top of page

SÁNG-THẾ KÝ 2

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Luật Pháp

Bài Đọc...



Đa...

...số người biết rằng Nô-ê đã đóng một chiếc tàu. Điều họ có thể không biết đó là ông cũng xây dựng một tính cách tin kính và một gia đình tin kính. Nếu không vì gia đình tin kính của Nô-ê, Áp-ra ham sẽ không được sinh ra; và nếu không có Áp-ra-ham thì sẽ có môt dân tộc Do-thái, Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế chăng?


2. Một người trung tín làm việc cho Đức Chúa Trời (Sa 6:14-22)

“Bí mật của Đức Giê-hô-va ở cùng người kính sợ Ngài, và Ngài sẽ tỏ cho họ giao-ước Ngài” (Thi 25:14). Khi bạn bước đi với Đức Chúa Trời, Ngài phán với bạn qua Lời Ngài và cho bạn biết điều bạn cần biết và cần làm. Cơ-đốc nhân không chỉ là tôi tớ làm theo ý muốn Ngài, chúng ta cũng là bạn của Ngài những người biết kế hoạch của Ngài (Gi 15:14-15). Kế hoạch của Đức Chúa Trời đòi hỏi ba trách nhiệm đối với Nô-ê và gia đình ông.


Đóng một chiếc tàu (Sa 6:14-17).

Đức Chúa Trời cho Nô-ê biết nhiệm vụ của ông là gì: đóng một chiếc thuyền lớn bằng gỗ có thể tồn tại qua Cơn Nước Lụt và giữ cho Nô-ê cùng gia đình ông an toàn. Nếu cubit là cubit tiêu chuẩn 18 inch, vậy chiếc tàu dài 4500 feet, rộng 75 feet và cao 45 feet. Tàu có 3 tầng, một cửa và một loạt cửa sổ nhỏ cao 18 inch ngay bên dưới mái vòm, cung cấp ánh sáng và sự thông gió. Ba tầng được chia thành những gian phòng, (Sa 6:14) nơi giữ các thú vật và là nơi Nô-ê cùng gia đình ông sẽ sống.


Chiếc tàu này được thiết kế để làm cho nổi lên chớ không phải để vận chuyển đi lại. Đó là một chiếc hộp gỗ khổng lồ có thể nổi trên mặt nước và giữ cho những vật bên trong được an toàn và khô ráo. Tấn sĩ Henry Morris tính toán rằng chiếc tàu lớn đủ để chứa hơn 500 toa xe lửa chở súc vật, cung cấp chỗ cho khoảng 125.000 con vật.

Dĩ nhiên nhiều loài vật sẽ rất nhỏ và không cần nhiều chỗ, và khi có những súc vật lớn, Nô-ê chắc chắn chọn những con vật đại diện nhỏ tuổi hơn và bé hơn [59] Có nhiều chỗ trong tàu dành cho thức ăn của con người và thú vật (c.21), và côn trùng cùng những vật bò trườn sẽ không có vấn đề khi tìm chỗ để sống trên tàu.


Tin cậy giao ước của Đức Chúa Trời (Sa 6:18).

Đây là lần sử dụng đầu tiên từ “giao-ước” trong Kinh Thánh. Từ này thường xuất hiện trong Kinh Thánh vì ý niệm về giao ước là một phần quan trọng trong kế hoạch cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời (Đức Chúa Trời sẽ giải thích giao ước của Ngài với Nô-ê sau khi ông rời chiếc tàu (Sa 8:20-9:17).

Giao ước là một sự thỏa thuận bao gồm những trách nhiệm và lợi ích cho các bên có liên quan.

Trong một số giao-ước, chỉ một mình Đức Chúa Trời là “bên giao-ước” và tạo những lời hứa vô điều kiện cho dân sự của Ngài. Nhưng cũng có những giao ước đòi hỏi dân sự Ngài thực hiện những điều kiện nào đó trước khi Đức Chúa Trời có thể chúc phước cho họ.


Lời Đức Chúa Trời trong Sa 6:13-21 được nói đặc biệt với Nô-ê, nhưng Đức Chúa Trời cũng kể đến gia đình Nô-ê trong giao ước (c.18). Nô-ê mãi đến 500 tuổi mới trở thành một người cha (Sa 5:32), và ông bước vào tàu khi ông 600 tuổi (Sa 7:6), vì vậy 3 con trai ông vẫn “trẻ” khi nói về thời kỳ tiền Nước Lụt. Cham là người trẻ tuổi nhất (Sa 9:24) và Gia-phết lớn nhất (Sa 10:21), cả 3 con trai đều lập gia đình (Sa 7:13). [60]


Việc Đức Chúa Trời đã lập giao ước để chăm sóc Nô-ê và gia đình ông, cho họ sự bình an và sự tin quyết họ cần khi chuẩn bị chiếc tàu và sau đó sống trong tàu hơn một năm. Đức Chúa Trời thành tín giữ những lời hứa của Ngài, và với tư cách dân giao ước của Đức Chúa Trời, 8 người tin kính không có gì để sợ.


Tập trung thú vật (Sa 6:19-22).

Đức Chúa Trời không chỉ muốn loài người được duy trì từ sự hủy diệt nhưng cũng muốn mọi sinh vật không bị chìm đắm bởi Nước Lụt. Nhưng làm sao Nô-ê tập trung một số lượng lớn thú vật, chim và những con vật bò trườn như thế? Đức Chúa Trời sẽ khiến những sinh vật này đến cùng Nô-ê (c.20 Sa 7:8, 15) và Nô-ê sẽ đem chúng vào tàu (Sa 6:19).


Điều này không chỉ kể đến các cặp thú vật không tinh sạch mà sẽ có thể sinh sản sau Cơn Nước Lụt, mà bảy cặp thú vật tinh sạch cũng được kể đến, một số sẽ được dùng làm của lễ (Sa 8:20 Sa 9:3). Nô-ê và gia đình ông không chỉ học về sự thành tín của Đức Chúa Trời họ cũng thấy quyền tối cao của Đức Chúa Trời trong hành động.


Trong quyền năng tối cao của Đức Chúa Trời, Ngài đem các thú vật đến với Nô-ê cùng với các con trai ông và điều khiển chúng để chúng làm theo mệnh lệnh của Ngài. Tuy nhiên, sự bày tỏ đẹp đẽ này về quyền năng của Đức Chúa Trời đã không đụng đến tấm lòng những người láng giềng của ông, và họ đã bỏ mạng trong Cơn Nước Lụt.


Loài chim loài thú và các vật bò trườn biết tiếng của Đấng Sáng Tạo và vâng lời Ngài, nhưng những người được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời đã từ chối chú ý sự kêu gọi của Đức Chúa Trời. Những thế kỷ sau, Đức Chúa Trời sẽ nói qua Ê-sai tôi tớ Ngài, “Bò biết chủ mình, lừa biết máng của chủ, song Y-sơ-ra-ên chẳng hiểu biết dân ta chẳng suy nghĩ” (Es 1:5).


Trong tất cả hành động quan trọng này. Nô-ê đang hầu việc Chúa và làm chứng cho một thế giới tội lỗi. Trong 120 năm (Sa 6:3), Đức Chúa Trời đã nhẫn nhục với tội nhân vô tâm và chống nghịch, nhưng họ đã không chú ý sứ điệp của Ngài và đánh mất cơ hội của mình về sự cứu rỗi.


3. Một người yên tâm chờ đợi Đức Chúa Trời (Sa 7:1-24)

Đức Chúa Trời đã khuyên dạy trong Thi 32:9 “chớ như con ngựa hoặc con la”, và Nô-ê vâng theo lời khuyên đó, con ngựa đôi khi muốn lao tới một cách mãnh liệt, còn con la muốn lê chân và bướng bỉnh đứng lại, nhưng Nô-ê bước đi với Đức Chúa Trời và làm việc cho Đức Chúa Trời, để Đức Chúa Trời sắp xếp thời gian biểu.


Một tuần chờ đợi (Sa 7:1-10).

Từ khi mưa bắt đầu vào ngày 17 tháng 2 (Sa 7:11), vào ngày 10/2 Nô-ê và gia đình ông đã vào tàu theo chỉ dẫn của Đức Chúa Trời (c.1). Suốt tuần lễ cuối cùng đó trước Cơn Nước Lụt, họ đã xong việc tập trung các thú vật và đem theo lương thực cho chúng. Họ làm theo chỉ dẫn của Chúa, tin lời hứa giao ước của Ngài, và biết rằng không có gì để sợ hãi.


Đa-vít một ngày kia quan sát một cơn bão có sấm sét và viết ra một bài ca ngợi từ kinh nghiệm đó (Thi 29:1-11) cho biết ông đã thấy và nghe Đức Chúa Trời thể nào trong cơn bão đó. Khi ông suy gẫm điều xảy ra, Đa-vít nghĩ về cơn bão nổi tiếng nhất của lịch sử trong thời Nô-ê, và ông viết: “Đức Giê-hô-va ngự tại Cơn Nước Lụt, và Đức Giê-hô-va ngự ngôi Vua đời đời” (Sa 29:10 NKJV).

Cơn mưa quét sạch, sấm sét vang dội và tia chớp loé sáng nhắc nhở Đa-vít về quyền tối cao của Đức Chúa Trời. Dù những cơn bão của đời sống có thể lớn ra sao, Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi khiến cho mọi sự hiệp lại vì ích lợi. Đó là lý do Đa-vít kết thúc bài ca ngợi bằng cách “Đức Giê-hô-va sẽ ban sức mạnh cho dân sự Ngài, Đức Giê-hô-va sẽ chúc phước cho dân sự Ngài bằng sự bình an” (c.11 NKJV).


Vào cuối tuần lễ chuẩn bị cuối cùng đó, Nô-ê cùng gia đình ông vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời và vào tàu, rồi Đức Chúa Trời đóng cửa tàu và khiến nó an toàn (Sa 7:16). Họ không biết họ sẽ sống trong tàu bao lâu, nhưng Chúa biết và tất cả điều đó thật sự quan trọng. “Kỳ hạn tôi ở trong tay Chúa” (Thi 31:15 NKJV). Một năm 10 ngày trôi qua, chính Đức Chúa Trời đã mở cửa và mời họ bước ra để sống trên đất của Ngài đã được tẩy thanh mới mẻ (Sa 8:16).


Ngày tính sổ (Sa 7:11-24).

Cơn Nước Lụt là sự xét đoán của Đức Chúa Trời đối với một thế giới gian ác. Đức Chúa Trời đã mở những đập trên trời để những cơn mưa như trút nước đổ xuống, và “mọi nguồn của vực lớn nổ ra” (c.11), vì vậy ngay cả những ngọn núi cao nhất cũng bị ngập nước (c.20). Đức Chúa Trời đã chờ đợi hơn một thế kỷ để tội nhân ăn năn, và giờ đây đã quá trễ. “Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi Ngài có thể gặp được, hãy kêu cầu Ngài trong khi Ngài ở gần” (Es 55:6).


Mưa đã tạnh sau 40 ngày, tức là vào ngày 27 tháng 3 (Sa 7:12). Tuy nhiên, nước tiếp tục dâng lên 110 ngày nữa và đạt đến cao điểm của nó sau 150 ngày (c.24). Vào lúc đó, chiếc tàu tấp trên ngọn núi A-ra-rát (Sa 8:4). Phải mất 150 ngày để nước rút xuống (c.3), đưa chúng ta đến ngày 17 tháng 12. Hai tháng 10 ngày sau đó, Nô-ê cùng gia đình ông rời khỏi tàu và thả các thú vật được tự do (c. 14) Từ ngày Đức Chúa Trời đóng cửa tàu, họ đã ở trong tàu 1 năm 10 ngày.


Một sự xét đoán toàn thế giới.

Trong những năm gần đây, những người muốn làm cho Kinh Thánh thích hợp với những quan điểm của khoa học hiện đại nên đã lựa chọn một Cơn Nước Lụt nào đó “có giới hạn” chớ không mang tính toàn cầu. Họ gợi ý rằng người viết Sáng-thế ký đã sử dụng “ngôn ngữ bề ngoài” và chỉ mô tả điều ông có thể thấy.


Có những vấn đề đối với cả hai quan điểm, nhưng sự giải thích “có giới hạn” dường như yếu hơn [61] Ngôn ngữ rõ ràng của bản văn dường như xác định rằng Đức Chúa Trời đang đem đến một sự xét đoán toàn thế giới, Đức Chúa Trời phán Ngài sẽ hủy diệt loài người và loài vật “khỏi mặt đất” (Sa 6:7) [62], và “mọi loài sống” sẽ bị hủy diệt (Sa 7:4, 21, 23 Sa 8:21).

Nếu các ngọn núi bị ngập đến một độ cao như thế đến nỗi chiếc tàu có thể nổi trên dãy núi A-ra-rát và cuối cùng nằm trên đỉnh, vậy toàn bộ hành tinh phải bị chìm đắm hoàn toàn (Sa 7:18-20).

Người đọc Sa 6:1-9:29 lần đầu tiên sẽ kết luận rằng Cơn Nước Lụt mang tính toàn cầu.


Nhưng nếu Cơn Nước Lụt không mang tính toàn cầu thì tại sao Đức Chúa Trời ban cái cầu vồng làm một dấu hiệu toàn cầu của giao ước Ngài? (Sa 9:11-15). Tại sao người trong một địa phương sẽ cần một dấu hiệu như thế? Hơn nữa, nếu Cơn Nước Lụt là một sự kiện cục bộ thì tại sao Đức Chúa Trời bảo Nô-ê đóng một chiếc tàu lớn như thế để cứu gia đình ông và các loài vật? Nô-ê chắc chắn có đủ thời gian để tập trung gia đình ông cùng các loài vật trong vùng đó và dẫn họ đến một nơi mà Cơn Nước Lụt sẽ không đến. [63]


Đức Chúa Trời đã hứa rằng Ngài sẽ không bao giờ giáng Cơn Nước Lụt nào khác giống như Cơn Nước Lụt Ngài đã giáng trong thời Nô-ê (c.8-17). Nhưng nếu Cơn Nước Lụt chỉ là một sự kiện cục bộ, Đức Chúa Trời đã không giữ lời hứa Ngài!

Bao thế kỷ qua, đã có vô số cơn lụt địa phương, một số cơn lụt đem đến tử vong và sự tàn phá cho các vùng địa phương. Chỉ trong năm 1996, cơn lụt lớn ở Afganistan trong tháng 4 đã khiến 3.000 người mất nhà ở, và trong tháng 7, cơn lụt ở miền Bắc Bangladesh đã hủy diệt các nhà cửa của trên 2 triệu người. Trong tháng 7 và tháng 8, những con sông Yellow, Yangtze và Hai đã làm ngập lụt 9 tỉnh ở Trung Quốc và khiến 2. 000 người chết. Nếu Cơn Nước Lụt thời Nô-ê là một sự kiện mang tính địa phương, thì lời hứa và dấu hiệu giao ước về cái cầu vồng của Đức Chúa Trời chẳng có ý nghĩa gì cả.


Việc đọc bản văn một cách đơn giản khiến chúng ta tin rằng Cơn Nước Lụt là một sự xét đoán toàn thế giới vì “Hết thảy xác thịt làm bại hoại đường lối Ngài (Đức Chúa Trời) trên đất” (Sa 6:12). Chúng ta không biết nền văn minh đã lan ra trên hành tinh chúng ta mức độ nào, nhưng bất cứ nơi đâu con người đi đến, đều có tội lỗi đáng phải bị xét đoán, Cơn Nước Lụt làm chứng cho tội lỗi cả thế gian và sự xét đoán toàn thế giới.


Chúa Giê-xu và Phi-e-rơ đã sử dụng Cơn Nước Lụt để minh hoạ những sự kiện tương lai sẽ liên quan đến cả thế giới: Sự Tái Lâm của Đấng Christ (Mat 14:37-39; Lu 17:26-27) và sự đoán xét toàn thế giới bằng lửa (IIPhi 3:3-7). Nếu Cơn Nước Lụt chỉ mang tính địa phương, thì những điều tương tự này là giả dối và lầm lạc. Phi-e-rơ cũng viết rằng Đức Chúa Trời đã không tha cho “thế giới ngày xưa” (NKJV) khi Ngài giáng Cơn Nước Lụt, ngụ ý nhiều địa phận hơn là một vùng giới hạn.


Một gia đình kiên nhẫn.

Mặc cho sự tàn phá bên ngoài, Nô-ê với gia đình ông và các loài vật được an toàn bên trong chiếc tàu. Dù họ cảm thấy thế nào, hay chiếc tàu tròng trành trên mặt nước ra sao, họ vẫn an toàn trong ý muốn của Đức Chúa Trời.

Họ đã kiên nhẫn chờ đợi Đức Chúa Trời hoàn thành công việc Ngài và đặt họ trở lại trên đất. Nô-ê cùng gia đình ông đã trải qua một năm 17 ngày trong tàu, và dù họ có công việc hằng ngày để làm, đó là một thời gian dài để ở trong một chỗ. Nhưng “bởi đức tin và lòng nhịn nhục” mà chúng ta hưởng những phước hạnh Đức Chúa Trời hứa ban (He 6:12 He 10:36), và Nô-ê đã sắm sẵn chờ đợi Chúa.


Phi-e-rơ nhìn thấy trong từng trải của Nô-ê một bức tranh về sự cứu rỗi bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ (IPhi 3:18-22). Đất trong thời Nô-ê đã bị chìm ngập trong nước, nhưng chiếc tàu nổi trên mặt nước và đưa Nô-ê cùng gia đình ông đến nơi an toàn . [64] Đối với Phi-e-rơ, đây là 12 hình ảnh về báp-têm: chết, chôn và sống lại. Đất đã “chết” và “chôn” vì nước, nhưng chiếc tàu nổi lên (“sự sống lại”) để giúp gia đình này vượt qua an toàn.

Chúa Giê-xu đã chết, được chôn và sống lại; và bởi công việc được hoàn tất của Ngài, chúng ta có sự cứu rỗi thoát khỏi tội lỗi. Phi-e-rơ cho biết rõ rằng nước của lễ báp-tem không tẩy sạch tội lỗi. Chính sự vâng phục của chúng ta đối với mệnh lệnh của Đức Chúa Trời để chịu báp-tem (Mat 28:19-20) làm sạch lương tâm hầu cho chúng ta được công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Nhà giải kinh người Anh Alexander Maclaren đã nói.


Trong 120 năm, những kẻ dí dỏm đã cười nhạo, và những người có “ý thức thông thường” đã ngạc nhiên, còn vị thánh đồ kiên nhẫn tiếp tục việc đóng và dựng con tàu của ông. Nhưng một buổi sáng nọ, trời bắt đầu mưa, và bằng cách nào đó, theo những mức độ, Nô-ê hoàn toàn không có vẻ là một người dại dột. Những lời chế nhạo sẽ có vẻ khác đi nhiều khi nước dâng lên đến đầu gối của những kẻ chế nhạo, những lời mỉa mai, sẽ dính nơi cổ họng của họ khi họ chết đuối.


Điều đó luôn như vậy, vì thế điều đó sẽ xảy ra vào ngày trọng đại cuối cùng. Những người đã sống cho tương lai, bởi đức tin nơi Đấng Christ, sẽ được nhận thấy là người khôn ngoan khi tương lai trở thành hiện tại, và hiện tại trở thành quá khứ, và đi qua mãi mãi, trong khi những kẻ không có mục đích gì ngoài những vật chất của đời, giờ đây bị chìm đắm dưới chân trời tối tăm, sẽ thức tỉnh quá trễ để tin rằng mình ở ngoài chiếc tàu của sự an toàn, và văn bia thật nhất của họ là “Ngươi-kẻ ngu dại”. [65]



 


8. ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA NHỮNG KHỞI ĐẦU MỚI (Sa 8:1-22)


Khi các tín hữu khao khát nghiên cứu Kinh Thánh để tìm đọc điều gì đó gây khích lệ, dường như họ thích mở Ro 8:1-39 hơn là Sa 8:1-22. Xét cho cùng, Ro 8:1-39 là một trong những chương động viên nhất ở Kinh Thánh, trong lúc Sa 8:1-22 mô tả hoạt động “quét sạch” của Đức Chúa Trời sau Cơn Nước Lụt.


Nhưng lần sau bạn thấy chính mình trong một cơn bão, thì Sa 8:1-22 có thể cho bạn hy vọng và sự khích lệ mới mẻ. Vì chủ đề chính của chương này là sự đổi mới và sự yên nghỉ sau hoạn nạn. Chương này ghi lại kết thúc của cơn bão, khởi đầu của một đời sống mới cho hy vọng cho dân sự Đức Chúa Trời và sự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Chỉ hãy xem xét điều Đức Chúa Trời làm trong Sa 8:1-22 và can đảm!


1. Đức Chúa Trời nhớ đến những người thuộc về Ngài (Sa 8:1a)

Khi bạn trải qua một cơn bão, thật dễ cảm thấy mình bị bỏ rơi. Một tín hữu Hội thánh mà tôi thăm viếng trong bệnh viện đã nói: “Tôi nghĩ Chúa đã quên tôi”.


Trong tâm trí bà, bà có thể nhớ lại He 13:5 và trích dẫn nó (“Ta sẽ chẳng bao giờ lìa ngươi hay bỏ ngươi” (NKJV), nhưng trong lòng, bà cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi. Đức Chúa Trời của bà ở đâu? Cơn bão khi nào sẽ chấm dứt?


Cảm thấy bị bỏ rơi là cảm xúc bình thường của con người mà đa số chúng ta đã trải qua, dù chúng ta có thừa nhận hay không. Tác giả Thi-thiên đã hỏi: “Đức Giê-hô-va ôi, vì cớ gì Ngài đứng xa? Lúc gian truân tại sao Ngài ẩn mặt đi?” (Thi 10:1).

Phao-lô thú nhận rằng những hoạn nạn của ông ở xứ A-si quá khắc nghiệt đến nỗi ông hầu như mất sự sống (IICo 1:8), và Chúa Giê-xu, Đấng trải qua mọi thử thách của con người, đã kêu lên tại thập tự giá. “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Mat 27:46). Cảm thấy cô độc là điều không có gì mới đối với dân sự Đức Chúa Trời, nhưng khi ấy họ nhớ lại bài hát:

Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi,

Và Ngài sẽ nhớ đến những người thuộc về Ngài!


Từ “nhớ” trong Sa 8:1 không có nghĩa là nhắc nhở điều gì đó có thể đã bị quên. Đức Chúa Trời không thể quên bất cứ điều gì, vì Ngài biết kết cuộc từ lúc khởi đầu. Đúng hơn, nó có nghĩa là “chú ý đến, thưc hiện một lời hứa và hành động vì cớ ai đó”.

Ví dụ, lời hứa của Đức Chúa Trời, “Ta sẽ chẳng còn nhớ đến tội lỗi gian ác của chúng” (He 14:17) có nghĩa là Đức Chúa Trời không cần giữ tội của chúng ta và đối xử chúng ta như tội nhân. Chắc chắn Đức Chúa Trời biết điều chúng ta đã làm, nhưng vì đức tin của chúng ta nơi Chúa Giê-xu Christ, tội lỗi chúng ta “bị quên”. Đức Chúa Trời đối xử với chúng ta như thể tội lỗi của chúng ta chưa bao giờ phạm! Chúa không còn nhớ đến chúng nữa.


Nhớ đến nghĩa là hành động vì cớ người khác. Đức Chúa Trời nhớ đến Áp-ra-ham và cứu Lót khỏi sự hủy diệt trong thành Sô-đôm (Sa 19:29). Chúa nhớ đến Ra-chên cùng An-ne và khiến họ có thể thụ thai và sanh những đứa con trai (Sa 30:22 ISa 1:11, 19). Chúa nói đến giao ước Ngài và giải cứu dân Do-thái khỏi ách nô lệ ở Ai-cập (Xu 2:24 Xu 6:5).


“Nhớ” ngụ ý về một lời hứa trước đó do Đức Chúa Trời lập và tuyên bố sự hoàn thành lời hứa đó. [66] Nô-ê, gia đình ông và các loài vật đã cùng ở trong tàu hơn một năm, một “sự sống với nhau” khá nhiều. Họ đã mất kiên nhẫn với nhau hoặc với các loài vật chăng? Không có ghi chép nào cho thấy Đức Chúa Trời đã nói gì với họ sau khi Ngài đóng cửa trời, vì vậy có thể một vài người trong gia đình trải qua một sự sợ hãi đôi lúc thoáng qua rằng có thể Đức Chúa Trời đã không quan tâm đến họ nữa.


Đức Chúa Trời không chỉ nhớ đến Nô-ê và gia đình ông, Ngài cũng nhớ đến các loài vật ở cùng họ trong tàu [67] Đức Chúa Trời đã giữ lại những sinh vật này để chúng có thể sống trên đất được đổi mới và sinh sản tùy theo loại. Đó là ước muốn của Ngài để các tạo vật của Ngài vui hưởng đất và góp phần vào hạnh phúc của những con người Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài. Như chúng ta sẽ thấy sau đó, các loài vật được bao gồm trong giao-ước của Đức Chúa Trời với Nô-ê.


Chúng ta có thể chắc rằng Đức Chúa Trời không bao giờ quên hay từ bỏ dân sự Ngài, không chỉ vì những lời hứa của Ngài, mà còn vì tính cách của Ngài [68] Đức Chúa Trời là tình yêu và nơi đâu có tình yêu, nơi đó có sự thành tín. Ngài không bao giờ có thể phủ nhận chính Ngài hay Lời Ngài, vì Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, và Ngài không bao giờ có thể thay đổi, vì Ngài không thể thay đổi.


Vì Ngài là toàn vẹn, Đức Chúa Trời không thể thay đổi để trở nên tồi tệ hơn. Chúng ta có thể nhờ cậy nơi Ngài cho dù hoàn cảnh chúng ta thế nào hay chúng ta cảm thấy ra sao.


2. Đức Chúa Trời đổi mới thế giới của Ngài (Sa 8:1b-14)

Theo Sa 7:24, Cơn Nước Lụt đạt đến đỉnh cao của nó trong 150 ngày. Cơn mưa như thác và sự dâng trào nước từ dưới đất đều đã chấm dứt (Sa 8:2 xem NIV và NASB), Và trong 5 tháng kế tiếp, Đức Chúa Trời khiến cho nước rút xuống và để lại đất khô.


Nước Lụt đã đi đâu? Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của nước di chuyển! Có thể Nước Lụt đã thay đổi nhiều những đường nét của đất và tạo ra những vùng mới để nước choán chỗ, cả trên bề mặt trái đất và dưới đất [69] Vì có những sự phun trào từ dưới đất (Sa 7:11), toàn bộ các lục địa và các dãy núi có thể đã trồi lên và sụp xuống, tạo nên sẽ khu vực lớn mà nước có thể tràn vào.


Những cơn gió Đức Chúa Trời đã cho thổi trên đất giúp làm bay hơi nước và cũng di chuyển nước đến những nơi Đức Chúa Trời đã quy định. Một Đức Chúa Trời đủ quyền năng để che phủ đất bằng nước, cũng đủ khôn ngoan để biết cách giải quyết nước khi công việc của nó đã được hoàn tất.


Những thế kỷ sau, cơn gió của Đức Chúa Trời sẽ đem cào cào vào Ê-díp-tô và sau đó đuổi chúng xuống Biển đỏ, và tạo một con đường khô ráo cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ rời Ê-díp-tô (Sa 14:21-22; Sa 15:10). Cơn gió bão thực hiện Lời Đức Chúa Trời (Thi 148:8).


Vào ngày 17 tháng 7, chiếc tàu tấp trên một đỉnh của dãy núi A-ra-rát, ở vị trí Thổ Nhĩ kỳ ngày nay. Chúng ta không biết đó là đỉnh núi nào, những nhà thám hiểm tìm kiếm những phần còn lại của chiếc tàu không thể tìm thấy nhiều dữ kiện Kinh Thánh để giúp họ. Trong những năm sau đó, tháng 7 rất đặc biệt đối với dân Do-thái, vì suốt tháng đó họ bước vào năm mới với lễ Kèn và dự lễ Chuộc Tội cùng lễ Lều Tạm (Le 23:23-44). [70]


Bản văn Hê-bơ-rơ nói rằng “chiếc tàu yên nghỉ, nhắc nhở chúng ta rằng tên của Nô-ê nghĩa là “sự yên nghỉ” và Lê-méc cha ông hy vọng rằng con trai mình sẽ đem đến sự yên nghỉ cho một thế giới mệt mỏi (Sa 5:28-29). Dù chiếc tàu đã yên nghỉ an toàn, Nô-ê đang chờ đợi Chúa bảo ông điều phải làm. Ông đã chờ đợi 40 ngày và sau đó thả con quạ ra, là một loài chim ô uế ăn xác chết (Le 11:13-15), nó cảm thấy dễ chịu giữa vòng những xác chết trôi nổi.


Nô-ê đã đợi một tuần và sau đó thả một con bồ câu ra, là một loài chim tinh sạch, nó không tìm thấy nơi nào để đáp xuống, vì vậy nó trở lại tàu (Sa 8:8-9). Một tuần lễ sau, Nô-ê biết rằng thực vật đang mọc lên và sự sống mới đã xuất hiện trên đất (c.10-11). Con bồ câu mang một nhánh ô-li-ve là dấu hiệu quen thuộc về sự bình an khắp thế giới. Một tuần sau, khi Nô-ê thả bồ câu lần thứ 3, nó không trở về, vì vậy ông biết nước đã khô cạn. [71]


Nô-ê đã làm một “cửa sổ” ở tầng dưới của chiếc tàu (c.6 NIV viết “cái nắp”) và ông mở cửa sổ này ra để ông có thể quan sát thế giới quanh mình. Việc này xảy ra vào ngày các hành khách đã ở trong tàu trọn một năm. Nô-ê thấy rằng đất thật sự đã khô, nhưng ông không ra khỏi tàu cho đến khi Chúa bảo ông rời tàu. Hai mươi sáu ngày sau, mệnh lệnh đó truyền đến và ông vâng lời (c.15).


3. Đức Chúa Trời ban thưởng cho đức tin (Sa 8:15-19)

Nô-ê là một người có đức tin mà tên ông được ghi lại trong He 11:1-40 cùng với tên của những anh hùng đức tin khác (c.7). Ông có đức tin để đồng đi với Đức Chúa Trời khi người thế gian phớt lờ và bất tuân Đức Chúa Trời. Ông có đức tin để làm việc cho Đức Chúa Trời và làm chứng cho Đức Chúa Trời khi sự chống đối chân lý là điều phổ biến. Giờ đây Cơn Nước Lụt đã qua, ông vận dụng đức tin để chờ đợi Đức Chúa Trời trước khi rời khỏi tàu.


Sau khi bị giữ trong tàu hơn một năm, ông và gia đình ông chắc đã ao ước trở lại trên đất khô: nhưng họ chờ đợi những chỉ dẫn của Đức Chúa Trời. Những hoàn cảnh trên đất có vẻ thích hợp cho sự lên bờ của họ, nhưng đó không phải là sự bảo đảm rằng Đức Chúa Trời muốn họ ra ngay và bắt đầu đời sống mới của họ. Đức tin vâng phục là đáp ứng của chúng ta đối với Lời Đức Chúa Trời, vì “đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Ro 10:17 NKJV).


Phải chăng Nô-ê đang bày tỏ sự vô tín khi ông thả các loài chim và mở cửa hầm để nhìn địa thế? Không ông chỉ sử dụng những cơ hội có sẵn để thu thập dữ kiện. Không có gì sai khi có một sự hiểu biết về hoàn cảnh, chỉ đừng cậy nơi sự thông hiểu của riêng bạn (Ch 3:5-6). Vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời không chỉ đòi hỏi làm điều đúng trong cách đúng vì động cơ đúng, nhưng nó cũng có nghĩa là làm điều đó đúng lúc “Kỳ hạn tôi ở trong tay Chúa” (Thi 31:15 NKJV).


Đức Chúa Trời đã ban thưởng cho đức tin của Nô-ê, và đức tin của gia đình ông, bằng cách chăm sóc họ trong tàu hơn một năm và sau đó chuẩn bị đất cho họ để họ có thể rời tàu. Nô-ê giống một “A-đam thứ 2” khi ông thực hiện khởi đầu mới này cho dòng dõi loài người. Đức Chúa Trời đã đem đất ra khỏi nước suốt tuần lễ sáng tạo, chuẩn bị đất cho A-đam cùng Ê-va.

Và giờ đây Ngài đã đem đất vượt qua Cơn Nước Lụt và chuẩn bị nó sẵn sàng cho Nô-ê cùng gia đình ông. Chúa còn ban cho gia đình Nô-ê và các loài vật mệnh lệnh tương tự mà Ngài đã ban từ buổi đầu: “Hãy sanh sản và thêm nhiều” (Sa 8:17; Sa 1:22, 28).


Nô-ê đã chuẩn bị chiếc tàu “để cứu nhà mình” (He 11:7), và Đức Chúa Trời thành tín đã cứu gia đình của ông. Không có biểu hiện nào trong Kinh Thánh cho thấy Nô-ê bằng sự làm chứng của mình đã mời những người khác gia nhập với ông và gia đình ông trong tàu, nhưng chắc chắn ông hẳn đã khích lệ họ tin cậy Đức Chúa Trời và chuẩn bị chếc tàu cho chính họ. Dĩ nhiên, không ai xem trong sứ điệp của ông, và thế giới thời bấy giờ đã hủy diệt (IIPhi 3:6).


Điều gì đã khiến cư dân chối bỏ Lời Đức Chúa Trời và bị hư mất? Họ giống như những người trong câu chuyện của Chúa chúng ta (Lu 14:16-24), bận rộn với những việc bình thường của đời sống hằng ngày (Mat 24:37-39) và không quan tâm đến cõi đời đỡi.

Họ tin rằng đời sống sẽ tiếp diễn và luôn như vậy, và không có gì sẽ thay đổi. Họ nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không xâm lấn thế giới hoặc ngăn trở kế hoạch của mọi việc, nhưng Ngài đã làm! Con người ngày nay có thái độ tương tự đối với sự tái lâm của Chúa (IIPhi 3:1-9 ITe 5:1-10).


Khi nói về đức tin cứu rỗi, mỗi người chúng ta phải tin nhận Chúa Giê-xu Christ cách cá nhân, chúng ta không thể được cứu bởi đức tin của một người thay thế. Vợ của Nô-ê, ba con trai của họ và ba con dâu của họ cũng là những tín hữu, và họ chứng tỏ điều đó bằng cách đứng cùng với Nô-ê trong khi ông làm việc và làm chứng, và sau đó bằng cách vào tàu trong sự vâng lời Chúa. [72]


4. Đức Chúa Trời tiếp nhận sự thờ phượng (Sa 8:20)

Sau khi bước ra khỏi tàu và đứng trên đất mới, Nô-ê đầy lòng biết ơn đến nỗi hành động đầu tiên của ông là hướng dẫn gia đình ông trong sự thờ phượng. Ông xây một bàn thờ và dâng một số loài vật tinh sạch làm của lễ cho Chúa.


Nô-ê là một tín hữu quân bình. Ông bước đi với Chúa trong sự giao thông đầy yêu thương và vui hưởng sự hiện diện của Ngài. Ông làm việc cho Chúa trong sự đóng tàu, và ông làm chứng cho Chúa như “thầy giảng đạo công bình” (IIPhi 2:5). Lúc ở trong tàu, ông chờ đợi Chúa để có những chỉ dẫn về việc ông rời tàu, và một khi ông đứng trên đất, ông thờ phượng Chúa. Giống như A-bên ông đem cho Đức Chúa Trời vật tốt nhất của ông (Sa 4:4) và giống như những người dòng Sết còn sót lại, ông kêu cầu danh Chúa (Sa 4:26). Sự thờ phượng Chúa thật đã được phục hồi trên đất.


Trong thời Cựu-ước, khi bạn dâng của lễ thiêu, bạn dâng toàn bộ con thú hay loài chim cho Chúa mà không giữ lại gì cả (Le 1:1-17). “Tất cả trên bàn thờ” (c.9) là luật của Kinh Thánh, vì của lễ tượng trưng cho sự dâng mình hoàn toàn cho Chúa [73] Trong một bước mới của sự phó thác, “Nô-ê dâng chính mình và gia đình” ông hoàn toàn cho Chúa. Đức Chúa Trời nhân từ bảo vệ họ và đưa họ vượt qua cơn bão, vì vậy chỉ thật thích hợp để họ khiến mình sẵn sàng cho Chúa để làm theo ý muốn Ngài.


Sự mô tả về việc Đức Chúa Trời “ngửi mùi thơm” (Sa 8:21 KV) là một cách của con người nói lên một chân lý thiên thượng: Đức Chúa Trời hài lòng với của lễ, chấp nhận nó, và hài lòng với dân sự Ngài cùng sự thờ phượng của họ (Le 1:9 Le 3:16). Nếu Đức Chúa Trời từ chối “ngửi” mùi thơm của lễ, điều đó có nghĩa là Ngài không đẹp lòng với những người thờ phượng (Le 26:31; Es 1:11-15) [74]

Trong ngôn ngữ Tân-ước, của lễ nói về Chúa Giê-xu Christ dâng chính Ngài vì chúng ta. “Hãy bước đi trong sự yêu thương, cũng như Đấng Christ đã yêu thương chúng ta và phó chính mình Ngài vì chúng ta, một của dâng và của tế lễ cho Đức Chúa Trời làm một thức hương có mùi thơm” (Eph 5:2 NKJV).


Tự mình, chúng ta không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời bởi địa vị chúng ta có hay điều chúng ta làm, nhưng bởi đức tin, chúng ta có thể được chấp nhận trong Chúa Giê-xu Christ. Cha đã phán về Chúa Giê-xu “Này là Con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mat 3:17). Những ai đặt đức tin nơi Đấng Christ đều “ở trong Đấng Christ” (IICo 5:17), và khi Cha nhìn họ, Ngài thấy sự công bình của Con Ngài (IICo 5:21). Các tín hữu được “chấp nhận trong Con yêu dấu” Đấng đẹp lòng Cha mọi đàng (Eph 1:6).


Giống như chiếc tàu đã cứu Nô-ê và gia đình ông, Chúa Giê-xu Christ đã vượt qua cơn bão về sự xét đoán của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Giô-na, là một điển hình về Đấng Christ trong sự chết, chôn, và sống lại (Mat 12:38-40), đã vượt qua cơn bão về sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời vì sự bất tuân của ông, nhưng Chúa Giê-xu đã vượt qua cơn bão trong sự vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu có thể nói: “Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi” (Thi 42:7 Gion 2:3). Sự thưong khó của Chúa chúng ta trên thập tự giá là “sự báp-têm” mà Chúa Giê-xu đã đề cập trong Lu 12:50 và điều đó được mô tả khi Giăng Báp-tít làm báp-tem cho Chúa Giê-xu ở sông Giô-đanh.


5. Đức Chúa Tái xác định trật tự thiên nhiên (Sa 8:21-22)

Chúa đã không phán những lời này với Nô-ê, Ngài phán những lời ấy với chính Ngài trong lòng Ngài. Đó là đáp ứng nhân từ của Ngài đối với đức tin, sự vâng phục và sự thờ phượng của Nô-ê. Đức Chúa Trời đã hứa điều gì?


Đất không bị rủa sả nữa (Sa 8:21a).

Đức Chúa Trời rủa sả đất vì tội lỗi A-đam (Sa 3:17) và thêm một sự rủa sả nữa vì tội lỗi Ca-in (Sa 4:11-12). Lời hứa của Đức Chúa Trời được ghi lại ở đây không làm mất hiệu lực những sự rủa sả đó, và chúng ta sẽ không bị cất đi cho đến khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm và dân sự Đức Chúa Trời ở trong thành thánh (Kh 22:3). Nhưng trong ân điển Ngài, Đức Chúa Trời quyết định không thêm vào tai họa của con người.


Không có những cơn lụt toàn cầu nữa (c.21b).

Đức Chúa Trời cũng quyết định rằng sẽ không có những cơn lụt trong tương lai nữa. Lý do của Đức Chúa Trời được trình bày trong c.21 đã được giải thích khác nhau, và sự giải thích của bạn tùy thuộc vào mức độ nào đó về cách bạn dịch bản văn.

Phải chăng Đức Chúa Trời phán “cho dù mọi khuynh hướng của lòng loài người là xấu” (KJV, NIV), hay Ngài phán “cho dù mọi khuynh hướng của lòng người là xấu” (NIV)?

Từ đầu Chúa đã giáng Cơn Nước Lụt vì tấm lòng xấu xa của loài người (Sa 6:5). Vì vậy, không giáng sự xét đoán khác sẽ khiến điều đó giống như Cơn Nước Lụt là một sai lầm hay một thất bại hoặc Đức Chúa Trời đã từ bỏ dòng dõi loài người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.


Nếu chúng ta dịch Sa 8:21 “vì”, rồi chúng ta cho rằng Đức Chúa Trời nói “lòng loài người là gian ác không thể chữa được. Cơn Nước Lụt đã xoá sạch những kẻ vi phạm, nhưng nó không thể chữa được. Cơn Nước Lụt đã xóa sạch những kẻ vi phạm, nhưng nó không thể thay đổi lòng người. Vì vậy, có sự xét đoán khác cũng sẽ không giải quyết vấn đề”. 

Nếu chúng ta dịch “cho dù như vậy”, có nghĩa là Đức Chúa Trời nói “vâng, họ đáng lãnh sự xét đoán vì lòng họ gian ác. Và việc cứ ở trong tội lỗi mà không học bài học của mình từ cơn nước lụt này chỉ cho thấy họ xấu xa thể nào. Nhưng trong ân điển, ta sẽ không giáng cơn nước lụt khác hay rủa sả đất”


Có lẽ cả hai điều đúng.

Điều quan trọng là Đức Chúa Trời phán những lời này trong sự đáp ứng của lễ của Nô-ê, và của lễ là một bức tranh về sự hy sinh của Đấng Christ (He 10:1-10 Eph 5:2). Trên cơ sở sự chuộc tội được Chúa Giê-xu Christ thực hiện tại thập tự giá, Đức Chúa Trời có thể phán: “Một giá đã được trả cho tội lỗi của thế gian, và ta có thể rút lại sự xét đoán. Sự công bình đã được đáp ứng, Luật pháp của ta đã được gìn giữ, và ta có thể bày tỏ ân điển cho một thế giới hư mất. Ta sẽ không giáng cơn nước lụt khác và xóa sạch dòng dõi loài người. Ngược lại, ta sẽ ban cho họ sự cứu rỗi lớn của ta.”


Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời không xét đoán tội lỗi hôm nay hoặc sẽ không có sự xét đoán thế gian trong tương lai. Ro 1:18 cho biết rõ rằng sự xét đoán của Đức Chúa Trời đang được bày tỏ nghịch với tội nhân ngay bây giờ qua những hậu quả của tội lỗi. Đức Chúa Trời đã giao họ xiềng xích tội lỗi của chính họ và bỏ mặc họ những hậu quả của tội lỗi trong chính thân thể họ.


Một trong những sự xét đoán lớn nhất Đức Chúa Trời có thể giáng cho tội nhân là để họ theo ý riêng của họ và trả giá cho điều đó trong chính đời sống của họ. Đó là sự xét đoán mà thế gian đang kinh nghiệm ngay bây giờ. Sẽ có một sự xét đoán toàn cầu trong tương lai, nhưng không phải là một sự xét đoán bằng nước. Đó sẽ là một sự xét đoán bằng lửa (IIPhi 3:1-18).


Không có sự gián đoạn về chu kỳ của thiên nhiên (Sa 8:22).

Cơn Nước Lụt đã làm gián đoạn chu kỳ bình thường của các mùa trong một năm, nhưng điều đó sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Trái lại, Đức Chúa Trời đã tái xác định rằng sự nhịp nhàng của ngày, tuần và mùa sẽ tiếp tục bao lâu đất tồn tại. Nếu không có sự đảm bảo này, loài người có thể không bao giờ biết chắc về việc có những thứ cần thiết của đời sống.


Chúng ta giờ đây biết rằng chu kỳ đều đặn của ngày và đêm, tuần và tháng, mùa và năm, được duy trì bởi sự quay vòng của trái đất trên trục của nó và quỹ đạo của trái đất quanh mặt trời. Đức Chúa Trời đã tạo ra chu kỳ cách ấy để vũ trụ của Ngài sẽ hoạt động hữu hiệu.


Mặc dù có vô số ngân hà để chọn lựa, Chúa quyết định đổ đầy tình yêu và ân điển của Ngài trên cư dân của trái đất. “Đất thuộc về Đức Giê-hô-va” (Thi 24:1). Chúa đã sắp xếp vũ trụ để mọi vật sống trên đất có thể được duy trì và điều này bao gồm cả những người nam người nữ là những người rất thường quên sự chăm sóc của Đức Chúa Trời.


Sự bảo đảm trong Sa 8:22 cho chúng ta hy vọng và khích lệ khi chúng ta đối diện với một tương lai chưa biết. Mỗi khi chúng ta đi ngủ vào ban đêm hay giở lịch sang một tháng mới, chúng ta sẽ được nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời quan tâm về hành tinh trái đất và cư dân trái đất. Với sự phát minh về ánh sáng điện cùng những phương tiện giao thông vận tải hiện đại, thế giới chúng ta đã đi xa khỏi việc sống bởi những chu kỳ thiên nhiên do Đức Chúa Trời thiết lập.


Chúng ta không còn đi ngủ lúc mặt trời lặn và thức dậy lúc mặt trời mọc, và nếu chúng ta không thích thời tiết nơi mình ở, chúng ta có thể nhanh chóng đi du lịch đến một môi trường khí hậu khác. Nhưng nếu Đức Chúa Trời muốn làm mặt trời mờ tối, sắp xếp lại các mùa, hay làm trái đất nghiêng đi một góc khác, sự sống chúng ta lâm nguy.


Đức Chúa Trời mời gọi chúng ta sống từng ngày một. Chúa Giê-xu đã dạy chúng ta cầu nguyện “Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày” (Mat 6:11) và cảm tạ về điều đó. “Các ngày ngươi bao lâu, sức lực ngươi cũng sẽ bấy nhiêu” (Phu 33:25 NKJV Mat 6:25-34). Khi các môn đồ can Chúa Giê-xu đừng đi đến Bê-tha-ni, Ngài đáp: “Trong ban ngày há chẳng phải có 12 giờ sao?” (Gi 11:9). Ngài đã vâng theo thời gian biểu của Cha và sống từng ngày một, tin cậy Cha chăm sóc Ngài.


“Giao-ước ngày và đêm” của Đức Chúa Trời đặc biệt có ý nghĩa đối với dân Y-sơ-ra-ên, vì nó đảm bảo với họ sự chăm sóc và bảo vệ của Ngài để họ sẽ không bao giờ thôi làm một dân tộc (Gie 33:19-26). Lời hứa của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ không giáng cơn nước lụt khác là sự bảo đảm cho dân Do-thái rằng giao ước của Ngài với họ sẽ chẳng bao giờ bị phá vỡ (Es 54:7-10).


Chúng ta có khuynh hướng xem việc mặt trời mọc và mặt trời lặn là điều bình thường, nhưng mọi chức năng này chính là những chứng cớ cho thấy Đức Chúa Trời ngự trên ngôi và giữ những lời hứa của Ngài. Mọi sự sáng tạo rao ra một bài giảng bất biến, ngày này sang ngày nọ, mùa này tiếp mùa khác, bảo đảm với chúng ta về sự chăm sóc yêu thương của Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể tin cậy lời Ngài vì “chẳng có một lời nào không ứng nghiệm về mọi lời hứa tốt lành của Ngài” (IVua 8:56).



 


9. HÃY ĐẾN VỚI SỰ SỐNG! (Sa 9:1-17)


“Hãy đến với sự sống” là một trong những bài hát vui nhất trong “Fiddler on the roof” một khúc nhạc mô tả đời sống người Do-thái trong ngôi làng nhỏ Anatevka.


Người bán sữa tên Tevge và những láng giềng của anh cô thế, nghèo nàn và không biết chắc về tương lai họ ở nước Nga chuyên chế. Nhưng họ vẫn ca tụng đời sống như một món quà vui mừng từ một Đức Chúa Trời nhân từ. Dù đó là sự tuyên bố đính hôn, sự ra đời của một em bé, hay thậm chí một chiếc máy may vừa được gởi đến, những cư dân Anatevka, khiêm nhường đã tìm thấy những lý do để tạ ơn vì những phước hạnh của đời sống.


Trong phân đoạn này (Sa 9:1-17), Đức Chúa Trời nói với 8 người sống sót trong Cơn Nước Lụt và cho họ những chỉ dẫn về 4 lĩnh vực của đời sống. Dù từ đầu được bày tỏ cho Nô-ê và gia đình ông, những chỉ dẫn này áp dụng cho mọi người trong mọi thời đại và mọi nơi. Đó là những qui định thường trực từ Đức Chúa Trời cho cả loài người, và chúng không nên bị bỏ qua hoặc thay đổi. Đời sống là quí giá, và nó phải được xử lý cẩn thận.


1. Thêm nhiều sự sống (Sa 9:1-7)

Khi Nô-ê ra khỏi tàu, ông như “A-đam thứ 2” sắp bước vào một khởi đầu mới trên đất cho dòng dõi loài người. Đức tin nơi Chúa đã cứu Nô-ê cùng gia đình ông khỏi sự hủy diệt, và ba con trai ông sẽ tái cư trú khắp đất (c.18).


Đức Chúa Trời đã bảo A-đam với Ê-va “hãy sanh sản, thêm nhiều và làm cho đầy dẫy đất” (Sa 1:28), và Ngài lặp lại mệnh lệnh đó hai lần với Nô-ê và gia đình ông (Sa 9:1, 7). Mọi con cháu của Nô-ê quan trọng đối với kế hoạch của Đức Chúa Trời, nhưng đặc biệt là dòng của Sem. Từ dòng đó Áp-ra-ham sẽ được sinh ra, người mà Đức Chúa Trời chọn để lập dân tộc Do-thái. Từ dân tộc đó sẽ ra Đấng Cứu Chuộc, là Đấng sẽ làm trọn Sa 3:15 và giày đạp đầu con rắn.


Trong Kinh Thánh, con cái được mô tả như một phước hạnh không phải một sự rủa sả, và việc có nhiều con cháu là chứng cớ về đặc ân của Đức Chúa Trời (Sa 24:60; Thi 121:3-5; Thi 128:3-4). Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng con cháu ông sẽ như sao trên trời và cát dưới biển (Sa 15:5; Sa 22:17), và các thánh tổ đã cầu xin phước hạnh về sự sinh ra những người thừa kế họ (Sa 28:3; Sa 35:11; Sa 48:4). Chúa đã lập giao-ước với Y-sơ-ra-ên để ban cho họ nhiều con cái nếu dân tộc vâng theo những luật lệ của Ngài (Sa 26:9; Phu 7:13).


Nhiều người ngày nay dường như không có thái độ đó đối với con cái. Bắt đầu bằng cuộc chiến tranh Cách Mạng, trong gần 200 năm của lịch sử Mỹ, 1.200.000 quân nhân đã bị giết trong 9 cuộc chiến tranh lớn. Nhưng trong một năm ở nước Mỹ, 1.600.000 trẻ sơ sinh bị phá thai hợp pháp [75] Trong thời Kinh Thánh, các cặp vợ chồng Do-thái đã không nghĩ đến việc phá thai một em bé, dù hoàn cảnh của họ khó khăn ra sao hay nguồn tài chính của họ thiếu thốn thế nào. Đời sống là món quà của Đức Chúa Trời và con cái là một di sản từ Đức Chúa Trời, là của báu phải được bảo vệ và đầu tư vì vinh hiển của Ngài.


2. Duy trì sự sống (Sa 9:2-4)

Một cuộc nghiên cứu được thực hiện trong năm 1900 cho thấy rằng con người cảm thấy họ cần 72 đồ dùng để thực hiện chức năng một cách bình thường và được hài lòng.

Năm mươi năm sau đó, trong một cuộc nghiên cứu tương tự, tổng số lên đến gần 500 đồ dùng! Nhưng Kinh Thánh chỉ liệt kê hai thứ: “Có thức ăn và quần áo, chúng ta phải thoả lòng với những điều này” (ITi 6:8 NKJV).


Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giê-xu đã dạy chân lý tương tự khi Ngài phán về loài chim và loài hoa (Mat 6:24-34). Nếu Cha trên trời mặc cho loài hoa vẻ đẹp và ban cho loài chim thức ăn của chúng, chắc chắn Ngài sẽ chu cấp thức ăn và quần áo cho con cái yêu dấu của Ngài, “vì Cha các ngươi ở trên trời biết rằng các ngươi cần mọi điều này” c.32, NKJV).


Khi Đức Chúa Trời đặt A-đam và Ê-va trong gia đình là khu vườn của họ; Ngài ban cho họ trái cây và thực vật để ăn (Sa 1:29 Sa 2:9, 16), nhưng sau Cơn Nước Lụt, Ngài mở rộng thức ăn của loài người kể cả thịt. Sự hài hòa trong thiên nhiên mà A-đam và Ê-va hưởng được bây giờ không còn nữa, vì Nô-ê và gia đình ông không có “quyền cai trị” trên sự sống thú vật (Sa 1:26, 28). Giờ đây, thú vật sẽ sợ hãi loài người và làm mọi điều có thể để thoát khỏi mối đe dọa của cái chết.


Từ khi đa số thú vật sinh sản nhanh chóng và con cái nó tăng trưởng nhanh chóng, các loài thú có thể dễ dàng vượt quá dân số con người. Vì vậy Đức Chúa Trời đã đặt sự sợ hãi con người trong loài vật. Ca-in là nông dân, A-bên là người chăn chiên, nhưng Nô-ê và các con trai ông là những thợ săn.


Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đặt một hạn chế về việc ăn thịt thú vật, thịt phải được sạch máu (Sa 9:4). Đức Chúa Trời xác định một cách ngắn gọn với Nô-ê điều mà sau đó Ngài lập tỉ mỉ qua Môi-se: sự sống ở trong huyết, và sự sống phải được tôn trọng, dù bạn đang giết một con thú để ăn tại môt kỳ lễ (Le 3:17; Le 7:26-27; Le 17:10-14; Le 19:26; Phu 12:16; Phu 12:23-25; Phu 15:23)[76]


Trong sự hạn chế này, Đức Chúa Trời một lần nữa bày tỏ sự quan tâm của Ngài đối với sự sống loài vật.Sự sống ở trong huyết, và sự sống đó đến từ Đức Chúa Trời nên phải được tôn trọng. Hơn nữa, huyết thú vật sẽ quan trọng trong hầu hết những của lễ theo luật Môi-se vì vậy huyết phải được xử lý bằng sự trân trọng.


Chúa Giê-xu đã dạy rằng có thể được phép ăn mọi thức ăn (Mac 7:1-23), và Phi-e-rơ (Cong 10:1-48) với Phao-lô (ITi 4:3-4; Co 2:16) đã xác nhận chân lý này. Tuy nhiên, Hội thánh đầu tiên vẫn đối diện với những bất đồng về thức ăn (Ro 14:1-15:7). Để giữ cho các tín hữu người ngoại khỏi gây vấp phạm cho những tín đồ Do-thái hoặc những người tìm kiếm đạo, các Cơ-đốc nhân đầu tiên được khuyên không được bất cẩn trong việc ăn thịt (Cong 15:19-21, 24-29)[77] Lời khuyên của Phao-lô là: hãy tiếp nhận nhau, yêu thương nhau, đừng làm gì gây vấp phạm cho nhau và hãy tìm cách gây dựng nhau trong đức tin. Cách tiếp cận là tình yêu; mục đích là sự trưởng thành.


3. Bảo vệ sự sống (Sa 9:5-6)

Từ chỗ chỉ dẫn Nô-ê về việc làm đổ máu thú vật, Chúa tiếp tục bàn đến một chủ đề quan trọng hơn, việc làm đổ máu loài người. Cho đến nay, loài người không có một ghi chép tốt đẹp cho lắm khi nói về việc quan tâm đến nhau. Ca-in đã giết A-bên em mình (Sa 4:8), Lê-méc đã giết một người trai trẻ và khoe khoang về điều đó (c.23-24), và đất đã đầy dẫy mọi thứ bạo lực (Sa 6:11, 13). Đức Chúa Trời đã đặt sự sợ hãi con người trong loài vật, nhưng giờ đây đã phải đặt sự kính sợ Đức Chúa Trời trong con người để họ không hủy diệt lẫn nhau!


Những ai giết đồng loại mình sẽ phải trả lời trước mặt Đức Chúa Trời về những hành động của mình, vì người nam người nữ đều được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời [78] Tấn công một con người là tấn công Đức Chúa Trời, và Chúa sẽ đem sự xét đoán đến trên kẻ vi phạm. Mọi sự sống là sự ban cho của Đức Chúa Trời, và cất sự sống đi nghĩa là chiếm chỗ của Đức Chúa Trời. Chúa ban cho sự sống và chỉ một mình Ngài có quyền cho phép cất sự sống đi (Giop 1:21).


Nhưng Đức Chúa Trời đã định trừng phạt kẻ giết người ra sao để thấy rằng sự công bình được thực hiện và Luật pháp được gìn giữ? Ngài đã thiết lập chính thể loài người trên đất và khi làm vậy Ngài chia sẻ với loài người quyền đáng sợ về việc cất mạng sống con người. Đó là nội dung mệnh lệnh của Đức Chúa Trời trong Sa 9:6. Chính thể loài người và án tử hình đi đôi với nhau, như Phao-lô giải thích trong Ro 13:1-7. Nhà cầm quyền mang thanh gươm và có quyền sử dụng nó.


Dưới Luật pháp Cựu-ước, không có quyền lực cảnh sát như chúng ta biết. Nếu một vụ giết người bị vi phạm, nó được gia đình nạn nhân tìm ra thủ phạm để đem hắn đến quan tòa. Có một sự khác nhau giữa sự giết người và tội ngộ sát (Xu 21:12-14) vì vậy Chúa đã hướng dẫn dân tộc Y-sơ-ra-ên lập 6 thành ẩn náu mà kẻ giết người bị tố cáo có thể trốn để được an toàn (Dan 35:6-34; Phu 19:1-13). Các trưởng lão của thành sẽ bảo vệ bị cáo cho đến khi vụ kiện có thể được điều tra, và nếu các bị cáo bị thấy có tội, gia đình của người chết có thể tiếp tục việc thi hành án. Vì kẻ giết người đã làm đổ máu, máu của kẻ giết người phải bị đổ ra.


Chính thể được thiết lập bởi Đức Chúa Trời, vì lòng người xấu xa (Sa 6:5) và sự sợ hình phạt có thể giúp ngăn trở những kẻ vi phạm luật. Luật pháp có thể ngăn trở nhưng không thể phục hồi, chỉ ân điển Đức Chúa Trời mới có thể thay đổi lòng người (Gie 31:31-34; He 8:7-13). Nhưng nếu cá nhân, gia đình hoặc nhóm được phép đối phó với kẻ vi phạm theo ý mình, xã hội sẽ ở trong một tình trạng hỗn loạn thường trực. Chính thể loài người có những khiếm khuyết và giới hạn của nó, nhưng chính thể thì tốt hơn tình trạng vô chính phủ và con người làm điều gì đúng theo mắt mình (Cac 17:5; Cac 18:1; Cac 19:1; Cac 21:25).[79]


Đức Chúa Trời đã chỉ định và thiết lập 3 thể chế trên đất: hôn nhân và gia đình (Sa 1:26-28; Sa 2:18-25), chính thể loài người (Sa 9:5-6) và Hội thánh (Mat 16:13-19; Cong 2:1-47). Mỗi chính thể có phạm vi và trách nhiệm của nó, và chính thể này không thể thay thế cho chính thể kia. Hội thánh vận dụng gươm của Thánh Linh (He 4:12), không phải gươm của công lý (Ro 13:4; Gi 18:36). Nhưng nếu chính thể can thiệp những vấn đề về lương tâm Cơ-đốc, các tín hữu có quyền không vâng theo (Cong 4:18-20).


Những người phản đối án tử hình hỏi: “Án tử hình có cản trở tội ác không?” Nhưng có luật pháp nào cản trở tội ác, kể cả luật đậu xe và luật tốc độ? Có lẽ không như chúng ta mong muốn nhưng hình phạt của những kẻ phạm tội thật sự giúp xã hội tôn trọng luật pháp và công lý. Không ai biết có bao nhiêu người học về nhận thức tội lỗi và suy nghĩ lại trước khi họ bất tuân luật pháp. Luật pháp cũng giúp bảo vệ và bồi thường cho người vô tội là nạn nhân của hành vi vô luật pháp.


Không phải mọi sự hợp pháp đều hợp với Kinh Thánh, không kể những điều mà các triết gia, nghị viên và tòa án có thể nói, mệnh lệnh của Đức Chúa Trời về án tử hình bắt đầu bằng “bất cứ ai”. Nó được Đức Chúa Trời ban ra để mọi người tôn trọng và vâng theo.


4. Vui hưởng sự sống (Sa 9:8-17)

Phân đoạn này là điều được các nhà thần học gọi là “Giao-ước Nô-ê”. Dù Đức Chúa Trời phán đặc biệt với Nô-ê và các con trai ông, giao-ước này bao gồm mọi con cháu của Nô-ê (c.9) và “mọi đời hầu đến” (c.2, NIV), Tuy nhiên, giao-ước không dừng lại ở đó vì nó cũng kể đến mọi vật sống (c.10, 12) và “mọi loài sinh vật” (c.15 NIV). Con người, loài chim, loài vật, thú hoang đều được bao gồm trong giao ước kỳ diệu này.


Trong giao ước này, Đức Chúa Trời hứa vô điều kiện rằng Ngài sẽ không bao giờ giáng cơn lụt khác để hủy diệt mọi sự sống trên đất. Như thể làm cho nó được nhấn mạnh, ba lần Ngài phán “chẳng bao giờ lại” (c.11, 15, NKJV, NIV). Ngài không đặt bất cứ điều kiện nào để loài người phải vâng theo, Ngài chỉ xác định sự thật rằng sẽ không có những cơn nước lụt toàn cầu nữa. Từ ngày đó trở đi, Nô-ê và gia đình ông có thể vui hưởng đời sống và không lo lắng mỗi khi mưa bắt đầu đổ xuống.


Một giao-ước với sự sáng tạo.

Ít nhất bốn lần trong giao-ước này, Chúa đề cập “mọi vật sống”. Ngài đang nói về loài thú và loài chim mà Nô-ê đã giữ an toàn trong tàu suốt Cơn Nước Lụt (c.10). Một lần nữa, chúng ta được nhắc nhở về sự quan tâm đặc biệt của Đức Chúa Trời đối với sự sống loài vật.


Khi Sứ đồ Giăng ngắm xem ngôi trên trời, ông thấy bốn “sinh vật” thờ phượng trước ngôi Đức Chúa Trời, mỗi sinh vật có một gương mặt khác nhau (Kh 4:6-7). Sinh vật thứ nhất có mặt giống như sư tử, con thứ hai giống như bò đực, con thứ ba như người và con thứ tư như chim phụng hoàng.


Bốn gương mặt tương tự với bốn loài vật mà Đức Chúa Trời đã lập giao-ước này với chúng: thú hoang, súc vật, loài người và loài chim (Sa 9:9-10). Những sinh vật này mãi được đại diện trước ngôi Đức Chúa Trời, vì Chúa quan tâm đến sự sáng tạo của Ngài. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng toàn bộ sự sáng tạo thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa Trời. Đấng chu cấp cho những tạo vật của Ngài, và vui mừng trong sự thờ phượng của chúng. [80]


Một dấu hiệu giao-ước.

Để giúp dân sự Ngài nhớ những giao-ước của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ một dấu hiệu có thể thấy được. Giao-ước của Ngài với Áp-ra-ham được ấn chứng bằng dấu hiệu của phép cắt bì (Sa 17:11; Ro 4:9-12) và giao-ước với môi-se tại núi Si-na-i bằng dấu hiệu về ngày Sa-bát hằng tuần (Xu 31:16-17). Giao-ước của Đức chúa Trời với Nô-ê và loài vật được ấn chứng nhớ lời hứa của Đức Chúa Trời rằng không có cơn bão nào trong tương lai sẽ trở nên một cơn lụt toàn cầu hủy diệt loài người.


Mark Twain và bạn ông là William Dean Howells đã bước ra khỏi nhà thờ ngay khi một cơn mưa bão dữ dội bắt đầu. Howells nói: ”Tôi chẳng biết nó sẽ tạnh hay không”, và Mark Twain đáp: “Nó luôn tạnh”. Ông nơi đúng, nó luôn tạnh! Vì sao? Vì Đức Chúa Trời đã lập một giao ước và Ngài luôn giữ Lời Ngài.


Đức Chúa Trời phán về cái cầu vồng như thể Nô-ê và gia đình ông quen thuộc với nó, vì vậy, chắc nó đã tồn tại trước Cơn Nước Lụt. Những cầu vồng được tạo nên bởi ánh sáng mặt trời xuyên qua nước trong không khí, mỗi giọt nước trở thành một lăng kính phát những màu sắc tiềm ẩn trong ánh sáng trắng của mặt trời. Những cầu vồng mỏng manh nhưng đẹp đẽ, và không ai phải trả tiền để xem chúng!

Những màu sắc đáng yêu của chúng nói với chúng ta về điều mà Phi-e-rơ gọi là “ân điển muôn vẻ của Đức Chúa Trời” (IPhi 4:10). “Muôn vẻ” nghĩa là “khác nhau, nhiều màu sắc, nhiều đốm màu”. Cái cầu vồng nhắc nhở chúng ta về giao-ước nhân từ của Đức Chúa Trời và ân điển “muôn màu” của Đức Chúa Trời.


Chúng ta hãy theo đuổi tư tưởng đó. Nếu cái cầu vồng nhắc chúng ta về sự thành tín và ân điển của Đức Chúa Trời, vậy tại sao chúng ta phiền muộn và lo lắng? Đức Chúa Trời đã không hứa rằng chúng ta sẽ không bao giờ kinh nghiệm những cơn bão, nhưng Ngài hứa rằng những cơn bão sẽ không hủy diệt chúng ta. “Khi người vượt qua các dòng nước, ta sẽ ở cùng, và khi ngươi vượt qua sông, chúng sẽ chẳng che lấp ngươi” (Es 43:2 NKJV). Khi những đám mây xuất hiện và mặt trời bị che khuất, chúng ta không có gì để sợ hãi.


Chúng ta hãy nghĩ về cây cung.

Cây cung là một dụng cụ chiến tranh nhưng Đức Chúa Trời đã biến đổi nó thành một bức tranh về ân điển và sự thành tín của Ngài, một sự bảo đảm về sự bình an. Đức Chúa Trời chắc chắn có thể xoay cây cung của sự xét đoán trên chúng ta, vì chúng ta đã vi phạm Luật pháp của Ngài và đáng lãnh sự xét đoán. Nhưng Ngài đã xoay cây cung về phía Thiên Đàng và chính Ngài mang lấy sự xét đoán thay chúng ta! Khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá, chính Đấng Công Bình chịu thương khó vì những kẻ không công bình (IPhi 3:18) và mang lấy sự thương khó mà đúng ra thuộc về chúng ta.


Những cái cầu vồng mang tính toàn cầu, bạn nhìn thấy chúng khắp thế giới. Ân điển muôn màu của Đức Chúa Trời đủ cho cả thế giới và cần phải được rao báo cho toàn thế giới. Xét cho cùng, Đức Chúa Trời yêu thương thế giới (Gi 3:16) và Đấng Christ đã chết thay tội lỗi của thế giới (IGi 4:10, 14).


Nhưng cái cầu vồng không chỉ để cho chúng ta nhìn mà thôi, vì Chúa đã phán “ta sẽ nhìn xem nó” (Sa 9:16). Chắc chắn Đức Chúa Trời không quên những giao ước của Ngài với dân sự Ngài, nhưng đây chỉ là cách khác để bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta không cần phải sợ hãi. Khi chúng ta nhìn xem cái cầu vồng, chúng ta biết rằng Cha chúng ta cũng đang nhìn xem cái cầu vồng. Và do đó, nó trở thành môt chiếc cầu đem chúng ta lại gần với nhau.


Ba cái cầu vồng.

Có ba người trong Kinh Thánh đã nhìn thấy những cái cầu vồng đầy ý nghĩa. Nô-ê nhìn thấy cái cầu vồng sau cơn bão, giống như dân Đức Chúa Trời, nhìn thấy nó ngày nay. Nhưng tiên tri Ê-xê-chi-ên nhìn thấy cái cầu vồng giữa cơn bão, khi ông có khải tượng đặc biệt về những bánh xe và ngôi Đức Chúa Trời (Exe 1:28). Ê-xê-chi-ên cũng nhìn thấy những sinh vật và mỗi sinh vật có bốn mặt! Một con giống như người, một con giống sư tử, một con giống bò đực và một con giống chim phụng hoàng - những gương mặt tương tự mà Giăng đã thấy (Kh 4:6-7).


Dĩ nhiên Sứ đồ Giăng nhìn thấy cái cầu vồng trước khi cơn bão của sự xét đoán ập xuống (c.3). Thật ra, Giăng nhìn thấy một cái cầu vồng toàn vẹn ở xung quanh ngôi Đức Chúa Trời! Trên đất, chúng ta thấy “một phần”, nhưng một ngày nào đó trên Thiên Đàng, chúng ta sẽ nhìn thấy mọi vật một cách đầy đủ như chúng thật sự vốn có (ICo 13:12).


Bài học cá nhân cho dân sự Đức Chúa Trời đơn giản là:trong những cơn bão của đời sống, hãy luôn tìm kiếm cái cầu vồng về lời hứa giao-ước của Đức Chúa Trời. Giống như Giăng, bạn có thể nhìn thấy cái cầu vồng trước cơn bão. Giống như Ê-xê-chi-ên bạn có thể thấy nó giữa cơn bão, hoặc giống như Nô-ê bạn có thể phải chờ đợi cho đến sau cơn bão. Nhưng bạn sẽ luôn nhìn thấy cái cầu vồng về lời hứa của Đức Chúa Trời nếu bạn nhìn xem bằng đức tin. Đó là bản dịch Cựu-ước của Ro 8:28.


Giao ước của Đức Chúa Trời với sự sáng tạo của Ngài ảnh hưởng đến mọi sinh vật trên đất. Nếu không có giao-ước đó, sẽ không có sự liên tục được bảo đảm về thiên nhiên từ ngày này sang ngày khác và từ mùa này sang mùa kia. Chúng ta sẽ không bao giờ biết khi nào cơn bão sắp tới sẽ đến và liệu đó sẽ là cơn bão cuối cùng của chúng ta hay không.


Đức Chúa Trời muốn chúng ta vui hưởng những phước hạnh của đời sống tự nhiên và đời sống thuộc linh, vì Ngài “ban cho chúng ta mọi vật dư dật để vui hưởng” (ITi 6:17). Khi bạn biết Chúa Giê-xu Chirst là Chúa và Cứu Chúa, thế giới thiên nhiên quanh bạn trở nên kỳ diệu hơn nhều, vì Đấng Sáng Tạo đã trở thành Cha của bạn.


Trong những năm về sau, nhà truyền giáo người Mỹ D. L. Moody đã nói về sự qui đạo của ông khi còn là một thiếu niên, ông nói: “Tôi đã ở trong một thế giới mới. Sáng hôm sau, mặt trời chiếu sáng hơn và những con chim hót ngọt ngào hơn…. Những cây đu già vẫy cành vì vui mừng, và cả thiên nhiên ở trong sự hòa bình. Đó là niềm vui thú vị nhất mà tôi từng biết”. [81] là Chúa của sự cứu rỗi. Hãy tin cậy Chúa Giê-xu Christ và rồi bạn có thể thật sự hát “Đây là thế giới của Cha tôi”.



 


10. PHẦN CÒN LẠI CỦA CÂU CHUYỆN (Sa 9:18-10:32)


Tôi là người mê đọc các tiểu sử và tự truyện, và tôi thường hối tiếc khi lật sang trang của một cuốn sách để phát hiện một bộ xương đang nhe răng ra lén vào phòng riêng của ai đó mà tôi từng thán phục. Nhà bình luận người Mỹ Russell Baker đã nói: “Vấn đề của người viết tiểu sử đó là anh ta không bao giờ biết đủ.

Vấn đề của người viết tự truyện đó là anh ta biết quá nhiều” [82] Nhưng khi Đức Chúa Trời viết câu chuyện, Ngài biết mọi sự về mọi người và luôn nói sự thật, và Ngài làm điều đó vì ích lợi của chúng ta.


Lịch sử về Nô-ê với gia đình ông giờ đây đi từ những cái cầu vồng đến những bóng mờ, và chúng ta nhìn xem những tội lỗi đáng xấu hổ của một con người cao trọng của đức tin. Tiến sĩ William Culbertson, trong nhiều năm làm hiệu trưởng của học viện Kinh Thánh Moody ở Chicago, thường kết thúc bài cầu nguyện của ông giữa đám đông bằng lời “Và, lạy Chúa, hãy giúp chúng con kết thúc tốt đẹp.” 

Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện đó cho Tấn sĩ Culbertson nhưng không phải mọi tín hữu giờ đây ở Thiên Đàng đã kết thúc cuộc chạy đua và được nghe Đức Chúa Trời phán “được lắm!”. Tuy nhiên, chúng ta hãy độ lượng và nhớ lời cảnh cáo của Phao-lô “Vậy, ai tưởng mình đứng, hãy chú ý, kẻo ngã” (ICo 10:12 NKJV). Xét cho cùng, Nô-ê không nghĩ điều đó sẽ xảy đến cho ông!


1. Một bị kịch gia đình (Sa 9:18-23)

Mục lục cho “Phần còn lại của câu chuyện” ở c. 18-19. Những nhân vật chính được liệt kê - Nô-ê, Shem, Cham và Gia-phết - cùng chủ đề chính của phân đoạn này được tuyên bố: Thể nào gia đình Nô-ê đã nhiều thêm và rải rác khắp đất. Độc giả Kinh Thánh đương đại thường bị cám dỗ để bỏ qua những liệt kê này về những tên không có tiếng tăm, nhưng điều đó không làm giảm đi sự quan trọng của những tên ấy.


“Những người không có tiếng tăm” nay đã lập nên những dân tộc mà suốt lịch sử Kinh Thánh đã ảnh hưởng lẫn nhau và giúp thực hiện những mục đích của Đức Chúa Trời trên đất này. Con cháu của Sem-dân Y-sơ-ra-ên-đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trên sân khấu của lịch sử.


• Sự ô nhục (Sa 9:20-21).

Khi trở thành một nông dân Nô-ê theo nghề nghiệp của cha ông là Lê-méc (Sa 5:28-29). Mặc dù Kinh Thánh lên án sự say rượu (Ch 20:1 23:19-21; Ch 23:29-35; Es 5:11; Ha 2:15; Ro 13:13; ICo 6:10; Eph 5:18), Kinh Thánh không lên án việc trồng hoặc ăn nho hay uống rượu. Nho, nho khô và rượu là những yếu tố quan trọng trong thức ăn của các dân Đông phương. Thật ra, trong xã hội thời Cựu-ước, rượu được xem là một phước hạnh từ Đức Chúa Trời (Thi 104:14-15; Phu 14:26) và thậm chí được sử dụng với những của lễ (Le 23:13; Dan 28:7).


Đây là sự đề cập đầu tiên về rượu trong Kinh Thánh, nhưng việc chế rượu đã được thực hành trước Cơn Nước Lụt và Nô-ê chắc chắn biết rằng quá nhiều rượu sẽ như thế nào đối với ông. Để cố gắng giải tội cho Nô-ê, một số học giả tuyên bố rằng Cơn Nước Lụt đã đem lại một sự thay đổi trong không khí của trái đất, và điều này làm cho nước nho lên men lần đầu tiên, nhưng sự bảo vệ này thật yếu ớt. Nô-ê đã hái nho, ép chúng trong máy ép nho, để nước nho trong những bầu da, và chờ cho nước nho lên men.


Sự say rượu và sự lõa thể của ông thật ô nhục và hai điều thường đi đôi với nhau (Sa 19:30-38; Ha 2:15-16; Ca 4:21). Rượu không phải là một thức uống kích thích, nó là một loại thuốc mê, và khi nào bị ảnh hưởng bởi rượu, con người mất tự chủ. Ít nhất Nô-ê đã ở trong trại của ông khi điều này xảy ra chớ không ở ngoài giữa nơi công cộng. Nhưng khi bạn xem xét ông là ai (một thầy giảng đạo công bình) và ông đã làm gì (cứu gia đình khỏi sự chết) thì tội lỗi của ông thậm chí trở nên ghê tởm hơn.


Kinh Thánh không bào chữa cho tội lỗi của các thánh đồ, nhưng đề cập chúng như những lời cảnh cáo chúng ta đừng làm điều họ đã làm (ICo 10:6-13). Như Spurgeon đã nói “Đức Chúa Trời không bao giờ cho phép con cái Ngài phạm tội một cách thành công.” 

Luôn luôn có một giá phải trả.


Hai lần Áp-ra-ham đã nói dối về vợ ông (Sa 12:10-20; Sa 20:1) và con trai ông là Y-sác đã noi gương xấu của ông (Sa 26:6-16). Môi-se nổi giận và kết quả là cũng đánh mất đặc quyền bước vào Đất Thánh (Dan 20:7-13). Giô-suê có những kết luận vội vàng và đi đến chỗ bảo vệ kẻ thù (Gios 9:1-10:43). Đa-vít phạm tội tà dâm và dàn xếp để chồng của người đàn bà bị giết trong chiến trận (IISa 11:1-27) và lưỡi gươm đã gây tai họa cho gia đình ông trong những năm sau đó.


Nô-ê không có ý định say rượu và phơi bày chính mình một cách vô liêm sỉ, nhưng điều đó đã xảy ra như vậy. Người Nhật có một châm-ngôn thích đáng “Trước tiên người đàn ông uống rượu, sau đó rượu uống rượu, và rồi rượu uống người đàn ông.”


Sự bất kính (Sa 9:22).

Cham lẽ ra không nên bước vào trại của cha mình nếu không có một lời mời. Phải chăng ông đã gọi cha mình và không nhận được sự trả lời? Phải chăng ông phân vân không biết Nô-ê bệnh hay có lẽ đã chết? Phải chăng ông thậm chí biết rằng cha ông đã uống rượu? Những câu hỏi này không được bản văn trả lời, vì vậy thật vô ích để chúng ta suy đoán. Một điều chắc chắn là: Cham đã bất kính với cha mình trong điều ông đã làm.


Cách con người đáp ứng trước tội lỗi và sự ngượng ngùng của người khác là một sự bày tỏ về tính cách của họ. Cham lẽ ra có thể liếc nhìn vào trong trại, nhanh chóng phán đoán tình hình, và che thân cha, không nói gì với ai về sự việc này. Trái lại, ông dường như vui thích cảnh này và sau đó kể cho hai anh em mình về điều đó trong một thái độ thật bất kính. Có thể ông đã gợi ý để họ đích thân đi xem.


Môi-se đã chưa nói: “Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi” (Xu 20:12), nhưng chắc chắn điều này phải là điều tự nhiên đối với con cái và sẽ phải hiện diện trong lòng Cham. Nhưng tại sao một đứa con lại tỏ ra sự bất kính như thế đối với cha mình? Dù Cham là nhỏ nhất trong ba con trai, có lẽ ông là một “người anh” thời Tân-ước đã giận dữ với cha mình vì điều ông đã không nhận được (Lu 15:25-32). Bởi điều ông đã làm, Cham đã bày tỏ một sự yếu đuối về tính cách của mình và có thể lộ ra trong con cháu ông.


Sự đúng đắn (Sa 9:23).

Thay vì cười với Cham và đi xem cảnh tượng ô nhục, Sem và Gia-phết bày tỏ tình yêu của họ dối với cha bằng cách thực hành Ch 10:12 “Tình yêu che đậy mọi tội lỗi” (NKJV, xem IPhi 4:8). Hai anh em đứng với nhau và giữ áo phía sau họ, đi lùi vào trong trại với mắt ngoảnh đi, và che thân thể lõa lồ của Nô-ê. “Kẻ nào khoả lấp tội lỗi tìm cầu tình yêu thương” (Ch 17:9 NKJV) và “một người khôn khéo che lấp sự nhục nhã” (Ch 12:16 NKJV).


Tình yêu không tẩy sạch tội lỗi, vì chỉ có huyết Đấng Christ mới có thể làm được điều đó (IGi 1:7) Tình yêu cũng không bỏ qua tội lỗi, vì tình yêu muốn điều tốt nhất của Đức Chúa Trời cho người khac. Nhưng tình yêu thật sự che đậy tội lỗi và không đi khắp nơi phơi bày tội lỗi rồi khuyến khích người khác lan truyền tin xấu. Khi người khác phạm tội, và chúng ta biết về điều đó, nhiệm vụ của chúng ta là giúp hồi phục họ trong một tinh thần nhu mì (Ga 6:1-2).

Người ta nói rằng trên chiến trường của đời sống, Cơ-đốc nhân có khuynh hướng đá vào những người bị thương tích của họ, và điều này thường là sự thật. Nhưng trước khi chúng ta lên án người khác, chúng ta nên xem xét chính mình, vì tất cả chúng ta đều là những ứng viên cho những hành vi không thích hợp với một Cơ-đốc nhân.


2. Một lời tiên tri về gia đình (Sa 9:24-29)

Khi Nô-ê tỉnh lại từ trạng thái say sưa ông có lẽ đã xấu hổ về điều mình đã làm, nhưng ông cũng ngạc nhiên thấy mình được đắp bằng một áo choàng. Đương nhiên, ông không biết điều gì đã xảy ra trong trại lúc ông đang ngủ. Điều hợp lý sẽ là nói với Gia-phết, con đầu lòng của ông, và Gia-phết với Sem chắc đã kể cho ông điều Cham đã làm.


Những lời này là lời duy nhất của Nô-ê được ghi lại trong Kinh Thánh. Thật tồi tệ khi lời nói ngắn gọn này đã bị hiểu lầm và bị dán nhãn là một “sự rủa sả”, vì điều Nô-ê đã nói đúng hơn là một lời tiên tri của một người cha về con cháu ông. Từ “sự rủa sả” được sử dụng chỉ một lần, nhưng nó được chỉ về Ca-na-an con trai út của Cham chớ không phải chỉ về chính Cham. Điều này gợi ý rằng Nô-ê đang mô tả tương lai của các con trai ông và một cháu nội của ông trên cơ sở của điều ông đã nhìn thấy trong tính cách của họ, chẳng khác gì điều Gia-cốp đã làm trước khi ông chết (Sa 49:1-33).


Ca-na-an, sự nô lệ (Sa 9:25).

Nếu Nô-ê muốn công bố một lời rủa sả, nó sẽ được chỉ về Cham, đứa con đã phạm tội nghịch với cha mình. Nhưng trái lại, ông kể tên Ca-na-an ba lần. Đó là một nguyên tắc trong luật pháp sau này rằng con cháu không thể bị trừng phạt vì tội lỗi của tổ phụ chúng (Phu 24:16; Gie 1:29-30; Exe 18:1-4) và dường như nguyên tắc này đã áp dụng trong thời các thánh tổ. [83]


Nhìn xuống các thế kỷ, Nô-ê tiên đoán ba lần rằng con cháu của Ca-na-an sẽ trở nên những tôi tớ hèn mọn nhất [84] Dân Ca-na-an đã được liệt kê trong Sa 10:15-19 chính là các quốc gia mà dân Y-sơ-ra-ên đã chinh phạt và sống trong xứ của họ (Sa 15:18-21; Xu 3:8, 17; Dan 13:29; Gios 3:10; IVua 9:20). Thật khó để mô tả sự đồi bại về đạo đức của xã hội Ca-na-an, đặc biệt là những tập tục tôn giáo của họ, nhưng những luật được ban ra trong Le 18:1-30 sẽ cho bạn ý niệm nào đó về cách họ sống [85] Đức Chúa Trời đã cảnh cáo dân Do-thái đừng thoả hiệp với lối sống Ca-na-an và phải tiêu diệt mọi điều sẽ cám dỗ họ trong hướng đó (Xu 34:10-17; Phu 7:1-26).


Hai quan niệm sai lầm phải được làm rõ.

- Thứ nhất, con cháu của Cham không phải là những người của một chủng tộc da đen nhưng là người da trắng thuộc vùng Cáp-ca , vì vậy không có cơ sở nào trong cái gọi là “sự rủa sả dành cho Ca-na-an” này cho thể chế nô lệ.

- Thứ hai, mặc cho những lối sống gian ác của mình một số dân Cham này đã xây dựng những nền văn minh rộng lớn và tiên tiến, kể đến dân Ba-by-lôn, dân A-sy-ri và dân Ai-cập. Theo một ý nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói rằng con cháu của Cham đã “phục vụ” cả thế giới qua những tư tưởng và những công cụ mà họ đã khám phá và phát triển. Giống như dân Ca-in (Sa 4:17-24), những dân tộc này có năng khiếu chế tạo những đồ vật cho thế giới này (Lu 16:8).


Sem sự giàu có (Sa 9:26).

Nô-ê đã không chúc phước cho Sem, ông ngợi khen “Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của Sem” NIV). Khi làm vậy, Nô-ê đã qui vinh hiển cho Đức Chúa Trời về điều Ngài sẽ làm cho con cháu của Sem. Nô-ê biết trước các con của ông rằng bất cứ điều gì Sem có sẽ là sự ban cho của Đức Chúa Trời, và bất cứ phước hạnh nào Sem đem đến cho thế giới trong tương lai đều sẽ vì cớ ân điển của Đức Chúa Trời.


Dĩ nhiên, Sem là tổ phụ của Áp-ra-ham (Sa 11:10-32), người sáng lập dân tộc Hê-bơ-rơ, vì vậy Nô-ê đang nói về dân Do-thái. Việc Chúa sẽ làm giàu dân Do-thái về mặt thuộc linh đã được hứa với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3) và sau đó được Phao-lô giải thích (Ro 3:1-4; Ro 9:1-13). Chính qua Y-sơ-ra-ên mà chúng ta có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời chân thật, Lời Đức Chúa Trời được viết ra, và Chúa Cứu Thế, là Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã ra đời tại Bết-lê-hem thuộc chi phái Giu-đa. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, “Sem” nghĩa là “tên” và chính dân Y-sơ-ra-ên là dân đã gìn giữ danh của Chúa.


Sem là con trai thứ hai của Nô-ê (Sa 9:24; Sa 10:21), nhưng mỗi khi ba người con được kể tên, tên của Sem đứng đầu (Sa 5:32; Sa 6:10; Sa 9:18; Sa 10:1; ISu 1:4). Đó là trường hợp khác trong Sáng-thế ký về ân điển của Đức Chúa Trời đã nâng người con thứ hai lên vị trí con đầu lòng. Đức Chúa Trời đã chọn A-bên thay cho Ca-in (Sa 4:4-5), Y-sác thay cho ích-ma-ên (Sa 17:15-22), và Gia-cốp thay cho Ê-sau (Sa 25:19-23). Phao-lô bàn luận chân lý thần học thâm thúy này trong Ro 9:1-33


Gia-phết - sự mở rộng (Sa 9:27).

Ông là tổ phụ của điều mà chúng ta gọi chúng là “các dân ngoại”. Ở đây chúng ta có một sự chơi chữ, vì trong tiếng Hê-bơ-rơ, tên Gia-phết rất gần với từ có nghĩa là “mở rộng”. Dân Cham đã xây dựng những nền văn minh rộng lớn ở phương Đông, và dân Sem đã định cư trong xứ Ca-na-an cùng miền lân cận, nhưng con cháu của Gia-phết đã lan tràn ra nhiều hơn bà con của họ và thậm chí đi đến vùng mà chúng ta gọi là Tiểu Á và Châu Âu. Họ là một dân sẽ gia tăng và đi vào địa phận mới.


Tuy nhiên, mặc dù con cháu của Gia-phết thành công trong những cuộc chinh phạt của họ, khi nói đến những điều thuộc linh, họ sẽ phải nhờ vào Sem. Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời của Sem và con cháu của Gia-phết sẽ tìm thấy Đức Chúa Trời “ở nơi trại của Sem”. Y-sơ-ra-ên được Đức Chúa Trời chọn làm “sự sáng cho dân ngoại” (Es 42:6 Es 49:6), vì “sự cứu rỗi thuộc về dân Do-thái” (Gi 4:22). Đáng buồn mà nói, phần lớn, dân tộc Y-sơ-ra-ên đã không làm chứng cho dân ngoại để họ có thể tin nơi Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật (Es 52:5 Ro 2:24).


Khi Chúa Giê-xu đến trên đất, Ngài đã đem sự sáng đến cho dân ngoại (Lu 2:32), và các sứ đồ cùng Hội thánh đầu tiên đã đem sự sáng đó đến các dân tộc (Công 1:8 Công 13:47). Con cháu của ba con trai Nô-ê đã được đại diện trong Hội thánh đầu tiên: quan coi kho người Ê-thi-ô-pi, một con cháu của Cham (Công 8:26) [86] Phao-lô, con cháu của Sem (Công 9:1-42), và Cọt-nây cùng gia đình ông, là con cháu của Gia-phết (Công 10:1-48).


Nô-ê đã sống thêm ba thế kỷ rưỡi nữa, và chúng ta có mọi lý do để tin rằng ông đã đồng đi với Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài cách trung tín. Theo sự ghi chép ông đã sa ngã một lần, và chắc chắn ông đã ăn năn và Chúa đã tha thứ ông. Trong sự bước đi của mình với Đức Chúa Trời, chúng ta trèo lên những ngọn đồi và đôi lúc chúng ta đi xuống những thung lũng. Như Alexander Whyte thường nói: “Đời sống Cơ-đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới?”


3. Một di sản gia đình (Sa 10:1-32)

Chương này được biết như “Biểu đồ của các dân tộc” và có một không hai trong biên niên sử cổ đại. Mục đích của chương này được trình bày từ đầu (c.1) và cuối cùng (c.32): để giải thích thể nào đất đã được tái định cư sau Cơn Nước Lụt bởi con cháu của ba con trai Nô-ê. Bạn tìm thấy một sự liệt kê tương tự (nhưng không giống hệt nhau) trong ISu 1:1-54.


Hãy chú ý! Trước khi chúng ta xem một số chi tiết của chương này, và sau đó tìm cách rút ra những bài học thuộc linh nào đó từ chương này, chúng ta cần phải chú ý một số lời cảnh cáo.

- Thứ nhất, sự liệt kê không phải là một gia phả tiêu biểu chỉ trình bày những tên của con cháu. Tác giả nhắc nhở chúng ta rằng những dân tộc cổ đại này có “thị tộc và ngôn ngữ. . địa phận và quốc gia của họ” (Sa 10:31 NIV). Nói cách khác, đây là một gia phả cộng với một bản địa đồ và một cuốn sách lịch sử. Chúng ta đang quan sát những biến động của conngười và các dân tộc trong thế giới cổ đại.

- Thứ hai, sự liệt kê không hoàn toàn. Ví dụ, chúng ta không tìm thấy Ê-đôm, Mô-áp, và Am-môn được đề cập, nhưng đây là những dân tộc quan trọng trong lịch sử Kinh Thánh. Việc có 70 dân tộc trong bản liệt kê gợi ý rằng sự sắp xếp có thể không tự nhiên một cách cố ý, một cách tiếp cận thường được sử dụng trong việc viết những liệt kê như thế [87] Có 70 người trong gia đình Gia-cốp khi họ đến Ê-díp-tô (Sa 46:27; Xu 1:5), và Chúa đã sai 70 môn đồ đi ra giảng đạo (Lu 10:1).

- Thứ ba, thật khó để nhận biết một số quốc gia này và cho chúng những cái tên “hiện đại”. Qua bao thế kỷ, các dân tộc có thể thay đổi tên của họ, chuyển đến những vị trí khác, bổ sung ngôn ngữ của họ, và thậm chí thay đổi thành phần chủng tộc qua hôn nhân khác chủng tộc.


Con cháu của Gia-phết (Sa 10:2-5).

Bảy con trai được kể tên và bảy cháu nội chỉ từ hai con trai. Phải chăng điều này có nghĩa là năm con trai kia không có con sinh cho họ, hay đó là bằng chứng khác về cách chọn lựa của người biên soạn? Gia-phết là tổ phụ của các dân ngoại ở phía Bắc và phía Đông xứ Ca-na-an. Đây sẽ là những dân tộc ở xa, những quốc gia đại diện cho “những giới hạn bên ngoài” của nền văn minh đối với thường dân Do-thái thời Cựu-ước (Thi 72:8-10).


Con cháu của Cham (Sa 10:6-20).

Cúc là Ê-thi-ô-pi cổ đại (không phải quốc gia ngày nay), Mích-ra-im là Ai-cập, và Phút có thể là Li-đi. Chúng ta đã đề cập đến các dân Ca-na-an. Con cháu của Cham ở trong các miền mà chúng ta ngày nay nhận biết là Ai-cập, Palestine, Sudan, Saudi Arabia và Yemen.


Tại thời điểm này trong sự liệt kê, có một “dấu ngoặc” để bàn luận về một người nổi tiếng, Nim-rốt, người sáng lập một đế quốc to lớn (c.8-12). Ông được đề cập vì các quốc gia do ông lập nên đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, và cũng vì một trong những quốc gia đó (Ba-bên) được bàn luận trong phần kế tiếp của Sáng-thế ký.


Trong Kinh Thánh Authorized Version, Nim-rốt được gọi là “một người mạnh mẽ trên đất” và “một thợ săn mạnh mẽ trước mặt Đức Giê-hô-va” (c.8-9). Từ được dịch là “mạnh mẽ” chỉ về một nhà vô địch, người nào đó nổi tiếng về sức mạnh và can đảm. Nó được dịch là “những người mạnh mẽ” trong IVua 1:8 và chỉ về những vệ sĩ đặc biệt của Đa-vít. Hình ảnh của Nim-rốt trong bản văn không phải là hình ảnh về một nhà thể thao săn thú [88], nhưng đúng hơn là hình ảnh một bạo chúa nhẫn tâm chinh phạt con người và lập một đế quốc.


Ông đã xây 4 thành ở xứ Si-nê-a (Ba-by-lôn) và 4 thành nữa ở xứ A-si-ri. Cả Ba-by-lôn và A-si-ri đã trở thành kẻ thù của Y-sơ-ra-ên và được Đức Chúa Trời sử dụng để sửa phạt dân sự bất tuân của Ngài. Chúng ta sẽ học nhiều hơn về Ba-by-lôn trong bài học kế tiếp.


Con cháu của Sem (Sa 10:21-31).

Sem thường được đề cập đầu tiên, nhưng ông được liệt kê ở cuối cùng lần này để sự tường thuật có thể đi ngay vào câu chuyện về Ba-bên và gia phả của Áp-ra-ham, có thủy tổ từ Sem (Sa 11:10). Năm con trai được đề cập nhưng sự nhấn mạnh là về gia đình A-bác-sát vì ông là ông nội của Hê-be, và câu chuyện của ông bắt đầu trong Sa 12:1-20. [89]


“dấu ngoặc” khác trong Sa 10:25 và bàn luận “sự chia đất” trong thời của Bê-léc, nghĩa là “sự phân chia”. Điều này có lẽ chỉ về sự phân chia và sự phân tán các dân tộc, được mô tả trong chương 11. Tuy nhiên một số học giả nghĩ “sự phân chia” này chỉ về một sự phân chia đặc biệt các lục địa và sự sắp xếp lại những vùng đất đai. [90]


Ý nghĩa.

Bản liệt kê này về các tên và các nơi mang theo nó những chân lý thần học quan trọng nào một trong số đó là Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Chúa các dân tộc. Đức Chúa Trời đã ban cho các dân tộc di sản của họ (Phu 32:8) và “định trước thì giờ đời người ta, cùng giới hạn chỗ ở” (Công 17:26). Mặc cho những bạo chúa như Nim-rốt, Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của địa lý và lịch sử, Ngài nắm quyền điều khiển. Điều Đức Chúa Trời hứa, Ngài thực hiện, và lời tiên tri của Nô-ê về các con trai ông đã trở thành sự thật.

- Thứ hai, mặc cho những khác biệt bên ngoài, mọi dân tộc đều thuộc về một gia đình loài người. Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta đều “từ một huyết” (Công 17:26) và không chủng tộc nào hay dân nào có thể tuyên bố mình cao hơn bất cứ chủng tộc hay dân nào khác. Mặc dù, trong sự định liệu của Ngài, Đức Chúa Trời đã cho phép một số dân tộc thực hiện sự tiến bộ về kinh tế và chính trị lớn hơn những dân tộc khác, những thành tựu của họ không chứng tỏ rằng họ tốt đẹp hơn những dân tộc khác (Ch 22:2).

- Thứ ba, Đức Chúa Trời có mục đích cho các dân tộc thực hiện. Sự ghi chép trong Sa 9:24-11:32 cho thấy rõ ràng tuyển dân của Đức Chúa Trời là Y-sơ-ra-ên. Từ chương 12 trở đi, Y-sơ-ra-ên sẽ là sân khấu trung tâm trong câu chuyện. Nhưng Đức Chúa Trời cũng sử dụng Ai-cập, Ba-by-lôn, A-si-ri, Mê-đi Ba-tư Persia và Rô-ma để thực hiện những mục đích của Ngài có liên quan đến dân Do-thái. Đức Chúa Trời có thể sử dụng các vua ngoại đạo như Nê-bu-cát-nết-sa, Si-ru, Đa-ri-út và thậm chí Sê-sa Au-gút-tơ.

- Thứ tư, Đức Chúa Trời quan tâm đến mọi dân tộc. Bạn thường tìm thấy trong sách Thi-thiên nhóm từ “mọi xứ” hoặc “mọi dân”. Thi 66:1-8 và 67 đều trình bày khải tượng toàn cầu rằng mọi dân tộc trên đất sẽ biết Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài. Sứ mạng của Hội thánh để đi khắp thế giới không phải là một tư tưởng đến sau trong Tân-ước; Nó đã được viết trong đường dọc và đường khổ của câu chuyện Cựu-ước.


Cuối cùng, điều được viết trong Sa 9:1-10:32 hẳn là một sự khích lệ cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ chinh phạt Ca-na-an. Họ biết rằng họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời và dân Ca-na-an sẽ là tôi tớ của họ. Họ cũng biết rằng Đức Chúa Trời của họ là Chúa của các dân tộc và có thể đánh bại chúng như Ngài muốn. Sự chinh phạt Ca-na-an là một chiến thắng của đức tin nơi những lời hứa của Đức Chúa Trời, giải thích lý do Đức Chúa Trời đã khuyên Giô-suê suy gẫm Lời Đức Chúa Trời (Gios 1:8).


Ba con trai của Nô-ê đã để lại một di sản pha tạp cho thế giới, nhưng Chúa của các dân tộc vẫn đảm trách, và lịch sử vẫn là câu chuyện của Ngài. [91]



 


11. HÃY CHÚ Ý – ĐỨC CHÚA TRỜI ĐANG HÀNH ĐỘNG (Sa 11:1-33)


“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”


Nhận định quen thuộc đó hầu như là một lời nói sáo trong tôn giáo. Nhiều người sử dụng nó thậm chí không biết nó có nghĩa gì. Nó được viết ra bởi thầy tu dòng thánh Augustine tên Thomas à Kempis (1380-1471) trong cuốn sách cổ điển của ông “On the Imitation of Christ” (Theo gương Đấng Christ). Nói cách rộng hơn nó có thể là câu châm-ngôn “Con người làm điều mình có thể, Đức Chúa Trời làm điều Ngài muốn”. Sa-lô-môn đã sử dụng nhiều từ hơn nhưng nói hay nhất. “Có nhiều kế hoạch trong lòng loài người, nhưng ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ vững bền” (Ch 19:21 NKJV).


Vài chương trong Kinh Thánh minh họa chân lý này rõ hơn Sa 11:1-33. Khi bạn đọc câu chuyện về Ba-bên và rồi đọc những gia phả tiếp theo, ấn tượng tức thời của bạn là Đức Chúa Trời đang hành động trên thế giới của Ngài và thực hiện những mục đích của Ngài mặc cho những kế hoạch và dự án của con người tội lỗi.


1. Đức Chúa Trời ngăn chặn một cuộc nổi loạn (Sa 11:1-9)

Bốn sự kiện lớn được ghi lại trong Sa 1:1-11:33 sự sáng tạo vũ trụ, sự sa ngã của loài người, Cơn Nước Lụt và việc xây tháp Ba-bên có chủ đích. Những chương này bày tỏ rằng nơi đâu loài người bất tuân Đức Chúa Trời, Chúa xét đoán tội lỗi, và rồi tạo môt khởi đầu mới trong ân điển của Ngài.


A-đam và Ê-va đã phạm tội, nhưng Đức Chúa Trời mặc quần áo cho họ và hứa sai một Đấng Cứu Chuộc đến thế gian. Ca-in đã giết A-bên, nhưng Đức Chúa Trời ban Sết để tiếp nối dòng dõi tin kính. Dân Sết đã tạp hôn với dân Ca-in bất kính, và Đức Chúa Trời đã phải xoá sạch đất bằng một cơn nước lụt; nhưng Nô-ê cùng gia đình ông tin Lời Đức Chúa Trời và được cứu. Sau Cơn Nước Lụt, con cháu của ba con trai Nô-ê đã tái định cư trên đất. Nhưng khởi đầu mới với Nô-ê cuối cùng dẫn đến một trong những cuộc nổi loạn ngạo mạn nhất chống lại Đức Chúa Trời được ghi chép bất cứ nơi đâu trong Kinh Thánh.


 Sự chống nghịch (Sa 11:1-4).

Dường như những sự kiện trong chương 11 xảy ra trước những sự kiện trong chương 10 và sự tản lạc được mô tả trong chương 10 là hậu quả sự xét đoán của Đức Chúa Trời tại Ba-bên. Có lẽ câu chuyện được đặt ở đây trong Sáng-thế ký để nó có thể dẫn đến gia phả của Sem, rồi dẫn đến gia phả của Áp-ra-ham , người sáng lập dân tộc Hê-bơ-rơ. Như vậy, sự sắp xếp này mang tính văn chương chớ không theo niên đại.


Đức Chúa Trời đã ra lệnh các dân tộc phải sinh sản, thêm nhiều và tản ra khắp đất, nhưng họ quyết định dời đến thành Ba-by-lôn của Nim-rốt và định cư ở đó (Sa 10:8-12). Sự ra đi này là sự chống nghịch hiển nhiên đối với mệnh lệnh của Đức Chúa Trời để dân sự tản ra. Rõ ràng Nim-rốt muốn họ ở trong các thành của ông và ở dưới sự điều khiển của ông.


“Tháp”do họ xây ở Ba-bên cái được biết như một “tháp đền thờ”. Các nhà khảo cổ đã khai quật nhiều kiến trúc lớn này được xây dựng chủ yếu cho những mục đích tôn giáo. Một tháp đền thờ giống như một kim tự tháp ngoại trừ những tầng kế tiếp nhau được xây thụt vào để bạn có thể đi lên đến đỉnh “trên những bậc cấp”. Ở đỉnh là một điện thờ đặc biệt dành cho một vị thần hay một nữ thần nào đó.

Trong việc xây dựng kiến trúc này, con người không phải tìm cách leo lên trời để phế ngôi Đức Chúa Trời; đúng hơn, họ hy vọng rằng vị thần mà họ thờ phượng sẽ từ trời đi xuống gặp họ, kiến trúc và thành được gọi là “Ba-bên” nghĩa là “cửa của các thần”.


Dự án ô nhục này là một sự tuyên chiến ngạo mạn chống lại Chúa, chẳng khác gì cuộc nổi loạn được mô tả trong Thi 2:1-3. Trước tiên, con người đã chống lại sắc lệnh của Đức Chúa Trời là phải tản ra và định cư trên đất. Có lẽ bị thôi thúc bởi sự sợ hãi cũng như sự kiêu ngạo, họ quyết định xây một thành và một tháp đền lớn rồi ở cùng nhau. Nhưng thậm chí hơn thế, họ muốn tạo một danh cho chính mình để những người khác sẽ khâm phục họ và có lẽ đến gia nhập với họ. Lời tuyên bố mục đích của họ là lời nói dối của ma quỷ trong vườn Ê-đen: “Ngươi sẽ giống như Đức Chúa Trời” (Sa 3:4 NIV).


Con người đã có được một số điều ủng hộ họ. Họ thật sự là một “tập hợp các dân tộc”, một thứ dân (Sa 11:6) nói một ngôn ngữ và sử dụng một từ vựng với một từ điển. [92] Họ bị thôi thúc bởi một tinh thần kiêu ngạo và một khao khát trói buộc để tạo một danh cho chính mình. Điều duy nhất không có là sự chấp thuận của Đức Chúa Trời.


Phản ứng của Đức Chúa Trời (Sa 11:5-9).

Sử gia Charles Beard đã viết: “Những người mà các thần sẽ tiêu diệt, trước hết họ làm cho say sưa bằng sức mạnh”. [93] Từ Ba-bên đến Bên-xát-xa (Dan 5:1-41), và từ Hê-rốt (Công 12:20-25) đến Hitler, Đức Chúa Trời nhiều lần bày tỏ rằng không có lợi ích gì để chống nghịch ý muốn Ngài. “Sự kiêu ngạo đi trước sự bại hoại và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Ch 16:18 NKJV) và Chúa Giê-xu cảnh cáo rằng những ai tôn cao mình sẽ bị hạ phẩm giá (Mat 23:12).


Đức Chúa Trời trên Thiên Đàng không bao giờ bị lúng túng hay bị tê liệt bởi điều con người làm dưới đất. Lời nói kiêu ngạo của Ba-bên “chúng ta hãy đi lên!” được đáp lại bằng lời nói bình tĩnh trên trời “Chúng ta hãy đi xuống!”. “Đấng ngự trên trời sẽ cười, Chúa sẽ nhạo báng chúng nó” (Thi 2:4). Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời không cần phải điều tra để biết điều gì đang xảy ra trong vũ trụ của Ngài, ngôn ngữ được sử dụng chỉ để kịch tính hóa sự can thiệp của Đức Chúa Trời.


Như với A-đam và Ê-va trong vườn (Sa 3:22-24), sự xét đoán của Đức Chúa Trời tại Ba-bên không chỉ đối phó với những tội lỗi tức thời mà còn giúp ngăn trở những vấn đề trong tương lai. Sự đoàn kết của loài người chỉ sẽ cho con người một ý thức sai lầm về sức mạnh mà sẽ dẫn họ thậm chí vào sự chống nghịch lớn hơn đối với Đức Chúa Trời. Bằng cách làm lộn xộn ngôn ngữ của họ và làm họ tản ra khắp đất, Đức Chúa Trời đã nhân từ tha mạng cho họ và ban cho họ cơ hội trở lại với Ngài. Lẽ ra Ngài có thể hủy diệt những kẻ xây dựng, thành và tháp của họ, nhưng Ngài quyết định để cho họ sống.


Từ “Ba-bên” nghe giống như từ Hê-bơ-rơ “balal” nghĩa là “sự lộn xộn”. Bởi sự xét đoán của Đức Chúa Trời, “cửa của các thần” trở thành “cửa vào sự lộn xộn”. Thay vì tạo cho họ một danh, Đức Chúa Trời cho dự án của họ một tên mới! Trong Hội thánh Ngài, “Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc” (ICo 14:33); nhưng trong thế gian, Đức Chúa Trời đôi khi sử dụng sự lộn xộn để khiến con người hạ mình và giữ họ khỏi liên kết chống lại ý muốn của Ngài.


Từ “Sem” nghĩa là “tên” trong tiếng Hê-bơ-rơ, và Áp-ra-ham, một con cháu của Sem, được trước rằng Đức Chúa Trời sẽ làm cho tên của ông trở nên vĩ đại (Sa 12:2). Con người thế gian cậy nơi sự khôn ngoan và nỗ lực riêng của mình, nhưng họ không đạt được danh tiếng lâu dài. Ai biết tên của bất cứ người nào đã làm việc trên tháp Ba-bên nổi tiếng? Nhưng tên của Áp-ra-ham nổi tiếng khắp thế giới và được dân Do-thái, dân Hồi giáo và Cơ-đốc nhân tôn trọng. Có một sự khác nhau lớn giữa câu nói của loài người ”Chúng ta sẽ làm cho danh chúng ta trở nên vĩ đại!” và câu nói của Đức Chúa trời “Ta sẽ làm cho danh của ngươi trở nên vĩ đại!”


Sách Sáng-thế ký nhấn mạnh những cái tên, và trong sách này, Đức Chúa Trời thay đổi nhiều tên. Ví dụ, Áp-ra-ham trở thành Áp-ra-ham, Sa-rai trở thành Sa-ra, Ê-sau trở thành Ê-đôm, Gia-cốp trở thành Y-sơ-ra-ên và v. v. . Đức Chúa Trời gọi một sự việc là gì quan trọng hơn chúng ta gọi nó là gì. Khi Ngài sáng tạo thế giới, Đức Chúa Trời đặt tên cho những sự vật; và Ngài thậm chí bảo A-đam đặt tên cho các loài vật. Từ “Ba-bên” sẽ truyền tải “cửa của các thần” đến rất ít người ngày nay, đa số họ chỉ nghĩ “sự lộn xộn”.


Sự trả lời của chúng ta. Câu chuyện về Ba-bên không phải chỉ là một phần của lịch sử cổ đại, vì Ba-bên và Ba-by-lôn trình bày một thách thức thuộc linh cho mọi tín hữu ngày nay.


Ba-by-lôn cuối cùng đã trở nên một thành phố lớn và là một đế quôc vĩ đại. Trong năm 606-586TC, quân đội Ba-by-lôn đã tấn công và chiếm Vương quốc Giu-đa, đốt đền thờ với thành Giê-ru-sa-lem, và lưu đày hằng ngàn người Do-thái ở Ba-by-lôn trong 70 năm Đức Chúa Trời đã sử dụng dân Ba-by-lôn tàn ác và thờ hình tuợng để trừng phạt dân sự bất tuân của Ngài.


Nhưng trong Kinh Thánh, Ba-by-lôn tượng trưng cho sự kiêu ngạo, sự suy đồi đạo đức và sự thách thức của thế gian nghịch với Đức Chúa Trời. Sự tương phản trong Kinh Thánh là giữa thành Ba-by-lôn trên đất chống nghịch Đức Chúa Trời và thành Giê-ru-sa-lem trên trời quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.


Bạn sẽ cần đọc Gie 50:1-51:64 và Kh 17:1-19:21 để đánh giá cao những tương phản giữa hai thành này. Ba-by-lôn đại diện cho hệ thống thế gian nghịch với Đức Chúa Trời, thù ghét Chúa Giê-xu Christ và kêu gọi những khao khát hèn hạ của bản tính loài người. Ba-by-lôn trái ngược với Giê-ru-sa-lem trên trời là thành của các thánh đồ (He 12:18).


Ở Ba-bên đầu tiên, con người muốn xây một cái tháp đụng đến trời, nhưng ở Ba-by-lôn trong Kh 17:1-18:24 những tội lỗi của Ba-by-lôn chất cao đến trời (Kh 18:5). Sự hiệp nhất toàn thế giới từ ban đầu mà Nim-rốt khao khát đối với Ba-by-lôn của Sáng-thế ký một ngày nào đó sẽ đạt được bởi hệ thống thế gian bất kính của Sa-tan (c.3, 9, 11, 23). Ba-by-lôn trên đất bị gọi là một dâm phụ, trong khi thành thành từ trời được gọi là vợ của Đấng Christ (Kh 17:1; Kh 21:9).


Nhà tâm thần học Naomi H. Rosenblat viết: “Mỗi thế hệ đều xây những cái tháp của chính nó” và bà đã đúng. [94] Dù đây là những tòa nhà chọc trời thật sự (tháp Sear và tháp Tribune ở Chicago, tháp Eiffel ở Paris, tháp Trump ở thành phố NewYork), hoặc những siêu tập đoàn vòng quanh địa cầu, ý tưởng vẫn không đổi: “chúng ta sẽ tạo một danh cho chính mình”.

Dân sự Đức Chúa Trời không thể tránh khỏi việc ở giữa thế gian, vì chính ở trong thế gian chúng ta ở đây không phải để xây những cái tháp kiêu ngạo của loài người, chúng ta có sự phục vụ của mình, nhưng chúng ta phải tránh thuộc về thế gian. Chúng ta phải xây dựng Hội thánh của Chúa Giê-xu Christ. [95]


Điều mà con người không thể đạt được bằng phương tiện của “những cái tháp kiêu ngạo”, Chúa Giê-xu đã đạt được bằng cách chịu chết trên cây thập tự nhục nhã. Tất cả những ai tin Chúa Giê-xu Christ đều hiệp một trong Ngài (Ga 3:27) và sẽ cùng dự phần trên Thiên Đàng, không kể chủng tộc, quốc gia, ngôn ngữ hay bộ tộc (Kh 7:9). Trong khi hệ thống thế gian đang tạo ra sự hòa hợp bên ngoài, bên trong nó đang làm tan rã mọi sự. Điều mà các nhà khoa học xã hội giờ đây đang gọi là “kỹ thuật”, là điều khiển đời sống con người. [96]


Nhưng Thánh Linh đang sử dụng Hội thánh như một môi giới của sự hòa hợp để đem mọi sự lại trong Chúa Giê-xu Christ (Eph 1:10 IICo 5:14-21). Theo một ý nghĩa nào đó, lễ Ngũ Tuần là một sự đảo ngược của Ba-bên, vì những người có mặt ở Giê-ru-sa-lem tại lễ Ngũ Tuần đã nghe những lời ngợi khen Đức Chúa Trời bằng ngôn ngữ của họ (Cong 2:1-12). Sẽ đến ngày khi con người từ mọi bộ tộc và quốc gia sẽ thờ phượng Chúa Giê-xu Christ (Kh 15:4) và sự xét đoán Ba-bên sẽ được chấm dứt (So 3:9).


Mỗi người phải thực hiện một sự lựa chọn. Chúng ta sẽ đồng nhất hóa với Ba-by-lôn hay Giê-ru-sa-lem, dâm phụ thế gian hay vợ mới trên trời?


2. Đức Chúa Trời duy trì một gia đình (Sa 11:10-26)

Đức Chúa Trời đã hứa rằng Ngài sẽ ban một Đấng Cứu Chuộc, “dòng dõi người nữ” (Sa 3:15) sẽ đánh bại Sa-tan và đem đến sự cứu rỗi. Lời tiên tri của Nô-ê bày tỏ rằng Đức Chúa Trời sẽ chúc phước thế giới qua dòng dõi của Sem, “dân Sem” là tổ phụ của dân Hê-bơ-rơ (Sa 9:26-27). “Sem tổ phụ của mọi con trai Hê-be” (Sa 10:21 NIV) và có lẽ từ “Hê-bơ-rơ” đến từ tên “Hê-be”.


Sáng-thế ký cho chúng ta hai gia phả của Sem, (Sa 10:21-29; Sa 11:10-26).

-Gia phả thứ nhất liệt kê tất cả năm con trai và năm cháu nội của ông, nhưng sau đó nó tập trung vào con cháu của A-bác-sát: Sê-lách, Hê-be và hai con trai của Hê-be là Bê-léc và Giốc-tan. Nó liệt kê nhiều con trai của Giốc-tan nhưng bỏ qua con cháu của Bê-léc. Còn gia phả trong chương 11 chọn bên gia đình của Bê-léc và đưa chúng ta đến Áp-ra-ham. Gia phả trong Sa 5:1-32 đưa chúng ta đi từ A-đam đến Nô-ê, và gia phả trong Sa 11:1-33 đi từ con trai của Nô-ê là Sem đến Tha-rê và con trai ông là Áp-ra-ham.


Không kể hai phần liệt kê điều có 10 thế hệ, phần liệt kê trong Sa 11:10-26 khác với phần liệt kê trong chương 5. trước hết, nó không chứa nhóm từ lập lại “và người chết”. Sự nhấn mạnh là cho biết con người được bao nhiêu tuổi lúc sanh con trai đầu lòng của mình. Những người được kể tên trong Sa 11:10-26 không sống lâu bằng những người được kể tên trong Sáng-thế ký chương 5. Bản liệt kê bắt đầu với 950 năm của Nô-ê và giảm xuống đến 148 năm của Na-cô. Những thế hệ sau Cơn Nước Lụt đã bắt đầu cảm nhận những hậu quả thuộc thể của tội lỗi trong thân thể loài người.


Điều quan trọng về gia phả này là nó ghi lại sự thành tín của Đức Chúa Trời trong việc gìn giữ dân sự Ngài và thực hiện những lời hứa của Ngài. Điều mà đối với chúng ta chỉ là một liệt kê các tên thì đối với Đức Chúa Trời là một “chiếc cầu” từ việc chọn Sem đến việc kêu gọi Áp-ra-ham. Đức Chúa Trời đã đoái hoài đến việc sử dụng con người để giúp thực hiện ý muốn Ngài trên đất, và con người yếu đuối chớ không luôn vâng lời. Nhưng “chiếc cầu” đã được xây dựng và những lời hứa giao ước được duy trì.


3. Đức Chúa Trời mở đầu một dân tộc (Sa 11:27-32)

Nếu Sa 1:1-11:32 là một ghi chép về bốn sự kiện chính. Sự sáng tạo, sự sa ngã, Cơn Nước Lụt và sự xét đoán tại Ba-bên thì Sa 12:50 là sự ghi chép về đời sống của bốn nhân vật chính Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép. Trong phân đoạn này, có 5 người nổi bật: Áp-ra-ham và Sa-ra vợ ông. [97] Tha-rê, cha của Áp-ra-ham, và Na-cô cùng Ha-ran, anh em của Áp-ra-ham. Ha-nan chết và để lại con trai là Lót.


Mục đích của Đức Chúa Trời chính là kêu gọi một người nam cùng vợ người ấy và từ họ xây dựng một gia đình. Từ gia đình đó, Ngài sẽ lập một dân tộc, và từ dân tộc đó, Đức Chúa Trời sẽ chúc phước mọi dân tộc trên đất (Sa 12:1-3 Sa 18:18). Từ lúc khởi đầu đến kết thúc, đó là công việc của ân điển Đức Chúa Trời, vì khi Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, họ thuộc một gia đình thờ hình tượng (Gios 24:2). Ở U-rơ của xứ Canh-đê và Cha-ran, dân sự thờ thần mặt trăng.


Theo Ê-tiên (Cong 7:2), “Đức Chúa Trời vinh hiển” đã hiện ra với Áp-ra-ham và gọi ông đi đến Ca-na-an. Áp-ra-ham chắc đã chia sẻ sứ điệp kỳ lạ này với gia đình ông và cho họ biết rằng ông với Sa-ra sẽ ra đi. Ông được đề nghị chỉ mang Sa-ra đi, và để lại gia đình ông (Sa 12:1), nhưng mọi người đã đi cùng ông ngoại trừ Na-cô em ông, và dĩ nhiên Ha-ra em ông đã chết.

Na-cô cùng vợ là Minh-ca sẽ xuất hiện trở lại trong câu chuyện (Sa 22:20), nhưng Na-cô là người đã ở lại. Dù ở lâu trong U-rơ thờ hình tượng của xứ Canh-đê, Na-cô có tin sứ điệp mà anh của ông đã trình bày về Đức Chúa Trời vinh hiển chân thật chăng? Chúng ta hy vọng ông đã tin.


Dường như Tha-rê đã tin và đảm trách gia đình cùng những chuyến đi của họ (Sa 11:31), nhưng Tha-rê là người đã dừng lại. Ông đi 500 dặm, đến thành Cha-ran, ở đó ông định cư và qua đời, có lẽ cuộc hành trình quá sức đối với ông, nhưng đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời để Áp-ra-ham và Sa-ra đi theo Ngài mà không cần có gia đình họ.

Sự qua đời của Tha-rê khiến họ chỉ còn lại Lót, con trai của Ha-ran là người đã chết ở U-rơ, Lót trở thành người lạc lối, vì cuối cùng ông đã rời Áp-ra-ham và định cư trong thành Sô-đôm gian ác (Sa 13:10-13; Sa 14:12; Sa 19:1).


Điều đáng chú ý về việc Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, đó là họ không có con. Áp-ram nghĩa là “cha cao quý”, nhưng ông chưa phải là một người cha gì cả! Họ có vẻ là những ứng viên ít quan trọng nhất để có một gia đình và xây dựng một dân tộc. Nhưng đường lối của Đức Chúa Trời không phải là đường lối của họ (Es 55:8-9), và bằng cách kêu gọi và chúc phước một cặp vợ chồng son sẻ, Chúa đã bày tỏ sự vĩ đại của quyền năng và vinh hiển Ngài. Áp-ram sẽ được gọi tên là Áp-ra-ham, có nghĩa “cha của nhiều dân tộc”


Hoàn toàn có một sự tương phản giữa đường lối loài người tại Ba-bên và đường lối Đức Chúa Trời trong việc kêu gọi Áp-ra-ham với Sa-ra. Thế gian cậy nơi số đông những kẻ mạnh mẽ để thực hiện những công việc nhưng Đức Chúa Trời chọn hai người yếu đuối và khởi đầu một dân tộc mới. Dân sự tại Ba-bên muốn tạo một danh cho họ, nhưng Đức Chúa Trời hứa làm cho danh Áp-ra-ham trở nên vĩ đại.


Những kẻ làm việc tại Ba-bên theo sự khôn ngoan của đời này, nhưng Áp-ra-ham và Sa-ra đã tin cậy Lời Đức Chúa Trời (He 11:11-12). Ba-bên được xây dựng bằng năng lực của xác thịt và động cơ của sự kiêu ngạo, nhưng dân tộc Y-sơ-ra-ên được xây dựng bởi ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời bất chấp sự yếu đuối của loài người.


Chúng ta sống trong một thế giới lộn xộn và tinh thầnBa-bên vẫn ở cùng chúng ta. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn có những người trung tín còn sót lại đi theo Ngài bởi đức tin và giữ mắt họ luôn hướng về thành trên trời (c.13-16).


Bạn có thuộc về những người còn sót lại đó chăng?


4. Trở về những nền tảng (ôn lại Sa 1:1-11:32)

Điều mà nền móng ảnh hưởng đối với ngôi nhà, hiến pháp đối với luật pháp nước Mỹ và bản nguyên tố tuần hoàn đối với môn hóa học, thì sách Sáng-thế ký cũng ảnh hưởng như thế đối với Kinh Thánh. Nó mang tính cơ bản. Một sự hiểu biết những chân lý cơ bản của Sáng-thế ký, đặc biệt là các chương 1 đến 11, sẽ cho bạn chìa khoá bạn cần để mở phần còn lại của Kinh Thánh và sống vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nhưng bạn đừng dừng lại ở chương 1 đến 11, bạn hãy xây dựng trên đó.

Chúng ta hãy ôn lại một số những nền tảng này.

Đức Chúa Trời có thật và chúng ta có thể tin cậy Ngài.


Kinh Thánh mở đầu bằng một tuyên bố rằng Đức Chúa Trời tồn tại: “Ban đầu Đức Chúa Trời” (Sa 1:1) Sáng-thế ký không trình bày những lý luận triết học nào để chứng minh sự tồn tại của Đức Chúa Trời, Kinh Thánh chỉ đặt Ngài ở khởi đầu mọi sự. Khi bạn mở Kinh Thánh ra, Đức Chúa Trời có ở đó, và Ngài. [98] đã ở đó trước khi Kinh Thánh được viết ra hay thậm chí trước khi vũ trụ được sáng tạo.


Đức Chúa Trời mà bạn gặp trong Sáng-thế ký 1 đến 11 không chỉ tồn tại đời đời, mà Ngài còn khôn ngoan và quyền năng. Ngài là một Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng Ngài vĩ đại đến nỗi Ngài chỉ cần phán ra để khiến mọi vật xuất hiện. Và sự khôn ngoan của Ngài vĩ đại đến nỗi vật gì Ngài tạo ra thì phải có và nó hoạt động! Từ sinh vật đơn bào bé nhất cho đến dải ngân hà lớn nhất, trong mọi sự sáng tạo, quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được bày tỏ.


Nhưng Đức Chúa Trời vĩ đại này là một Đức Chúa Trời riêng tư, Ngài chú ý đến chúng ta và muốn làm Chúa và bạn của chúng ta!


Ngài là một Đức Chúa Trời thánh khiết sẽ không bỏ qua tội lỗi. Ngài đã xét đoán những tội lỗi riêng của A-đam, Ê-va cùng Ca-in và cũng xét đoán những tội lỗi chung của cư dân trước Cơn Nước Lụt và dân sự tại Ba-bên. Nhưng đồng thời Ngài là một Đức Chúa Trời của tình yêu, Đấng dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài, Ngài muốn giao thông với chúng ta và bày tỏ chính Ngài cho chúng ta. Tội lỗi chúng ta khiến Ngài đau buồn, nhưng trong ân điển của Ngài, Ngài tha thứ những ai tin nơi Ngài và sẽ cho họ cơ hội khác.


Đức Chúa Trời của Sáng-thế ký có một kế hoạch cho nhân loại. Ngài hứa ban một Đấng Cứu Chuộc sẽ đắc thắng Sa-tan và đem đến sự cứu rỗi cho dòng dõi loài người (Sa 3:15). Ngài đã hoàn thành lời hứa bằng cách sai Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời để chết trên thập tự giá vì tội của thế gian. Đến khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ cứu bạn khỏi tội lỗi của thế gian.Đến khi bạn tin Chúa Giê-xu Christ cứu bạn khỏi tội lỗi của bạn thì bạn mới thật sự biết Đức Chúa Trời.


Chúng ta sống trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời.

Vũ trụ đã được sáng tạo bởi Đức Chúa Trời, chớ không bởi sự tình cờ. Ngài đã dựng nên mọi vật và Ngài giữ cho mọi vật hoạt động. Vũ trụ không phải là một sự tình cờ. Nó là kiệt tác kỳ diệu của một Đức Chúa Trời khôn ngoan và quyền năng Đấng sắp đặt mọi sự theo dự định của ý muốn hoàn hảo của Ngài.


Tính phức tạp của vũ trụ bày tỏ quyền năng cùng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, và vẻ đẹp của vũ trụ cho thấy tình yêu của Ngài, Ngài có thể tạo ra một thế giới của ảm đạm, nhưng Ngài đã trang trí thế giới của Ngài bằng màu sắc sinh động và cho chúng ta nhiều loại thực vật, động vật và con người để vui hưởng. Ngày này sang ngày khác, đêm này sang đêm nọ, sự sáng tạo bày tỏ vinh hiển Đức Chúa Trời (Thi 19:1-14).


Vì đây là sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, chúng ta chỉ là những quản gia về những gì Ngài đã ban cho chúng ta. Chúng ta phải sử dụng của cải của sự sáng tạo vì lợi ích của người khác và vì vinh hiển của Đức Chúa Trời, nhớ rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ thưa trình với Đức Chúa Trời chức quản gia của mình. Lãng phí hay bóc lột của cải của sự sáng tạo, hoặc vô ý làm hư vẻ đẹp của sự sáng tạo, là phạm tội với Đức Chúa Trời. Đó không chỉ là một vấn đề về sinh thái học, đó là một vấn đề về thần học, đây là thế giới của Cha chúng ta.


Đức Chúa Trời rời rộng ban cho chúng ta “mọi vật dư dật để hưởng” (ITi 16:17), và chúng ta phải cảm ơn Ngài vì những món quà của Ngài và sử dụng chúng cách khôn ngoan.

• Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời

Những người nam người nữ được dựng nên, không phải được tiến hóa, và họ được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời. Đây là một đặc quyền to lớn và là một trách nhiệm lớn. Mọi em bé được thụ thai đều được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và có quyền để sống, để ở trong một gia đình yêu thương, để biết Đức Chúa Trời qua Chúa Giê-xu Christ, và để vui hưởng đời sống có mục đích và được đáp ứng.


Vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một tâm trí để suy nghĩ, chúng ta cần phải đọc Lời Ngài và học chân lý của Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta một ý chí để quyết định, và chúng ta phải thực hiện những quyết định khôn ngoan làm đẹp lòng Ngài.

Chúng ta có tấm lòng để yêu Ngài, và chúng ta bày tỏ tình yêu này bằng cách giao thông với Ngài và vâng theo ý muốn Ngài. Con người bên trong chúng ta mang tính thuộc linh, và chúng ta cần Đức Chúa Trời ngự bên trong nếu chúng ta cần có sự bình an và thỏa lòng ở bên trong.

Augustine đã viết: “Ngài đã dựng nên chúng tôi vì chính Ngài và tấm lòng chúng tôi không yên nghỉ cho đến khi chúng tôi yên nghỉ trong Ngài.”


Việc chúng ta đều được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời nghĩa là chúng ta phải yêu thương và bảo vệ lẫn nhau. Đức Chúa Trời ban sự sống và chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể cất sự sống đi. Ngài đã ban cho chính thể loài người quyền hạn về án phạt tử hình, vì kẻ giết người tấn công chính hình ảnh của Đức Chúa Trời.


Hình ảnh trong chúng ta đã bị tội lỗi phá hỏng, nhưng hình ảnh đó có thể được phục hồi khi chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời và đầu phục Thánh Linh Ngài (IICo 3:18). Vì Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta, Ngài biết điều gì tốt nhất cho chúng ta, và Ngài đã ban cho chúng ta Lời Ngài làm sách hướng dẫn cho đời sống chúng ta. Đó là “sách về những hoạt động” và chúng ta phải làm quen với nó. Khi mọi đều khác thất bại, hãy đọc những chỉ dẫn.


Sự vâng lời là chìa khóa cho sự ích lợi, sự vui mừng và phước hạnh.


Tổ phụ đầu tiên của chúng ta đã bất tuân Lời Đức Chúa Trời và đẩy toàn bộ dòng dõi loài người vào tội lỗi. Ca-in đã bất tuân va trở thành một kẻ lang thang. Nô-ê đã vâng lời và Đức Chúa Trời cứu ông của gia đình ông khỏi sự hủy diệt và chúc phước cho họ sau khi Cơn Nước Lụt chấm dứt. Mỗi khi chúng ta bất tuân Đức Chúa Trời, chúng ta phá vỡ sự giao thông với Ngài và đánh mất niềm vui về sự hiện diện của Ngài. Sự vâng lời là chìa khóa cho phước hạnh; sự bất tuân là con đường đi đến sự bất hạnh và sự trừng phạt.


Sa-tan Có Thật, Nhưng Là Một Kẻ Thù Bị Đánh Bại.

Sa-tan không tồn tại đời đời; Nó là một tạo vật. Nó không toàn tri, toàn năng hay hiện diện mọi nơi mọi lúc. Nó bị giới hạn, nhưng nó muốn bạn nghĩ nó vĩ đại như Đức Chúa Trời và đáng được sự vâng lời của bạn. Sa-tan rất mạnh mẽ và rất xảo quyệt, và trong chính mình, chúng ta không đồng sức với nó.


Sa-tan muốn làm chúa trong đời sống bạn; Nó cần sự thờ phượng và phục vụ của bạn. Nó cám dỗ chúng ta bằng cách chất vấn Lời Đức Chúa Trời: “Phải chăng Đức Chúa Trời đã thật sự phán?” Nó hứa khiến chúng ta trở nên giống như Đức Chúa Trời, nhưng nó không bao giờ giữ lời hứa đó. Bước đầu tiên để chiến thắng Sa-tan là đừng lắng nghe những đề nghị của nó hay tin những lời hứa của nó. Chúng ta cần biết và tin chân lý của Đức Chúa Trời nếu chúng ta muốn phát hiện và đánh bại những lời nói dối của ma quỉ.


Sa-tan đã bị Chúa Giê-xu Christ đánh bại, và qua Đấng Christ, chúng ta có thể tuyên bố sự chiến thắng (Co 2:15; Ro 16:20; ICo 10:13).


Có Một Việc Như Thế Là Tội Lỗi.

Thế gian có thể gọi đó là một sự ngớ ngẩn, một sai lầm, một sự yếu đuối hay một tai nạn, nhưng nếu nói là sự bất tuân ý muốn Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời gọi đó là tội lỗi. Tội lỗi là nghiêm trọng vì nó dẫn đến sự chết và sự xét đoán. Giống như bất cứ người Cha yêu thương nào, Đức Chúa Trời đau buồn khi con cái Ngài phạm tội, và Đức Chúa Trời xét đoán tội lỗi. Nhưng Đức Chúa Trời cũng tha thứ và ban sự thanh tẩy chúng ta cần.


Khi chúng ta phạm tội, khuynh hướng của chúng ta là bỏ chạy và tìm cách lẩn trốn, nhưng đây là điều tệ hại nhất chúng ta có thể làm. Bạn không thể trốn khỏi Đức Chúa Trời. Điều duy nhất để làm là ăn năn, xưng nhận tội và cầu xin sự tha thứ của Ngài. Đức Chúa Trời thật sự ban cho chúng ta cơ hội khác để vâng lời Ngài và được chúc phước.


Giới tính là tư tưởng của Đức Chúa Trời và Ngài biết cách nó phải được sử dụng tốt nhất.


Đức Chúa Trời đã dựng nên những con người đầu tiên “người nam và người nữ”. Ngài làm điều đó không chỉ để họ có thể sinh sản và duy trì dòng lõi loài người, nhưng cũng để họ có thể học cách yêu và cùng vui hưởng, khám phá mối liên hệ yêu thương của mình với Chúa. Ý định ban đầu của Ngài là một người nam dành cho một người nữ trọn một đời người.


Kinh Thánh không phải là: “sổ tay về giới tính”, nhưng nó thật sự làm rõ một số sự việc. Rõ ràng là những tội lỗi về tình dục gây tàn phá không chỉ đối với thân thể và con người bên trong, nhưng cũng đối với người khác, đặc biệt là người bạn đời và gia đình. Đức Chúa Trời đã dựng nên người nam và người nữ cho nhau; bất kỳ sự kết hợp nào khác đều ngoài ý muốn Đức Chúa Trời, cho dù xã hội và tòa án có thể nói gì. Đức Chúa Trời đã tạo ra hôn nhân, và tình dục ngoài sự ràng buộc yêu thương của hôn nhân là sai trật.


Mọi Con Người Đều Được Dựng Nên Từ Một Huyết.

Đức Chúa Trời đã phân tán con cháu của Nô-ê bằng những ngôn ngữ và dân tộc khác nhau, nhưng họ đều là con cháu của A-đam và Ê-va. Bởi sự định liệu của Đức Chúa Trời, một số quốc gia và chủng tộc đã thực hiện những tiến bộ nhanh chóng trên thế giới này hơn những quốc gia khác, nhưng điều này không có nghĩa những quốc gia tiến bộ tốt lành hơn những người khác. Chúng ta thuộc một huyết, và không chủng tộc nào có thể tuyên bố mình cao hơn chủng tộc khác.


Đức Chúa Trời đã định rằng con người sẽ làm việc. Việc làm không phải là một dạng hình phạt. Đúng hơn, nó là một cơ hội để hợp tác với Đức Chúa Trời trong việc chăm sóc sự sáng tạo của Ngài.


Y-sơ-ra-ên Là Tuyển Dân Của Đức Chúa Trời.

Điều này không có nghĩa họ tốt hơn những dân khác, nhưng chỉ có nghĩa là họ có sự kêu gọi của Đức Chúa Trời và vì vậy có một trách nhiệm lớn hơn trên thế giới này. Đức Chúa Trời đã chọn họ vì Ngài yêu họ, chớ không phải vì giá trị thật của họ (Phu 7:6-11). Đức Chúa Trời đã kêu gọi Y-sơ-ra-ên để đem phước hạnh đến cho cả thế giới, và vì Y-sơ-ra-ên chúng ta có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời chân thật, lời Đức Chúa Trời được ghi chép, và hơn hết là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Không Cơ-đốc nhân nào được lầm lỗi về chủ nghĩa bài Do-thái trong tư tưởng, lời nói hay hành động.


- Đức Chúa Trời Không Thay Đổi Và Luôn Nắm Quyền Điều Khiển.


- Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi và luôn biết Ngài đang làm gì. Ngài nhẫn nhục đối với tội nhân, nhưng cuối cùng Ngài xét đoán tội lỗi và ban thưởng người công bình. Do đó là ngôi sao xa nhất hay nguyên tử nhỏ nhất, Đức Chúa Trời biết mọi vật ở đâu và mọi vật đang làm gì, và mọi vật Ngài dựng nên cuối cùng sẽ thực hiện ý muốn của Ngài trên đất này.


- Đức Chúa Trời đã đặt những định luật trong vũ trụ này, mà nếu chúng ta vâng theo, chúng làm lợi ích cho ta, nhưng nếu chúng ta không vâng theo chúng, chúng gây bất lợi cho ta. Khoa học chỉ đang suy nghĩ những tư tưởng của Đức Chúa Trời sau Ngài, khám phá những định luật này và đưa chúng vào hoạt động. Đấng Sáng Tạo có quyền “phá vỡ” những định luật của Ngài và làm những phép lạ.


 Mối Liên Hệ Của Chúng Ta Với Đức Chúa Trời Được Đặt Nền Tảng Trên Đức Tin.

“Nhưng không có đức tin thì không thể làm đẹp ý Ngài, vì kẻ đến với Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và tin rằng Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ chuyên tâm tìm kiếm Ngài” (He 11:6).

- Chúng ta sống bởi những lời hứa, không phải bởi những lời giải thích.

- Sống cho Đức Chúa Trời là đời sống đáng thưởng nhất.

- Đức Chúa Trời có mục đích khác nhau cho mỗi người trong chúng ta thực hiện, và Ngài giúp chúng ta có thể thực hiện được mục đích đó khi chúng ta tin Lời Ngài và vâng theo ý muốn Ngài. Bất cứ điều gì Ngài bảo chúng ta làm đều có thể làm được vì vinh hiển Đức Chúa Trời. Mặc dù có những lúc dường như người công bình chịu hoạn nạn và kẻ ác thành công, nhưng cuối cùng người công bình sẽ được phần thưởng đời đời của mình và kẻ ác nhận hình phạt đời đời của họ.


Đời sống Cơ-đốc nhân không phải lúc nào cũng là đời sống dễ chịu nhất, nhưng đó là đời sống thỏa lòng nhất và đáng thưởng nhất.


Đây chỉ là một số nền tảng được tìm thấy trong Sáng-thế ký đoạn 1 đến 11, được minh họa và giải thích trong phần còn lại của Kinh Thánh. Khi bạn dâng đời sống mình cho Đấng Christ và xây dựng trên những chân lý căn bản này, bạn đang xây trên một nền tảng vững chắc. Không quan tâm đến những nền tảng này là đang xây trên cát và xây dựng một đời sống sẽ không tồn tại qua những cơn bão của đời sống hoặc sự xét đoán cuối cùng từ Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu kêu gọi tất cả chúng ta trở về với những nền tảng. Hãy đọc và suy gẫm Mat 7:21-27.

Sa 11:27-32; xem giải nghĩa Sa 12:1-3.



 


12. MỘT KHỞI ĐẦU MỚI (Sa 11:27-12:9)


Sa 11:27-32; xem giải nghĩa Sa 12:1-3


George Bernard Shaw đã châm biếm: “Nếu những hành tinh khác có cư dân, vậy chúng chắc sẽ sử dụng trái đất làm viện tâm thần của chúng.”


Chúng ta có thể cười nhận định đó, nhưng nó nhắc nhở chúng ta về một sự thật đáng buồn. Thế giới ở trong một tình trạng hỗn độn, và nó dường như không trở nên tốt đẹp hơn gì cả. Có gì không ổn?


Tất cả đều truy nguyên từ những sự kiện được ghi lại trong sách Sáng-thế ký. Ngoại trừ câu chuyện trong chương 1 và 2, 11 chương đầu của Sáng-thế ký ghi lại những thất bại này đến thất bại khác của con người, điều mà ngày nay vẫn lặp lại. Người nam và người nữ đầu tiên đã bất tuân Đức Chúa Trời và bị đuổi ra khỏi vườn (chương 3).

Ca-in giết A-bên em mình và nói dối về điều đó (chương 4). Loài người đã trở nên quá sa đọa đến nỗi Đức Chúa Trời tẩy sạch trái đất bằng một cơn nước lụt (chương 6-8). Nô-ê say rượu và lõa thể trước mặt Cham con trai ông (chương 9). Trong sự coi thường Đức Chúa Trời, con người đã xây một thành và một tháp; và Đức Chúa Trời phải giáng sự lộn xộn để chấm dứt sự chống nghịch (chương 10).


Sự bất tuân, giết người, lừa dối, say sưa, lõa lồ và chống nghịch ngày càng xảy ra nhiều hơn. Nếu bạn là Đức Chúa Trời, bạn sẽ làm gì với những tội nhân này, là những con người bạn đã dựng nên theo hình ảnh mình?


Bạn có thể đáp “có thể tôi sẽ hủy diệt họ!” nhưng đó không phải là điều Đức Chúa Trời làm. Ngược lại, Ngài kêu gọi một người là Áp-ra-ham và vợ ông rời quê hương để đến một xứ mới, hầu cho Ngài có thể ban cho nhân loại một khởi đầu mới. Bởi sự kêu gọi của Đức Chúa Trời cùng đức tin vâng lời của mình, Áp-ra-ham và Sa-ra (tên ban đầu của họ là Áp-ram và Sa-rai, nhưng chúng ta sẽ theo gương Ê-tiên trong Công 7:2 và sử dụng những tên mới (Sa 17:1-26) vì những tên đó quen thuộc hơn. ) cuối cùng đã cho thế giới dân tộc Do-thái, Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế. Chúng ta sẽ ở đâu hôm nay nếu Áp-ra-ham và Sa-ra không tin cậy Đức Chúa Trời?


Hãy xem xét những yếu tố có liên quan trong từng trải của họ.


1. Một sự kêu gọi (Sa 12:1a)

Khi Đức Chúa Trời kêu gọi. Sự cứu rỗi đến vì Đức Chúa Trời kêu gọi trong ân điển và tội nhân đáp ứng bằng đức tin (Eph 2:8-9; IITe 2:13-14). Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham ra khỏi sự thờ hình tượng (Gios 24:2). Khi ông ở U-rơ xứ Canh-đê (Sa 11:28, 31; Sa 15:7; Ne 9:7), một thành được dâng hiến cho Nannar, thần mặt trăng. Áp-ra-ham không biết Đức Chúa Trời chân thật, và chẳng làm gì để xứng đáng biết Ngài, nhưng Đức Chúa trời nhân từ đã gọi ông: “Các ngươi đã không chọn ta, nhưng ta đã chọn các ngươi” (Gi 15:16).


Áp-ra-ham được 75 tuổi thì Đức Chúa Trời kêu gọi ông, vì vậy tuổi tác không nhất thiết là một trở ngại cho đức tin. Ông tin cậy Đức Chúa Trời trong 100 năm (Sa 25:7) và từ kinh nghiệm này, chúng ta ngày nay có thể học cách bước đi bởi đức tin và sống để làm đẹp lòng Chúa.


Áp-ra-ham cưới Sa-ra, em cùng cha khác mẹ của ông (Sa 20:12)và họ không có con. Nhưng Đức Chúa Trời đã sử dụng họ để lập một dân tộc lớn!

“Ta đã gọi chỉ một mình người (Áp-ra-ham), chúc phước người và làm cho người thêm nhiều” (Es 51:12).


Tại sao Đức Chúa Trời kêu gọi một cặp vợ chồng không hứa hẹn cho một nhiệm vụ quan trọng như thế? Phao-lô cho chúng ta câu trả lời trong ICo 1:26-31.


Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham sau khi dân ngoại thất bại và quay lưng với Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Tiến trình thoái hóa được mô tả trong Ro 1:18-32. Con người từ ban đầu đã biết Đức Chúa Trời chân thật, nhưng con người không làm vinh hiển Ngài hoặc dâng lời tạ ơn Ngài vì sự chu cấp nhân từ của Ngài.

Con người đã đặt hình tượng thay cho Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Sự thờ hình tượng đã dẫn đến sự đồi bại và xấu xa, và chẳng bao lâu thế giới dân ngoại đồi bại đến nỗi Đức Chúa Trời đã phải từ bỏ họ (c.24, 26, 28). Sau đó, Ngài kêu gọi Áp-ra-ham, người Do-thái đầu tiên và tạo một khởi đầu mới.


Cách Đức Chúa Trời kêu gọi “Đức Chúa Trời vinh hiển đã hiện ra cùng tổ chúng ta là Áp-ra-ham” (Công 7:2). Cách Đức Chúa Trời hiện ra cùng Áp-ra-ham, chúng ta không được cho biết, nhưng đó là sự giaothông đầu tiên trong bảy sự giao thông với Áp-ra-ham được ghi lại trong Sáng-thế ký.

Sự mạc khải về vinh hiển của Đức Chúa Trời đã cho Áp-ra-ham thấy sự hư không và dại dột của việc thờ hình tượng ở U-rơ. Ông muốn thờ phượng một hình tượng chết thì ông gặp Đức Chúa Trời hằng sống! ITe 1:9-10 IICo 4:6 mô tả kinh nghiệm này về sự cứu rỗi.


Nhưng Đức Chúa Trời cũng phán với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3) và Lời Ngài đem lại phép lạ của đức tin.

“Như vậy, đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Ro 10:17). Đó là một sự kêu gọi để biệt riêng ông khỏi sự đồi bại quanh ông, và Áp-ra-ham đã vâng lời bằng đức tin (He 11:8). Đức tin thật được đặt cơ sở trên Lời Đức Chúa Trời và dẫn đến sự vâng lời. Đức Chúa Trời không thể chúc phước và sử dụng Áp-ra-ham với Sa-ra nếu họ không ở trong vị trí Ngài chỉ định (IICo 6:14-7:1).


Tội nhân hư mất ngày nay dường như không nhận một sự mạc khải đặc biệt về vinh hiển của Đức Chúa Trời như Áp-ra-ham và Sa-ra đã nhận.

Nhưng họ có thể thấy sự vinh hiển của Ngài trong đời sống của của dân sự Ngài (Ma 5:16) và nghe Lời Ngài về đức tin khi dân sự Chúa chia sẻ chứng cớ của họ. Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham trực tiếp, nhưng ngày nay chúng ta nghe chân lý vê sự cứu rỗi qua sự làm chứng của dân sự Ngài (Công 1:8).


Lý do Đức Chúa Trời kêu gọi.

Có ít nhất 3 lý do Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham và Sa-ra. Trong tình yêu Ngài, Đức Chúa Trời quan tâm về sự cứu rỗi dành cho họ.Vì vậy, Ngài đã bày tỏ vinh hiển của Ngài và chia sẻ những lời hứa nhân từ của Ngài. Nhưng thậm chí xa hơn sự cứu rỗi cá nhân của họ là mục đích của Đức Chúa Trời trong việc chúc phước cả thế giới. Điều này đã được thực hiện khi Đức Chúa Trời sai Con Ngài vào thế gian qua dân tộc Do-thái Đấng Christ đã chịu chết vì tội lỗi thế gian (IGi 2:2 IGi 4:14) và muốn Hội thánh Ngài rao tin mừng cho cả thế giới (Mac 16:15).


Nhưng có một lý do thứ 3: đời sống của Áp-ra-ham là một tấm gương cho tất cả các Cơ-đốc nhân muốn bước đi bằng đức tin. Áp-ra-ham đã được cứu bởi đức tin (Sa 15:6 Ro 4:1-5 Ga 3:6-14) và sống bởi đức tin (He 11:8-19), và sự vâng lời của ông là chứng cớ đức tin của ông (Gia 2:14-26). Áp-ra-ham đã vâng lời khi ông không biết ở đâu (He 11:8-10), thế nào (c.11-12), khi nào (c.13-16) hay tại sao (c.17-19), và chúng ta cũng phải như thế.


Áp-ra-ham và Sa-ra không trọn vẹn, nhưng cách ăn ở của họ nói chung, được biểu thị bởi đức tin và sự trung tín. Khi phạm tội, họ khổ sở vì điều đó; và Chúa luôn sẵn sàng tha thứ khi họ ăn năn.

George Morrison đã nói: “Đời sống Cơ-đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới.” Khi bạn nghiên cứu đời sống của Áp-ra-ham và Sa-ra, bạn sẽ biết đức tin là gì và cách để bước đi bằng đức tin. Bạn sẽ khám phá điều đó, khi bạn tin cậy Chúa, không sự thử nghiệm nào không thể xảy ra và không có thất bại nào kéo dài mãi.


2. Một giao ước (Sa 12:1-3)

Đức tin không đặt cơ sở trên cảm xúc, dù những cảm xúc chắn chắn có (He 11:7). Đức tin thật được đặt cơ sở trên Lời Đức Chúa Trời (Ro 10:17). Đức Chúa Trời đã phán với Áp-ra-ham và cho ông biết điều Ngài sẽ làm cho ông và qua ông nếu ông tin cậy và vâng lời. Joseph Parker viết “những đời sống cao trọng được rèn luyện bởi những lời hứa cao trọng” và điều này chắc chắn đúng với Áp-ra-ham và Sa-ra. Giao-ước của Đức Chúa Trời đã cho họ đức tin và sức mạnh họ cần cho cuộc hành hương cả đời họ.


Chúng ta được cứu không phải bằng cách lập những lời hứa trước mặt Đức Chúa Trời, chúng được cứu bởi tin những lời hứa của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta. Chính Đức Chúa Trời là Đấng bởi sự nhân từ đã ban giao ước Ngài cho Áp-ra-ham và ông đã đáp ứng bằng đức tin và sự vâng lời (He 11:8-10). Cách bạn đáp ứng với những lời hứa của Đức Chúa Trời quyết định điều Đức Chúa Trời sẽ làm trong đời sống bạn.


Kinh Thánh ghi lại nhiều giao-ước của Đức Chúa Trời, bắt đầu với lời hứa về Đấng Cứu Chuộc trong Sa 3:15 và đạt đến đỉnh điểm bằng giao ước mới bởi huyết của Chúa Giê-xu Christ (Lu 22:20 He 8:1-13).


Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “giao-ước” có nhiều ý nghĩa: (1). ăn với , gợi ý mối thông công và sự thỏa thuận, (2). cột hoặc cùm , có nghĩa là sự cam kết, và 3. được chia phần, gợi ý sự chia sẻ. Khi Đức Chúa Trời lập một giao-ước, Ngài bước vào một thỏa thuận cam kết ban điều Ngài hứa. Đó hoàn toàn là một hành động của ân điển.


Đức Chúa Trời không trình bày cho Áp-ra-ham những lý do hay những lời giải thích, Ngài chỉ ban cho ông những lời hứa: “Ta sẽ chỉ cho ngươi…. Ta sẽ làm cho ngươi… Ta sẽ ban phước cho ngươi… Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi” (Sa 12:1-2). Đức Chúa Trời hứa chỉ cho ông một xứ, làm cho ông trở thành một dân tộc lớn, và sử dụng dân tộc đó để ban phước cho cả thế giới. Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta, để chúng ta có thể làm một phước hạnh cho người khác, và mối quan tâm lớn của Ngài là cả thế giới có thể được chúc phước.


Mệnh lệnh truyền giáo của Hội thánh không bắt đầu từ Gi 3:16 hay Mat 28:18-20. Nó bắt đầu bằng giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham. Chúng ta được chúc phước để chúng ta có thể làm một phước hạnh


Hãy chú ý sự tương phản giữa Sa 11:1-9 và Sa 12:1-3. Ở Ba-bên, con người đã nói: “Chúng ta hãy!” nhưng với Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ”. Ở Ba-bên con người muốn tạo một danh cho mình, nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng đã khiến tên của Áp-ra-ham trở nên cao trọng.

Ở Ba-bên, những người làm việc tìm cách hiệp con người lại, chỉ để phân tán họ, nhưng qua Áp-ra-ham, cả thế giới đã được chúc phước, và mọi tín hữu được hiệp nhất trong Chúa Giê-xu Christ. Dĩ nhiên, lễ Ngũ Tuần (Công 2:1-47) là “sự đảo ngược” của Ba-bên, nhưng lễ Ngũ Tuần không thể xảy ra nếu không có giao ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham (Ga 3:14).


Hẳn dường như không thể tin được đối với Áp-ra-ham và Sa-ra rằng Đức Chúa Trời sẽ chúc phước cả thế giới qua một cặp vợ chồng già không con, nhưng đó chính là điều Ngài đã làm. Từ họ xuất hiện dân tộc Y-sơ-ra-ên, và từ Y-sơ-ra-ên xuất hiện Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế. Đức Chúa Trời đã tái khẳng định giao ước này với Y-sác (Sa 26:4) cùng Gia-cốp (28:14) và thực hiện điều đó trong Đấng Christ (Cong 3:25-26). Trong những năm sau đó, Đức Chúa Trời đã mở rộng những yếu tố khác nhau của giao ước này, nhưng Ngài ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra chân lý đủ để họ tin Ngài và khởi đầu bằng đức tin.


3. Một sự thỏa hiệp (Sa 12:1-3) (Sa 11:27-32; Sa 12:4)

Những bước đầu tiên của đức tin không phải lúc nào cũng là những bước phi thường, điều này giải thích lý do Áp-ra-ham đã không vâng lời Đức Chúa Trời hoàn toàn. Thay vì rời gia đình như ông đã được ra lệnh, Áp-ra-ham mang theo cha và Lót cháu ông ông rời U-rơ, và rồi ông ở tại Cha-ran cho đến khi cha ông chết.


Bất cứ điều gì bạn mang theo mình từ đời sống cũ vào đời sống mới thì có thể tạo ra những vấn đề. Tha-rê, cha của Áp-ra-ham, đã ngăn trở Áp-ra-ham vâng lời Chúa hoàn toàn, và Lót đã tạo ra những vấn đề nghiêm trọng cho Áp-ra-ham mãi đến cuối cùng họ phải đồng ý chia tay. Áp-ra-ham và Sa-ra đã mang theo mình một thỏa thuận tội lỗi từ U-rơ (Sa 20:13), và nó đưa họ vào rắc rối hai lần (Sa 12:10-20; Sa 20:1-18).


Đời sống đức tin đòi hỏi sự phân rẽ hoàn toàn khỏi điều gì ác và sự dâng hiến hoàn toàn cho điều gì thánh khiết (IICo 6:14-7:1). Khi bạn học về đời sống của Áp-ra-ham, bạn sẽ khám phá rằng ông thường bị cám dỗ để thỏa hiệp và đôi lúc ông đã đầu hàng. Đức Chúa Trời thử nghiệm chúng ta để xây dựng đức tin chúng ta và đem đến điều tốt nhất trong chúng ta, nhưng ma quỉ cám dỗ chúng ta để phá hoại đức tin chúng ta và đem đến điều tệ hại nhất trong chúng ta.


Khi bạn bước đi bằng đức tin, bạn chỉ dựa nơi một mình Đức Chúa Trời: Lời Ngài, tính cách Ngài, ý chí Ngài và quyền năng Ngài.

Bạn không cô lập mình khỏi gia đình và bạn bè, nhưng bạn không còn xem họ là tình yêu trước hết hay bổn phận trước hết của mình (Lu 14:25-27). Tình yêu của bạn đối với Đức Chúa Trời mạnh mẽ đến nỗi nó khiến cho tình yêu gia đình có vẻ như sự ghét bỏ khi so sánh! Đức chúa Trời kêu gọi “một mình” chúng ta (Eph 51:1-2) và chúng ta không nên thỏa hiệp.


4. Một sự phó thác (Sa 12:4-9)

Mục sư Thanh giáo thế kỷ 17, Thomas Fuller, nói rằng “Cả nhân loại được chia thành 3 giai cấp: người có ý định, người nỗ lực và người thực hiện.”

-Tha-rê có thể là người có ý định, nhưng ông không bao giờ thực hiện nó trong Đất Hứa.

-Lót là người nỗ lực đến một thời điểm nào đó, nhưng ông thất bại vì ông không thể bước đi bằng đức tin.

-Áp-ra-ham và Sa-ra là những người thực hiện vì họ tin cậy Đức Chúa Trời thực hiện điều Ngài hứa (Ro 4:18-21).

Họ phó thác đời sống và tương lai mình cho Đức Chúa Trời, vâng theo điều Ngài bảo, và chấp nhận mọi điều Đức Chúa Trời hoạch định cho họ.


Đức tin đem chúng ta ra đi (Sa 12:4-5).

Có thể chính tình yêu của một người con đối với cha già của mình đã khiến Áp-ra-ham trì hoãn (Lu 9:59-62) nhưng cuối cùng đã đến ngày ông và Sa-ra phải rời Cha-ran để đến xứ Đức Chúa Trời đã chọn cho họ. Đức tin và sự hai lòng không bao giờ đi đôi với nhau (Gia 1:6-8) và bạn không thể hầu việc hai chủ (Mat 6:24). Đức tin đòi hỏi sự phó thác.


Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng sự phó thác là một mặt hàng đang biến mất trên thế giới ngày nay. Nhiều người không muốn phó thác mình cho công việc, những lời thề hứa hôn nhân của họ hay đối với nhau. “Tôi sẽ làm việc của tôi theo cách của tôi!” là thực chất của triết lý ngày nay, và thái độ này đã xâm nhập Hội thánh. Nhiều tín hữu sẽ không phó thác mình cho việc phục vụ trong một Hội thánh nhưng đi từ Hội thánh này đến Hội thánh khác khi các mục sư và những chương trình âm nhạc thay dổi.


“Tạm thời” là một từ chính ngày nay: những giáo viên Trường Chủ nhật và những người đỡ đầu thanh niên tạm thời, những thành viên ban hát tạm thời, những thuộc viên Hội thánh tạm thời và thậm chí những mục sư tạm thời.


Vance Havner đã nói: “Đó là một ngày của những tuyên bố đang biến mất. Những giao ước Hội thánh được tìm thấy ở cuối sách Thánh ca, nhưng chúng đã phai mờ trong đời sống của hầu hết các tín hữu của chúng ta, nếu chúng đã bao giờ có một ý nghĩa nào gì. Những tuyên bố về sự dâng hiến cá nhân đã trở nên không rõ rệt, và cần được đổi mới. Đó là một ngày của những tuyên bố đã phai mờ.”


Hôm nay chúng ta sẽ ở đâu nếu Áp-ra-ham và Sa-ra đã không dâng mình, để vâng lời Chúa bằng đức tin? Chúng ta sẽ ở đâu nếu các thế hệ Cơ-đốc nhân đi trước không dâng mình hoàn toàn cho Chúa? Chúng ta những người đến sau không nên xem nhẹ những điều mà các thế hệ trước đã trả một giá lớn để đạt được. Mong rằng thế hệ sau nhìn lại chúng ta và nói: “Họ đã trung tín!”


Đức tin đem chúng ta vào (Sa 12:6-8).

Đức Chúa Trời đem chúng ta ra để Ngài có thể đem chúng ta vào (Phu 6:23). Chúng ta không biết gì về cuộc hành trình dài từ Cha-ran đến Ca-na-an, vì chính nơi đến là quan trọng. Những thế kỷ sau đó, Đức Chúa Trời sẽ ban xứ ấy cho con cháu Áp-ra-ham, nhưng khi Áp-ra-ham với Sa-ra đến nơi, họ là “Khách lạ và người bộ hành” giữa một xã hội ngoại đạo (He 11:3).


Mặc cho những bài dân ca nói gì, việc đi vào Ca-na-an không phải là một bức tranh về sự chết hay lên trời, Đó là một bức tranh về tín hữu xác nhận di sản của mình bằng đức tin. Đức Chúa Trời đã chỉ định một “Ca-na-an” cho mỗi con cái Ngài (Eph 2:10), và nó dành được chỉ bởi đức tin. Xác nhận di sản của bạn liên quan đến những thử nghiệm và những cám dỗ, những thách thức và những trận chiến, nhưng Đức Chúa Trời có thể giúp bạn vượt qua (Phi 1:6).


Sự vâng lời dẫn đến một sự xác tín mới và những lời hứa mới từ Đức Chúa Trời (Sa 12:7; Gi 7:17). Điều đó chắc đã đem đến một sự yên ủi biết bao khi Áp-ra-ham và Sa-ra có sự mạc khải mới này lúc họ đến trong một xứ xa lạ và nguy hiểm. Khi bạn bước đi bằng đức tin, bạn biết rằng Đức Chúa Trời ở cùng bạn và bạn không cần phải sợ hãi (He 13:5-6; Cong 18:9-10; IITi 4:17) Đức Chúa Trời sẽ thực hiện những mục đích của Ngài và hoàn thành trong và qua bạn tất cả những gì trong lòng Ngài.


Đa số chúng ta không được ra lệnh phải chấm dứt mọi sự đầu tư và đi đến một xứ xa lạ, nhưng những thử thách đối với đức tin của chúng ta là thật. Đôi khi có những vấn đề nghiêm trọng trong gia đình, công việc, hay trong Hội thánh, và chúng ta không biết vì sao Đức Chúa Trời cho phép những điều này xảy ra. Nếu bạn muốn dành lấy di sản thuộc linh của mình trong Đấng Christ, bạn phải thực hành đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời và sự vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời.


Bất cứ nơi đâu Áp-ra-ham đến trong xứ Ca-na-an đều được ghi dấu bởi trại và bàn thờ của ông (Sa 12:7-8; Sa 13:3-4, 18). Trại cho thấy ông là một “khách lạ và người bộ hành” không thuộc về thế gian này (He 11:9-16; IPhi 2:11), và bàn thờ cho thấy ông là một công dân trên trời thờ phượng Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Ông bày tỏ chứng cớ cho tất cả rằng ông được biệt riêng khỏi thế gian này (trại) và dâng mình cho Chúa (bàn thờ). Bất cứ khi nào Áp-ra-ham bỏ trại và bàn thờ của ông, ông gặp phải rắc rối.


Áp-ra-ham cắm trại ông ở phía Tây Bê-tên và phía Đông A-hi (Sa 12:8). Những tên trong Kinh Thánh đôi khi có những ý nghĩa rất hay, dầu vậy chúng ta cũng không nên đi quá xa. Bê-tên có nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời” (Sa 28:19) và A-hi nghĩa là “sự đổ nát”. Nói theo nghĩa bóng, Áp-ra-ham và Sa-ra đang đi trong sự sáng, từ Đông sang Tây, từ thành đổ nát sang nhà của Đức Chúa Trời! Hệ thống thế gian này ở trong sự đổ nát, nhưng những tín hữu thật đã quay lưng với thế gian và để mặt họ hướng về nhà trên trời của Đức Chúa Trời “Con đường người công bình giống như tia sáng bình minh đầu tiên, chiếu sáng hơn cho đến sự sáng hoàn toàn của ngày” (Ch 4:18 NIV)


Đức tin đem chúng ta lên (Sa 12:9).

Đời sống đức tin đừng bao giờ đứng yên; vì nếu chân bạn bước đi, đức tin bạn tăng trưởng. Hãy chú ý những động từ sử dụng để mô tả đời sống của Áp-ra-ham. Ông ra đi (Sa 12:4), đi đến (Sa 12:5) đi qua (Sa 12:6), dời đi (Sa 12:8) và thực hiện cuộc hành trình (Sa 12:9). Đức Chúa Trời đã giữ cho Áp-ra-ham di chuyển để ông sẽ gặp những thử thách mới và buộc phải tin cậy Đức Chúa Trời hầu có “ơn (mới) để giúp đỡ trong thì giờ cần thiết” (He 4:16).


Cơ-đốc giáo tiện nghi đối lập với đời sống đức tin, vì “người bộ hành và khách lạ” phải đối diện những hoàn cảnh mới nếu họ muốn đạt đến những hiểu biết sâu sắc mới về chính mình và Chúa của mình. “Chúng ta hãy tấn tới sự trưởng thành” là thách thức (He 6:1 NASB).


Làm sao Áp-ra-ham biết phải đi đâu và làm gì?

Ông đã “cầu khẩn danh Chúa” (Sa 12:8). Ông cầu nguyện với Chúa và Chúa đã giúp ông. Những láng giềng ngoại đạo của Áp-ra-ham thấy rằng ông có một bàn thờ nhưng không có hình tượng nào.

Ông không có “những nơi thiêng liêng” nhưng đã xây bàn thờ cho Đức Chúa trời bất cứ nơi đâu ông đóng trại. Bạn có thể lần theo những bước đi của Áp-ra-ham bằng những bàn thờ ông để lại phía sau. Ông không xấu hổ khi thờ phượng Đức Chúa Trời một cách công khai trong khi những láng giềng ngoại đạo quan sát ông.


Trong đời sống của người bộ hành, bạn phải đi “từ đức tin đến đức tin” (Ro 1:17) nếu bạn muốn đi “từ sức mạnh đến sức mạnh” (Thi 84:7) G. A. Studdert Kennedy đã nói: “Đức tin không phải là tin bất chấp chứng cớ. Đó là vâng lời bất chấp hậu quả”. “Bởi đức tin, Áp-ra-ham… đã vâng lời” (He 11:8).

Đức tin không có sự vâng lời là đức tin chết (Gia 2:14-26), và hành động không có đức tin là tội lỗi (Ro 14:23). Đức Chúa Trời đã kết hợp đức tin với sự vâng lời giống như hai mặt của một đồng tiền, chúng đi với nhau.


Điều này không có nghĩa là tội nhân được cứu bởi đức tin cộng với việc làm vì Kinh Thánh tuyên bố rằng tội nhân được cứu chỉ bởi đức tin (Gi 3:16, 18; Eph 2:8-9). Tiến sĩ H. A. Ironside, mục sư thâm niên của Hội thánh Moody ở Chicago, được một phụ nữ cho biết rằng bà mong đến Thiên Đàng bằng đức tin cộng với việc thiện của mình.

Bà giải thích: “Nó giống như việc chèo một con thuyền. Cần phải có hai mái chèo để lái một con thuyền, nếu không thì bạn đi quanh trong một vòng tròn”

Tiến sĩ Ironside đáp: “Đó là một minh họa hay ngoại trừ một điều. Tôi sẽ không đến Thiên Đàng trong một con thuyền có mái chèo.”


Đức tin cứu rỗi là đức tin chứng tỏ chính nó qua việc thiện (Eph 2:8-10; Tit 2:14 3:8, 14). Áp-ra-ham được cứu bởi đức tin (He 11:8; Sa 15:6; Ro 4:1-5), nhưng đức tin của ông được trở nên hiển nhiên bởi sự vâng lời của ông (Gia 2:21-24).



 


13. NẠN ĐÓI, BẦY SÚC VẬT VÀ NHỮNG CUỘC CHIẾN (Sa 12:10-13:18)


Amy Carmichael, nhà truyền giáo ở Ấn-độ đã viết: “Đời sống có thể khó khăn. Đôi khi kẻ thù đến như một cơn nước lụt. Nhưng đó là lúc để chứng tỏ đức tin của chúng ta và sống với những bài hát của chúng ta” (Cartles in the Dark những ngọn nến trong bóng tối, trang 51).


Một đức tin mà không thể được thử nghiệm thì không thể được tin cậy. Phi-e-rơ đã so sánh những hoạn nạn của Cơ-đốc nhân với việc thử vàng trong lò lửa (IPhi 1:7), và trưởng tộc Gióp đã sử dụng hình ảnh tương tự: “Nhưng Chúa biết con đường tôi đi, khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng” (Giop 23:10).

Mục đích của Đức Chúa Trời trong việc cho phép những hoạn nạn không chỉ để xác thực đức tin của chúng ta mà còn để tẩy thanh và trừ bỏ cặn bã. Đức Chúa Trời biết chúng ta có loại đức tin gì, nhưng chúng ta không biết, và cách duy nhất để tấn tới trong “trường đức tin” là dự những kỳ thi.

Giống như Áp-ra-ham, khi bạn tiến bộ trong “trường đức tin”, bạn sẽ đối diện ba sự thử nghiệm đặc biệt: hoàn cảnh (Sa 12:10) con người (Sa 12:11-13:4) và sự việc (Sa 13:5-18).


1. Hoàn cảnh (Sa 12:10)

Khi lìa gia đình và đi đến một xứ xa lạ, Áp-ra-ham đã đi một bước lớn của đức tin. Sau khi ông đến nơi, ông thấy Đức Chúa Trời lần thứ hai và nghe lời hứa của Ngài. Áp-ra-ham và Sa-ra có thể mong định cư và hưởng nhà mới của họ, nhưng Đức Chúa Trời chưa cho phép họ. Ngược lại, Đức Chúa Trời cho phép một cơn đói đến với xứ, không có ghi chép nào cho thấy Áp-ra-ham đã đối diện một cơn đói ở U-rơ hay Cha-ran. Nhưng giờ đây ông ở trong xứ của Đức Chúa Trời, ông phải tìm lương thực cho một đoàn người đông đảo cộng với bầy chiên và bầy súc vật (Sa 14:14).

Tại sao Đức Chúa Trời cho phép cơn đói?

Để dạy Áp-ra-ham và Sa-ra một bài học cơ bản trong “trường đức tin”, một bài học mà bạn cũng phải học. Những thử nghiệm thường theo sau những chiến thắng. Nguyên tắc này được minh họa trong lịch sử Y-sơ-ra-ên. Dân tộc này được giải cứu khỏi Ai-cập chưa được bao lâu thì quân Ai-cập đã đuổi theo họ và theo sát họ tại Biển Đỏ (Xu 12:1-15:27). Chiến thắng thường được theo sau bởi thử nghiệm. Đức Chúa Trời đã đem họ vượt qua nhưng rồi họ đối diện với thử nghiệm khác: không có nước (Xu 15:22-27). Sau đó, cơn đói xảy ra (Xu 16:1-36) và có một cuộc tấn công của dân A-ma-léc (Xu 17:1-16).

Những thử nghiệm theo sau những chiến thắng.

Một tín hữu trẻ đã nói với tôi: “Tôi đã nghĩ rằng được cứu rỗi là cuối cùng của mọi hoạn nạn của tôi. Nhưng giờ đây tôi biết rằng đức tin trong Đấng Christ đã cho tôi một tập hợp toàn bộ những vấn đề mới! Nhưng giờ đây có hai sự khác nhau”, anh ta nói thêm với một nụ cười: “Tôi không đối diện với chúng một mình, vì Chúa ở cùng tôi, và tôi biết Ngài cho phép chúng vì ích lợi của tôi và vì vinh hiển của Ngài.” 

Một trong những kẻ thù của đời sống đức tin là sự kiêu ngạo, khi bạn giành chiến thắng, bạn có thể cảm thấy quá tự tin và bắt đầu tự nhủ rằng bạn có thể đánh bại bất cứ kẻ thù nào ở bất cứ lúc nào. Bạn bắt đầu dựa vào kinh nghiệm quá khứ và hiểu biết gia tăng của bạn về Lời Chúa, thay vì nhờ cậy hoàn toàn nơi Chúa.


Điều này giải thích lý do lời hứa ở ICo 10:13 theo sau lời cảnh cáo ở câu 12: “Vì vậy ai tưởng mình đứng vững, hãy chú ý kẻo ngã” (NKJV). Đức Chúa Trời không muốn Áp-ra-ham trở nên kiêu ngạo và tự tin, vì vậy Ngài đặt ông và đức tin của ông trong lò thử nghiệm.


Sau khi bạn đã dành một chiến thắng lớn của đức tin, hãy nghĩ đến việc kẻ thù tấn công bạn hoặc Chúa thử nghiệm bạn, hay cả hai điều. Đây là cách duy nhất bạn có thể tăng trưởng trong đức tin của mình. Đức Chúa Trời sử dụng những hoàn cảnh gay go của đời sống để xây dựng những cơ bắp của đức tin bạn và ngăn trở bạn tin cậy điều gì hơn Lời Ngài. Đừng tìm cách chạy trốn khỏi vấn đề. Điều đó sẽ không có hiệu quả.


Thay vì cứ ở trong xứ và tin cậy Chúa giúp mình, Áp-ra-ham đã đi “xuống xứ Ai-cập” (Sa 12:10). Trong Kinh Thánh, Ai-cập là một tượng trưng cho hệ thống thế gian và ách nô lệ của nó, trong khi xứ Y-sơ-ra-ên là một bức tranh về di sản của phước hạnh mà Đức Chúa Trời dành cho bạn (Phu 11:10-12). Khi người ta đến Giê-ru-sa-lem, họ đi lên, nhưng họ đến Ai-cập, họ đi xuống. Nói theo mặt thuộc linh, “đi xuống Ai-cập” nghĩa là nghi ngờ những lời hứa của Đức Chúa Trời và chạy đến với thế gian để được sự giúp đỡ (Dan 11:1-35; Dan 14:1-45; Es 30:1-2 31:1; Gie 42:13).


Khi những hoàn cảnh trở nên khó khăn và bạn ở trong lò lửa thử nghiệm, hãy cứ ở nơi Đức Chúa Trời đã đặt để bạn cho đến khi Ngài bảo bạn đi. Đức tin đi theo hướng của sự bình an và hy vọng, nhưng sự vô tín đi theo hướng của sự bồn chồn và sợ hãi, “Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Es 28:16). Trong những lúc thử thách, câu hỏi quan trọng không phải là “làm sao tôi có thể thoát ra khỏi điều này?” nhưng là “Tôi có thể rút ra cái gì từ điều này?” (Gia 1:1-12). Đức Chúa Trời đang hành động để xây dựng đức tin của bạn.




bottom of page