top of page
Bài Đọc...
Gia...
...-cốp đã xây một bàn thờ trên mảnh đất ông mua gần Si-chem và gọi đó là “Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (Sa 33:20). Nhưng Đức Chúa Trời không hài lòng với bàn thờ này vì Ngài muốn ông thờ phượng trở lại ở Bê-tên, “nhà Đức Chúa Trời”. Chúa nhắc nhở Gia-cốp về hoàn cảnh tuyệt vọng của ông hơn 20 năm trước và thể nào Ngài đã giải cứu ông rồi ban phước cho ông. Ở Bê-tên, Gia-cốp đã lập một số lời thề nguyện trước Chúa, và giờ đây là lúc để thực hiện chúng.
Nhiều vấn đề trong đời sống Cơ-đốc và trong các Hội thánh địa phương là kết quả từ sự vâng lời không hoàn toàn. Chúng ta biết điều Chúa muốn chúng ta làm, chúng ta bắt đầu làm, và rồi chúng ta ngưng lại. Khi chúng ta không tiếp tục vâng lời Đức Chúa Trời và thực hiện ý muốn Ngài, thì ngay cả việc chúng ta đã làm cũng bắt đầu tàn lụi. Điều Chúa Giê-xu đã phán với Hội thánh ở Sạt-đe, Ngài cũng phán với chúng ta: “hãy tỉnh thức, và làm cho vững sự còn lại, là sự hầu chết; vì ta không thấy công việc của ngươi là trọn vẹn (được thực hiện) trước mặt Đức Chúa Trời” (Kh 3:2).
• Gia-cốp chỉ dẫn gia đình ông (Sa 35:2-4).
Thật khoan khoái khi thấy Gia-cốp thực hiện mệnh lệnh của hoàn cảnh này và dạn dĩ làm chứng về điều Đức Chúa Trời đã phán với ông cùng với điều Ngài đã làm cho ông. Những chỉ dẫn này không chỉ áp dụng cho những người vợ và con cái của Gia-cốp và còn cho các tôi tớ ông đã thuê ở Pha-đan A-ram. Vì Gia-cốp có bầy chiên và bầy gia súc lớn, ông chắc cần nhiều người để giúp chăm sóc chúng.
Gia-cốp kêu gọi mọi người phải thanh tẩy trong một thời gian ngắn, và điều trước tiên họ phải làm là cất bỏ những tượng thần của họ. Ra-chên đã đánh cắp những tượng thần trong nhà cha nàng (Sa 31:19, 34-35) và Gia-cốp biết rằng những tượng tà thần khác đã được giấu trong trại quân.
Việc thờ các thần tượng của các dân tộc ngoại đạo luôn là một cám dỗ đối với dân Y-sơ-ra-ên. Môi-se đã phải cảnh cáo họ về sự thờ hình tượng trước khi họ vào xứ (Phu 7:1-26), và Giô-suê đã phải thách thức dân Y-sơ-ra-ên cất bỏ những hình tượng sau khi họ chinh phạt xứ (Gios 24:14, 23-24).
Ngay cả Sa-mu-ên cũng đối diện với vấn đề này vào thời của ông (ISa 7:2-4) và những tiên tri thường quở trách dân tộc về việc xây những nơi cao mà họ hầu việc các tà thần.
Sự chỉ dẫn thứ hai là “làm cho mình được thanh sạch và thay áo xống đi” (Sa 35:2). Đa số người ngày nay quen với hệ thống ống nước trong nhà, xà bông thơm, và tủ quần áo lớn, nên chúng ta quên rằng dân du mục thời xưa ở những xứ trong Kinh Thánh không có những tiện nghi này. Về vấn đề đó, những thực hành vệ sinh và những điều kiện thuận lợi hoàn toàn chưa được biết ngay cả trong nền văn minh phương Tây suốt hầu hết lịch sử của nó. Cái mà chúng ta gọi là những thứ cần thiết sẽ bị tổ tiên chúng ta xem là những thứ xa xỉ.
Nhưng trong Kinh Thánh, việc tắm rửa thân thể và thay quần áo tượng trưng cho việc tạo một khởi đầu mới. Giống như bụi, tội lỗi làm ô uế và phải bị tẩy sạch (Thi 51:2, 7; Es 1:16; IICo 7:1; IGi 1:9). Quần áo cũ của chúng ta là điển hình của đời sống cũ với những thất bại của nó (Es 64:6), nhưng Đức Chúa Trời trong sự thương xót của Ngài ban cho chúng ta “quần áo mới” để chúng ta có thể tạo một khởi đầu mới mẻ (Sa 3:21; Es 61:10; Xa 3:1-5; Lu 15:22; Kh 3:18). Trước khi Đức Chúa Trời ban Luật pháp tại núi Si-na-i, Ngài ra lệnh cho dân sự tắm rửa và thay quần áo; vì họ sắp bước vào một giao ước long trọng với Đức Chúa Trời (Xu 19:9-15).
Tất cả mọi người vâng theo những mệnh lệnh của Gia-cốp và đưa cho ông các thần tượng ngoại bang (Xu 32:3 Cac 8:24-27 Os 2:13). Gia-cốp chôn tất cả các vật đó dưới “cây dẻ bộp tại Si-chem” (Sa 35:4) mà rõ ràng là một cây nổi tiếng và có thể là cây được đề cập đến trong Sa 22:6.
Đức Chúa Trời bảo vệ Gia-cốp và gia đình ông (Sa 35:5). Sau cuộc tấn công giết người của Si-mê-ôn và Lê-vi trên dân Si-chem, Gia-cốp sợ dân trong xứ sẽ tấn công ông (Sa 34:30) nhưng Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa của Ngài (Sa 28:15) và chăm sóc Gia-cốp cùng gia đình ông khi họ đi về phía Bê-tên (Thi 105:7-15).
“Sự kinh hãi của Đức Chúa Trời” giống như vầng đá đi trước Y-sơ-ra-ên khi họ hành trình đến Ca-na-an và dọn đường cho sự chinh phạt xứ của họ (Xu 15:14-16 Phu 2:24-25; Gios 2:8-14). Khi dân sự Đức Chúa Trời làm theo ý muốn Đức Chúa Trời trong đường lối của Đức Chúa Trời, họ có thể nhờ cậy sự chu cấp và bảo vệ của Đức Chúa Trời (Es 41:10, 14; Es 44:2, 8; Es 43:1-5). Khi chúng ta kính sợ Đức Chúa Trời, chúng ta không cần phải sợ hãi ai khác.
• Gia-cốp thờ phượng Đức Chúa Trời (Sa 35:6-8).
Đức Chúa Trời đã hứa đem Gia-cốp an toàn về Bê-tên (Sa 28:15), và Ngài đã giữ lời hứa Ngài, như Ngài luôn làm vậy (Gi 21:45; Gi 23:14; IVua 8:56). Gia-cốp giữ phần hiệp ước của mình bằng cách xây một bàn thờ và hướng dẫn gia đình ông trong việc thờ phượng Chúa. Một lần nữa, Gia-cốp đặt một tên mới cho một nơi cũ.Lu-xơ được ông đặt tên lại là “Bê-tên, nhà Đức Chúa Trời” (Sa 28:19), và giờ đây “Bê-tên” được ông mở rộng để trở thành “Đức Chúa Trời của Bê-tên”. Đó không phải là nơi quan trọng ngoại trừ Đức Chúa Trời của nơi này và điều Ngài đã làm cho Gia-cốp.
Dân Do-thái đã xem nhiều nơi là đặc biệt vì điều Đức Chúa Trời đã làm cho họ ở đó, những nơi như Bê-tên, núi Si-na-i, Giê-ru-sa-lem, sông Giô-đanh, và Ghinh-ganh. Có lẽ tất cả chúng ta đều có những nơi đặc biệt ý nghĩa đối với mình vì những kinh nghiệm thuộc linh chúng ta có ở đó, nhưng một “nơi thánh” không bao giờ nên chiếm chỗ của Đức Chúa Trời thánh khiết. Viếng thăm một vị trí đặc biệt và tìm cách khơi lại những phước hạnh cũ là sống trong quá khứ. Chúng ta hãy cầu xin Đức Chúa Trời những phước hạnh mới và một mặc khải mới về chính Ngài!
Chúng ta không biết Đê-bô-ra đầy tớ của Rê-bê-ca (Sa 24:59) đã trở thành một phần của gia đình Gia-cốp khi nào, nhưng sự hiện diện của bà trong trại quân gợi ý rằng mẹ của Gia-cốp giờ đây dã chết. Đê-bô-ra đã ở với Y-sác cho đến khi Gia-cốp đến gần Hếp-rôn, và sau đó bà đi ở với đứa con trai bà đã giúp nuôi dưỡng những năm trước đó. Phải chăng bà là người đã đưa tin cho Gia-cốp rằng Rê-bê-ca đã chết? Cách Gia-cốp cư xử dịu dàng với người đầy tớ già này là một gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo.
• Đức Chúa Trời hiện ra cùng Gia-cốp (Sa 35:9-15).
Trong kinh nghiệm Bê-tên đầu tiên của mình, Gia-cốp đã thấy Đức Chúa Trời và các Thiên sứ trong một giấc mơ (Sa 28:12), nhưng giờ đây Chúa hiện ra cùng ông trong cách đặc biệt nào đó và ban phước cho ông. Đức Chúa Trời tái khẳng định tên mới của Gia-cốp là “Y-sơ-ra-ên” và danh của Ngài là “Đức Chúa Trời toàn năng” (El-Shaddai, Sa 17:1; Sa 28:3; Sa 43:14; Sa 48:3; Sa 49:25).
Ngài cũng tái khẳng định những lời hứa có liên quan đến việc thêm nhiều con cháu của Gia-cốp và việc họ sở hữu xứ, bảo đảm với Gia-cốp rằng các dân tộc và các vua sẽ thuộc trong con cháu của ông. Vào lúc đó, Gia-cốp chỉ có 11 con trai, nhưng Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông một con trai nữa và chúc phước dư dật cho tất cả họ cùng gia tăng con số của họ.
Như đã làm những năm trước đó tại Bê-tên, Gia-cốp dựng lên một cây trụ và dâng hiến cho Chúa (Sa 28:18). Ông không chỉ đổ dầu lên cột trụ, ông còn đổ ra một lễ quán bằng rượu. Lễ quán là một phần bổ sung cho những của lễ thông thường và được đổ ra trên bàn thờ khi của lễ đang cháy (Xu 29:40-41; Dan 6:17; Dan 15:5-10, 24; Dan 29:22-38). Đó là một dấu hiệu của sự dâng hiến, đời sống người thờ phượng được đổ ra cho Chúa (IISa 23:16; Phi 2:17).
Sự phục hồi của Gia-cốp giờ đây đã trọn vẹn. Ông đã trở lại nơi Đức Chúa Trời chọn, ông đã dâng mình và những của lễ của ông cho Chúa, Chúa đã phán với ông, và những lời hứa giao ước đã được tái khẳng định. Ông đã đến từ nhà La-ban đến nhà Đức Chúa Trời; và dù vẫn có nhiều điều để học về sự bước đi của mình với Chúa, Gia-cốp đang bắt đầu là “Y-sơ-ra-ên” và sống như một hoàng tử thay vì một kẻ nghèo túng.
2. Một con trai mới (Sa 35:16-20)
Giờ đây chúng ta di chuyển từ tiếng nói của Đức Chúa Trời đến tiếng khóc của một em bé và những lời sau cùng của một người mẹ.
• Sự sinh nở (Sa 35:16-17).
Khi Ra-chên yêu dấu của Gia-cốp biết mình mang thai, điều ấy hẳn đã cho hai người niềm vui lớn. Bà đã sanh cho Gia-cốp chỉ một con trai, là Giô-sép (“thêm vào”), và trong việc đặt tên cho con trai ấy, bà bày tỏ khao khát của mình về một con trai nữa (Sa 30:22-24). Đức Chúa Trời đã nhậm những lời cầu nguyện của bà và ban cho bà một con trai. Gia-cốp giờ đây có 12 con trai, là những người sáng lập 12 chi phái Y-sơ-ra-ên.
• Sự chết (Sa 35:18, 19).
Ra-chên đã nói với Gia-cốp “Hãy cho tôi có con, bằng không tôi chết” (Sa 30:1). Giờ đây bà sẽ sanh con trai thứ hai đó, nhưng để làm vậy bà phải từ bỏ mạng sống của bà vì sự sống của đứa trẻ. Chúng ta cũng không nên giải thích cái chết của bà như một sự xét đoán từ Đức Chúa Trời vì câu nói hấp tấp của bà hay vì bà đã đánh cắp những tượng thần của cha bà. Sự sống là một bức tranh kết hợp của ánh sáng và bóng tối, niềm vui và nỗi buồn, và chính đứa trẻ đã đem đến cho Ra-chên cùng chồng bà niềm vui thì cũng đem đến những giọt lệ.
• Đức tin (Sa 35:18b).
“Bô-nô-ni” nghĩa là “em trai của sự buồn rầu tôi” hoặc “con trai của sự bối rối tôi”, không phải là một cái tên thuận lợi cho lắm để một người mang suốt đời, nhắc nhở người đó rằng sự ra đời của mình đã gây ra cái chết của mẹ mình. Sự buồn rầu sẽ làm lu mờ chính ngày sinh của người. Nhưng Gia-cốp luôn sẵn sàng để đặt tên lại cho cái gì đó, vì vậy ông gọi con trai mới sinh của mình là “Bên-gia-min”, nghĩa là “con trai tay hữu tôi”, đó là một con trai được tôn trọng. Vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên đã đến từ chi phái Bên-gia-min (ISa 9:1-27) và sứ đồ Phao-lô cũng là một người Bên-gia-min (Phi 3:5).
• Tình yêu (Sa 35:20).
Hơn 20 năm trước đó, Gia-cốp dựng lên một cây trụ tại Bê-tên để kỷ niệm cuộc gặp mặt của ông với Đức Chúa Trời. Giờ đây ông dựng một cây trụ để kỷ niệm Ra-chên người vợ yêu dấu của mình. Nó nằm “bên con đường đi về Ê-phơ-rát”, tên khác của Bết-lê-hem (“Ê-phơ-rát” nghĩa là “kết quả” và “Bết-lê-hem” nghĩa là “nhà bánh”). Lời truyền khẩu cho rằng mộ của Ra-chên khoảng một dặm về phía Bắc Bết-lê-hem, trên con đường đến Giê-ru-sa-lem, nhưng Giê-rê-mi nói nó gần Ra-ma, năm dặm về phía Bắc Giê-ru-sa-lem (Gie 31:15).
Nếu không vì sự giáng sinh của Chúa Giê-xu ở Bết-lê-hem, thị trấn này sẽ được ghi nhớ chủ yếu cho sự chết của Ra-chên. Vì Ngài đã đến, chúng ta có “tin vui lớn” thay cho nước mắt buồn rầu. Ma-thi-ơ đã liên hệ sự đề cập của Giê-rê-mi về Ra-chên với sự sát hại trẻ vô tội của Hê-rốt tại Bết-lê-hem (Mat 2:18), Sự giáng sinh của Chúa Giê-xu đã đem đến niềm vui mừng (Bên-gia-min) và cũng đem đến sự buồn rầu (Bê-nô-ni).
3. Một sự buồn rầu mới (Sa 35:21-22)
Sự chết của một người vợ thân yêu ít nhất là một kinh nghiệm bình thường của con người mà không có tội lỗi gắn buộc, nhưng điều Ru-bên đã làm là không bình thường và bị nhơ nhuốc bởi tội lỗi cùng sự nhục nhã.
Ru-bên là con trưởng nam của Gia-cốp và do đó là người lớn tuổi nhất trong các con trai của ông (Sa 29:31-32); người có lẽ ở trong độ tuổi 20. Tình tiết thời thơ ấy với những trái phong già có thể hoặc không thể cho biết bất cứ điều gì về bản chất của người (Sa 30:14-18). Bi-la là đầy tớ gái của Ra-chên và đã sanh cho Gia-cốp hai con trai, Đan và Nép-ta-li (c.1-8).
Có lẽ cái chết mới xảy ra của Ra-chên khiến Bi-la muốn trở lại với Gia-cốp, và đây là cơ hội của Ru-bên để hành động. Vì bản văn không cho biết rằng Ru-bên cưỡng hiếp vợ của cha, nên chúng ta cho rằng bà đã đồng lõa trong việc này.
Nhưng tội lỗi của Ru-bên có liên quan nhiều hơn là thỏa mãn một khao khát dâm dục. Vì một người con trai lấy vợ của cha trong trường hợp này là một sự tuyên bố rằng người ấy giờ đây là chủ của gia đình.
Khi Áp-ne lấy vợ lẻ của vua Sau-lơ thì Ích-bô-sết con trai của Sau-lơ và là người thừa kế đã phản dối, vì điều đó nghĩa là Áp-ne đang chiếm đoạt ngôi vua (IISa 3:6-11).
Khi Đa-vít kế vị Sau-lơ làm vua, ông được ban cho những người vợ của Sau-lơ làm của riêng mình (IISa 12:8). Áp-sa-lôm chống nghịch đã tuyên bố mình là vua bằng cách lấy các vợ lẻ của cha (IISa 16:20-23) và lời thỉnh cầu của A-đô-ni-gia để lấy A-bi-sác làm vợ cũng giống như thách thức quyền của Sa-lô-môn đối với ngôi vua (IVua 2:13-25).
Sau đó, có vẻ như mục đích của Ru-bên là chiếm quyền lãnh đạo trong gia đình, khiến việc làm của ông chỉ càng hèn hạ hơn nhiều. Giống như người con thứ trong câu chuyện của Chúa chúng ta, Ru-bên không thể chờ đợi để lấy gia tài mình (Lu 15:11-24). Ông phải có nó bây giờ.
Gia-cốp không làm gì ngay, nhưng chắc chắn lòng ông tan vỡ bởi điều con trai ông đã làm. Ru-bên đã tỏ ra tính cách nào đó trong việc bảo vệ Giô-sép khỏi sự chết, nhưng ông không thể cứu người khỏi cảnh nô lệ (Sa 37:20-30). Dù Ru-bên là con trưởng, các em ông dường như không tôn trọng chức lãnh đạo của ông. Về già, Gia-cốp đã phơi bày tội lỗi của Ru-bên và lấy đi khỏi ông những quyền lợi của con trưởng, ban chúng cho Giô-sép (Sa 48:1-14; Sa 49:3-4; ISu 5:1-2).
Những ai dạy rằng sự dâng hiến của chúng ta cho Chúa tự động bảo vệ chúng ta khỏi những rắc rối và nước mắt thì cần đọc chương này cẩn thận. Chắc chắn Đức Chúa Trời đã tha thứ cho Gia-cốp, và chắc chắn Gia-cốp đang bước đi với Chúa trong đức tin và sự vâng lời. Tuy nhiên, ông vẫn phải chịu những hậu quả. Nếu chúng ta vâng lời Chúa chỉ vì điều chúng ta đã nhận được từ đó, chớ không phải vì Ngài xứng đáng với sự yêu mến và sự vâng lời của chúng ta, vậy tấm lòng và động cơ của chúng ta là sai. Chúng ta trở nên loại người mà Sa-tan đã kiện cáo Gióp (Giop 1:6-2:10).
4. Một địa vị mới (Sa 35:21-22) (Sa 35:23-36:43)
Hơn 20 năm trước đó, Y-sác tưởng mình sắp chết (Sa 24:1-4), nhưng sự chết đã không đến cho đến khi ông được 180 năm. Ông sống lâu nhất trong tất cả các trưởng tộc, nhưng ít điều được ghi chép về cuộc đời ông hơn là về cha ông, các con trai ông và Giô-sép cháu nội ông.
Chúng ta tin rằng Y-sác và Gia-cốp đã kinh nghiệm một sự hòa giải trọn vẹn và vị trưởng tộc già đó đã qua đời “tuổi cao tác lớn” như cha ông (Sa 25:8). Ê-sau đến từ núi Sê-i-rơ để tỏ những sự kính trọng của mình với cha và để giúp Gia-cốp chôn cha trong hang đá Mặc-bê-la (Sa 49:29-32). Ê-sau là người của thế gian chớ không phải đứa con của giao ước, nhưng ông vẫn là con trai của Y-sác và anh của Gia-cốp, và ông có mọi quyền để ở đó. Sự chết là một kinh nghiệm của con người đem đến những nỗi đau con người cho lòng chúng ta, và việc lo cho người chết là một trách nhiệm đối với mọi gia đình tín hữu và người không tin Chúa.
Nhưng sự chết của Y-sác đã thay đổi địa vị của Gia-cốp. Giờ đây ông là đầu của gia đình và là người thừa kế những phước hạnh giao ước. Ông không chỉ có được của cải lớn của Y-sác, ông còn thừa kế tất cả những gì có liên quan trong giao ước Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của ông sẽ được biết là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp.
Hoàn toàn có một tương phản giữa ghi chép về gia đình Gia-cốp trong Sa 35:23-26, liệt kê 4 người vợ và 12 con trai, với danh sách dài những người thuộc về Ê-sau, được chép trong chương 36.
Có 6 danh sách, bao gồm các con trai (c.1-14, 20-28), các trưởng tộc (c.15-19, 29-30, 40-43) và các vua (c.31-39); và có vẻ có sự trùng lặp (so sánh c.10-14 với c.15-19, và c.20-28 với c.29-30). Ê-sau có phần về những phước hạnh thuộc thể, nhưng Gia-cốp có những phước hạnh giao ước từ Chúa.
- Sáng-thế ký đoạn 36 là một chương dài chứa đựng nhiều tên, nhưng đó là kết thúc của câu chuyện nói về Ê-sau! Những người Ê-đôm được kể tên trong Cựu-ước chỉ về họ là một phần trong câu chuyện của Y-sơ-ra-ên “Ê-sau” và “Ê-đôm” kẻ thù công khai của dân Do-thái, được đề cập trên 200 lần trong Kinh Thánh, nhưng “Gia-cốp” và “Y-sơ-ra-ên” được tìm thấy trên 2.000 lần! Ê-li-pha con trai của Ê-sau là tổ phụ dân A-ma-léc, và dân A-ma-léc cũng là kẻ thù của Y-sơ-ra-ên (Xu 17:8-16 Dan 14:39-45; Phu 25:17-19; ISa 15:1-35).
- Sáng-thế ký đoạn 37 tiếp tục câu chuyện, không phải về Ê-sau, nhưng về Gia-cốp! “Đây là các thế hệ của Gia-cốp” (Sa 37:2 KJV) là lần thứ mười cho một tuyên bố “thế hệ” trong Sáng-thế ký, và nó giới thiệu câu chuyện của Giô-sép, con trai yêu quý của Gia-cốp. Với tất cả những nhược điểm và lỗi lầm của mình, các con trai Gia-cốp sẽ thực hiện công việc của Đức Chúa Trời trên đất và làm trọn những lời hứa giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham.
Sa 35:23-29; xem giải nghĩa Sa 35:21-22
Sa 36:1-43; xem giải nghĩa Sa 35:23-29
29. NGƯỜI ANH HÙNG BƯỚC VÀO (Sa 37:1-36)
Lời tuyên bố “Đây là các thế hệ của Gia-cốp” (c.2 KJV) cho chúng ta biết rằng chúng ta đang đi vào một phân đoạn mới của sách Sáng-thế ký, sẽ được dành cho Gia-cốp, người mà chúng ta đã gặp trong khi đọc về “các thế hệ của Y-sác” (Sa 25:19 KJV).
Nhưng diễn viên chính trong phần “Gia-cốp” của Sáng-thế ký sẽ là Giô-sép, người được đề cập đến nhiều gấp đôi như cha ông trong 12 chương kế tiếp (1). Gia-cốp sẽ không bị bỏ qua, nhưng Giô-sép là người sẽ chiếm hữu sân khấu trung tâm.
Lịch sử về Giô-sép có thể được đọc ít nhất ở 3 mức độ khác nhau. Nếu chúng ta đọc nó chỉ như văn chương, chúng ta khám phá một câu chuyện đầy hấp dẫn có liên quan đến một người cha lẩm cẩm, một con trai được nuông chiều, mấy người anh ganh tị, một người vợ thâm hiểm, và một cuộc khủng hoảng thực phẩm quốc tế.
Không có gì lạ khi bao thế kỷ qua, các nghệ sĩ sáng tạo đã hướng về câu chuyện này để có cảm hứng. Vào năm 1742, Henry Fielding đã lấy kiểu mẫu người anh hùng của Joseph Andrews theo Giô-sép trong Kinh Thánh, và năm sau đó, Handel đã sản xuất ra vở nhạc kịch Ô-ra-tô Gio-sép.
Hơn 16 năm, nhà văn tiểu thuyết người Đức Thomas Mann đã viết bốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời Giô-sép. Trong thời của chúng ta, chúng ta có nhạc rock cantat “Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat” và bài ca của nó “Any Dream wiil do” (Giấc mơ nào cũng sẽ thành).
Nhưng Sáng-thế ký đoạn 37-50 hơn cả một tác phẩm văn chương kịch nghệ, vì khi bạn thâm nhập sâu hơn, bạn khám phá một câu chuyện phong phú với những ngụ ý thần học sâu sắc. Bàn tay Đức Chúa Trời rõ ràng trong mọi hiện trường, cai trị và tể trị những quyết định do con người thực hiện, và cuối cùng Đức Chúa Trời xây dựng một anh hùng, cứu một gia đình, và tạo ra một dân tộc sẽ đem phước hạnh đến cho cả thế giới. Đằng sau câu chuyện này là tấm lòng của Đức Chúa Trời lập giao-ước, Đấng luôn giữ những lời hứa của Ngài.
Đối với tín hữu Cơ-đốc, có một mức độ thứ ba cho câu chuyện, vì Giô-sép là một trong những sự minh họa phong phú nhất về Chúa Giê-xu Christ được tìm thấy trong Cựu-ước. Giô-sép giống Chúa Giê-xu trong việc ông được cha yêu mến và vâng theo ý muốn cha, bị anh em mình thù ghét và chối bỏ và bị bán làm nô lệ;bị vu cáo và bị phạt cách bất công. Cuối cùng được cất nhắc từ nơi chịu khổ đến một ngôi quyền lực, do đó cứu dân ông khỏi sự chết. Dĩ nhiên, sự khác nhau chủ yếu đó là Giô-sép chỉ được kể lại để rồi chết, còn Chúa Giê-xu đã phó mạng Ngài trên thập tự giá và được khiến sống lại từ cõi chết để cứu chúng ta (2).
- Sáng-thế ký đoạn 37 cho thấy những động lực phá hoại của một gia đình đã biết Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, nhưng vẫn phạm tội nghịch với Ngài và với nhau bằng những điều họ nói và làm. Sự hiện diện của Giô-sép trong gia đình đã không tạo ra những vấn đề mà đúng hơn là bày tỏ chúng. Hãy xem xét những sức lực phá hoại hành động trong gia đình, những sức lực mà Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã tể trị vì ích lợi của họ. Nơi mà tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn (Ro 5:20).
1. Sự thù ghét (Sa 37:1-4)
“Kìa thật tốt đẹp và dễ chịu thay để anh em ở với nhau hòa thuận!” (Thi 133:1 KJV). Nhưng gia đình Gia-cốp đã không hưởng những phước hạnh của sự hiệp nhất, vì gia đình bị phân rẽ ngay từ khởi đầu của nó.
Hai người vợ đầu của Gia-cốp là những đối thủ, và sự thêm vào hai vợ lẽ đã không giảm bớt sự căng thẳng. Khi bạn có trong một gia đình một người cha, bốn người mẹ, và 12 con trai, bạn có những thành phần cho những vấn đề phức tạp. Tiếc thay, Gia-cốp đến từ một gia đình chia rẽ và đem theo mình sự tiêm nhiễm, tại sao các anh ghét Giô-sép nhiều như vậy?
• Giô-sép có sự chính trực (Sa 37:2).
Các con trai của Bi-la là Đan và Nép-ta-li, còn các con trai của Xinh-ba là Gát và A-se, và Giô-sép rõ ràng là người phụ việc hoặc người học nghề của họ, học cách chăm sóc bầy chiên. Không ai biết điều này lúc đó, nhưng Giô-sép đã được định cho những việc lớn hơn, tuy nhiên ông khởi đầu như là một tôi tớ (Mat 25:21).
Không dễ dàng cho Giô-sép làm việc bên cạnh các anh cùng cha khác mẹ của mình, vì cách sống của họ khác với ông. Phải chăng các con trai ăn trộm của cha họ? Họ có liên hệ quá nhiều với cách ăn ở của dân trong xứ chăng? Chúng ta không biết họ đang làm những việc xấu nào, nhưng dù tội lỗi họ là gì, Giô-sép cảm thấy rằng cha của họ cần biết điều đó. Giô-sép cũng biết việc những người anh khác đang làm và báo cáo việc ấy với Gia-cốp.
Giô-sép có quyền thông báo về các anh mình chăng? Chúng ta luôn tôn trọng ông về tính cách của ông, nhưng trong thời trẻ tuổi, ông chỉ là một cậu bé mách lẻo chăng? Ông chắc chắn không có quyền hạn gì trên các anh mình và không chịu trách nhiệm về hành vi của họ, và ông ở trong đồng để làm việc với họ, chớ không phải để theo dõi họ.
Những sự kiện theo sau chứng tỏ rằng khi còn nhỏ, Giô-sép đã có trí khôn và sự sáng suốt. Do đó bất cứ điều gì các anh của ông làm chắc hẳn hết sức gian ác, nếu không thì Giô-sép sẽ không đề cập việc ấy với cha ông. Có lẽ Gia-cốp nghi ngờ rằng các con trai của ông đang làm những việc ác và hỏi Giô-sép điều ông biết. Cậu bé chắc chắn sẽ không nói dối với cha, và khi Gia-cốp nói chuyện với các con trai ông về hành vi của họ, những người này biết ngay ai là người thông báo.
• Giô-sép là con trai yêu quý (Sa 37:3-4).
Đã kinh nghiệm những hậu quả đáng buồn của tính thiên vị trong gia đình mình thời thơ ấu (Sa 25:28) và suốt những năm ở với La-ban (Sa 29:30), Gia-cốp lẽ ra phải có ý thức hơn là chọn Giô-sép và nuông chiều ông. Nhưng Giô-sép là con trai của Ra-chên vợ yêu quý của ông, và lòng người đôi lúc đùa giỡn với tâm trí và khiến cho người ta làm những việc kỳ lạ. Như Pascal đã viết trong tác phẩm “Pensees” của ông: “Tấm lòng có những lý lẽ của nó mà lý lẽ không thể biết”. Tuy nhiên, đó vẫn không phải là cách khôn ngoan nhất để quản lý gia đình.
Chúng ta không thể biết chắc “áo choàng nhiều sắc” nổi tiếng thật sự ra sao (Sa 37:3 KJV) mặc dù “áo choàng trang trí lộng lẫy” (NIV) có thể là một cách dịch tốt. Ngoài c.23 và 32, nơi khác duy nhất mà từ Hê-bơ-rơ được tìm thấy trong Cựu-ước là ở IISa 13:18 mô tả quần áo của con gái vua. “Áo choàng của Giô-sép dài đến mắt cá và có tay áo dài. Đó là bộ áo sang trọng của một vị vua chớ không phải là cái mà người chăn chiên ăn mặc đẹp cần có trong đồng ruộng.”
Tuy nhiên Gia-cốp nghĩ đến điều gì đó quan trọng hơn thời trang khi ông ban cho Giô-sép chiếc áo đặc biệt này. Đó có lẽ là cách ông cho gia đình biết rằng Giô-sép đã được chọn để làm người thừa kế của ông. Ru-bên đã để mất địa vị trưởng nam vì tội lỗi của ông với Bi-la (Sa 35:22) và Si-mê-ôn con trai thứ hai có dính líu với Lê-vi trong việc tàn sát những người nam thành Si-chem.
Hơn nữa, 4 con trai đầu của Gia-cốp có Lê-a là mẹ của họ, và Gia-cốp đã không có ý định cưới Lê-a. Ý định hoàn toàn trong lòng ông là cưới Ra-chên, nhưng La-ban đã đánh lừa ông. Gia-cốp có lẽ đã lý luận: “Trước mặt Đức Chúa Trời Ra-chên là vợ đầu tiên của tôi, và Giô-sép là con trưởng của nàng. Vì vậy Giô-sép có quyền được đối xử như con trưởng nam”.
Nếu đây là cách các anh nhìn xem cốt chuyện, vậy không có gì ngạc nhiên khi họ ghét Giô-sép. Gia-cốp biết những cảm nghĩ thật của họ và thậm chí nêu lên điều đó khi ông ở trên giường hấp hối. “Những kẻ bắn cung đã làm người hết sức buồn rầu (Giô-sép), bắn vào người và thù ghét người” (Sa 49:23 KJV).
Sự thù ghét là một tội lỗi gớm ghiếc vì nó sinh ra những tội lỗi khác: “Sự thù ghét khơi lên mối bất đồng, nhưng tình yêu thương khỏa lấp mọi điều sai trái” (Ch 10:12). “Kẻ nào nói mình ở trong sự sáng, mà ghét anh em mình, thì còn ở trong sự tối tăm” (IGi 2:9). Sự thù ghét ở trong lòng tương đương với tội giết người về mặt đạo đức (Mat 5:21-26). “Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người, anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình” (IGi 3:15).
2. Sự đố kỵ (Sa 37:5-11)
Tác giả của một cuốn sách sổ tay người truyền giáo thế kỷ 14 đã viết rằng sự đố kỵ là “đứa con gái quý giá nhất của ma quỷ vì nó đi theo bước chân của ma quỷ bằng cách cản trở điều tốt và đề xướng điều xấu.” Tác giả có thể nói thêm rằng đố kỵ có một em gái tên là hiểm độc, và cả hai thường làm việc với nhau (Tit 3:3 IPhi 2:1).
Đố kỵ gây ra nỗi đau bên trong khi chúng ta nhìn thấy người khác thành công, và hiểm độc tạo ra sự thỏa mãn bên trong khi chúng ta nhìn thấy người khác thất bại. Sự đố kỵ và hiểm độc thường sinh ra sự vu cáo và sự chỉ trích không lý do xác đáng; và khi hai tội lỗi này ẩn đằng sau bức màn của sự nhiệt tình tôn giáo và sự công bình riêng, chất độc chúng tạo ra thậm chí gây chết người hơn nữa.
Nhà hài hước người Anh Max Beerbohm đã nói: “Người nào cứ kể giấc mơ của mình thì ở giữa những sự kinh hãi nơi bàn ăn”. Giô-sép có nên kể những giấc mơ của mình cho gia đình, hay đây chỉ là bằng chứng khác về sự chưa trưởng thành ở tuổi vị thành niên của ông?
Hai giấc mơ đã không khỏi gây bực tức cho gia đình và khiến mọi việc tồi tệ hơn đối với ông.
Xét cho cùng, làm sao Giô-sép có thể trở thành một người cai trị, và tại sao các anh của ông sẽ quỳ trước mặt ông? Toàn bộ sự việc là phi lý. Khi Giô-sép thuật lại giấc mơ thứ hai, cả cha ông cũng nổi giận và quở trách ông (5), nhưng một cách kín đáo, Gia-cốp đã suy gẫm những giấc mơ này. Xét cho cùng, Gia-cốp đã nhận những sứ điệp từ Đức Chúa Trời trong những giấc mơ (Sa 28:12 Sa 31:1-13). Vì vậy có thể chính Chúa là Đấng đã phán với Giô-sép.
Có thể Giô-sép có tính ngoại giao hơn trong cách ông thuật lại những giấc mơ của mình, nhưng chắc chắn ông đúng trong việc chia sẻ chúng với gia đình. Đây không phải là “sự nhiệt tình tuổi trẻ; đó là ý muốn của Đức Chúa Trời.” Nếu các anh trai chú ý đến hai giấc mơ này, họ có thể đã được chuẩn bị tốt hơn cho điều này đến với họ 20 năm sau đó. Nếu Gia-cốp đã nắm ý nghĩa của những giấc mơ, ông có thể có đức tin để tin rằng Giô-sép vẫn sống và ông sẽ gặp lại người. Dĩ nhiên, vì chúng ta biết kết thúc của câu chuyện, thật dễ dàng cho chúng ta phê phán.
Đức Chúa Trời có phán với chúng ta ngày nay trong những giấc mơ không? Hay chúng ta có được sự hướng dẫn chỉ từ Thánh Linh Đức Chúa Trời sử dụng Lời Đức Chúa Trời khi chúng ta cầu nguyện và tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời? Trong Cựu-ước, bạn tìm thấy một số lượng đáng kể về những sự truyền thông thiêng liêng qua những giấc mơ, đối với tín hữu và cả người không tin, nhưng đây dường như không phải là một quy tắc đối với Cơ-đốc nhân thời Tân-ước ngày nay.
Đức Chúa Trời truyền thông qua những giấc mơ khi Ngài hướng dẫn Giô-sép chồng của Ma-ri (Mat 1:20-25; Mat 2:12-13, 19-22), nhưng không có bằng chứng nào cho thấy có bất cứ ai khác trong các sách Phúc-Âm hay sách Công-vụ từng nhận được sự hướng dẫn thiêng liêng qua những giấc mơ.
Khi người ta tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã ban những giấc mơ để dạy dỗ và hướng dẫn họ, hay dạy dỗ người khác thì chúng ta cần thận trọng, vì những giấc mơ có thể tự gây ra hoặc thậm chí bị Sa-tan tác động (Gie 23:25-28).
Những nhà truyền đạo đã cho chúng ta biết về những người họ gặp có mối quan tâm đầu tiên đến Đấng Christ và Kinh Thánh đều qua những giấc mơ, nhưng chính Lời Đức Chúa Trời cuối cùng đem Chúa Cứu Thế đến với họ. Chắc chắn Đức Chúa Trời tể trị và có thể sử dụng những giấc mơ để thực hiện ý muốn Ngài nếu không có phương tiện nào sẵn có, nhưng cách thông thường của Ngài để truyền thông là bởi Thánh Linh dạy dỗ Lời Ngài (Gi 14:25-26; Gi 16:12-13).
Trong tương lai, Giô-sép có liên quan trong việc giải nghĩa giấc mơ của những người khác (Sa 40:1-41:37), nhưng không có dấu hiệu rằng ông hiểu hai giấc mơ của mình lúc đó. Khi ông chờ đợi trong tù, chắc chắn ý nghĩa của những giấc mơ đã trở nên rõ ràng hơn và khích lệ ông (Thi 105:16-23).
Hiểu kế hoạch của Đức Chúa Trời giúp ban cho ông sự hướng dẫn trong những cách cư xử của ông với các anh trai.
Kết quả tức thời của việc Giô-sép chia rẽ những giấc mơ của ông đó là các anh của ông thù ghét ông nhiều hơn và cũng đố kỵ ông trong lòng họ. Ông là người cha ông yêu mến, được chọn để nhận những phước hạnh của con trưởng nam, mặc một chiếc áo đặc biệt, và giờ đây là người nhận những giấc mơ kỳ lạ. Tại sao ông đặc biệt như vậy? Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?
3. Bạo lực (Sa 37:12-18)
Sự đố kỵ là một trong những việc làm của xác thịt xuất phát từ lòng người tội lỗi (Mac 7:22 Ga 5:21). Vì sự đố kỵ của họ, các anh của Giô-sép đã bán ông cho các thương buôn (Mat 27:18 Mac 15:10) để có sự tượng tự với những sự chịu khổ của Đấng Christ). Sự thù ghét gia tăng của họ tương được với tội giết người (Mat 5:21-26), và dù họ không thật sự giết Giô-sép bằng đôi tay của họ, một vài người trong số họ đã làm việc này nhiều lần trong lòng.
• Những câu hỏi (Sa 37:12-17).
Khi chúng ta đọc phân đoạn này, có nhiều câu hỏi lóe lên trong trí.
-Trước hết, tại sao các con trai Gia-cốp chăn bầy chiên xa nhà 50 dặm khi chắc chắn có đồng cỏ tốt sẵn dùng ở gần Hếp-rôn? Câu trả lời hợp lý: Họ không muốn bất cứ ai ở gia đình theo dõi họ.
-Câu hỏi thứ 2: Tại sao họ trở lại khu vực nguy hiểm gần Si-chem khi gia đình Gia-cốp đã có một tiếng xấu như thế giữa vòng thị dân ở đó? (Sa 34:30). Câu trả lời gợi ý: Các anh em có liên quan với những người trong xứ ở những phương diện mà họ không muốn Gia-cốp biết.
-Nhưng có một câu hỏi thứ 3 thậm chí gây bối rối hơn: Biết rằng các con trai của mình ghét Giô-sép, tại sao Gia-cốp sai người đi gặp các anh một mình và mặc chiếc áo đặc biệt gây bực mình cho họ quá nhiều? Một trong các đầy tớ tin cẩn của Gia-cốp có thể thực hiện nhiệm vụ tương tự này nhanh hơn (Giô-sép đã bị lạc) và có lẽ càng hiệu quả.
Câu trả lời đó là: bàn tay định liệu của Đức Chúa Trời đang hành động để hoàn thành những mục đích thiêng liêng của Ngài cho Gia-cốp cùng gia đình ông, và cuối cùng cho cả thế giới. Ngài sai một người đi trước họ, thậm chí là Giô-sép, người bị bán làm tôi mọi” (Thi 105:17 KJV). Đức Chúa Trời định rằng Giô-sép sẽ đi đến Ê-díp-tô, và đây là cách Ngài thực hiện điều đó.
• Âm mưu (Sa 37:18-24).
Có lẽ Giô-sép mất 3 ngày để đi từ Hếp-rôn đến Si-chem, nhưng khi ông đến đó, ông biết rằng các anh của ông đã đi 13 dặm về hướng Bắc đến Đo-ta-in, nghĩa là phải thêm một ngày đường nữa. Khi ông bước vào tầm nhìn của họ, họ lập tức nhận ra ông từ xa (ông đang mặc chiếc áo đặc biệt của mình) và bắt đầu thực hiện kế hoạch của họ.
Sự liên kết giữa thù ghét và đố kỵ gây chết người. Nó nhen nhóm trong lòng và chờ tia lửa sẽ làm bật tiếng nổ. Các anh em không cần phải bị cám dỗ để quyết định hại Giô-sép. Tất cả những gì họ cần là cơ hội, và nó không lâu đã đến. Câu nói chế nhạo của họ “Kìa, thằng nằm mộng đến kìa!” (c.19) có thể được dịch “Kìa, chuyên gia giấc mơ đến!”. Trong hoàn cảnh này, những giấc mơ của Giô-sép đưa ông vào hoạn nạn, nhưng 13 năm sau, giấc mơ của những người khác đưa ông ra khỏi hoạn nạn. “Sự phán xét của Ngài (Đức Chúa Trời) nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (Ro 11:33).
Người anh nào trước tiên đã đề nghị họ giết ông? Đó không phải là Ru-bên, vì ý kiến của ông là họ quăng Giô-sép vào một hố nước cạn.
Ru-bên định trở lại và cứu em mình, nhưng dù ông thành công, làm sao ông có thể đem Giô-sép về nhà? Gia-cốp chắc chắn sẽ biết sự thật về các con trai ông, và phản ứng của ông sẽ tạo thêm vấn đề trong gia đình. Việc Ru-bên bảo vệ Giô-sép khỏi sự chết là đáng khen, đặc biệt là khi Giô-sép đã thay thế chức vị con trưởng nam của ông (ISu 5:1 Lãnh đạm ISu 5:23-28) việc các anh lột chiếc áo đặc biệt của Giô-sép và ném ông xuống hố nước cạn hẳn phải đem lại cho họ sự thỏa mãn lớn. Các hồ nước thường sâu có khe hở dài hẹp, sẽ quá cao đối với “tù nhân để với tới. Để thoát ra, bạn cần ai đó dòng xuống một sợi dây xuống và kéo bạn lên” (Gie 38:1-28).
Thật khó hiểu làm sao những người này có thể ngồi xuống và bình tĩnh dùng bữa trong khi em trai họ đang chịu khổ và nài xin họ trả tự do cho mình (Sa 42:21). Tuy nhiên, những trái tim đã bị làm chai cứng bởi sự thù ghét và bị tẩm độc bằng những tư tưởng giết người dường như không để ý nhiều đến những tiếng kêu khóc của nạn nhân họ. Nhưng lúc đó, hãy nghĩ đến điều mà dân tộc của Chúa chúng ta đã làm cho Ngài! Tất cả chúng ta đều có thể có tiềm năng làm điều các anh của Giô-sép đã làm, vì “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?” (Gie 17:9).
Ngay khi đó, những người này phát hiện ra một đoàn thương buôn Ma-đi-an đi ngang qua đồng và điều này cho Giu-đa một ý kiến. Họ có thể bán em mình làm nô lệ, và cùng lúc có thể loại bỏ người em và lại kiếm được chút tiền. Vì bất cứ ai bị đem đến Ai-cập và bị bán làm nô lệ thì hầu như không thể có được sự tự do và trở về nữa, thật chẳng có nguy cơ nào cho âm mưu của họ sẽ bị khám phá. Họ quên rằng Đức Chúa Trời đang theo dõi và vẫn nắm quyền điều khiển. Gia-cốp đã hưởng những phước hạnh của giao ước và điều này khiến ông trở nên một người rất đặc biệt trước mặt Đức Chúa Trời. Chúa có những mục đích thiêng liêng của Ngài để thực hiện, và “Chẳng có sự khôn ngoan nào, sự thông minh nào, hay là mưu kế nào mà chống địch Đức Giê-hô-va được” (Ch 21:30).
Bắt đầu bằng tội Ca-in giết A-bên, “sự vô nhân đạo của con người với con người” (10) được ghi lại một cách đau buồn trong cả lịch sử Kinh Thánh và thế tục. Chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và chúng ta thuộc về cùng một gia đình loài người nhưng chúng ta dường như không thể hòa thuận với nhau. Mọi sự từ những mối thù hận gia đình việc những vụ trúng số cho đến những cuộc nội chiến bị đổ lỗi cho những vết thương cũ, đều là bằng chứng rằng thế giới hết sức cần một Chúa Cứu Thế, Đấng duy nhất có thể đổi mới những tấm lòng.
4. Sự lừa dối (Sa 37:29-36)
Ru-bên đã vắng mặt khi các anh em của ông bán Giô-sép có lẽ ông đang lo cho vấn đề nào đó với bầy chiên. Có thể ông cố tình vắng mặt để họ sẽ không nghi ngờ kế hoạch kín giấu của ông. Khi ông đi đến hố nước, ông ngạc nhiên thấy rằng Giô-sép đã mất. Vì vậy ông vội vã trở về trại để khám phá điều gì đã xảy ra. Chắc chắn thái độ và những hành động của ông đã cho các anh em của ông thấy rõ những thông cảm của ông dành cho Giô-sép, vì ông xé quần áo mình như một người than khóc.
“Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không thịnh vượng” (Ch 28:13 NKJV) là luật không đổi của Đức Chúa Trời, nhưng con người vẫn nghĩ mình có thể bất chấp nó và thoát được những hậu quả. Trong vòng các con trai của Gia-cốp, tội lỗi này đã dẫn đến tội lỗi khác khi những người này bịa đặt chứng cớ khiến cho họ nghĩ rằng Giô-sép đã chết, bị giết bởi một dã thú. Gia-cốp sẽ không có khó khăn gì khi nhận diện chiếc áo đặc biệt, và ông sẽ không có cách nào để kiểm tra máu. Đây là sự lừa dối thật bi thảm và không thể ngờ được, Gia-cốp đang gặt những gì chính ông đã gieo. Nhiều năm trước, ông đã giết một dê con để lừa dối cha mình (Sa 27:1-17). Và giờ đây chính các con trai của ông đang đi theo dấu chân ông.
H. C. Leupold đã dịch câu 32 “và họ đã gởi cái áo choàng dài tay đem về cho cha mình”. Không có thiện ý giáp mặt riêng với cha mình các anh em sai một đầy tớ đến với Gia-cốp để cho ông thấy “bằng chứng” và nói dối với ông điều họ đã dựng lên. Đây là một cách tàn bạo để đối xử với cha họ, nhưng “lòng thương xót của kẻ dữ khác nào sự hung bạo” (Ch 12:10).
Có xu hướng đi đến kết luận vội vàng (Sa 32:6-8), Gia-cốp chấp nhận bằng chứng này, tin câu chuyện, và kết luận rằng Giô-sép thật sự đã chết. Ông bước vào sự than khóc sâu sắc, và 20 năm sau vẫn đau khổ về cái chết của Giô-sép (Sa 42:36). Gia đình ông đã tìm cách an ủi ông nhưng vô ích. Con trai yêu quý của ông đã chết, và Gia-cốp sẽ mang theo mình sự đau khổ xuống mồ.
Nhiều năm sau, Gia-cốp sẽ than vãn “Tất cả mọi điều này nghịch với tao!” (Sa 42:36 KJV). Khi thật sự tất cả những điều này có lợi cho ông (Ro 8:28). Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời tán thành sự thù ghét của các anh em hoặc sắp đặt sự lừa dối, hay họ không chịu trách nhiệm về điều họ đã làm. Nó thật sự có nghĩa rằng Đức Chúa Trời của chúng ta vĩ đại đến nỗi Ngài có thể thực hiện những mục đích của Ngài dù khi con người đang làm điều tồi tệ nhất. Gương mẫu vĩ đại nhất về điều này là Đồi Gô-gô-tha (Công 3:12-26). Nhiều năm sau Giô-sép sẽ nói: “Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm điều ích cho tôi” (Sa 50:20).
Đức Chúa Trời đã đem Giô-sép đến Ai-cập an toàn cách thần hựu và biết chắc ông được bán cho một trong các quan trưởng của Pha-ra-ôn.
Phô-ti-pha được gọi là “quan thị vệ” (Sa 37:36) gợi ý rằng ông làm đầu vệ sĩ riêng của Pha-ra-ôn và đảm trách về những cuộc thi hành án chính thức. Nhưng điều quan trọng không phải là việc Giô-sép được liên kết với một người quyền lực như thế ở Ai-cập. Điều quan trọng đó là “Chúa ở cùng Giô-sép và ông thạnh lợi” (Sa 39:2).
Những công việc về sự định liệu của Đức Chúa Trời thật sự đáng sợ, và đây phải là một nguồn khích lệ lớn cho chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn của đời sống “Ngài làm theo ý mình bằng những quyền lực trên trời và các dân trên đất. Chẳng ai có thể cản tay Ngài và nói với Ngài. “Ngài làm chi vậy!” (Dan 4:35).
Gia-cốp và Giô-sép chưa bao giờ đọc Ro 8:28 nhưng họ kinh nghiệm lẽ thật của nó và thấy điều mà bàn tay Đức Chúa Trời có thể làm. Nếu những lời hứa có lợi cho họ, chúng sẽ có lợi cho chúng ta ngày nay, vì Đức Chúa Trời và Lời Ngài không thay đổi.
30. PHẦN CHUYỂN TIẾP: GIU-ĐA VÀ TA-MA (Sa 38:1-30)
Những sự kiện trong chương này dường như làm gián đoạn câu chuyện, nhưng thật sự chúng xảy ra suốt thời kỳ “câu chuyện Giô-sép”. Giô-sép được 17 tuổi khi ông bị bán, và 30 tuổi khi ông được cất nhắc lên ngôi, cho chúng ta 13 năm. Khi bạn thêm 7 năm dư dật và 2 năm đói kém, bạn có 22 năm trước khi Giô-sép làm hòa với các anh của ông. Đó là thời gian dài để Giu-đa cưới vợ, sinh 3 con trai, chôn 2 con trai và một người vợ, rồi có quan hệ với Ta-ma. Nếu hôn nhân của ông xảy ra trước sự lưu đày của Giô-sép, bạn thậm chí có nhiều thời gian hơn.
Tại sao câu chuyện này nằm ở đây?
• Lịch sử.
Một trong những mục đích chính của Sáng-thế ký là để ghi lại nguồn gốc và sự phát triển của gia đình Gia-cốp, người sáng lập ra 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên đã đi xuống Ê-díp-tô như một gia đình đông người, và 4 thế kỷ sau đó họ ra khỏi Ê-díp-tô là một dân tộc lớn. Vì chi phái Giu-đa là chi phái nhà vua mà từ đó Đấng Mê-si-a sẽ đến (Sa 49:10), bất cứ điều gì có liên quan đến Giu-đa đều quan trọng đối với câu chuyện trong Sáng-thế ký. Nếu không có chương này, bạn sẽ ngạc nhiên khi tìm thấy Ta-ma và Pha-rê trong gia phổ của Chúa chúng ta (Mat 1:3). Pha-rê là một tổ tiên của vua Đa-vít (Ru 4:18-22) và do đó là một tổ tiên của Chúa Giê-xu Christ (Mat 1:1).
• Đa-vít.
Nhưng chương này cũng có một số giá trị thực tiễn. Trước hết, nó bày tỏ thật nguy hiểm thể nào để dân sự Đức Chúa Trời ở trong xứ với dân Ca-na-an. Luôn có sự cám dỗ để sống giống như những láng giềng của bạn thay vì giống dân sự Đức Chúa Trời.
Cũng có một sự tương phản kịch tính giữa Giu-đa và Giô-sép, Giô-sép đã từ chối thỏa hiệp với vợ của Phô-ti-pha (Sa 39:7-20), nhưng Giu-đa đã ngẫu hứng ngủ với một người đàn bà xa lạ mà ông nghĩ là một kỵ nữ. Chúng ta cũng thấy “mùa gặt” tiếp tục trong gia đình bởi sự lừa dối. Gia-cốp đã dùng một chiếc áo để lừa dối cha mình là Y-sác, còn Giu-đa và các anh em của ông đã dùng một chiếc áo để lừa dối Gia-cốp (Sa 37:32). Giờ đây, Ta-ma dùng một chiếc áo để lừa dối Giu-đa (Sa 38:14). Chúng ta gặt những gì mình gieo.
• Cộng đồng giao-ước.
Giu-đa đã tự đưa mình vào rắc rối khi ông phân rẽ khỏi anh em mình và bắt đầu làm bạn với dân Ca-na-an trong xứ. Giống như Sam-sôn, ông thấy một người nữ ông thích và lấy nàng làm vợ (c.2 Cac 14:1-20). Cả Áp-ra-ham và Y-sác đều cẩn thận để bảo đảm rằng các con trai của họ không cưới những người nữ trong xứ hầu cho “dòng dõi được chọn” của Y-sơ-ra-ên không bị ô uế bởi sự thờ hình tượng và sự đồi bại (Sa 24:3-4 Sa 28:1-4). Các anh em của Giu-đa đang làm những điều mà cha họ không tán thành, nhưng Giu-đa ở với họ vẫn an toàn hơn ở với dân trong xứ. Ít nhất sự hiện diện của họ nhắc nhở Giu-đa rằng ông là một đứa con của giao-ước (Ro 12:1-2; IICo 6:14-7:1).
• Ân điển.
Câu chuyện về các trưởng tộc trong Sáng-thế ký nhắc nhở chúng ta về ân điển của Đức Chúa Trời và quyền tối cao của Ngài trong đời sống con người. Những người nam người nữ đóng một vai trò trong vở kịch quan trọng này, đều không trọn vẹn, và một số người đã cố tình bất tuân; Nhưng Chúa đã sử dụng họ để thực hiện những mục đích của Ngài.
Điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời tán thành những tội lỗi của họ, vì những tội lỗi của họ cuối cùng đã bị bày tỏ và xét đoán. Nhưng nó thật sự có nghĩa là Đức Chúa Trời có thể sử dụng những sự yếu đuối của thế gian này để thực hiện những mục đích của Ngài (ICo 1:26-31).
Giờ đây hãy trở lại với câu chuyện của Giô-sép.
31. CHÚA TẠO MỘT SỰ KHÁC BIỆT (Sa 39:1-41:56)
Ai-cập nơi Giô-sép thấy mình ở đó chủ yếu là một xứ có nhiều ngôi làng nhỏ được định cư bởi những nông dân cày cấy đất và trồng lúa với rau. Nhờ vào hệ thống tưới tiêu, cơn lụt hằng năm của sông Nile đã cung cấp nước dồi dào cho mùa màng và gia súc. Có một số thành phố lớn như Ôn (Hieropolis), nơi thần mặt trời Ra được tôn trọng, và Memphis được dành cho Apis, thần bò, nhưng đa số cư dân sống trong những ngôi làng nhỏ.
Đó cũng là một quốc gia bị trói buộc bởi sự mê tín tôn giáo. Dân sự nhận biết ít nhất 2000 vị thần và nữ thần, kể cả chính Pha-ra-ôn; và sự nhấn mạnh đặc biệt là về việc chuẩn bị cho đời sau khi thần Osiris sẽ xét đoán những việc làm của con người. Theo một ý nghĩa rất thực, Ai-cập là một xứ được dành cho sự chết cũng như sự sống.
Dân Ai-cập là dân xây dựng lớn, và các quan trưởng bắt nhập ngũ cả những nô lệ lẫn công dân của họ vì những dự án xây dựng đồ sộ. Trong khi thường dân sống trong những ngôi nhà gạch đất, thì những kiến trúc quan trọng được xây bằng đá (một số kim tự tháp chứa đựng các viên đá nặng bằng 15 tấn). Chính thể là một bộ máy quan liêu lớn với nhiều quan chức ở các cấp bậc khác nhau và hằng ngàn học giả giữ những ghi chép.
Các thầy tế lễ và nhà thông thái Ai-cập đã nghiên cứu trời và đất, phát triển một lịch hệ mặt trời 365 ¼ ngày, và trở nên nổi tiếng về y học của họ. Họ cũng hoàn chỉnh nghệ thuật ướp xác. Dân Ai-cập có ngựa và xe ngựa, và họ biết nghệ thuật về chiến tranh.
Có nhiều nô lệ người Xê-mít giống như Giô-sép ở Ai-cập, nhưng Giô-sép rất đặc biệt vì Chúa ở cùng ông (Sa 39:2-3). Do Chúa ở cùng Giô-sép nên ông là một người của sự hoàn thành, nhưng điều Giô-sép đã hoàn thành chúng ta cũng có thể hoàn thành nếu chúng ta tin cậy Chúa và tìm cách tôn trọng Ngài giống như ông đã làm.
1. Chia sẻ phước hạnh của Đức Chúa Trời (Sa 39:1-6)
Khi ở trong gia đình tại Hếp-rôn, các anh của Giô-sép xem ông là một kẻ gây rối, nhưng ở Ai-cập ông là một nguồn phước vì Đức Chúa Trời ở cùng ông. Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng con cháu người sẽ đem phước hạnh đến cho các dân tộc khác (Sa 12:1-3) và Giô-sép đã thực hiện lời hứa đó ở Ai-cập. Giống như người được chúc phước trong (Thi 1:1-6), mọi sự ông làm đều thạnh lợi (Thi 1:3 Gios 1:8).
Giô-sép là một tấm gương tốt của một tín hữu tin cậy Đức Chúa Trời và sử dụng điều tốt nhất trong những hoàn cảnh khó khăn của mình.Ông chưa bao giờ đọc điều Giê-rê-mi viết cho những phu tù ở Ba-by-lôn (Gie 29:7) hay điều Phi-e-rơ đã viết cho các Cơ-đốc nhân bị tản lạc trong Đế quốc La-mã (IPhi 2:13-20), nhưng ông chắc chắn đã đặt những sự dạy dỗ đó vào thực tiễn. Giô-sép thích ở nhà hơn, nhưng ông đã sử dụng điều tốt nhất trong những hoàn cảnh của mình ở Ai-cập, và Đức Chúa Trời đã chúc phước cho ông.
Sự chúc phước của Chúa rất rõ ràng đối với những người trong gia đình của Phô-ti-pha, và họ biết rằng Giô-sép là nguyên nhân “Chúa ban phước cho nhà người Ai-cập vì cớ Giô-sép” (Sa 39:5 KJV), như Đúc Chúa Trời đã ban phước cho nhà La-ban vì cớ Gia-cốp (Sa 30:27, 30). Phô-ti-pha dần dần giao trách nhiệm nhiều hơn cho Giô-sép cho đến khi Giô-sép thật sự coi sóc cả nhà, ngoại trừ vật thực Phô-ti-pha ăn.
Giô-sép được những người trong nhà Phô-ti-pha yêu thích, và giữa Ai-cập ngoại đạo thờ hình tượng. Giô-sép là một lời chứng cho Đức Chúa Trời chân thật hằng sống. Ông là một người làm việc thành thật và trung tín, nên những người ông cùng sống làm việc đều nhận sứ điệp này. Đức Chúa Trời chú ý đến tính cách về hạnh kiểm của Giô-sép, và khiến ông trở nên một phước hạnh; và Giô-sép hoàn toàn không biết, Đức Chúa Trời có kế hoạch làm ứng nghiệm những giấc mơ Ngài ban cho ông. “Con có thấy người nào xuất sắc trong công việc mình chăng? Người ấy sẽ đứng trước mặt các vua; người ấy sẽ không đứng trước mặt những kẻ vô danh” (Ch 22:29 NKJV).
Nhưng sự phục vụ trung thành của ông không chỉ là một phước hạnh cho gia đình này, nó cũng là một phước hạnh cho chính Giô-sép. Nếu ông ở nhà với người cha nuông chìu của ông, Giô-sép không thể phát triển tính cách đến từ sự làm việc chăm chỉ và vâng theo những mệnh lệnh. Phương pháp của Đức Chúa Trời để xây dựng chúng ta là ban cho chúng ta một công việc để làm và người để vâng lời. Ngài thử nghiệm chúng ta với tư cách những tôi tớ trước khi Ngài cho phép chúng ta thực hiện quyền hạn, chúng ta phải ở dưới quyền hạn và học vâng lời.
Sự mô tả về Giô-sép trong Sa 39:6 dọn đường cho tình tiết có liên quan đến vợ của Phô-ti-pha. Giô-sép không chỉ tin kính, đáng tin cậy và có năng lực, ông còn tuấn tú và đáng yêu những đặc điểm ông thừa hưởng từ mẹ mình (Sa 29:17).
2. Chiến thắng cám dỗ (Sa 39:7-20)
Giô-sép đã chịu khổ trong một cái hố vì cớ sự thù ghét của các anh ông, nhưng giờ đây ông sẽ đối diện với một nguy hiểm thậm chí lớn hơn vì cớ sự dâm dục của một người đàn bà gian ác. “Vì kỵ nữ vốn là một cái hố sâu, và dâm phụ là một cái hầm hẹp” (Ch 23:27).
Vợ của Phô-ti-pha đã đối xử với Giô-sép một cách hèn hạ bằng việc mời ông lên giường bà. Bà có thể đã lý luận “Xét cho cùng, hắn chẳng phải là một người Do-thái và là một nô lệ hay sao? Và chẳng phải hắn làm việc cho chồng ta, do đó cũng làm việc cho ta đó sao? Vì chồng ta không có ở đây, nên ta chịu trách nhiệm: Còn Giô-sép là người làm thuê của ta. Công việc của hắn là thực hiện những mệnh lệnh”. Bà đối xử với Giô-sép như một đồ vật, không giống một con người, và khi những lời tán tỉnh của bà bị cự tuyệt bà trở nghịch với ông.
Cho dù con người nói nhiều thế nào về “tình yêu” và bảo vệ tình dục ngoài hôn nhân, kinh nghiệm này là sai lầm, thấp hèn và mất danh giá. Tội ngoại tình và tà dâm thay đổi một con sông tinh khiết thành một cái cống và biến người tự do thành kẻ nô lệ và rồi thành con vật (Sa 5:15-23 7:21-23).Điều bắt đầu như “sự ngọt ngào” chẳng bao lâu biến thành chất độc (Sa 5:1-14). Giô-sép sẽ không hy sinh sự tinh sạch hay sự chính trực của ông để làm hài lòng vợ của chủ mình.
Phải mất nhiều can đảm và cương quyết để Giô-sép chống lại cuộc chiến này từng ngày, nhưng ông đã thành công. Ông giải thích với bà lý do ông sẽ không hợp tác:
(1) Bà là vợ của người khác, và người đó là chủ của ông;
(2) Ông được chủ tin cậy và không muốn xúc phạm sự tin cậy đó;
(3) Dù không ai khác phát hiện về điều đó, nhưng Đức Chúa Trời sẽ biết và không đẹp lòng. Tất cả những gì bà yêu cầu là một giây phút khoái lạc, nhưng đối với Giô-sép, đây là một sự gian ác lớn nghịch với Đức Chúa Trời (Sa 39:9).
Vợ của Phô-ti-pha có thể đã sắp xếp để các đầy tớ khác tránh mặt vào ngày bà mở cuộc tấn công lớn nhất của mình, nhưng đồng thời bà cũng bảo đảm họ ở gần ngay đó đủ để bà gọi họ xem áo của Giô-sép. Có những lúc khi chạy trốn có thể là một dấu hiệu của sự hèn nhát (Thi 11:1-2 Ne 6:11)nhưng cũng có những lúc khi chạy trốn là một chứng cớ của sự can đảm và tính chính trực. Giô-sép đủ khôn ngoan để làm theo lời khuyên tương tự mà Phao-lô dành cho Ti-mô-thê “Hãy chạy trốn những ham muốn xấu xa của tuổi trẻ” (IITi 2:22).
Sự tự chủ là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng tính cách và chuẩn bị cho chúng ta chức lãnh đạo. “Người nào chẳng chế trị lòng mình, khác nào một cái thành hư nát, không có vách ngăn” (Ch 25:28). Khi không có vách ngăn, bất cứ điều gì cũng có thể đi vào hoặc đi ra. Giô-sép đã thực hành sự tự chủ, nhưng Sam-sôn đã sử dụng thân thể mình để làm thỏa mãn những thú vui của riêng mình; và Giô-sép đã đi đến chỗ cai trị trên ngôi, trong khi Sam-sôn kết thúc đời mình bị chôn vùi trong một đống gạch vụn (Cac 16:23-31).
Lần thứ 2 trong đời mình, Giô-sép đánh mất một chiếc áo (Sa 39:12 Sa 37:23), nhưng như mục sư phái Thanh giáo đã nói: “Giô-sép đã đánh mất cái áo choàng của ông nhưng ông giữ được tính cách mình”. Trong lúc Phô-ti-pha có liên quan trong lĩnh vực tòa án của Ai-cập vì sao ông không tìm cách xét xử Giô-sép hay thậm chí xử án ông. Dĩ nhiên, Đức Chúa Trời đã nắm quyền điều khiển thực hiện mục đích kỳ diệu của Ngài cho Giô-sép, Ai-cập, gia đình Giô-sép và thế giới.
3. Chịu sự bất công (Sa 39:7-20) (Sa 39:21-40:23)
Một lần nữa, chính Chúa là Đấng làm thay đổi. Dù Giô-sép là một quản gia trong nhà Phô-ti-pha hay một phạm nhân bị tố cáo ở trong ngục “Chúa ở cùng Giô-sép” và ban cho ông sự thành công.
• Họ chờ đợi (Sa 39:21-23).
Tác giả Thi-thiên đã nói: “Người ta xích chơn người bằng cùm, cổ người bị đặt trong xiềng” (Thi 105:18), nhưng những kinh nghiệm này không được đề cập trong Sáng-thế ký. Có lẽ Giô-sép bị trói một thời gian ngắn, nhưng ngay sau đó chủ ngục mở trói cho ông và đặt ông canh giữ những tù nhân khác. Giống như Phô-ti-pha trước đó, chủ ngục giao mọi việc cho Giô-sép và nhìn xem công việc thạnh lợi trong tay ông.
Đức Chúa Trời đã để cho Giô-sép bị đối xử cách bất công và bị bỏ tù để giúp xây dựng tính cách của ông và chuẩn bị cho ông những nhiệm vụ phía trước. Ngục tù sẽ là một trường học nơi Giô-sép sẽ học chờ đợi Chúa cho đến khi đó là giờ của Ngài để minh oan cho ông và làm ứng nghiệm những giấc mơ của ông. Giô-sép đã có thời gian để suy nghĩ, cầu nguyện và suy gẫm ý nghĩa của hai giấc mơ Đức Chúa Trời ban cho ông. Ông sẽ biết rằng những sự trì hoãn của Đức Chúa Trời không phải là những sự từ chối của Đức Chúa Trời.
Một vài tôi tớ của Đức Chúa Trời đã hối hận khi lao đi trước thời gian biểu của Đức Chúa Trời và tìm cách đi đến ngôi quá sớm. Tiến sĩ D. Martyn Lloyd-Jones thường nói “Thật bi thảm khi một người thành công trước khi người đó sẵn sàng”. Chính bởi đức tin và sự kiên nhẫn mà chúng ta hưởng những lời hứa (He 6:12; He 10:36) và cách tốt nhất để học sự kiên nhẫn là qua sự hoạn nạn (Ro 5:3-4). “Hỡi anh em, hãy kể tất cả mọi sự là điều vui mừng khi anh em rơi vào những thử thách khác nhau, vì biết rằng sự thử nghiệm của đức tin anh em sinh ra sự kiên nhẫn. Nhưng hãy để sự kiên nhẫn có công việc trọn vẹn của nó, hầu cho anh em có thể trọn lành và toàn vẹn, không thiếu điều gì” (Gia 1:2-4 NKJV).
Đức Chúa Trời thường bỏ đi “cặp nạng” của chúngta để chúng ta sẽ học bước đi bởi đức tin và tin cậy chỉ một mình Ngài. Hai năm sau đó, Đức Chúa Trời sẽ sử dụng quan tửu chánh để giúp giải cứu Giô-sép khỏi ngục. Vì vậy lời thỉnh cầu của Giô-sép đã không hoài công. Suốt 2 năm chờ đợi đó, Giô-sép đã bám vào những giấc mơ Đức Chúa Trời ban cho ông, giống như bạn và tôi sẽ bám vào những lời hứa của Ngài.
Đức Chúa Trời đã hứa rằng người ta sẽ quỳ xuống trước mặt Giô-sép, và ông tin lời hứa của Đức Chúa Trời. Ông không biết Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều đó ra sao hay khi nào điều đó sẽ xảy ra nhưng ông biết rằng Đức Chúa Trời thành tín.
• Học cách giải thích (Sa 40:1-13, 16-22).
Vì các tù nhân của vua bị giam trong ngục này, Giô-sép đã gặp một số người giữ chức vị cao, trong số họ có quan tửu chánh và quan thượng thiện của Pha-ra-ôn. Công việc của quan tửu chánh là bảo vệ vua bằng cách bảo đảm rượu của vua được chuẩn bị và an toàn để uống (Ne 1:11 Ne 2:1).
Vì ông hầu việc trong chính sự hiện diện của Pha-ra-ôn ông là một người đầy thế lực có quyền đến gần tai vua. Đức Chúa Trời đã đem hai người này vào đời sống của Giô-sép để cuối cùng Ngài có thể trả tự do cho ông và ban cho ông ngôi mà Ngài đã chuẩn bị cho ông.
Những giấc mơ đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của các quan trưởng ở Ai-cập, và khả năng giải mộng là một tài năng rất được tôn trọng. Đến lúc này Giô-sép đã suy gẫm những giấc mơ của ông, nhưng đây là lần đầu tiên ông giải mộng của những người khác. Việc ông để ý vẻ khiếp đảm trên gương mặt của những người này cho thấy ông là một người chú ý và sáng suốt, và việc Giô-sép quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời chứng tỏ ông là một người khiêm nhường.
“Nâng đầu quan” (c.13, 19) là một nhóm từ có nghĩa là “để cho vụ kiện của quan được vua xem xét, sau đó được phục hồi” (IIVua 25:27; Gie 52:31). Nhưng về phần quan thượng thiện, nhóm từ này có một ý nghĩa đôi, vì Pha-ra-ôn sẽ xử tử ông. Người Ai-cập không sử dụng giá treo cổ; Họ chặt đầu nạn nhân và sau đó đem xiên thân thể người đó vào một cọc. Vì vậy, theo một nghĩa đôi đầu của quan thượng thiện “bị dựng lên” là như thế.
Những giải thích của Giô-sép đã trở thành sự thật. Quan tửu chánh được phục chức, và quan thượng thiện bị xử tử. Mặc dù Giô-sép chắc chắn tiếc nuối cho quan thượng thiện, điều đó chắc đã khích lệ ông thấy rằng sự giải nghĩa của ông là chính xác và Pha-ra-ôn thật đã xem xét những vụ kiện và trả tự do cho người ta.
• Học tin cậy (Sa 40:15, 23).
Theo sự ghi chép của Sáng-thế ký, chỉ có hai trường hợp Giô-sép bày tỏ sự vô tín, và đây là sự vô tín đầu tiên. (Sự vô tín thứ hai ở Sa 48:8-20 khi Giô-sép tìm cách cho Gia-cốp biết cách chúc phước hai cháu nội. Biết rằng quan tửu chánh sẽ được tha và có quyền đến gần Pha-ra-ôn, Giô-sép đặt sự tin cậy mình nơi điều một người có thể làm thay vì nhờ cậy nơi điều Đức Chúa Trời có thể làm. Ông mất kiên nhẫn thay vì chờ đợi thời gian của Đức Chúa Trời.
Giô-sép không đề cập các anh của ông hay tố cáo họ về việc ác. Ông chỉ nói ông đã bị “đánh cắp” (bắt cóc) khỏi gia đình và do đó không phải là một nô lệ mà là một người tự do xứng đáng được sự đối xử tốt hơn.Việc ông sử dụng từ “ngục tối” trong câu 15 (Sa 41:14), không nhất thiết có nghĩa ông và các tù nhân khác ở trong một nơi tồi tàn khủng khiếp.
Họ bị giam trong khám dành cho các tù nhân của vua (Sa 39:20), được gọi là “dinh quan thị vệ” (Sa 40:3). Vì vậy, đó chắc chắn không phải là một ngục tối. Đó có thể là “Nơi giam giữ trong nhà”. Giô-sép nói cũng như bạn và tôi sẽ nói khi chúng ta muốn người khác cảm thông với cảnh ngộ của chúng ta “Nơi này là hầm hố!”
Sau khi được tha và phục chức, quan tửu chánh không những chẳng nói gì với Pha-ra-ôn về Giô-sép, mà ông còn quên Giô-sép hoàn toàn.Quả là có nên tin cậy con người để được sự giúp đỡ thay vì chờ đợi Chúa. “Chớ nhờ cậy nơi các vua chúa, nơi con người hay chết, là người không thể cứu… Phước cho người nào có sự giúp đỡ là Đức Chúa Trời của Gia-cốp, có sự hy vọng nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình Đấng dựng nên trời, đất, biển và mọi vật ở trong đó - Đức Giê-hô-va Đấng thành tín đời đời” (Thi 146:3, 5-6).
-Sa 29:21-23; xem giải nghĩa Sa 39:7-20
-Sa 40:1-23; xem giải nghĩa Sa 39:7-20
4. Chờ Đức Chúa Trời hành động (Sa 41:1-44)
Hai năm đã trôi qua, Giô-sép vẫn làm việc trong nhà tù, chờ đợi điều gì đó xảy ra. Nhưng khi mọi việc bắt đầu xảy ra, các sự kiện bắt đầu diễn ra nhanh chóng, vì thời gian của Đức Chúa Trời đã đến để khởi động những kế hoạch của Đức Chúa Trời cho Giô-sép. Nếu có chương nào trong Sáng-thế ký bày tỏ quyền tối cao của Đức Chúa Trời, thì đó là chương này.
Đức Chúa Trời ban cho Pha-ra-ôn hai giấc mơ (Sa 41:1-8). Đức Chúa Trời khiến cho Pha-ra-ôn có hai giấc mơ trong cùng một đêm, những giấc mơ làm ông bối rối và là những giấc mơ mà các thuật sĩ không thể giải thích. Hãy để ý sự lặp lại của từ “mầy” trong các c.1-7, nhấn mạnh tính sinh động của những giấc mơ và sự nhanh chóng của cảnh tượng. Ông không như vua Nê-bu-cát-nết-sa, ông không quên những giấc mơ của mình (Da 2:1-49) nhưng chia sẻ chúng với những người thông thái. Những người này có thể có tài hiểu những giấc mơ nhưng Đức Chúa Trời đã hành động để họ không thể giải thích chúng.
Đức Chúa Trời đã nhắc quan tửu chánh nhớ đến Giô-sép (c.9-13). Vì đã đến lúc Giô-sép được giải cứu khỏi ngục và được ban cho một ngôi vị, Đức Chúa Trời khích động trí nhớ của quan tửu chánh để ông có thể nhớ lại điều xảy ra cho ông trong ngục. Sự tường thuật của ông về những khả năng hiểu giấc mơ của Giô-sép chính xác là điều Pha-ra-ôn muốn nghe. Việc Giô-sép được gọi là một người Hê-bơ-rơ (c.12) không làm phiền Pha-ra-ôn vì dân Sê-mít được chấp nhận ở Ai-cập và thậm chí đưọc cất nhắc để giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền. Chắc chắn Pha-ra-ôn sẽ nhớ lại những sự kiện kịch tính có liên quan đến quan thượng thiện và quan tửu chánh.
Đức Chúa Trời khiến Pha-ra-ôn mời Giô-sép đến (Sa 41:14-36). Vì người Ai-cập thời đó không để râu như người Hê-bơ-rơ, nên Giô-sép phải cạo râu, thay quần áo và chuẩn bị gặp Pha-ra-ôn. Lần thứ 3 trong 13 năm, ông cởi bỏ quần áo mình nhưng lần này ông sẽ được bộ quần áo của một người cai trị.
Chúng ta khen Giô-sép vì sự khiêm nhường của ông và lòng khao khát tối cao Đức Chúa Trời chân thật hằng sống (c.16 Sa 40:8 Da 2:27-28). Ông lắng nghe Pha-ra-ôn mô tả hai giấc mơ của người và sau đó trình bày cho người lời giải nghĩa. Đó là một vấn đề nghiêm túc, vì Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho vua Ai-cập điều Ngài định làm trong 14 năm sắp đến, và Pha-ra-ôn nhận biết về sự thật này. Giờ đây ông biết kế hoạch của Đức Chúa Trời, Pha-ra-ôn có bổn phận phải làm điều Đức Chúa Trời muốn ông làm.
Biết về điều này, Giô-sép đi xa hơn việc trình bày một lời giải nghĩa để đưa ra những ý kiến cho Pha-ra-ôn, và việc này cần phải có đức tin và sự can đảm lớn. Nhưng Chúa sử dụng Giô-sép, và Pha-ra-ôn chấp nhận những ý kiến của ông.
-Trước hết, Pha-ra-ôn phải chỉ định một người trí tuệ và khôn ngoan coi sóc xứ và những vụ mùa của nó.
-Thứ hai, ông phải ban cho người này nhiều ủy viên ở khắp các vùng khác nhau trong xứ và thâu 1/5 mỗi vụ mùa cho Pha-ra-ôn trong 7 năm.
-Thứ ba, tất cả lương thực này phải được cất trong kho để sử dụng khi những năm đói kém đến.
“Đức Chúa Trời cảm động Pha-ra-ôn để chọn Giô-sép làm nghiêng lệch nó bề nào tùy ý Ngài muốn” (Ch 21:1). Cách xử sự của Giô-sép, khả năng giải mộng, và sự khôn ngoan của ông trong việc tìm ra một giải pháp cho vấn đề về nạn đói tất cả đều gây ấn tượng cho Pha-ra-ôn và thuyết phục ông tin rằng Giô-sép là người dành cho công việc này.
Mười ba năm trước, các anh của ông đã cởi chiếc áo dài đặc biệt của ông, nhưng giờ đây Pha-ra-ôn ban cho ông một chiếc áo dài có ý nghĩa lớn hơn nhiều. Ấn nhẫn và vòng vàng là những biểu tượng về quyền hạn của Giô-sép với tư cách là người có quyền lực thứ hai trong Ai-cập (Da 5:7, 16, 29).
Hãy chú ý một chuỗi những tuyên bố “và Pha-ra-ôn phán”.
Theo Sa 41:38 Pha-ra-ôn nói với quần thần, và trong các câu 39-41 ông nói với Giô-sép và tuyên bố địa vị với quyền hạn của người. Trong câu 44, Pha-ra-ôn đưa ra lời tuyên bố chính thức với Giô-sép và tất cả quần thần của ông, và vấn đề đã được giải quyết, Pha-ra-ôn ban cho Giô-sép một tên mới mà ý nghĩa của nó không rõ ràng nhưng Pha-ra-ôn tiếp tục gọi ông là Giô-sép (c.55).
Giô-sép cũng được ban cho xe ngựa riêng với thuộc hạ đi trước ông ra lệnh cho dân chúng quỳ xuống trước ông như họ đã làm trước Pha-ra-ôn. Nếu những người Ai-cập không tin Chúa này đã quỳ xuống trước ông, chắc chắn một ngày nào đó gia đình Giô-sép sẽ quỳ xuống, như Đức Chúa Trời đã báo trước trong những giấc mơ của ông.
Cuối cùng, với chiếc nhẫn, chiếc áo dài, vòng vàng, tên mới và xe ngựa, Giô-sép đuợc ban cho một người vợ, con gái của một trong những thầy tế lễ thần mặt trời Ra. Các thầy tế lễ ở Ê-díp-tô là một đẳng cấp quyền lực, và việc có một người vợ Ai-cập sẽ cũng cố mối liên hệ của Giô-sép với các chức sắc tôn giáo trong xứ. Tôi thích tin rằng Giô-sép đã dạy cho vợ về Đức Chúa Trời chân thật hằng sống để nàng, giống như Ru-tơ, từ bỏ các tà thần của mình và trở nên “ở dưới cánh” của Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (Ru 1:14-22 Ru 2:11-12).
5. Tha thứ và quên đi quá khứ (Sa 41:46-57)
Trải qua giai đoạn 13 năm, Đức Chúa Trời đã giúp Giô-sép thực hiện một số việc kỳ diệu. Ông đem phước hạnh đến cho nhà Phô-ti-pha và cho những người trong ngục. Ông chiến thắng sự cám dỗ, và bởi điều đó, ông chịu sự vu cáo và sự bất công lớn. Giô-sép là một người có đức tin, chờ đợi Đức Chúa Trời hành động, ông sẵn sàng và vâng phục khi có sự kêu gọi. Nhưng có một thành tích nữa mà ở một vài phương diện là lớn hơn hết: Ấy là ân điển Đức Chúa Trời đã giúp ông có thể lau sạch những đau đớn với những ký ức xấu của quá khứ và tạo một khởi đầu mới.
Chắc chắn một người có thể giải nghĩa giấc mơ của người khác, cũng có thể giải nghĩa những giấc mơ của mình. Giô-sép chắc đã kết luận rằng nạn đói sẽ đem các anh em của ông đến Ê-díp-tô, và điều đó có nghĩa là ông sẽ phải chạm trán họ với những tội lỗi của họ nghịch cùng ông và cha họ. Ông muốn lòng mình thanh sạch và chính trực trước mặt Đức Chúa Trời để ông có thể là một phước hạnh cho họ cũng như ông từng là một phước hạnh bất cứ nơi nào Đức Chúa Trời đã đặt để ông.
• Tên Ma-na-se nghĩa là “quên” Giô-sép không quên gia đình ông hay những sự kiện đã xảy ra, nhưng ông thật sự quên sự đau khổ và hoạn nạn do họ gây ra. Ông nhận ra rằng Đức Chúa Trời muốn điều đó vì sự ích lợi (Sa 50:20).
Vì vậy nhìn quá khứ theo viễn cảnh đó, ông đạt được sự chiến thắng trên những ký ức xấu và sự cay đắng. Ông có thể mang một mối hận trong lòng vì cách các anh của ông đã đối xử với ông, nhưng những hận thù giống như cỏ dại trong một khu vườn đáng yêu hay những vi trùng trong một cơ thể khoẻ mạnh: chúng không thuộc về nơi đó.
• Tên Ép-ra-im nghĩa là “hưng vượng gấp đôi” Ai-cập từng là một nơi tai họa đối với Giô-sép, nhưng giờ đây ông đã có hai con trai và hưng thịnh trong xứ. Nhưng thậm chí hơn thế, ông sẽ trở nên hưng vượng, với tư cách là người cai trị thứ hai trong xứ và được Đức Chúa Trời sử dụng để cứu nhiều mạng sống, kể cả gia đình ông và dân tộc Y-sơ-ra-ên.
Thật là một điều kỳ diệu khi chúng ta có thể vượt qua thời kỳ hoạn nạn bằng loại thái độ mà Giô-sép đã có, chôn vùi những nỗi đau quá khứ và vui mừng trong những phước hạnh hiện tại, “quên” và “hưng vượng” cùng một lúc. Quả là một bi kịch khi con người nhớ đến những điều đau đớn mà người khác đã làm cho họ, và cả đời họ mang sự cay đắng cướp đi của họ sự bình an và vui mừng.
Như Giô-sép đã đặt qua một bên quần áo tù và tạo một khởi đầu mới, chúng ta cũng thường xuyên cần phải “cởi bỏ” những nỗi đau cũ và mặc vào một thái độ mới của đức tin và tình yêu (Eph 4:20-32 Co 3:1-17).
Sự giải mộng của Giô-sép đã tỏ ra chính xác, và Ê-díp-tô hưởng 7 năm của những vụ mùa bội thu 1/5 trong đó được cất vào các thành dự trữ của Pha-ra-ôn. Sau đó, nạn đói xảy đến cho khu vực đó của Trung Đông, và Giô-sép phân phối lương thực để cứu mạng dân chúng. Nhưng các vị khách bắt đầu đến từ các dân tộc khác để mua lương thực, và Giô-sép biết rằng một ngày nào đó các anh em của ông sẽ đến và quỳ trước mặt ông. Khi ấy sẽ mở đầu vở kịch lớn hơn hết: phục hồi những mối quan hệ trong một gia đình chia rẽ và chữa lành những vết thương đã mưng mủ nhiều năm.
Hạnh kiểm của Giô-sép với tư cách một tôi tớ, một tù nhân và một vị quan là gương mẫu, nhưng cách ông đối xử với các anh của ông và đem họ đến sự ăn năn, là một kiệt tác của sự sáng suốt thuộc linh, sự kiên nhẫn và tình yêu. Đó sẽ là chủ đề của chúng ta cho hai bài học sau.
32. KHI NHỮNG GIẤC MƠ TRỞ THÀNH SỰ THẬT (Sa 42:1-43:34)
Trong lúc dạy sách Sáng-thế ký trên chương trình radio “Trở về với Kinh Thánh” (Back to the Bible), tôi nhận được một bức thư chỉ trích của một thính giả không đồng ý với sự giải thích của tôi về Sa 42:1 Sa 44:34). Thính giả này cảm thấy rằng Giô-sép đã sai và thậm chí độc ác trong cách ông đối xử với các anh em mình. Thay vì “lãng phí quá nhiều thời gian”, thính giả gợi ý, Giô-sép phải lập tức bày tỏ mình với các anh và đem lại “sự hòa giải ngay lập tức”.
Tuy nhiên, sự hòa giải thật đòi hỏi sự ăn năn thành thật và sự xưng tội khiêm nhường, và thường mất thời gian cho một người đi đến nơi đó. Tôi tin rằng Giô-sép đã đối xử với các anh mình bằng một cách kiên nhẫn, yêu thương và khôn ngoan, đó là lý do phương cách của ông đã thành công. Đức Chúa Trời đã phải đem các anh Giô-sép đến chỗ họ thừa nhận những việc ác họ đã làm cho em trai và cha họ. Sự ăn năn hời hợt dẫn đến một kinh nghiệm mà không phải là sự hoà giải gì cả. Đó chỉ là một sự đình chiến mong manh.
Theo quan điểm loài người, Giô-sép sẽ hạnh phúc về “sự hòa giải tức thời” vì khi đó ông có thể gặp cha và em trai Bên-gia-min của ông sớm hơn nhiều.
Nhưng giống như một thầy thuốc lành nghề, Giô-sép kiên nhẫn. Ông nói và hành động theo cách mà những tư tưởng trong lòng các anh của ông được bày tỏ và Đức Chúa Trời cuối cùng đã đem họ đến sự ăn năn thật.
1. Một thời gian thử thách (Sa 42:1-35)
Sau 7 năm dư dật đã báo truớc, những năm đói kém giáng trên thế giới Trung Đông, nhưng nhờ có Giô-sép, có lúa dư dật ở Ai-cập. Đức Chúa Trời đã sai Giô-sép đến trước (Sa 45:5 Thi 105:17) để duy trì gia đình của ông hầu cho một ngày nào đó dân tộc Y-sơ-ra-ên có thể ban cho thế giới Chúa Giê-xu Christ, “Bánh Sự Sống” (Gi 6:48).
Những biến cố này xảy ra suốt hai năm đầu của nạn đói 7 năm (Sa 45:6). Đó là thời gian các anh của Giô-sép phải kinh nghiệm nhiều cuộc thử nghiệm do Đức Chúa Trời sắp xếp để đưa họ đến sự ăn năn.
• Sự đói kém (Sa 42:1-2)
Gia-cốp có một gia đình đông người (Sa 46:26) cùng nhiều tôi tớ, và khi nạn đói tiếp diễn, việc nuôi họ càng trở nên khó khăn hơn.
Chắc chắn các anh em biết điều cha họ biết, rằng có lúa ở Ai-cập, nhưng họ không nói về điều đó. Gia-cốp để ý thái độ kỳ lạ của họ và hỏi: “Tại sao bây cứ nhìn nhau?” Thật sự tại sao các anh em do dự nói về vấn đề này hay thậm chí đề nghị đi đến Ê-díp-tô để mua lương thực?
Trước hết, hành trình đến Ai-cập thật dài (250-300 dặm) và nguy hiểm; Và một chuyến đi về có thể mất một thời gian 6 tuần. Thậm chí sau khi đến Ê-díp-tô, những người này không thể chắc chắn về một sự tiếp đón thân thiện. Là “những người ngoại quốc từ Ca-na-an họ có thể bị tấn công và thậm chí có thể bị bắt và bị nô lệ hóa. Nếu điều đó xảy ra cho các con trai của Gia-cốp, ai sẽ chăm sóc gia đình họ và người cha già của họ?”
Cũng có thể, ký ức về việc bán người em trai vô tội của họ cho các thương buôn đi xuống Ê-díp-tô đã ám ảnh các con trai của Gia-cốp.
Các anh em đã làm điều ác đó hơn 20 năm qua và giờ đây tin rằng Giô-sép đã chết (Sa 42:13) nhưng họ không quên cảnh tượng này (c.17-24). Lương tâm có một cách đào bới quá khứ và khơi dậy những nghi ngờ cùng những sợ hãi trong chúng ta.
Là người đứng đầu chi tộc, Gia-cốp đưa ra quyết định sai mọi người đi đến Ai-cập để mua lương thực, trừ Bên-gia-min. Sau việc đã xảy ra cho Giô-sép, Gia-cốp chắc chắn nghi ngờ các con trai ông, và đó là lý do ông giữ Bên-gia-min ở nhà. Giờ đây khi Giô-sép đã đi mất, đứa con trai duy nhất của Gia-cốp là mối liên lạc sống động duy nhất của ông với Ra-chên yêu quý của ông, và người cha già không được để mất đứa thứ hai trong hai con trai yêu quý của mình (c.38).
Điều mà Gia-cốp và các con trai ông không biết đó là Đức Chúa Trời tối cao đang hành động để chắc chắn 10 anh em đi đến Ai-cập và quỳ xuống trước Giô-sép. Trong việc thực hiện những mục đích thiêng liêng của Ngài, Đức Chúa Trời có thể sử dụng một nạn đói, một vụ bắt cóc (IIVua 5:2-3), một cuộc thi sắc đẹp của hoàng gia (Exo 2:1-23), một cái chết bất ngờ (Exe 24:15), một giấc mơ (Da 2:1-49), một tai họa (Gio 1:1-20) và thậm chí một cuộc kiểm tra dân số của chính quyền (Lu 2:1-7) “Đức Chúa Trời của chúng tôi ở trên trời, Ngài làm điều gì đẹp ý Ngài” (Thi 115:3).
• Những lời nói gay gắt (Sa 42:6-14).
Là người cầm quyền thứ 2 trong xứ, Giô-sép chắc chắn không tham gia vào từng việc mua bán lúa cá nhân, vì ông có nhiều việc quan trọng phải làm. Hơn nữa, nguồn dự trữ lương thực được cất trong nhiều thành (Sa 41:46-49) và Giô-sép có nhiều ủy viên giúp đỡ ông (c.34-36). Chắc chắn ông phân phối cho cư dân Ai-cập theo cách bình thường, trong khi những người ngoại quốc phải được điều tra cẩn thận để họ không có những kế hoạch xâm lược xứ (c.56-57). Trong sự định liệu của Đức Chúa Trời, Giô-sép sẵn có mặt khi 10 người anh của ông đến mua lúa, và ông nhận ra họ (1).
Dù họ mong gặp Giô-sép, điều mà họ đã không mong, 10 người này cũng sẽ không nhận ra em của họ. Ông được 17 tuổi lúc họ bán ông, và trong 20 năm tiếp theo, ông đã thay đổi bề ngoài của mình nhiều hơn các anh ông. Hơn nữa, giờ đây ông cạo râu nhẫn nhụi như một người Ai-cập, ông ăn mặc như một người Ai-cập, và ông nói với họ bằng ngôn ngữ Ai-cập qua một người thông ngôn.
Khi 10 người quỳ trước mặt mình, Giô-sép biết rằng Đức Chúa Trời thành tín đang bắt đầu thực hiện những lời hứa Ngài đã bày tỏ trong hai giấc mơ (Sa 37:7, 9). Hẳn rất khó khăn để Giô-sép làm chủ những cảm xúc của ông khi ông nói gay gắt với các anh mình, vì khao khát tự nhiên của ông sẽ là nói với họ bằng tiếng Hê-bơ-rơ và bày tỏ ông là ai. Nhưng điều đó sẽ làm hỏng mọi việc, vì ông biết rằng cả 11 anh em phải quỳ trước ông. Điều này có nghĩa là Bên-gia-min sẽ phải đến cùng với họ vào chuyến đi sau. Hơn nữa, các anh Giô-sép buộc phải đối diện với tội lỗi của họ và đi đến chỗ xưng nhận thành thật và điều đó cần có thời gian.
Bốn lần Giô-sép tố cáo họ về tội ở trong Ai-cập dưới cái cớ giả dối (Sa 42:9, 12, 14, 16) và mỗi lần 10 anh em đều khẳng định sự vô tội của họ với tư cách là “những người chân thật”. Câu nói của họ “một người đã đi mất biệt” hẳn đã làm Giô-sép xúc động sâu xa, nhưng ông vui mừng nghe rằng cha và em trai của ông đều còn sống và mạnh khoẻ.
• Sự giam giữ (Sa 42:17).
Giô-sép giam giữ các anh của ông trong 3 ngày, chỉ để dạy họ rằng làm tù nhân thì ra sao và cho họ thời gian suy nghĩ. Kinh Thánh KJV dịch từ Hê-bơ-rơ là “ngục” trong c. 17, nhưng “trong sự canh giữ sẽ gần với nguyên gốc hơn.” Từ được dịch là “ngục” trong Sa 39:1-40:23 mô tả những kinh nghiệm của Giô-sép, nghĩa là một nhà tù chớ không chỉ là ở dưới sự canh giữ hay sự bắt giữ trong nhà. Giô-sép đã chịu khổ với tư cách một tù nhân trong một nhà tù thật sự, trong khi các anh của ông chỉ bị giam giữ dưới sự canh gác.Nhưng điều đó dạy họ một bài học. Khi họ được thả ra 3 ngày sau đó, 10 người bắt đầu nhận thức rằng Đức Chúa Trời đang đối xử với họ vì cớ tội lỗi của họ (Sa 42:21).
• Sự bảo đảm (c.15-16, 18-20).
Vì 10 anh em nhất định rằng họ là những người lương thiện, Giô-sép cho họ một cơ hội để chứng minh điều đó. Ông ra lệnh cho họ phái một người trong số họ đến Ca-na-an để đem Bên-gia-min đến Ai-cập. Ông sẽ giam giữ 9 người anh còn lại cho đến khi Bên-gia-min đến Ai-cập để chứng mình rằng câu chuyện của họ là thật.
Nhưng sau đó Giô-sép thay đổi “cuộc thử nghiệm”. Ông chỉ giữ một người anh làm sự bảo đảm trong khi tất cả những người khác trở về nhà để dẫn bên-gia-min và đem người đến Ai-cập. Giô-sép khôn ngoan kết luận rằng những người này cuối cùng sẽ phải trở lại Ai-cập mua thêm lúa và sẽ dẫn Bên-gia-min theo họ, nếu không thì bị đói. Hơn nữa, một nhóm người đi lại thì an toàn hơn là chỉ hai người thực hiện hành trình, và những người này thật đã có nhiều bao lúa để mang đi.
Giô-sép thật sự quan tâm đến gia đình ở Ca-na-an và không muốn họ chết đói. Đồng thời, ông muốn nhìn thấy những lời hứa của Đức Chúa Trời được thực hiện để ông có thể được hòa giải với các anh và cha mình. Ông có sự bảo đảm của Đức Chúa Trời rằng 11 người anh em cuối cùng sẽ quỳ trước mặt ông, nhưng ông muốn thúc đẩy các anh em mình hành động. Đó là lý do ông giữ Si-mê-ôn làm con tin.
• Sự xưng nhận tội (Sa 42:21-24).
Toàn bộ kinh nghiệm này đem mười người anh đến nơi mà sự nhận thức tội lỗi bắt đầu nảy sinh trong lòng họ. Không biết rằng Giô-sép có thể hiểu họ, họ bàn luận lời cầu xin cùng những giọt nước mắt của ông và sự cứng lòng của họ. Ru-bên đã không giải quyết vấn đề bằng cách nói “Anh đã bảo các em đừng làm điều đó” nhưng một cách vô thức ông cho Giô-sép biết sự tử tế của ông trong việc tìm cách cứu người em bất lực của mình (Sa 37:21-22). Nhưng giờ đây Ru-bên chắc chắn rằng Giô-sép đã chết và sự xét đoán thiêng liêng sắp xảy ra, vì ông đã nói “Bây giờ sự đòi huyết của nó đã đến” (Sa 42:12 NASB).
Tại thời điểm này, những cảm xúc đè nén của Giô-sép tự nhiên phải lộ ra, vì vậy ông rời căn phòng và khóc âm thầm. Đây là kinh nghiệm đầu tiên trong 6 kinh nghiệm như thế, vì Giô-sép cũng đã khóc khi ông nhìn thấy Bên-gia-min em của ông (Sa 43:29-30) khi ông tỏ mình với các anh ông (Sa 45:2) khi ông gặp cha ông ở Ê-díp-tô (Sa 46:29), khi cha ông qua đời (Sa 50:1), và khiông bảo đảm với các anh rằng họ thật sự được tha thứ (c. 17). Điều khiến cho một người khóc là một thử nghiệm ích lợi của tính cách.
Vì sao Giô-sép chọn Si-mê-ôn làm con tin khi mà Ru-bên là trưởng nam? Có lẽ vì ông cảm kích việc Ru-bên tìm cách cứu ông khỏi các anh ông, và Si-mê-ôn là con trai thứ 2 của Gia-cốp. Si-mê-ôn cũng được biết là một người độc ác (Sa 34:25 Sa 49:5-7) và có lẽ Giô-sép hy vọng dạy ông một bài học. Chúng ta không biết có bao nhiêu bí mật gia đình mà Gia-cốp đã chia sẻ với Giô-sép con trai yêu quý của ông hay họ đóng vai trò gì trong quyết định này.
Khi tôi nghĩ về cách Giô-sép đối xử với các anh ông, câu Kinh Thánh lóe lên trong trí là Ro 11:22 “Vậy hãy xem sự nhơn từ và sự nghiêm khắc của Đức Chúa Trời” (KJV, “Vậy hãy xem sự nhơn từ và sự nghiêm túc của Đức Chúa Trời” NIV). Giô-sép chắc chắn tử tế với các anh của ông mặc cho sự nghiêm khắc của lời nói ông cùng một số hành động của ông, và điều ông làm là vì lợi ích của họ. Động cơ của ông là tình yêu và mục đích của ông là đem họ đến sự ăn năn và sự hòa giải. Chúng ta cần nhớ điều này lần sau khi chúng ta nghĩ Đức Chúa Trời đối xử bất công với chúng ta.
2. Một thời gian căng thẳng (Sa 42:1-35) (Sa 42:25-43:15)
Khi 9 anh em chuẩn bị rời khỏi Ai-cập, Giô-sép nhân từ chu cấp lương thực cho hành trình của họ. Thật không dễ dàng gì để họ bỏ Si-mê-ôn lại đằng sau, nhưng họ chắc chắn sẽ trở lại để lấy thêm lúa và có thể đem Bên-gia-min theo họ. Dường như những đám mây bắt đầu nhô lên, nhưng họ không nhận ra những sự cay đắng sắp đến trong gia đình họ những ngày sắp đến.
• Sự sợ hãi và bối rối (Sa 42:25-35).
Theo lệnh của Giô-sép, quản gia của ông để lại tiền của các anh em trong bao lúa của họ, nhưng sau đó người quản gia nói ông đã nhận bạc của họ và tin tưởng nơi Chúa (Sa 43:23). Hoặc người quản gia nói dối, là điều đáng ngờ, hoặc Giô-sép đã trả tiền cho chính lúa của ông hầu cho ông có thể chăm sóc cha ông và những người bà con mà ông đã không gặp trong hơn 20 năm. Tiền trong các bao lúa cũng là phần kế hoạch của ông để thử nghiệm các anh của ông và chuẩn bị cho họ chuyến đi đến Ai-cập lần sau.
Nhưng có một số vấn đề liên quan đến việc phát hiện tiền. Khi một anh em tìm thấy bạc trong bao của mình (Sa 42:27-28), tất cả những người này chắc đã lục lọi ở những bao lúa của họ và tìm thấy phần bạc còn lại. Ít nhất đó là câu chuyện họ kể cho người quản gia của Giô-sép khi họ đến Ai-cập vào lần đến thứ hai của họ (Sa 43:21). Nhưng nếu đó là điều xảy ra, tại sao các anh em tỏ ra ngạc nhiên và sợ hãi khi họ mở các bao lúa của họ lúc về đến nhà? (Sa 42:35).
Nói rằng câu chuyện của họ kể cho người quản gia chỉ là một “báo cáo ngắn gọn” về điều đã xảy ra, là tố cáo họ có trí nhớ rất nghèo nàn. Họ tuyên bố một cách cụ thể rằng chính tại “chỗ trọ” (“quán”, KJV) chớ không phải ở nhà, họ đã phát hiện tiền trong các bao lúa. Chúng ta cho rằng lời tuyên bố này là đúng vì họ không có lý do gì để nói dối với quản gia của Giô-sép người mà họ hết sức cần sự giúp đỡ. Và tại sao phải nói dối khi họ đang trả lại tất cả khoản tiền?
Đâu là những giải pháp hợp lý?
Có lẽ người quản giađã để một số tiền trong các bao lúa dùng dọc đường và một số trong các bao lúa. Tiền trong các bao lúa dùng dọc đường được tìm thấy khi họ cắm trại qua đêm, nhưng phần tiền còn lại đã không được phát hiện cho đến khi họ trút ra các bao lúa khác ở nhà. Nhưng tác giả rõ ràng xác định rằng mỗi người tìm thấy tất cả tiền của mình ở nơi dừng chân đầu tiên (Sa 43:21) “cân nặng chính xác”, có nghĩa là 9 anh em đã nhanh chóng lục soát ngay và tìm thấy tất cả cả số bạc.
Nếu điều đó là thật, vậy có lẽ các anh em đã để lại tiền trong các bao lúa với mục đích lừa dối cha họ bằng cách tỏ ra ngạc nhiên khi tiền được phát hiện tại nhà. Nhưng Sa 42:35 được viết như thể sự ngạc nhiên và sự sợ hãi của họ là những đáp ứng thật đối với việc tìm thấy tiền. Và tại sao lại lừa dối cha mình về số tiền? Họ đã không đánh cắp nó, và họ có thể đem trả lại vào hành trình sắp tới của họ, Gia-cốp dường như không lo lắng về điều đó, lời bình luận duy nhất của ông là “có lẽ đó là một sự lầm lẫn” (Sa 43:12).
Dù lời giải thích là gì, kinh nghiệm đã đặt vào lòng của các anh em sự sợ hãi và bối rối. Họ hỏi: “Điều này là gì mà Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta?” (Sa 42:28 NKJV). Họ biết rằng họ vô tư về tiền bạc, nhưng liệu họ có thể làm cho những người Ai-cập tin chăng? Mạng sống họ có thể ở trong hiểm nguy (Sa 43:18).
Sự báo cáo của họ với cha họ chỉ khiến người già này cảm thấy tồi tệ hơn, đặc biệt khi ông nghe tin về sự giam giữ Si-mê-ôn và sự liên luỵ đến Bên-gia-min trong tương lai. Toàn bộ tình tiết lẽ ra phải dẫn Gia-cốp với các con trai của ông đến chỗ xem xét tấm lòng và xưng nhận tội lỗi, nhưng rõ ràng không phải vậy. Đó sẽ là một thời gian ích lợi cho họ tìm kiếm Chúa và cầu xin sự giúp đỡ và sự hướng dẫn của Ngài. Tuy nhiên, mặc cho những thất bại của họ, Đức Chúa Trời vẫn hành động và những mục đích của Ngài sẽ được thực hiện.
• Sự thất vọng (Sa 42:36-38).
Đó là tất cả những gì quá sức Gia-cốp. Ông kêu gào “chúng bay chỉ luôn nhằm vào việc làm tổn thương tao” (c.36) do đó ngụ ý rằng ông nghi ngờ các con trai ông ở đằng sau sự mất tích bí mật của Giô-sép. “Tất cả những điều này nghịch với tao!” là một lời tuyên bố có căn cứ theo một quan điểm con người, nhưng theo quan điểm của Đức Chúa Trời, mọi sự xảy ra đều vì ích lợi của Gia-cốp chớ không phải để thiệt hại cho ông (Ro 8:28).
Đáng buồn để thấy Gia-cốp lại bày tỏ tình yêu đặc biệt của ông đối với Giô-sép và Bên-gia-min, điều chắc đã làm tổn thương những con trai khác. Mười con trai đã không thực hiện một hành trình khó khăn đến Ai-cập để giúp duy trì gia đình đó sao? Có phải đó là lỗi của họ mà vị quan người Ai-cập đã đặt quá nhiều câu hỏi riêng tư, gọi họ là những thám tử và bắt Si-mê-ôn làm con tin? Họ có chịu trách nhiệm về việc hoàn lại số tiền? Gia-cốp lẽ ra có thể hiểu nhiều hơn, nhưng ông vẫn đau khổ về việc mất Giô-sép (Sa 37:35); Còn việc mất Si-mê-ôn và khả năng mất Bên-gia-min nhiều hơn những gì ông có thể chịu đựng.
Xét rằng Ru-bên không được cha quý mến (Sa 35:22), Ru-bên lẽ ra phải im lặng nhưng có lẽ ông cảm thấy buộc phải hành động như một lãnh đạo vì ông là con trưởng của Gia-cốp. Đề nghị của ông đáng buồn cười. Ông có quyền gì để đưa mạng sống của các con trai mình làm vật đền bù cho sự mất Bên-gia-min. Ông đã bàn luận ý kiến này với vợ và các con trai ông chăng? Hơn nữa, làm sao cái chết của hai con trai vô tội đền bù được việc mất 1 trong 2 con trai yêu quí của Gia-cốp? Có phải Ru-bên đề nghị hy sinh một con trai cho Giô-sép và một con trai cho Bên-gia-min? Làm sao điều này sẽ khiến những vấn đề trở nên bớt căng thẳng hơn trong gia đình?
Gia-cốp sẽ không có quan tâm gì đến đề nghị của Ru-bên hay với bất cứ đề nghị nào đe doạ sự an toàn của Bên-gia-min. Lời tuyên bố “nó còn lại một mình” (Sa 42:38 KJV) nghĩa là “một mình Bên-gia-min còn lại trong số 2 con trai của Ra-chên”. Chính lời tuyên bố vị kỷ nữa của Gia-cốp đã khiến những con trai khác cảm thấy họ là những người hạng nhì trong gia đình. Bên-gia-min phải được bảo vệ cho dù cả gia đình chết đói! Gia-cốp đang bày tỏ những tình cảm thật của mình, như ông đã làm khi ông gặp Ê-sau (Sa 33:2).
• Sự trì hoãn (Sa 43:1-10).
Tuần này sang tuần khác, gia đình đã thấy nguồn dự trữ lương thực của họ giảm đi, nhưng biết những cảm xúc của cha mình, không người con nào dám nêu lên chủ đề về chuyến đi thứ hai đến Ai-cập. Sự căng thẳng trong gia đình chắc hẳn không thể chịu nổi, đặc biệt đối với Bên-gia-min. Trong khi Gia-cốp đang bảo vệ đứa con trai yêu thích hơn của ông, ai sẽ nói lên sự quan tâm đối với việc Si-mê-ôn ở Ai-cập và gia đình ông ở Ca-na-an? Miễn cưỡng đối diện với thực tế, Gia-cốp đang sống trong một thế giới của giấc mơ riêng và làm những người khác khốn khổ?
Khi các nguồn dự trữ đã hết, Gia-cốp bảo các con trai ông đi “mua một ít lương thực”, và đó là cơ hội cho Giu-đa bước tới và điều khiển một hoàn cảnh tế nhị. Sự mù quáng của Gia-cốp đối với mối liên hệ không lành mạnh của ông với Bên-gia-min và sự nuôi dưỡng mối buồn phiền ích kỷ về Giô-sép (Sa 37:35) cộng với những nghi ngờ ẩn giấu của ông về các con trai ông, tất cả kết hợp lại để khiến ông trở thành một người khó đối xử.
Giu-đa nhắc cha rằng họ không thể trở lại Ai-cập mà không mang theo Bên-gia-min. Gia-cốp tìm cách đổ lỗi cho các con trai về việc đề cập đến việc đòi đem em út của họ đến Ai-cập, một lần nữa tìm cách làm cho họ cảm thấy có lỗi vì cớ những sự buồn rầu của ông. “Sao bay đem sự rắc rối này cho ta?” (Sa 43:6).
Giu-đa khôn ngoan tránh né việc tranh luận với cha về những vấn đề đặt ra trước mặt về việc không thể thay đổi được. Giu-đa đề nghị làm người bảo đảm cho Bên-gia-min và bảo đảm sự trở về nhà an toàn của nguời. Đề nghị hào phóng này cho thấy Giu-đa đã kinh nghiệm một sự thay đổi của tấm lòng vì việc bán Giô-sép (Sa 37:26-27). Có lẽ kinh nghiệm của ông với Ta-ma đã dạy ông một số bài học (chương 38). Giu-đa cho biết rõ đây là một vấn đề về sự sống và sự chết (Sa 43:8, 10) và thậm chí nhắc nhở Gia-cốp về những lời nói của ông (Sa 42:2).
• Sự vô tín (Sa 43:11-15).
Có một sự khác nhau giữa việc đầu phục sự định liệu yêu thương của Đức Chúa Trời với việc cúi đầu trước số phận mù mờ, và những lời tuyên bố của Gia-cốp cho thấy nơi ông đứng. “Nếu việc đó phải như vậy… nếu cha bị mất con, thì cha chịu vậy” (c.11, 14). Loại đáp ứng này chắc chắn không giống như Gia-cốp của Bê-tên là người đã tuyên bố những lời hứa của Đức Chúa Trời và có những Thiên sứ chăm sóc ông! Đó cũng không phải là Gia-cốp người đã dẫn gia đình mình trở về Bê-tên để có một khởi đầu mới với Chúa. Những cảm xúc đau khổ và thất vọng của ông hầu như làm tiêu tan đức tin của ông.
Luôn là người điều khiển, Gia-cốp bảo các con trai ông chính xác những việc phải làm. Dĩ nhiên, phải có một món quà cho vị quan người Ai-cập là người có thể thả Si-mê-ôn (Sa 32:13), và họ phải có hai phần tiền để họ có thể trả lại số tiền họ đã tìm thấy trong các bao lúa của họ cũng như mua thêm lúa. Thật thú vị khi Gia-cốp nói: “Cũng hãy dẫn em bây” (Sa 43:13) chớ không phải “cũng hãy dẫn con trai ta”. Phải chăng ông nhấn mạnh trách nhiệm riêng của họ phải chăm sóc máu thịt của chính họ?
Ông đã sai họ đi với sự chúc phước của ông (c.14), cầu xin El Shaddai (Đức Chúa Trời toàn năng, Đấng toàn quyền) thay đổi lòng của “người đàn ông này” để ông ta sẽ bày tỏ sự thương xót bằng cách thả Si-mê-ôn và không làm hại Bên-gia-min. Nhưng lời tuyên bố cuối cùng của ông đã không bày tỏ chứng cớ nhiều đức tin hay hy vọng: “Nếu cha bị mất các con của cha (Giô-sép, Bên-gia-min và Si-mê-ôn) thì cha chịu vậy”. Có lẽ ông muốn những lời thống thiết đó vang vọng trong trí các con trai ông khi họ thực hiện hành trình đến Ai-cập.
Sa 43:1-15 xem giải nghĩa Sa 42:1-35
3. Một thời gian chuyển tiếp (Sa 43:16-34)
Chín anh em có đủ điều để lo lắng trong chuyện đi của họ nên không cần suy gẫm nỗi đau khổ thường trực của cha họ. Thật ra, họ đối diện với 3 vấn đề khó khăn mà họ không có giải đáp: 1. giải thích với các quan lý do họ có tiền, 2. thoả thuận việc tha Si-mê-ôn khỏi sự giam giữ, và 3. bảo vệ Bên-gia-min. Nhưng vào lúc họ trở về nhà, họ nghĩ tất cả những vấn đề này đã được giải quyết.
• Vấn đề tiền bạc (Sa 43:16-23a).
Có lẽ một số tôi tớ của Giô-sép đã thấy các anh em vào thành và nhanh chóng báo cho ông biết sự đến của họ. Ông sắp xếp một bữa tiệc tại nhà mình, nhưng các anh em kết luận rằng họ sẽ đến nhà ông vì họ gặp rắc rối. Ai đó đã biết về số tiền này, họ sẽ bị bắt và bị phạt, có lẽ thậm chí bị nô lệ hoặc bị giết.
Trong một hoàn cảnh như vậy, bạn tìm người trung gian gần nhất, và họ khôn ngoan quay sang người quản gia của Giô-sép. Nếu họ có thể khiến ông ta tin sự vô tội của họ, vậy ông ta có thể trình bày vụ việc của họ trước Giô-sép, người có thể miễn tôị cho họ. Họ ở trong sự ngạc nhiên khác, vì quản gia biết về tiền này nhiều hơn họ biết, và ông bảo đảm với họ rằng họ không có gì để sợ hãi (c.23).
• Si-mê-ôn được thả (Sa 43:23b).
Quản gia sau đó đi dắt Si-mê-ôn và đem ông đến với các anh em của ông. Đó hẳn là một thời gian vui mừng lớn, và Si-mê-ôn đặc biệt biết ơn rằng Bên-gia-min đã đến theo để cứu ông. Làm sao người quản gia biết rằng Bên-gia-min có mặt và Si-mê-ôn phải được thả? Giô-sép đã cho ông biết Si-mê-ôn có học điều gì từ thời gian ông bị giam giữ chăng? Nếu những lời của Gia-cốp trên giường hấp hối là sự bày tỏ nào đó, ông có lẽ không học được gì (Sa 49:5-7). Thật bi thảm khi chúng ta lãng phí hoạn nạn của mình mà không sử dụng nó như một cơ hội để tăng trưởng.
• Sự bảo vệ Bên-gia-min (Sa 43:24-34).
Việc sau cùng mà các anh em mong đợi là được tiếp đãi một bữa tiệc trong gia đình của vị quan tể tướng trong xứ, người đã đối xử thật nghiêm khắc với họ suốt cuộc viếng thăm đầu tiên của họ. Khi Giô-sép đến, các anh em cúi chào và dâng cho ông những món quà của họ, và họ cúi đầu lần nữa khi họ đáp lại câu hỏi của ông về cha họ. Giờ đây tất cả 11 anh em đã cúi đầu trước ông, và giờ đây những giấc mơ đã được ứng nghiệm.
Việc nhìn thấy người em ruột Bên-gia-min của mình đã khiến Giô-sép khóc (Sa 42:24) vì vậy ông rời khỏi phòng cho đến khi ông có thể tự chủ được. Tấm lòng nhạy cảm của Giô-sép là một phép lạ về ân điển của Đức Chúa Trời. Qua những năm mà các hình tượng chết của Ai-cập và sự thờ phượng vô ích dành cho chúng đã vây quanh Giô-sép, nhưng ông đã duy trì đức tin mình nơi Đức Chúa Trời và một tấm lòng mềm mại đối với dân của ông. Ông có thể làm cứng lòng mình bằng cách nuôi những mối hận thù, nhưng ông thích tha thứ và bỏ lại quá khứ cho Đức Chúa Trời (Sa 41:50-52).
Mười một anh em có mặt để nhận lấy sự ngạc nhiên đầy bối rối hơn. Trước hết, họ được cho ngồi theo thứ tự ra đời của mình, và không có cách nào những người Ai-cập có thể biết được thông tin này. Cũng vậy, Giô-sép sai đem những dĩa thức ăn đặc biệt cho các vị khách của ông, chắc chắn rằng Bên-gia-min được gấp 5 lần hơn những người khác, Thay vì lo lắng về sự an toàn của Bên-gia-min, các anh em nhận ra rằng vị quan Ai-cập đã yêu thích em út của họ và đây là một sự khích lệ lớn cho họ.
Đây là một thời gian chuyển tiếp khi các anh em đi từ sợ hãi đến bình an, vì hình phạt bởi cớ số tiền, không còn là một vấn đề nữa, từ nô lệ đến tự do vì Si-mê-ôn đã được thả ra, và từ lo lắng đến vui mừng, vì Bên-gia-min không còn ở trong nguy hiểm. Vì vậy các anh em Giô-sép ăn uống như thể không có nạn đói trong xứ, và họ vui mừng về sự rời rộng của vị quan ở bàn ăn đầu.
Tuy nhiên, đây là một niềm vui giả tạo và thoáng qua, vì các anh em chưa giải quyết tội lỗi mình. Được an tâm là một việc, còn được tha thứ và hòa giải hoàn toàn là một việc khác. Họ cần phải cầu xin sự tha thứ của Giô-sép về cách họ đã ngược đãi ông, và họ nợ cha họ một lời xin lỗi vì đã lừa dối ông và làm đau lòng ông.
Kinh nghiệm niềm vui và sự bình an giả tạo là một điều nguy hiểm, và nghĩ rằng chúng ta ngay thẳng với Đức Chúa Trời vì đời sống dễ dàng hơn và vấn đề ít đe dọa hơn, là nhận lấy tai họa. Như trong thời Nô-ê và thời Lót thể nào thì cũng sẽ thể ấy trong ngày Chúa Giê-xu tái lâm (Lu 17:26-30). Con người sẽ tự tin khi họ thực hiện những hoạt động hằng ngày và miệt mài trong tội lỗi của họ, nhưng sự xét đoán sẽ giáng xuống, và sẽ không có lối thoát.
Bất cứ điều gì thiếu sự hạ mình ăn năn và xưng tội đều sẽ không đem lại sự hòa giải với Đức Chúa Trời hoặc với nhau. “Có một con đường dường như chính đáng cho loài người, nhưng cuối cùng nó dẫn đến sự chết” (Ch 14:12). Như người phú nông trong câu chuyện của Chúa Giê-xu, con người có sự tự tin sai lầm vì họ nghĩ mọi sự an toàn trong những năm sắp đến, chỉ để khám phá rằng họ đã bỏ Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống mình (Lu 12:16-21).
Hành động kế tiếp trong vở kịch sẽ đem những vấn đề này lên đầu, và đủ kỳ quặc, hoạt động này sẽ tập trung quanh Bên-gia-min, người thiếu niên mà các anh nghĩ vượt quá sự nghi ngờ và ở xa sự nguy hiểm.
33. LẼ THẬT VÀ NHỮNG HẬU QUẢ (Sa 44:1-45:28)
“Có căn cứ để tuyên bố rằng con người ngày nay là một thằng ngốc về đạo đức”
Những lời đó đã được xuất bản năm 1948 trên trang một tác phẩm “Ideas have Consequences” (quan niệm có những hậu quả) của Tiến sĩ Richard M. Weaver, khi ấy ông là Giáo sư Anh ngữ trong một trường của Đại học Chicago. Sách của ông rơi như một quả bom nguyên tử trên cộng đồng học thuật sau chiến tranh và được một nhà phê bình gọi là “một chẩn đoán sâu sắc về căn bệnh của văn hoá chúng ta”. Thông điệp của sách đơn giản là: Nếu bạn không sống theo lẽ thật, vậy bạn phải chịu những hậu quả.
Tiến sĩ Weaver nên thấy tình trạng đạo đức ngày nay! Xã hội không chỉ chối bỏ lẽ thật, mà nó cũng không còn tin vào những hậu quả. Trên thế giới ngày nay, lẽ thật là bất cứ điều gì bạn cần tin; và nếu bạn tin điều sai lầm, bạn không cần phải lo về những hậu quả, không có hậu quả nào cả. Vì những tuyệt đối về đạo đức đơn giản là không tồn tại, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn thích hợp và tránh được phiền phức. “Hãy biết chắc tội lỗi sẽ tìm ra các ngươi” (Dan 32:23 KJV) không còn thích hợp, không có lẽ thật nào cả không có hậu quả nào cả.
Trong 22 năm, các anh của Giô-sép đã theo triết lý đó và cẩn thận che giấu những tội lỗi của họ. Họ đã không nói sự thật và rõ ràng họ không gặt những hậu quả nghiêm trọng nào. Hơn nữa, họ không sợ bị vạch trần vì người duy nhất có thể làm chứng nghịch với họ là Giô-sép, và họ chắc chắn ông đã chết (Sa 44:20). Nhưng sự thật phải lộ ra, vì ích lợi của họ và cả sự thành công của kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho thế gian. Có 4 bối cảnh trong vở kịch cảm động này mà bắt đầu bằng những tin xấu và đi đến đỉnh điểm bằng những tin tốt lành.
1. Cuộc chạm trán: sự tin quyết sai lầm bị tiêu diệt (Sa 44:1-13)
Giô-sép có một mẹo nữa trong kế hoạch khôn ngoan của ông để đem các anh của ông đến sự ăn năn, và mẹo này có liên quan đến Bên-gia-min người em ruột yêu quí của ông. Một khi các con trai của Gia-cốp đã đối diện với tội lỗi của họ và ăn năn, Giô-sép có thể bày tỏ ông là ai, và họ có thể được làm hoà.
• Vui mừng khôn xiết.
Khi 11 anh em rời khỏi nhà Giô-sép, họ có mọi lý do để vui mừng (c.34). Họ không bị bắt về tội ăn cắp tiền mua lúa, Si-mê-ôn được tha, Bên-gia-min an toàn đi với họ, và sau cùng họ đang về nhà. Họ cũng là những vị khách được tôn trọng tại một bữa tiệc tuyệt vời, và vị quan hào phóng đã cho họ ra đi với những bao lúa đầy của họ. Đó thật sự là một ngày hạnh phúc.
Nhưng niềm vui mừng của họ chỉ là một ảo ảnh. Niềm vui và sự bình an thật không bao giờ có thể đặt cơ sở trên những lời nói dối, chúng phải được xây dựng trên lẽ thật. Xây dựng trên những sự giả dối là xây dựng trên cát và mời gọi sự xét đoán nào đó. Không có sự công bình, thì không thể có hoà bình thật, nhưng chỉ là một sự đình chiến mà cuối cùng nổ ra chiến tranh. “Việc làm của sự công bình sẽ là sự bình an, và kết quả của sự công bình là sự yên lặng và an ổn mãi mãi” (Es 32:17 NKJV).
• Bị bắt kịp (Sa 44:1-6).
Các anh em chắc ngạc nhiên khi họ thấy quản gia của Giô-sép và cận vệ của ông theo sau họ, không nhận ra rằng những tội lỗi của họ sắp bắt kịp họ. Các anh em chắc chắn sửng sốt khi người quản gia tố cáo họ lấy oán trả ơn. Nhưng cú sốc lớn nhất xảy ra khi ông tuyên bố rằng một trong các anh em là kẻ trộm đã ăn cắp chén bạc đặc biệt của chủ ông.
• Quá tự tin (c.7-12).
Các anh em quá chắc chắn về sự vô tội của mình đến nỗi họ tự bảo vệ mình một cách mạnh mẽ. Trước hết, họ lý luận, họ không phải là loại người đi quanh quẩn ăn cắp đồ đạc. Chẳng phải họ đã chứng minh sự lương thiện của họ bằng cách cho quản gia biết về số tiền họ tìm thấy trong bao lúa của họ đó sao? Nếu họ là kẻ cắp, họ sẽ giữ số tiền và chẳng nói gì.
Tuy nhiên, trong sự bảo vệ mình, họ đã đi quá xa. Vì họ đề nghị bên có lỗi bị giết và chính họ bị đặt vào vòng nô lệ. Khi làm điều này, họ đang bắt chước cha họ, vì Gia-cốp đã đưa ra lời tuyên bố tương tự khi đối phó với La-ban (Sa 31:32). Nhưng người quản gia khước từ đề nghị đó và đưa ra đề nghị khác. Thủ phạm sẽ trở thành tôi tớ của ông, và người còn lại có thể trở về nhà.
Khi quản gia lục soát các bao lúa, ông làm tăng sự căng thẳng bằng cách hành động theo cách của ông, từ anh cả cho đến em út (Sa 44:12). Đây là lần thứ hai các anh em không biết làm sao những người Ê-díp-tô biết thứ tự ra đời của họ (Sa 43:33). Một lần nữa, tiền của mỗi người được tìm thấy trong bao lúa của mình, nhưng không có gì đặc biệt được nói về điều này trong bản văn này. Trong khi quản gia tìm kiếm chén bạc, sự hiện diện của tiền họ trong các bao lúa chắc đã làm họ sợ hãi. Khi cái chén được tìm thấy trong bao lúa của Bên-gia-min, các anh em chắc chắn rằng đây là sự kết thúc.
• Bị áp đảo (Sa 44:13).
Các anh em đã bày tỏ sự đau khổ và buồn bực của họ bằng cách xé áo mình như thể ai đó đã chết. Hãy hình dung những suy nghĩ lướt nhanh qua tâm trí họ khi họ trở về thành. Làm sao họ có thể chứng minh sự vô tội của mình? Bên-gia-min thật sự đã làm việc đó chăng? Người sẽ bị bắt làm nô lệ hay có thể bị giết chăng? Tại sao họ đưa ra một đề nghị dại dột như thế trước tiên? Giu-đa sẽ nói gì với cha khi ông về nhà mà không có em út của mình? Vì tiền của họ được tìm thấy trong các bao lúa của họ, liệu tất cả họ sẽ bị kết tội là những kẻ cắp chăng?
Vì đã chịu trách nhiệm về Bên-gia-min, chắc chắn Giu-đa đang chuẩn bị sự thỉnh cầu của ông và có lẽ cầu nguyện Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp sẽ ban cho ông sự thành công. Lời nói của ông cho thấy rằng Giu-đa đã quyết định nói sự thật và xưng nhận những tội lỗi của ông cùng những tội lỗi của các em ông.
2. Sự xưng tội: Mối quan tâm anh em được bày tỏ (Sa 44:14-34)
Nhóm từ “Giu-đa cùng anh em” (c.14) báo động cho chúng ta rằng Giu-đa giờ đây là người phát ngôn cho gia đình. Thật vậy, chính Giu-đa là người đã đề nghị họ bán Giô-sép (Sa 37:26-27), và chính Giu-đa là người vô tình phạm tội loạn luân với con dâu mình (chương 38), nhưng bởi ân điển Đức Chúa Trời, con người có thể thay đổi và tạo những khởi đầu mới. Chúng ta hãy nhớ đến Giu-đa vì lời nói can đảm và thương xót của ông chớ không phải vì những tội lỗi dại dột của ông.
• Sự đầu phục (c.14-17).
Giô-sép đã có một để gặp các anh của ông, vì đây là dịp ông đã mong đợi nhiều năm qua. Khi các anh của ông đến, họ không chỉ cúi đầu trước mặt ông, họ đã sắp mình xuống đất, 11 người sợ hãi và tan vỡ. Đây là lần thứ 3 họ đã cúi đầu trước mặt ông (Sa 42:6 Sa 43:26), vì vậy những giấc mơ tiên tri của Giô-sép lại càng ứng nghiệm hơn nữa.
Trong lời mở đầu của mình Giu-đa cho biết rõ rằng ông thậm chí sẽ không tìm cách bảo vệ mình và các em, vì ông có thể nói gì? Đó là lúc miệng của những người phạm tội ngậm lại và họ thôi bảo vệ mình, để Đức Chúa Trời có thể bày tỏ sự thương xót (Ro 3:19).
Nhóm từ “Đức Chúa Trời đã tìm ra điều gian ác của tôi tớ chúa rồi” (Sa 44:16 NKJV) không chỉ đề cập đến việc phát hiện ra tiền mua lúa hay chén bạc. Lời tuyên bố này cũng chỉ về những tội lỗi kín giấu của họ, cách họ đã đối xử với Giô-sép và cha họ nhiều năm về trước. Trong lần đến Ai-cập đầu tiên của họ, họ đã kinh nghiệm cảm giác tội lỗi này và khiến cho Giô-sép rơi lệ (Sa 42:21-24).
Trước khi cho họ biết mình là ai, Giô-sép muốn khám phá thái độ của họ đối với Bên-gia-min. Vì vậy ông tuyên bố rằng Bên-gia-min sẽ ở lại Ai-cập làm tôi tớ ông còn những người còn lại trở về nhà. Chính lúc đó Giu-đa đến với sự bảo vệ Bên-gia-min trong lời nói dài nhất của một con người được tìm thấy trong Sách Sáng-thế ký, và là một trong những lời nói cảm động nhất được tìm thấy điều đó trong Kinh Thánh 8 lần trong lời bênh vực này, Giu-đa gọi Giô-sép là “chúa tôi” và 13 lần ông sử dụng từ “cha”. Giu-đa chẳng nhận ra rằng mỗi lần ông sử dụng từ “cha”, hoặc đề cập đến Bên-gia-min em trai ông, ông đang đụng đến tấm lòng của người nắm trong tay tương lai của họ.
• Sự bảo đảm (Sa 44:18-34).
Giu-đa hồi tưởng lại lịch sử gia đình gần đây của họ và nhắc Giô-sép về những sự thật ông biết cũng như họ biết, có lẽ rõ hơn. Mục đích của Giu-đa là trình bày vụ việc để Bên-gia-min được thả ra hầu cho người có thể về nhà với cha già của mình. Trước hết, Bên-gia-min có ở đó chỉ vì Giô-sép yêu cầu người đến. Các gia đình ở tại Ca-na-an sẽ chết đói nếu các anh em để Bên-gia-min ở nhà. Lời gợi ý có thể là nếu Bên-gia-min không đi cùng, có lẽ không có gì trong sự rắc rối này sẽ xảy ra.
Sau đó Giu-đa cho biết rõ ràng nếu Bên-gia-min ở lại Ai-cập thì cha họ sẽ chết, và ông thậm chí đã trích dẫn những lời chính Gia-cốp để chứng minh điều đó (c.29 Sa 42:38). Gia-cốp và Bên-gia-min khắng khít nhau trong bọc của sự sống (ISa 18:1 25:29) đến nỗi Gia-cốp không thể sống nếu không có con trai út của ông. Phải chăng Giu-đa biết rằng vị quan Ê-díp-tô quyền lực này có 2 con trai của ông, và liệu Giu-đa có hy vọng rằng câu chuyện của ông sẽ đụng đến tấm lòng của một người cha?
Lời cầu xin sau cùng của Giu-đa là đề nghị được ở lại Ai-cập làm người thay thế cho Bên-gia-min. Việc Giu-đa phải tuyên bố mình làm người bảo đảm cho em út mình (Sa 43:9-10) và tự nguyện thế chỗ cho em, chắc chắn đã đụng đến lòng Giô-sép, Giu-đa chắc chắn ông là nguyên nhân cái chết của Giô-sép, và ông không muốn làm nguyên nhân cái chết của Gia-cốp. Hơn 10 năm qua, Giu-đa đã nhìn thấy sự đau khổ sâu sắc của cha ông về việc mất Giô-sép, và ông không mong muốn nhìn thấy điều này được lặp lại.
Lời nói cảm động này chắc chắn bày tỏ mối quan tâm của Giu-đa về cha già của ông và em út của ông. Thật ra, Giu-đa gần như nài xin trở thành tôi mọi của Giô-sép! “Vậy bây giờ, xin cho kẻ tôi tớ Chúa ở tôi mọi thế cho đứa trẻ” (Sa 44:33). Đó thật sự là một Giu-đa mới đứng trước mặt Giô-sép, một người mà Giô-sép biết có thể tin cậy được. Giờ đây đã đến lúc để Giô-sép tỏ mình cho các anh em của ông.
Chúng ta cần phải nhắc nhở chính mình rằng Chúa Giê-xu Chirst là Đấng bảo lãnh cho những ai tin cậy Ngài (He 7:22). Ngài gánh vách trách nhiệm thay chúng ta để chắc chắn rằng chúng ta sẽ đến cùng Cha (Gi 14:1-6).Chúa Giê-xu đang “đem nhiều con đến sự vinh hiển” (He 2:10 NKJV), và Ngài bảo đảm rằng mỗi người trong số họ đều được an toàn. Giu-đa tự nguyện thế chỗ Bên-gia-min và phân cách với cha ông, nhưng Chúa Giê-xu thật sự đã thế chỗ chúng ta và chết thay chúng ta trên thập tự giá, kêu lên: “Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Mat 27:46) Ngài là Đấng bảo lãnh chúng ta và Ngài không thể thất bại.
3. Lòng thương: sự tha thứ nhân từ được bày tỏ (Sa 45:1-15)
Vì đây là một cuộc gặp mặt chính thức, những quan chức Ai-cập khác đã có mặt;nhưng giờ đây khi Giô-sép sắp giải quyết một vấn đề gia đình lâu đời, ông muốn các anh em ông đều đến với chính ông. Nguời thông ngôn của ông và có lẽ những quan chức khác có mặt, sẽ hiểu cuộc đối thoại của họ bằng tiếng Hê-bơ-rơ, và mọi người sẽ có thể chứng kiến những giọt nước mắt của các anh em cùng những bày tỏ về tình yêu. Đó là thời gian cho chuyện riêng tư của gia đình.
• Sự nhận biết (Sa 45:1-4).
Lời tuyên bố đơn giản “Tôi là Giô-sép” nổ ra như một tiếng sét ngang tai họ và đem vào lòng họ sự kinh hãi. Mọi loại tư tưởng lẫn lộn bất ngờ bắt đầu chạy lộn xộn trong trí họ. Làm sao vị quan Ê-díp-tô này có thể biết tên người em đã chết của họ? Vì sao ông tuyên bố mình là ai đó mà họ biết đã chết? Nhưng nếu ông ấy thật sự là Giô-sép, tại sao ông ta đối xử với họ cách này và ông sẽ làm gì để trừng phạt họ vì tội lỗi của họ? Họ không nói nên lời. Mọi miệng bị chặn lại như thể họ có tội trước mặt quan tòa của họ (Ro 3:19).
Nhưng có hai điều yên ủi họ: Ông yêu cầu họ đến gần hơn, điều mà người Ai-cập không làm với người Hê-bơ-rơ (Sa 43:32), và ông khóc một cách không kiềm chế nổi. Đây là lần thứ ba Giô-sép khóc vì cớ các anh của ông, nhưng đây là lần đầu tiên công khai. Ông nói với họ lần nữa chớ không chỉ nhận mình là Giô-sép nhưng cho họ biết điều họ đã làm cho ông! Bí mật của gia đình không còn là bí mật nữa.
• Can đảm lần nữa (Sa 45:5-8).
Vì Giô-sép có thể nhìn thấy những đáp ứng sợ hãi và hoang mang lẫn lộn của các anh, ông khích lệ họ bằng những lời đến từ một tấm lòng yêu thương và tha thứ. Vâng, họ đã làm sai và có lỗi, nhưng ông bảo họ đừng day dứt về tội lỗi mình nhưng về điều Đức Chúa Trời đã làm cho tất cả họ. Đức Chúa Trời đã tể trị thái độ thù ghét cùng những hành động độc ác của các anh để đem lại lợi ích cho tất cả. (xem những lời của Giô-sép trong Sa 50:20 là bản dịch Cựu-ước của Ro 8:28). Các anh của ông chịu trách nhiệm về những hoạn nạn của Giô-sép, nhưng Đức Chúa Trời sử dụng họ để thực hiện những mục đích thiên thượng của Ngài.
Câu chuyện về Giô-sép và các anh người khích lệ chúng ta tin những lời hứa của Ngài cho dù ngày có thể tối tăm ra sao “Có nhiều kế hoạch trong lòng người, tuy nhiên ý định của Đức Giê-hô-va sẽ không thay đổi” (Ch 19:21 NKJV). Đức Chúa Trời đã sai Giô-sép đến Ai-cập để gia đình Gia-cốp có thể được duy trì và dân tộc Y-sơ-ra-ên ra đời và cuối cùng ban Lời Đức Chúa Trời cùng Chúa Cứu Thế cho thế giới. Không nhận ra điều này, các anh Giô-sép đang giúp Chúa thực hiện giao ước Ngài với Áp-ra-ham (Sa 12:3).
• Sự tái bố trí (Sa 45:9-13).
Vì Giô-sép là “chúa tất cả” (c.8 Cong 10:36), tại sao gia đình ông phải sống trong cảnh thiếu thốn ở Ca-na-an? Năm năm đói kém nữa ở phía trước họ, và sẽ thật dại dột để thực hiện những chuyến hành trình nhiều lần đến Ai-cập để lấy lương thực. Giô-sép bảo các anh em ông vội vã về nhà, báo tin mừng cho cha ông rằng ông vẫn còn sống. Hãy gói ghém tất cả những đồ đạt cần thiết và đến sống thường trú tại Ai-cập. Ông hứa bảo vệ họ và chu cấp cho họ. Xứ Gô-sen là một khu vực màu mỡ của Ai-cập nơi gia đình Gia-cốp và con cháu họ có thể sống gần nhau mà không sợ hãi.
Tin tức quá tốt lành để có thể là sự thật, và có lẽ một số anh em bày tỏ sự hoài nghi và sự lưỡng lự (Lu 24:41). Phải chăng đề nghị này chỉ là cái bẫy khôn khéo khác, giống như tiền lúa bị giấu và cái chén “bị đánh cắp”? Nhưng Giô-sép đang nói với họ bằng ngôn ngữ Hê-bơ-rơ của chính họ chớ không qua người thông ngôn (Sa 45:12 Sa 42:23); và mặc dù họ đã không gặp ông 22 năm, chắc chắn họ có thể nhận ra tiếng nói và cách nói của em họ. Ít nhất, Bên-gia-min sẽ nhận ra người anh ruột của mình!
• Sự hòa giải (Sa 45:14-15).
Đó không phải là thời gian cho những lời giải thích và những sự biện hộ, nhưng cho những bày tỏ thành thật về tình yêu và sự tha thứ, Giô-sép ôm các anh em mình và hôn, đặc biệt là Bên-gia-min, và họ đều khóc với nhau. Vì tội lỗi kín giấu đã được phơi bày và giải quyết, sự tha thứ đã được ban phát, sự thương xót và lẽ thật gặp nhau, và sự công bình với lẽ thật đã hôn nhau (Thi 85:10).
Nhưng hãy nhớ rằng sự hòa giải này có thể thực hiện được chỉ vì Giô-sép đã chịu khổ và chiến thắng, và đó là một bức tranh đẹp về điều Chúa Giê-xu Christ đã làm cho tội nhân qua sự chết của Ngài trên thập tự giá và sự phục sinh của Ngài. Giống như Chúa Giê-xu, Giô-sép đã đi từ thương khó đến vinh hiển, từ ngục tù đến ngôi vị, và có thể chia sẻ sự giàu có và vinh hiển của mình với người khác.
Trong sự bênh vực mình trước hội đồng Do-thái, Ê-tiên gắng sức để chỉ ra rằng Giô-sép đã tỏ mình cho các anh em người “lần thứ hai” (Cong 7:13). Đây cũng là một bức tranh về từng trải của Đấng Christ với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài: Họ đã khước từ Ngài khi Ngài đến lần thứ nhất (Gi 1:11 5:43), nhưng họ sẽ nhận biết Ngài và tiếp nhận Ngài khi Ngài đến lần thứ hai, họ sẽ khóc và ăn năn (Xa 12:10-13:1)
“Đoạn anh em nói chuyện cùng người” (Sa 45:15) là một câu đơn giản nói lên một cách hùng hồn trong điều mà nó không tường thuật. Khi Giô-sép là một thiếu niên ở gia đình, các anh ông thù ghét ông đến nỗi họ thậm chí không thể nói với ông (Sa 37:4) nhưng giờ đây họ đã được hòa giải và được tha thứ, thì sự giao thông có thể thực hiện được.
Chúng ta có mọi lý do để tin rằng họ đã xin lỗi về cách họ đã đối xử với ông, và chắc chắn họ cung cấp cho Giô-sép tin tức gia đình, đặc biệt là tin tức về cha của họ.
Sự hòa giải của những anh chị em bị xa lánh phải dẫn đến mối thông công được phục hồi và sự thông công vui mừng (IICo 2:1-11). Giô-sép đã không đặt các anh của ông vào thời gian quản chế; ông tha thứ họ vô điều kiện và tiếp đón họ vào lòng ông và gia đình ông.
Bạn không khỏi so sánh cách Giô-sép giải quyết tội lỗi của các anh ông và cách vua Đa-vít giải quyết tội lỗi của các con trai ông (IISa 15:1-19, 43). Giô-sép đầy lòng yêu thương nhưng kiên quyết, ông biết rằng các anh của ông phải được đem đến vị trí của sự ăn năn và xưng tội trước khi họ có thể được tha thứ và được giao phó trách nhiệm. Tuy nhiên, Đa-vít đã tha thứ các con trai của ông mà không yêu cầu chứng cớ của sự ăn năn thật, và tình cảm không bình thường của ông dành cho Áp-sa-lôm gần như khiến ông trả giá bằng sự tận tuỵ của dân sự ông.
Giống như Am-môn và Áp-sa-lôm, Đa-vít đã phạm tội tà dâm, và điều này có thể đã ảnh hưởng đến khả năng của ông để giải quyết những tội lỗi của họ. Giô-sép là một người trong sạch và chính trực, nên phương cách giải quyết những tội lỗi của các anh ông trưởng thành hơn nhiều và đầy tin kính.
Chúng ta không cần thiết phải đắm mình trong bùn để cảm thông với những nhu cầu của tội nhân hay giúp họ tẩy thanh đời sống họ. Chúa Giê-xu là bạn của tội nhân (Mat 11:19 Lu 7:34) nhưng “thánh khiết, không tội, không ô uế, biệt khỏi kẻ có tội” (He 7:26).
4. Sự ca tụng: tin mừng được tuyên bố (Sa 45:16-28)
Những người Ê-díp-tô mà Giô-sép đã yêu cầu rời khỏi phòng có lẽ nấn ná gần cửa nên họ có thể là những người đầu tiên khám phá điều đang diễn tiến và thuật lại điều đó cho Pha-ra-ôn. Khi họ nghe Giô-sép cùng các anh em người khóc lóc thì hiểu lý do, họ đã đem tin cho Pha-ra-ôn là người vui mừng khi giờ đây các anh em của Giô-sép ở cùng ông. Xét cho cùng, Giô-sép là vị cứu tinh của dân tộc, là “cha” đối với Pha-ra-ôn (Sa 45:8) và vua Ai-cập muốn bày tỏ sự tiếp đón của hoàng gia đối với gia đình Giô-sép.
• Những lời hứa (Sa 45:16-21).
Giô-sép đã bảo các anh em của ông dời vào Ai-cập. Vì vậy có lẽ ông và Pha-ra-ôn đã bàn bạc ý kiến này từ trước, nhưng chúng cũng hứa hẹn thậm chí nhiều hơn. Ông hứa với họ “màu mỡ của đất” để hưởng và xe cộ để chở gia đình họ và bất cứ hàng hóa nào họ muốn đem theo đến Ai-cập. Vì cớ Giô-sép, Gia-cốp và gia đình ông có vị quan lớn Ê-díp-tô hành động thay họ và chu cấp những gì họ cần!
• Những món quà (Sa 45:22-23).
Các anh đã lấy áo của Giô-sép khi họ bán ông cho những lái buôn (Sa 37:23), nhưng ông đã cho mỗi người quần áo mới để mặc. Trong Kinh Thánh, sự thay đổi quần áo thường là dấu hiệu của một sự khởi đầu mới (Sa 35:1-7 Sa 41:14), và đây chắc chắc là một khởi đầu mới đối với 11 con trai của Gia-cốp.
Các anh của Giô-sép đã bán ông giá 20 miếng bạc, nhưng Giô-sép đã cho Bên-gia-min 15 lần số tiền đó. Ông cũng chu cấp cho những người này thêm lương thực và 10 con vật để chở lương thực và để kéo xe cho họ trở lại Ai-cập cùng với gia đình họ. Sẽ phải mất khá nhiều lương thực để nuôi Gia-cốp và 65 người trong gia đình ông khi họ đi đến Ai-cập.
Biết bản chất con người nói chung và các anh mình nói riêng, Giô-sép cho họ một lời khuyên sau cùng: “Đừng cãi lẫy dọc đường” (Sa 45:24).Suốt cuộc gặp gỡ đầu tiên của họ với Giô-sép, Ru-bên đã nói lời tương đương tiếng Hê-bơ-rơ rằng: “Anh đã bảo các em như vậy” (Sa 42:21-22). Và Giô-sép không muốn điều đó xảy ra lần nữa. Vấn đề đã được giải quyết một lần đủ cả và không cần thiết để bàn luận điều đó hay tìm cách đổ lỗi hoặc đánh giá tội lỗi. “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau, thật tốt đẹp thay” (Thi 133:1).
• Sự hồi sinh (Sa 45:25-28).
Gia-cốp vui mừng khi thấy các con trai ông an toàn trở về nhà lần nữa, đặc biệt là Bên-gia-min người được ông đặc biệt quan tâm. Nhưng Gia-cốp chưa sẵn sàng cho sự tường thuật không thể tin được rằng:
1. Giô-sép còn sống;
2. Ông là quan tể tướng của Ai-cập;
3. Ông muốn cả gia đình dời đến Ai-cập;
và 4. Ông sẽ chăm sóc tất cả họ.
Một người già trong một ngày có thể xử lý những tin mừng mức độ nào?
“Lòng Gia-cốp yếu đuối” (c.26 KJV) theo nghĩa đen là trái tim ông “trở nên lạnh!” hoặc “trở nên tê liệt”. Ông gần như có một cơn đau tim! Tin tức quá vui mừng đến khó tin, nhưng ông không thể phủ nhận sự hiện diện của những xe cộ do Giô-sép gởi đến và thêm những con vật để mang những gánh nặng và kéo xe. Tâm thần ông tỉnh lại khi ông dự định gặp Giô-sép và cho gia đình ở quanh ông cho đến khi ông chết. Ông được 130 tuổi thì ông đến Ê-díp-tô (Sa 47:9) và chết lúc 147 tuổi, nghĩa là ông có 17 năm để vui hưởng gia đình đặc biệt là Giô-sép và hai cháu ông chưa bao giờ thấy trước đó (c.28).
Các anh em chắc chắn xin Gia-cốp tha thứ cho họ vì đã gây cho ông 22 năm đau khổ. Dường như người già này không quá ngạc nhiên về sự xưng tội của họ, vì ông đã nghi ngờ ngay từ đầu rằng các con trai ông đã mang một bí mật tối tăm trong lòng họ (Sa 42:36). Mười bảy năm sau đó, trên giường hấp hối, Gia-cốp sẽ dành ngày của ông trong sân nhà khi ông triệu tập các con trai quanh ông và cho họ biết sự thật về chính họ và những kế hoạch của Đức Chúa Trời cho tương lai họ (chương 49).
Đức Chúa Trời tối cao đã tể trị những mưu kế của tội nhân và thực hiện ý muốn Ngài đối với Gia-cốp, Giô-sép và các anh em người. Bốn thế kỷ sau, dân Do-thái sẽ ở Ai-cập, trước hết với tư cách những vị khách được tôn trọng và sau đó với tư cách tôi mọi chịu khổ, nhưng qua mọi điều đó, Đức Chúa Trời sẽ phát triển họ thành dân tộc mà họ cần phải vậy để làm điều Ngài muốn họ làm.
“Ôi! Sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!” (Ro 11:33)
34. ÔNG NỘI BIẾT RÕ NHẤT (Sa 46:1-48:22)
Một châm ngôn Do-thái nói: “Đối với những kẻ dốt nát, tuổi già như mùa đông, nhưng đối với những người có học thức, đó là một mùa gặt”.
Gia-cốp giờ đây được 130 tuổi, và suốt những năm đó, ông đã học nhiều bài học quan trọng về Đức Chúa Trời, bản thân ông và những người khác, đặc biệt là các con của ông. Một số trong những bài học đó ở trường đời thật khó học, và Gia-cốp không phải luôn luôn vượt qua mọi cuộc kiểm tra một cách thành công. Nhưng giờ đây, nhờ sự nhân từ của Đức Chúa Trời và sự trung tín của Giô-sép, Gia-cốp sẽ gặt một mùa thu hoạch dư dật ở Ai-cập suốt 17 năm tiếp theo. Những năm cuối của ông sẽ không đem đến mùa đông với cái lạnh và những cơn bão của nó. Những năm xế chiều của Gia-cốp sẽ như mùa thu, với tia nắng vàng ấm áp của sự bình an và sự dư dật về mùa gặt nhân từ của Đức Chúa Trời.
1. Sự tin quyết của một người hành hương (Sa 46:1-30)
Sự thay đổi là điều gì đó mà những người lớn tuổi nhất sợ hãi và cưỡng lại và chúng ta không thể trách họ. Môi trường và những đồ vật quen thuộc, cùng sự hiện diện của gia đình và bè bạn lâu năm, tất cả đều cho người lớn tuổi một cảm giác tự tin và chủ động khiến đời sống có vẻ an toàn hơn và hạnh phúc hơn. Gia-cốp đã sống với gia đình ở Hếp-rôn từ nhiều năm, nhưng giờ đây đã đến lúc tất cả họ phải dời đi.
• Lời hứa của Đức Chúa Trời (Sa 46:1-4).
Gia-cốp và gia đình ông đã rời Hếp-rôn (Sa 37:14) và ra đi khoảng một tuần cho đến khi họ đến Bê-e-xê-ba, thành cực Nam Ca-na-an (Gios 15:21, 18). Bê-e-sê-ba là một nơi rất đặc biệt đối với Gia-cốp, vì tại đó Áp-ra-ham đã đào một cái giếng (Sa 21:30) và ở đó Áp-ra-ham đã sinh sống sau khi dâng Y-sác trên núi Mô-ri-a (Sa 22:19).
Y-sác đã sống ở Bê-e-sê-ba (Sa 26:23, 32-33) và chính từ gia đình ở Bê-e-sê-ba mà Gia-cốp đã ra đi để đến nhà La-ban tìm vợ. Tại Bê-e-sê-ba, Đức Chúa Trời đã hiện ra cho A-ga (Sa 21:17) và cho Y-sác (Sa 26:23-24) và giờ đây Ngài sẽ hiện ra cho Gia-cốp.
Vì Gia-cốp rời khỏi xứ của ông và đi vào một quốc gia xa lạ, ông đã tạm dừng để xây một bàn thờ và thờ phượng Chúa. Thật ích lợi để cầu xin sự giúp đỡ đặc biệt và sự chúc phước của Đức Chúa Trời khi chúng ta sắp bước vào một giai đoạn mới trong đời sống. Tôi nhớ đã thấy một tập thể gia đình đến phía trước nhà thờ vào cuối một buổi lễ thờ phượng và quỳ xuống để cầu nguyện. Vì người cha ở trong quân đội và đang được chuyển đến căn cứ khác, cả gia đình hiệp với ông trong sự phó thác mình cho Chúa vì cuộc mạo hiểm mới này.
Nhưng tại sao Gia-cốp lo lắng về việc đi đến Ai-cập?Giô-sép con trai ông đã chẳng chỉ dẫn ông đến đó sao? Đó không phải là điều khôn ngoan nhất để làm dưới ánh sáng của nạn đói tiếp diễn trong xứ hay sao? Có lẽ Gia-cốp sợ hãi vì ông nhớ rằng Áp-ra-ham ông nội của ông đã vướng vào rắc rối nghiêm trọng bởi đi đến Ai-cập (Sa 12:10). Và khi Y-sác cha của Gia-cốp khởi hành đến Ai-cập, Chúa đã ngăn trở ông (Sa 26:1-2). Ai-cập có thể là một nơi nguy hiểm cho một người hành hương của Đức Chúa Trời.
Nhưng Chúa đã đến cùng Gia-cốp vào ban đêm và bảo đảm với ông rằng thật an toàn để ông và gia đình ông tái định cư. “Hỡi Gia-cốp! Gia-cốp!” Nhắc chúng ta về “Hỡi Áp-ra-ham, Áp-ra-ham” (Sa 22:11). “Hỡi Sa-mu-ên, Sa-mu-ên” (ISa 3:10), “Hỡi Ma-thê, Ma-thê” (Lu 10:41) và “Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ” (Cong 9:4). Đáng khích lệ để biết rằng Chúa biết tên chúng ta và những nhu cầu cá nhân của chúng ta (Gi 10:3, 14, 27).
Đức Giê-hô-va muốn nhắc nhở Gia-cốp rằng Ngài không bị hạn chế ở xứ Ca-na-an, vì Ngài là Chúa của cả trái đất, kể cả Ai-cập (Gios 3:11, 13; Thi 83:18). Đức Chúa Trời sẽ đi cùng Gia-cốp đến Ai-cập và ở cùng ông để ban phước cho ông, như Ngài đã ở cùng Giô-sép và ban phước cho người (Sa 39:2, 21). Gia-cốp không có gì để sợ hãi, vì Chúa sẽ giữ những lời hứa mà Ngài đã lập với ông tại Bê-tên (Sa 28:15).
Tại sao Đức Chúa Trời muốn gia đình của Gia-cốp sống ở Ê-díp-tô? Vì ở Ê-díp-tô Ngài sẽ làm cho con cháu của Gia-cốp thêm nhiều và khiến họ trở nên một dân tộc lớn (Sa 12:2). Dân Do-thái sẽ bắt đầu sự tạm trú của họ ở Ê-díp-tô dưới sự bảo vệ của Pha-ra-ôn, vui hưởng những điều tốt nhất trong xứ. Tuy nhiên, những thế kỷ sau, dân Do-thái sẽ chịu ách nô lệ tàn bạo ở Ai-cập và kêu cầu Đức Chúa Trời để được sự giải cứu (Xu 1:1-22; Xu 2:23-25). Nhưng Đức Chúa Trời sẽ sử dụng hoạn nạn của họ để uốn nắn họ thành một dân tộc mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Môi-se.
Đức Chúa Trời đã cho Gia-cốp thêm sự bảo đảm rằng ông sẽ chết ở Ai-cập và Giô-sép con trai yêu quý của ông sẽ nhất định rằng tang lễ của ông sẽ là một tang lễ long trọng. Xác Gia-cốp sẽ được đem trở về Ca-na-an và được chôn trong hang đá nơi Áp-ra-ham và Sa-ra, Y-sác và Rê-bê-ca, và Lê-a đã được chôn (Sa 49:30-31). Trên cơ sở của những lời hứa này, Gia-cốp đã rời Ca-na-an và đi đến Ai-cập.
• Sự chúc phước của Đức Chúa Trời (Sa 46:5-27).
Pha-ra-ôn bảo họ đừng gây phiền phức khi mang theo của cải họ vì của cải của cả Ai-cập họ có thể tùy ý sử dụng (Sa 45:20), nhưng sẽ tàn nhẫn để bỏ gia xúc của họ suốt nạn đói, và chắc chắc họ đã đem đi một số tư trang mà họ đã tích lũy. Theo tập tuc của người Xê-mít điển hình, những người nam được kể tên trong danh sách này nhưng không có những người nữ, ngoại trừ Đi-na con gái của Giô-sép (46:15) “Các con gái” trong c.7 phải chỉ về các con dâu, vì chúng ta không biết con gái nào khác được sinh cho Gia-cốp.
Gia-cốp chắc đã được khích lệ khi thấy thể nào Đức Chúa Trời đã thêm nhiều con cháu ông, bảo vệ ông, chu cấp cho họ, gìn giữ họ với nhau cho sự ra đi quan trọng này. Một số người trong gia đình có thể không nhận ra điều đó, nhưng họ là một dân rất đặc biệt đối với Chúa vì Ngài có công việc quan trọng cho họ làm trong những năm sắp đến. Nhóm nhỏ những người di trú đó cuối cùng sẽ đem phước hạnh đến cho cả thế giới (Sa 12:1-3).
Sự ghi chép liệt kê trước hết các con trai, con gái, và các cháu trai của Lê-a (Sa 46:8-15), theo sau là gia đình của Xinh-ba (c.16-18), Ra-chên (c.19-22), và Bi-la (c.23-25), tổng cộng 70 người. Những lời của Gia-cốp tại Gia-bốc gợi nhớ: “Lúc trước khi qua sông Giô-đanh chỉ có cây gậy tôi, mà ngày nay tôi lại trở nên hai đội quân này” (Sa 32:10). Con cháu ông sẽ trở nên nhiều như cát dưới biển và sao trên trời (Sa 15:5 Sa 22:17 Sa 26:4 Sa 32:12), vì Chúa giữ những lời hứa của Ngài.
• Sự nhân từ của Đức Chúa Trời (Sa 46:28-30;).
Mười một anh em đã được đoàn tụ với Giô-sép, nhưng giờ đây Gia-cốp gặp ông sau 22 năm xa cách. Việc Gia-cốp chọn Giu-đa làm người dẫn đường cho thấy rằng ông tin cậy con trai ông, điều này gợi ý rằng các anh em đã cho cha họ biết mọi sự và được ông ưu ái trở lại. Giờ đây Gia-cốp có thể nhìn thấy bàn tay Đức Chúa Trời trong mọi điều đã xảy ra. Mặc cho những thất bại trong quá khứ của mình, Giu-đa giờ đây tỏ ra trung tín và con cháu ông cuối cùng được đặt tên là chi phái nhà vua (Sa 49:8-12).
Xứ Gô-sen nằm ở vùng Đông Bắc của châu thổ sông Nile, một khu vực khoảng 900 dặm vuông, rất màu mỡ và tuyệt vời để chăn nuôi gia súc. Chính nơi đó Giô-sép và cha ông đã gặp nhau, Giô-sép chờ đợi trong xe ngựa của nhà vua và Gia-cốp đi trong một trong những chiếc xe Pha-ra-ôn đã chu cấp. Lần thứ năm, chúng ta thấy Giô-sép khóc, dù không có lời tuyên bố cụ thể nào rằng Gia-cốp đã khóc. Có lẽ Gia-cốp bị chinh phục bởi niềm vui mừng và sự tạ ơn Đức Chúa Trời khi gặp lại Giô-sép đến nỗi ông không thể đổ nước mắt.
Lời tuyên bố của Gia-cốp trong c. 30 nhắc chúng ta về những lời của Si-mê-ôn khi ông nhìn xem hài nhi Giê-xu: “Lạy Chúa, bây giờ xin Chúa cho tôi tớ Chúa được qua đời bình an, theo như Lời Ngài, vì con mắt tôi đã thấy sự cứu vớt của Ngài” (Lu 2:29-30). Gia-cốp dường như bận tâm với sự buồn rầu và sự chết hơn là với những niềm vui được trải qua những năm cuối của ông với gia đình ông và đặc biệt với Giô-sép.
Những giấc mơ của Giô-sép đều đã trở thành sự thật. Giờ là lúc để chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn của đời sống với gia đình đông đúc của ông.
2. Sự nhân từ của một vị vua (Sa 46:1-30) (Sa 46:31-47:27)
Mặc dù Giô-sép là “cha” đối với Pha-ra-ôn (Sa 45:8), vẫn cần thiết để gia đình của Giô-sép chính thức được ra mắt tại cung điện với tư cách “những khách kiều ngụ” mới ở Ai-cập. Vì Giô-sép và Pha-ra-ôn đã nhất trí đặt gia đình ông ở Gô-sen, sự xuất hiện của các anh em tại cung điện là một thủ tục, nhưng là một thủ tục quan trọng.
• Pha-ra-ôn và các anh em Giô-sép (Sa 46:31-47:6).
Giô-sép thận trọng chỉ dẫn cho gia đình ông biết về ý nghĩa của việc làm một người chăn chiên ở Ai-cập. Việc các con trai Gia-cốp mang theo bầy chiên và bầy gia súc của họ cho thấy rõ rằng họ có kế hoạch ở lại Ai-cập và tiếp tục nghề nghiệp của họ. Biết rằng dân Ai-cập có thành kiến với người chăn chiên, sự nhấn mạnh của Giô-sép là về bầy gia súc chớ không phải bầy chiên. Tuy nhiên, họ nói dối về nghề nghiệp của họ nhưng thành thật và thẳng thắn trong mọi cách đối xử của họ với Pha-ra-ôn.
Chúng ta không biết năm anh em nào được Giô-sép chọn để giới thiệu gia đình hoặc vì sao họ được chọn. Là một người nghiên cứu say mê về bản chất con người và là một người sáng suốt, Giô-sép biết những người anh em nào của ông có thể gặp Pha-ra-ôn tốt nhất và tạo một sự cảm tình thuận lợi. Nhưng Pha-ra-ôn đã giữ những lời hứa của ông và ban phần đất tốt nhất trong xứ cho gia đình họ, cùng bầy chiên và bầy gia súc của họ, và ông đề nghị họ chăm sóc bầy gia súc của ông nữa.
Đây hoàn toàn là một sự cất nhắc đối với mười một con trai của Gia-cốp. Hôm nay họ là những khách kiều ngụ bình thường và ngày hôm sau họ là những người chăn gia súc chính thức của Pha-ra-ôn! Giô-sép đã tử tế với Pha-ra-ôn, và giờ đây Pha-ra-ôn bày tỏ sự tử tế với gia đình Giô-sép.
• Pha-ra-ôn và cha của Giô-sép (Sa 47:7-10).
Pha-ra-ôn chắc hẳn bồn chồn muốn gặp người cha già có ý nghĩa rất nhiều đối với Giô-sép. Việc đầu tiên Gia-cốp làm là chúc phước cho Pha-ra-ôn trong danh Đức Chúa Trời của ông, và ông cũng chúc phước cho Pha-ra-ôn vào cuối cuộc gặp gỡ của họ. Qua điều này, Gia-cốp là một tấm gương tốt về việc một tín hữu thật nên liên hệ với những người ở ngoài gia đình của Đức Chúa Trời như thế nào (IPhi 2:11-17). Mặc cho những thất bại của mình, và tất cả chúng ta đều có, Gia-cốp đã đem đến sự chúc phước của Đức Chúa Trời bất cứ nơi đâu ông đi.
Mọi người đều có ẩn dụ nào đó để mô tả đời sống một cuộc chiến, một cuộc đua, một cạm bẫy, một nan đề – và ẩn dụ của Gia-cốp là ẩn dụ về một người hành hương. Các trưởng tộc là những người hành hương và khách lạ trên đất (He 11:13-16), nhưng tất cả dân sự Đức Chúa Trời cũng vậy (ISu 29:15; IPhi 1:1; IPhi 2:11). Chúng ta đồng ý với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp rằng thế gian này không phải là quê hương của chúng ta. Thời gian của chúng ta nơi đây ngắn ngủi và tạm bợ, và chúng ta nôn nả tìm kiếm quê hương vĩnh viễn của chúng ta, thành của Đức Chúa Trời ở trên trời.
“Các năm của tôi ngắn ngủi và khó khăn”, Gia-cốp đã nói vậy với Pha-ra-ôn (Sa 47:9) là người có lẽ nghĩ rằng 130 năm là quá thọ. Nhưng Y-sác đã chết lúc 180 tuổi và Áp-ra-ham ở tuổi 175, vì vậy nói theo cách so sánh, cuộc hành hương của Gia-cốp là một cuộc hành hương ngắn. Từ “evil” (KJV) không ngụ ý là sự gian ác, nhưng đúng hơn là “sự khốn khổ” hoặc “sự đau buồn”. Đời sống của Gia-cốp là một đời sống khó khăn, nhưng giờ đây nó sẽ kết thúc bằng 17 năm bình an và hạnh phúc.
Chúng ta phải thán phục Giô-sép về cách ông giải quyết sự định cư của gia đình ông và sự trình diện của họ trước Pha-ra-ôn. Ông chắc chắn là một người quản lý có tài. Trong một xứ được dành cho sự thờ phượng nhiều thần, thật quan trọng khi gia đình Giô-sép làm chứng bằng hạnh kiểm của họ trước mặt Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. Phi-e-rơ đã gọi điều này là “có hạnh kiểm đáng tôn ở giữa dân ngoại” (IPhi 2:12 NKJV).
Pha-ra-ôn và dân sự của Giô-sép (47:11-27).
Pha-ra-ôn cho phép gia đình Giô-sép định cư trong phần đất tốt nhất của Ai-cập, nơi họ được chăm sóc đầy đủ hơn, nhưng dân Ai-cập bổn xứ phải trả giá đắt để duy trì đời sống của họ. Khi năm năm đói kém còn lại (Sa 45:6) đến và qua đi, dân Ê-díp-tô càng trở nên nghèo hơn, cho đến cuối cùng họ phải bán mình làm tôi mọi để sống, để thực hiện việc phân phối lương thực dễ dàng hơn, nhiều nông dân được dời vào các thành cho đến thời gian khi hạt giống sẵn sàng cho việc gieo trồng.
Vào lúc nạn đói chấm dứt và công việc đồng áng có thể bắt đầu trở lại, Pha-ra-ôn sở hữu tất cả tiền bạc trong Ê-díp-tô và làm chủ hết thảy dân sự cùng hết thảy bất động sản của họ, ngoại trừ đất của các thầy tế lễ, và các nhà nông phải trả 1/5 hoa lợi cho Pha-ra-ôn như một phần thuế hằng năm. Giô-sép không chỉ đã cứu quốc gia khỏi nạn đói mà còn lập một hệ thống kinh tế giúp Pha-ra-ôn có thể điều khiển mọi sự.
Còn dân Y-sơ-ra-ên đang làm gì? Đang nhiều thêm! (Xu 1:7). Vào lúc Môi-se dẫn dân tộc ra khỏi Ai-cập, dân Do-thái lên đến con số ít nhất là hai triệu người. Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài rằng Ngài sẽ khiến họ trở nên một dân tộc lớn.
Pha-ra-ôn là một vua ngoại đạo thờ phượng nhiều tà thần, nhưng Chúa đã hành động trong lòng ông và sử dụng ông để chăm sóc Gia-cốp cùng gia đình người (Ch 21:1). Có quá nhiều tín hữu Cơ-đốc nghĩ rằng Đức Chúa Trời chỉ có thể sử dụng dân sự Ngài ở những địa vị quyền lực, nhưng Ngài có thể thực hiện ý muốn Ngài thậm chí qua những vị vua vô tín như Pha-ra-ôn, Si-ru (Exo 1:1; Es 44:28), Nê-bu-cát-nết-sa (Gie 25:9; Gie 27:6) và Sê-sa Au-gút-tơ (Lu 2:1).
3. Di sản của một người ông (Sa 46:1-30) (Sa 47:28-48:22)
Gia-cốp đã vui sống với Giô-sép được 17 năm ở Hếp-rôn (Sa 37:2) và giờ đây ông sẽ vui sống với Giô-sép cùng các con trai ông trong 17 năm ở Ai-cập (Sa 48:28). Thật bi thảm khi tội lỗi của các con trai ông đã cướp đi của người cha họ 22 năm trong cuộc đời của Giô-sép, nhưng thậm chí trong sự hy sinh này, Đức Chúa Trời đã thực hiện kế hoạch của Ngài một cách tốt đẹp và chăm sóc cho dân sự Ngài một cách đầy yêu thương.
Gia-cốp lập kế hoạch cho sự chôn cất ông (Sa 47:28-31). Vì Gia-cốp đã khước từ Ru-bên, Giô-sép giờ đây đang thực hiện những bổn phận của người con trưởng, kể cả việc chôn cất cha. Gia-cốp biết rằng ông sắp chết, và ông muốn biết chắc ông sẽ được chôn trong Đất Hứa chớ không phải là Ai-cập. Ai đó có thể lý luận rằng Gia-cốp đang phạm một sai lầm, vì dân Ai-cập là chuyên gia về việc mai táng thi thể, nhưng đó không phải là vấn đề. Gia-cốp là một trong những người hành hương của Đức Chúa Trời, và ông muốn được chôn cùng gia đình ông trong xứ mà một ngày nào đó sẽ là quê hương của con cháu ông (Sa 49:29-32; Sa 23:1).
Mong ước của Gia-cốp là tang lễ của ông sẽ là một chứng cớ rõ ràng ông không phải là một người Ai-cập thờ hình tượng, nhưng là một người tin nơi Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, khi bạn dừng lại để nghĩ rằng tang lễ và sự chôn cất của bạn là những lời chứng công khai cuối cùng mà bạn sẽ bày tỏ, điều đó khiến bạn muốn vạch kế hoạch cẩn thận. Lập di chúc và chúc thư cuối cùng của bạn là quan trọng, nhưng đừng bỏ qua chứng cớ và lời chứng cuối cùng của mình.
Suốt chức vụ mục sư của mình, tôi đã thấy những người tự xưng là Cơ-đốc nhân lập mọi loại kế hoạch dại dột cho tang lễ của họ, kể cả việc chọn những bài hát và những bài đọc không có liên hệ gì với Kinh Thánh hay đời sống Cơ-đốc. Một số những chọn lựa này hoàn toàn là ngoại đạo và lý do duy nhất được đưa ra đó là những gì được người quá cố yêu thích. Thật không dễ để rao giảng Tin Lành sau những việc như thế. Chúng ta hãy noi gương Gia-cốp và cẩn thận hoạch định cho tang lễ của mình vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Giô-sép không chỉ hứa thực hiện những ước muốn của cha mình, sau đó ông còn yêu cầu các anh em ông lập lời hứa tương tự đó với ông như ông đã lập với cha họ (Sa 50:24-26).
• Gia-cốp tiếp nhận các cháu của ông (Sa 48:1-20).
Gia-cốp đã không thể ngồi dậy, mắt ông bị làng (c.10), và ông biết rằng sự cuối cùng đã gần. Nhưng khi Giô-sép bước vào phòng, Gia-cốp gượng đủ sức để ngồi dậy trên giường và nói chuyện với con trai ông về những vấn đề quan trọng không thể trì hoãn được. Ông không nói về những khó khăn của đời sống ông, ông nói về Đức Chúa Trời toàn năng (c.3, 11, 15, 20-21) và điều Ngài đã làm cho tôi tớ Ngài.
Khi Áp-ra-ham ở gần sự chết, ước muốn của ông là tìm một người vợ cho Y-sác và chuyển giao cho ông những phước hạnh của giao ước (chương 24). Đáng buồn mà nói, khi Y-sác nghĩ mình sắp chết, ông muốn ăn bữa ăn ưa thích của ông và sau đó chúc phước cho con trai ông yêu quý, kẻ không phải là người được Đức Chúa Trời chọn để mang những phước hạnh của giao ước (chương 27).
Mối quan tâm của Gia-cốp là chúc phước cho Giô-sép, người mà ông lập làm con trưởng, và sau đó tiếp nhận hai con trai của Giô-sép thuộc về ông và khiến họ trở thành những con trai của Y-sơ-ra-ên. Thật là một điều tốt lành để có thể kết thúc đời sống bạn mà biết mình đã hoàn tất công việc của Đức Chúa Trời cách Ngài muốn nó được thực hiện.
Gia-cốp nhìn lại một số kinh nghiệm về cuộc hành hương của ông với Đức Chúa Trời, bắt đầu bằng những lời hứa Đức Chúa Trời đã ban cho ông ở Bê-tên (c.3-4 Sa 12:1-3) và kể đến sự chết của Ra-chên yêu quý của ông, mẹ của Giô-sép (Sa 48:7). Gia-cốp bảo đảm với Giô-sép rằng Đức Chúa Trời sẽ thêm nhiều dân số của họ và một ngày nào đó đem họ ra khỏi Ai-cập để vào di sản của họ trong xứ Ca-na-an. Hai con trai của Giô-sép, Ma-na-se và Ép-ra-im sẽ có một di sản trong xứ đó, vì ông nội của họ đã tiếp nhận họ.
Như chúng ta đã thấy, Giô-sép đã thay thế Ru-bên, con trưởng của Gia-cốp (Sa 49:3-4 ISu 5:2) và giờ đây các con trai của Giô-sép sẽ thay thế Si-mê-ôn và Lê-vi (Sa 49:5-7), các con trai thứ hai và thứ ba của Gia-cốp. Những người Lê-vi không được ban cho di sản nào trong Đất Hứa nhưng sống trong 48 thành rải rác khắp Y-sơ-ra-ên (Dan 18:20; Phu 18:2; Gio 13:33; Gio 14:4 21:1), và Si-mê-ôn cuối cùng được sát nhập vào chi phái Giu-đa (Cac 19:1-9). Trong phương diện này, Đức Chúa Trời đã trừng phạt Lê-vi và Si-mê-ôn về sự hung dữ và bạo lực của họ ở Si-chem (Sa 34:1-31).
Gia-cốp không chỉ tiếp nhận hai cháu nội của mình, ông còn cho họ sự chúc phước đặc biệt. Gia-cốp có lẽ đang ngồi ở cạnh giường và các con trai đang đứng trước mặt ông, còn Giô-sép cúi đầu sát đất. Các con trai có nhận ra điều đó hay không, đó thật sự không phải là một việc nghiêm trọng.
Lần thứ năm trong sách Sáng-thế ký, chúng ta gặp một sự đảo ngược thứ tự ra đời, Đức Chúa Trời đã chọn A-bên, không phải Ca-in, Y-sác, không phải ích-ma-ên, Gia-cốp không phải Ê-sau, và Giô-sép không phải Ru-bên và giờ đây Ngài sẽ chọn Ép-ra-im thay Ma-na-se. Giô-sép bối rối về điều cha ông đã làm và tìm cách thay đổi tay của ông, nhưng Gia-cốp được Đức Chúa Trời hướng dẫn và biết điều mình đang làm. (Đây là trường hợp duy nhất được ghi chép về việc Giô-sép không hài lòng với cha ông hoặc bất cứ ai khác).
Khi chúc phước cho các con trai Giô-sép, Gia-cốp cũng chúc phước cho Giô-sép, vì chi phái Ép-ra-im và Ma-na-se đã trở nên những lãnh đạo mạnh mẽ trong Y-sơ-ra-ên. Gia-cốp quy tất cả vinh hiển cho Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời Đấng đã kêu gọi các tổ phụ của ông và chúc phước cho họ, Đấng đã hướng dẫn ông cả đời ông và chăm sóc cho ông và là Đấng đã cứu ông khỏi điều ác và tai hoạ dù ông đã kinh nghiệm sự khó khăn lớn.
• Gia-cốp chia sẻ của cải mình (Sa 48:21-22)
Giô-sép đã nhận một món quà bất ngờ ngày ấy, một mảnh đất mà Gia-cốp đã giành được của dân A-mô-rít trong cuộc chiến. Đây là chứng cớ duy nhất chúng ta có là Gia-cốp, một chiến sĩ thành thạo. Chiến thắng này có thể đã xảy ra suốt câu chuyện đau đớn ở Si-chem (Sa 34:25-29). Chúa Giê-xu sẽ gặp người đàn bà Si-kha ở đó và dẫn bà đến đức tin cứu rỗi (Gi 4:1-5). Giờ đây là con trưởng nam. Giô-sép đủ tư cách được phần phước gấp đôi (Phu 21:15-17), và Exe 47:13 cho thấy rằng trong vương quốc tương lai, Giô-sép sẽ có hai phần đất.
Gia-cốp giờ đây chúc phước cho các con trai Giô-sép, và giờ là lúc để gặp tất cả các con trai của ông và chúc phước cho họ.
-Sa 47:1-31; xem giải nghĩa Sa 46:1-30
-Sa 48:1-22; xem giải nghĩa Sa 46:1-30
35. GIA ĐÌNH VỚI MỘT TƯƠNG LAI (Sa 49:1-33)
Sáng-thế ký đoạn 49 thường mang đề tựa “Gia-cốp chúc phước cho các con trai ông” nhưng Gia-cốp chỉ sử dụng từ “chúc phước” khi đề cập đến Giô-sép (c.25-26), ba lần trong c.28 chúng ta được cho biết rằng những lời của Gia-cốp là một “sự chúc phước” cho các con trai, và theo một ý nghĩa tiên tri, những lời ấy chắc chắn là vậy, vì Gia-cốp báo trước điều Chúa dành sẵn cho họ trong tương lai. Nhưng “sự chúc phước” của Gia-cốp nhiều hơn cả điều đó.
Trước hết, những lời của Gia-cốp là một sự bày tỏ về tính cách và hạnh kiểm của con người cũng như những mục đích thiêng thượng. Ba người trong số các con trai biết rằng hạnh kiểm của họ trong quá khứ đã khiến họ trả giá bằng di sản tương lai của họ (c.3-7), vì chúng ta luôn gặt những gì chúng ta gieo. Nhưng còn điều gì đó nữa cũng đúng: những lời tiên tri của Gia-cốp chắc đã tỏ sự khích lệ lớn cho con cháu ông suốt thời gian khó khăn của sự chịu khổ ở Ai-cập, cũng như suốt những năm bất hạnh lang thang trong đồng vắng. Gia-cốp bảo đảm với mỗi chi phái về một nơi trong tương lai ở Đất Hứa, và điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với họ.
Nhưng thậm chí hơn thế, bạn tìm thấy trong “chứng cớ và lời chứng cuối cùng” của Gia-cốp một mặc khải đẹp đẽ về Chúa nhân từ Đấng chăm sóc tôi tớ Ngài trong rất nhiều năm. Cũng có một sự mặc khải về Đấng Mê-si-a, Đấng đã được hứa ban cho dân của Gia-cốp. Trong những lời này của Gia-cốp, bạn gặp Si-lô (c.10), sự cứu rỗi (c.18), Đấng mạnh mẽ, Đấng Chăn Chiên (c.24) và Đấng Toàn năng (c.25), tất cả đều chỉ về Cứu Chúa của chúng ta, Chúa Giê-xu Christ.
Khi nói với họ, Gia-cốp đi theo thứ tự ra đời của các con trai, bắt đầu với 6 con trai của Lê-a và kết thúc với 2 con trai của Ra-chên, Giô-sép và Bên-gia-min.
1. Các con trai của Lê-a (Sa 49:3-15)
Đức Chúa Trời đã ban cho Gia-cốp 6 con trai của Lê-a, người vợ mà ông không cần (Sa 29:31-35; Sa 30:14-21). Bà đặc biệt bởi làm mẹ của Lê-vi, người sáng lập ra chi phái tế lễ, và Giu-đa, tổ phụ của chi phái nhà vua.
-Ru-bên (Sa 49:3-4).
Gia-cốp nói trực tiếp với Ru-bên, con trai lớn nhất của ông, nhưng điều ông phải nói chẳng phải là lời ca ngợi. Một tội lỗi cũ Ru-bên đã phạm cuối cùng bắt kịp ông (Sa 35:22; Dan 32:23), và ông đánh mất những đặc quyền của mình với tư cách con trưởng nam. Gia-cốp đã ban sự chúc phước đó cho Giô-sép và hai con trai ông (ISu 5:1-2). Là con trưởng nam của Gia-cốp, Ru-bên lẽ ra phải là một người mạnh mẽ có phẩm cách, là người đã đem sự tôn trọng đến cho cha và gia đình ông, nhưng ông đã trở nên một người yếu đuối, làm xấu hổ gia đình bằng cách làm ô uế giường của cha ông.
“Sôi trào như nước” (Sa 49:4) nói về sự bất ổn định và sự yếu đuối. Thái độ ngạo mạn và cách sống liều lĩnh của Ru-bên không thích hợp cho một người con trưởng. Nước chắc chắn loãng trong chính nó, nhưng nước xáo động gây phá hoại. Thật khó tìm thấy trong Kinh Thánh bất cứ người nào của chi phái Ru-bên tự nổi bật với tư cách một lãnh đạo. Chi phái này đã giảm về số lượng giữa cuộc rời Ai-cập và đường vào Đất Hứa (Dan 1:20-21; Dan 2:11; Dan 26:7) rồi từ vị trí thứ bảy đến thứ chín. Đa-than và A-bi-ram là những người Ru-bên đã lãnh đạo trong cuộc nổi loạn của Cô-rê (Dan 16:1), dẫn đến cái chết của hằng ngàn người.
Chi phái Ru-bên định cư ở phía đông sông Giô-đanh với chi phái Gát và nửa chi phái Ma-na-se, vì đất này tốt cho bầy chiên và bầy gia súc của họ. Quân đội của Ru-bên đã không để ý sự kêu gọi của Đê-bô-ra và Ba-rác khi họ chống lại dân Ca-na-an (Cac 5:15-16). Rõ ràng họ không có sự can đảm kiên quyết để bước vào cuộc chiến, nhưng những năm sau đó họ đã phái các chiến sĩ đi giúp Đa-vít tại Hếp-rôn (ISu 12:37).
-Si-mê-ôn và Lê-vi (Sa 49:5-7).
Tội lỗi đắt giá của Ru-bên là tà dâm, nhưng Si-mê-ôn và Lê-vi đã phạm tội giận dữ và bạo lực trong cuộc tàn sát dân Si-chem một cách không kiềm chế (Sa 34:25-31). Trả thù việc cưỡng hiếp Ta-ma em gái của họ là đúng, nhưng không cần thiết phải diệt sạch những người vô tội chỉ để thỏa mãn ham muốn báo thù của họ.
Vì thật nguy hiểm để “ở trong hội của họ”, Đức Chúa Trời đã sắp đặt để hai chi phái sẽ không thể tập hợp hoặc làm bất cứ việc gì với nhau. Chi phái Si-mê-ôn cuối cùng đã được nhập vào chi phái Giu-đa (Gios 19:1, 9) và chi phái Lê-vi được ban cho 48 thành để sống, nằm rải rác khắp xứ (Sa 21). Thật vậy, các anh em bị “phân chia trong Gia-cốp và bị tản lạc trong Y-sơ-ra-ên”.
-Giu-đa (c.8-12).
Gia-cốp đã phơi bày những tội lỗi của Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi nhưng không nói gì về đề nghị của Giu-đa để các anh em bán Giô-sép làm tôi mọi (Sa 37:26-27). Giờ đây Gia-cốp nhận ra rằng điều Giu-đa đã làm ít nhất cứu được mạng sống Giô-sép và đưa ông đến Ai-cập, nơi Đức Chúa Trời có một công việc cho ông làm. Gia-cốp cũng không nói gì về tội lỗi của Giu-đa phạm với Ta-ma (Sa 38:1-29).
Đánh giá của Gia-cốp về Giu-đa dần dần trở nên cao hơn, đặc biệt vì Giu-đa đã lấy bản thân làm sự bảo đảm cho Bên-gia-min, và chắc chắn Giô-sép đã cho Gia-cốp biết về lời thỉnh cầu tha thiết của Giu-đa thay cho em trai út của mình. Khi Gia-cốp và gia đình dời đến Ai-cập, chính Giu-đa là người được Gia-cốp sai đi trước để làm cho mọi sự được sẵn sàng (Sa 46:28). Giu-đa đã phạm một vài sai lầm, nhưng ông cũng làm một số việc đúng với cha của ông và gia đình ông, và đó là sự khác biệt giữa ông và ba người anh của ông.
Tên Giu-đa và từ Hê-bơ-rơ nói về “ngợi khen” rất giống nhau (Sa 29:35) và Giu-đa thật đã sống đúng với tên của mình. Ông đã thành lập chi phái nhà vua để cho Y-sơ-ra-ên các vua của họ, một số người là những lãnh đạo tin kính, và cuối cùng để đem Chúa Giê-xu Christ vào thế gian (He 7:14). Giu-đa là một chi phái chiến thắng và là một chi phái cai trị, và cứ trung tín với dòng Đa-vít khi quốc gia bị phân chia.
Vì Đức Chúa Trời đã chỉ định Giu-đa làm chi phái nhà vua, thật có lý để liên hệ chi phái này với sư tử, vua của các loài thú (Dan 24:9 Exe 19:1-7 Mi 5:8 Kh 5:5). Gia-cốp so sánh Giu-đa với sư tử tơ, sư tử, và sư tử cái (Sa 49:9). Ai dám đánh thức một con sư tử lúc nó đang nghỉ ngơi sau khi ăn thịt thú bị giết, hoặc một sư tử cái trong lúc nó đang bảo vệ các thú con của nó?
Tên “Si-lô” trong c. 10 đã làm gia tăng thêm nhiều sự giải nghĩa và suy đoán nhưng sự giải nghĩa hợp lý nhất đó là nó chỉ về Đấng Mê-si-a (Dan 24:17). Nhóm từ này có thể được dịch là “cho đến chừng Đấng hiện tới là Đấng có quyền (cây phủ việt, tức là sự cai trị)”, vì từ Si-lô nghĩa là “của ai đó”. Các học giả xưa theo giáo lý Do-thái xem Si-lô là một danh của Đấng Mê-si-a được hứa ban, Đấng mà chỉ mình Ngài có quyền tuyên bố sự cai trị trên dân Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời.
Sự mô tả trong c.11-12 chắc chắn vượt xa thời đại của Giu-đa và nói về những phước hạnh của thời đại Vương quốc khi Đấng Mê-si-a sẽ cai trị trên Y-sơ-ra-ên. Không ai trong những thời đại Cựu-ước sẽ sử dụng một nhành nho tốt làm cây cột buộc lừa của mình, vì hành động như vậy chắc chắn sẽ làm hư hại cây nho và có thể gây ra sự thiệt hại cho con vật. Vợ của người này cũng sẽ không lãng phí rượu nho quý của họ bằng cách giặt quần áo trong đó! Đây là ngôn ngữ của sự cường điệu. Nó mô tả một xứ quá giàu có và một dân quá thịnh vượng đến nỗi họ có thể làm những việc khác thường này mà không phải lo lắng về những hậu quả. Suốt thời đại Vương quốc, khi Đấng Mê-si-a cai trị, người ta sẽ vui hưởng sự khoẻ mạnh và sự xinh đẹp (c.12), vì những kẻ thù tàn phá đời sống con người sẽ bị thủ tiêu.
-Sa-bu-lôn (Sa 49:19).
Mặc dù không ở trực tiếp trên bờ biển Địa Trung hải, chi phái Sa-bu-lôn được ấn định phần đất đủ gần biển để thực hiện việc chuyên chở hàng hóa có ích cho dân sự. Sa-bu-lôn nằm trên một con đường quan trọng mang hàng hóa từ bờ biển này đến Biển Ga-li-lê và đến Đa-mách. Môi-se đã nói: “Vì họ sẽ dự phần sự dư dật của biển” (Phu 33:19 NKJV Gios 19:10-16). Đa phần, dân Do-thái không phải là một dân chuyên đi biển, nhưng chi phái Sa-bu-lôn đã thực hiện việc giao dịch với dân Phô-ni-xia ở phía Đông của họ và cung cấp những mặt hàng nhập khẩu cho dân phía Tây của họ.
Tuy nhiên, họ cũng là một dân can đảm mà những chiến sĩ của họ có tiếng tăm ưu tú (ISu 12:35). Đê-bô-ra và Ba-rác ngợi khen những người của Sa-bu-lôn về việc đã tập hợp lại vì chính nghĩa và chống lại Si-sê-ra (Cac 5:14-18). Ê-lôn, một trong các quan xét, từ chi phái này (Sa 12:11-12).
-Y-sa-ca (Sa 49:14-15).
Y-sa-ca nằm ở mũi phía Đông của trũng Gít-rê-ên màu mỡ (Gios 19:17-22), xen giữa Sa-bu-lôn và sông Giô-đanh. Quan xét Thô-la từ chi phái Y-sa-ca (Sa 10:1-2), dân Y-sa-ca đã chống lại Si-sê-ra (Sa 5:15), và Đa-vít có những chiến sĩ từ chi phái đó, là những người hiểu thời cuộc và biết điều Y-sơ-ra-ên phải làm (ISu 12:32). Nhiều người của chi phái này đã dũng cảm trong cuộc chiến (ISu 7:5).
Chúng ta ngày nay nghĩ đến con lừa như một con vật hèn mọn dùng để chuyên chở, nhưng trong các thời đại Cựu-ước, các vua đã cỡi trên lừa (IVua 1:38). Hình ảnh trong Sa 49:14-15 là hình ảnh về một dân mạnh mẽ không ngại mang gánh nặng. Dân Y-sa-ca làm việc chăm chỉ và tận tụy với đất. Họ hài lòng với phần đất của mình và tận dụng nó. Chi phái này đã sinh ra những anh hùng cao trọng, nhưng sự lao động hàng ngày của họ là một sự giúp đỡ cho những người khác. Xét cho cùng, không phải mọi người trong Y-sơ-ra-ên đều được kêu gọi làm một Giu-đa hay một Giô-sép!
Trong số 6 con trai của Lê-a, ba người đã đánh mất sự chúc phước của Đức Chúa Trời vì cớ tội lỗi họ; Ru-bên, Si-mê-ôn và Lê-vi. Họ nhắc nhở chúng ta rằng sự thanh khiết và sự tự chủ là cần thiết cho tính cách tin kính. Sa-bu-lôn và Y-sa-ca là “những người thông thường” mà những chi phái của họ đã phục vụ người khác, nhưng đặc biệt không được biết đến về những thành tích của họ. Chúng ta cần những nông dân và những nhà buôn nếu bộ máy của đời sống cần phải hoạt động một cách trơn tru. Sau cùng, chỉ một con trai – Giu-đa – trội hẳn giữa vòng các anh em của ông, chi phái nhà vua đã chiến thắng kẻ thù và sinh ra các vua, kể cả Vua muôn vua, là Chúa Giê-xu Christ.
2. Các con trai của Bi-la (Sa 49:16-18, 21)
Bi-la, đầy tớ gái của Ra-chên, được trao cho Gia-cốp để sinh con cho ông vì Ra-chên lúc đó son sẻ (Sa 30:1-8).
-Đan (Sa 49:16-18).
Tên Đan nghĩa là “xét đoán” (Sa 30:6), và chi phái của ông đã sinh ra một trong những quan xét nổi tiếng nhất, là Sam-sôn (Cac 13:1 Cac 16:31_. Chi phái Đan được ban cho một xứ màu mỡ giáp với Biển Địa Trung hải trong lãnh thổ Phi-li-tin (Gios 19:40-48), nhưng họ đã không đánh đuổi dân Phi-li-tin (Gios 19:40-48). Để có thêm đất, họ đi đến phía Bắc và chinh phạt dân La-ít rồi chiếm xứ họ (c.47 Cac 18:1-29).
Bằng cách liên hệ Đan với con rắn, Gia-cốp đã bày tỏ bản chất xảo trá của ông và thói quen của ông về việc thực hiện những cuộc tấn công bất ngờ trên kẻ thù của ông. Việc chi phái này chinh phạt dân La-ít không có sự bảo vệ, là một điển hình về những chiến thuật khôn khéo, và việc họ dựng lên một hình tượng trong địa phận mình chứng tỏ rằng họ không hoàn toàn tận trung với Chúa. Hai thế kỷ sau đó, vua Giê-rô-bô-am đã dựng lên một trong các tượng bò vàng ở Đan (IVua 12:28-30).
Đan đã bị bỏ ra khỏi các gia phổ trong ISử-ký đoạn 2 đến đoạn 10 và trong danh sách chi phái ở Kh 7:1-8. Phải chăng đây là vì sự thờ hình tượng của họ? Tuy nhiên, khi Ê-xê-chi-ên mô tả vị trí các chi phái suốt thời đại vương quốc, ông có một chỗ dành cho Đan (Exe 48:1-2). Lời cảm thán: “Hỡi Đức Giê-hô-va tôi đã chờ đợi sự cứu rỗi của Ngài!” (Sa 49:18 NKJV) gợi ý rằng Gia-cốp ở trong sự giao thông với Chúa trong khi ông nói với các con trai mình. Phải chăng ông đang cầu xin Chúa sức mạnh đặc biệt để hoàn tất điều ông phải nói? Hay ông đang rao báo rằng Chúa chẳng bao lâu sẽ gọi ông vào cõi đời đời? Từ được dịch là “sự cứu rỗi” là “yeshua”, từ này cho chúng ta tên Giô-suê “Đức Giê-hô-va là sự cứu rỗi”. Dạng tiếng Hy-lạp là “Jêsus”.
-Nép-ta-li (Sa 49:21).
Vì lý do nào đó, Gia-cốp đã nói với Gát và A-se, các con trai của Xinh-ba trước khi ông nói với Nép-ta-li, em của Đan. Vị trí của chi phái này ở phía Bắc của Sa-bu-lôn với Y-sa-ca và có Biển Ga-li-lê. Sa-bu-lôn và Nép-ta-li là một phần của khu vực được gọi là “Ga-li-lê của dân ngoại”, được tiên tri Ê-sai nói đến (Es 9:1-2) và là nơi Chúa Giê-xu đã thi hành chức vụ (Mat 4:12-16). Hãy chú ý rằng Sa-bu-lôn và Nép-ta-li đáng được chú ý về sự can đảm của họ trong cuộc chiến (Cac 5:18).
Hình ảnh “nai cái thả chuồng” gợi ý một dân có tinh thần thoải mái, không bị ràng buộc vào truyền thống. Chi phái này nằm ở vùng đồi, vì vậy hình ảnh này được chọn một cách khôn ngoan. Môi-se nói họ “thỏa lòng với ân huệ, và đầy sự chúc phước của Đức Giê-hô-va” (Phu 33:23 NKJV). Mệnh đề cuối cùng “người bày tỏ những lời tin kính (đẹp đẽ)” (NKJV), gợi ý rằng họ là một dân đầy thi vị có thể bày tỏ chính mình rõ ràng. Có những khả năng để hoạt động như vậy và nói những lời đẹp đẽ dân Nép-ta-li làm nên những sứ giả lý tưởng.
Con cháu của hai con trai Bi-la dường như là những dân trái ngược nhau. Đan xây bỏ đức tin nơi Đức Chúa Trời chân thật và tin cậy nơi các hình tuợng. Họ trở nên một dân lừa dối, bóc lột người khác để đạt được điều họ muốn. Nhưng Nép-ta-li không có sự xét đoán nào nghịch với điều đó. Khi quân A-si-ri xâm lược vương quốc Y-sơ-ra-ên phía Bắc, Nép-ta-li là một trong những chi phái đầu tiên bị bắt và bị lưu đày (IIVua 15:29).
3. Các con trai của Xinh-ba (Sa 49:19-20)
Xinh-ba là đầy tớ gái của Lê-a, được trao cho Gia-cốp để sinh thêm con cho ông sau khi Lê-a thôi sinh sản (Sa 30:9-13). Tuy nhiên, sau đó Lê-a đã sinh Y-sa-ca, Sa-bu-lôn và Đi-na (c.14-21).
-Gát (Sa 49:19).
Tên ông có thể nghĩa là “vận may” (Sa 30:11) và “một đoàn quân” vì vị trí của chi phái này ở phía Đông sông Giô-đanh, các đoàn quân kẻ thù có thể dễ dàng xâm lược địa phận của họ. Gia-cốp bảo đảm với dân Gát rằng không cuộc chinh phạt nào sẽ là cuối cùng, nhưng họ cuối cùng sẽ thắng những kẻ thù của họ. Câu này nguyên văn là “còn đoàn quân (Gát), một đội quân sẽ xông đánh người, nhưng người sẽ đuổi theo gót chúng”. Là một người già trên giường hấp hối, Gia-cốp vẫn có thể thực hiện một sự chơi chữ khôn ngoan từ tên của con trai ông.
Dân Gát là những chiến sĩ vĩ đại (Gios 22:1-6). Môi-se đã so sánh họ với sư tử dũng mãnh có thể xé tay và đầu của những kẻ thù mình (Phu 33:20).
-A-se (Sa 49:20).
Tên này nghĩa là “phước” hoặc “vui mừng” (Sa 30:13). Vì chi phái A-se đã không thể đuổi được các cư dân thuộc địa phận của họ (Cac 1:31-32), họ quyết định là một dân nông nghiệp, tận dụng đất màu mỡ do Đức Chúa Trời đã ban cho họ (Gios 19:24-30). Môi-se đã nói rằng A-se “có phước nhất”, chỉ về sự giàu có của dầu ô-li-ve và sự an toàn của các thành nó (Phu 33:24-25). Thật vậy, lương thực của A-se dồi dào, và chi phái này thậm chí đã cung cấp những cao lương mỹ vị đặc biệt “thích hợp cho vua”.
4. Các con trai của Ra-chên (Sa 49:22-27)
Gia-cốp không ngần ngại cho biết rằng Ra-chên là vợ yêu quý của ông và hai con trai của bà là những đứa con yêu quý của ông. Sự thiên vị này đã gây ra nhiều rắc rối trong gia đình, nhưng Đức Chúa Trời đã tể trị điều đó để thực hiện những mục đích của Ngài. Gia-cốp nói về Giô-sép nhiều hơn về bất cứ ai trong các con trai khác, nhưng ông không có nhiều điều để nói về Bên-gia-min.
-Giô-sép (Sa 49:22-26).
Gia-cốp sử dụng từ “chúc phước” ít nhất 6 lần trong lời nói của ông và nói về Giô-sép. Ông ví sánh Giô-sép như một cây nho trĩu quả (hay cành của một cây ăn quả), hút nước từ một con suối (Thi 1:3) và mọc vượt trên tường. Chính Giô-sép đã bị bắt đi khỏi gia đình và sống ở Ai-cập, còn từ “kết quả” chỉ về Ép-ra-im con trai ông (Sa 41:52), người sáng lập một chi phái phát triển nhiều và mở rộng địa phận nó (Gios 17:14-18). Giô-sép hay các con trai ông cũng không thể bị giam hãm!
Gia-cốp sử dụng hình ảnh “kẻ cầm cung” để mô tả hoạn nạn mà Giô-sép đã trải qua trong tay các anh của ông và chủ của ông ở Ai-cập. Trong Kinh Thánh, việc bắn cung đôi khi là một hình ảnh về việc nói dối và nói những lời ghen ghét (Thi 57:4; Thi 64:3-4; Ch 25:18; Ch 26:18-19; Gie 9:8). Các anh của Giô-sép đã không thể nói với ông bằng thái độ tử tế (Sa 37:4) và họ nói dối về ông với cha họ. Còn vợ của Phô-ti-pha đã vu cáo Giô-sép và khiến ông bị bỏ tù. Thật vậy, những kẻ bắn cung đã bắn một cách nhẫn tâm vào nguời thanh niên vô tội.
Nhưng Giô-sép đã không bắn trả lại! Đức Chúa Trời đã thêm sức cho ông để những lời của ông luôn chân thật, và chính sự chính trực này cuối cùng đã dẫn đến việc ông được thả khỏi tù và được cất nhắc làm quan tể tướng trong xứ. Nhưng sự đề cập đến cung tên và mũi tên vượt xa hơn hình ảnh về sự giả dối, nó cũng nhắc chúng ta về kỹ năng quân sự của dân Ép-ra-im (Cac 8:1; Cac 12:1; Gios 17:17-18).
Gia-cốp đã sử dụng ba danh đặc biệt của Chúa: Đấng toàn năng của Gia-cốp, Đấng Chăn Chiên, và Đá. Đức Giê-hô-va hạ cố để được gọi là “Đức Chúa Trời của Gia-cốp”, và với tư cách “Đức Chúa Trời Toàn năng”, Ngài đã chăm lo cho những nhu cầu của Gia-cốp, giúp ông với công việc khó khăn của ông (Sa 31:36-42) và giải cứu ông khỏi nguy hiểm (c.24).
Gia-cốp đề cập đến Chúa với tư cách “Đức Chúa Trời Đấng chăn nuôi tôi (chăm sóc tôi)” (Sa 48:15). Vì bản thân Gia-cốp là một người chăn chiên, ông biết điều gì có liên quan trong việc chăm sóc bầy chiên. Ý niệm về Đức Chúa Trời là Đấng Chăn Chiên thường được tìm thấy trong Kinh Thánh (Thi 23:1; Thi 80:1; Thi 100:3; Es 40:11; Exe 34:1-31) và đạt đến đỉnh điểm trong Chúa Giê-xu Christ, Đấng Chăn Chiên Hiền Lành đã phó mạng sống Ngài vì bầy chiên (Gi 10:1-42).
Đá là hình ảnh tương tự khác nói về Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (Phu 32:4, 15, 18, 31 ISa 2:2 IISa 22:32) và cũng chỉ về Đấng Christ (Thi 118:22; Mat 21:42; Cong 4:11; ICo 10:4; IPhi 2:7). Khi bạn nghĩ về một hòn đá, bạn nghĩ đến sức mạnh, sự vững chắc cùng sự an toàn, và Đức Chúa Trời đã chu cấp tất cả mọi điều và hơn nữa cho Gia-cốp suốt cuộc hành hương gian nan trên đất của ông.
Gia-cốp đã hứa với Giô-sép rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho con cháu ông những phước hạnh trên đất mà họ đã cày cấy, bằng cách ban mưa từ trời và cung cấp những dòng suối dưới đất (Phu 33:13-16). Ông cũng nói trước khả năng sinh sản đối với dân sự hầu cho chi phái này sẽ gia tăng vì vinh hiển của Đức Chúa Trời (Os 12:8). Ép-ra-im và Ma-na-se là những chi phái quan trọng trong Y-sơ-ra-ên. Thật ra, vương quốc phía Bắc thường được gọi là “Ép-ra-im” (Es 7:1-2 Os 13:1).
Đức Chúa Trời đã chúc phước cho Áp-ra-ham một cách dồi dào (Sa 13:6), và Áp-ra-ham đã chia sẻ sự giàu có của ông với Y-sác (Sa 25:5), là người chuyển giao nó cho Gia-cốp. Nhưng sự làm việc siêng năng của Gia-cốp đã sinh ra sự giàu có thậm chí nhiều hơn.
Vì vậy, từ đời này sang đời khác, sự giàu có đã gia tăng vì sự chúc phước của Chúa, giống như phủ đầy đất tới núi. Nhưng số người thừa kế cũng gia tăng, và giờ đây có 12 con trai. Nhưng Giô-sép là con trưởng và 2 con trai ông sẽ dự phần cơ nghiệp của cha họ.
- Bên-gia-min (Sa 49:27).
Bạn sẽ tưởng Gia-cốp nói nhiều hơn về Bên-gia-min con út của ông, “con trai tay hữu của ông”, nhưng lời của ông ít và khó hiểu. Tại sao lại ví sánh Bên-gia-min với một “chó sói đói cồn cào?”.
Dân Bên-gia-min đã can đảm và giúp đánh bại Si-sê-ra (Cac 5:14), nhưng khi bạn đọc lịch sử chi phái Bên-gia-min trong Các quan-xét đoạn 19 và 20, bạn thấy con chó sói đói cồn cào đang hành động. Sau-lơ, vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, từ chi phái Bên-gia-min. Suốt sự nghiệp của ông, ông đã hơn một lần tìm cách giết Đa-vít (IISa 19:10), và ông đã nhẫn tâm giết mọi người trong thành Nóp của thầy tế lễ (ISa 22:6). Những người Bên-gia-min khác được biết về tính hung ác của họ là Áp-ne (IISa 2:23), Sê-ba (IISa 20:1-26), Si-mê-i (IISa 16:5-14). Sau-lơ ở Tạt-sơ, một người Bên-gia-min (Ro 11:1 Phi 3:5) giống như một con thú hoang khi ông bắt bớ Hội thánh và truy nã các Cơ-đốc nhân để bỏ tù họ.
Đáng chú ý rằng những lời của Môi-se về Bên-gia-min chẳng nói gì đến cách cư xử hung ác của một con thú (Phu 33:12). Ngược lại, Môi-se gọi ông là “người mà Đức Giê-hô-va yêu mến” và hứa với ông sự bảo vệ thường trực của Đức Chúa Trời. Thật ra, Bên-gia-min sẽ “ở giữa hai vai Ngài” (NKJV), điều này gợi ý việc được mang trên lưng hoặc nơi lòng ông. Khi dân tộc bị phân chia sau sự chết của Sa-lô-môn, chi phái Bên-gia-min vẫn trung tín cho đến dòng Đa-vít và ở với chi phái Giu-đa. Họ cùng lập nên vương quốc Giu-đa phía Nam.
5. Tất cả các con trai với nhau (Sa 49:28-33)
Những lời tuyên bố mà Gia-cốp thực hiện cho mỗi con trai của ông sẽ được họ ghi nhớ và lập lại cho những người trong gia đình họ trong những năm sắp đến. Khi thời gian trôi qua, họ sẽ hiểu những ý nghĩa mới và sâu sắc hơn trong những lời rao báo này, và họ sẽ quý trọng những lời bảo đảm mà Gia-cốp đã ban cho họ từ Chúa.
Nhưng những lời tuyên bố cuối cùng của người già này là nói về bản thân ông, không phải về các con trai của ông, vì ông muốn họ bảo đảm rằng họ sẽ chôn ông trong hang đá Mặc-bê-la nơi thi thể của 5 người trong gia đình ông giờ đang yên nghỉ. Áp-ra-ham đã mua hang đá này làm nơi chôn Sa-ra trong Sáng-thế ký đoạn 23, nhưng trải qua nhiều năm, Y-sác, Rê-bê-ca và Lê-ca đã được chôn ở đó, và giờ đây Gia-cốp sẽ dự phần với họ. Ông đã nói về vấn đề này với Giô-sép, vì vậy ông biết những yêu cầu của ông sẽ được làm theo, nhưng ông muốn tất cả các con trai ông biết họ có trách nhiệm vâng theo những mệnh lệnh cuối cùng của ông và bày tỏ sự tôn trọng đối với cha của họ.
Đời sống dài và khó khăn của Gia-cốp đã chấm dứt, ông đã thực hiện hành trình cuối cùng của ông. Công việc của ông đã làm xong, ông trút hơi thở cuối cùng và qua đời. Chỉ với cây gậy của mình, ông đã vượt qua sông Giô-đanh nhiều năm trước đó, và giờ đây ông có cây gậy ở cùng (He 11:21) khi ông vượt qua bờ bên kia.
Ông là một người hành hương cho đến lúc cuối cùng.
36. BA CHIẾC QUAN TÀI (Sa 50:1-26)
Tôi có lần hỏi một người bạn rằng tỉ lệ tử vong ở thành phố của anh ra sao, và anh ta ôn tồn đáp “một trên mỗi người.” Đó là tỉ lệ ở khắp nơi.
Sự chết không phải là một tai nạn, đó là một sự chỉ định (He 9:27). Woody Allen đã viết “không phải tôi sợ chết. Tôi chỉ không muốn ở đó khi nó xảy ra”. Nhưng ông ta sẽ ở đó, bạn và tôi sẽ ở đó khi nó xảy ra với chúng ta. Chưa có ai tìm ra cách lén nhìn vào cuốn sách về sự chỉ định của Đức Chúa Trời và xóa đi ngày tháng.
Chương này ghi lại ba sự chôn cất, hai theo nghĩa đen và một theo nghĩa bóng, và tất cả chúng đều quan trọng.
1. Một quan tài cho một người cha yêu quý (Sa 50:1-14)
Cảnh này là một cảnh long trọng. Gia-cốp không có gì để nói nữa. Vì vậy ông ngã mình nằm xuống, và đi ngủ với con trai của ông đứng quanh ông và Đức Chúa Trời ông chờ đợi ông. Ông đã để lại đằng sau những hạt nhân của một dân tộc lớn và lời chứng về điều mà một Đức Chúa Trời vĩ đại có thể làm với một người bất toàn tìm cách sống bởi đức tin. Ông đã đổi chiếc lều hành hương của ông để có một quê hương ở thành trên trời (He 11:13-16).
• Sự đau buồn (Sa 50:1, 10-11).
Alfred Lord Tennyson đã viết: “người già phải chết nếu không thế gian sẽ lên mốc, sẽ chỉ nuôi quá khứ một lần nữa”.
Có lẽ vậy.
Nhưng khi người già chết, những ai yêu họ đều cảm thấy sự mất mát sâu sắc. Bạn có ai đó trong đời sống bạn mà bạn thật sự yêu càng lâu, gốc rễ đi vào lòng bạn càng sâu, và kinh nghiệm về việc có những gốc rễ đó bị nhổ đi, càng mạnh mẽ. Vâng, sự đau buồn là môt phần bình thường của đời sống, và những tín hữu không đau khổ “như những người khác không có hy vọng” (ITe 4:13 NKJV). Nhưng sự chết vẫn là một kẻ thù, nên khi nó lẻn vào và cướp của chúng ta người thân yêu nào đó, chúng ta cảm nhận sự đau đớn một thời gian dài.
Đây là lần thứ 6 chúng ta thấy Giô-sép khóc và đó không phải là một việc thầm lặng. Ông “cúi xuống” cha ông như ông đã làm đối với Bên-gia-min và các anh của ông lúc họ đoàn tụ gia đình (Sa 45:14-15). Người Sê-mít không xấu hổ khi bày tỏ công khai những cảm xúc của họ, và Giô-sép đã không để chức vụ quan trọng của ông che giấu những cảm xúc đau buồn thật của ông. Sau đó, khi đoàn tang lễ đến Ca-na-an, Giô-sép đã hướng dẫn dân sự trong một tuần về sự than khóc công khai dành cho Gia-cốp (Sa 50:10).
Khi ai đó mà chúng ta yêu mến qua đời, Đức Chúa Trời muốn chúng ta khóc. Đó là lý do Ngài ban cho chúng ta khả năng rơi lệ. Những giọt lệ bình thường là một phần của tiến trình chữa bệnh (Thi 30:5), còn sự đau buồn không bình thường chỉ làm cho những vết thương hở ra và kéo dài cơn đau. Trong chức vụ mục sư của tôi, tôi biết rằng những người kiềm chế sự đau buồn của họ, thì ở trong nguy cơ phát triển những vấn đề về cảm xúc hoặc về thể chất mà khó chữa lành. Nhà thơ giáo phái Anh và là mục sư John Keble đã gọi những giọt nước mắt là “món quà tốt nhất của Đức Chúa Trời cho con người đau khổ”.
• Sự chuẩn bị (Sa 50:2-6).
Gia-cốp đã chuẩn bị cho chính bản thân và gia đình ông về sự chết của ông, và đây là một tấm gương tốt cho chúng ta noi theo. Ông chỉ dẫn Giô-sép một cách riêng tư về việc chôn cất ông (Sa 47:27-31) và sau đó lập lại những chỉ dẫn này cho tất cả các con trai một cách công khai (Sa 49:29-32)không thể có bất đồng nào về vấn đề này vì mọi sự đã được giải quyết trước.
Thật kỳ lạ thể nào có nhiều người nhất định cần sự chuẩn bị chi tiết cho một kỳ nghỉ hay một chuyến kinh doanh nhưng bỏ qua việc thực hiện sự chuẩn bị cẩn thận cho hành trình cuối cùng và quan trọng nhất. Gia-cốp cho các con trai ông biết nơi ông muốn được chôn cất, và ông đặt Giô-sép đảm trách việc thực hiện những ước muốn của ông. Sự chỉ dẫn trước đó cộng với một con người đáng tin cậy để đảm trách đã giữ cho mọi việc tiến hành trôi chảy.
Giô-sép để thi hài cha ông được sửa soạn thích đáng cho việc chôn cất, theo kỹ thuật điêu luyện của người Ai-cập.Để thực hiện công việc này ông chọn các thầy thuốc chớ không phải những người ướp xác, có lẽ để tránh những lễ nghi tôn giáo ngoại đạo đi kèm với tiến trình ướp xác của dân Ai-cập. Những thế kỷ sau, Môi-se sẽ gọi những tai họa đến trên xứ và chứng minh các thần Ai-cập thật sự yếu đuối ra sao.
Pha-ra-ôn ra lệnh cho dân Ê-díp-tô tiến hành một thời gian than khóc chính thức cho Gia-cốp. Xét cho cùng, Gia-cốp là cha của quan tể tuớng trong xứ. Sự công nhận này thường được giữ cho những người quan trọng như Pha-ra-ôn và những người trong gia đình ông. Bốn mươi ngày của giai đoạn ướp xác và 70 ngày than khóc chính thức có lẽ xảy ra cùng lúc.
Tại sao Giô-sép sử dụng các quần thần trong cung vua để mang thông điệp của ông đến cho Pha-ra-ôn thay vì nói với ông cách cá nhân? Có lẽ Giô-sép bị xem là ô uế bởi sự chết của cha ông, hoặc có thể có một truyền thống Ai-cập cản trở người than khóc đến gần vua (Exe 4:2).
Với tư cách “cha” đối với Pha-ra-ôn, Giô-sép phải được sự đồng ý để rời khỏi quốc gia này, và ôngcũng phải bảo đảm với Pha-ra-ôn rằng ông và gia đình ông sẽ trở lại. Khi trích dẫn những lời của cha mình (Sa 50:5), Giô-sép cẩn thận không đề cập việc Gia-cốp yêu cầu cụ thể để đừng bị chôn ở Ai-cập (47:29-30)
• Sự tôn trọng (Sa 50:7-13).
Ngoại trừ những trẻ con (c.8), toàn bộ gia đình đã đi từ Ai-cập đến Ca-na-an để tỏ sự tôn trọng cuối cùng của họ với người sáng lập gia đình. Chuyến đi có lẽ bất tiện cho một số người này và khó khăn đối với những người khác, nhưng đó là một việc đúng đắn phải làm. Trong xã hội hiện đại của chúng ta, ngày càng trở nên ít phổ thông để người ta dành thời gian bày tỏ sự cảm thông của họ hay bày tỏ sự tôn trọng của họ khi ai đó qua đời mà họ biết. Tôi đã đọc về một mục “lá thẳng qua tang lễ” giúp người ta được thuận lợi trong việc xem xác và ký tên vào sổ khách mà không cần rời khỏi xe hơi của mình.
Thời gian than khóc ở Ca-na-an tạo một ấn tượng lớn trên những cư dân địa phương Giô-sép chọn một sân đạp lúa cho việc làm lễ kéo dài một tuần, vì các sân đạp lúa ở ngoài thành, cao ráo và làm một nơi rộng rãi sạch sẽ cho nhiều người nhóm lại cùng một lúc.
Câu 13 gợi ý rằng cả đoàn người không đi vào xứ Ca-na-an để đến hang đá Mặc-bê-la, nhưng 12 con trai của Gia-cốp đã hầu việc với tư cách người hộ tang bên quan tài và đem xác ông đến nơi yên nghỉ cuối cùng. Vì chúng ta đều đang trên đường đến mộ cùng nhau, nên sự chết và sự buồn rầu phải đem con người đến với nhau. Y-sác và Ích-ma-ên được đem lại với nhau khi họ chôn Áp-ra-ham (Sa 25:9), và Ê-sau với Gia-cốp cũng vậy khi họ chôn Y-sác (Sa 35:29).
Đây là chuyến đi đầu tiên của Giô-sép trở về quê hương ông trong 39 năm, và quá tồi tệ khi đó là chuyến đi vì sự chôn cất cha của ông. Nhưng ông không nán lại ở Ca-na-an, vì Đức Chúa Trời đã ban cho Giô-sép một công việc để làm ở Ai-cập và đó là nơi ông thuộc về cùng với gia đình ông.
2. Một quan tài cho một quá khứ đau đớn (Sa 50:15-21)
Khi sự chết xâm lấn một gia đình, và bạn đã làm mọi điều có thể để tôn trọng người chết và yên ủi người buồn rầu, đã đến lúc khi bạn phải trở về với đời sống cùng những bổn phận của nó. Điều này không có nghĩa là chúng ta quên người chết, nhưng nó thật có nghĩa là chúng ta đặt sự đau khổ của mình vào viễn cảnh và trở lại với công việc của đời sống.
Xét cho cùng cách tốt nhất để tôn trọng người chết là chăm sóc đời sống. Sự than khóc kéo dài có thể đem đến cho chúng ta sự cảm thông hơn, nhưng nó sẽ không phát triển sự trưởng thành hơn hoặc khiến chúng ta có ích hơn cho người khác. Giô-sép và gia đình ông đã trở lại Ai-cập và trở về với công việc, Giô-sép phục vụ trong cung Pha-ra-ôn và các anh em của ông chăm sóc gia súc của Pha-ra-ôn.
• Sự lo sợ (Sa 50:15).
Khi nào sự kiện này xảy ra? Sau khi gia đình chôn Gia-cốp ở Ca-na-an trở về nhà, hay là suốt thời gian than khóc chính thức ở Ai-cập? Vị trí của câu chuyện trong bản văn gợi ý rằng nó đã xảy ra sau chuyến trở về từ Ca-na-an, nhưng việc đó có thể đã xảy ra suốt thời gian dài của sự than khóc trước chuyến đi đó. Một ngày nọ 11 anh em nhận thức rằng sự chết của cha họ đã để lại họ mà không có ai điều đình với Giô-sép, con người quyền lực nhất đứng thứ hai ở Ai-cập, và họ sợ hãi.
Chúng ta những người đọc câu chuyện này nhiều thế kỷ sau, muốn nói: “Hỡi các người, vấn đề là gì chớ? Chẳng phải Giô-sép đã tha thứ các ông, hôn các ông, khóc vì các ông và tỏ cho các ông mọi chứng cớ về tình yêu của ông đó sao? Chẳng phải ông đã giải thích rằng Đức Chúa Trời đã tể trị mọi điều ác mà các ông đã làm cho ông thành ích lợi đó sao? Giô-sép đã không thực hiện mọi sự chu cấp để đem các ông đến Ê-díp-tô và chăm lo cho các ông đó sao? Vậy, tại sao các ông lo sợ?”
Câu trả lời thật đơn giản: Họ đã không tin em họ. Cách nhân từ mà ông nói với họ và cách yêu thương mà ông đối xử với họ chẳng gây tác động gì vào lòng họ. Nhưng các anh của Giô-sép chẳng khác gì với những người tự xưng là Cơ-đốc nhân ngày nay luôn lo lắng về sự xét đoán của Đức Chúa Trời và không biết liệu Ngài có thật sự tha thứ cho họ và khiến họ trở nên con cái của Ngài hay không.
Ngày nọ, một thuộc viên Hội thánh đã nói với tôi: “Tôi cảm thấy Chúa đã bỏ tôi. Tôi chắc mình đang đi đến sự xét đoán, và tôi không được cứu gì cả”.
Tôi hỏi: “Bạn muốn Đức Chúa Trời làm gì để đảm bảo với bạn? Bạn muốn Ngài thực hiện một phép lạ chăng?”
“Ồ, không. Điều đó sẽ không có hiệu quả. Sa-tan có thể làm phép lạ”
“Bạn muốn nghe Ngài phán với bạn từ trời chăng”
“Ồ, sứ điệp riêng nào đó từ Đức Chúa Trời sẽ ích lợi”
“Nào. Hãy mở ra Lời Ngài và xem điều Ngài phải phán về tội lỗi của bạn và sự tha thứ của Ngài. Xét cho cùng, khi chúng ta mở Kinh Thánh, Đức Chúa Trời mở miệng Ngài và phán với chúng ta”.
Chúng tôi cùng nhau xem Kinh Thánh, và khi cô ấy nắm chắc những lời hứa của Đức Chúa Trời, Chúa đã ban cho có sự bình an.
Sau mọi điều Giô-sép đã làm để khích lệ họ, các anh của ông thật tàn nhẫn khi nói: “Giô-sép có lẽ sẽ ghét chúng ta và trả lại cho chúng ta điều chúng ta đã làm cho người”. (Chúng ta thường nghi ngờ người khác điều mà chính chúng ta sẽ làm nếu chúng ta có cơ hội!). Khi bạn nghi ngờ Lời Đức Chúa Trời, bạn sớm bắt đầu chất vấn tình yêu của Đức Chúa Trời, và rồi bạn từ bỏ mọi hy vọng cho tương lai, bởi vì đức tin, hy vọng và tình yêu đi chung với nhau. Nhưng tất cả đều khởi đầu bằng đức tin: “Như vậy, đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Ro 10:17 NKJV).
Điều mà những người này lẽ ra phải làm là ngồi xuông và yên lặng ôn lại mọi điều Giô-sép đã nói với họ và làm cho họ. Trong nhiều phương diện có thể thấy được, Giô-sép đã bày tỏ tình yêu với sự tha thứ của ông và cho họ mọi lý do để tin rằng những tội lỗi quá khứ của họ đã qua và được quên đi. Họ thật sự không có gì để sợ hãi.
Làm sao chúng ta biết Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta và tha thứ những ai đặt niềm tin nơi Đấng Christ? Lời bất biến của Ngài cho chúng ta biết như vậy. “Những điều này ta đã viết cho các con là những kẻ tin danh Con Đức Chúa Trời, để các con có thể biết mình có sự sống đời đời” (IGi 5:13 NKJV). Chúng ta cảm nhận ra sao và Đức Chúa Trời phán gì, là hai điều khác nhau, và chúng ta đừng bao giờ xét đoán lời đời đời của Đức Chúa Trời bằng những cảm xúc thoáng qua của mình. Phao-lô đã hỏi: “Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đấng Christ?” và sau đó ông tiếp tục trả lời câu hỏi:chẳng có điều gì (Ro 8:35, 38-39).
• Lời thỉnh cầu (Sa 50:16-17).
Sợ đến trực tiếp với Giô-sép, họ sai một sứ giả đến với ông, hy vọng thuyết phục ông. Gia-cốp thật sự đã nói những lời họ trích dẫn chăng? Có lẽ không. Nếu Gia-cốp muốn làm trung gian cho các con trai có tội của ông, ông có hể làm điều đó cách dễ dàng khi ông ở một mình với Giô-sép. Và ông có 17 năm để làm điều đó! Có lẽ các anh em đã dựng lên câu chuyện này, hy vọng rằng tình yêu của Giô-sép đối với cha sẽ cho ông một tình yêu lớn hơn đối với các anh của ông.
Giô-sép đáp ứng ra sao với sứ điệp của họ? “Khi sứ điệp của họ đến với Giô-sép ông khóc” (c.17). Ông bị tổn thương sâu sắc khi các anh của ông đã không tin những lời của ông hoặc chấp nhận những việc làm tử tế của ông ở giá trị bên ngoài như những sự bày tỏ chân thật về tình yêu và sự tha thứ của ông. Ông có thể làm gì hơn để thuyết phục họ?
Charles Wesley có thể đã nghĩ đến Giô-sép và các anh của người khi ông viết bài thánh ca “Chiều sâu của lòng thương xót” (Depth of Mercy):
Ôi chiều sâu của lòng thương xót!
Có thể vẫn có lòng thương xót dành cho tôi chăng?
Đức Chúa Trời của tôi có thể giữ lại cơn thạnh nộ của Ngài.
Tha thứ tôi, kẻ làm đầu tội nhân?
Giờ đây hãy giục tôi ăn năn,
Hãy để những tội lỗi tôi giờ đây than khóc;
Sự nổi loạn xấu xa của ta, giờ hãy xót xa
Hãy khóc lóc, tin và không còn tội lỗi nữa
Ở đó Chúa Cứu Thế gánh chịu thay tôi
Giơ đôi tay thương tích của Ngài ra,
Đức Chúa Trời là tình yêu! Tôi biết, tôi cảm nhận
Chúa Giê-xu vẫn khóc và yêu tôi.
• Sự bảo đảm (Sa 50:18-21).
Giô-sép chắc đã mời các anh đến nhà ông, vì dường như không phải họ sẽ đến đó một mình, khi đến nơi, họ phủ phục trước ông trong sự sợ hãi, sự cúi đầu sau cùng của họ trong sự ứng nghiệm những giấc mơ tha thứ vô điều kiện. Điều đó đáng mong chờ quá đỗi! Các anh đề nghị trở thành những tôi tớ và làm việc cho đến chừng Giô-sép có thể tha thứ họ và chấp nhận họ (Lu 15:19). Nếu đó là cách của bạn để đến với sự tha thứ, hãy đọc Eph 2:8-9 và tuyên bố điều đó.
Những người duy nhất Đức Chúa Trời có thể tha thứ là những người biết mình là tội nhân, thừa nhận điều đó và xưng nhận rằng họ không thể làm bất cứ điều gì để hưởng hay kiếm được sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Dù đó là người đàn bà tại giếng nước (Gi 4:1-54), người thâu thuế ở trên cây (Lu 19:1-10) hay tên trộm cướp trên thập tự giá (Lu 23:39-43) tất cả tội nhân phải thừa nhận tội lỗi của họ, từ bỏ những nỗ lực kiêu ngạo để có sự cứu rỗi, và gieo mình nơi sự thương xót của Chúa.
Làm sao Đức Chúa Trời bảo đảm với con cái Ngài rằng Ngài đã thật sự tha thứ họ và quên tội lỗi họ? Giống như cách Giô-sép đã bảo đảm với các anh sợ hãi của ông: Ngài phán với chúng ta từ Lời Ngài. Hai lần Giô-sép nói: “Đừng sợ!” Ông an ủi họ và nói tử tế với họ. Đây là điều Đức Chúa Trời làm cho những người thuộc về Ngài nếu họ sẽ đọc Lời Ngài, tiếp nhận Lời ấy vào lòng, và tin hoàn toàn. “Này, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi; tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi” (Es 12:2).
Một số Cơ-đốc nhân nghĩ rằng sợ hãi và không chắc về sự cứu rỗi của mình là một dấu hiệu của tính khiêm nhường và sự thánh khiết đặc biệt. Thật ra một thái độ do dự đầy sợ hãi và sự lo lắng chỉ là bằng chứng của sự vô tín và là sự từ chối tiếp nhận Đức Chúa Trời ở Lời Ngài. Chẳng có gì để khoe khoang! Đức Chúa Trời có thể đáng tin cậy chăng? Ngài nói dối ư? Những lời hứa của Ngài không thật sao? Vậy tại sao người ta nao núng trong sự vô tín?
Giô-sép không đánh giá thấp những tội lỗi của họ, vì ông nói: “Các anh toan hại tôi” (Sa 50:20). Ông biết rằng đã có điều sai trong lòng họ, nhưng ông cũng biết rằng Đức Chúa Trời đã tể trị những việc ác của họ để thực hiện những mục đích tốt đẹp của Ngài. Điều này nhắc chúng ta về việc đã xảy ra trên thập tự giá. Phi-e-rơ đã nói: “Ngài (Chúa Giê-xu) đã bị nộp bởi ý định đã quyết và sự biết trước của Đức Chúa Trời, các ngươi đã mượn tay độc ác mà đóng đinh người trên thập tự giá và giết đi, Đức Chúa Trời đã khiến người sống lại” (Cong 2:23-24 NKJV). Từ tội lỗi lớn nhất do con người phạm, Đức Chúa Trời đã đem phước hạnh lớn nhất từng đến với con người.
Giô-sép không chỉ tha thứ các anh, nhưng ông cũng bảo đảm với họ về sự chăm sóc thường trực của ông. “Tôi sẽ cấp dưỡng các anh và con cái các anh” (Sa 50:21). Ông cho họ nhà để sống, công việc để làm, lương thực để ăn và sự chu cấp cho những nhu cầu của họ. Một lần nữa, chúng ta nhìn thấy ở đây một bức tranh về Chúa Cứu Thế, Đấng hứa chẳng bao giờ lìa xa chúng ta hay từ bỏ chúng ta (Mat 28:20; Gi 6:37; Gi 10:27-29; He 13:5-6) và đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta (Ro 8:32; Phi 4:19).
Trong 17 năm các anh của Giô-sép đã sống dưới một đám mây của sự sợ hãi và hoang mang vì họ không thật sự tin ông. Bao lâu cha họ còn sống, họ tin cậy nơi những mối ràng buộc của con người để bảo vệ mình, nhưng khi Gia-cốp chết, sự bảo vệ duy nhất của họ đã mất. Nếu họ tin Giô-sép, họ có thể vui mừng trong những năm đó cùng với ông và cha ông, và sẽ không có những đám mây của sự sợ hãi cướp đi của họ niềm vui mừng.
Là con cái Đức Chúa Trời nhờ đức tin trong Đấng Christ, chúng ta hãy vui mừng rằng những tội lỗi của chúng ta được tha thứ và quên đi, bị chôn vùi trong những vực sâu của biển (Mi 7:19), bị ném ra sau lưng Đức Chúa Trời (Es 38:17), được xóa đi và không còn nhớ đến nữa (Sa 43:25; Sa 44:22; He 8:1; He 10:17). Chúng ta hãy tin điều Đức Chúa Trời phán! Đời sống cũ đã bị chôn vùi và chúng ta có thể bước đi trong sự mới mẻ của đời sống (Col 2:13; Col 3:1-11).
3. Một quan tài cho một người anh em đặc biệt (Sa 50:22-26 He 11:22)
Dù bạn nhìn Giô-sép với tư cách một người con, một người anh em, hay một người cai trị, ông chắc chắn là một người đặc biệt. Vì Giô-sép, nhiều mạng sống đã được cứu suốt nạn đói, kể cả gia đình ông. Vì vậy, tương lai của dân Y-sơ-ra-ên đã được bảo đảm. Nếu gia đình Gia-cốp chết hết, thế giới sẽ bị tước đi Lời Đức Chúa Trời và Con Đức Chúa Trời. Vậy chúng ta nợ Giô-sép rất nhiều.
• Gia đình (Sa 50:22-23).
Giô-sép được 17 tuổi thì ông bị đem đến Ai-cập (Sa 37:2) và ông sống ở đó 93 năm, 51 năm với gia đình thân yêu của ông ở gần ông. Suốt những năm đó, ông bảo đảm để dân Do-thái được chăm sóc và bảo vệ, vì Đức Chúa Trời có một công việc đặc biệt cho họ làm. Ông trở thành một ông nội và rồi là một ông cố! Giô-sép đã nhận các cháu nội của Ma-na-se làm con nuôi như Gia-cốp đã nhận con cái của Giô-sép. Điều này ảnh hưởng ra sao đến tương lai của họ thì không được giải thích.
• Đức tin (Sa 50:24-25).
“Bởi đức tin, Giô-sép lúc gần qua đời nói về việc con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ đi ra, và truyền lịnh về hài cốt mình” (He 11:22). Những lời hứa của Đức Chúa Trời cho Áp-ra-ham (Sa 15:13-16) được chuyển đến Y-sác và Gia-cốp, rồi Gia-cốp chia sẻ chúng với Giô-sép (Sa 48:21). Đức tin không phải là một cảm xúc hời hợt mà chúng ta tự tạo nên, hay một thái độ “hy vọng” lạc quan của “đức tin trong đức tin”. Đức tin thật được đặt nền trên Lời Đức Chúa Trời không thể sai lầm, và vì Đức Chúa Trời đã phán điều đó, chúng ta tin và hành động theo điều đó.
Đức tin thật luôn dẫn đến hành động vâng lời (Gia 2:14-26). Giô-sép biết điều ông tin và nơi ông thuộc về. Vì vậy, ông không muốn quan tài của ông nằm ở Ai-cập khi Đức Chúa Trời giải phóng dân sự Ngài. Ông khiến các anh em mình thề rằng họ sẽ chỉ dẫn cho con cháu họ, là những người sau này sẽ truyền lời này cho những thế hệ tương lai; và họ giữ lời hứa mình.
Môi-se đã đem hài cốt của Giô-sép theo ông khi dân Do-thái rời khỏi Ai-cập (Xu 13:19) và Giô-suê đã chôn cất ông tại Si-chem (Gios 24:32 Sa 33:19). Vì Si-chem đã trở thành “thủ phủ” đối với Ép-ra-im và Ma-na-se, các chi phái do hai con trai của Giô-sép thành lập, đó là nơi lý tưởng để ông được chôn cất.
Khi bạn dừng lại để xem xét vấn đề, thật sự đáng chú ý rằng Giô-sép có bất cứ đức tin nào. Ông đã sống xa gia đình nhiều năm, và một tà giáo mạnh mẽ vây quanh ông. Không có ai ở Ai-cập mà chúng ta biết là người có thể khích lệ đức tin của ông. Nếu Giô-sép viện những cớ mà con người ngày nay sử dụng để chối bỏ những lời hứa của Đức Chúa Trời, ông sẽ đi đến chỗ làm một người ngoại đạo.
Những người anh “tin kính” của ông đã đối xử độc ác với ông, Chúa đã khiến ông kinh nghiệm những thử thách khắc nghiệt, và những người được ông giúp đỡ đã quên ông trong giờ cần thiết của ông. Ông có thể lý luận: “Nếu đó là điều mà một đời sống đức tin nói đến, thì tôi không quan tâm”. Nhưng đức tin của Giô-sép dầu bị thử thách, vẫn không thay đổi. Tất cả những gì ông phải tiếp tục là những giấc mơ của ông, nhưng ông bám vào lời hứa rằng một ngày nào đó các anh em của ông sẽ quỳ xuống trước ông, và Chúa đã không làm ông thất vọng.
• Tương lai (Sa 50:26).
Năm mươi một năm sau sự chết của Gia-cốp, ở tuổi 110, Giô-sép đã qua đời. Ông có lẽ sống lâu hơn các anh của ông, nhưng các cháu nội của ông biết những ao ước của ông nội họ về hài cốt của ông. Quan tài của Giô-sép ở Ai-cập là một nhắc nhở thường trực đối với dân Do-thái để có đức tin nơi Đức Chúa Trời. Khi hoàn cảnh của họ thay đổi ở Ai-cập và dân Do-thái thấy mình là tôi mọi thay vì là khách kiều ngụ (Xu 1:8), họ có thể nhìn nơi chôn cất tạm thời của Giô-sép và được khích lệ. Suốt thời kỳ họ lang thang trong đồng vắng, khi họ mang hài cốt Giô-sép từ nơi này sang nơi khác, ông đã giúp đỡ họ, kêu gọi họ tin cậy Đức Chúa Trời và không bao giờ bỏ cuộc.
“Một quan tài ở Ai-cập” có thể dường như là cách gây nản lòng để kết thúc một cuốn sách, nhưng từ quan điểm của đức tin, điều đó không gì có thể đáng khích lệ hơn. Xét cho cùng, dù Giô-sép đã chết, sự làm chứng của ông vẫn tiếp diễn. Như John Wesley đã nói: “Đức Chúa Trời chôn người làm việc của Ngài, nhưng công việc của Ngài tiếp tục”, và sứ đồ Giăng viết rằng: “Ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (IGi 2:13). G. Campbell Morgan đã nói.
“Hãy phó thác đời sống bạn cho Đức Chúa Trời, nhìn xem khải tượng, làm công việc gần nhất, công việc Ngài chỉ định, thành thật, giỏi giang và trung tín rồi chết mà biết rằng mình đã bắt đầu những ảnh hưởng sâu sắc những động lực sẽ tiếp diễn qua mọi thế hệ tiếp nối cho đến khi họ thu hoạch mùa gặt của kết quả vinh hiển về ngôi của Đấng Toàn Tại. Người của Đức Chúa Trời chưa hoàn tất công việc của ông trong thế gian. Khi người ta đặt ông trong một quan tài”.
Vâng, Giô-sép vẫn đang chúc phước cho chúng ta hôm nay thậm chí khi chúng ta nghiên cứu đời sống ông!
HÃY XÁC THỰC: NGHIÊN CỨU VÀ TÓM TẮT
Chúng ta đã làm quen với Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép, cùng một số người trong gia đình họ; và chúng ta đã thực hiện một số khám phá thú vị về ý nghĩa của việc làm một tín đồ thật.
1. Những tín hữu thật đều được dựng nên từ đất sét
Chúng ta hãy bắt đầu bằng một lời thú nhận của nhà truyền đạo nổi tiếng người Mỹ Dwight L. Moody:
“Có một thời gian lúc tôi thường băn khoăn nhiều về những nhân vật Kinh Thánh. Tôi thường nghĩ rằng vì họ là những vị thánh, mọi điều họ làm đều đúng, và tôi không thể hiểu thể nào Đức Chúa Trời sẽ cho phép họ làm những việc như thế mà không bị quở phạt… Nhưng khi chúng ta đi đến một nhân vật như Gia-cốp, và chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời có đủ ân điển để cứu ông, tôi nghĩ có đủ hy vọng cho hầu hết bất cứ ai trong chúng ta…”
Bất cứ ai hiểu Kinh Thánh một cách nghiêm túc đều đồng nhất hóa với mối quan tâm của ông Moody. Chúng ta rất thường nghĩ rằng những nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh đều là thiên sứ, không phải là con người, luôn vâng lời, không chỗ chê trách, chưa bao giờ vấp ngã hay chống lại ý muốn Đức Chúa Trời. Sau đó chúng ta khám phá rằng những con người quan trọng này trong vở kịch Kinh Thánh đều yếu đuối, khiếm khuyết, được dựng nên từ cùng một loại đất sét như chúng ta, nhưng Chúa đã sử dụng họ để thực hiện những mục đích của Ngài!
-Ghê-đê-ôn là một nông dân sợ hãi cho đến khi Đức Chúa Trời biến đổi ông thành một vị tướng can đảm.
-Ra-chên và Lê-a là những người vợ mưu mẹo tranh giành tình cảm của Gia-cốp, nhưng họ đã giúp gây dựng dân tộc Y-sơ-ra-ên.
-Môi-se là người trốn tránh công lý và bị truy nã về tội sát nhân ở Ai-cập, nhưng ông đã biến hai triệu nô lệ thành một dân tộc mạnh mẽ và viết năm cuốn sách Kinh Thánh.
-Giê-rê-mi đôi lúc đã đi ẩn mình và khóc lóc trước mặt Đức Chúa Trời, đề nghị từ bỏ sự kêu gọi nói tiên tri của ông, nhưng ông đã trung tín tiếp tục công việc suốt 40 năm khó khăn của lịch sử Do-thái.
Nếu tôi tin một số bài giảng mình đã nghe và những cuốn sách mình đã đọc, tôi có thể dễ dàng đi đến kết luận sai lầm rằng Đức Chúa Trời chỉ kêu gọi và sử dụng những người hoàn hảo, những người chưa bao giờ nản lòng và chưa bao giờ muốn rút lui, nhưng những sự thật thì ngược lại. Môi-se và Ê-li đã trở nên quá nản lòng đến nỗi họ xin Đức Chúa Trời cất mạng sống họ (Dan 11:14-15; IVua 19:1-21), và Gióp (Giop 3:1-26) với Giê-rê-mi (Gie 20:14) đã rủa sả ngày sinh của mình và ao ước họ chưa từng được sinh ra. Quá sức đối với sự hoàn hảo.
Tôi cảm thấy thật khoan khoái để nhận ra rằng Đức Chúa Trời có thể sử dụng những người yếu đuối, khiếm khuyết để làm cho công việc Ngài được thực hiện trên đất những người phạm lỗi lầm, những người muốn làm việc tốt hơn nhưng hiếm khi cảm thấy mình đạt được mục đích. Điều quan trọng về những con người xác thực này đã tạo nên con người họ, đơn giản là họ chấp nhận bản thân và nhận ra chính mình, họ dám tin cậy Đức Chúa Trời sử dụng họ bất chấp con người họ. Dầu Chúa không tán thành về sự bất tuân của họ, những người này quý giá đối với Đức Chúa Trời, và Ngài giữ mọi lời hứa Ngài từng lập với họ.
Frederick Buechner gọi những thánh đồ này là “châu báu đặc biệt” và tên gọi này thích hợp
2. Những tín hữu thật nhờ cậy ân điển Đức Chúa Trời
Giờ đây chúng ta hãy cân bằng sổ cái bằng một sự thật hiển nhiên thứ hai: những con người xác thực trả giá cho những tội lỗi, những sai lầm của họ và học từ đó vì họ nhờ cậy ân điển Đức Chúa Trời. Đối với họ, đời sống là một trường học, những bài học thì khó và ân điển là thầy giáo (Tit 2:11-12). Họ phải vật lộn, họ tiến bộ và học nhiều hơn về bản thân họ, những người ngang hàng với họ và Đức Chúa Trời của họ vì họ học từ ân điển Đức Chúa Trời.
Nếu bạn là Đức Chúa Trời, liệu bạn sẽ gặp Gia-cốp tại Bê-tên, cho ông thấy các Thiên sứ đi lên xuống thang và ban cho ông những lời hứa kỳ diệu ấy? Hãy nhớ, Gia-cốp đã lừa dối anh và cha của ông, và Kinh Thánh cho biết rõ rằng Đức Chúa Trời mong muốn sự chân thật ở con người bên trong (Thi 51:6). Nếu Đức Chúa Trời hỏi ý kiến bạn về kế hoạch của Ngài để hiện ra cho Gia-cốp tại Bê-tên, bạn sẽ đồng ý với Ngài chăng? Có lẽ không.
Những con người xác thịt nhờ cậy và kinh nghiệm ân điển Đức Chúa Trời. Họ biết họ không xứng đáng phần nhỏ nhất trong những sự thương xót của Đức Chúa Trời (Gia-cốp đã nói như thế (Sa 32:10), nhưng họ cũng biết rằng sẽ không có phước hạnh nào cả nếu không có ý muốn tốt lành của Chúa. Đừng hiểu lầm tôi, tôi không có ý nói rằng chúng ta “làm điều ác để điều lành có thể đến” (Ro 3:8). Tôi chỉ gợi ý rằng chúng ta tiếp nhận quan điểm của Giô-sép là người đã nói “các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời toan làm điều ích cho tôi” (Sa 50:20).
Tôi có một nghi ngờ rằng sứ đồ Phao-lô có thể không phải là một người dễ chịu để làm việc chung trong chức vụ Cơ-đốc. Ông được huấn luyện như một người Pha-ri-si, điều này gợi ý một tình yêu đối với sự nghiêm ngặt, một đời sống trật tự, một sự nhấn mạnh về sự vâng lời cùng sức mạnh ý chí, và một tiêu chuẩn cao của sự hoàn hảo. Vì ông độc thân, ông chưa bao giờ cáu kỉnh bởi những đòi hỏi của hôn nhân và chức làm cha. Có phải ông sai lầm trong cách ông đối xử với Ba-na-ba và Giăng Mác? (Cong 15:36-41).
Có lẽ. Ít nhất IITi 4:11 gợi ý rằng ông đã đổi ý.
Nhưng với tất cả những nét tính cách cứng ngắc của ông, và chúng ta đều có một số nét. Phao-lô là một tôi tớ thật của Đức Chúa Trời vì ông nhờ cậy nơi ân điển Đức Chúa Trời. “Nhưng tôi nay là người thể nào là nhờ ơn Đức Chúa Trời… Tôi đã làm nhiều việc hơn các người khác, nhưng nào phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi” (ICo 15:10). Sống bởi ân điển Đức Chúa Trời nghĩa là nhờ cậy Ngài giúp đỡ chúng ta. Chúng ta không cố gắng trong sức riêng của mình để làm điều gì đó cho Ngài. Đúng hơn, Ngài đang làm việc trong và qua chúng ta để thực hiện điều tốt lành trong ý muốn của Ngài. Đó là sự khác nhau giữa chủ nghĩa pháp luật và đời sống.
Kẻ thù muốn dân sự Đức Chúa Trời tập trung vào những bất toàn và thất bại của họ, vì điều đó giữ họ khỏi lạc trong sự vĩ đại và ân điển Đức Chúa Trời. Vâng có thời gian để xem xét nội tâm và xưng tội, nhưng đời sống Cơ-đốc không phải là một sự mổ xẻ không ngừng. Đó là một bữa tiệc! Vì vậy, sau khi chúng ta đã tắm rửa, hãy thưởng thức bữa tiệc vì vinh hiển Đức Chúa Trời (Sa 5:7-8)
3. Những tín hữu thật đều không giống nhau
Một trong những sự khác biệt chủ yếu giữa một Hội thánh và một giáo phái đó là các giáo phái trở nên những bộ phận cắt bánh quy trên một dây chuyền lắp ráp, trong khi các Hội thánh theo mẫu những cá nhân thánh đồ khác nhau trên một bánh xe của người thợ gốm. Đức tin Cơ-đốc phát triển nhờ sự hiệp nhất trong tính đa dạng “một thân, nhiều chi thể” (ICo 12:12)
Y-sác, Gia-cốp và Giô-sép đều là những tín hữu nhưng họ đều khác nhau. Y-sác đã thực hiện một khởi đầu lớn lao với tư cách một thiếu niên khi ông vâng lời cha và sẵn sàng đặt mình vào chỗ chết trên bàn thờ. Ông tỏ ra tính nhạy bén về thuộc linh qua cách ông tiếp nhận Rê-bê-ca, người được Đức Chúa Trời chọn làm vợ ông, và cách ông cầu nguyện về hoàn cảnh gia đình ông.
Nhưng đời sống đức tin của Y-sác đã đạt đến một đỉnh cao rồi sau đó bắt đầu xuống dốc; và cuối cùng, ông quan tâm về thực đơn bữa ăn trưa hơn là làm theo ý muốn Đức Chúa Trời, không phải tất cả những con người xác thực đều kết thúc tốt đẹp.
Kinh nghiệm thuộc linh của Gia-cốp đi lên hôm nay và đi xuống hôm sau, giống như một chiếc nút chai giữa đại dương suốt cơn bão. “Một người phân tâm thì không ổn định trong mọi việc làm của mình” (Gia 1:8 KJV). Người ấy sẽ khẩn thiết cầu nguyện về những vấn đề của mình và nài xin sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, rồi sau đó đi ra và lập một kế hoạch để làm cho mọi việc được thực hiện theo cách riêng của mình. Người ấy là một người chuyên sử dụng những của hối lộ được bọc như những món quà. Mãi đến khi Đức Chúa Trời vật lộn với Gia-cốp và đánh ông thì ông mới trở thành Y-sơ-ra-ên, một hoàng tử có Đức Chúa Trời.
Đối với Giô-sép, đời sống đức tin của ông dường như đều đặn và trơn tru và mỗi thử thách mới đều nâng nó lên càng cao hơn. Vâng, ông đã có những thời gian chịu khổ của mình khi ông không biết Chúa sẽ nghe hay không, nhưng theo như chúng ta biết, đức tin của ông chưa bao giờ nao núng. Giô-sép là một người tha thứ và là một người nhớ để quên những việc ác mà người khác làm cho ông. Ông đã sống bởi đức tin và chết bởi đức tin, và đức tin của ông đã đem lại sự cứu rỗi cho dân tộc Do-thái.
Vì vậy ở đây là ba người quan trọng, những tôi tớ của Chúa, và tất cả họ đều khác nhau. Trong Hội thánh ngày nay, chúng ta vẫn có những Y-sác đã thực hiện những khởi đầu vinh hiển trong tuổi trẻ của họ và dần dần sa sút thành tính trần tục đáng kể. Chúng ta có nhiều người giống như Gia-cốp là người dường như luôn tham gia một cuộc chiến hoặc đang tìm cách thoát khỏi tình trạng khó khăn, nhưng bằng cách nào đó họ làm cho mọi sự được thực hiện cho Đức Chúa Trời và cuối cùng đem phước hạnh cho mọi người.
Có một số Giô-sép vững chắc kiên định, những người nam người nữ kết thúc ở những vị trí lãnh đạo quan trọng và giúp đỡ nhiều người. Hội thánh có thể có nhiều Giô-sép hơn chúng ta nhận ra, những người chỉ làm công việc của mình một cách trung tín, chịu đựng những sự hiểu lầm cùng những sự chỉ trích, và làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Và, giống như Giô-sép thời Cựu-ước, thậm chí sau khi chết họ vẫn khích lệ chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời.
Khi Chúa Giê-xu kêu gọi 12 sứ đồ của Ngài, Ngài đã chọn những người khác nhau. Ma-thi-ơ đã làm việc cho chính quyền Rô-ma, trong khi Si-môn người quá khích đã nỗ lực để tiêu diệt chính người La-mã. Phi-e-rơ lại tỏ ra là một người hành động loại A, sẵn sàng thử bất cứ điều gì một lần, nhưng Thô-ma dường như là một người bi quan có một thời gian khó khăn để tin, thậm chí khi ông nghe về chứng cớ. Mỗi người đều chân thật, đôi khi sai lầm ngớ ngẩn, thậm chí có lúc chống đối, không phải lúc nào cũng có thể hòa thuận với các sứ đồ khác, nhưng luôn yêu mến Chúa Giê-xu và muốn càng giống Ngài hơn.
Đức Chúa Trời đã không hổ thẹn gọi chính Ngài là “Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, và Đức Chúa Trời của Gia-cốp” (Xu 3:6), Chúa Giê-xu cũng không hổ thẹn gọi chúng ta là anh em của Ngài (He 2:11-12). Ngài biết những sự yếu đuối và thất bại của chúng ta, nhưng Ngài ở cùng chúng ta và giúp chúng ta chạy đua bằng sự kiên trì vì mục đích Ngài đã chọn chỉ dành cho chúng ta. Những người chân thật của Đức Chúa Trời là những chân thật từ trong bản chất chớ không phải những sự bắt chước.
4. Những tín hữu thật biết rằng đời sống là một cuộc hành hương
Theo He 11:13-16 các Thánh tổ đã xưng nhận rằng họ là những “khách lạ và kẻ bộ hành trên đất”. Một kẻ lang thang thì không có nhà, một kẻ trốn tránh thì đang chạy khỏi nhà, một khách lạ thì luôn xa nhà, nhưng một khách bộ hành thì đang tiến về nhà. Họ có đôi mắt đặt ở tương lai, thành vinh hiển mà Đức Chúa Trời chuẩn bị cho họ, và họ đã truyền đạt khải tượng từ trời đó cho con cháu họ.
Sống như một khách bộ hành không phải là một vấn đề về địa lý nhưng về thái độ. Bạn cảm thấy giống như một khách đi lại chớ không phải một người định cư. Bạn có xu hướng cảm thấy “tạm bợ”, không biết mình có thật sự thuộc về nơi đây hay không, và đôi mắt của bạn có cái nhìn xa đó. Những khách bộ hành. Luôn tiến tới. Nếu bạn đứng yên trong đời sống đức tin của mình, bạn đã thôi làm một khách bộ hành, luôn có những lời hứa mới để tuyên bố, những kẻ thù mới để chống lại, và những địa phận mới để dành lấy – khách bộ hành có nhiều đặc quyền, nhưng một đặc quyền họ không có là đặc quyền đứng yên và từ từ không vội vã gì.
Mục sư phái trưởng nhiệm nổi tiếng người Scotland Alexander Whyte đã nói rằng: “đời sống Cơ-đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới. Chúng ta không bao giờ đạt đến, và nếu ta tưởng mình đã đạt được, đó là chứng cớ chúng ta chưa đạt được.”
Martin Luther đã nói điều đó chí lý nhất:
“Do đó đời sống này không phải là sự công bình nhưng là sự tăng trưởng trong sự công bình, không phải là sự mạnh khoẻ nhưng là sự chữa lành, không phải vốn có, nhưng trở nên, không phải sự nghỉ ngơi nhưng là sự tập luyện. Chúng ta chưa phải làđiều mình sẽ trở thành, nhưng chúng ta đang tăng trưởng hướng đến điều đó. Tiến trình này chưa hoàn tất, nhưng nó đang tiếp diễn. Đây không phải là sự cuối cùng, nhưng nó là con đường. Và tất cả chưa chiếu ra trong sự vinh hiển nhưng tất cả đang được thanh tẩy”
5. Những tín hữu thật trở nên giống Chúa Giê-xu Christ
“Thích hợp với hình ảnh Con Ngài” là mục đích công việc của ân điển Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta (Ro 8:28 KJV) và không ai bày tỏ điều đó tốt hơn Giô-sép.
Giống như Chúa Giê-xu, ông được cha ông yêu mến nhưng bị các anh em ông chối bỏ. Ông bị phạt vì tội lỗi ông không phạm, và ông gánh điều đó mà không chống cự lại. Ông nghĩ đến người khác và phục vụ họ, dầu họ quên ông và sự tử tế của ông. Ông đã bị phân cách với cha nên ông có thể cứu anh em ông, và ông đã đi từ ngục tù đến ngôi vị, từ hoạn nạn đến vinh hiển.
Ông đã tha thứ những người làm hại ông và không bao giờ báo trả cho họ những việc ác của họ. Ông khóc về họ vì ông yêu họ, ông nhân từ chu cấp một nơi ở cho họ và đáp ứng mọi nhu cầu của họ.
Chúng ta có thể tiếp tục, nhưng vấn đề rõ ràng là: điều Giô-sép kinh nghiệm với tư cách một tín hữu thật đã khiến ông càng giống Chúa Giê-xu Christ. Đó là điều mà đời sống của khách bộ hành nói đến.
Nhưng Gia-cốp cũng vậy, đã kinh nghiệm công việc của ân điển trong đời sống của ông và kết thúc đời sống ông ở một mức độ cao hơn. Khi trở về già, ông trưởng thành trong đức tin và tìm cách làm một lãnh đạo thuộc linh tốt hơn đối với gia đình đang tăng trưởng của ông. Không bao giờ là quá trễ để trở lại trên con đường hành hương.
6. Những tín hữu thật tạo một sự khách biệt giữa thế giới của họ
Điều quan trọng trong đời sống không phải là điều chúng ta kéo theo, nhưng là điều chúng ta gởi đi trước và là điều chúng ta để lại đàng sau. Chúng ta bước vào đời này không có gì cả, và chúng ta sẽ lìa bỏ đời này mà không mang theo gì. Giữa những niềm vui mừng về sự ra đời và những nỗi buồn rầu về sự chết, chúng ta chỉ là những quản gia về tất cả mọi điều Đức Chúa Trời ban cho chúng ta và Đức Chúa Trời muốn chúng ta là những quản gia trung tín.
Đời sống tự nó là một chức quản gia, và nó phải được đầu tư như thế, chớ không chỉ bị tiêu pha và lãng phí. Khi chúng ta chấp nhận đời sống này như món quà của Đức Chúa Trời và những cơ hội của chúng ta như một chức quản gia, khi ấy chúng ta có thể tạo một sự khác biệt lâu dài giữa thế giới chúng ta. Chúng ta tạo sự đóng góp mà Đức Chúa Trời đã định cho chúng ta (Eph 2:10). Điều mà Ma-ri ở Bê-tha-ni đã làm cho Chúa Giê-xu đã trở nên một phước hạnh khắp thế giới (Mac 14:9), đó là điều cuối cùng bà mong đợi.
Vì vậy, sự thách thức đến với chúng ta ngày nay, chúng ta sẽ là những bản sao chép mờ nhạt hay những nguyên gốc thú vị? Chúng ta sẽ đi con đường an toàn của khách du lịch hay con đường nguy hiểm của người tiên phong? Bởi ân điển Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ để cho những thử thách và hoạn nạn trở thành những tôi tớ của chúng ta để giúp chúng ta trở nên càng giống với Chủ của chúng ta chớ? Khi chúng ta đi đến kết thúc của đời sống mình, liệu điều đó sẽ tạo bất cứ sự khác biệt nào đối với thế giới mà chúng ta đã sống chăng?
“Hãy làm mọi sự cứu chuộc của anh em bằng sự sợ hãi và run rẩy” (Phu 2:12) là sự kêu gọi của Đức Chúa Trời hãy xác thực, để trở thành một trong những “châu báu đặc biệt” của Đức Chúa Trời, một con người đặc biệt để làm công việc đặc biệt của Ngài.
bottom of page