chịu khổ vì cớ Ngài. “Vậy, những kẻ chịu khổ theo ý muốn Đức Chúa Trời hãy phó mình cho Đấng Tạo Hóa thành tín và hãy cứ làm lành” (IPhi 4:19 NIV). Từ Hy-lạp được dịch là “phó thác” là một thuật ngữ ngân hàng có nghĩa “ký thác để giữ an toàn” và ngụ ý 2 điều:
- Thứ nhất, dân sự Chúa quý giá đối với Ngài, và thứ hai, Ngài đáng được nhờ cậy để chăm sóc chúng ta. “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài chăm sóc anh em” (IPhi 5:7 NKJV). Xét cho cùng, nếu Đấng Sáng Tạo có thể cầm giữ vũ trụ của Ngài và giữ cho nó hoạt động để hoàn thành ý muốn Ngài, thì Ngài không thể làm như vậy cho đời sống chúng ta, gia đình chúng ta và chức vụ chúng ta hay sao? Đấng Sáng Tạo là Đấng biết số lượng và tên mọi vì sao, biết chúng ta là ai và có thể đáp ứng những nhu cầu sâu xa nhất của chúng ta (Thi 147:3-6).
Phi-e-rơ đã viết thư gởi cho các tín hữu trong đế chế La-mã là những người sắp bước vào “lò lửa hừng” (IPhi 1:7 IPhi 4:12) và bị bắt bớ vì đức tin họ. Nhưng khi dân sự Ngài ở trong lò lửa, Đấng Sáng Tạo để mắt Ngài trên đồng hồ và tay Ngài trên máy điều nhiệt. Ngài biết bao lâu và mức độ nào, và Ngài luôn điều khiển.
Khi con đi qua chặng đường đầy lửa thử thách, Ân điển có đủ của ta sẽ là sự cung cấp cho con. Ngọn lửa sẽ không làm hại con, Ta chỉ có ý định. Làm cho cặn bã của con cháy đi và vàng của con được tinh ròng. (John F. Wade).
• Chúng ta sẽ yêu mến và phục vụ nhân loại.
Khi Phao-lô nói với các triết gia Hy-lạp trên Đồi Mars, ông trình bày cho họ một bài giảng ngắn về thần học và nhân loại học (Cong 17:22-34). Ông bảo họ rằng Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo và không cần những đền thờ cùng hình tượng do loài người làm ra vì Ngài là Chúa của trời đất. Chúng ta không thể cho Đức Chúa Trời bất cứ cái gì vì Ngài đã dựng nên mọi vật, và chính Ngài là Đấng ban cho chúng ta “sự sống, hơi sống và muôn vật” (c.25)
Sau đó Phao-lô mạo hiểm vào địa phận nguy hiểm và tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên muôn dân từ “một huyết” (c.26), một nhận định chắc đã làm bối rối những người Hy-lạp kiêu ngạo. Vào thời đó, họ xem mình là một dân thượng lưu và mọi người khác là “người dã man”. Nhưng Phao-lô biết rằng mọi dân đều có nguồn gốc từ A-đam và mọi chủng tộc cùng mọi quốc gia đều là một gia đình trước mặt Đấng Sáng Tạo. Trong sự quan phòng của Ngài, Đức Chúa Trời đã cho phép các dân tộc dấy lên rồi hạ xuống và thậm chí đi đến những địa phận mới, nhưng họ đều là những tạo vật của Ngài, được dựng nên từ bụi đất và được tồn tại bởi quyền năng của Ngài.
Trong luật Cựu-ước, Đức Chúa Trời ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên bày tỏ sự tử tế đối với khách lạ và người ngoại quốc ở giữa họ (Xu 23:9; Le 19:34; Le 23:22; Phu 10:17-19; Phu 26:1-11). Chúa Giê-xu đã bày tỏ sự thương xót đối với dân ngoại cũng như với dân Do-thái và Ngài sử dụng một người Sa-ma-ri làm ví dụ về một người láng giềng tốt (Lu 10:25-37). Một số người Do-thái trong Hội thánh đầu tiên đã có vấn đề về việc chấp nhận dân ngoại, nhưng Đức Chúa Trời cho biết rõ rằng không có chỗ cho định kiến giữa vòng dân sự Ngài (Cong 10:1-11:24; Cong 15:1-29; Ga 3:26-29).
Bao lâu còn có những nhu cầu cần đáp ứng chúng ta phải là những người lân cận của nhau và giúp đỡ nhau. Trung tín trong những nhiệm vụ tôn giáo thì chưa đủ, chúng ta cũng phải có lòng thương xót đối với những kẻ túng thiếu (Es 58:6-11; IGi 3:16-24; Gia 2:14-17). Thậm chí nếu có những người không phải là tín đồ Đấng Christ, họ là những con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và chúng ta phải làm điều chúng ta có thể làm cho họ.
Một ngày tháng 12 nọ, vợ tôi đang lái xe đi thăm gia đình bà ở Wisconsin, và xe hơi chúng tôi trượt khỏi con đường rồi rơi vào mương nước. Chúng tôi không bị thương và xe hơi không bị hư hại, nhưng chúng tôi không biết làm thế nào có thể đưa chiếc xe hơi trở lại trên đường. Một vài phút sau đó, ba người đàn ông lái xe qua nhìn thấy tình trạng của chúng tôi, họ dừng xe và đi ra giúp chúng tôi. Họ không hỏi quốc tịch hay nhận thức tôn giáo của chúng tôi: Họ chỉ làm việc và kéo chiếc xe hơi của chúng tôi ra khỏi mương nước. Chúng tôi hết sức cảm ơn họ và họ tiếp tục lên đường. Điều mà Robert Burns nhà thơ người Ê-cốt gọi là “sự vô nhân đạo của con người đối với con người” chắc chắn đã không xảy ra ngày ấy!
Học giả Do-thái Abraham Joshua Heschel gọi định kiến chủng tộc là “cực độ của sự căm thù đối với cực tiểu của lý do”. Nhưng nếu chúng ta đều được dựng nên “từ một huyết”, làm sao chúng ta có thể coi thường và ngược đãi nhau, vì khi làm vậy, chúng ta cũng xúc phạm chính mình.
Chúng ta sẽ đọc và học Lời Đức Chúa Trời. “Bàn tay Chúa đã làm và nắn hình tôi, xin hãy ban cho tôi trí hiểu, để tôi có thể học các điều răn của Chúa” (Thi 119:73 NKJV). “Bàn tay đã dệt nên chúng ta trong lòng mẹ chúng ta” (Thi 139:13-16) cũng đã viết lời hướng dẫn chúng ta trong đời sống hằng ngày của chúng ta.[32]
Khi bạn mua một chiếc xe hơi mới hay một dụng cụ mới, bạn đọc sách chỉ dẫn để biết chắc mình hiểu cách nó vận hành. Kinh Thánh là “sách chỉ dẫn” cho đời sống. Nó cho chúng ta biết chúng ta từ đâu đến, chúng ta là gì và Đức Chúa Trời mong chúng ta làm điều gì. Đức Chúa Trời Đấng đã dựng nên chúng ta biết rõ nhất chúng ta phải sống thế nào, và nếu chúng ta bỏ qua lời khuyên cùng sự cảnh cáo của Ngài, chúng ta đang hướng đến sự rắc rối. Quản lý đời sống mà không vâng lời Ngài thì giống như lái một máy bay mà trước hết không đọc sách hướng dẫn chuyến bay: chúng ta sẽ hướng đến một tai nạn rơi máy bay!
Chúa có một mục đích thiên thượng cho mỗi chúng ta thực hiện, và chúng ta khám phá mục đích đó bằng cách đọc Lời Ngài và vâng theo. “Đức Giê-hô-va sẽ làm xong việc có liên quan đến tôi: Hỡi Đức Giê-hô-va, sự nhơn từ Ngài còn đến đời đời: Xin chớ bỏ công việc của tay Ngài” (Thi 138:8 NKJV). Chúa muốn hướng dẫn mỗi chúng ta và giúp chúng ta có thể vui hưởng điều Ngài đã hoạch định cho chúng ta, nhưng chúng ta phải sẵn sàng hợp tác. Bỏ qua Kinh Thánh là hủy bỏ “kim chỉ nam cho đời sống” tuyệt vời nhất đã được ban cho nhân loại.
“Hãy hết lòng tin cậy Đức Chúa Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con, phàm trong các việc làm của con, khá nhận biết Ngài, thì Ngài sẽ chỉ dẫn các nẻo của con” (Ch 3:5-6). Chắc chắn chúng ta phải sử dụng tâm trí của mình và suy xét mọi điều, nhưng chúng ta không nên dựa vào lý luận của riêng mình xa rời Lời Đức Chúa Trời.
Ý thức thông thường cho Đa-vít trẻ tuổi biết rằng Gô-li-át khổng lồ lớn hơn và mạnh hơn ông, nhưng đức tin nói rằng Đức Chúa Trời sẽ đánh bại tên khổng lồ (ISa 17:1-58). Lý lẽ con người cho ba người Hê-bơ-rơ biết rằng lò lửa hừng sẽ thiêu đốt họ, nhưng đức tin nói rằng Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ và gìn giữ họ (Da 3:1-30). “Như vậy, đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Ro 10:17 NKJV).
Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo, và Ngài đã ban cho các tạo vật của Ngài một quyển sách giúp họ hiểu Ngài là ai, Ngài hành động thế nào và Ngài muốn họ làm gì. Đó là một quyển sách về những lời dạy dỗ để vâng theo, những lời hứa để tin theo và những nguyên tắc để thông hiểu. Đó cũng là một quyển sách nói về những con người thật, một số họ đã vâng lời Chúa và một số họ không vâng lời. Và từ những kinh nghiệm của những người này, chúng ta có thể học nhiều điều về những gì phải tránh trên đường đời.
Bằng mọi cách chúng ta phải học mọi điều chúng ta có thể, nhưng mọi điều chúng ta học phải được kiểm nghiệm bởi Lời Đức Chúa Trời.
Robert A. Millikan, nhà vật lý người Mỹ và là người đoạt giải Nobel đã nói: “Tôi xem một sự hiểu biết sâu sắc về Kinh Thánh như một khả năng cần thiết của một người có giáo dục tốt.”
Willian Lyon Phelps giáo sư Đại học Yale đồng ý khi ông nói: “Bất cứ ai có một hiểu biết xuyên suốt về Kinh Thánh thật sự có thể được gọi là có học thức… Tôi tin sự hiểu biết về Kinh Thánh mà không có một khoá đại học thì đáng giá hơn một khoá đại học mà không có Kinh Thánh.”
Nếu bạn tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng Sáng Tạo, và tin rằng bạn đang sống trong vũ trụ của Ngài, vậy hãy lắng nghe điều Ngài cần phán và vâng theo; vì đó là bí quyết của sự sung mãn và thành công thật (Gios 1:7-9).
4. NHỮNG NGUY HIỂM TRONG VƯỜN ĐỊA ĐÀNG (Sa 3:1-24)
Nếu Sa 3:1-24 không có trong Kinh Thánh, sẽ không có Kinh Thánh như chúng ta biết. Tại sao? Vì phần còn lại của Kinh Thánh dẫn chứng những hậu quả đáng buồn của tội lỗi A-đam và giải thích điều Đức Chúa Trời đã làm để cứu chúng ta trong ân điển của Ngài. Bằng cách nắm những chân lý cơ bản của chương quan trọng này, bạn có thể hiểu rõ hơn sự bàn luận của Phao-lô về sự xưng công nghĩa trong Ro 5:1-21 sự dạy dỗ của ông trong ITi 2:8-15 về đàn ông cùng đàn bà trong Hội thánh, và sự giải thích của ông trong ICo 15:1-58 về sự sống lại trong tương lai.
Sự bất tuân của A-đam đã đem tội lỗi vào dòng dõi loài người, nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta giải thích nào về sự tồn tại của Sa-tan và điều ác trước khi có sự sa ngã của con người. Sự ghi chép trong Sa 3:1-24 không phải là một chuyện thần thoại. Nếu sự sa ngã của loài người thật sự đã không xảy ra, vậy đức tin Cơ-đốc nhân được xây dựng trên những điều bịa đặt, không phải sự thật, và Chúa Giê-xu Christ đã chịu thương khó trên thập tự giá một cách vô ích. Từ Sa 3:1-24 đến Kh 21:1-27 Kinh Thánh ghi lại sự xung đột giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan, tội lỗi và sự công bình, và kêu gọi tội nhân ăn năn để tin nhận Đức Chúa Trời.
1. Kẻ thù (Sa 3:1a)
[33]. Sa-tan đã bị vẽ biếm họa quá nhiều bởi các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên và các nhà hài hước đến nỗi đa số người không tin ma quỷ thật sự hiện hữu; vì nếu họ tin nó hiện hữu, họ không xem nó quan trọng. Ví dụ như nhà tiểu thuyết người Anh Samuel Butler đã viết: “Cần phải nhớ rằng chúng ta chỉ nghe một phía của sự việc. Đức Chúa Trời đã viết mọi quyển sách” [34] Và Mark Twain đã viết: “Chúng ta không thể kính trọng Sa-tan, vì điều đó sẽ trơ tráo, nhưng chúng ta ít nhất có thể tôn trọng những tài năng của nó” [35] Một diễn viên hài nổi tiếng trên truyền hình luôn bật cười khi ông nói: “Ma quỷ đã khiến tôi làm điều đó!”
Dù chúng ta không hiểu nhiều về nguồn gốc của nó. [36] chúng ta biết rằng Sa-tan có thật, Sa-tan là một kẻ thù, và Sa-tan nguy hiểm. Ở đây trong Sa 3:1-24, Sa-tan được ví sánh với con rắn, một hình ảnh được lập lại trong IICo 11:3. Trong Kh 12:1-18 nó được gọi là con rồng, và cả hai tên gọi đều được kết hợp trong Kh 20:2. Nhưng Sa-tan không chỉ là một con rắn lừa dối, nó cũng là một sự tử rống cắn nuốt (IPhi 5:8). Trong số các tên gọi của nó là “A-ba-đôn” và “A-pô-ly-ôn” nghĩa là “kẻ hủy diệt” (Kh 9:11). “Sa-tan” nghĩa là “kẻ địch thủ” và “ma quỷ” nghĩa là “kẻ vu cáo”.
Trong Gi 8:44 Chúa Giê-xu gọi Sa-tan là kẻ giết người và “cha sự nói dối”. Ngài cũng gọi nó là “quỷ dữ” (Mat 13:19) và “vua chúa của thế gian này” (Gi 12:31). Phao-lô và Giăng cũng gọi ma quỷ là “kẻ ác” (IITe 3:3 IGi 3:12) và Phao-lô đã nói Sa-tan là “chúa đời này” (IICo 4:4) kẻ cai trị hệ thống thế gian (Eph 2:2) và kẻ đứng đầu thế lực của điều ác (Eph 6:10-12).
Tóm lại, Sa-tan không phải là đối thủ dễ chống đỡ, và dân sự Đức Chúa Trời phản cẩn thận đừng cho nó chỗ đứng trong đời sống mình (Eph 4:27). Đó là lý do chúng ta sẽ học Lời Đức Chúa Trời và tìm cách hiểu chiến lược của Sa-tan (IICo 2:11).
2. Chiến lược (Sa 3:1-5)
Sự cám dỗ là một cơ hội để thực hiện một việc tốt bằng một phương cách xấu. Vượt qua một cuộc thi là một điều tốt nhưng thực hiện nó bằng cách gian lận là một điều xấu. Thanh toán hoá đơn là một điều tốt nhưng ăn cắp tiền để thanh toán là một điều xấu. Thực chất, Sa-tan nói với Ê-va: “Ta có thể cho ngươi điều gì đó ngươi cần và muốn. Ngươi có thể có nó bây giờ và vui hưởng nó, và tốt nhất, sẽ không có những hậu quả đau đớn nào. Quả là một cơ hội!” Hãy chú ý những giai đoạn Sa-tan cám dỗ Ê-va. [37]
• Sa-tan giả dạng (Sa 3:1a).
Sa-tan không phải là một kẻ khởi đầu, nó là một kẻ bắt chước khôn khéo ngụy trang cho tính cách thật của nó. Nếu cần, nó có thể giả trang như một thiên sứ sáng láng (IICo 11:14) [38] Khi nó vào trong khu vườn, Sa-tan sử dụng thân xác một con rắn, một trong những sinh vật của Đức Chúa Trời được Ngài tuyên bố là “tốt lành” (Sa 1:31). Ê-va dường như không bị quấy rầy bởi sự hiện diện của con rắn hay lời nói của nó, vì vậy chúng ta cho rằng bà không thấy gì đáng đe dọa về cuộc chạm trán. Có lẽ Ê-va đã không được giới thiệu với loài này và kết luận rằng nó có khả năng nói. [39]
Ngày nay Sa-tan vẫn hành động như kẻ mạo nhận lớn. Nó đã tạo ra một sự công bình giả khác với sự công bình chỉ đến bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế (Ro 9:30-10:13). Sa-tan có những kẻ hầu việc giả (IICo 11:13-16) rao một tin lành giả (Ga 1:6-10) và có những anh chị em giả chống lại Tin Lành thật (IICo 11:26). Ma quỷ đã tập họp những Cơ-đốc nhân giả trong những Hội thánh giả mà Đức Chúa Trời gọi là “hội quỷ Sa-tan” (Kh 2:9), và trong những buổi hội họp này, “những bí mật sâu hiểm” của Sa-tan được dạy dỗ (c.24).
• Sa-tan chất vấn lời Đức Chúa Trời (Sa 3:1b).
IICo 11:3 cho thấy rõ mục tiêu của Sa-tan là tâm trí Ê-va và vũ khí của nó là sự lừa dối. Bằng cách chất vấn điều Đức Chúa Trời đã phán, Sa-tan làm dậy lên những nghi ngờ trong tâm trí Ê-va về sự thành tín của Lời Đức Chúa Trời và sự nhân từ của tấm lòng Đức Chúa Trời.
“Có phải ngươi thật sự muốn nói rằng ngươi không thể ăn mọi cây?” là nội dung của câu hỏi khôn khéo. “Nếu Đức Chúa Trời thật sự yêu ngươi, Ngài sẽ rộng rãi hơn nữa. Ngài đang từ chối ngươi!” Sa-tan muốn Ê-va quên điều Đức Chúa Trời đã bảo A-đam (là người bảo với Ê-va) rằng họ có thể tự do ăn các cây trong vườn. Vì ích lợi của họ, có một điều cấm: họ không nên ăn trái cấm ở giữa vườn (Sa 2:15-17).
Lời đáp của Ê-va cho thấy bà đang theo gương Sa-tan và thay đổi chính Lời Đức Chúa Trời. Hãy so sánh Sa 3:2-3 với Sa 2:16-17 và bạn sẽ thấy rằng bà đã bỏ đi từ “tự do”, thêm vào nhóm từ “cũng chẳng nên đá động đến” (NKJV) và không nói rằng Đức Chúa Trời “ra lệnh” cho họ vâng lời. Cũng hãy để ý rằng Ê-va đã bắt chước ma quỉ nhiều hơn khi bà nói về “Đức Chúa Trời” (Ê-lô-im) chớ không phải “Giê-hô-va Đức Chúa Trời”, là Đức Chúa Trời của giao ước.
Cuối cùng, bà nói “e các ngươi chết” một khả năng có thể xảy ra – thay vì “các ngươi chắc sẽ chết” – một sự thật. Vì vậy, bà đã lấy từ Lời Đức Chúa Trời thêm vào Lời Đức Chúa Trời, và thay đổi Lời Đức Chúa Trời, thật sự là những vi phạm nghiêm trọng (Phu 4:2; Phu 12:32; Ch 30:6; Kh 22:19). Bà đang bắt đầu nghi ngờ sự nhơn từ và thành tín của Đức Chúa Trời.
• Sa-tan phủ nhận Lời Đức Chúa Trời (c.4).
“Các ngươi chắc chắn sẽ không chết đâu” (NIV) là một mâu thuẫn trực tiếp với Lời Đức Chúa Trời, “các ngươi chắc sẽ chết” (Sa 2:17 NIV). Nhưng Sa-tan là một kẻ nói dối (Gi 8:44) và Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của chân lý (Phu 32:4), còn đáp ứng của chúng ta đối với điều Đức Chúa Trời phán phải là “Vì vậy tôi xem các giềng mối Chúa về muôn vật là phải” (Thi 119:127).
Tại thời điểm này, Ê-va lẽ ra phải tự nhắc mình về Lời Đức Chúa Trời, tin theo, lìa con rắn và tìm chồng bà. Chính khi chúng ta nấn ná ở nơi cám dỗ là lúc chúng ta vướng vào rắc rối, đặc biệt khi chúng ta biết điều chúng ta đang suy nghĩ trái ngược với chân lý của Đức Chúa Trời. Chân lý của Đức Chúa Trời là cái khiên và cái can của chúng ta (Thi 91:4; Eph 6:16), nhưng nó chỉ bảo vệ chúng ta khi chúng ta cầm lấy nó bằng đức tin và sử dụng nó.
• Sa-tan thay thế sự giả dối của nó (Sa 3:5).
“Các ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời” là một lời hứa gây sự chú ý của bất cứ người nào [40] “Vinh hiển cho loài người ở nơi cao nhất!” luôn là tiếng kêu đồng thanh của những kẻ chối bỏ sự mạc khải của Đức Chúa Trời, dù họ tán thành chủ nghĩa nhân bản vô thần, chủ nghĩa vật chất hay cái gọi là tôn giáo thời đại mới. (Thật ra, triết học của những người theo thời đại mới chẳng mới gì cả. Nó cũ như Sa 3:1-24!).
Ro 1:18-32 mô tả thể nào nền văn minh của dân ngoại từ thời Ca-in đã chối bỏ lẽ thật của Đức Chúa Trời và quay sang sự dại dột cùng sự dối trá. Họ “đã đổi chân lý Đức Chúa Trời lấy sự dối trá, kính thờ và hầu việc loài tạo vật thế cho Đấng Sáng Tạo” (c.25, NKJV). Nói về sa-tan. Chúa Giê-xu đã phán: “vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối” (Gi 8:44). Trong sự coi thường Đức Chúa Trời, con người đã thay đổi chân lý của Đức Chúa Trời để lấy “sự dối trá” (chú ý số ít) và đi theo Sa-tan là cha của “điều đó” (chú ý số ít lần nữa).
“Sự dối trá” là gì (số ít) mà lại cai trị sự văn minh kể từ lúc loài người sa ngã? Đó là niềm tin rằng người nam và người nữ có thể là chúa của chính mình và sống vì sự sáng tạo chớ không vì Đấng Sáng Tạo và không chịu bất cứ hậu quả nào. Khi tin điều này, họ từ chối đầu phục chân lý của Đức Chúa Trời nhưng thích tin những lời giả dối của Sa-tan là chủ của họ (Eph 2:1-3) và hồ lửa là số phận của họ (Mat 7:13-23; Kh 20:10-15).
Khi bạn nhìn lại hậu quả, bạn có thể hiểu rõ hơn cách Sa-tan dẫn con người đến chỗ bất tuân. Một khi chúng ta bắt đầu nghi vấn Lời Đức Chúa Trời, chúng ta được chuẩn bị để chối bỏ Lời Ngài và tin những lời giả dối của Sa-tan. Khi ấy chỉ một bước ngắn nữa là đi đến việc tin những lời hứa của Sa-tan và bất tuân những mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.
Khi Chúa chúng ta bị cám dỗ (Mat 4:1-11), Ngài đáp lại những lời giả dối của Sa-tan bằng chân lý của Đức Chúa Trời và ba lần khẳng định “có lời chép!”. Sa-tan muốn lừa dối tâm trí chúng ta (IICo 11:3), nhưng chúng ta đánh bại nó bằng cách sử dụng những vũ khí thuộc linh Đức Chúa Trời cung cấp (Eph 6:10-18 IICo 10:4-5).
3. Bi kịch (Sa 3:6-8)
Con người được dựng nên để họ phải tin điều gì đó. Nếu họ không tin chân lý, vậy cuối cùng họ sẽ tin những điều giả dối (IITe 2:10). Nhưng nếu họ tin những điều giả dối, họ sẽ phải chịu những hậu quả luôn xảy đến khi con người chối bỏ chân lý của Đức Chúa Trời.
• Sự bất tuân (Sa 3:6).
Trước hết Ê-va hái trái cây và ăn nó, rồi bà đem một phần trái cây cho chồng và ông đã ăn nó, vì vậy cả hai đã bất tuân Chúa. Ê-va bị lừa dối, nhưng A-đam cố tình phạm tội bằng mắt mở to (ITi 2:14). Đây là lý do Phao-lô chỉ vào A-đam, không phải Ê-va, như là người đã đem tội lỗi và sự chết vào trong dòng dõi loài người (Ro 5:12-21). “Như trong A-đam mọi người đều chết” (ICo 15:22).
Đức Chúa Trời nhìn thấy A-đam trước tiên là đầu của dòng dõi loài người, sự sáng tạo cũ. Khi A-đam phạm tội, chúng ta đã phạm tội trong ông và qua ông chịu những hậu quả của tội lỗi và sự chết. Nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy Chúa Giê-xu Christ là Đầu của Hội Thánh, sự sáng tạo mới (IICo 5:17).
Và qua hành động công bình của Ngài về việc vâng phục bằng cách chịu chết trên thập tự giá, chúng ta có sự sống và sự công bình. Vâng, tội lỗi và sự chết đang cai trị trong thế gian này, nhưng ân điển và sự công bình cũng đang cai trị bởi Đấng Christ (Ro 5:14, 17, 21). Đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ cất chúng ta khỏi A-đam và ở trong Đấng Christ, chúng ta được tiếp nhận trong sự công bình của Ngài.
Ê-va đã phạm tội vì bà bị quyến rũ đối với trái cây cấm. Bà đang bước đi bởi ngoại cảnh chớ không bởi đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời. Sa 3:6 tương tự với IGi 2:16 “ích lợi vì thức ăn”, “sự mê tham của xác thịt”, “sự khoái lạc của mắt”, “sự mê tham của mắt”, “khao khát được sự khôn ngoan” (NIV), “Sự kiêu ngạo của đời”. Đây là những điều thôi thúc con người của thế gian ngày nay. Và khi dân sự Đức Chúa Trời bắt đầu suy nghĩ giống như thế gian, họ bắt đầu sống giống như thế gian.
Chúng ta biết vì sao Ê-va chịu thua sự cám dỗ, nhưng vì sao A-đam cố tình phạm tội khi ông biết nó trái với ý muốn Đức Chúa Trời? Ông không thấy một sự thay đổi trong Ê-va và nhận ra rằng vợ ông đã không ở trong phạm vi đời sống như bà đã ở trước đây sao? Ông phải thực hiện một sự kiện lựa chọn giữa việc vâng lời Đức Chúa Trời và ở với người vợ mà ông chắc chắn yêu sao? Đây là những câu hỏi mà Kinh Thánh không nêu ra, cũng không trả lời, và thật không khôn ngoan để chúng ta suy đoán. A-đam đã chọn lựa, một chọn lựa sai lầm, và con người đã chịu khổ từ đó.
• Sự hiểu biết (Sa 3:7a).
Sa-tan hứa rằng họ sẽ “giống Đức Chúa Trời” và biết điều thiện cùng điều ác, và lời hứa của nó đã ứng nghiệm một cách bi thảm. A-đam và Ê-va đánh mất sự vô tư và lần đầu tiên có một sự nhận biết cá nhân về việc phạm tội nghĩa là gì. Không cần thiết cho hạnh phúc của họ để họ có sự hiểu biết này, và sẽ tốt hơn nếu họ vâng lời và tăng trưởng trong sự hiểu biết về Đức Chúa Trời (Gi 7:17).
Trong Kinh Thánh, việc phơi bày thân thể lõa lồ một cách không xấu hổ có liên quan đến sự thờ hình tượng (Xu 32:25), sự say sưa (Sa 9:20-23; Ha 2:15) và sự tin theo ma quỉ (Lu 8:26-39; Cong 19:16). Đó là một đặc điểm của một xã hội suy đồi trên ngưỡng cửa của sự huỷ diệt khi con người thực hiện một cuộc kinh doanh từ việc phơi trần thân xác lõa lồ của con người một cách trắng trợn để làm mục tiêu của sự khoái lạc xác thịt, hoặc qua con người, tranh ảnh, phim. Sách báo khiêu dâm là sự kinh doanh lớn trong xã hội ngày nay.
• Sự xấu hổ (Sa 3:7b).
Lần đầu tiên nhận ra sự loã lồ của mình, (Sa 2:25), họ nhanh chóng làm những vật che thân. Tội lỗi phải khiến chúng ta xấu hổ về chính mình. Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một quan án bên trong gọi là “lương tâm”, tố cáo khi chúng ta làm sai và tán thành khi chúng ta là làm đúng (Ro 2:12-16).
Một Cơ-đốc nhân người Mỹ đã ví sánh lương tâm như một mũi tên trong lòng mình. “Nếu tôi làm sai, nó quay lại và làm tôi đau cho đến khi tôi làm đúng. Nhưng nếu tôi cứ làm sai, mũi tên tiếp tục xoay và làm mòn mũi nhọn, vì vậy nó không làm đau nữa”.
Kinh Thánh gọi điều đó là một “lương tâm chai lì” (ITi 4:2) hoặc một “lương tâm xấu” (He 10:22) không còn thực hiện đúng chức năng.
Khi con người không còn xấu hổ về tội lỗi mình, tính cách của họ đã mất. “Họ xấu hổ khi họ phạm tội gớm ghiếc ư? Không! Họ chẳng xấu hổ chút nào. Họ cũng chẳng biết thẹn đỏ mặt” (Gie 6:15 Gie 8:12 NKJV). “Nhưng ngươi có cái nhìn trơ tráo của gái dâm đãng; ngươi không đỏ mặt vì xấu hổ” (Gie 3:3 NIV). Những tội lỗi từng được vi phạm dưới sự che đậy của sự tối tăm giờ đây được phô trương công khai qua phim ảnh và trên truyền hình, và khi người ta phản đối, họ bị gọi là “người làm ra vẻ đoan trang” hoặc là “bọn Thanh giáo”.
• Sự sợ hãi (Sa 3:8).
Tội lỗi sinh ra sự xấu hổ và lỗi lầm, và cả 2 khiến người phạm tội muốn trốn tránh. A-đam và Ê-va cảm thấy xấu hổ vì tình trạng của họ (loã lồ) và họ cảm thấy có lỗi vì điều họ đã làm (bất tuân Đức Chúa Trời). Lỗi lầm và sự sợ hãi thường đi đôi với nhau, điều đó giải thích lý do hai vợ chồng không muốn vui hưởng sự giao thông vào buổi chiều với Chúa trong vườn, A-đam thừa nhận “Tôi sợ” (c.10). Tìm cách trốn tránh Chúa chắc chắn là một nỗ lực vô ích (Thi 139:1-12), nhưng tội nhân vẫn cố thử điều không thể làm được.
Sự xấu hổ, sự sợ hãi và lỗi lầm biến đổi con người bên trong đến nỗi A-đam và Ê-va không thể vui hưởng gia đình trong khu vườn xinh đẹp của họ nữa. Những cây họ đã chăm sóc và say mê mà từ đó họ đã ăn, giờ chỉ là “những vật” được dùng để che giấu hai tội nhân khiếp sợ khỏi mặt Đức Chúa Trời.
Đây không phải là điều các cây muốn làm, nhưng chúng không có sự chọn lựa.
Thiên nhiên là một cửa sổ qua đó chúng ta thấy Đức Chúa Trời, nhưng A-đam và Ê-va đã biến nó thành một cánh cửa bị khoá để giữ Đức Chúa Trời ở ngoài ! Một ngày kia Chúa Cứu Thế sẽ chịu chết trên một cây để tội nhân sợ hãi có thể đến với Chúa và tìm thấy sự tha thứ.
4. Sự khám phá (Sa 3:9-13)
Cách Đức Chúa Trời xuất hiện ra sao với tổ phụ đầu tiên của chúng ta, khi họ giao thông với Ngài trong vườn thì không được giải thích cho chúng ta. Có thể Ngài mang lấy một thân xác tạm thời che đậy, sự vinh hiển của Ngài như Ngài sẽ làm khi Ngài thăm viếng Áp-ra-ham nhiều năm sau đó (Sa 18:1).
• Tìm kiếm (Sa 3:8).
A-đam và Ê-va lẽ ra phải chạy đến với Đức Chúa Trời, xưng tội lỗi của họ, và cầu xin sự tha thứ của Ngài. Nhưng trái lại, họ đang trốn tránh Đức Chúa Trời, và Ngài phải tìm ra họ. “Chẳng có một người nào hiểu biết, chẳng có một người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời” (Ro 3:11).
Nhà truyền giáo Billy Sunday nói rằng tội nhân không thể tìm thấy Đức Chúa Trời vì lý do tương tự như phạm nhân không thể tìm thấy cảnh sát: họ không tìm kiếm.
Đức Chúa Trời đã bị gián đoạn sự nghỉ ngơi ngày Sa-bát để đi tìm người nam và người nữ Ngài đã dựng nên theo hình ảnh Ngài. [41] Khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên đất, Ngài đã phán: “Bởi Con người đã đến tìm và cứu kẻ bị mất” (Lu 19:10). Ngài cũng làm gián đoạn ngày Sa-bát để chữa lành một người bệnh (Gi 5:1-16) và một người mù (Gi 9:1-41), và sự bênh vực của Ngài trước các chức sắc tôn giáo mù quáng là: “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta đây cũng làm việc như vậy…Con chẳng tự mình làm việc gì được; chỉ làm điều chi mà Con thấy Cha làm, vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy” (Gi 5:17, 19). Ngày nay, bởi sự làm chứng của Hội thánh, Thánh Linh đang tìm kiếm kẻ hư mất và đem họ đến với Chúa Cứu Thế (Gi 16:7-11 Cong 1:8).
• Phán ra (Sa 3:9-13).
Đức Chúa Trời đã đặt những câu hỏi không phải vì Ngài cần thông tin. Là Đức Chúa Trời, Ngài biết mọi sự. Đúng hơn, Ngài đặt những câu hỏi vì lợi ích của chúng ta, để cho chúng ta cơ hội đối diện với những sự thật, thành thật và xưng nhận tội lỗi mình. Tuy nhiên, chúng ta đừng nghĩ việc Đức Chúa Trời phán với A-đam và Ê-va như một ông chủ độc ác nói với một nô lệ bất tuân hay một quan án giận dữ phán với một phạm nhân bị kết án. Đúng hơn, đó là một người cha có lòng tan vỡ nói với những đứa con bướng bỉnh của mình trong tình yêu.
Trước hết, Ngài gọi A-đam để cho ông cơ hội trả lời và công khai bước ra [42] Việc Đức Chúa Trời gọi ông là một hành động của ân điển, vì Đức Chúa Trời có thể phán lời xét đoán hủy diệt A-đam và Ê-va một cách công bằng. Sự kỳ diệu đầy nhân từ khác đó là A-đam có thể nghe tiếng Đức Chúa Trời và đáp lại, vì bản chất bên trong của ông đã bị tội lỗi làm ô uế đến nỗi ông không muốn đối diện với Đức Chúa Trời.
Khi A-đam và Ê-va ra khỏi chỗ ẩn núp, A-đam xưng nhận sự xấu hổ của họ (họ lõa lồ) và sự sợ hãi của họ (họ phạm tội). Không cần nói công khai, A-đam thừa nhận rằng họ đã ăn trái của cây cấm. Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời trực tiếp hỏi ông rằng ông có ăn trái ây đó hay không, A-đam không bao giờ nói “Vâng, tôi đã ăn !” Ngược lại, ông đổ lỗi cho Đức Chúa Trời và vợ ông ! Khi Đức Chúa Trời chất vấn Ê-va, bà đổ lỗi cho con rắn. (Bà không nói “Con rắn mà Chúa đã dựng nên”, nhưng có lẽ bà nghĩ vậy). Có những lời bào chữa nhưng không có những lời thú nhận.
Xin trích dẫn Billy Sunday lần nữa: “Lời bào chữa là bề ngoài của một lý do chứa đầy sự giả dối”. Vâng, Ê-va đã cho A-đam trái cây vì con rắn đã dụ dỗ bà, nhưng đó không phải là lý do A-đam phải bất tuân Đức Chúa Trời. Khi con người bắt đầu tạo ra những lời bào chữa, đó là chứng cớ họ không cảm biết sự ghê gớm của tội lỗi mình hoặc mình xưng nhận tội và ăn năn. Nếu tội nhân có thể tìm thấy lỗ hỏng nào đó, họ sẽ chạy nhanh qua đó như có thể.
5. Án phạt (Sa 3:14-19)
Tình yêu của Đức Chúa Trời đối với tội nhân tuyệt nhiên không loại trừ sự căm ghét thánh khiết của Ngài đối với tội lỗi, vì trong lúc “Đức Chúa Trời đúng là sự yêu thương” (IGi 4:8, 16), cũng đúng là “Đức Chúa Trời là sự sáng” (IGi 1:5). Một Đức Chúa Trời thánh khiết phải giải quyết tội lỗi, vì ích lợi của tội nhân và vì vinh hiển của danh Ngài.
• Con rắn (Sa 3:14-15).
Đức Chúa Trời trước hết tuyên án trên con rắn và sau đó trên ma quỷ là kẻ đã lợi dụng con rắn. Dường như sinh vật mà Sa-tan sử dụng vốn đứng thẳng, vì Đức Chúa Trời đã hạ nó xuống bằng cách đặt nó trong bụi đất (Thi 72:9 Es 49:23 Mi 7:17). Mặc dù Đức Chúa Trời đã rủa sả con rắn và đất (Sa 3:17). Ngài không bao giờ rủa sả A-đam và Ê-va.
Lời Đức Chúa Trời đối với Sa-tan (c.15) được gọi là “protevangelium”. “Tin Lành đầu tiên”, vì đây là lời rao báo đầu tiên về Đấng Cứu Chuộc sẽ đến được tìm thấy trong Kinh Thánh. Đối với dân sự Đức Chúa Trời thời Cựu-ước, câu này là một sự báo trước của hy vọng (Ga 4:1-4). Đối với Sa-tan, đó là sự tuyên chiến của Đức Chúa Trời, lên đến đỉnh điểm trong sự kết án dành cho nó (Ro 16:20). Và đối với Ê-va, đó là sự bảo đảm rằng bà được tha thứ và Đức Chúa Trời sẽ sử dụng một người nữ để đem Đấng Cứu Chuộc vào thế gian (ITi 2:13-15).
• Con cháu (“hạt giống”) của con rắn và của người nữ tượng trưng cho gia đình của Sa-tan và gia đình của Đức Chúa Trời. Trong ví dụ về hạt giống (Mat 13:24-30, 36-43), Chúa Giê-xu xác định rõ rằng Sa-tan có “con cái”, những người xưng là tín hữu thật nhưng thực tế là những kẻ giả mạo. Ví dụ bày tỏ rằng nơi đâu Đức Chúa Trời “trồng” một đứa con thật của vương quốc, Sa-tan đều đến và trồng một thứ giả mạo ! Cả hai mọc cùng nhau và sẽ không được phân cách cho đến mùa gặt cuối kỳ.
Đây là những người chối bỏ Chúa Giê-xu Christ và nhờ cậy một cách tin tưởng nơi sự công bình riêng của họ trong tôn giáo để đưa họ vào Thiên Đàng. Người Pha-ri-si là “con cái của ma quỷ” theo như Giăng Báp-tít (Mat 3:7-10) và Chúa Giê-xu (Mat 12:34; Mat 23:15, 28, 33; Gi 8:44). Không có ghi chép nào cho thấy Chúa Giê-xu gọi những người thâu thuế và tội nhân là “con cái của ma quỷ”, Ngài dành danh hiệu đó cho những người Pha-ri-si công bình riêng đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá.
Vì vậy suốt lịch sử, đã có một xung đột giữa Sa-tan và Đức Chúa Trời, con cái của Sa-tan và con cái Đức Chúa Trời. Như chúng ta sẽ khám phá trong bài học tới, cuộc chiến đã tiếp tục với Ca-in giết A-bên, vì Ca-in là “thuộc về kẻ ác” (IGi 3:12), là con cái của ma quỷ.
Suốt lịch sử Do-thái, những kẻ thù của các tiên tri thật là những tiên tri giả những kẻ cũng nhơn danh Đức Giê-hô-va mà nói.
Chúa Giê-xu và Phao-lô đã mô tả những giáo sư giả là những kẻ giả mạo, “những con sói trong lốt chiên” (Mat 7:13-15; Cong 20:28-31). Sa-tan kẻ giả mạo luôn để con cái của nó sẵn sàng chống đối dân sự của Đức Chúa Trời. Vào cuối kỳ, điều đó sẽ dẫn đến Đấng Christ chống lại Anichrist, kiệt tác giả mạo của Sa-tan (IITe 2:1-17; Kh 13:1-18) [43] Tại thập tự giá, Sa-tan đã “làm thâm tím” gót chân Đấng Christ, nhưng vì sự chết và sống lại của Ngài, Đấng Christ đã giày đạp đầu Sa-tan và giành chiến thắng hoàn toàn trên nó (Eph 1:17-23; Co 2:14-15).
• Người nữ (Sa 3:16).
Đức Chúa Trời củng cố lời hy vọng của Ngài đối với Ê-va bằng cách bảo đảm với bà rằng bà sẽ sinh con cái và vì vậy không chết ngay [44] Nhưng đặc quyền của người nữ với tư cách người sinh con (và cuối cùng là người đem Đấng Cứu Chuộc vào thế gian) sẽ bao gồm sự đau đớn bội phần trong sự mang thai cũng như sự đầu phục chồng.
Sự đầu phục này không được xem như một phần của sự rủa sả hay như một chỉ thị để những người chồng có quyền tối cao trên vợ họ. Tân-ước cho thấy rõ rằng chồng và vợ những người yêu nhau và được đầy dẫy Thánh Linh sẽ vâng phục nhau (Eph 5:18; ICo 7:1-6).
• Người nam (Sa 3:17-19).
Ê-va sẽ có sự đau đớn trong việc sinh con, nhưng A-đam sẽ có sự cực nhọc trong công việc khó nhọc hằng ngày nơi đồng ruộng. Khi làm việc để có thức ăn, A-đam sẽ đương đầu với những trở ngại, phải làm khó nhọc và đổ mồ hôi để được một vụ mùa, và điều này sẽ nhắc nhở ông rằng sự bất tuân của ông đã ảnh hưởng đến muôn vật (Ro 8:18-23). Hơn thế, khi ông cày cấy đất, ông sẽ nhớ rằng một ngày nào đó ông sẽ chết và trở về với đất mà từ đó ông đã đến. A-đam người làm vườn đã trở thành A-đam người lao động khó nhọc.
6. Sự phục hồi (Sa 3:20-24)
Vì cớ tính cách và Luật pháp của Đức Chúa Trời, Ngài phải xét đoán tội lỗi, nhưng vì cớ Con yêu dấu của Ngài, Đức Chúa Trời vui lòng tha thứ tội lỗi. Hãy nhớ, Chúa Giê-xu là Chiên Con “đã bị giết từ buổi sáng thế” (Kh 13:8 Cong 2:23 Cong 4:27-28), vì vậy Đức Chúa Trời đã thực hiện việc ban cho sự tha thứ và sự cứu rỗi.
• Một tên mới (Sa 3:20).
A-đam tin những lời hứa của Đức Chúa Trời (c.15-16) và gọi tên vợ ông là “Ê-va’ nghĩa là “sự sống”. Đức tin đơn giản là tin Lời Đức Chúa Trời và hành động theo lời ấy.
• Quần áo mới (Sa 3:21).
Đáp ứng của Đức Chúa Trời đối với đức tin của A-đam và Ê-va là bỏ những quần áo tầm thường do tự tạo và mặc cho họ quần áo có thể chấp nhận được mà chính Ngài đã cung cấp (Es 61:10). Các thú vật vô tội đã phải chết để người nam và người nữ có thể có một khởi đầu mới và trở lại sự tương giao với Chúa. Đó là một bức tranh về điều Chúa Giê-xu đã làm cho tội nhân trên thập tự giá khi Ngài chịu chết vì một thế giới tội lỗi (IICo 5:21).
• Một gia đình mới (Sa 3:2-24).
Nếu A-đam và Ê-va ăn trái cây sự sống, họ sẽ sống mãi trên đất như những tội nhân, và tương lai của họ sẽ ảm đạm. Một ngày nào đó họ phải chết vì “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Ro 6:23). Vì thế, Chúa đã trục xuất hai vợ chồng khỏi vườn. Thật ra, Sa 3:24 nói rằng Ngài “đuổi” họ ra. (Sa 4:14; Sa 21:10). Đức Chúa Trời đặt các thiên binh canh gác tại lối vào vườn để chắc chắn A-đam và Ê-va không tìm cách trở vào. Con đường đến “Cây sự sống” ngày nào đó sẽ được Chúa Giê-xu Christ mở ra bởi sự chết của Ngài trên thập tự giá (Gi 14:6; He 10:1-25; Kh 2:7; Kh 22:1-2, 14, 19). [45]
Đời sống hằng ngày giờ đây sẽ trở thành một cuộc chiến đối với người nam và người nữ ở ngoài vườn khi họ lao khổ để có đồ ăn và nuôi gia đình họ. Họ vẫn có thể có mối tương giao với Đức Chúa Trời, nhưng họ hằng ngày sẽ chịu những hậu quả của tội lỗi và con cháu đời sau họ cũng sẽ như vậy. Luật của tội lỗi và sự chết giờ đây sẽ vận hành trong dòng dõi loài người cho đến cuối kỳ, nhưng sự chết và sự sống lại của Chúa Cứu Thế sẽ giới thiệu một luật mới: “Vì Luật pháp của Thánh Linh sự sống trong Chúa Giê-xu Christ đã khiến tôi tự do khỏi luật của tội lỗi và sự chết” (Ro 8:2 NKJV).
5. Ở SÂN KHẤU TRUNG TÂM – CA-IN (Sa 4:1-24)
Shakespeare đã viết: “Cả thế giới là một sân khấu, và mọi người nam người nữ chỉ là những diễn viên. Họ đều có lối ra và lối vào, và một người trong đời của mình diễn nhiều vai”. [46]
Bạn có nhớ những lời tương tự đó ở văn chương Anh 101? Shakespeare đã đúng: Chúng ta có nhiều vai để đóng trong đời khi từng lúc chúng ta liên hệ với nhiều người và đương đầu với những hoàn cảnh khác nhau. Điều quan trọng là chúng ta để Đức Chúa Trời viết kịch bản, phân vai và hướng dẫn sự hành động. Nếu chúng ta coi thường Ngài và tìm cách tự mình sáng tác vở kịch, câu chuyện sẽ có một kết thúc bi thảm.
Đó là điều đã làm hư hỏng Ca-in, đứa con loài người đầu tiên đươc sinh ra trên sân khấu của Hành tinh trái đất: Ông đã không để ý đến kịch bản của Đức Chúa Trời, “làm việc riêng của mình: và tạo ra một tình trạng lộn xộn từ điều đó.” Sáng-thế ký đoạn 4 tập trung đèn sân khấu vào Ca-in, ông được đề cập 13 lần, và 7 lần A-bên được biết là “em của Ca-in”. Khi bạn xem xét đời sống của Ca-in và một số vai ông đóng, bạn sẽ hiểu rõ hơn thật quan trọng thể nào để chúng ta biết Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn Ngài.
1. Người anh (Sa 4:1-2a)
Đức Chúa Trời ra lệnh cho tổ phụ đầu tiên của chúng ta “sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất” (Sa 1:28), và họ đã vâng theo mệnh lệnh này (Sa 5:4). Mặc dù đúng là việc xây dựng một gia đình không phải là mục đích duy nhất cho hôn nhân, và không phải mọi cuộc hôn nhân đều được chúc phước bằng con cái, cũng đúng rằng con cái là một món quà quý giá từ Đức Chúa Trời (Sa 33:5 Sa 48:9 Thi 127:3) và phải được đón nhận bằng sự vui mừng.
Dân Do-thái thời Cựu-ước và Cơ-đốc nhân trong Hội thánh thế kỷ thứ I sẽ kinh hoàng vì những thống kê về sự phá thai ngày nay và triết lý của những con người đã tạo ra chúng.
Tên “Ca-in” nghe giống như từ Hê-bơ-rơ nói về “đạt được”. Ê-va đã ca ngợi Đức Chúa Trời vì Ngài giúp bà vượt qua sự mang thai đầu tiên. Xét cho cùng, đây là một kinh nghiệm mới đối với bà và bà không có bác sĩ hay hộ sinh nào giúp đỡ bà. Sự mang thai thứ nhì của bà đem A-bên vào thế gian. Tên ông nghĩa là “hơi thở” và là từ được dịch là “sự hư không” ít nhất 38 lần trong sách Truyền-đạo. Tên của Ca-in nhắc nhở chúng ta rằng sự sống đến từ Đức Chúa Trời, còn tên của A-bên cho chúng ta biết rằng sự sống là ngắn ngủi.
Sáng-thế ký là một “cuốn sách gia đình” và có nhiều điều để nói về anh em.
Là con trưởng, Ca-in đặc biệt được chú ý, nhưng vì tội lỗi mình, ông dã đánh mất mọi sự và Sết thế chỗ ông (Sa 4:25). Ích-ma-ên là con đầu lòng của Áp-ra-ham, nhưng Đức Chúa Trời đã không lưu ý ông và chọn Y-sác, Ê-sau là con đầu lòng của Y-sác, nhưng ông đã bị khước từ vì Gia-cốp. Và con đầu lòng của Gia-cốp là Ru-bên bị thay thế bởi 2 con trai của Giô-sép (Sa 49:3-4; ISu 5:1-2).
Thật ra, Đức Chúa Trời thậm chí đã sắp xếp lại trật tự ra đời của các con trai Giô-sép (Sa 48:8-22). Suốt lịch sử Cựu-ước, quyền tối cao của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong việc Ngài chọn lựa những người nhận sự chúc phước của Ngài, vì mọi điều chúng ta nhận lãnh đều là bởi ân điển của Đức Chúa Trời.
Sự tranh cạnh ruột thịt giữa vòng các anh em là chủ đề khác trong Sáng-thế ký. Ích-ma-ên bắt bớ Y-sác, Gia-cốp bỏ nhà để Ê-sau không thể giết ông, và các anh của Giô-sép có ý định giết ông nhưng quyết định bán ông làm nô lệ. Khi tội lỗi bước vào dòng dõi loài người, nó cho chúng ta những gia đình hỗn loạn và tan vỡ, và chỉ có Chúa mới có thể kết hợp gia đình trở lại.
2. Người làm việc (Sa 4:2b)
Khi các con trai mình lớn lên, A-đam đặt họ làm việc trong những cánh đồng, và rõ ràng qua những năm tháng cho thấy mỗi con trai có những quan tâm và kỹ năng riêng của mình. Ca-in trở thành một nông dân và A-bên trở thành một người chăn chiên, là người đầu tiên trong nhiều người chăn chiên được tìm thấy trong Kinh Thánh, kể đến Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và các con trai ông, Môi-se và Đa-vít.
A-đam chắc chắn đã dạy các con trai ông lý do họ làm việc: đó là một phần trong mệnh lệnh ở sự sáng tạo của Đức Chúa Trời và họ là những người cộng tác với Đức Chúa Trời (Sa 1:26-31). Công việc không phải là một sự trừng phạt từ Đức Chúa Trời bởi cớ tội lỗi, vì A-đam đã có công việc để làm trong vườn trước khi ông và vợ ông đầu hàng sự cám dỗ của Sa-tan. Cách tiếp cận với công việc theo tinh thần Kinh Thánh đó là chúng ta được ban đặc quyền hợp tác với Đức Chúa Trời bằng cách dùng các khả năng trong sự tạo dựng của ngài vì lợi ích của con người, vì vinh hiển của Đức Chúa Trời (Co 3:22-23; ITe 4:11-12; Tr 9:10).
Công việc trong ý muốn của Đức Chúa Trời không phải là một sự rủa sả, đó là một phước hạnh “Trong 6 ngày ngươi hãy lao động và làm mọi công việc mình” (Xu 20:9 NKJV) là một phần luật pháp của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên cũng như mệnh lệnh của Ngài để nghỉ ngơi vào ngày Sa-bát. Kinh Thánh không có điều gì tốt để nói về sự lười biếng hoặc những kẻ lười biếng chờ trông người khác chu cấp cho mình (IITe 3:6-15). Trước khi bắt đầu chức vụ công khai, Chúa Giê-xu đã lao động với tư cách một thợ mộc (Mac 6:3) và khi đi đường hay rao giảng, sứ đồ Phao-lô đã làm việc với tư cách một người may trại (Cong 18:1-3).
Là Cơ-đốc nhân chúng ta làm việc không phải chỉ để thanh toán những hóa đơn và chu cấp cho những nhu cầu của chúng ta. Chúng ta làm việc vì đó là cách Đức Chúa Trời chỉ định để chúng ta hầu việc Ngài và người khác, bởi đó quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta (ICo 10:31). Chúng ta làm việc không phải chỉ để kiếm sống, chúng ta làm viêc để tạo một đời sống, để phát triển những khả năng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, và để tìm cách gia tăng chất lượng cùng số lượng công việc của chúng ta.
Martin Luther bảo các cô gái trong trại sữa bò rằng họ có thể vắt sữa bò vì vinh hiển của Đức Chúa Trời và Theodore Roosevelt nói rằng “phần thưởng tốt nhất mà đời sống ban tặng là cơ hội để làm việc chăm chỉ ở công việc đáng làm.” Có lẽ các con trai đã hỏi cha họ vì sao công việc của họ quá khó khăn, và A-đam phải giải thích rằng Đức Chúa Trời đã rủa sả đất vì sự bất tuân của chính ông. “Ngươi sẽ ăn bánh bằng mồ hôi trên mặt mình” là lời tuyên án của Đức Chúa Trời (Sa 3:17-19 NKJV), và không có lối thoát.
Nhưng câu hỏi này sẽ cho A-đam cơ hội nhắc nhở các con trai của ông lời hứa của Đức Chúa Trời về một Đấng Cứu Chuộc và một ngày khi sự sáng tạo được giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi (c.15).
3. Người thờ phượng (Sa 4:3-7)
A-đam và Ê-va đã biết thờ phượng suốt những ngày kỳ diệu ấy trong vườn trước khi tội lỗi đem sự rủa sả của nó đến cho đời sống của họ và cho đất. Chắc chắn họ đã dạy con cái họ về Chúa và tầm quan trọng của việc thờ phượng Ngài. Những người làm việc cần phải là những người thờ phượng, nếu không họ có thể trở thành những kẻ thờ hình tượng, tập trung vào những sự ban cho chớ không phải Đấng Ban Cho, và quên rằng Đức Chúa Trời ban sức lực để làm việc và có của cải (Phu 8:10-20).
Khi Đức Chúa Trời mặc cho A-đam và Ê-va da thú (Sa 3:21) có lẽ Ngài đã dạy họ về của lễ và sự đổ huyết, và họ sẽ truyền lại chân lý này cho con cái họ. Sự thờ phượng thật là điều gì đó chúng ta phải học từ chính Đức Chúa Trời, vì chỉ một mình Ngài có quyền đặt để những quy tắc cho việc đến gần Ngài và làm đẹp lòng Ngài trong sự thờ phượng.
Đức Chúa Trời đã chấp nhận A-bên cùng của lễ của ông, và có lẽ bày tỏ điều này bằng cách giáng lửa từ trời để thiêu đốt những con vật (Le 9:24; IVua 18:38; ISu 28:26), nhưng Ngài đã khước từ Ca-in cùng của lễ của ông. Ca-in bị khước từ không phải vì của lễ của ông, nhưng của lễ của ông bị khước từ vì Ca-in, lòng ông không ngay thẳng với Đức Chúa Trời. Chính bởi “đức tin” mà A-bên dâng một của lễ được chấp nhận hơn so với Ca-in (He 11:41) nghĩa là ông có đức tin nơi Đức Chúa Trời và ngay thẳng với Đức Chúa Trời.
Trong những năm sau đó, luật pháp Môi-se mô tả những của lễ về lúa và hoa quả (Le 2:1-16; Phu 26:1-11), vì vậy chúng ta có lý do để tin rằng những của lễ như vậy có thể được chấp nhận từ ban đầu. Nhưng thậm chí nếu Ca-in đem đến những của lễ loài vật và làm đổ huyết chúng, chúng sẽ không được Đức Chúa Trời chấp nhận vì cớ tình trạng tấm lòng của Ca-in. A-bên đã đem đến vật tốt nhất ông có và thật sự tìm cách làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, nhưng Ca-in đã không có thái độ đó của đức tin. “Vả, sự vâng lời tốt hơn của tế lễ, sự nghe theo tốt hơn mỡ chiên đực” (ISa 15:22; Es 1:11-13; Os 6:6; Mi 6:6-8; Mac 12:28-34).
Việc người ta dự những buổi nhóm tôn giáo và tham gia vào những hoạt động của nhà thờ không phải là bằng chứng cho thấy họ là những tín hữu thật. Có thể có “một hình thức tin kính” nhưng không bao giờ kinh nghiệm quyền năng cứu rỗi (IITi 3:5). “Dân này chỉ lấy môi miệng tới gần ta, mà lòng chúng nó thì cách xa ta lắm” (Es 29:13; Mat 15:8). Những của lễ tốn kém nhất mà xa rời sự đầu phục của tấm lòng thì không bao giờ có thể khiến người thờ phượng trở nên ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời (Thi 51:16-17). “Đường của Ca-in” (Giu 1:11) là con đường của ý riêng và sự vô tín.
Khi Đức Chúa Trời khước từ của lễ của Ca-in, ông trở nên rất giận dữ (từ Hê-bơ-rơ ngụ ý rằng ông “nóng bỏng sự giận dữ”). Đức Chúa Trời phán với ông cách riêng tư và tìm cách dẫn ông trở lại con đường đức tin, nhưng Ca-in đã kháng cự. Điều đó giống như Chúa ban cho chúng ta cơ hội khác để vâng lời Ngài, và điều đó giống như những tội nhân ương bướng từ chối sự giúp đỡ nhân từ của Ngài.
Chúa cảnh cáo Ca-in rằng sự cám dỗ giống như một con thú dữ đang nép mình nơi cánh cửa của đời sống ông, và tốt hơn là ông không nên mở cửa. Thật nguy hiểm để mang những mối hận thù và nuôi dưỡng những cảm xúc cay đắng trong lòng chúng ta, vì tất cả những điều này có thể bị Sa-tan sử dụng để dẫn chúng ta vào sự cám dỗ và tội lỗi. Đây là điều Phao-lô muốn nói khi ông viết: “đừng cho ma quỷ nhơn dịp” (Eph 4:27). Nếu chúng ta không cẩn thận, chúng ta có thể cám dỗ chính mình và đem đến sự hư hỏng cho mình.
4. Kẻ giết người (Sa 4:8-10)
Chúng ta không thể phân cách mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời khỏi mối liên hệ của chúng ta với anh chị em mình. (Cả anh chị em ruột thịt cũng như anh chị em trong Chúa). Một tinh thần hay hiềm thù như Ca-in đã có, ngăn trở sự thờ phượng và phá huỷ mối thông công của chúng ta với Đức Chúa Trời và dân sự Đức Chúa Trời (Mat 5:21-26; Mat 6:14-16).
Thà chúng ta tạm ngưng sự thờ phượng và làm hòa với một người anh em còn hơn làm ô nhiễm của lễ của mình vì chúng ta có một ý tưởng xấu ở trong.
• Sự giết người (Sa 4:8).
Sự giận dữ là một động cơ mạnh mẽ có thể dẫn đến bạo lực và thậm chí là sự giết người. Chúa Giê-xu đã dạy rằng sự giận dữ trong lòng về mặt đạo đức là tương đương với hành động giết người bằng tay (Mat 5:21-26). Mỗi năm những người lái xe giận dữ đã gây ra những tai nạn giết chết 28.000 người trên các đại lộ nước Mỹ và những con người giận dữ vì bị sa thải khỏi công việc đã giết hằng trăm người vô tội. Nếu Ca-in chú ý đến lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời và chấp nhận sự mời gọi nhân từ của Ngài (Sa 4:7), ông sẽ không bao giờ trở thành một kẻ giết người.
Bao lâu sau khi sự thờ phượng của mình bị khước từ Ca-in đã dụ dỗ em mình ra xa khỏi nhà và giết đi? Có phải điều đó xảy ra vào cùng ngày hay ông đã ấp ủ vấn đề này một vài ngày? Có lẽ ông đã giết em mình trong lòng ông nhiều lần trước khi ông thật sự nhúng tay vào việc. Ông ghen tị em mình vì mối liên hệ của em ông với Đức Chúa Trời (IGi 3:12), nhưng Ca-in không sẵn sàng hòa thuận với Đức Chúa Trời. Khi chúng ta ghét người khác, đó là dấu hiệu chúng ta không bước đi trong sự sáng (IGi 2:9-11), và chúng ta không có tình yêu của Đức Chúa Trời trong lòng mình (IGi 3:10-16).
• Sự nói dối (Sa 4:9-10).
Ca-in là con cái của ma quỷ (IGi 3:12), [47] có nghĩa ông ta là một kẻ giết người và kẻ nói dối (Gi 8:44). Ông đã nói dối với em trai mình khi ông dụ người em đến nơi mà ông giết em. Ông đã nói dối với chính mình khi suy nghĩ rằng ông có thể làm một việc ác như thế và tránh được sự trừng phạt. Ca-in thậm chí đã tìm cách nói dối với Đức Chúa Trời và che đậy những việc gian ác của ông!. [48]
Có một sự tương đương rõ ràng giữa những cách đối xử của Đức Chúa Trời với Ca-in trong Sáng-thế ký đoạn 4 và những cách Ngài đối xử với A-đam cùng Ê-va trong Sáng-thế ký đoạn 3. Trong cả hai trường hợp, Chúa đều đặt những câu hỏi, không phải để lấy thông tin (vì Ngài biết mọi sự) nhưng để cho những kẻ có tội cơ hội nói sự thật và xưng nhận tội lỗi họ. Trong cả hai trường hợp, các tội nhân đều lảng tránh và tìm cách che giấu điều họ đã làm, nhưng cả hai lần Đức Chúa Trời đã đem tội lỗi họ ra ánh sáng và họ phải thừa nhận tội lỗi của mình.
A-đam và Ê-va đã chạy trốn khi họ nghe tiếng Đức Chúa Trời (c.8) nhưng Đức Chúa Trời đã nghe tiếng của A-bên kêu khóc từ đất và Ca-in không thể trốn tránh. [49] Sự đổ máu vô tội làm ô uế đất (Dan 35:30-34) và máu đó kêu khóc vì sự công bình (Giop 16:18; Es 26:21; Kh 6:9-10). [50] A-đam cùng Ê-va bị trục xuất khỏi vườn, và Ca-in trở thành kẻ lang thang bị khước từ trên đất.
Bạn càng nghĩ về tội lỗi Ca-in, nó càng trở nên ghê tởm. Sự giết người không bị thúc đẩy bởi sự cảm xúc tức thời; nó đã được suy tính trước một cách kỹ càng.
Ca-in không giết một kẻ lạ mặt để tự vệ, ông đã giết chính em mình vì đố kỵ và thù ghét. Hơn nữa, Ca-in đã làm điều đó sau khi ở bàn thờ để thờ phượng Đức Chúa Trời và bất chấp lời cảnh cáo và lời báo trước của Đức Chúa Trời. Cuối cùng một khi hành động kinh tởm đã được thực hiện, Ca-in xem nhẹ tất cả điều đó và tìm cách thoát ra bằng cách nói dối.
5. Kẻ lang thang (Sa 4:11-15)
Một kẻ lang thang không có nhà, một kẻ trốn tránh đang chạy khỏi nhà, một khách lạ xa nhà, nhưng một kẻ hành hương đang hướng về nhà. “Ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống” (Phu 30:19). Ca-in đã chọn lựa sai, và thay vì làm một người hành hương trong đời sống, ông trở thành một khách lạ và một kẻ trốn tránh, lang thang trên đất.
• Sự rủa sả của Đức Chúa Trời (c.12).
Đức Giê-hô-va đã rủa sả con rắn (Sa 3:14) và đất (c.17), nhưng Ngài không rủa sả A-đam và Ê-va. Tuy nhiên, Ngài đã rủa sả con trai họ là Ca-in, một đứa con của ma quỷ (con rắn). Ca-in đã làm ô uế đất bằng máu của em trai ông, và giờ đây đất sẽ không làm việc cho ông. Nếu A-đam lao khổ, và vật lộn ngày này qua ngày nọ, ông sẽ có một mùa gặt, nhưng Ca-in thì không bao giờ có được kết quả từ sự lao khổ của mình. Vì vậy ông không thể tiếp tục làm một nông dân. Tất cả những gì ông có thể làm là lang thang từ nơi này đến nơi khác và kiếm sống.
• Những hối hận của Ca-in (Sa 4:13-14).
Ca-in chẳng bao giờ ăn năn về tội lỗi mình, những lời của ông chỉ bày tỏ sự ân hận và hối tiếc. Ông không nói: “Sự vi phạm của tôi nhiều hơn tôi có thể mang”. Ông chỉ quan tâm đến sự trừng phạt, chớ không phải tính cách của mình. Nếu ông không lang thang từ nơi này sang nơi khác, ông sẽ ở trong nguy hiểm, nhưng nếu ông ở một nơi, ông sẽ chết đói. Đất đã trở nên nghịch với ông. [51] Bất cứ ai Ca-in gặp sẽ là một người bà con có thể muốn trả thù sự giết hại A-bên. Ông có thể làm gì?
Bởi việc thù ghét và giết em mình rồi không chịu ăn năn, Ca-in đã tạo ra cho mình một đời sống không thể chịu đựng nổi. Ông đã mở cửa cho sự cám dỗ (Sa 4:7) đóng cửa đối với gia đình, Đức Chúa Trời, và tương lai của ông. Cho dù ông sống ở đâu hay làm gì, Ca-in luôn là một người không yên nghỉ, là người không có phương cách chữa trị nào cho mình.
• Sự thương xót của Đức Chúa Trời (Sa 4:15).
Đức Chúa Trời đã làm một việc kỳ lạ: Ngài đặt một dấu trên Ca-in, là dấu sẽ bảo vệ ông khỏi những cuộc tấn công của những người muốn giết ông. Chúng ta không biết dấu này là gì hay vì sao người ta sẽ nhận ra nó như dấu bảo vệ của Đức Chúa Trời, nhưng nó có hiệu quả. Đây hoàn toàn là một hành động thương xót của Đức Chúa Trời.
Tại sao Đức Chúa Trời cho phép một kẻ giết người độc ác như Ca-in ra đi tự do? Trong sự thương xót của Ngài, Đức Chúa Trời không giáng cho chúng ta điều chúng ta đáng chịu, và trong ân điển của Ngài, Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta không đáng lãnh. Đó là bản tính của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời tha mạng cho Ca-in, nhưng đó không phải là kết thúc của câu chuyện.
Cuối cùng Ca-in đã chết và “sau sự chết là sự phán xét” (He 9:27). Toàn bộ sự văn minh mà ông đã xây dựng bị hủy hoại trong Cơn Nước Lụt, và sự ghi chép về đời sống được Thánh Linh để lại như một sự cảnh cáo cho bất cứ ai giả bộ thờ phượng, chơi đùa với tội lỗi và không xem sự cám dỗ là nghiêm trọng. “Đường của Ca-in” (Giu 1:11) không phải là con đường hẹp dẫn đến sự sống (Mat 7:13-14).
6. Người xây dựng (Sa 4:16-24)
Đức Chúa Trời giữ Lời Ngài và bảo vệ Ca-in khi ông lang thang. Một ngày kia, ông tìm thấy một nơi dường như thích hợp để ông định cư, và ông quyết xây một thành. Đất sẽ không đầu phục sức mạnh của nó trước sự lao nhọc của Ca-in với tư cách một nông dân, nhưng Ca-in có thể lao động, xây dựng trên đất và thành công. Tuy nhiên, Ca-in không bao giờ chấm dứt làm kẻ trốn tránh, vì địa danh nơi ông định cư nghĩa là “lang thang”.
Quyền công dân của ông không phải ở trên trời (Phi 3:20-21), ông cũng không có hy vọng gì để đến thành trên trời (He 11:9-16). Trời duy nhất mà Ca-in biết là thành của ông trên đất. [52]
Ca-in đã là một người có gia đình trước khi ông lang thang khỏi Ê-đen, hay ông đã tìm thấy một người vợ suốt những cuộc hành trình của mình? Ông đã nói cho nàng biết ông giết em mình chăng? Chúng ta không biết, nhưng chắc chắn ông phải giải thích dấu Đức Chúa Trời đã đặt trên ông. Ca-in tìm một người vợ là điều bình thường, vì ông không chỉ muốn xây một thành, nhưng cũng muốn xây dựng một gia đình. Có cách nào khác tên của ông có thể được nhớ đến ngoài con cháu ông? Ca-in không biết rằng tên ông và những việc làm xấu xa của ông sẽ được viết trong Lời của Đức Chúa Trời để mọi người đọc.
Vợ Ca-in sinh cho ông một con trai mà ông đặt tên là Hê-nóc, tên này có liên hệ với từ Hê-bơ-rơ chỉ về “hiến dâng”. Ca-in đặt tên thành của mình theo tên con trai ông, nhưng chúng ta không được cho biết thành được hiến dâng cho ai hay cho điều gì. Sáu thế hệ con cháu của Ca-in được kể tên (Sa 4:17-22), một số người đã nổi tiếng.
Lê-méc là người đầu tiên có hai vợ, ông cũng là một người khoe khoang và là một kẻ giết người. Vì sao và thể nào người trai trẻ làm ông bị thương, chúng ta không biết, nhưng tại sao một người trai trẻ phải bị giết vì đã gây nên một vết thương? Việc Lê-méc đề cập đến sự bảo vệ Ca-in (c.24) cho thấy câu chuyện của Ca-in đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nó cũng gợi ý rằng Lê-méc nghĩ sự bảo vệ của Đức Chúa Trời cũng mở rộng cho ông. Nếu Đức Chúa Trời báo thù cho một kẻ giết người như Ca-in, vậy chắc chắn Ngài sẽ báo thù cho Lê-méc cho việc “bảo vệ chính ông”. Hãy chú ý rằng Lê-méc muốn sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, nhưng ông không đề cập đến danh Đức Chúa Trời.
Dân trong thành Hê-nóc có những nghề nghiệp khác nhau. Một số người theo Gia-banh và chăn nuôi súc vật (c.20). Những người khác học từ em trai của Gia-banh là Giu-banh và bỏ hết tâm sức vào việc tạo và chơi các nhạc cụ (c.21). Những người theo Tu-banh Ca-in là những thợ rèn kim loại (c.22), điều này cho thấy về công nghiệp chế tạo nông cụ, dụng cụ xây dựng và vũ khí cá nhân. Ca-in đã sống trong một xã hội giàu có về văn hoá cũng như về công nghiệp và sự sản xuất thực phẩm. Trong thành Hê-nóc, họ có mọi thứ trừ Đức Chúa Trời.
Khi bạn đặt gia hệ của Ca-in tiếp theo gia hệ của Sết (chương 5), bạn không khỏi chú ý sự tương tự về các tên. Bạn có Hê-nóc và Ê-nót (c.6) rồi Hê-nóc (c.18), Mê-hu-da-ên và Ma-ha-la-le (c.12), Mê-tu-sa-ên và Mê-tu-sê-la (c.21), Lê-méc và Lê-méc (c.25). Lê-méc của Ca-in có 3 con trai (Gia-banh, Giu-banh và Tu-banh- Ca-in) và Nô-ê có 3 con trai (Sem, Cham và Gia-phết).
Sự tương tự này về các tên có nghĩa gì? Có lẽ đó là cách Đức Chúa Trời cho chúng ta biết rằng dòng dõi bất kính của Ca-in (vẫn ở cùng chúng ta) làm hết khả năng để bắt chước dòng dõi tin kính của Sết. Xét cho cùng, Sa-tan là kẻ giả mạo. Nó có thể bắt chước tên của những tín hữu thật, nhưng nó không thể tạo ra những tín hữu. Có một Hê-nóc trong hai gia phả, nhưng Hê-nóc của Ca-in không đồng đi với Đức Chúa Trời và một ngày nọ không biến mất và không đến Thiên Đàng! (c.24). “Có gì trong một cái tên?” Không gì cả, nếu bạn không biết và không thuộc về Chúa!
Nhưng bi kịch đó là hai dòng dõi, dòng dõi bất kính của Ca-in và dòng dõi tin kính của Sết – cùng đến và hoà hợp (Sa 6:1-2). Bức tường ngăn cách đã sụp đổ, và điều này cuối cùng tạo ra xã hội gian ác mà tội lỗi của nó đã đem đến sự đoán xét về Cơn Nước Lụt. Cái nhãn bạo lực của Lê-méc đã lần ra (c.5, 11, 12) và vào thời Nước Lụt chỉ có 8 người tin sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời và hành động theo bởi bức tin. Những người còn lại đã bị hủy diệt.
Gia phả của Ca-in đã kết thúc cùng với gia đình của Lê-méc (Sa 4:19-24), một kẻ giết người ngạo mạn có ba con trai chế tạo ra những đồ dùng cho thế giới này. Dòng dõi của Sết kết thúc với Nô-ê (“sự yên nghỉ”) là người có ba con trai đã cho thế giới một khởi đầu mới sau Cơn Nước Lụt. Thế giới thời ấy có lẽ khâm phục những thành tựu của Ca-in, Đức Chúa Trời đã xóa sạch họ khỏi mặt đất.
“Thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (IGi 2:17).
6. KHI QUAN ĐIỂM ẢM ĐẠM, HÃY CỐ GẮNG NHÌN LÊN (Sa 4:25-6:28)
Tội lỗi đã bước vào dòng dõi loài người, và chẳng bao lâu để sự đồi bại sinh sôi lan tràn và làm ô uế sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Giống như một khối ung thư, điều ác tiêm nhiễm sự văn minh và đem đến sự chết bất cứ nơi đâu nó đi. Những người quản trị của Đức Chúa Trời trên đất, được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, không thể quản lý chính đời sống mình chớ đừng kể đến sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, và mọi sự bắt đầu suy sụp.
1. Sết- một khởi đầu mới từ Đức Chúa Trời (Sa 4:25) (Sa 5:1-5)
Tia hy vọng duy nhất trong thời kỳ tăm tối đó là lời hứa của Đức Chúa Trời rằng một Đấng Cứu Chuộc ngày nào đó sẽ được sinh ra bởi một người nữ và chiến thắng con rắn (Sa 3:15). Nhưng A-bên đã chết, vì vậy ông không thể sinh con, và Ca-in kẻ giết người vô tín đã đi lang thang và xây một thành trong xứ Nốt, phía Đông Ê-đen. Lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện chăng? Làm sao nó có thể được thực hiện?
Đức Chúa Trời có quyền tối cao trong mọi sự và những kế hoạch của Ngài không bị làm thất bại bởi những cách ăn ở dại dột và tội lỗi của loài người. Vì Ngài là Đức Chúa Trời tối cao, Ngài “làm mọi sự theo dự định của ý muốn Ngài” (Eph 1:11 NKJV). “Nhưng Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên trời, Ngài làm bất cứ điều gì Ngài hài lòng” (Thi 115:3 NKJV). Chúa đã giúp Ê-va có thể thụ thai và sinh một con trai là người được bà đặt tên là Sết (“được ban cho”) vì Đức Chúa Trời đã chỉ định ông thay thế cho A-bên.
Sa 5:1-32 là gia phả đầu tiên trong Kinh Thánh và giới thiệu “sách về dòng dõi của A-đam” (c.1). Mười thế hệ được liệt kê ở đây, từ A-đam cho đến Nô-ê, giống như 10 thế hệ được liệt kê từ Sem đến Áp-ra-ham trong “dòng dõi của Sem” (Sa 11:10-26) [53] Tám lần trong Sáng-thế ký đoạn 5, bạn tìm thấy nhóm từ buồn bã “và ông chết” vì sự chết giờ đây đã cai trị trên loài người bởi tội lỗi của A-đam (Ro 5:12-17, 21). Tội lỗi và sự chết vẫn cai trị hôm nay nhưng nhờ Chúa Giê-xu Christ, chúng ta có thể “cai trị trong sự sống” (Ro 5:17, 21).
Trong lịch sử Kinh Thánh, sự ra đời của một con trẻ rất thường tạo nên một thay đổi giữa sự thất bại và chiến thắng đối với dân sự Đức Chúa Trời. Suốt những năm khó khăn của dân Do-thái ở Ai-cập, Môi-se đã ra đời và trở thành người giải phóng dân tộc ông (Xu 2:1-10). Khi ngọn đèn của lời tiên tri cháy rất yếu, Sa-mu-ên được sinh ra để đem Y-sơ-ra-ên trở lại với Lời Đức Chúa Trời (ISa 1:1-3:21), và khi vương quốc đang tan rã dưới quyền Sau-lơ, Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sai một con trai, người mà ông đặt tên là Đa-vít, người Đức Chúa Trời đã chọn để làm vua kết tiếp (Ru 4:18-22; ISa 16:1-23). Tại một thời điểm rất suy yếu trong lịch sử Do-thái, bởi ân điển Đức Chúa Trời, một con trai bé nhỏ đã tiếp nối dòng Mê-si-a từ Đa-vít (IIVua 11:1-3). Mặc cho những cuộc tấn công của Sa-tan và sự bất tuân của dân sự Ngài, Đức Chúa Trời đã thành tín hành động để lời hứa của Ngài về một Đấng Cứu Chuộc sẽ được thực hiện.
Biết được điều này sẽ khích lệ dân sự Đức Chúa Trời khi họ thấy thế gian ngày càng hướng về tội lỗi và sự chống nghịch. Đức Chúa Trời có quyền tối cao và Ngài sẽ thực hiện những mục đích của Ngài.
2. Ê-nót - kêu cầu Đức Chúa Trời (Sa 4:26) (Sa 5:6-11)
Sết được 105 tuổi thì con trai của ông là Ê-nót ra đời (516). “Ê-nót” nghĩa là “con người” và đến từ một từ Hê-bơ-rơ có nghĩa “mỏng manh yếu đuối”. Đó là từ chỉ về con người, nhấn mạnh chúng ta thật sự mỏng manh và yếu đuối biết bao trong chính mình.
Một điều đáng chú ý được ghi lại có liên quan đến sự ra đời của con trai này: vào thời đó, con người bắt đầu nhóm lại để thờ phượng Đức Chúa Trời, rao danh Ngài và cầu nguyện. [54] Có một sự phục hưng về sự thờ phượng chung và sự cầu nguyện tin kính khi con cháu của của Sết nhóm nhau trong danh của Chúa. Trong khi dân Ca-in trần tục khoe khoang về sức mạnh và sự can đảm của họ (Sa 4:23-24), dân Sết tin kính qui vinh hiển cho danh của Chúa.
Suốt thánh sử, chính những người tin kính còn sót lại đã giữ cho công việc Chúa tiếp tục trên thế giới. Từ đời này sang đời khác, dân tộc Y-sơ-ra-ên đã chìm đắm trong sự thờ hình tượng và trạng thái hôn mê về thuộc linh, nhưng một số người tin kính sót lại được dấy lên để giữ cho ánh sáng tiếp tục cháy. Những con người can đảm này đã cầu xin Đưc Chúa Trời sự giải cứu, Ngài nghe họ và đáp lời cầu nguyện của họ.
Sau Cơn Nước Lụt, gia đình nhỏ của Nô-ê là những người sót lại được Đức Chúa Trời sử dụng để cư trú trên đất. Tiên tri Ê-li nghĩ chỉ một mình ông hầu việc Đức Giê-hô-va, nhưng 7.000 người trong xứ vẫn trung tín với Chúa (IVua 19:9-18). Bất cứ ai đã viết Thi 119:1-176 người ấy là người thuộc về một số người trung tín còn sót lại (c.63) và những tiên tri viết về những người tin kính sót lại trong thời của họ (Es10:20-23; Es 37:31-32; Gie 11:23; Mi 4:7; Ma 3:16).
Ê-sai đã đặt tên cho một trong số các con trai ông là “một số người sót lại sẽ trở về” (Es 7:3) và một số người sót lại thật đã trở về xứ họ sau sự lưu đày ở Ba-by-lôn. Đức Chúa trời đã sử dụng họ để xây lại đền thờ cùng thành Giê-ru-sa-lem và phục hồi dân tộc Do-thái như một thực thể chính trị.
Có bao nhiêu người Đức Chúa Trời cần để thực hiện một công việc? Mười người công bình ở Sô-đôm lẽ ra có thể cứu được thành khỏi sự hủy diệt (Sa 18:16) và Chúa Giê-xu đã phán Ngài hiện diện nếu chỉ hai hay ba người nhóm lại nhơn danh Ngài (Mat 18:20). Chúa Giê-xu đã ban Thánh Linh tại lễ Ngũ Tuần để ban quyền phép cho 120 tín hữu, và Phao-lô đã rao Phúc-Âm cho đế quốc La-mã với một nhóm nhỏ gồm những người nam và người nữ hoàn toàn dâng mình cho Chúa. Đức Chúa Trời luôn tìm kiếm những người sót lại cầu nguyện, tin cậy Ngài và thực hiện công việc.
Vì vậy, khi công việc của Chúa có vẻ đang thất bại, và bạn cảm thấy như mình là người duy nhất còn lại để hầu việc Đức Chúa Trời, hãy nhớ đến Ê-nót và những người tin kính còn sót lại trong thời của ông đã kêu cầu Chúa. “Vì không có gì ngăn trở Đức Giê-hô-va giải cứu bởi nhiều người hay ít người” (ISa 14:66 NKJV).
Sa 5:1-11; xem giải nghĩa Sa 4:25-26
3. Hê-nóc đồng đi với Đức Chúa Trời (Sa 5:12-27)
Những người như Kê-nan, Ma-ha-la-le và Giê-rẹt có thể dường như không quan trọng đối với câu chuyện lớn của Đức Chúa Trời về sự cứu rỗi, nhưng họ quan trọng. Vì họ là “những mắc xích sống” trong chuỗi dòng dõi lớn đi từ Sết đến sự ra đời của Chúa Giê-xu Christ.
Lời hứa của Đức Chúa Trời trong Sa 3:15 không bao giờ có thể được thực hiện nếu nó không vì sự trung tín của nhiều người bình thường mà đối với chúng ta chỉ là những cái tên xa lạ trong một gia phả xưa.
Khi Hê-nóc được 65 tuổi, vợ ông sinh một con trai được họ đặt tên là Mê-tu-sê-la (“người của chiếc lao tiêu”). Đây là một bước ngoặt trong đời Hê-nóc, vì khi đó ông bắt đầu đồng đi với Chúa (Sa 5:22, 24; Sa 6:9). Phải chăng trách nhiệm nuôi dưỡng một đứa con trai trong một thế giới bất kính như thế đã thử thách Hê-nóc đến nỗi ông biết mình cần sự giúp đỡ của Chúa? Hoặc khi đứa trẻ ra đời, Đức Chúa Trời đã ban cho Hê-nóc cái nhìn về tương lai để ông biết Cơn Nước Lụt sắp đến? Chúng ta không biết nhưng chúng ta thật biết rằng sự ra đời của đứa trẻ này đã thay đổi đời sống Hê-nóc.
Ý nghĩa của tên Mê-tu-sê-la không quan trọng, nhưng đời sống trường thọ 969 năm của ông là quan trọng. Trong năm Mi-tu-sê-la qua đời, Cơn Nước Lụt xảy đến! [55] Có lẽ Chúa đã cho Hê-nóc biết tin này sau khi đứa trẻ ra đời, và điều đó thu hút lòng ông đến nỗi ông bắt đầu đồng đi với Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
“Vì mọi vật này sẽ bị tiêu tán, thì anh em phải là những người ở trong sự ăn ở thánh khiết và sự tin kính dường nào” (IIPhi 3:11 NKJV).
Việc Chúa Giê-xu sắp trở lại để xét đoán thế gian phải thôi thúc dân sự Đức Chúa Trời đi đến những đời sống thánh khiết và sự hầu việc vâng phục (IGi 2:28-3:3).
Nhóm từ khiêm tốn “và ông chết” không được sử dụng cho Hê-nóc, vì Hê-nóc là một trong số hai người trong Kinh Thánh không bao giờ chết. Cả Hê-nóc và Ê-li đều được cất lên trời khi còn sống (IIVua 2:1-11). Một số học giả nhìn thấy trong Hê-nóc một sự “cất lên” trước thời Nước Lụt một hình ảnh về Hội thánh được cất lên trời trước khi Đức Chúa Trời giáng hoạn nạn trên đất (ITe 4:13-5:11).
Chính “bởi đức tin” mà Hê-nóc đã được cất lên trời (He 11:5). Ông tin Đức Chúa Trời, đồng đi với Đức Chúa Trời, và đã đi để ở cùng Đức Chúa Trời, đây là một tấm gương cho mọi người chúng ta noi theo. Hãy hình dung thật khó khăn thế nào để đồng đi với Đức Chúa Trời suốt những năm đó trước Cơn Nước Lụt, khi sự xấu xa và bạo lực đang tiếp diễn và chỉ một số người sót lại tin nơi Đức Chúa Trời (Sa 6:5).
Nhưng đời sống đức tin của Hê-nóc không phải là một việc riêng tư, vì ông đã dạn dĩ tuyên bố rằng Đức Chúa Trời sẽ đến để xét đoán tội lỗi của thế gian (Giu 1:14-15). Trong thời của ông sự xét đoán về Cơn Nước Lụt đã xảy đến, nhưng sự xét đoán mà Hê-nóc rao ra sẽ xảy đến khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm, dẫn đầu các thiên binh và kết án Sa-tan cùng những người theo nó (Kh 19:11).
Đời sống và sự làm chứng của Hê-nóc nhắc nhở chúng ta rằng có thể trung tín với Đức Chúa Trời giữa “dòng dõi hung ác và ngang ngạnh” (Phi 2:15). Cho dù ngày có thể tăm tối ra sao hay những tin tức xấu thế nào, chúng ta có lời hứa về sự tái lâm của Chúa mình, khích lệ chúng ta và thôi thúc chúng ta trở nên tin kính. Một ngày nào đó, tội lỗi sẽ bị xét đoán và dân sự Đức Chúa Trời sẽ được ban thưởng về sự trung tín của họ, vì vậy, chúng ta có mọi lý do để được khích lệ khi chúng ta đồng đi với Đức Chúa Trời.
4. Nô-ê - sự yên nghỉ và sự yên ủi từ Đức Chúa Trời (Sa 5:12-27) (Sa 5:28-6:8)
Dù họ mang tên giống nhau, Lê-méc trong dòng dõi của Sết khác hoàn toàn với Lê-méc trong dòng dõi của Ca-in (Sa 4:18-24). Lê-méc của dòng Sết sinh một con trai, Nô-ê, là người đồng đi với Đức Chúa Trời (Sa 6:9) và được Đức Chúa Trời sử dụng để giữ lại dòng dõi loài người và duy trì lời hứa về Đấng Mê-si-a. Lê-méc của dòng Ca-in đã giết một người trai trẻ, là người làm ông bị thương, và sau đó khoe khoang với những người vợ của mình về việc làm độc ác của ông.
• Hy vọng (Sa 5:28-32).
Mối quan tâm lớn của Lê-méc là loài người tìm thấy sự yên ủi và sự yên nghỉ giữa một thế giới gian ác cần phải lao nhọc và đổ mồ hôi chỉ để tồn tại. Đời sống khó khăn, và hy vọng duy nhất mà tín hữu thật có là sự ngự đến của Đấng Cứu Chuộc đã được hứa ban. Lê-méc đặt tên con trai ông là Nô-ê, nghe như từ Hê-bơ-rơ nói về “sự yên ủi”.
Lời cầu nguyện của ông đó là con trai ông bằng cách nào đó sẽ đem đến cho thế giới sự yên nghỉ và sự yên ủi mà con người hết sức cần đến. Những thế kỷ sau đó, những kẻ mệt mỏi sẽ nghe tiếng Chúa Giê-xu phán: “Hãy đến cùng ta, hỡi mọi kẻ lao nhọc và gánh nặng, ta sẽ cho các ngươi sự yên nghỉ” (Mat 11:28 NKJV).
Lê-méc được 682 tuổi và Nô-ê được 500 tuổi thì con trai của Nô-ê là Gia-phết ra đời. Sự liệt kê trong Sa 5:32 không phải là thứ tự ra đời của các con trai, vì Cham là con trai út của Nô-ê (Sa 9:20-24) và Gia-phết là con lớn nhất của ông (Sa 10:21). Thứ tự ra đời sẽ là Gia-phết, Sem và Cham.
• Sự thỏa hiệp (Sa 6:1-7).
Sau chương 3, Sa-tan không được đề cập tên trong Sáng-thế ký, nhưng nó và những kẻ theo nó đang hành động hết sức để ngăn trở Đấng Cứu Chuộc đã hứa ban được sinh ra. Đây là mục đích của Sa-tan suốt lịch sử Cựu-ước. Xét cho cùng, nó không muốn đầu của nó bị Chúa Cứu Thế giày đạp! (Sa 3:15). Đức Chúa Trời đã tuyên chiến trên Sa-tan và kẻ lừa dối này có ý định chống lại.
Một trong những mưu kế thành công nhất của Sa-tan là sự thỏa hiệp. Nếu nó có thể lừa dối dân sự Đức Chúa Trời trong việc từ bỏ địa vị đặc quyền của họ về sự phân rẽ khỏi tội lỗi và giao thông với Đức Chúa Trời, thì nó có thể cản trở họ và dẫn họ vào tội lỗi. Nó đã làm điều này cho Y-sơ-ra-ên trong xứ Mô-áp (Dan 25:1-18; Thi 106:28-31), và cũng sau khi họ chinh phạt xứ Ca-na-an (Cac 2:1-23; Thi 106:34-48).
Các tiên tri đã cảnh cáo dân Do-thái đừng thỏa hiệp với sự thờ hình tượng của những kẻ ngoại đạo quanh họ, nhưng những lời cảnh cáo của họ không được để ý, và dân tộc đã kinh nghiệm sự thất bại nhục nhã trong tay kẻ thù họ.
Kế hoạch của Sa-tan để lừa dối dân sự Đức Chúa Trời trong thời Nô-ê là gì? Dụ dỗ dòng dõi tin kính của Sết (“các con trai của Đức Chúa Trời”) hòa đồng với dòng dõi bất kính của Ca-in (“các con gái loài người”) và do đó từ bỏ sự dâng mình cho Chúa. Đó là sự cám dỗ tương tự mà Cơ-đốc nhân đối diện ngày nay: thân thiết với thế gian (Gia 4:14), yêu thế gian (IGi 2:15-17), và sống theo thế gian (Ro 12:2), hơn là phân rẽ với thế gian (IICo 6:14-7:1). Dĩ nhiên điều này có thể dẫn đến việc “bị kết án cùng với thế gian” (ICo 11:32). Lót là một gương về hiểm họa này (Sa 13:1-18; Sa 19:1-38).
Một số người giải thích xem Sa 6:1-7 là một sự xâm lấn của các thiên sứ sa ngã đã ăn ở với những người nữ và sinh ra một dòng dõi những người cao lớn [56] Thú vị như lý thuyết này, nó tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết vấn đề, không một chút nào trong đó là sự kết hợp của các vị thần không giới tính với những con người xác thịt và huyết.
Thậm chí nếu những sự kết hợp như vậy đã xảy ra, lẽ nào có thể có con cái và tại sao họ sẽ là những người cao lớn? Và những “người cao lớn” này (Nephilim, “những kẻ sa ngã”) làm sao sống sót qua Cơn Nước Lụt (c.4 Dan 13:31-33) hay có một sự xâm lấn thứ 2 của các thiên sứ sa ngã sau Cơn Nước Lụt chăng?
Thuật ngữ “các con trai của Đức Chúa Trời” thật chỉ về các thiên sứ trong Giop 1:6, 21 Giop 38:7 nhưng đây là những thiên sứ không sa ngã, đã trung tín hầu việc Đức Chúa Trời. [57] Thậm chỉ nếu các thiên sứ sa ngã có thể khiến họ xuất hiện trong thân xác loài người, tại sao họ lại muốn cưới những người nữ và định cư trên đất? Chắc chắn vợ và những người láng giềng của họ sẽ nhận ra điều gì đó khác về họ và điều này sẽ tạo ra những vấn đề.
Hơn nữa, sự nhấn mạnh trong Sa 6:1-22 về tội lỗi của loài người chớ không phải sự chống nghịch của các thiên sứ. Từ “loài người” được sử dụng 9 lần trong các c.1-7 xác định rõ rằng sự xét đoán sắp đến vì điều con người dã làm. “Và Đức Chúa Trời thấy rằng sự gian ác của loài người rất nhiều trên đất” (c.5).
Sự giới hạn 120 năm được bày tỏ trong c. 3 có lẽ chỉ về những năm cho đến thời Nước Lụt sẽ đến. Đức Chúa Trời đã nhẫn nhục với tội nhân hư mất, nhưng sẽ đến một thời điểm khi sự phán xét phải ập xuống. Suốt “thời đại ân điển đó, Nô-ê đã chuẩn bị chiếc tàu và bày tỏ chứng cớ rằng sự xét đoán sắp đến” (IIPhi 2:5), sứ điệp tương tự mà Hê-nóc đã trình bày suốt cuộc đời của ông (Giu 1:14-15). Đức Chúa Trời đã ban sứ điệp của Ngài nơi miệng của hai chứng nhân, nhưng dân sự không muốn lắng nghe.
Từ “người cao lớn” trong Sa 6:4 là môt cách dịch của từ Hê-bơ-rơ “nephilim” nghĩa là “những kẻ sa ngã”. Một số người theo “thuyết thiên sứ” của chương 6 biến “nephilim” thành những thiên sứ sa ngã có con cái trở thành những người lãnh đạo vĩ đại. Như chúng a đã thấy, nếu những “nephilim” này là các thiên sứ có thân xác con người, vậy họ hoặc đã sống sót qua Cơn Nước Lụt (vì các thám tử Hê-bơ-rơ đã thấy họ trong xứ Ca-na-an, Dan 13:31-33), hoặc có một sự xâm lấn thứ hai của “các thiên sứ sa ngã” sau Cơn Nước Lụt. Cả hai ý niệm dường như đều không đáng tin.
Sự giải thích có lẽ đúng nhất về Sa 6:4 là Đức Chúa Trời thấy dân sự thời bấy giờ là “những kẻ sa ngã”, trong khi con người thấy những người này như những lãnh đạo mạnh mẽ. Thậm chí ngày nay, nhiều điều được thế gian khâm phục thì bị Chúa khước từ (Lu 16:15). Khi dân Sết thỏa hiệp bằng cách hòa đồng với dân Ca-in, họ đã sa ngã khỏi phước hạnh của Đức Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời buồn rầu khi họ cưới dân Ca-in bất kính, chọn những người vợ họ hài lòng mà không xem xét ý muốn Đức chúa Trời (Sa 6:2;).
Khi làm điều này, họ gây nguy hiểm cho sự hoàn thành lời hứa ở Sa 3:15 vì làm sao Đức Chúa Trời có thể đem một Đấng Cứu Chuộc vào thế gian bởi một dân bất khiết? Dân thời đó “cưới gả” (Mat 24:37-39) và không suy nghĩ gì đến lời cảnh cáo mà Hê-nóc và Nô-ê rao ra về sự xét đoán sắp đến. Lịch sử loài người giờ đây ở vị trí nơi mà chỉ Nô-ê và gia đình 8 người của ông, đã tin Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài. Thần của Đức Chúa Trời đang cố gắng với những người hư mất, nhưng họ phản kháng sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời buồn rầu về điều con người đang làm.[58]
Hãy đọc Ro 1:17 để có một sự mô tả về nền văn minh trong thời đó ra sao. sự gian ác của con người rất nhiều, mỗi sự tưởng tượng trong mọi suy nghĩ của con người liên tục chỉ là điều xấu, vì vậy không có gì ngạc nhiên khi Đức Chúa Trời quyết định giáng sự xét đoán.
• Ân điển (Sa 6:8).
Cách duy nhất con người có thể được cứu khỏi cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời là bởi ân điển của Đức Chúa Trời (Eph 2:8-9), nhưng ân điển không phải là phần thưởng của Đức Chúa Trời cho một đời sống tốt lành: đó là đáp ứng của Đức Chúa Trời đối với đức tin cứu rỗi. “Bởi đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình” (He 1:7).
Đức tin thật đòi hỏi toàn bộ con người bên trong: tâm trí hiểu sự cảnh cáo của Đức Chúa Trời, tấm lòng Nô-ê, những sợ hãi về điều sắp xảy đến và ý chí hành động trong sự vâng lời Đức Chúa Trời.
Hiểu chân lý của Đức Chúa Trời nhưng không hành động theo thì không phải là đức tin theo tinh thần Kinh Thánh, đó chỉ là sự tán thành về mặt tri thức đối với chân lý của tôn giáo. Bị kích động về mặt cảm xúc mà không hiểu sứ điệp của Đức Chúa Trời thì không phải là đức tin, vì đức tin thật dựa trên cơ sở của việc hiểu lẽ thật (Mat 13:18-23). Có tâm trí được soi sáng và tấm lòng được khuấy động nhưng không hành động trong sự vâng phục sứ điệp thì không phải là đức tin, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia 2:14-26). Tâm trí, tấm lòng và ý chí đều cần phải có trong đức tin thích hợp với Kinh Thánh.
Bất cứ ai từng được cứu khỏi tội lỗi đều đã được cứu “bởi ân điển, nhờ đức tin”, và điều này kể đến những người đáng kinh thời Cựu-ước được liệt kê trong He 11:1-40. Không ai từng được cứu bằng cách đem đến một của lễ (He 10:1-4 Thi 51:16-17), bằng cách giữ Luật pháp (Ga 2:16), hay bằng cách làm việc thiện (Ro 4:5). Sự cứu rỗi là một món quà ân điển có thể bị khước từ hoặc được tiếp nhận bằng đức tin. Như Nô-ê, chúng ta đều phải “tìm thấy ân điển trước mặt Đức Giê-hô-va” (Sa 6:8).
Sa 6:1-8; xem giải nghĩa Sa 5:12-27.
7. ĐỨC TIN CỦA MỘT NGƯỜI – GIA ĐÌNH CỦA MỘT NGƯỜI (Sa 6:9-7:24)
Ngoại trừ sự gia tăng về bạo lực và tội ác, các thời kỳ khá tốt đẹp. Người ta “ăn uống và cưới gả” (Mat 24:38) và đời sống tiếp diễn như thường lệ. Khi những người bạn gặp mặt tại chợ hay ở những tiệc cưới, họ đã cười Nô-ê và gia đình ông (“Hãy tưởng tượng cái việc đóng chiếc tàu lớn ấy trên đất khô!”) hoặc bàn luận Mê-tu-sê-la, người già nhất thế gian (“Ông ta sẽ chết một trong những ngày này, hãy chú ý lời tôi!”, hay nói về Hê-nóc, người bất ngờ biến mất (“việc kỳ lạ nhất tôi từng nghe!”).
Mê-tu-sê-la là ông nội của Nô-ê, và Nô-ê biết rằng khi ông chết, không còn có gì cản trở sự phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên một thế giới gian ác. Trong hơn một thế kỷ, Nô-ê đã cảnh cáo dân chúng về sự xét đoán sắp đến, nhưng chỉ có gia đình ông tin ông và tin cậy Chúa.
Sau đó Mê-tu-sê-la chết và mọi sự bắt đầu xảy ra. Một ngày kia, Nô-ê cùng gia đình ông vào “tàu” của họ và những cơn mưa đổ xuống. (Thiên hạ nói: “Mưa không thể tiếp tục mãi, nó sẽ tạnh một trong những ngày này”). Nhưng trời đã đổ mưa 40 ngày đêm, và những vụ nổ dưới lòng đất tuôn ra nhiều nước trên đất. Thậm chí sau khi mưa tạnh, nước vẫn tiếp tục dâng lên, và trong vòng 5 tháng, toàn bộ đất chìm ngập dưới nước và mọi loài có hơi thở đều chết. Tất cả đều chết ngoại trừ Nô-ê và gia đình ông, 8 người đã bị mọi người cười nhạo.
Nô-ê là loại người nào? Ông là loại người mà bạn và tôi cần phải trở thành và có thể trở thành khi chúng ta sống trong thế giới ngày nay.
1. Một người tin kính đồng đi với Đức Chúa Trời (Sa 6:9-13)
“Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va” (c.8) giới thiệu lời nhận định thứ 3 trong những nhận định về “dòng dõi” ở Sáng-thế ký, “Này là dòng dõi của Nô-ê” (c.9). Nô-ê không phải là một nhân vật phụ trong câu chuyện về sự cứu chuộc. Ông được đề cập 50 lần trong 9 sách của Kinh Thánh.
• Nô-ê là một người công bình (Sa 6:9 Sa 7:1).
Đây là lần đầu tiên từ “công bình” được sử dụng trong Kinh Thánh, nhưng sự công bình của Nô-ê cũng được đề cập ở những chỗ khác (Exe 14:14, 20; He 11:7; IIPhi 2:5). Sự công bình của Nô-ê không đến từ việc thiện của ông. Việc thiện của ông đến bởi sự công bình của ông. Giống như Áp-ra-ham, sự công bình của ông là sự ban cho của Đức Chúa Trời để đáp ứng đức tin cá nhân của ông. Cả Áp-ra-ham và Nô-ê đều tin Lời Đức Chúa Trời và “điều đó được kể là công bình cho (họ)” (Sa 15:6; He 11:7; Ro 4:9; Ga 3:1).
Sự công bình duy nhất Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận là sự công bình của Chúa Giê-xu Christ, Con Ngài (IICo 5:21), và cách duy nhất con người có thể tiếp nhận sự công bình đó là bằng cách thừa nhận tội lỗi mình và tin Chúa Giê-xu Christ cứu rỗi mình (Ro 3:19-30; Ga 2:16). Nô-ê chắc đã học chân lý quan trọng này từ Lê-méc cha ông (Sa 5:28-29), là người học điều đó từ Mê-tu-sê-la cha mình, người đã học điều đó từ cha là Hê-nóc. Quan trọng biết bao để dạy con cái và cháu chắt chúng ta cách tin cậy Chúa!
• Nô-ê là một người không chỗ trách (Sa 6:9).
Nếu “công bình” mô tả địa vị của Nô-ê trước mặt Đức Chúa Trời, vậy “không chỗ trách” mô tả hạnh kiểm của ông trước con người. “Không chỗ trách” không có nghĩa là “không có tội”, vì không ai trừ Chúa Giê-xu từng sống một đời sống vô tội trên đời này (IPhi 2:21-22). Từ này nghĩa là “có sự chính trực, trọn vẹn, không vết nhơ”. Nó được sử dụng để mô tả thú vật có thể được Đức Chúa Trời chấp nhận làm của lễ (Xu 12:5; Le 1:3, 10). Hạnh kiểm của Nô-ê là như thế đến nỗi những láng giềng của ông không thể tìm thấy lỗi lầm nơi ông (Phi 2:12-16).
Người công bình trước mặt Đức Chúa Trời bởi đức tin nơi Đấng Christ phải dẫn đến một đời sống công bình trước mặt con người, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia 2:14). Phao-lô đã cảnh cáo về “những người hay nói ngỗ ngược và hư không cùng những người phỉnh dỗ… những kẻ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng trong việc làm thì họ từ chối Ngài” (Tit 1:10, 16), Nô-ê không phải là loại người đó.
• Nô-ê là một người đồng đi với Đức Chúa Trời (Sa 6:9).
Ông cố của ông là Hê-nóc đã “đồng đi với Đức Chúa Trời” rồi thình lình được cất lên trời và được cứu khỏi sự xét đoán sắp xảy đến bằng Cơn Nước Lụt (Sa 5:24). Nô-ê đồng đi với Đức Chúa Trời và được đem an toàn qua sự xét đoán. Hê-nóc đã nêu gương một lối sống tin kính cho Mê-tu-sê-la chắc đã truyền lại điều đó cho Lê-méc con trai mình, là người đã chia sẻ điều đó với Nô-ê con trai ông. Kỳ diệu biết bao từ đời này đến đời khác một dòng dõi trung tín với Chúa, đặc biệt tại một thời điểm trong lịch sử khi bạo lực và sự đồi bại là lối sống bình thường.
Đời sống đức tin và sự vâng phục được ví sánh với “sự bước đi” vì đời sống này bắt đầu bằng một bước: tin nhận Chúa Giê-xu Christ là Chúa và Cứu Chúa. Bước đức tin này dẫn đến một sự bước đi hằng ngày, từng bước từng lúc, theo như Chúa hướng dẫn chúng ta. Ngài bảo chúng ta phải “bước đi trong sự yêu thương” (Eph 5:2), “bước đi như con cái sáng láng” (c.8), “bước đi trong Thánh Linh” (Ga 5:16, 25) và “bước đi thận trọng (cẩn thận)” (Eph 5:15). Từng bước từng lúc, từng ngày từng giờ, chúng ta đồng đi với Chúa và Ngài hướng dẫn chúng ta vào trong ý muốn Ngài và chúc phước cho chúng ta bằng sự khôn ngoan và năng lực của Ngài.
• Nô-ê là một người vâng phục (Sa 6:22; Sa 7:5, 16).
Một trong những sứ điệp chính trong Kinh Thánh là chúng ta không nên chỉ nghe Lời Đức Chúa Trời nhưng chúng ta cũng phải vâng theo (Gia 1:22-25). Vì Nô-ê nghe Lời Chúa, “nhà” ông đã không bị hủy diệt khi cơn bão xảy đến (Mat 7:24-27).
Vâng lời Chúa không phải dễ dàng đối với Nô-ê và gia đình ông, vì cả dân còn lại đang bất tuân Chúa và chống lại ý muốn Ngài. Theo Hê-nóc, họ là dân bất kính phạm những việc bất kính bằng những cách bất kính và nói những lời bất kính nghịch với Giê-hô-va Đức Chúa Trời (Giu 1:15).
Chẳng biết có liên hệ hay không với sự kiêng kỵ về tình dục, việc sử dụng rượu và ma túy, hay việc gia nhập băng nhóm và phạm Luật pháp, chúng ta ngày nay nghe rất nhiều về “sức ép những người đồng lứa”. Đó là cái cớ cho mọi loại hành vi bất chính và vô đạo đức, từ việc lừa đảo về thuế thu nhập đến việc lừa đảo về người chồng hay người vợ của bạn.
Nhưng bất cứ ai từng phát triển tính cách tin kính đều đã phải chống lại “sức ép những người đồng lứa”, kể đến Nô-ê và gia đình ông. Áp-ra-ham và gia đình ông, Mô-se ở Ai-cập (He 11:24-26) và Đa-ni-ên cùng các bạn ông ở Ba-by-lôn (Da 1:1-21). Chống lại sức ép những người đồng lứa có nghĩa là không chỉ nói tiếng “không” dứt khoát với con người mà còn nói tiếng “vâng” tận tụy với Chúa (Ro 12:1-2).
bottom of page