top of page
Tội...
...lỗi thường lây lan ra như một bệnh dịch. Nó không chỉ cướp phá niềm vui của bạn mà nó còn gây ảnh hưởng đến sự làm chứng của bạn cho người khác. Hễ bạn còn dành cho tội lỗi một chỗ trú trong cuộc đời bạn, thì đời sống tâm linh của bạn ắt sẽ bị nhiễm bệnh. Đừng để tội lỗi đánh cắp sự làm chứng của bạn cho Chúa. Hãy giữ lòng mình thanh sạch trước mặt Ngài.
8. Những mãnh vỡ (Thi 51:16-17)
Có bao giờ bạn học hỏi về những mảnh vỡ trong Thánh Kinh chưa? Có một người phụ nữ đã đập vỡ bình dầu thơm ngay chân Chúa Giê-xu và lấy dầu thơm từ bình ấy xức cho Ngài. Chúa Giê-xu đã cầm lấy bánh bẻ ra là hình ảnh về thân thể Chúa sẽ được ban cho chúng ta. Đức Chúa Trời thường sử dụng những mảnh vỡ, và Ngài hay bắt đầu với những tấm lòng đau thương thống hối. Đây chính sự ăn năn hối cải được nói đến. Đức Chúa Trời không muốn lắng nghe những lời chỉ ở nơi môi miệng chúng ta. Ngài cũng không dò lường của lễ vật chất nào. Ngài ưa thích nhìn vào tấm lòng chúng ta và bảo: “Nếu trái tim con tan nát thì ta có thể chữa lành cho”.
Khi Đa-vít phạm tội, ắt hẳn ông đã có thể đem dâng cho Đức Chúa Trời đủ mọi loại của lễ. Nhưng các của lễ ấy sẽ không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Ngài đang đợi một của lễ về tấm lòng đau thương thống hối. Đó là lý do tại sao Đa-vít đã viết: “Của lễ làm đẹp lòng Đức Chúa Trời ấy là tâm thần đau thương, một tấm lòng tan nát, ăn năn hối cải những của lễ này, ôi Đức Chúa Trời ôi! Chắc Ngài sẽ không khinh dể đâu!” (c.17).
Tội lỗi của Đa-vít đã đẩy ông đến với bản luận tội và sự chết. Ông phạm tội tà dâm còn phạm thêm tội sát nhân nữa. Không của lễ nào có thể dâng cho Đức Chúa Trời để chuộc lại tội lỗi cố ý, dấy loạn và trắng trợn của Đa-vít. Thế nhưng, Đa-vít đã không bị Đức Chúa Trời diệt. Mặc dù ông không có của lễ nào được dành sẵn và có đủ hiệu lực để chuộc tội cho ông vào lúc ấy, nhưng Đức Chúa Trời đã nhìn xuống dòng thời gian và thấy trước viễn cảnh thập tự giá là hình cụ mà Đức Chúa Giê-xu sẽ phải chịu chết trên nó vì tội lỗi của Đa-vít.
Đức Chúa Trời thường nhìn vào tấm lòng chứ không nhìn công việc, Ngài ưa thích sự thành thật của tấm lòng chứ không thích các thói quen của nếp sống tôn giáo.
Người có lòng đau thương thống hối không phải là bị ray rứt lương tâm cũng không phải là lấy làm hối tiếc về việc đã làm. Đó chính là sự ăn năn hối cải từ bỏ tội lỗi. Đó là việc bạn hãy thưa với Đức Chúa Trời rằng bạn ghét tội lỗi, và bạn đang lên án nó, sau đó bạn hãy cầu xin Ngài tha thứ cho bạn. Hãy dâng lên cho Ngài của lễ bằng chính tấm lòng đau thương thống hối của bạn.
9. Điều gì làm đẹp lòng Chúa? (Thi 51:18-19)
Chúng ta có thể sống để làm hài lòng chính mình và người khác. Nhưng trên hết, chúng ta phải làm hài lòng Đức Chúa Trời. Đa-vít kết thúc lời cầu nguyện xưng tội của mình rằng: “Bấy giờ Chúa sẽ ưa thích các của lễ về sự công bình” (c.19). Chúng ta nên làm những gì đẹp lòng Chúa mà thôi.
A.W.Toach từng nói “Đồng hành với Đức Chúa Trời chẳng khó gì” Và đúng là như vậy. Một ngày nọ, Đa-vít cầu nguyện: “Xin hãy cho con rơi vào tay Chúa vì Ngài rất giàu lòng thương xót và xin chớ để con rơi vào tay loài người” (IISa 24:14).
Đức Chúa Trời biết rõ chúng ta, yêu thương chúng ta và Ngài rất kiên nhẫn đối với chúng ta. Mọi thứ Ngài sắm sẵn cho chúng ta thảy đều là những sự tốt lành, là niềm vui thỏa và là sự vinh hiển Ngài. Vậy, điều gì làm đẹp lòng Ngài nhất? Đó là bước đi biết vâng lời chứ không phải là các của lễ, Đa-vít thưa với Chúa: “Nếu con dâng cho Ngài các của lễ mà lòng con không ăn năn hối cải, thì Ngài ắt sẽ không nhận chúng. Nhưng nếu con ăn năn tội và dâng lên Ngài tấm lòng tan nát, đầy đau thương thống hối thì chắc chắn Ngài sẽ tiếp nhận của lễ và sự phục vụ của con dành cho Ngài”.
Cái cách Đa-vít kết thúc Thi-thiên này thật lý thú. “Tùy theo ý tốt của Chúa, xin Ngài hãy làm điều lành cho Si-ôn, và xây dựng các vách thành Giê-ru-sa-lem” (c.18). Đa-vít đang ở trong tội lỗi mình, ắt hẳn ông rất yếu đuối, chứ không mạnh mẽ. Ông đã đem đến cho kẻ thù của Y-sơ-ra-ên cơ hội phỉ báng Đức Chúa Trời. Và những lời báng bổ ấy đã tuôn ra. Mọi người biết ngay đó là điều do Đa-vít gây nên.
Vì thế, ông cầu nguyện với Chúa: “Ô, Đức Chúa Trời ôi! Khi con đang là kẻ có tội, con thật yếu đuối. Con đã không làm đẹp lòng Ngài. Bây giờ, con muốn làm đẹp lòng Ngài nên con sẽ được mạnh mẽ. Còn các tường thành Giê-ru-sa-lem, là tường thành bảo vệ sẽ trở nên vững chắc”.
Bạn đang yếu đuối hay mạnh mẽ vậy?
Đức Chúa Trời sắm sẵn mọi sự để đem lại điều tốt lành sự vui thỏa cho chúng ta và đem lại sự vinh hiển cho Ngài. Là con cái Chúa, bạn hãy cố gắng làm tất cả những gì để làm hài lòng Ngài và vinh hiển Ngài. Bước đi của bạn với Đức Chúa Trời có phải là bước đi vâng lời không? Hãy biến đời sống bạn thành những gì có thể làm đẹp lòng Ngài.
10. Giá đắt phải trả cho sự xưng tội (Thi 51:4,6,10-11)
Xưng tội nghĩa là gì? Đó không phải là sự thú nhận tội lỗi mà chúng đã phạm, bởi vì chúng ta không thể che giấu Đức Chúa Trời được điều gì cả. Từ “xưng tội” ở đây có nghĩa là “nói một điều giống nhau”. Chúng ta sẽ nhận ra tội như Đức Chúa Trời nhìn thấy tội lỗi. Đó chính là sự ăn năn hối cải chứ không phải là sự hành xác để hối lỗi. Chỉ có huyết của Chúa Giê-xu mới có thể trả giá cho tội lỗi mà thôi.
Sự ăn năn thật liên quan đến lý trí, tình cảm và ý chí. Đa-vít đã phải thay đổi ý định mình về vấn đề tình ái với Bát-sê-ba nhờ sự giúp đỡ của tiên-tri Na-than (c.4). Vị tiên-tri này đã phê phán Đa-vít về tội lỗi của Đa-vít. Ông khéo léo kể cho Đa-vít nghe một câu chuyện về con chiên cái nhỏ nhằm ám chỉ, minh họa tội lỗi của Đa-vít. Nghe xong, Đa-vít đáp lại: “Ta đã phạm tội”. Vua Pha-ra-ôn cũng từng đáp lại như thế nhưng vua không có chút thiện chí nào về điều ấy. Chính vua Sau-lơ cũng nói vậy khi ông nhận ra việc làm sai trái của mình. Sau-lơ lấy làm hối tiếc, còn Pha-ra-ôn thì bị cắn rứt lương tâm. Sự hối tiếc chỉ liên quan đến lý trí – chúng ta bối rối, buồn lòng khi gặp phải chuyện rối ren hoặc bị vướng mắc vào đó. Còn việc lương tâm bị cắn rứt thì liên quan đến cả lý trí lẫn các cảm xúc – chúng ta cảm thấy khủng khiếp.
Vậy, xưng tội có nghĩa là chúng ta phải có thái độ như thái độ Đa-vít và nhận ra rằng chúng ta là những kẻ có tội từ trong bản chất: mỗi một chúng ta đều có khả năng vi phạm bất cứ mọi tội lỗi nào.
Giá đắt phải trả cho sự xưng tội là một cõi lòng tan nát. Khi chúng ta nhận ra chính mình là ai như Đức Chúa Trời nhận ra chúng ta, thì chúng ta sẽ bị tan nát cõi lòng mình. Ngài không cần phải sửa phạt chúng ta để bóp nát trái tim chúng ta. Khi Chúa Giê-xu nhìn chăm vào Phi-e-rơ, thì lòng ông tan vỡ (Lu 22:61).
Nếu bạn đến với Đức Chúa Trời bằng một tấm lòng đau thương thống hối và xưng tội mình ra với Ngài, thì Ngài sẽ tha thứ cho bạn và khôi phục lại bạn.
• Xưng tội không phải là một vấn đề đơn giản.
Nó liên quan đến toàn bộ con người bên trong. Khi bạn nhìn thấy tội lỗi như Đức Chúa Trời nhìn thấy thì điều ấy sẽ làm tan nát cõi lòng bạn. Hãy dâng cho Chúa tấm lòng tan vỡ ấy, thì Ngài sẽ chữa lành nó.
11. Giá đắc phải trả cho sự thanh tẩy (Thi 51:18-19)
Việc thanh tẩy tội lỗi không phải là chuyện dễ. Hãy luôn ghi nhớ rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có khả năng làm việc này. Tội lỗi gây ra nợ nần, sự ô nhục và bệnh tật. Chỉ có huyết đã đổ ra của Chúa Giê-xu Christ mới có thể tiêu trừ tận gốc rễ của tội lỗi và tha thứ cho nó. Mỗi người chúng ta đều đáng phải chết mãi mãi, nhưng Chúa đã chết thay cho chúng ta rồi. Vì lòng thương xót, Đức Chúa Trời đã không ban cho chúng ta điều mà chúng ta đáng phải nhận. Và bởi lòng nhân từ, Ngài lại ban cho chúng ta điều mà chúng ta không đáng được nhận hưởng.
Khi chúng ta phạm tội, Chúa Giê-xu đã đứng ra nhận tội thay cho chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời (IGi 2:1-29). Ngài là Đấng Biện Hộ của chúng ta. Khi chúng ta bị cám dỗ phạm tội, thì hãy nhớ rằng tội lỗi của bạn đã đặt Chúa Giê-xu trên thập tự giá. Và khi bạn phạm tội, thì không phải bạn chỉ đơn giản phạm tội chống nghịch lại gia đình, bạn bè bạn mà thôi nhưng là chống nghịch Chúa Cứu Thế, Đấng đã chết vì bạn.
Hiện giờ, Ngài đang ngự trên thiên đàng, mình-đầu thương tích, và đang cầu thay cho bạn trước ngai thánh. Vậy, giá đắt phải trả cho việc tẩy rửa tội lỗi chính là có một Đấng phải chịu chết. Đây là một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta đừng phạm tội.
Nếu bạn được cứu rỗi, bạn sẽ được tha thứ và món nợ của bạn do tội lỗi gây ra sẽ được xóa sổ. Hãy luôn nhớ, Đức Chúa Trời sẽ không cầm giữ luôn bản tường trình về tội lỗi của bạn, nhưng Ngài sẽ hay lưu tâm đến bản ký thuật về công việc của bạn, về những tội lỗi nào đã gây trở ngại cho khả năng hầu việc Chúa của bạn.
Đừng bao giờ cho rằng Đức Chúa Trời là Đấng phải có nhiệm vụ thanh tẩy tội lỗi cho chúng ta. Sự tha thứ đã được mua với giá rất đắt bằng chính huyết của Chúa Giê-xu. Hễ khi nào bạn bị cám dỗ phạm tội, thì hãy nhớ Chúa Giê-xu đã phải trả giá cho tội lỗi của bạn bằng chính mạng sống Ngài để cứu chuộc bạn.
12. Giá đắt phải trả cho sự đắc thắng (Thi 51:18-19)
Có một yếu tố biểu hiện của sự trưởng thành thuộc linh chính là nhận biết sự gớm ghê của tội lỗi. Tội lỗi thường đưa đến thảm kịch tàn khốc. Giám mục William Culbertson từng diễn thuyết về những hậu quả bi thương của tội lỗi được tha thứ. Chẳng hạn như, Đa-vít được tha thứ, nhưng đứa con bé bỏng của ông đã chết; còn Áp-sa-lôm và Am-môn thì bị giết chết một cách thê thảm. Đức Chúa Trời sẽ tha thứ tội lỗi cho chúng ta vì lòng nhân từ và thương xót của Ngài. Nhưng, trong sự cai trị của Ngài, chúng ta phải đối diện với các hậu quả do tội lỗi mình đem lại. Chúa đòi hỏi chúng ta phải gặt lấy những gì mình đã gieo ra.
Sự cám dỗ không phải là tội, nhưng khi chúng ta cứ mải mê để tâm đến nó và đầu hàng nó thì chúng ta sẽ phạm tội. Tội lỗi thường là một quá trình tiệm tiến. Đa-vít đã trải qua nhiều giai đoạn mới đi đến chỗ phạm tội.
-Giai đoạn thứ nhất, Đa-vít đặt áo giáp mình xuống (IISa 11:1-27). Bạn có đang mặc áo giáp thuộc linh không? (Êph 6:10-24). Chúng ta hãy mặc nó bằng sự cầu nguyện. Chúng ta cần đến với Chúa mỗi buổi sáng và mặc áo giáp thuộc linh vào.
-Giai đoạn thứ hai, Đa-vít không tìm kiếm Chúa mà chỉ mải lo nhìn ngắm Bát-sê-ba. Chúng ta phải xác thực rằng thân thể chúng ta thuộc về Chúa. Sau khi bạn mặc áo giáp thuộc linh vào rồi, thì nên dâng mình hoàn toàn cho Ngài (Rô 12:1).
-Giai đoạn thứ ba, Đa-vít không tỉnh thức cầu nguyện. Xác thịt vốn yếu đuối. Khi chúng ta trưởng thành trong đời sống Cơ-đốc nhân, thì tội lỗi lại càng trở nên quái quỷ hơn, tinh vi hơn. Chúng ta phải cảnh giác với chúng.
- Giai đoạn thứ tư, Đa-vít ở một mình. Ông không thông công với các tín-hữu yêu mến Chúa. Khi người ta cố dựa dẫm vào chính mình mà thôi thì họ thường thất bại.
- Giai đoạn thứ năm, Đa-vít chểnh mảng lơ là với Lời Chúa. Lời Chúa luôn giữ cho chúng ta sống thanh sạch.
- Giai đoạn cuối cùng, Đa-vít không nhờ cậy Đức Thánh Linh. Chúng ta cần đầu phục Ngài. Nếu bạn đầu phục Ngài bạn sẽ đắc thắng được tội lỗi.
Hãy ghi nhớ sáu bước này và đọc Êph 6:10-24. Đừng lập lại lỗi lầm của Đa-vít. Đừng bao giờ mải mê lưu tâm đến sự cám dỗ kẻo đi đến việc đầu hàng nó. Hãy suy gẫm Lời Chúa, vâng lời Ngài và dùng lẽ thật của Lời Ngài canh giữ tấm lòng bạn. Hãy luôn ở trong mối tương giao với Chúa.
52. KHI NGƯỜI TA GHÉT BẠN (Thi 52:1-9)
A-hi-mê-léc là một thầy tế-lễ phụ tá cho Đa-vít. Vì vậy, vua Sau-lơ xem ông là kẻ phản bội và truyền lệnh giết chết ông cùng cả nhà ông. Khi nghe tin này, Đa-vít rất buồn bã nên viết Thi-thiên này.
Thi-thiên 52 mô tả đến ba lần bức tranh về sự dữ của con người bằng phép phối cảnh.
-Thứ nhất, Đa-vít mô tả con người xảo trá lừa lọc (c.1-4).
Đô-ê là một hậu tự của Ê-sau, tiêu biểu cho con người phàm tục (Hêb 12:16). Cháu chắt của Ê-sau chính là kẻ thù của dân Do-thái.
Có lẽ, Đô-ê là một tân tín-hữu. Mặc dù ông rất giàu và có thế lực, nhưng ông không bao giờ nhận được sức lực từ Đức Chúa Trời. Đô-ê là kẻ khoác lác, thường khoe lòng ưa chuộng sự dữ của mình ra. Thật nguy hiểm cho kẻ nào ưa thích điều dối trá (IITês 2:11; Kh 22:15). Còn trong trường hợp của Đô-ê, kẻ dối trá lại đang nói về một sự thật nhưng lại nói với một động cơ xấu.
-Thứ hai, Đa-vít mô tả về Đấng Phán-Xét công bình (c.2-7).
Đức Chúa Trời sẽ đánh đổ kẻ ác, và nhổ trốc rễ nó lên khỏi đất sống. Sẽ có một ngày, kẻ ác là những kẻ cậy trông vào chính họ sẽ bị nhổ bật gốc và bị hủy diệt.
-Thứ ba, Đa-vít mô tả người đầy tớ chiến thắng (c.8,9).
Người sẽ được thấy những cây ô-li-ve xanh tươi mọc gần nhà Chúa. Người biết Chúa luôn chăm sóc người như Chúa chăm sóc các cây của Ngài, và người nhờ cậy vào Ngài để được mạnh mẽ. Đa-vít đã được Đức Chúa Trời trồng, ra hoa kết quả và sống ngợi khen Ngài.
Khi người ta xảo trá lừa lọc chúng ta, thì chúng ta hãy hướng lòng mình đến những điều thiện của Đức Chúa Trời, chứ đừng chú tâm vào điều ác của con người. Hãy để Chúa phán-xét mọi việc. Và hãy tiếp tục kết quả cho Ngài, ngợi khen Ngài ngay trong những lúc bạn gặp gian truân.
Bạn vẫn có thể là người chiến thắng khi người khác đầy lòng ghen ghét nhắm vào bạn. Hễ khi nào có ai đó ghét bạn, thì bạn hãy hướng tâm mình vào Chúa, giao phó vấn đề ấy cho Ngài và ca ngợi danh Ngài.
1. Giống như một lưỡi dao cạo (Thi 52:1-4)
Cái lưỡi là một trong những bộ phận nhỏ nhất của cơ thể, tuy nhiên nó có thể gây nên sự hủy diệt khủng khiếp nhất. Trong đoạn Thi-thiên này, Đa-vít viết về kinh nghiệm của ông đối với Đô-ê, kẻ ác có cái lưỡi khoe khoang khoác lác. Đa-vít khuyến cáo chúng ta về hai loại lưỡi có tính hủy diệt.
-Thứ nhất, hãy coi chừng giọng lưỡi khoe khoang.
Đô-ê là kẻ kiêu ngạo. Trong lúc ngạo mạn khoác lác, ông đã nói cho Sau-lơ biết về Đa-vít, và việc ấy đã phải trả giá bằng mạng sống của nhiều người. Chúng ta thích khoe khoang khoác lác vì nó sẽ thổi phồng cái tôi của chúng ta lên. Hễ ai muốn khoe khoang thì hãy khoe khoang trong Chúa. Nếu chúng ta khoe khoang về Ngài thì chúng ta sẽ làm vinh hiển Ngài.
-Thứ hai, cần cảnh giác với giọng lưỡi bén ngót.
Đa-vít nói về Đô-ê “Giọng lưỡi ngươi toan định sự tàn diệt, tựa như dao cạo bén sắc, đang làm điều phỉnh gạt” (c.2). Đô-ê là kẻ có giọng lưỡi bén sắc, dối trá “Người ưa chuộng điều ác hơn điều thiện và thích nói dối hơn nói lời ngay thẳng đúng đắn. Ngươi yêu mến tất cả những lời nói mang tính hủy diệt, giọng lưỡi của ngươi thật dối trá, lừa lọc” (c.3, 4).
Có bao giờ bạn bị cái lưỡi sắc bén của ai đó cắt chưa? Hoặc tệ hại hơn, có bao giờ bạn dùng lời nói của mình cắt người nào đó chưa? Cái điều gây nên nỗi đớn đau thật sự là khi bạn dùng lời dối trá cắt ai đó. Nói dối là một tội lỗi ghê tởm. Sa-tan là kẻ nói dối và cũng là tên sát nhân. Hắn muốn sử dụng cái lưỡi của chúng ta để đồn huyễn những điều phỉnh dối chứ không nói lời ngay thật.
Trong câu 1, Đa-vít tán dương sự nhơn từ Chúa “Sự nhơn từ của Đức Chúa Trời hằng còn mãi mãi”. Khi chúng ta khoe khoang về sự nhơn từ Chúa, thì miệng lưỡi của chúng ta sẽ trở thành phương thuốc chữa lành vết thương chứ không phải trở thành lưỡi dao cạo dùng để cắt cứa. Chúng ta hãy dùng miệng lưỡi mình nói lời đúng đắn ngay thật chứ đừng đồn huyễn dối trá. Miệng lưỡi của chúng ta sẽ khoe về Chúa chứ không khoe về chính chúng ta. Hãy dâng lòng mình cho Chúa để lưỡi chúng ta có thể được Ngài đại dụng cho sự ban phước của Ngài.
Khi đời sống được thiết lập trên tội lỗi thì đời sống ấy sẽ không có nền móng. Hãy nhớ lại câu chuyện ẩn dụ mà Chúa Giê-xu đã kể về hai người thợ xây nhà (Mat 7:24-27). Người ngu dại xây nhà mình trên cát; anh ta là người không biết vâng lời Đức Chúa Trời. Còn người khôn ngoan xây nhà mình trên nền đá – tức là người biết vâng lời Đức Chúa Trời. Và khi bão tố nổi lên, thì ngôi nhà được xây trên nền đá trở nên vững chắc, chắc chắn. Còn ngược lại, ngôi nhà xây trên nền cát bị đổ sập.
Đức Chúa Trời không phải là sức lực của kẻ tự phụ, và Ngài cũng chẳng phải là nơi tin cậy cho người. Kẻ tự phụ tự mãn chỉ biết sống dựa vào của cải mình. Ngày hôm nay, hầu hết thiên hạ đều tưởng tiền bạc có thể giải quyết tất cả mọi vấn đề. Hãy xem, loại người “chỉ biết nhờ cậy vào sự giàu có thừa mứa vật chất của mình” mà Đa-vít đã nói đến (c.7). Và điều gì xảy ra với họ? “Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt họ vĩnh viễn. Ngài sẽ bắt đem họ đi và bứt họ ra khỏi nơi họ trú ngụ, nhổ họ lên khỏi đất sống” (c.5).
Chúng ta có thể trông thấy loại người này trong nhà họ hoặc họ đang lẩn quẩn quanh đống của cải vật chất của họ. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ đụng đến họ và bứt họ ra khỏi những chỗ đó tựa như cái cách bạn thò tay vào hang nắm kéo một con thỏ ra ngoài vậy. Kẻ tự mãn tự phụ giống như một cái cây đẹp đẽ. Nhưng Đức Chúa Trời bảo: “Ta sẽ nhổ bật rễ ngươi lên”. Còn người công bình sẽ cười cuối cùng. “Người công bình nhìn thấy điều đó thì kinh sợ, và sẽ cười nhạo kẻ tự phụ tự mãn kia” (c.6). Có phải bạn sắp sửa là người cười cuối cùng không? Hay là bạn sắp bị người ta cười nhạo?
Đức Chúa Trời là sức lực và là Đấng đáng tin cậy của bạn. Đừng giống như kẻ tự phụ tự mãn kia là kẻ đặt lòng tin vào những sự giả tạo trong thế gian này để có sức lực và có nơi dựa dẫm. Hãy để Lời Chúa ngấm vào trí óc bạn và giấu lẽ thật của Lời Ngài vào trong lòng bạn. Bạn hãy phó thác chính mình cho Chúa chăm sóc và làm cho bạn được vững vàng.
Hình ảnh cây ô-liu xanh tươi trong nhà Đức Chúa Trời là một hình ảnh rất xác đáng minh họa cho vị trí của người tín-đồ. Bạn đang sống trong một nơi vững chãi, có quyền được hưởng đặc ân và ra quả. Chỉ khi nào bạn đầu phục Chúa và để Đức Thánh Linh hành động trong đời sống bạn thì bạn sẽ đậu trái làm vinh hiển Ngài. Bạn có thể mô tả chính đời sống bạn như là cây ô-liu trong nhà Chúa không?
• Chúng ta cần phải biết kiềm chế lưỡi mình.
Chúng có thể gây ra sự hủy diệt kinh khiếp. Hãy cảnh giác đối với những miệng lưỡi sắc bén và khoe khoang khoác lác. Cẩn thận gìn giữ lưỡi mình đừng nói dối đồn huyễn. Và khi nào có ai đó nói xấu bạn, thì bạn chớ trả đũa lại người ấy bằng chính cái lưỡi của bạn. Thay vì làm vậy, bạn hãy dùng lưỡi mình làm vinh hiển Đức Chúa Trời và nói về sự nhân từ của Ngài.
2. Chung cuộc (Thi 52:5-7)
Một trong những vấn đề liên quan đến triết lý của những người theo chủ nghĩa nhân văn đó là: triết lý ấy khiến người ta cho rằng họ có thể sống tự lực cánh sinh, không cần bất cứ sự trợ giúp nào từ bên ngoài và họ có thể tự giúp mình.
Họ cũng nghĩ rằng họ có tất cả những gì họ cần cho sự sống lẫn sự chết. Đa-vít mô tả loại người này như sau “Đó là người không chịu nhờ Đức Chúa Trời làm sức lực mình, nhưng chỉ nhờ cậy vào sự giàu có về của cải vật chất, tự làm cho mình mạnh mẽ trong sự gian ác” (c.7).
Đây chính là một bức tranh về hình ảnh loại người tự phụ tự mãn không nhận biết được tình thế của mình đang thực sự gặp nguy hiểm như thế nào. Hãy chú ý: Đức Chúa Trời không phải là sức lực của người. Người tự phụ chỉ biết nhờ cậy vào chính các việc làm gian ác của họ và nhận lấy sức lực từ tội lỗi mình.
3. Hãy làm một nhánh ô-liu (Thi 52:8-9)
Nếu bạn muốn ví sánh chính mình với thứ gì đó trong thiên nhiên, thì bạn sẽ chọn gì? Chắc bạn sẽ bảo bạn thích mình giống như một ngọn núi, một quả đồi hay một cái hồ nào đó? Đa-vít viết: “Còn tôi khác nào cây ô-li-ve xanh tươi trong nhà Đức Chúa Trời, tôi nhờ cậy nơi lòng nhân từ của Ngài đến đời đời vô cùng” (c.8). Đa-vít đã ví sánh chính mình với một thứ vững bền, còn ngược lại đối với kẻ ác, chúng sẽ bị nhổ bật rễ khỏi đất sống (c.5).
Vị trí vững chắc của Đa-vít cũng chính là địa vị có đặc quyền được hưởng đặc ân bởi vì ông đã được trồng trong nhà Đức Chúa Trời. Phần quan trọng nhất của một cây xanh là bộ phận rễ, vì nó hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Hơn nữa, nó còn giúp cho cây đứng vững và vẫn sống mạnh mẽ trong cơn bão tố. Chúng ta có thể nhận biết được người ta có loại rễ nào khi cơn bão cuộc đời nổi lên khắc nghiệt hơn. Có một số người sống đời sống giống như những cây cỏ dại tong teo yếu ớt, không có rễ, bị gió thổi bay đi từ nơi này đến nơi khác.
Đa-vít sống đời sống kết quả. Ông giống như một cây ô-liu xanh tươi mọc trong nhà Chúa, ra trái, đem lại vinh quang cho Ngài. Sự đậu trái chính là một trong những niềm vui mừng lớn trong đời sống Cơ-đốc nhân. Chúa Giê-xu đã từng dùng hình ảnh một dây nho để dạy cho các tín-đồ biết rằng họ cần phải ra nhiều trái (Gi 15:1-8).
Hãy nhìn vào các dấu hiệu sau: Cây xanh tốt biểu hiện cho sự tươi mới và mạnh mẽ. Hạt ô-li-ve chứa dầu, một biểu hiện của Đức Thánh Linh. Vì vậy, không ai thắc mắc tại sao Đa-vít lại kết thúc đoạn Thi-thiên này bằng sự ngợi khen Đức Chúa Trời! “Tôi sẽ ngợi khen Chúa mãi mãi bởi vì Ngài đã làm việc đó, và trong sự hiện diện của các thánh-đồ của Ngài, tôi sẽ trông cậy danh Ngài vì đó là điều tốt lành” (Thi 52:9).
53. THI-THIÊN (Thi 53:1-6)
1. Chủ nghĩa vô thần thực dụng (Thi 53:1-6)
“Kẻ ngu dại nhủ với lòng mình rằng không có Đức Chúa Trời” (c.2).
Người không nói ý tưởng này ra ngoài cửa miệng mà chỉ nói trong lòng mình mà thôi. Đây là một sự mô tả về chủ nghĩa vô thần thực dụng. Hầu hết thiên hạ đều không cho rằng: “Tôi không tin Đức Chúa Trời tồn tại”. Nhưng họ sống đời sống như thể Ngài không hề tồn tại vậy. Đa-vít nhắc nhở chúng ta rằng những gì chúng ta tin ở Chúa bằng cả tấm lòng mình sẽ quyết định cách sống của chúng ta.
Đa số người ta trong thế gian này đều không biết Chúa. Có lẽ, đó là lỗi của những Cơ-đốc nhân. Chúng ta cần cầu nguyện nhiều hơn, ban cho nhiều hơn và làm chứng nhiều hơn. Nhưng thực tế cho thấy rằng hầu hết thiên hạ đều sống đời sống như thể không có sự tồn tại của Đức Chúa Trời.
Họ hiếm khi nghĩ đến Ngài, trừ khi họ đang phải đối diện với bệnh tật, thảm kịch hoặc sự chết, và thậm chí sau những hữu sự, họ lại quên Ngài ngay. Đa-vít dạy chúng ta rằng những gì chúng ta tin ở Chúa sẽ ảnh hưởng đến ý chí của chúng ta. “Chúng nó đều bại hoại, phạm tội ác gớm ghiếc. Chẳng có ai làm điều lành” (c.1). Vậy nếu chúng ta nói: Không có Đức Chúa Trời thì chẳng khác nào bảo: Không có gì tốt lành cả.
Câu 2 dạy chúng ta rằng những gì chúng ta tin ở Chúa cũng sẽ tác động đến lý trí của chúng ta. Đức Chúa Trời từ trên trời nhìn xuống loài người xem thử có ai hiểu biết Ngài và tìm kiếm Ngài không. Kết quả là Ngài không tìm thấy được người nào cả. Loài người sống đời sống thiếu sự hiểu biết Chúa và họ không muốn hiểu biết Ngài. Họ chỉ muốn sống theo ý họ mà không cần đến Chúa.
Còn câu 5 dạy rằng những gì chúng ta tin ở Chúa sẽ ảnh hưởng đến tấm lòng chúng ta. “Nơi nào không có sự kính sợ Chúa, thì nơi đó người ta sẽ phải sống trong nỗi kinh hoàng khủng khiếp”. Loài người phải kính sợ Đức Chúa Trời cho dù họ không tin vào Ngài.
Có phải chúng ta đang sống đời sống theo ý mình như thể Đức Chúa Trời không nhìn thấy gì phải không? Có phải chúng ta nói năng như thể Ngài chẳng hề nghe được gì phải không? Hoặc có phải chúng ta suy nghĩ và toan tính trong lòng như thể Ngài không hề nhìn biết gì cả chăng? Chúng ta hãy sống như những người nói rằng: “Vâng, chúng tôi biết Ngài, và muốn làm vinh hiển Ngài”.
Có người cho rằng mỗi người đều tin vào ai đó hoặc tin vào điều gì đó. Lòng tin liên quan đến toàn bộ sự sống nội tại của con người. Những điều bạn tin đều có ảnh hưởng đến tấm lòng, lý trí và ý muốn của bạn. Đức Chúa Trời đã đáp lại những nhu cầu sâu kín của bạn và tương giao với bạn. Ngài muốn bạn tin cậy Ngài và làm vinh hiển Ngài bằng chính đời sống bạn. Bạn có đang làm chứng về Chúa cho những người ở xung quanh bạn không? Bạn có sống đời sống làm vinh hiển Chúa không?
2. Sự điên rồ của kẻ ngu dại (Thi 53:1-6)
Thi-thiên này mô tả lại hình ảnh người vô thần và đưa ra 8 lý do giải thích tại sao đó lại là những kẻ ngu dại.
(1) Đầu tiên, họ không thừa nhận Đức Chúa Trời (c.1).
Họ sống như thể không có sự tồn tại của Chúa vậy. Họ không vâng lời Ngài (c.1). Một số người cho rằng bản chất tự nhiên của con người là thiện hảo. Điều đó không đúng đâu. Chúng ta có bản chất tự nhiên vốn xấu xa ghê tởm (Rô 3:9).
(2) Kẻ ngu dại không hiểu biết gì về Đức Chúa Trời cả (c.2).
Nếu bạn không có Thánh Linh của Đức Chúa Trời, chắc chắn bạn sẽ không thể nào hiểu được gì về Ngài. Người vô thần nói họ sẽ không chấp nhận thứ gì nếu như họ không hiểu. Kết cuộc, họ làm ra vẻ hiểu biết nhưng chỉ hiểu được đôi chút về thế giới này mà thôi!
(3) Kẻ ngu dại không tìm kiếm Đức Chúa Trời (c.2).
Chẳng có một người nào tự mình tìm kiếm Chúa và chạy đến nhận biết Ngài. Đức Chúa Trời mời gọi chúng ta tìm kiếm Ngài, thì Ngài sẽ thương xót chúng ta.
(4) Kẻ ngu dại không bước theo đường lối Chúa (c.3).
Đức Chúa Trời sắm sẵn con đường đúng cho chúng ta. Làm một Cơ-đốc nhân không phải dễ, nhiều người không muốn trả giá. Con đường hẹp dẫn đến sự sống thì gập ghềnh khó đi. Còn con đường rộng là con đường dễ đi thì dẫn đến sự chết (Mat 7:13,14).
(5) Kẻ ngu dại không cầu khẩn Đức Chúa Trời (c.4).
Những người như thế rất hám lợi và đối xử không tốt với người khác.
(6) Kẻ ngu dại không kính sợ Đức Chúa Trời (c.5).
Ngày của Chúa rồi đây sẽ đến và kẻ ngu dại sẽ phải run sợ. Họ sống với đức tin giả dối và sẽ có ngày họ phải đối diện với sự phán-xét.
(7) Kẻ ngu dại không trông đợi Đức Chúa Trời (c.6).
Những người loại bỏ Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống mình sống không có tương lai.
Dân sự Đức Chúa Trời có tương lai là sự sống đời đời. Tuy nhiên, hễ ai xưng mình là Cơ-đốc nhân nhưng sống giống như người vô thần thì cũng trở thành kẻ ngu dại. Cầu xin Đức Chúa Giê-xu giúp đỡ chúng ta nhận biết được sự nhân từ, sự vĩ đại oai nghi của Đức Chúa Trời quyền năng.
(8) Người vô thần sống như thể không có Đức Chúa Trời vậy.
Là con cái Chúa, chúng ta hãy háo hức trông đợi sự sống đời đời. Tuy nhiên, nếu bạn thất bại trong việc bước đi với Chúa, thì có lẽ là do bạn đã ăn ở như kẻ ngu dại trong cuộc sống.
Hãy duy trì nguồn sống tâm linh của mình nơi Đấng Christ và đặt niềm hy vọng ở Ngài.
54. AI LÀ CHỖ DỰA CHÍNH CỦA CUỘC ĐỜI BẠN? (Thi 54:1-7)
“Kìa, Đức Chúa Trời là sự trợ giúp con, Ngài luôn ở cùng những ai nâng đỡ đời sống con” (c.4). Đa-vít viết những lời này khi ông đang chạy trốn khỏi vua Sau-lơ. Chúng ta có thể dịch câu trên thế này “Chúa là chỗ dựa chính của cuộc đời con”. Ngày nay, Đức Chúa Trời có còn là chỗ dựa chính, là sự tiếp trợ chính của cuộc đời bạn không?
Đa-vít đã phải trải qua nhiều giai đoạn trông đợi Đức Chúa Trời giúp đỡ ông. Ông bắt đầu bằng sự cầu nguyện. “Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy lấy danh Ngài cứu giúp con, dùng sức lực Ngài bênh vực con. Chúa ôi! Xin nghe lời cầu nguyện của con, và lắng tai nghe các lời từ miệng con” (c.1, 2). Đây là một cách cầu nguyện rất hiệu quả. Lúc ấy, Đa-vít đang bị kẻ thù nghịch mình và nhiều người không tin Chúa tấn công. Vì thế ông cần giúp đỡ, nên ông đã kêu cầu Đức Chúa Trời.
Ở câu 4, chúng ta bắt gặp một ngã rẽ: Đa-vít đã để cho đức tin mình hành động. “Kìa, Đức Chúa Trời là sự trợ giúp con, Ngài luôn ở cùng những ai nâng đỡ đời sống con (Ngài là chỗ dựa chính của cuộc đời con). Ngài sẽ báo ác cho kẻ thù nghịch con. Xin hãy tiêu diệt chúng bởi chân lý của Ngài” (c.4,5). Đa-vít lúc bấy giờ đang đặt lòng tin nơi Chúa. Khi chúng ta kêu cầu Chúa thì hãy tin rằng Ngài đang nghe và sẽ đáp lời chúng ta.
Đa-vít kết thúc Thi-thiên này bằng sự ngợi khen. “Hỡi Đức Giê-hô-va, con sẽ tự nguyện dâng của lễ cho Chúa và ngợi khen danh Ngài vì điều đó là tốt lành” (c.6). Tại sao vậy? Tại vì “Ngài đã giải cứu con thoát khỏi mọi gian truân, mắt con sẽ chứng kiến sự báo trả cho kẻ thù nghịch con” (c.7). Đây là một sự tiếp nối các từng trải rất thú vị của Đa-vít: Ông gặp gian truân. Sự cố này dẫn ông đến chỗ tin cậy Đức Chúa Trời là việc đã đem lại chiến thắng cho ông. Ông gặp phải nan đề, nhưng ông đã biến nó thành lời cầu nguyện, là lời đem lại sự ngợi khen Đức Chúa Trời.
Khi bạn gặp gian truân và buộc phải chờ đợi sự giúp đỡ, thì nơi mà bạn đặt đức tin vào quan trọng vô cùng. Sự tiếp nối các từng trải của bạn có tương tự như sự nối tiếp các từng trải của Đa-vít không? (Nan đề đưa đến sự cầu nguyện rồi dẫn đến sự ngợi khen? Hoặc gian truân dẫn đến sự tin cậy và đem lại chiến thắng?) Nếu khi nào bạn phải chờ đợi sự giúp đỡ, thì hãy để cho đức tin bạn hành động. Đức Chúa Trời sẽ nghe bạn và đáp lời cầu xin của bạn.
55. VÚT BAY TRÊN CẢ BÃO TỐ (Thi 55:1-23)
Đa-vít viết Thi-thiên này trong suốt những thời kỳ đầu Áp-sa-lôm âm mưu tạo phản. Ông dạy rằng gặp thử thách gian truân, chúng ta có thể chọn một trong ba giải pháp sau để ứng phó:
-Thứ nhất, chúng ta có thể chạy trốn (c.1-8).
Đa-vít đề cập đến các động cơ hành động của mình. Ông đang ở trong hoàn cảnh khó khăn và muốn bay đi. Nhưng, những thử thách nan đề này lại chính là một phần sửa phạt của Đức Chúa Trời dành cho ông.
-Thứ hai, chúng ta có thể chiến đấu (c.9-15).
Âm mưu tạo phản của Áp-sa-lôm đã đi quá xa đến nỗi Đa-vít không thể đánh bại quan quân đồng bọn của người. Đa-vít chỉ còn có thể cố cứu lấy chính mạng sống mình mà thôi. Ông nhìn thấy một thành phố tràn ngập tội lỗi, bè bạn ông thì quay lại chống nghịch ông, nhưng Đức Chúa Trời có đủ khả năng đánh bại tất cả. Áp-sa-lôm và đồng bọn làm nổi loạn đã phải bị Chúa trừng trị.
-Thứ ba, chúng ta có thể bay vút lên trên các thử thách gian nan (c.8-23).
Cơn gió thổi mọi thứ cho rơi xuống và nâng cánh chim ưng bay lên cao. Chúng ta sẽ nhận được quyền bính, sức mạnh này khi chúng ta khẩn cầu Chúa qua lời cầu nguyện và thờ phượng Ngài. Đa-vít nhìn vào cơn nóng giận của mình và ngó chăm kẻ thù nghịch mình, nhưng sau đó ông hướng đức tin của ông đặt nơi Chúa.
• Đa-vít chiến thắng kẻ thù vì cớ ông đã tìm kiếm Chúa:
Con sẽ kêu cầu Ngài (c.16): Con sẽ trao gánh nặng con cho Ngài (c.22) và con sẽ tin cậy nơi Ngài (c.23). Đức Chúa Trời trao cho chúng ta nhiều gánh nặng, và chúng ta lại sẽ trao trả chúng lại cho Ngài. Đừng cầu xin Chúa cho đôi cánh chim câu chỉ để bay đi ẩn trốn, nhưng hãy cầu khẩn Chúa ban cho bạn đôi cánh như cánh chim ưng để bạn có thể bay vút lên trên cả bão tố.
Thử thách gian truân buộc bạn phải phản ứng lại. Bạn có thể chạy trốn, chống cự lại hoặc bay vút lên trên chúng. Hiện nay, bạn có đang đối diện với thử thách nào không? Đức Chúa Trời có mục đích khi để xảy ra thử thách cho bạn và Ngài muốn bạn học hỏi cách vút bay lên trên thử thách. Hãy giao phó gánh nặng của bạn cho Ngài và tin cậy Ngài để Ngài ban sức lực cho bạn vút bay lên trên khó khăn gian truân của bạn.
1. Bạn muốn bay đi trốn không? (Thi 55:1-8)
Có bao giờ bạn cảm thấy muốn bay đi chỉ để trốn chạy tất cả chưa? Có khi nào cuộc sống trở thành gánh nặng như thế đến nỗi bạn nghĩ đến nó thì bạn chỉ mong trốn chạy? Đã có lần Đa-vít trải qua cảm nghĩ như thế. Đó là lý do tại sao ông viết: “Và con có nói: Ồ, ước gì con có đôi cánh như cánh chim câu! Để con có thể bay đi và ở trong sự nghỉ ngơi. Đúng vậy, con sẽ trốn đi thật xa, nán lại trong đồng hoang. Con sẽ vội vàng chạy trốn khỏi cơn phong ba bão táp” (c.6-8).
Nào, bây giờ chúng ta hãy thành thật với mình. Đây là thứ tình cảm rất tự nhiên. Tất cả chúng ta đều cảm thấy thích ra đi với cái túi trên vai mình mà thôi và nói rằng: “Đã quá đủ cho tôi rồi! Tôi không thể chịu nổi nữa! Tôi phải bứt ra thôi!” Đó là một phản ứng tự nhiên và rất bình thường. Nhưng đó không phải là giải pháp tốt đối với mọi vấn đề. Chúng ta thường mang theo mình những nan đề của chính mình. Chúng ta có thể đi nghỉ đâu đó và thư giãn trong một thời gian nghỉ ngơi ngắn. Tuy nhiên khi trở về chúng ta lại thấy các cuộc chiến và những gánh nặng kia vẫn còn đó. Thực tế, đôi khi chúng ta cố chạy trốn nhưng chúng ta chỉ càng làm cho các nan đề trở nên tồi tệ hơn mà thôi.
Tại sao Chúa để chúng ta phải trải qua những trận cuồng phong giông bão? Bởi vì chính chúng sẽ giúp chúng ta lớn lên và trưởng thành. Nếu chúng ta cứ lo chạy trốn thì chúng ta chẳng khác gì mấy đứa trẻ con chẳng bao giờ lớn lên được. Không, chúng ta không cần đôi cánh chim câu để bay đi trốn. Chúng ta cần đôi cánh chim ưng. Ês 40:31 nói rằng: “Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì sẽ được Ngài ban cho sức mới, cất cánh bay vút lên cao như chim ưng”. Chim ưng là loài chim có thể đương đầu với bão tố, dang đôi cánh lớn của mình ra và để cho gió nâng nó bay vút lên trên cả cơn giông bão.
Đừng chạy trốn. Nhưng hãy chạy đến với Chúa và để Ngài nâng bạn lên cao trên cả cơn bão của cuộc đời.
Đức Chúa Trời cho phép thử thách xảy ra để làm cho bạn lớn lên và trưởng thành, trở nên giống Con Trai Ngài. Vì vậy, hễ khi nào bạn gặp bão tố thì bạn nên xua tan ý định trốn chạy khỏi nó. Hãy để Chúa dùng cơn bão ấy hoàn tất mục đích của Ngài.
2. Giá mà không phải bạn tôi (Thi 55:9-15)
Có lẽ, sự đau lòng tột độ đối với bạn chính là khi có ai đó mà bạn thực sự yêu thương – chẳng hạn một người bạn nào đó, một thành viên trong gia đình bạn - phản bội bạn. Đa-vít đã viết “Nếu kẻ khiển trách sỉ nhục tôi là kẻ thù tôi, thì có lẽ tôi đã chịu đựng được. Hoặc nếu kẻ dấy lên chống nghịch tôi là người ghét tôi thì chắc tôi sẽ chạy trốn khỏi anh ta. Nhưng đằng này, kẻ ấy lại chính là bạn – đồng sự ngang hàng với tôi và là người thân thích của tôi” (c.12, 13).
Thật đúng là gà nhà đá nhau, và đôi khi chính bạn bè chúng ta lại làm cho chúng ta đau đớn nhất. Và cũng có thể chúng ta làm cho họ đau lòng vô cùng. Đa-vít viết về bạn mình rằng: “Miệng hắn nói ra những lời thật trơn tru hơn cả bơ sữa, nhưng lòng dạ hắn thì chất chứa binh đao, lời lẽ của hắn thật dịu dàng, mềm mỏng hơn dầu, tuy nhiên lời lẽ ấy chỉ là những lưỡi gươm đã được rút ra khỏi vỏ” (c.21)
Chúa Giê-xu chắc hẳn đã dùng những lời này khi nói về Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Ngài bảo “Vâng, một người bạn thân thiết của ta, từng đi với ta, cùng ăn uống với ta, lại chính là kẻ phản ta”
“Chúng ta đã từng nhẹ nhàng đàm luận với nhau, và cùng kéo nhau đến nhà Chúa” (c.14). Thật đáng buồn biết bao khi các thành viên trong Hội thánh, là những người đã cùng với chúng ta thông công, tương giao trong nhà Chúa lại quay đầu chống nghịch chúng ta và làm đau lòng chúng ta. Nhưng chúng ta phải làm điều Đa-vít đã làm. Ông thành thật với Chúa: “Lạy Chúa! Chỉ có Ngài là Đấng duy nhất giải quyết được vấn đề này. Con không hiểu thấu sự việc ấy. Tuy nhiên, con sẽ không lấy ác trả ác đâu. Nhưng con sẽ giao phó nó cho Ngài” và Đức Chúa Trời đã đáp ứng các nhu cầu của Đa-vít. Ngài tán dương ông và chữa lành mọi vết thương cho ông.
Ở đây, chúng ta học được hai bài học.
-Thứ nhất, tất cả chúng ta đều là con người. Đôi lúc, những người khác sẽ làm tổn thương chúng ta. Nhưng chúng ta hãy giao phó sự đớn đau ấy cho Chúa và đừng chống trả lại họ.
-Thứ hai, hãy cẩn thận đừng làm tổn thương người khác. Hãy làm một người bạn đem hạnh phúc đến cho người khác chứ đừng làm kẻ phản bội.
Niềm tin bị phản bội là một trong những điều cay đắng mà chúng ta khó lòng chấp nhận nhất. Cách bạn đối xử lại đối với những người làm bạn tổn thương chính là một sự thử nghiệm thật, trắc nghiệm đức tin của bạn. Khi nào có ai đó làm bạn đau đớn, thì bạn có còn đảm bảo sống đời sống thánh khiết và dùng điều thiện đáp lại cho điều ác không? Hoặc khi có người nào làm điều tồi tệ nhất đối với bạn, thì bạn hãy giao phó điều ấy cho Chúa. Ngài sẽ đáp ứng những nhu cầu của bạn và dùng bạn để làm vinh hiển cho chính Ngài.
3. Hãy học hỏi từ những biến đổi (Thi 55:16-21)
Đa-vít đang trải qua sự khó khăn khốc liệt. Một vài người trong số bạn bè ông, kể cả người bạn thân thiết nhất của ông, đang quay lại chống nghịch ông. Đó là nỗi đớn đau vô cùng.
Đa-vít đã giải quyết vấn đề này bằng cách nào?
-Thứ nhất, ông cầu khẩn Đức Chúa Trời. “Còn đối với con (những gì họ đã gây cho con không thành vấn đề) con sẽ kêu cầu Chúa, thì Ngài sẽ cứu giúp con. Con sẽ cầu nguyện vào buổi tối, buổi sáng và buổi trưa, con kêu khóc và Ngài sẽ nghe tiếng con” (c.16,17). Hiển nhiên, Đa-vít là người sống đời sống cầu nguyện có phương pháp. Ông kêu cầu Chúa và trình cho Chúa biết mọi nan đề của mình.
-Thứ hai, ông để Đức Chúa Trời thực hiện việc phán-xét. “Đức Chúa Trời sẽ nghe và sẽ làm cho chúng đau đớn. Ngài là Đấng hằng có từ trước vô cùng” (c.19) Đa-vít tin Đức Chúa Trời sẽ giải quyết được vấn đề của ông. Chúng ta cũng nên tin như vậy. Hãy để Chúa ban cho bạn những người bạn để có thể giúp đỡ bạn trong công tác của bạn, và hãy để Ngài xử lý các kẻ thù nghịch bạn. Đừng đối xử với người khác theo cách họ đã đối xử với bạn. Thay vì làm thế, bạn hãy đối xử với họ theo cái cách bạn muốn được họ đối xử với bạn. Đừng lấy ác trả ác.
-Thứ ba, Đa-vít quyết tâm học hỏi từ kinh nghiệm này. “Bởi vì chúng nó chẳng chịu biến cải, nên chúng không kính sợ Đức Chúa Trời” (c.19). Đa-vít đang phải nếm trải sự thay lòng đổi dạ của bạn bè mình, và điều này giúp ông càng thêm kính sợ Chúa hơn. Thường thì chúng ta không ưa thích những sự thay đổi. Nhưng khi Đức Chúa Trời đem nó đến trên đời sống chúng ta, thì chúng ta lại cần phải học hỏi ở nó. Chúng ta đừng mãi lo tìm kiếm cho mình những gì quá dễ chịu thoải mái, quá ổn định. Vì nếu như thế thì Ngài sẽ không thể làm bất cứ điều gì mới mẻ trên đời sống cho chúng ta đâu.
Hãy quyết tâm học hỏi từ những từng trải khó khăn, gian khổ. Đức Chúa Trời luôn có mục đích trong việc cho phép xảy ra mọi gian truân và các nan đề cho bạn. Hãy để Ngài dạy dỗ bạn những lẽ thật mới mẻ và hành động trên đời sống bạn bằng những cách mới mẻ.
4. Hãy trao gánh nặng ấy lại (Thi 55:22-23)
“Hãy trao gánh nặng ngươi cho Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ nâng đỡ ngươi; Ngài sẽ chẳng hề cho người công bình bị rúng động” (c.22).
Lời hứa này dạy chúng ta rằng: Cơ-đốc nhân luôn có những gánh nặng. Đa-vít không đề cập đến sự quan tâm đối với người khác, mặc dù việc mang lấy các gánh nặng cho họ là một việc làm tốt. Thay vào đó, ông nói về những gánh nặng mà chính Chúa đã cho phép mỗi một chúng ta mang. Cũng có một lối dịch nữa là “Hãy trao phó cho Chúa những gì Ngài đã ban cho ngươi”.
Các gánh nặng không phải là những biến cố nhưng là những cuộc bổ nhiệm. Bao nhiêu gánh nặng bạn đang phải mang lấy trong cuộc sống bạn hiện nay đều do Chúa an bài – ngoại trừ chúng là hậu quả do chính bạn phạm tội nổi loạn chống nghịch lại Ngài. Các gánh nặng sẽ giúp chúng ta trưởng thành, kinh nghiệm được sức mạnh và tầm vóc của đức tin. Chúng dạy cho chúng ta biết phải tin cậy Chúa như thế nào và sống đời sống trọn lành mỗi ngày.
Lời hứa này còn dạy chúng ta rằng: chúng ta có thể giao phó những gánh nặng của mình cho Chúa. Sứ-đồ Phi-e-rơ nói: “Anh em hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, thì Ngài sẽ chăm sóc anh em” (IPhi 5:7). Chúa ban gánh nặng cho chúng ta rồi phán bảo: “Nào, bây giờ con hãy trao gánh nặng ấy lại cho ta. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, con cũng hãy trao phó chính mình con cho ta nữa”.
Nếu chúng ta cố trao những gánh nặng mình cho Chúa mà thôi nhưng lại không trao chính chúng ta cho Ngài, thì Ngài sẽ không thể nào giúp đỡ chúng được. Việc này tương tự như việc bước vào một cái thang máy với nhiều hành lý lỉnh kỉnh nặng nề và không thể đặt chúng xuống sàn mãi cho đến khi tới chỗ cần đến. Hãy để cho cái thang máy ấy mang cả bạn cùng mớ hành lý của bạn đi.
Xin lưu ý câu Thi-thiên trên không nói rằng Chúa sẽ giữ gìn bạn tránh các vấn đề trong tất cả mọi lúc. Ngài sẽ dùng những nan đề để xây dựng phẩm hạnh bạn. Nhưng Ngài đảm bảo rằng người công bình sẽ không bao giờ bị chao đảo, rúng động. Hãy trao gánh nặng của bạn cho Chúa và để cho Ngài nâng đỡ bạn ngay hôm nay.
Việc trao gánh nặng của bạn cho Đức Chúa Trời là một hành động đức tin. Nhưng việc trao phó chính mình bạn cho Ngài và để Ngài sử dụng gánh nặng ấy giúp bạn lớn lên lại là một việc thực hiện bước đức tin lớn lạ đặc biệt. Ngài sẽ đầu tư gánh nặng ấy vào việc xây dựng phẩm cách con người. Hãy trao gánh nặng của bạn cho Ngài ngay hôm nay.
56. THI-THIÊN (Thi 56:1-13)
1. Chai và sổ (Thi 56:1-9)
Bạn có phải là mẫu người thường giữ một cuốn nhật ký ghi chép công việc hằng ngày của mình không? Khi còn đương nhiệm chức mục sư, tôi luôn mang theo bên mình một cuốn nhật ký. Tôi ghi vào đó những nơi tôi đã viếng thăm, viết lại tên những người nào mà tôi đã gặp. Để lúc trở về văn phòng làm việc, tôi bảo nhân viên của tôi: “Đây là những việc tôi đã làm, còn đây là các nan đề, nhu cầu mà chúng ta cần cầu thay”.
Bạn có biết rằng Đức Chúa Trời đang giữ một cuốn sổ ghi chép về bạn không? Nhật ký của Ngài bao gồm những cái chai và các cuốn sổ. Đa-vít thưa “Xin Chúa đếm các bước đi lang thang của con, đổ nước mắt con vào chai của Ngài. Lẽ nào nước mắt con lại không được ghi vào sổ của Ngài ư?” (c.8). Đức Chúa Trời chăm xem sự đi lại của chúng ta và chú ý đến sự than khóc của chúng ta. Ngài luôn dõi mắt Ngài theo bước chân và cái nhìn của chúng ta.
Đức Chúa Trời nhìn thấy chúng ta đang đi đâu. Ngài biết rõ con đường chúng ta đang dấn bước. Cũng có những nẻo đường rất gập ghềnh, mấp mô. Nhưng chúng có thể là điều ích cho chúng ta, như có lần một cậu bé trai nọ đã nói: “Những mô đất này sẽ giúp bạn vươn lên” Đức Chúa Trời để mắt tới bước đi lang thang của chúng ta, và Ngài ghi nhận nó vào sổ của Ngài.
Đức Chúa Trời nhìn thấy chúng ta than khóc khi nào. Ngài quan sát và ghi dấu lại nước mắt của chúng ta rồi xếp chúng thành hàng cho dấu chỉ tương lai. Theo phong tục người Xê-mít, những kẻ than khóc thường hứng nước mắt mình vào một cái ve nhỏ biểu hiện cho nỗi sầu khổ của họ. Sau đó, họ để cái ve ấy vào trong hầm mộ hoặc trong phủ tro hỏa táng thi hài người quá cố. Sẽ có một ngày, Đức Chúa Trời đưa cho bạn xem chai và sổ. Rồi Ngài bảo rằng: “Ta thấu rõ những lúc cõi lòng con tan nát. Ta cũng biết rất tận tường những gì con đã phải trải qua. Ta đã ghi chép lại mọi sự ấy vào trong sổ. Và, bây giờ nỗi sầu khổ kia sẽ biến thành niềm vui mừng”. Còn mỗi giọt lệ của bạn sẽ trở thành những hạt ngọc đẹp đẽ mang vinh hiển đến cho Đức Chúa Trời.
Chúa biết rõ những khó khăn và nỗi sầu khổ của bạn. Ngày của Chúa sẽ đến. Khi ấy, nỗi sầu khổ kia sẽ biến thành niềm vui, và nước mắt bạn sẽ làm vinh hiển Ngài.
2. Mẫu mực của Đa-vít (Thi 56:10-13)
Đa-vít có rất nhiều Thi-thiên với nội dung viết về cùng một mẫu mực. Ông thường bắt đầu với nan đề. Sau đó cầu nguyện và cuối cùng ông ngợi khen Chúa vì Ngài đã giải quyết các nan đề cho ông. Vào phần kết thúc của Thi-thiên này, Đa-vít ca ngợi Chúa như sau: “Con đặt lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời nên con sẽ chẳng sợ chi. Loài người sẽ làm chi con? Chua ôi! Những gì con hứa nguyện với Ngài vẫn đang còn ở nơi con. Con sẽ dâng lễ thù ân cho Chúa vì cớ Ngài đã giải cứu linh hồn con thoát khỏi sự chết. Vậy, lẽ nào Ngài lại không giải cứu bước chân con khỏi vấp ngã, để con có thể bước đi trước mặt Chúa trong ánh sáng của sự sống?” (c.11-13).
-Thứ nhất, ông ca ngợi Chúa vì cớ Lời Ngài. Lúc bấy giờ, Đa-vít không có nhiều Kinh Thánh như chúng ta có hiện nay. Thực tế, ông còn viết ra một số sách trong Thánh Kinh cho chúng ta đọc nữa! Thế nhưng, ông có Lời Chúa, ông cậy trông vào đó còn hơn cả trông cậy vào tình cảm và hoàn cảnh mình. Nếu chúng ta yêu mến Lời Chúa và trông cậy vào Lời Ngài hàng ngày, thì cuối cùng chúng ta sẽ ca ngợi Ngài.
Đa-vít ngợi khen Chúa vì cớ lẽ thật vô giá. Đức tin đến từ đâu? Đến từ Lời Chúa. “Đức tin đến nhờ ở sự lắng nghe Lời Chúa” (Rô 10:17). Ở đây, Đa-vít muốn nói rằng: “Tôi quá đỗi vui mừng và biết ơn Lời Chúa, vì Lời Ngài đã dạy cho tôi phải tin cậy Ngài qua chính nó”. Và nơi nào có đức tin thì nơi đó sẽ không có sự sợ hãi.
Đa-vít ngợi khen Chúa vì Ngài đã giúp đỡ ông rất nhiều. Chúa giải cứu linh hồn ông khỏi chết. Tôi tự hỏi không biết điều này đã xảy ra bao nhiêu lần trong cuộc đời Đa-vít? Việc giải cứu trong quá khứ của Chúa là sự bảo đảm cho vấn đề chăm sóc và quan tâm trong tương lai của Ngài “Vì Chúa đã gìn giữ chân con khỏi vấp ngã, nên con có thể bước đi trước mặt Chúa trong ánh sáng của sự sống” (c.13). Đức Chúa Trời giải cứu chúng ta để Ngài có thể lấy làm đẹp lòng ở chúng ta, và dẫn dắt chúng ta để khiến chúng ta đem lại sự vinh hiển cho danh Ngài.
Mẫu mực của Đa-vít có được thể hiện trên đời sống bạn không? Giữa hoàn cảnh khó khăn liệu bạn có thể ngợi khen Chúa không? Hãy ca ngợi Chúa ngay cả trước khi Ngài đáp lời cầu nguyện của bạn. Hãy tôn vinh Ngài vì cớ Lời Ngài, vì cớ lẽ thật vô giá và vì những sự giúp đỡ quý báu của Ngài.
3. Giải quyết vấn đề sợ hãi (Thi 56:1-13)
Nỗi sợ hãi có thể ám ảnh chúng ta khi chúng ta cảm thấy cuộc sống không còn nằm trong tầm kiểm soát của mình nữa, và điều này đã xảy ra với Đa-vít lúc ông đang chạy trốn khỏi vua Sau-lơ. Nhưng thay vì lẫn trốn nỗi sợ hãi, ông đã nhờ sự giúp sức của Đức Chúa Trời quay lại đối mặt với nó. Chúng ta hãy học hỏi cách Đa-vít xử lý sự sợ hãi của ông để chúng ta có thể áp dụng giải quyết vấn đề sợ hãi của mình hiệu quả hơn.
-Thứ nhất, Đa-vít thành thật thừa nhận sự sợ hãi của mình (c.1-7). Ông công nhận ông đang bị kẻ thù chống nghịch (c.12). Chúng ta sẽ không giành được thắng lợi nếu chúng ta tự phụ phủ nhận rằng ma quỷ không có ở đó, hoặc nếu chúng ta cứ ra sức ức chế nỗi sợ hãi của mình. Kẻ thù của Đa-vít đang truy đuổi ông tựa như truy đuổi những con thú hung dữ, chúng áp hãm ông suốt cả ngày dài. Chúng vu cáo ông và săn lùng ông. Đó là vấn đề sống chết đối với ông. Và ông đã làm gì? Ông thừa nhận nỗi kinh sợ của mình rồi đặt lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời.
Có lần, một mệnh phụ đến gặp tiến sĩ Moody nói rằng: “Tôi vừa tìm thấy một câu Kinh Thánh giúp tôi chế ngự được nỗi sợ hãi của mình đó là Thi 56:3”. Moody đáp lại “Tôi sẽ chỉ cho chị một câu hay hơn đó là Ês 12:2”.
Thi 56:3 dạy chúng ta rằng khi sợ hãi, chúng ta sẽ tin cậy Chúa, còn Ês 12:2 bảo chúng ta “hãy tin cậy và đừng sợ hãi”. Đức tin đánh bại mọi sự (Thi 103:5). Vậy, chúng ta hãy thành thật đương đầu với sự sợ hãi của mình.
-Thứ hai, Đa-vít hạ mình xưng ra lòng trung tín của
mình (c.8-13). Ông nói về Chúa chứ không nói về kẻ thù nghịch mình. Ông bám chặt Lời Ngài và đã không từ chối việc giao phó mọi sự cho Chúa ngay trong lúc ông đang trải qua gian truân. Ông nhận được kết quả gì từ cơn thử thách này? Đó là: Đức Chúa Trời đã bảo vệ và tiếp trợ cho ông khiến ông cầu nguyện và ngợi khen Ngài (c.12,13).
Mặc dù mọi thứ trông như có vẻ đang hợp nhau lại chống đối bạn, nhưng Đức Chúa Trời luôn bênh vực bạn. Ngài biết bạn là ai, bạn đang ở đâu và đang phải đương đầu với vấn đề gì. Ngài sẽ bảo vệ bạn và giải cứu bạn.
Nếu bạn đang đương đầu với kẻ thù nghịch và bị nỗi sợ hãi bám chặt, thì bạn hãy thừa nhận sự sợ hãi của mình rồi trở lại với Lời Chúa. Hãy đặt lòng tin cậy vào lời phán hứa của Ngài để được Ngài bảo vệ tiếp trợ. Đức Chúa Trời biết rõ những gì bạn đang phải trải qua và Ngài sẽ giải cứu bạn. Đức tin của bạn sẽ đánh bại nỗi sợ hãi và dẫn bạn vào sự ngợi khen Chúa.
57. THI-THIÊN (Thi 57:1-11)
1. Buổi hòa nhạc trong hang (Thi 57:1-11)
Tôi đã tham dự những buổi hòa nhạc tại các hội trường hòa nhạc lớn, tại những công viên và ở nhà thờ, nhưng tôi chưa bao giờ tham dự một buổi hòa nhạc nào trong hang cả. Đa-vít viết bài ca này khi ông đang ẩn mình trong một cái hang để lẫn trốn Sau-lơ. Thật khó để hát ca ngay cả giữa lúc cuộc sống đầy ơn phước. Vậy, Đa-vít đã biến hoàn cảnh mình thành bài ca như thế nào? Ông có thể làm cho một cái hang hóa thành phòng hòa nhạc ra sao?
Ông được Đức Chúa Trời bảo vệ “Linh hồn con trông cậy nơi Ngài. Con sẽ tìm được nơi nương náu dưới bóng cánh Ngài mãi cho đến khi không còn tai họa nữa” (c.1). Điều này có nghĩa là: Đa-vít đang có mặt tại nơi Chí Thánh, được sự hiện diện của Đức Chúa Trời bảo vệ. Sự bảo vệ mà chúng ta đang có không đến từ các hoàn cảnh nhưng đến từ sự hiện diện của Chúa.
Ông biết rõ Chúa luôn làm mọi việc vì cớ ông “Con sẽ kêu cầu cùng Đức Chúa Trời chí cao, là Đức Chúa Trời luôn làm mọi việc vì cớ con” (c.2). Đang khi còn ẩn trong hang, Đa-vít không thể làm được gì nhiều. Nhưng Đức Chúa Trời có thể và Ngài đã hành động nhằm can thiệp cho ông.
Đa-vít chỉ lo quan tâm đến sự vinh hiển của Đức Chúa Trời “Hỡi Đức Chúa Trời nguyện Ngài được tôn cao trên các từng trời. Nguyện sự vinh hiển Chúa trổi cao hơn cả trái đất” (c.5). Vấn đề bạn đang ở đâu không có gì quan trọng thậm chí ở trong một cái hang nào đó, nhưng nếu bạn quan tâm đến sự vinh hiển của Chúa thì đó mới thực sự là điều quan trọng.
Đa-vít có lưỡi vui mừng vì ông là người có lòng kiên định “Hỡi Đức Chúa Trời, con là người bền lòng. Thật con rất bền đổ. Con sẽ hát xướng ngợi khen Ngài” (c.7). Tôi không biết hiện giờ bạn có thể ẩn mình trong loại hang nào. Có lẽ đó là một cái hang do bạn tự đào lấy cho mình. Tôi có thể bảo đảm với bạn về hai lẽ thật sau: Bạn luôn được ĐứcChúa Trời che chở, bảo vệ, và Ngài đang hành động vì cớ bạn. Vậy, bạn hãy lo quan tâm đến sự vinh hiển của Ngài.
Hiện tại, bạn có đang bị hoàn cảnh mình vây hãm không? Bạn có tìm thấy chính mình trong “cái hang” nào đó không? Hãy vững lòng vì Chúa sẽ bảo vệ bạn và can thiệp cho bạn. Hãy quan tâm đến sự vinh hiển của Chúa, đừng quan tâm đến sự vinh hiển của mình. Bạn nên dành thì giờ ngày hôm nay ngợi khen Chúa về sự chăm sóc của Ngài.
2. Nên bắt đầu và kết thúc mỗi ngày như thế nào? (Thi 57:1-11)
Đa-vít viết Thi-thiên này khi ông đang ẩn mình trong một cái hang để lẩn trốn Sau-lơ. Ông ghi nhận lại từng kinh nghiệm mỗi ngày và cho chúng ta lời khuyên về cách sống.
-Thứ nhất, hãy kết thúc mỗi ngày bằng sự cầu nguyện (c.1-4). Bạn nên quan tâm đến Chúa hết lòng. Khi bạn bắt đầu tin cậy Ngài, thì Ngài sẽ biến đổi bạn, khiến bạn nhìn mọi sự quanh mình theo một cách nhìn mới. Bởi đức tin, bạn hãy bước vào sự hiện diện của Chúa. Bão tố cuộc đời không kéo dài mãi, nhưng khi chúng ập đến, Chúa sẽ giải quyết mọi nan đề cho bạn. Ngài hành động và hoàn tất mọi việc vì cớ bạn.
-Thứ hai, hãy bắt đầu mỗi ngày bằng sự ngợi khen. Lúc Đa-vít đang ngủ, Đức Chúa Trời đã hành động nơi ông. Khi thức dậy, Đa-vít muốn Chúa được vinh hiển cả thể và ông muốn nói cho thế gian biết rằng Chúa đã hành động vì ông. Đức Chúa Trời luôn đáp lời cầu xin của bạn. Bất cứ việc gì Ngài làm thảy đều vì sự tốt đẹp cho bạn và để làm vinh hiển Ngài. Hoạn nạn tai ương rồi sẽ qua, vậy, bạn hãy ca ngợi Chúa vì nhờ những hoạn nạn ấy mà Ngài đã nhìn thấy bạn.
Vậy, hãy khóa mỗi ngày lại bằng sự cầu nguyện và hãy mở khóa mỗi ngày bằng sự ngợi khen. Sự ngợi khen là phương thuốc vô cùng thần diệu, có tác dụng làm tan biến mọi đắng cay, ganh tị, ghen tuông và bất an trong đời sống bạn.
Khi bạn lâm vào hoàn cảnh khó khăn, điều khiến bạn quan tâm nhiều nhất không phải là làm cách nào đó có thể thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy mà là việc phải làm sao để Chúa được vinh hiển qua hoàn cảnh ấy. Bạn đang cảm thấy mình chỉ đơn giản chịu đựng những khó khăn thay vì dùng những khó khăn đó giúp bạn lớn lên? Hãy kết thúc một ngày bằng sự cầu nguyện và bắt đầu mỗi ngày bằng lời tạ ơn, và để cho Chúa có cơ hội để hoàn thành mục đích của Ngài trên đời sống bạn.
58. THI-THIÊN (Thi 58:1-11)
1. Sự phẩn nộ chính đáng (Thi 58:1-11)
Ngày nay, dân sự Chúa cần biểu lộ sự phẫn nộ chính đáng của mình ra. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ thực sự chấp nhận việc phá thai, người nghèo bị bóc lột và các chính trị gia phá hoại luật pháp. Đức Chúa Trời không muốn loài người sử dụng quyền hành để phục vụ cho cá nhân họ. Một chính khách chân chính là người biết sử dụng quyền hạn của mình để củng cố dân tộc và xây dựng đất nước mình. Đa-vít đã nổi cơn phẫn nộ chính đáng khi viết Thi-thiên này. Ông không tức giận nhưng lấy làm đau lòng, khổ não.
• Đa-vít tố cáo tội lỗi của các nhà cầm quyền (c.1-5).
Lời nói của họ không ngay thẳng và họ xét xử các vụ việc không công bằng (Giop 31:6). Tay họ làm lệch đi cán cân công lý bởi vì lòng dạ họ đầy gian ác. Đa-vít ví sánh những nhà cầm quyền này với lũ rắn độc (c.4).
• Đa-vít đọc bản xét xử các nhà cầm quyền (c.6-9).
Ông trình bày sáu bức tranh về sự phán-xét hầu đến dành cho các nhà cầm quyền:
1. Họ sẽ như con hổ bị bẻ hết răng (c.6)
Một ngày nào đó, Đức Chúa Trời sẽ bẻ hết răng của họ khiến họ sẽ không còn khả năng tự vệ nữa.
2. Họ sẽ như nước bị chảy thấm vào đất (c.7).
Sau mùa khô, trời sẽ đổ mưa chảy thấm vào lòng đất.
3. Họ sẽ như những mũi tên bị gãy (c.7).
Đức Chúa Trời sẽ tướt lấy tất cả mọi hàng rào bảo vệ của họ.
4. Họ sẽ như con ốc sên dần dần bị thối rữa (c.8).
Kẻ ác sẽ tự mình đẩy mình vào sự huỷ diệt dần
5. Họ sẽ như đứa trẻ bị chết trong bụng mẹ (c.8).
Họ sẽ phải gánh chịu đau đớn rất nhiều và cuối cùng phải chết.
6. Họ sẽ tựa như món ăn đang được nấu thì bị cơn lốc xoáy cuốn đi làm hư hại cả (c.9).
Những mưu đồ của họ sẽ không tồn tại. Cơn thịnh nộ nóng phừng phừng hực lửa của Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt họ.
Đa-vít loan báo sự ngợi khen Đức Chúa Trời của ông (c.10, 11). Chúng ta đừng tự mình báo thù ai, nhưng hãy vui mừng vì sự phán xét công bình của Đức Chúa Trời đối với kẻ ác (Kh 18:1-19:21), Ngài sẽ giày đạp kẻ thù Ngài (Thi 68:23).
Sẽ có một ngày, người công bình vui hưởng chiến thắng của Đức Chúa Trời. Người đang kiên nhẫn chờ xem sự phán xét thế gian này. Khi sự phán xét ấy xảy ra, Đức Chúa Trời sẽ được chứng minh và Chúa Giê-xu sẽ được vinh hiển.
Lạm dụng quyền hành là một vấn đề muôn thuở. Thánh Kinh đã nói cho chúng ta biết điều gì sẽ xảy ra với những kẻ lạm dụng địa vị quyền hành của mình. Dân sự Chúa có thể biểu lộ sự phẫn nộ chính đáng của họ ra vì chúng ta biết rằng sẽ có một ngày Chúa sẽ xét xử các nhà cầm quyền xấu xa, chuyên ăn nhận của hối lộ. Hãy ngợi khen Chúa vì chiến thắng và sự báo thù hầu đến của Ngài.
2. Điều tốt nhất chưa đến (Thi 58:10-11)
Có bao giờ bạn cảm thấy bối rối rằng dường như người công bình thường hay gặp khổ đau còn kẻ ác thì tránh khỏi? Có khi nào bạn đã phải nhận lấy một kết cuộc cư xử tồi tệ trong khi có người nào đó thậm chí là Cơ-đốc nhân lại vừa thành công sau khi làm việc gì đó mà đáng lý ra người ấy không nên làm? Nếu vậy, thì đoạn sách này sẽ khích lệ bạn “Người công bình sẽ vui mừng khi thấy sự báo thù… khiến thiên hạ nói rằng chắc chắn sẽ có phần thưởng dành cho người công bình, và Ngài là Đức Chúa Trời Đấng phán-xét thế gian này”
Khi có người nào làm tổn thương chúng ta, hoặc khi chúng ta nhận lấy một kết cuộc tồi tệ trong cách cư xử, thì trước hết, chúng ta cần phải chấp nhận gánh nặng này và thừa nhận rằng trên thế gian ngày hôm nay không có sự công bằng thật sự. Ồ, tuy vậy, loài người vẫn có những chánh án tối cao thi hành công cụ. Chúng ta hãy biết ơn những gì luật pháp đang làm. Nhưng về cơ bản, thì dường như những người làm điều thiện lại thường bị ngược đãi, bắt bớ, còn những kẻ làm điều ác thì lại được cất nhắc, bợ đỡ.
-Hãy chấp nhận gánh nặng về cái điều trông có vẻ bất công này. Đó là thói đời trong thế gian.
-Thứ hai, hãy giao phó hoàn cảnh của mình cho Chúa. Khi có một người nào đó làm những điều đáng lý ra anh ta không nên làm, thì lập tức chúng ta muốn chấn chỉnh việc làm sai trái của anh ta và trừng phạt anh ta ngay. Nhưng, chúng ta hãy giao phó sự việc ấy cho Chúa. Ngài thường dạy rằng “sự báo thù thuộc về ta, ta sẽ báo oán” (Rô 12:19).
Chính vì vậy, chúng ta có lời khuyên thứ ba: Hãy trông đợi Chúa. Phần thưởng dành cho bạn vẫn chưa đến. Cả thế gian này chính là thiên đàng dành cho những kẻ chưa được cứu. Họ sẽ không bao giờ được hưởng niềm vui, sự phước hạnh trong vinh hiển của cuộc sống đời đời với Chúa. Thiên đàng của người tin Chúa hiện giờ vẫn chưa đến. Thiên đàng ấy là nơi có niềm vui không hề cùng, còn địa ngục chính là nơi ngập sự sầu não, đau đớn. Trong thế gian này, chúng ta chỉ nhận được những sự đau buồn và niềm vui lẫn lộn mà thôi. Hãy đợi, vì phần thưởng dành cho bạn vẫn chưa đến.
Thế gian này lúc nào cũng có vẻ thiếu công bằng. Bạn không cần phải lo lắng về điều này. Khi nào bạn bị đối xử bất công, thì hãy giao phó gánh nặng của bạn cho Chúa, kiên nhẫn chờ đợi Ngài giải quyết vấn đề ấy cho bạn. Vì cớ dân sự Chúa mà điều tốt đẹp nhất vẫn chưa đến.
59. THI-THIÊN (Thi 59:1-17)
1. Ai đang theo dõi bạn? (Thi 59:1-17)
Có bao giờ bạn có mặt tại một nơi công cộng nào đó và để ý thấy có người đang theo dõi bạn? Có lần tôi ở nhà hàng, chợt vợ tôi bảo: “Mấy người ngồi cái bàn đằng kia sao cứ nhìn chúng ta hoài. Em không biết chúng ta có quen họ không nhỉ?” Thường thì chúng ta chẳng hề quen biết họ và họ cũng chẳng quen biết chúng ta, nhưng có lẽ do họ nhìn thấy chúng ta trông có vẻ giống ai đó mà họ quen biết.
Trong Thi-thiên này, Đa-vít ghi nhận lại kinh nghiệm của mình khi bọn tay chân của Sau-lơ đang theo dõi nhà ông ở. Chúng muốn bắt giết ông. Nhưng Đa-vít đang vui mừng vì Chúa. Ông hát xướng trong lúc gặp hiểm nguy. Và ông đã kêu cầu Ngài thương xót ông.
Đức Chúa Trời có ý nghĩa gì đối với bạn sẽ quyết định những gì Ngài đang làm vì cớ bạn. “Con sẽ hát ca ngợi quyền năng Chúa” (c.16). Đa-vít biết rằng Chúa là Đức Chúa Trời đầy quyền năng. Sau-lơ không thể nào lật đổ được Ngài. “Con sẽ hát lớn tiếng ca ngợi lòng nhân từ của Chúa” (c.16).
Đó là những điều Đa-vít cần làm hơn bất cứ điều gì khác. Chúng ta cần cầu nguyện suốt cả ngày dài để lòng nhân từ, thương xót của Chúa nâng đỡ chúng ta. Đa-vít khám phá ra sự nhân từ thương xót của Ngài vào buổi sớm mai (c.16). Hãy bắt đầu một ngày mới của bạn bằng việc hát xướng tôn vinh Chúa, nhờ cậy vào lòng thương xót của Ngài.
“Chúa ôi! Ngài là sức lực của con… Đức Chúa Trời là sự bảo vệ con” (c.17). Đây là những lời chắc chắn và rất đáng để bạn tin cậy. Khi Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng của bạn, dành lòng thương xót cho bạn và còn là Đấng bảo vệ, là sức mạnh của bạn, thì bạn có thể đối đầu với mọi kẻ thù. Bạn sẽ có đủ sức đương đầu với bất cứ hoàn cảnh nào, bởi vì Chúa đang chăm xem bạn và giúp bạn vượt qua tất cả.
Đức Chúa Trời thường đáp lời cầu xin của bạn tùy theo lượng đức tin bạn đặt nơi Ngài. Ngài cũng thường lấy lòng thương xót bao phủ bạn. Đức tin của bạn hiện giờ có thể khiến bạn hát xướng ca tụng Chúa giữa lúc bạn gặp hiểm nguy không? Khi nào bạn gặp phải hoàn cảnh đáng sợ thì hãy đặt lòng tin cậy nơi Chúa. Ngài sẽ bảo vệ và giải cứu bạn thoát khỏi tay kẻ thù nghịch bạn.
2. Bảo vệ và giải cứu (Thi 59:1-17)
Có bao giờ bạn thoát khỏi cơn nguy hiểm bằng cách trốn ra ngoài theo đường cửa sổ không? Sứ-đồ Phao-lô đã thoát ra khỏi thành Đa-mách bằng cách như vậy (Công 9:1-43) và Đa-vít cũng thế, ông đã từng trốn thoát qua đường cửa sổ (ISa 19:1-24). Vào một ngày nọ, khi về đến nhà, Đa-vít phát hiện ra rằng ông đang bị theo dõi. Vợ ông thả dòng ông xuống đất qua đường cửa sổ, và ông đã thoát khỏi tay kẻ thù mình. Khi chúng ta đọc đoạn Thi-thiên này, nên chú ý đến bốn sự đảm bảo đã canh giữ cho Đa-vít tiến hành công việc theo chỉ dẫn của Chúa.
-Thứ nhất, Đa-vít biết rằng Đức Chúa Trời luôn nhìn thấy ông nên ông cầu nguyện (c.1-6). Đa-vít cần được bảo vệ và giải cứu. Kẻ thù nghịch ông đang vu cáo ông. Khi bạn không phạm tội thì bạn khó có thể chấp nhận sự chịu đựng đau đớn. Nhưng Đức Chúa Trời ngự trên ngai vẫn luôn đang theo dõi chúng ta. Ngài biết những khó khăn của chúng ta. Nếu khi nào bạn gặp gian truân, thì hãy nhớ rằng Chúa đang nhìn thấy bạn. Cần cầu nguyện với Ngài vì Ngài đang lắng nghe bạn.
-Thứ hai, Đa-vít tin chắc rằng Chúa luôn lắng nghe ông, vì vậy ông trông đợi Ngài (c.6-9). Trong khi chúng ta trông đợi Ngài, thì Ngài thực hiện rất nhiều việc, chúng ta lại sẽ được Ngài thêm sức mới (c.9; Ês 40:31).
-Thứ ba, Đa-vít tin chắc rằng Chúa đang cai trị nên ông đặt lòng tin cậy Ngài (c.6-9). Đức Chúa Trời đối đãi với Đa-vít bằng lòng thương xót, và Ngài dành sự phán xét cho kẻ thù nghịch ông. Đa-vít cầu xin Chúa làm tan lạc kẻ thù ông, ngăn chặn chúng và phá huỷ chúng.
-Thứ tư, Đa-vít chắc rằng Chúa luôn giải cứu, vì vậy ông hát xướng ngợi khen Ngài (c.14-17). Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể ngăn chặn được hành động của người khác. Vợ Đa-vít đã cảnh báo với ông rằng hoặc là ông phải ra đi, hoặc ông sẽ bị giết vào sáng mai (ISa 19:11), dầu vậy ông vẫn có thể ca hát ngợi khen lòng thương xót nhân từ của Đức Chúa Trời trong buổi sáng mai ấy (c.16). Xin đừng quên tạ ơn Chúa sau khi Ngài đáp lời cầu nguyện cho bạn.
Khi bạn đang bị kẻ thù săn đuổi, bạn sẽ thể nghiệm đức tin mình bằng cách nào? Hãy thể nghiệm bằng cách cầu nguyện, trông đợi, tin cậy và hát xướng ngợi khen Chúa.
60. THI-THIÊN (Thi 60:1-12)
1. Sau khi chiến thắng (Thi 60:1-12)
“Nhờ Đức Chúa Trời, chúng con sẽ hành động một cách quả cảm, và chính Ngài là Đấng sẽ giày đạp các kẻ thù nghịch của chúng con” (c.12). Thi 60:1-12 là Thi-thiên rất đặc biệt, vì Đa-vít viết nó không phải giữa lúc ông gặp gian truân. Bởi lẽ, rất nhiều Thi-thiên của ông đã được ông viết ra trong hang hoặc ngoài chiến trường. Nhưng Thi-thiên này lại được ông viết sau một thắng lợi lớn. Đội quân của ông đã giành được chiến công phi thường, đánh bại dân Ê-đôm cho dân sự Chúa.
Chúng ta học được gì từ Thi-thiên này?
-Thứ nhất, chúng ta phải thận trọng sau khi chiến thắng. “Ôi Đức Chúa Trời ôi! Ngài đã rải tan chúng con ra, phá đổ chúng con. Ngài nổi giận. Ôi! Xin Ngài khôi phục chúng con trở lại” (c.1). Đa-vít kêu cầu Chúa và thưa rằng “Chúa ôi! Chúng con vừa thắng lớn. Nhưng cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn”.
Có một số vĩ nhân của Đức Chúa Trời đã bị thất bại thảm hại sau khi chiến thắng. Tiên-tri Ê-li giành được thắng lợi vẻ vang trên núi Cạt-mên, nhưng rồi sau đó ông trở nên mất tinh thần, thất vọng và phải chịu thất bại ê chề. Chúng ta cần hết sức cẩn thận sau khi giành được chiến thắng.
-Thứ hai, chúng ta hãy luôn giương cao ngọn cờ của Chúa. Thậm chí, sau chiến thắng xong xuôi, chúng ta vẫn là những sứ-giả của Đức Chúa Trời. “Chúa ban cờ xí cho những ai kính sợ Ngài. Và cờ ấy sẽ được phô ra vì cớ lẽ thật” (c.4). Chúng ta cầm cờ lẽ thật bởi lẽ chúng ta đang đại diện cho Lời Chúa. Sau khi thắng lợi, chúng ta chớ buông cờ xuống. Nhưng hãy tiếp tục cầm nó để làm vinh hiển Đức Chúa Trời.
-Thứ ba, chúng ta hãy dâng sự vinh hiển cho Chúa. Đa-vít đã dâng tất cả mọi sự vinh hiển cho Ngài về những gì Ngài đã làm vì cớ ông. Bạn sẽ rất dễ tuyên bố rằng chiến thắng này là do chính bạn giành được. Sau chiến thắng, chúng ta cũng sẽ rất dễ tuyên bố thế này. “Tôi là người đã làm việc đó”. Thế là sự kiêu ngạo được gợi lên, và nó có thể dẫn chúng ta đến chỗ thất bại.
Thường thì sau khi được Đức Chúa Trời ban cho một chiến thắng nào đó, bạn sẽ dễ bộc lộ trong những nhược điểm yếu đuối nhất của mình ra vì bạn có thể lơi lỏng cảnh giác. Ma quỷ đang sẵn sàng chờ tấn công bạn lần nữa. Vậy bạn sẽ gìn giữ, duy trì chiến thắng bằng cách nào? Bạn hãy luôn luôn giương cờ của Đức Chúa Trời lên và quyết tâm đem lại sự vinh hiển cho Ngài.
Hễ khi nào Đức Chúa Trời ban cho bạn một chiến thắng nào đó, thì bạn hãy bám chặt vào lẽ thật của Lời Ngài và tránh đùa giỡn với những ý nghĩ tự phụ, kiêu ngạo. Đức Chúa Trời rất xứng đáng với tất cả mọi sự vinh hiển.
2. Cuộc chiến đang tiếp diễn (Thi 60:1-12)
Thường thì, hễ có một vấn đề nào đó được giải quyết thì có vấn đề khác lại phát sinh ra. Đó chính là trường hợp mà chính Đa-vít đã gặp phải khi ông viết Thi-thiên này. Ông vừa chỉ huy một trận đánh, lại vừa cầu nguyện cho một trận đánh khác. Trong những trận chiến của chính mình, bạn hãy bắt chước 4 phản ứng tương tự của Đa-vít được ghi nhận trong Thi-thiên này.
-Thứ nhất, Đa-vít xem xét tình hình (c.1-3).
Đa-vít thường quan sát tình hình qua cái nhìn của một thi sĩ. Ông tả vẽ lại tình thế éo le này như một cơn lũ ập đến thình lình, như cơn động đất và như những người say rượu bước đi loạng choạng nghiêng ngã. Đa-vít nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ ngăn chặn không cho dân Mô-áp xâm chiếm xứ. Thế nhưng, Chúa đã cho phép dân ấy tấn công.
Sau đó, Đa-vít cầu xin Chúa tha thứ và khôi phục dân sự, và ngăn chặn bước tiến quân thù. Dân Do-thái cho rằng núi non và mặt đất là những thứ rất vững chắc, nhưng Đa-vít lại cảm thấy mọi thứ ấy đều đang run rẩy, lung lay và đang nứt ra, gãy đổ. Ông thấy dân sự bước đi xiêu vẹo, lảo đảo như thể những kẻ say rượu. Chén thịnh nộ và phán-xét đã đến. Đa-vít xem xét tình hình rồi hỏi “Mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ sao?”
-Thứ hai, ông giương cao ngọn cờ lẽ thật của Chúa (c.4,5).
Đa-vít chiến đấu vì cớ ông là vua do Chúa lập nên và vì dân Y-sơ-ra-ên là dân sự Ngài. Chúng ta cần nhận ra rằng cho dầu xảy ra những vấn đề nan giải, xảy ra cuộc chiến hay những sự tranh đấu nào trong cuộc sống đi chăng nữa, thì Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta (Rô 8:35).
Tình yêu thương của Ngài chẳng hề thay đổi và không bao giờ hư mất, không phụ thuộc vào việc chúng ta cảm thấy như thế nào. Đa-vít luôn giương cao ngọn cờ chân lý của Chúa lên. Đó là một trong những danh xưng của Ngài “Đức Giê-hô-va là cờ xí của tôi” (Xu 17:15). Đa-vít là người tài ba, nhưng ông vẫn luôn nhờ cậy vào bàn tay chính nghĩa của Đức Chúa Trời. Chúa triệu tập đội quân vây quanh ngọn cờ của Ngài.
-Thứ ba, Đa-vít lắng nghe người chỉ huy (c.6-8).
Đa-vít biết rõ ông là vị tướng cấp bậc thứ hai vì Đức Chúa Trời mới là người lãnh đạo đạo quân Y-sơ-ra-ên. Ngài truyền lệnh: ”bất kỳ nơi nào con đặt chân đến trong xứ Y-sơ-ra-ên, thì nơi ấy đều thuộc về ta, Ta là Chủ của xứ. Vì thế, đừng sợ “. Khi Đa-vít nghe ý đại tướng của mình truyền lệnh như thế, thì ông hiểu rằng ông không phải lo sợ nữa.Vì vậy, ông đã nghỉ ngơi trong chiến thắng của Chúa (ICôr 15:58).
-Cuối cùng, Đa-vít ra trận bằng đức tin (c.9-12).
Đa-vít như muốn thưa rằng “con không có chút tự tin nào cả. Xin Chúa hãy dẫn con đến với chiến thắng”. Đức Chúa Trời quyền năng luôn đi trước chúng ta. Ngài trợ giúp chúng ta và ban chiến thắng cho chúng ta (Thi 118:8).
Bạn nhờ cậy vào sức lực ai, của Chúa hay là của bạn, sẽ quyết định chiến thắng hay thất bại cho bạn. Nếu bạn để Chúa dẫn dắt thì Ngài sẽ đưa bạn đến với chiến thắng.
3. Bạn cảm thấy muốn bỏ cuộc ư? (Thi 60:1-8)
Khi Áp-sa-lôm, con trai của Đa-vít nổi loạn chống nghịch ông, ông phải chạy trốn khỏi thành Giê-ru-sa-lem để cứu lấy mạng sống mình. Sau khi thoát khỏi cảnh ấy, Đa-vít viết Thi-thiên này. “Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy nghe tiếng kêu nài của con. Xin chú ý đến lời cầu nguyện con. Từ đầu cùng trái đất, con sẽ kêu cầu Ngài khi lòng con rối rắm, khổ não. Xin hãy dẫn con đến trên vầng đá đang ở chỗ cao hơn con. Vì Chúa là nơi nương náu của con, là ngọn tháp vững chắc che chở con tránh kẻ thù” (c.1-3)
Đa-vít đang cầu xin Chúa giúp đỡ và thêm sức lực cho ông. Có lẽ lúc bấy giờ, ông đang ở trong hang và viết những câu Thi-thiên này, hoặc ông đang giấu mình trong một nơi trú ẩn tại đồng vắng. Chúng ta không biết rõ điều đó. Tuy nhiên, vầng đá chân thật của ông chính là Đức Chúa Trời. Nơi nương náu thật và ngọn tháp vững chắc thật của ông cũng chính là Ngài. Thật phước hạnh để hiểu rằng khi chúng ta không còn sự an toàn nơi gia đình và trong thành mà mình đang trú ngụ, thì chúng ta vẫn còn có sự an toàn nơi Chúa.
Đa-vít đang trú ngụ. “Con sẽ trú ngụ trong đền tạm của Chúa mãi mãi, và đặt lòng nhờ cậy vào sự che chở của cánh Ngài” (c.4). Điều này có nghĩa là nơi Chí Thánh là nơi có các cánh của tượng chê-ru-bim xoè ra che phủ hòm giao-ước. Có thể chúng ta thắc mắc “Thưa ông Đa-vít, làm sao ông có thể trú ngụ trong đền tạm được, giữa lúc ông đang ở ngoài trời trong đồng vắng? Ông đang chạy trốn mà!” Đa-vít ắt sẽ đáp: “Bởi vì Đức Chúa Trời luôn luôn ở cùng ta. Hễ ta còn ở trong Ngài bao lâu thì ta sẽ còn trú ngụ trong đền tạm của Ngài bấy lâu!” Đa-vít nhận ra rằng ông không cần sự bảo vệ của các bức tường thành. Đức Chúa Trời là vầng đá của ông. Ngài không cần đền tạm để dùng thờ phượng Ngài. Chính Ngài là Đền tạm của Ngài.
Đa-vít vui mừng “Vậy, con sẽ hát ngợi khen Danh Chúa mãi mãi, con sẽ thực hiện lời hứa nguyện của con mỗi ngày” (c.8). Nếu bạn kêu cầu Chúa đáp ứng các nhu cầu cho bạn và bạn đặt lòng tin cậy Ngài, thì bạn sẽ có thể vui mừng trong Ngài. “Hỡi Đức Chúa Trời, vì Ngài đã nghe những lời hứa nguyện của con… Ngài sẽ tăng thêm tuổi thọ cho vua do Ngài tạo lập” (c.5). Và Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của Đa-vít.
Còn đối với bạn, Đức Chúa Trời là gì? Có phải Ngài là vầng đá, nơi nương náu, ngọn tháp vững chắc và là Đền tạm của bạn không? Bạn có đang tin cậy Ngài sẽ dáp ứng những nhu cầu đặc biệt của bạn ngày hôm nay không?
Đức Chúa Trời không hề có ý định để cho dân sự Ngài phải chấp nhận thất bại. Hãy ghi nhớ những lẽ thật này. Ngài luôn lắng nghe tiếng kêu cầu của bạn. Ngài cũng luôn ở cùng bạn và không bao giờ lìa bỏ bạn cho dù bạn ở trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Bạn có thể vui mừng luôn trong sự bảo vệ của Chúa. Hãy ứng dụng lẽ thật từ Thi-thiên này vào hoàn cảnh bạn hiện nay.
61. LINH NĂNG CỦA SỰ CẦU NGUYỆN (Thi 61:1-8)
Hễ khi nào Đa-vít thấy mình rơi vào hoàn cảnh khó khăn, thì theo bản năng tự nhiên, ông vội quay về với Chúa bằng sự cầu nguyện. Sự cầu nguyện là hơi thở tự nhiên của người tín-đồ. Nó có thể khiến bạn làm được nhiều điều mà tự bản thân bạn không thể nào làm nổi.
-Thứ nhất, sự cầu nguyện đưa bạn đến xa hơn (c.2).
Đa-vít cảm thấy nhớ nhà, nhớ quê hương. Mặc dù ông đã rời xa Giê-ru-sa-lem, nhưng ông không hề xa cách Đức Chúa Trời. Bạn đang ở đâu, điều đó không thành vấn đề. Vấn đề là ở chỗ, nhờ sự cầu nguyện bạn có thể chạm đến cuộc sống gia đình bạn, chạm đến bạn bè và các nhà truyền giáo.
-Thứ hai, sự cầu nguyện sẽ giúp bạn đi lên cao hơn (c.2).
Nỗi buồn tê tái đang xâm chiếm và bao phủ Đa-vít. Khi ông cầu nguyện, Chúa nâng ông lên, rồi đặt để ông trên một tảng đá cao, kế đó Ngài đem ông vào trong một cái tháp do Ngài xây dựng cho ông (c.3). Sự cầu nguyện sẽ đưa bạn lên trên đỉnh núi cao và giúp bạn thấy được viễn cảnh rõ ràng về hoàn cảnh hiện tại của bạn.
-Thứ ba, sự cầu nguyện có khả năng làm cho bạn đến gần hơn (c.4).
“Sự nương náu trong đôi cánh” không phải ngụ ý về một con gà mẹ đang xoè cánh che chở đàn gà con trước khi cơn bão ập đến. Ý câu ấy muốn nói về việc ẩn dưới cánh chê-ru-bim trong nơi Chí Thánh. Nhờ Đức Chúa Giê-xu, bạn có thể bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời và ngự ở dưới cánh Ngài.
-Thứ tư, sự cầu nguyện có thể giúp bạn trở nên giàu có hơn (c.5).
Đến với sự cầu nguyện, bạn sẽ tìm kiếm nhờ cậy vào sản nghiệp vốn thuộc về bạn trong Đức Chúa Giê-xu (Êph 1:3)
-Thứ năm, sự cầu nguyện có khả năng làm bạn sống đời sống viên mãn hơn (c.6,7).
Điều có giá trị không phải sống lâu mà là sống có ý nghĩa. Sự cầu nguyện làm cho đời sống bạn có ý nghĩa. Tôi thấy thương hại cho những người chỉ biết sống dựa dẫm vào các thú vui đời này thay vì sống đời sống trọn vẹn trong Đấng Christ.
-Cuối cùng, sự cầu nguyện khiến bạn được hạnh phúc hơn (c.8).
Cầu nguyện và ngợi khen luôn đi với nhau. Đa-vít thường bắt đầu bằng sự kêu cầu và kết thúc bằng sự ngợi khen. Ông khởi sự với việc cầu nguyện và chấm dứt với sự vui mừng. Hãy dành thì giờ ở với Chúa trong sự cầu nguyện. Nó sẽ biến đổi đời sống bạn.
Hãy định giá sự cầu nguyện của bạn. Có phải nó đang làm thành trong đời sống bạn những điều mà nó đã làm thành trong đời sống Đa-vít chăng?
Nếu không phải vậy, thì bạn hãy mau dành nhiều thì giờ hơn để cầu nguyện, và hãy quyết tâm kinh nghiệm quyền năng của sự cầu nguyện trong đời sống bạn.
62. BA LẦN BẢO ĐẢM (Thi 62:1-12)
Câu 2, 5 và 12 chứa đựng ba sự bảo đảm là điều giúp bạn chờ đợi: Đức Chúa Trời là Đấng Cứu Rỗi bạn. Ngài còn là sự trông đợi và cũng là Đấng Biện Hộ cho bạn. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét ba sự bảo đảm này kỹ hơn.
-Thứ nhất, Đức Chúa Trời là Đấng Cứu Rỗi.
Ở đây, Đa-vít không đề cập đến sự cứu chuộc khỏi tội lỗi mà là sự giải cứu khỏi nguy hiểm. “Chính Ngài là vầng đá của con, là sự giải cứu con. Ngài luôn che chở con, con sẽ không bị rúng động nhiều” (c.2). Đa-vít đang bị kẻ thù áp đảo như thường lệ. Sau-lơ đang cố hãm hại ông như mọi khi.
Tuy vậy, Đa-vít vẫn bảo: “Con sẽ trông đợi Đức Giê-hô-va. Con sẽ không bỏ chạy lòng vòng vu vơ khiến con không còn kiềm chế được chính mình. Con sẽ trông đợi Chúa bởi vì Ngài sẽ đến giải cứu con”. Đó cũng chính là lẽ thật dành cho chúng con ngày hôm nay. Chúng ta hiện đang sống trong thế gian đầy hiểm họa. Chúng ta không thể biết được điều gì sẽ có thể diễn ra sắp tới, nhưng chúng ta luôn chắc một điều rằng Chúa là Vầng Đá và là Đấng che chở chúng ta.
-Thứ hai, Đức Chúa Trời là sự trông đợi của chúng ta.
Bạn đang đặt lòng trông cậy vào đâu? Ở chính bản thân bạn, ở tiền bạc, tập ngân phiếu hay ở bạn bè của bạn? Bạn sẽ trông cậy vào đâu khi tương lai bạn trông có vẻ ảm đạm, đen đúa? Đa-vít đã tìm kiếm Đức Chúa Trời. “Hỡi linh hồn ta, hãy yên lặng trông đợi Chúa vì sự trông cậy của ta đến từ nơi Ngài”
• Đức Chúa Trời là Đấng biện hộ cho chúng ta.
Vì thế, chúng ta sẽ được giảm bớt gánh nặng và áp lực rất nhiều để biết rằng chúng ta không phải là những quan tòa mà chỉ là những nhân chứng. Ở đây, chúng ta sẽ không tự mình biện hộ cho mình. Sự biện hộ cho chúng ta đến từ Đức Chúa Trời “Ngài là Đấng sẽ báo trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” (Rô 2:6). Ngày nay, khi bạn gặp phải khó khăn rắc rối với người khác, hay phải đương đầu với những vấn đề hoặc hoàn cảnh khó xử nào, thì hãy nhờ cậy Chúa. Bạn sẽ tìm thấy ở Ngài sự giải cứu, sự trông cậy và sự biện hộ.
Khi nào gặp chuyện rắc rối, bạn có thường tự mình hoặc nhờ vả người nào đó giải quyết sự việc trước khi tìm kiếm Chúa hay không? Nếu bạn tìm kiếm Chúa và trông đợi Ngài, thì Ngài sẽ giúp đỡ bạn.
Hãy đặt Ngài lên trên hết và mong đợi Ngài hành động vì cớ bạn.
63. BẠN CÓ KHÁT KHÔNG? (Thi 63:1-11)
Vua Đa-vit viết Thi-thiên này khi ông đang ở trong đồng vắng xứ Giu-đê. Tôi chưa bao giờ thực sự cảm nhận được hết những gì Đa-vít viết mãi cho đến khi vợ chồng tôi đến thăm đúng ngay địa điểm đó. Thật là một nơi khô khan cằn cõi làm sao. Hãy xem điều Đa-vít viết “Hỡi Đức Chúa Trời ôi! Ngài là Chúa của con, cứ mỗi sáng sớm con lại tìm cầu Ngài. Linh hồn con khao khát Ngài. Thể xác con nóng lòng mong mỏi Ngài trong vườn đất khô cằn không có nước” (c.1).
Ở đây, ý Đa-vít muốn nói “Con đang ở trong đồng hoang đầy nguy hiểm, nóng cháy, cằn khô. Vì vậy, con vô cùng cần nước. Tuy nhiên, điều mà con thực sự trông mong, khao khát lúc này là Chúa”.
Khi bạn thấy mình đang ở trong tình thế nan giải nào đó của cuộc đời, bạn sẽ làm gì? Hãy làm theo những bước từng trải của Đa-vít.
-Thứ nhất, ông tìm cầu Chúa.
Đa-vít muốn tìm kiếm quyền năng và sự vinh hiển Ngài như ông đã thấy trong Nơi Thánh vậy. Ông muốn chứng kiến cảnh đồng hoang biến thành Nơi Thánh. Đã có lần ông ở trong đền tạm. Ông tận mắt thấy sự vinh quang của Chúa, nhưng ông không thỏa lòng với điều đó.
Giả sử, chúng ta lấy làm thỏa lòng khi nghe chia sẻ về Chúa và ca hát tôn vinh Ngài trong nhà thờ. Sau đó, chúng ta đi đến dồng hoang vừa được đề cập ở trên, chúng ta cũng nên nói như Đa-vít: “Tôi muốn nhìn thấy sự vinh hiển Chúa phủ khắp đồng hoang này, tôi muốn từng trải ở đây tương tự như thể tôi đang thờ phượng Chúa trong nhà thờ”.
-Thứ hai, ông ca khen Chúa.
“Như thế, con sẽ ca khen (chúc phước) Chúa suốt trọn đời con” (c.4). Đa-vít lấy làm thỏa lòng về Chúa. Sự thoả lòng này không đến từ các hoàn cảnh bên ngoài. Nó khởi xuất từ sự ca khen trong lòng. “Lúc đang nằm trên giường, con vẫn nhớ đến Chúa. Con thường suy niệm về Ngài trọn các canh đêm” (c.6)
-Cuối cùng, ông vui mừng về Chúa.
“Nhưng vua sẽ lấy làm mừng rỡ nơi Chúa” (c.11). Đó chính là những điều Chúa mong muốn ở chúng ta, ngay cả lúc chúng ta sống trong đồng hoang của cuộc đời.
Các kinh nghiệm “ở đồng hoang” của cuộc đời rất hữu ích, cho bạn, vì chúng dạy dỗ bạn một lẽ thật quan trọng: Bạn sẽ lấy làm thoả nguyện ở sự ca khen đến từ trong lòng chứ không đến từ những hoàn cảnh bên ngoài. Nếu khi nào bạn phải nếm trải cuộc sống ở đồng hoang nào đó của cuộc đời, thì bạn hãy làm theo những bước Đa-vít đã làm. Đức Chúa Trời sẽ đáp ứng các nhu cầu của bạn.
64. THOÁT KHỎI SỰ SỢ HÃI (Thi 64:1-10)
Hầu hết chúng ta đều sống đời sống an ninh và an toàn ở mức tương đối. Còn Đa-vít thì phải sống tha hương. Ông đang bị vua Sau-lơ – kẻ muốn giết ông truy nã. Bấy giờ, Đa-vít cầu xin Chúa bảo vệ, và ông kết thúc Thi-thiên này bằng câu phát biểu: “Người công bình sẽ vui vẻ nơi Đức Giê-hô-va, và đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Vậy, tất cả những ai có lòng ngay thẳng, thật thà sẽ được vinh hiển” (c.10). Chúng ta thấy 3 khái niệm quan trọng trong câu Thánh Kinh này là những điều rất khích lệ chúng ta: sự vui vẻ, đức tin và sự vinh hiển.
Ngày hôm nay, bạn có vui mừng trong Chúa không? Có quá nhiều lần chúng ta không được vui vì cớ hoàn cảnh. Đa-vít cầu nguyện: “Chúa ôi! Xin hãy nghe tiếng con đang khi con suy gẫm, lo toan. Xin giữ tồn mạng sống con khỏi nỗi kinh khiếp kẻ thù” (c.1). Còn tôi chắc sẽ thưa với Chúa như thế này: “xin bảo tồn sinh mạng con khỏi kẻ thù”. Còn Đa-vít lại nói: “xin gìn giữ sinh mạng con khỏi nỗi kinh khiếp kẻ thù”. Mặc khác, thay vì sợ hãi thì ông lại đã có đức tin. Thay vì kinh khiếp thì ông lại vui mừng. Thay vì hoảng hốt thì ông lại muốn đem vinh hiển đến cho Chúa.
Đa số các vấn đề chúng ta gặp phải đều phát sinh từ nội tâm chứ không phải đến từ bên ngoài. Khi các môn-đồ chèo thuyền ra giữa Biển Ga-li-lê, Chúa Giê-xu đã đến quở trách họ về sự vô tín của họ. Vấn đề họ hiện đang phải đối đầu không phải là cơn bão xuất hiện từ bên ngoài mà chính là cơn bão xô đến từ trong lòng họ.
Cũng vậy, vấn đề nan giải của bạn ngày hôm nay không phải là những hoàn cảnh, tình thế đang áp hãm quanh bạn hoặc ở những người đang chống nhịch bạn. Nhưng nó có thể là nỗi sợ hãi ở ngay chính trong lòng bạn.
“Cả nhân loại sẽ kinh sợ, và họ sẽ rao truyền công việc Chúa ra” (c.9). Bấy giờ Đa-vít đang hát xướng ngợi khen Đức Giê-hô-va. Ông lấy làm vui vẻ nơi Ngài, tin cậy Ngài và làm vinh hiển Ngài. “Người có lòng ngay thẳng, thật thà sẽ được vinh hiển” (c.10). Chúng ta học hỏi, suy gẫm những câu Thánh Kinh trên thì thật là dễ nhưng thực hành nó thì khó khăn hơn nhiều. Bạn hãy rời mắt mình khỏi hoàn cảnh và nhìn xem Chúa. Hãy tin cậy các lời hứa của Ngài, đừng cậy sức mình, nhưng ưu tiên tìm kiếm Ngài, làm vinh hiển Ngài.
Sợ hãi có thể cướp đi niềm vui và sự tin cậy nơi Chúa của bạn. Đừng để sợ hãi hoặc hoàn cảnh lấy đi ánh mắt bạn đang nhìn xem Chúa. Hãy để lẽ thật của Lời Ngài kiểm soát trí óc và con tim bạn.
65. BA BÀI THƠ THÁNH (Thi 65:1-13)
“Hỡi Đức Chúa Trời, dân sự đang đợi Ngài tại Si-ôn để ngợi khen Ngài và thực hiện các lời hứa nguyện cho Ngài” (c.1). Đa-vít là một chiến sĩ cừ khôi. Nhưng ông còn là một ca sĩ lừng danh và cũng là một thánh nhân vĩ đại. Bất chấp khó khăn, gian nan thậm chí cả nguy hiểm, ông luôn ngợi khen Chúa.
Ông tiếp tục: “Ồ, Ngài là Đấng nghe lời cầu xin, mọi loài xác thịt đều sẽ đến cùng Ngài” (c.2).
• Có một số người chỉ biết cầu nguyện mà thôi.
Họ không hết lòng ngợi khen Chúa. Tuy nhiên, sự ngợi khen và sự cầu nguyện phải luôn đi với nhau. Cầu nguyện có nghĩa là tìm đến với Chúa trình dâng cho Ngài các nhu cầu của bạn. Đa-vít nói: “Tất cả mọi loài xác thịt sẽ đến”. Bất kỳ ai biết Chúa thảy đều có thể cầu nguyện với Ngài tại bất cứ nơi nào trong mọi lúc. Cả thế gian đều có thể đến với Chúa và cầu xin Ngài.
Càng cầu nguyện, chúng ta càng được Chúa đáp lời khiến chúng ta càng ngợi khen Ngài nhiều hơn. Thế nhưng, đôi lúc chúng ta không thể nào cầu nguyện được bởi tội lỗi đang chặn lối đi của bạn. Đây là lý do tại sao Đa-vít nói “Những sự gian ác đang thắng thế hơn tôi.Còn về những sự vi phạm của chúng tôi thì Ngài sẽ chuộc chúng” (c.3). Càng ca ngợi Chúa, chúng ta càng thấy mình hèn mọn và xấu xa biết bao. Vì vậy, chúng ta cần tìm đến Chúa, xưng tội với Ngài để được Ngài thanh tẩy tội lỗi.
“Phước cho những ai được Chúa chọn, và được Ngài khiến đến gần Ngài để được ở hành lang nhà Chúa. Chúng ta sẽ được thoả nguyện với những phước hạnh của nhà Chúa, tức đền thờ thánh của Ngài” (c.4). Đó là kinh nghiệm Chúa muốn chúng ta nếm trải – để đến gần Ngài, ở với Ngài và được thỏa lòng nơi Ngài. Chúng ta phải thực hiện việc này bằng cách nào? Bằng cách cầu nguyện, ngợi khen và cần được gột rửa tội lỗi. Sau đó, chúng ta sẽ đến gần Chúa khi Ngài đang đến gần chúng ta.
Bạn có tương giao mật thiết với Chúa không? Bạn có thể đến gần Ngài. Hãy xưng ra với Ngài bất kỳ tội lỗi nào bạn đang che đậy. Kế đó, hãy ca ngợi Ngài và đến với Ngài bằng sự cầu nguyện.
66. THI-THIÊN (Thi 66:1-20)
1. Lời mời gọi (Thi 66:1-7)
Thi 66:1-7 chứa đựng nhiều lời mời mọc được gói gọn trong cụm từ “xin mời đến” “xin mời đến hát”, “xin mời đến xem”, “xin mời đến nghe”. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét hai lời mời đầu.
Lời mời thứ nhất là “xin mời đến hát”, hoặc ngợi khen Chúa. “Hãy hát lên những lời tôn vinh danh Ngài, khiến sự ngợi khen Ngài được vinh hiển” (c.2). Đôi khi, chúng ta ngợi khen Chúa như thể làm công việc lặp đi lặp lại nhàm chán, vô vị, lại có lúc, chúng ta ngợi khen Ngài trong tinh thần mệt mỏi, chán chường. Nhưng ở đây, tác giả đoạn Thi-thiên này đang yêu cầu một sự ngợi khen đầy vinh hiển. Tại sao vậy? “Vì quyền năng Ngài vô cùng vĩ đại, phi thường nên mọi kẻ thù Ngài thảy đều đầu phục Ngài. Cả trái đất sẽ thờ phượng Ngài và hát xướng ngợi khen Ngài” (c.3,4). Đây chính là tinh thần truyền giáo sốt sắng. Chúng ta không thể ngợi khen Chúa chỉ mỗi mình mình. Nhưng, chúng ta cần đến hát xướng, mời gọi cả thế gian cùng với chúng ta ca ngợi Ngài.
Lời mời thứ hai là “xin mời đến xem” các công việc của Ngài. Ngày nay, người ta gọi các công trình của Chúa là các định luật tự nhiên hay là định luật khoa học. Chúng ta cố gắng lý giải mọi thứ, nhưng chúng ta bất lực. Xin mời bạn đến xem các công trình của Chúa những điều đang xảy ra trên thiên đàng, những điều đang diễn ra trong cơ thể bạn và những việc đang xảy ra trong dòng lịch sử nhân loại. Đó là những việc do Chúa làm.
Thi 66:7 “Ngài dùng quyền năng Ngài cai trị đời đời” đây là câu mà tôi rất thích. Toàn bộ cơ cấu hệ thống thế giới này hiện đang nằm dưới sự thống trị của Đức Chúa Trời chứ không phải của Sa-tan. Chúa đang cho phép Sa-tan làm một số việc, nhưng Ngài sẽ sử dụng những việc ấy làm vinh hiển Ngài. Chúa dùng quyền năng Ngài cai trị thế giới này và sẽ cai trị mãi mãi.
Ngày hôm nay, nếu bạn muốn sống đời sống vui mừng thì hãy đến với Chúa và hát xướng. Nếu bạn đánh mất bài ca của mình thì hãy đến xem các công việc Ngài. Bạn sẽ cất tiếng hát ngay thôi.
Có bao giờ bạn đánh mất bài ca ngợi khen của mình chưa? Hãy đến, xem các công việc Chúa làm. Điều ấy sẽ đem bài ca trở lại cho bạn. Các công việc Ngài thể hiện sự vĩ đại và tình yêu thương của Ngài. Nếu bạn đang đồng hành với Chúa thì hãy ngợi khen Ngài và nói cho nhiều người khác biết về những gì Ngài đang làm trong đời sống bạn.
2. Tại sao lại có những thử thách? (Thi 66:8-20)
Thi-thiên này dành cho những ai ngã lòng. “Hỡi các dân! Hãy chúc tụng ngợi khen Đức Chúa Trời! Và làm cho vang tiếng ngợi khen Ngài” (c.8). Tại sao vậy? Tại vì “Chính Ngài đã gìn giữ linh hồn chúng ta được luôn sống động, và không để chân chung ta bước đi xiêu tó” (c.9).
Đức Chúa Trời là Đấng cầm giữ mạng sống chúng ta trong tay Ngài. “Vì trong Ngài, chúng ta luôn sống động và tồn tại” (Công 17:26). Vì vậy, chúng ta hãy ngợi khen Ngài.
“Ôi, Đức Chúa Trời ôi! Vì Ngài đã thử thách chúng con. Ngài tôi luyện chúng con như luyện bạc” (c.10).
Lý do Ngài thử thách và kiểm tra chúng ta chính là để chứng nghiệm chúng ta. Ngài không chứng thực cho chính Ngài điều gì cả. Ngài biết chúng ta rất rõ. Và Ngài muốn chứng thực điều gì đó cho chúng ta. Ngài nhìn nhận chúng ta có giá trị như bạc vàng, và Ngài đặt để chúng ta trong những hoàn cảnh để thử thách và làm cho chúng ta mạnh mẽ.
Hãy chú ý đến những hình ảnh trong hai câu kế tiếp: “Chúa đã đem chúng con vào lưới, chất lên lưng chúng con bao nỗi phiền ưu, hoạn nạn. Ngài khiến cho người ta đè đầu cỡi cổ chúng con. Chúng con vượt qua lửa và nước. Thế rồi Ngài đem chúng con khỏi đó và đưa đến nơi giàu có dư dật” (c.11, 12). Điều này thể hiện một hy vọng bị tiêu tan hoàn toàn. Chúng ta đi qua lửa và nước, nhưng rồi Chúa giải thoát chúng ta khỏi đó và dẫn chúng ta vào một nơi giàu có. Từ “giàu có” mang ý nghĩa là “nơi trù phú dư dật, có nước chảy và cây cối xanh tươi trĩu quả”. Còn đồng vắng xứ Giu-đê, nơi Đa-vít thường tìm thấy, thì rất khô cằn không có cây cối hoa trái gì cả.
Tác giả Thi-thiên không nói “Ồ, tôi lại gặp phải gian truân nữa rồi!” Nhưng ông ấy nói “Chúa đã đem tôi vào trong gian truân, rồi đây Ngài sẽ đưa tôi vượt qua và dẫn tôi ra khỏi đó. Tôi sẽ ở trong nơi giàu có dư dật”. Thật vậy, Đức Chúa Trời là Đấng luôn làm cho chúng ta giàu có khi chúng ta vượt qua những khó khăn. Ngài chứng nghiệm và thử thách chúng ta để khiến chúng ta trở nên giống Chúa Giê-xu hơn.
Các thử thách do Chúa cho phép xảy ra luôn đem lại hiệu quả trong việc tôi luyện và tăng thêm sức mạnh. Kết quả là chúng khiến chúng ta trở nên giống Chúa Giê-xu hơn. Ngày hôm nay, có phải các thử thách đã làm bạn ngã lòng? Hãy vững tâm vì Chúa luôn giúp đỡ bạn, và Ngài sẽ dùng thử thách để khiến bạn trở nên mạnh mẽ.
67. BẠN SẼ CHIA SẺ? (Thi 67:1-7)
Tác giả đoạn Thi-thiên này là một người vô danh, nhưng hẳn đó là người có khải tượng về toàn bộ thế giới này. Đức Chúa Trời đã ban phước cho ông, và ông muốn chia sẻ ơn phước ấy với mọi người. Ông viết: “Xin Chúa thương xót chúng con, ban phước cho chúng con. Con cũng cầu xin Ngài chiếu sáng mặt Ngài trên chúng con” (c.1). Lời cầu nguyện này nghe có vẻ như lời chúc phước cho hội chúng của các vị mục sư, đúng thế không? “Cầu xin Đức Giê-hô-va ban phước và phù hộ cho các anh em! Cầu xin Đức Giê-hô-va chiếu sáng mặt Ngài trên các anh em và làm ơn cho các anh em” (Dân 6:24,25).
Trong câu 1, tác giả đã dùng từ “chúng con” đến ba lần. Ở đây, ông muốn ám chỉ người Do-thái, nhưng ông không dừng lại ở đó mà thôi. “Để thế gian biết đến đường lối Chúa, và sự cứu rỗi Ngài được rao ra giữa các quốc gia” (c.2). Người Do-thái thời ấy chỉ muốn giữ Thánh Kinh Cựu-ước mà họ có cho riêng họ mà thôi. Họ không muốn chia sẻ cho người khác. Đó không phải là điều Chúa muốn! Sau cùng, tại sao Ngài lại kêu gọi Áp-ra-ham? Để ông có thể trở thành nguồn phước cho cả thế gian. Vậy cớ sao Chúa Giê-xu phải chịu chết? Để sứ-điệp Tin Lành có thể được rao truyền ra cho cả thế gian.
Nhưng vì lý do nào Chúa lại ban phước cho chúng ta? Để chúng ta có thể chia sẻ Tin Lành với người khác. Vậy, chúng ta không có gì phải thắc mắc về lời cầu nguyện trong câu 1 “Chúa ơi! Xin thương xót và ban phước trên chúng con, xin chiếu sáng mặt Ngài trên chúng con”. Nhưng câu 2 thì nói về điều gì? Chúng ta có muốn được Chúa ban phước để có thể trở thành một nguồn phước không? Đó chính là lý do tại sao Chúa ban phước cho chúng ta ngay từ buổi ban đầu. Hơn nữa, Ngài đáp lời cầu nguyện cho chúng ta để chúng ta trở thành sự đáp lời cho sự cầu nguyện của người khác.
Kết quả của việc đem sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời rao ra giữa các dân các nước chính là sự ngợi khen. “Hỡi Đức Chúa Trời! Nguyện các dân ca ngợi Chúa! Nguyện muôn dân toàn cầu tán dương Ngài! ” (c.3). Điều này không có nghĩa là chỉ nói về mỗi dân Y-sơ-ra-ên nhưng bao gồm tất cả những người không phải là dân Do-thái. “Nguyện mọi quốc gia vui vẻ hát xướng vì mừng rỡ! ” (c.4). “Nguyện muôn dân đều ca tụng Chúa” (c.5).
Hãy chú ý cách kết thúc của đoạn Thi-thiên này: ”Đất sẽ sinh sôi nẩy nở hoa lợi ngày càng nhiều. Và Chúa, là Đức Chúa Trời chúng con sẽ ban phước trên chúng con. Ngài sẽ ban phước cho chúng con, và muôn dân khắp các đầu cùng địa cầu sẽ kính sợ Ngài” (c.6, 7).
Vậy, sự nối tiếp làm nguồn ơn phước trong Thi-thiên này thật là quan trọng. Tác giả đã bắt đầu bằng ý định “Kính lạy Chúa! Xin Ngài ban phước cho con để con có thể ban phước lại cho người khác! ” Và ông đã thực sự trở thành nguồn phước cho nhiều người khác, vì thế Đức Chúa Trời lại tiếp tục ban phước cho ông. Một kinh nghiệm về đặc ân của Chúa thật tuyệt diệu làm sao!
Bạn có phải là một phần nối tiếp nguồn ơn phước cho Chúa không? Nếu bạn biết chia sẻ cho người khác thì Ngài sẽ ban phước cho bạn để bạn có thể trở thành một nguồn phước. Hãy kinh nghiệm ân điển dư dật của Ngài bằng cách nói cho người khác biết về Ngài.
68. THI-THIÊN (Thi 68:1-35)
1. Như khói và như sáp (Thi 68:1-6)
Có người cho rằng một người nào đó được biết đến không chỉ nhờ vào bạn bè ông ta quen biết mà còn nhờ vào các kẻ thù nghịch của ông ấy nữa. Đức Chúa Giê-xu từng có kẻ thù. Đa-vít cũng vậy.
Bất kỳ ai bênh vực cho lẽ phải đều sẽ có kẻ thù. Nhưng chúng ta hãy chú ý những thứ mà tác giả đoạn Thi-thiên này đã ví sánh với kẻ thù: “Chúng như khói bị tan biến” (c.2).
Ai là người sợ khói? Khói có thể làm chúng ta ngột ngạt khó thở, nhưng nếu chúng ta để cho không khí trong lành hiện đến tức là cơn gió Thánh Linh mát mẻ trong lành thì khói ấy không thể nào quấy nhiễu chúng ta được nữa. Đa-vít còn so sánh kẻ thù nghịch mình với sáp đang bị tan chảy (c.2). Một ngọn nến đang cháy và hình ảnh nói về điều sắp xảy ra cho kẻ thù nghịch của Chúa. Làn khói sẽ bị gió thổi tan biến đi nhanh chóng, và sáp thì bị tan chảy ra một cách lặng lẽ. Còn Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng.
“Vậy, nguyện kẻ ác bị tiêu diệt trước mặt Chúa. Nhưng người công bình thì lấy làm vui vẻ, mừng rỡ trước mặt Ngài” (c.2,3). Lý do tại sao vậy? Tại vì những điều Chúa đã làm vì cớ chúng ta. “Hãy hát xướng cho Đức Chúa Trời, ca khen danh Ngài, chúc tụng Ngài là Đấng lướt đến trên đám mây” (c.4). Tôi rất thích hình ảnh này. Đức Chúa Trời là Đấng chiến thắng vĩ đại, đang lướt đi trên thiên đàng.
Ngài cũng là “Cha của những kẻ mồ côi” (c.5). Ngài sẽ đến ngay với chúng ta để an ủi và sẽ chữa lành vết thương lòng tan nát của chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn là Đấng phán-xét và là Đấng cứu chuộc. Ngài sẽ giải phóng cho tất cả những ai đang bị xiềng xích trói buộc.
Bạn có cảm thấy mình đang bị kẻ thù áp hãm không? Mau trao gánh nặng của bạn cho Đức Chúa Cha và để Ngài làm Đấng thắng trận của bạn.
2. Hãy chia sẻ của cải (Thi 68:7-18)
Trong đoạn Thi-thiên này, Đa-vít mô tả lại các chiến thắng của Đức Chúa Trời. “Chúa vừa ngự lên trên nơi cao, dẫn theo những phu tù và tiếp nhận lễ vật giữa vòng loài người” (c.18). Đây là hình ảnh mô tả sự thăng thiên của Chúa chúng ta. Chúng ta tìm thấy câu này đã được trích dẫn vào Thánh Kinh Tân-ước để ám chỉ về Chúa Giê-xu Christ (Êph 4:8).
Bây giờ, chúng ta hãy xem xét những điều Chúa Giê-xu đã làm cho chúng ta.
-Thứ nhất, Ngài đi trước chúng ta.
“Đức Chúa ôi! Khi Ngài đi ra trước dân sự Ngài” (c.7).
Ngày hôm nay, dù bạn ở bất cứ nơi nào nhưng đi trong ý muốn Chúa thì Ngài luôn luôn sẵn sàng đi ra trước bạn. Đây là bức tranh nói về việc dân tộc Y-sơ-ra-ên đi qua đồng vắng. Đức Chúa Trời không để cho dân Y-sơ-ra-ên phải tự mình lo lắng, toan tính các công tác hậu cần cho họ. Ban đêm, Ngài dùng một trụ lửa dẫn đường họ và còn ban ngày thì Ngài dùng cụm mây chỉ lối họ. Hòm giao-ước; sự hiện diện của Ngài; đi trước họ. Ngài cũng đã đi trước chúng ta và mang lấy tội lỗi chúng ta trên thập tự giá.
-Thứ hai, Ngài vừa ngự lên ở phía trên chúng ta.
“Chúa vừa ngự lên trên nơi cao” (c.18).
Đức Chúa Giê-xu đã thăng thiên trong vinh quang, hiện Ngài đang ngồi bên hữu Đức Chúa Cha thật uy nghi. Ngài là Đấng đi trước chúng ta và đã đánh thắng kẻ thù. Ngài vừa ngự lên ở phía trên chúng ta để chia sẻ chiến thắng.
Hiện giờ, Ngài đang ngự giữa chúng ta. Hãy chú ý kết thúc của câu Êph 18: “Để Giê-hô-va Đức Chúa Trời có thể ngự ở đó”. Và hiện tại Ngài đang làm gì? Ngài đang ban phát quà cho dân sự Ngài. Đây là hình ảnh mô tả một Đấng thắng trận đang phân phát chiến lợi phẩm cho mọi người. Chúng ta thật giàu có biết bao! Chúng ta phải cảm tạ Chúa rất nhiều về điều ấy. Hiện nay, bạn vẫn tin cậy vào Đấng chiến thắng chứ?
Bởi sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ, nên bạn trở nên giàu có, dư dật. Chúa vô cùng độ lượng chia sẻ cho bạn những chiến lợi phẩm từ chiến thắng của Ngài trên thập tự giá. Vì thế, bạn đừng nên thất vọng trong cuộc đời này.
3. Gánh nặng và ơn phước (Thi 68:19-27)
“Hãy ngợi khen Chúa, là Đấng hằng ngày đổ đầy ơn phước theo trên chúng ta, Ngài là Chúa của sự cứu rỗi chúng ta” (c.19). Chúng ta cũng có thể hiểu câu trên thế này: “Hãy ngợi khen Chúa, Đấng hằng ngày mang lấy gánh nặng của chúng ta”. Bây giờ, chúng ta hãy nghĩ về các ích lợi và gánh nặng. Chúa là Đấng ban những gánh nặng cuộc sống cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta phải tự mình mang lấy gánh nặng bởi những sự bất tuân, nổi loạn, phạm tội, vô tín, thiếu tình yêu thương và không có lòng nhân từ, tử tế của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta bước đi theo ý muốn Chúa trên con đường mà Ngài đã chọn, và nếu chúng ta có gánh nặng, thì Ngài là Đấng đã ban chúng cho chúng ta. Chúng ta hãy xem các gánh nặng của cuộc sống như là những ơn phước vậy.
Có lẽ, tấm gương vĩ đại nhất minh họa cho điều này chính là đời sống sứ-đồ Phao-lô. Ông bị gai xóc vào trong thịt là gánh mà ông phải mang nặng nề biết bao! Ông đã cầu nguyện ba lần xin Chúa lấy nó đi. Thay vì làm điều đó cho ông, Ngài lại biến gánh nặng ấy thành ơn phước cho ông. Rồi Ngài bảo ông: “Ta sẽ ban cho con những ơn phước mà con cần” (IICôr 12:7-9).
Có lúc, Chúa đáp lời cầu nguyện bằng cách cất đi những điều gì đó. Nhưng đôi khi, Ngài đáp lời cầu nguyện bằng cách gia thêm những điều gì đó trên chúng ta. Đó là điều mà Chúa đã làm đối với Phao-lô, và gánh nặng của ông đã trở nên sự ích lợi.
“Nhưng” bạn sẽ nói “Tôi đang mang một vài gánh nặng. Nhưng tôi chẳng thấy chúng có ích lợi gì cả”. Hãy chú ý từ “hằng ngày” trong câu IICôr 19: “Đáng ngợi khen Chúa, là Đấng hằng ngày đổ đầy ơn phước trên chúng ta”. Chúng ta hãy sống đời sống trọn lành mỗi ngày. Nếu không khi nghĩ đến tất cả các gánh nặng của cuộc đời e rằng sẽ xảy ra với chúng ta cùng một lúc thì chúng ta sẽ rất kinh hoảng, tuyệt vọng.
Cần luôn ghi nhớ những gì bạn đã trải qua trong cuộc sống. Bạn đã rơi vào những hoàn cảnh mà bạn tưởng chừng sẽ không bao giờ vượt qua được. Thế nhưng, Chúa đã đưa bạn vượt qua tất cả. “Xin Chúa ban cho chúng con thức ăn mỗi ngày” (Mat 6:1). “Và Chúa cũng sẽ ban cho chúng ta gánh nặng cùng với nhiều ân huệ mỗi ngày”
Đức Chúa Trời biết rất rõ khả năng chịu đựng của chúng ta, và ân-điển Ngài luôn đủ cho chúng ta mỗi ngày. Nhưng ở đây còn có một chiều hướng khác đối với những gánh nặng của chúng ta. Chúa có thể biến các gánh nặng thành những ích lợi. Có phải Ngài vừa ban cho bạn một gánh nặng nào đó chăng? Chắc Ngài muốn biến gánh nặng ấy thành sự ích lợi và làm điều gì đó thật đặc biệt cho bạn đấy.
4. Đức Chúa Trời mạnh như thế nào? (Thi 68:28-35)
Chúng ta không thể cậy vào sức mình để có thể đi xa bao nhiêu cũng được. Ở đây Đa-vít dạy cho chúng ta cách hiểu biết và có được sức lực của Đức Chúa Trời. Ông khuyên chúng ta hãy hướng tâm đến sức lực Chúa. Cần phải nhận ra rằng Ngài là Chúa của sức mạnh. “Sự tuyệt diệu của Ngài phủ trên khắp xứ Y-sơ-ra-ên, sức mạnh Ngài ở trong đám mây” (c.34).
Điều này có nghĩa là sức mạnh Ngài rất cao. Thậm chí, Ngài có thể khiến cho sức mạnh đến từ những đám mây (là nơi chẳng có gì cả ngoài hơi nước đang bốc lên). Chúng ta nghĩ về một Đức Chúa Trời đầy lòng yêu thương nhân từ, hay thương xót và nhân từ. Nhưng, chúng ta cũng nên nghĩ đến Ngài là một Đức Chúa Trời đầy sức mạnh.
Chúng ta cần cầu xin sức lực của Chúa. “Đức Chúa Trời ôi! Xin khiến cho những điều Ngài đã làm cho chúng con được vững bền” (c.28). Ngày nay, chúng ta có được đặc ân chạy đến với Chúa cầu xin Ngài ban sức lực cho chúng ta. “Nhưng những ai trông đợi Chúa, sẽ được Ngài bổ lại sức khiến họ có thể cất cánh bay cao như chim ưng, chạy không mệt nhọc, đi không mòn mỏi” (Ês 40:31). Đức Chúa Trời rất sẵn lòng thực hiện những gì Ngài muốn khi chúng ta cầu xin Ngài. “Anh em chẳng được chi vì không cầu xin” (Gia 4:2).
Cuối cùng, chúng ta cần thừa nhận sức lực của chúng ta đến từ Đức Chúa Trời. “Chính Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã ban sức lực và quyền năng cho dân sự Ngài” (c.35). Ngày hôm nay, nếu bạn cần sức lực, thì bạn đừng nhìn vào chính mình hoặc nhìn vào bất cứ người nào khác. Nhưng hãy nhìn lên Chúa, bởi vì Ngài là Đức Chúa Trời của sức mạnh, và Ngài muốn ban sức mạnh Ngài cho bạn nếu bạn cầu xin Ngài.
Sa-tan thường cám dỗ bạn lấy sức mạnh từ những điều giả trá trong thế gian này đem lại. Hễ khi nào xảy ra việc ấy, bạn hãy nhớ đến lẽ thật của đoạn Thi-thiên này. Nếu bạn cần sức lực để tiếp tục chiến đấu, thì hãy dành thì giờ cầu nguyện với Chúa.
Hãy hướng tâm đến sức mạnh của Ngài, cầu xin Ngài ban sức cho và thừa nhận rằng sức lực của bạn đến từ Ngài.
69. THI-THIÊN (Thi 69:1-36)
1. Cái chết kinh khủng nhất (Thi 69:1-12)
Một dạo nọ, tôi có dịp tán chuyện với người hàng xóm về vấn đề sự chết. Tôi đã lợi dụng cơ hội này làm chứng cho anh ta. Chúng tôi tranh luận xem chết cách nào là khó nhất. Cuối cùng, tôi nói: “Có lẽ cách chết khó nhất chính là bị ngộp thở – tức bị lún xuống trong đầm cát lầy khiến con người bị ngộp thở đến chết”.
Đa-vít đã từng trải qua kinh nghiệm này về phương diện tâm linh. “Chúa ơi! Xin cứu con! Vì nước sâu đã ngập đến cổ con. Con bị lún sâu xuống bùn nhưng bên dưới lại không có đáy để đứng xuống được. Con bị chìm trong nước sâu và dòng thác lũ đã phủ ngập con” (c.1,2). Bị chìm vào trong cát lún đã là điều đáng kinh khiếp rồi, đàng này, Đa-vít lại còn bị nhiều cơn thác lũ tràn qua. Và ông đã làm gì? Ông làm những việc mà mọi Cơ-đốc nhân đều sẽ làm.
-Thứ nhất, ông trông đợi: “Họng con khô cháy, mắt con mòn mỏi trong khi trông đợi Chúa của con” (c.3).
“Nguyện cho những ai trông đợi Chúa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các đạo quân sẽ không bị hổ thẹn” (c.6).
Đa-vít biết rõ rằng Chúa đang tể trị trên hoàn cảnh của ông. Vì thế, ông đã kêu cầu Chúa giải cứu ông. Ông làm như vậy chẳng có gì sai trật cả, và ông đã đợi Chúa.
-Thứ hai, ông than khóc: “Con than khóc, và kiêng ăn để trừng phạt linh hồn con, nhưng rồi việc ấy cũng chỉ trở thành nỗi sỉ nhục cho con mà thôi” (c.10).
Từ “sỉ nhục” đã được tác giả dùng lặp đi lặp lại nhiều lần trong Thi-thiên 69 này. (Đây là một Thi-thiên mang sứ-điệp nói về nỗi sỉ nhục mà Chúa Giê-xu đã phải chịu đựng vì cớ chúng ta). Đa-vít than khóc không có gì là sai cả. Những nỗi đau và đôi khi hoàn cảnh cũng có thể làm tan nát cõi lòng bạn. Đa-vít trông đợi Chúa và than khóc với Ngài, vì ông biết rằng Ngài sẽ cứu giúp ông.
-Thứ ba, ông tìm kiếm: “Ôi! Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ôi! Nguyện cho những ai trông đợi Chúa là Đức Chúa Trời của các đạo quân sẽ không bị hổ thẹn vì cớ con. Nguyện cho người nào tìm kiếm Chúa sẽ không bị nguyền rủa bởi tai con” (c.6). Ở đây, ý Đa-vít muốn nói rằng: “Chẳng có gì quan trọng đối với những điều đã xảy ra cho tôi. Nhưng tôi không muốn tạo ra bất cứ rắc rối nào cho bất kỳ ai”. Xuyên suốt Thi-thiên này, chúng ta thấy Đa-vít càng lúc càng trở nên giống Chúa hơn. Khi bạn nhận thấy mình đang bị chìm, thì hãy trông đợi Chúa, than khóc với Ngài, tìm kiếm Ngài và để Ngài hành động.
Khi bạn nhận thấy mình đang bị chìm vào trong đầm cát lún, thì hãy kêu cầu Chúa chứ chẳng thể làm được điều gì khác. Đôi khi, Ngài dùng đầm cát lún để đưa bạn về với Ngài. Hãy trông đợi Ngài và nhận thức rằng Ngài đang cai trị. Hãy trao cho Ngài những mảnh lòng vỡ nát của bạn và chờ Ngài hành động cho bạn. Bạn có thể trông cậy vào sự thành tín Ngài.
2. Chẳng có một người an ủi nào cả (Thi 69:13-21)
“Nỗi sỉ nhục làm cho con tan nát cõi lòng, ngập tràn khổ nhọc. Con tìm người thương xót con nhưng chẳng thấy có ai cả. Con kiếm người an ủi con, nhưng chẳng gặp người nào” (c.20). Khi đọc Thi-thiên 69, chúng ta bắt gặp hình ảnh Chúa Giê-xu Christ ở đây, vì có rất nhiều câu trong khúc Thi-thiên này được trích dẫn vào Kinh Thánh Tân-ước, có liên hệ đến Ngài.
Chẳng hạn như: “Con đã trở thành người xa lạ đối với anh em con, là người không đồng huyết thống với các con của mẹ con vì cớ sự sốt sắng về nhà Chúa đã nhai nuốt con, và sự sỉ nhục do những kẻ sỉ nhục Chúa mang lại đã đổ trên con” (c.8,9 Gi 2:17). Lúc bấy giờ, Đa-vít đang trải qua gian nguy và điều đó lại càng làm cho ông trở nên giống Chúa Giê-xu hơn. Vì thế cho nên nó đã khiến ông thể hiện Chúa ra cho chúng ta.
Vậy, điều gì làm tan nát cõi lòng bạn? Có phải lòng bạn tan nát khi bạn đành bó tay trước sự việc nào đó xảy ra? Hay là khi bạn bị mất mát thứ gì đó? Cả Chúa Giê-xu lẫn Đa-vít đều nói rằng “Sự nhục nhã đã làm tan nát cõi lòng tôi” (c.20). Bạn có thể làm gì với cõi lòng tan nát? Đa-vít cầu nguyện “Xin giải cứu con. Xin nghe tiếng con. Xin đến gần linh hồn con và cứu chuộc con” (c.14,16,18). Và Ngài đã đáp lời ông.
Đôi khi, bạn phải mang lấy sự sỉ nhục vì cớ người khác. Bạn cảm thấy nặng nề, đau lòng và cô đơn. Nhưng Chúa Giê-xu đã nếm trải tất cả những điều này cho chúng ta rồi. Hãy cảm tạ Chúa về việc bạn được dự phần thông công chịu sự thương khó với Ngài (Phi 3:10). Cũng vậy, khi thấy ai đó đang trải qua kinh nghiệm này, thì bạn hãy khích lệ, động viên họ. Nếu bạn gặp phải chuyện khiến bạn đau đớn lòng và bạn cố tìm kiếm một người thương xót bạn, thì bạn sẽ thấy thật ý nghĩa biết bao khi có một người bạn vào lúc ấy. Ngày hôm nay, bạn hãy đi tìm những người có lòng đau thương và bắt đầu mang sự chữa lành đến cho họ.
Khi cõi lòng bạn tan nát thì hãy vững lòng, vì Chúa Giê-xu biết rõ những gì bạn đang trải qua, và vì bạn đang trở nên giống Ngài. Nhưng còn một mục đích nữa. Bạn có thể giúp người khác là những người cũng có lòng đau thương như bạn. Đức Chúa Trời sẽ dùng bạn đem sự chữa lành đến cho họ. Đừng bỏ phí các kinh nghiệm đau lòng của bạn vì chúng có giá trị vô cùng to lớn.
3. Bí quyết để vui mừng (Thi 69:22-36)
“Con sẽ ngợi khen Chúa bằng một bài ca và sẽ tán tụng Ngài bằng lời cảm tạ”. Câu này có vẻ chẳng ăn nhập gì ở đây cả bởi vì khúc Thi-thiên này phảng phất không khí khổ não, buồn rầu vô cùng. Cả trong Thi-thiên 69, chúng ta thấy từ “sỉ nhục” được dùng đến 6 lần.
Đa-vít kêu cầu Chúa giúp đỡ, vì vậy chúng ta thấy thật lạ lùng khi nghe ông nói “con sẽ ngợi khen Chúa bằng một bài ca và sẽ tán tụng Ngài bằng lời cảm tạ”. Khi bạn đang thất vọng, hoặc khi bạn cho rằng có điều gì đó bất ổn, hay là có ai đó đang bắt bớ bạn và đánh đập dày vò bạn, thì bạn hãy ngợi khen danh Chúa bằng một bài ca.
Phao-lô và Si-la ắt hẳn đã nghĩ đến Thi 69:30 khi họ đang phải chịu đau đớn trong tù ở Phi-líp (Công 16:16-34). Họ bị người ta bắt cùm chân lại, bị lăng nhục, bị tước quyền công dân, bị đánh đập bằng roi vọt khiến thân thể đầy thương tích đau đớn. Nhưng họ đã bắt đầu hát xướng ngợi khen Chúa. Buổi hoà nhạc của họ đã thu phục cả một gia đình và người cai ngục được Chúa cứu. Khi nào bạn thấy mình đang thất vọng chán nản thì hãy khởi sự hát xướng.
• Hãy tán tụng Chúa.
Khi tôi bị đau đớn, tôi thường có xu hướng tự tán dương mình. Tôi nghĩ, chắc chẳng có ai từng cảm nhận được điều tôi cảm nhận. Và cũng chẳng có người nào nếm trải điều tôi đã nếm trải. Còn Đa-vít nói rằng: con sẽ không làm việc ấy đâu. Con chỉ muốn tán tụng Ngài.
• Hãy tạ ơn Chúa.
Bất kỳ ai cũng có thể cảm tạ Chúa khi mọi việc trở nên tốt đẹp, hoặc khi người ấy đang ở trong niềm hạnh phúc vui tươi. Nhưng khi bạn đang nản lòng như thể đang chìm vào bùn sâu, thì thật là khó để cảm tạ ơn Chúa. Tuy nhiên, bạn cần phải làm như thế.
Và đây là 3 bí quyết dành cho bạn để có sự vui mừng khi bạn chán nản, thất vọng: Hãy ngợi khen danh Chúa, tán tụng Ngài và hết lòng cảm tạ Ngài.
Có phải bạn đang bị hoàn cảnh đánh bại? Hãy tin cậy Chúa và làm theo các bí quyết vừa được nêu trên. Chúa sẽ làm cho bạn vui vẻ, mừng rỡ.
70. CHÚA ƠI: XIN MAU LÊN! (Thi 70:1-5)
Có bao giờ Chúa chậm trễ trong đời sống bạn chưa? Đối với Đa-vít, Ngài đã từng như vậy. Điều thật hiển nhiên này đã được Đa-vít ghi lại thành một trong những Thi-thiên trong thời gian ông bị vua Sau-lơ quấy nhiễu. Vì vậy, ông kêu nài: “Lạy Chúa, sao Ngài chẳng làm gì cả vậy! Ngài đang chậm trễ quá chừng!”
Có bao giờ bạn ngẫm nghĩ về những sự trì hoãn của Chúa chưa? Ngài không hề vội vã, nhưng hễ khi nào Ngài hành động thì chúng ta hãy coi chừng! Ngài rất kiên nhẫn để thực hiện công việc Ngài. Đa-vít kêu nài Chúa “Xin gấp lên! Xin mau lên!” (c.1). Ông lại nhắc lại lời kêu van này trong câu 5. “Con là kẻ khốn cùng, Chúa ôi! Xin mau đến cùng con. Ngài là sự giúp đỡ và là Đấng giải cứu con. Chúa ôi! Xin đừng chậm trễ”.
Nếu ngay bây giờ, giả sử Chúa dường như cứ chậm trễ không hành động gì cả, hoặc như thể Ngài trì hoãn không ra tay, thì bạn sẽ làm gì? Hãy tìm kiếm Ngài, trông đợi Ngài và kính mến Ngài. Câu 4 nói về điều này rất hay: “Nguyện hết thảy người nào tìm cầu Chúa, đều được mừng rỡ vui vẻ nơi Ngài. Nguyện những ai yêu mến sự cứu rỗi của Chúa hằng nói rằng ‘Đáng chúc tôn Đức Chúa Trời oai nghi thay!” Chúng ta vừa bắt gặp câu này ở bài trước. Chính Đa-vít, lúc ông nản lòng, tuyệt vọng đã nói rằng “Con… sẽ chúc tôn Ngài bằng lời cảm tạ” (Thi 69:30).
Ở đây, có một bài học bổ ích dành cho chúng ta. Khi Đức Chúa Trời không hành động vội vàng như chúng ta tưởng, khi thời gian biểu của chúng ta không trùng khớp, thì chúng ta sẽ làm gì? Hãy vui mừng trong Chúa, kính mến Ngài và chúc tán Ngài. Hãy để Ngài lo liệu thời gian biểu cho chúng ta. Ngài là Đấng luôn làm việc, và chúng ta biết rằng mọi sự đang hiệp lại để đem đến ích lợi (Rô 8:28). Tuy nhiên, Ngài luôn chờ đúng thời điểm mới tiết lộ chiến thắng của Ngài ra. Hãy để Ngài canh đồng hồ.
Sự trì hoãn của Chúa là một phần của tiến trình xây dựng tính cách con người bạn. Hễ khi nào Chúa chậm trễ đối với bạn, thì bạn hãy tự khích lệ mình bằng cách nhớ rằng Chúa không bao giờ thôi làm việc vì cớ bạn, và Ngài biết thời điểm và cách thức để giúp đỡ bạn. Hãy để Ngài lên lịch làm việc cho bạn và chăm sóc bạn.
71. THI-THIÊN (Thi 71:1-24)
1. Khi tôi già (Thi 71:1-11)
Càng trở về già, tôi càng ưa thích đoạn Thi-thiên này. Nó tập trung vào những ơn phước đặc biệt của Đức Chúa Trời dành cho người cao tuổi. “Xin Chúa đừng lìa bỏ con trong tuổi già, đừng từ bỏ con khi sức lực hao mòn” (c.9).
Chúa sẽ làm gì cho chúng ta khi chúng ta trở về già? Ngài sẽ đáp ứng các nhu cầu cho chúng ta và giải quyết các nan đề chúng ta gặp phải trong nhiều năm sau này. Hãy lấy vấn đề yếu đuối làm một ví dụ.
-Đó là điều Đa-vít đề cập đến trong câu 9 “Xin đừng lìa bỏ con khi sức lực con hao mòn”.
Trông dáng vẻ bề ngoài của một con người thật yếu ớt, nhưng có thể bề trong con người ấy đang được đổi mới mỗi ngày. Chúa sẽ ban cho bạn sức lực thuộc linh mà bạn cần.
-Khi cao tuổi, chúng ta lại phải đối diện với vấn đề thứ hai là: sự hổ thẹn. “Chúa ơi! Con kỳ vọng nơi Ngài, xin chớ hề để con bị mắc cỡ (hổ thẹn)” (c.1). Không phải lúc nào chúng ta cũng thích ứng kịp với quá nhiều biến đổi một cách tốc độ trong thế giới hiện nay.
Khi già cả, chúng ta có thể nói thế này “Tôi hoàn toàn không biết được điều gì xảy ra nữa”. Nhưng Chúa bảo “Kìa! Đừng lo lắng về việc ấy hãy tin cậy ta. Ta sẽ không bao giờ để con bị hổ thẹn đâu!”
-Vấn đề thứ ba chúng ta phải trải qua đó là sống với dĩ vãng. Theo lẽ thường tình, chúng ta sẽ nói: “Ước gì được quay về với những ngày xưa đẹp đẽ…” Tôi quả quyết rằng những ngày xưa đẹp đẽ ấy thực sự đã không đẹp đẽ đâu. Đa-vít nhận thức “Hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời! Ngài là niềm hy vọng của con” (c.5). Ông đang sống trong tương lai. Chúng ta không biết được tương lai đang nắm giữ điều gì, nhưng chúng ta biết chắc rằng Chúa là Đấng nắm giữ tương lai chúng ta.
-Cuối cùng, chúng ta còn phải đương đầu với vấn đề lằm bằm. Thật dễ dàng biết bao để lằm bằm khi chúng ta trở về già. Nhưng Đa-vít đã thưa với Chúa “Xin cho miệng con đầy dẫy sự ngợi khen Chúa và làm vinh hiển Ngài suốt cả ngày” (c.8). Khi chúng ta bước đi với Chúa, Ngài sẽ mang lấy sự yếu đuối hổ thẹn của chúng ta. Ngài cất đi nỗi lo sợ về tương lai của chúng ta. Ngài còn dùng sự ngợi khen thay thế cho sự lằm bằm, khiến chúng ta được sung sướng khi già cả.
Mỗi thời kỳ cuộc sống đều có những thuận lợi và nhiều vấn đề đặc biệt. Đức Chúa Trời luôn ở cùng bạn suốt từng thời kỳ ấy. Có phải bạn đang đương đầu với những vấn đề của tuổi già? Có phải bạn đang vật lộn với sự yếu đuối thể chất lẫn tinh thần, với sự hổ thẹn với việc sống về quá khứ và sự lằm bằm? Hãy trao nỗi sợ hãi của bạn cho Chúa. Ngài luôn lấy làm đẹp lòng khi được chăm sóc dân sự Ngài.
2. Hãy vì những người đi sau (Thi 71:12-24)
Khi chúng ta già đi, mọi sự sẽ thay đổi. Chúng ta ắt phải rời bỏ một vài thứ nào đó và lại bắt đầu những điều khác. Chỉ có Thi-thiên 71 mới đề cập nhiều đến những sự việc cần phải diễn ra một cách thường xuyên. Đa-vít dùng từ “thường xuyên” (tức từ “luôn luôn” theo bản Kinh Thánh tiếng Việt) đến ba lần.
Ông bảo chúng ta rằng chúng ta có thể thường xuyên đến với Chúa trong sự cầu nguyện.
“Xin Chúa làm nơi nương náu vững chắc cho con, để con thường xuyên đến trú ẩn” (c.3). Chúng ta có thể cầu nguyện với Chúa mà không cần đến vấn đề tuổi tác, vì Ngài chẳng hề hư mất bao giờ. Chúng ta cũng có thể thường xuyên ca ngợi Chúa. “Con sẽ ngợi khen Chúa luôn luôn” (c.6). Nếu chúng ta thường xuyên cầu nguyện, thì sau đó chúng ta ắt sẽ thường xuyên ngợi khen. Đa-vít cũng nói với chúng ta rằng “Tôi sẽ luôn hy vọng” (c.14).
“Kính lạy Đức Chúa Trời, dầu khi con đã già và tóc đã bạc, xin Chúa chớ lìa bỏ con, cho đến chừng con truyền bá sức lực Chúa ra cho thế hệ này biết và rao bảo quyền năng Chúa cho những ai sắp đến cùng Ngài” (c.18). Hãy chú ý điều này: Đa-vít không chỉ đơn thuần tập trung vào các nhu cầu của mình. Ông muốn được Chúa đáp ứng các nhu cầu cho ông để ông có thể chia sẻ Chúa cho nhiều người khác. “Chúa sẽ làm cho con vĩ đại hơn, Ngài cũng sẽ ở bên con an ủi con… con sẽ ca ngợi Ngài” (c.21,22).
Nếu chúng ta thường xuyên đến với Chúa trong sự cầu nguyện, luôn lấy làm vui mừng nơi Chúa trong sự ngợi khen, thường xuyên hy vọng ở Ngài, trông đợi, bám chặt các lời phán hứa của Ngài, và nói rằng điều tốt nhất chưa đến, hãy ca khen Ngài nhiều hơn nữa, thì khi chúng ta trở về già chúng ta sẽ không sợ hãi. Chúng ta sẽ có thể làm vinh hiển Chúa, chia sẻ Ngài cho lớp thế hệ mai sau. Bạn sẽ để lại gia tài nào cho con cháu mình trong tương lai? Bạn sẽ dùng lời nói gì và ví dụ nào để dạy cho họ biết về sức lực và quyền năng của Chúa? Liệu họ có đặt đức tin họ nơi Chúa dựa trên nền tảng đời sống và những lời làm chứng của bạn không?
Bạn có thể sống làm vinh hiển Chúa mà không cần đến vấn đề tuổi tác. Trong chúng ta, những ai cao tuổi hơn đều có thể làm điều đó theo một cách đặc biệt: dạy cho thế hệ trẻ biết về sự thành tín của Chúa. Hãy để dành sản nghiệp Cơ-đốc của bạn cho các thế hệ tương lai. Cũng hãy tiếp tục dùng cuộc đời bạn làm chứng cớ cho Ngài.
72. THI-THIÊN (Thi 72:1-20)
1. Vĩ đại hơn cả Sa-lô-môn (Thi 72:1-11)
Thi 72:1-11 có thể được viết dành cho Sa-lô-môn khi ông lên làm vua. Nhưng, hãy xem phần đầu của Thi-thiên này, chúng ta sẽ thấy có một Đấng vĩ đại hơn cả Sa-lô-môn Đó là Đức Chúa Giê-xu Christ. Hãy chú ý những gì tác giả viết “Xin ban cho vua sự phán xét của Ngài, Chúa ơi! Và xin ban cho Con Trai vua sự công bình Ngài” (c.1). Thực ra, tác giả đề cập đến sự công bình rất nhiều lần trong Thi-thiên này. “Ngài sẽ dùng sự công bình xét xử dân sự Ngài” (c.2). “Các núi sẽ vì sự công bình mà đem bình an đến cho dân sự và những gò nổng” (c.3). “Trong ngày của Ngài, người công bình sẽ được hưng thịnh” (c.7).
Đối với chúng ta, Chúa Giê-xu chính là sự công bình của Đức Chúa Trời. Tác giả Thi-thiên này mong muốn Sa-lô-môn trở thành một người công bình, có lòng thanh liêm và thật thà khi thực hiện những cuộc xét xử thuộc quyền hạn nhà vua. Đức Chúa Giê-xu Christ không bao giờ lỗi lầm. Ngài là sự công bình của chúng ta và Ngài luôn làm điều công bình.
Kế đến, tác giả nói về sự bình an. “Các núi sẽ đem bình an đến cho dân sự” (c.3). “Trong ngày của Ngài, người công bình sẽ được hưng thịnh, cũng sẽ có bình an dư dật mãi chừng nào mặt trăng không còn nữa” (c.7).
Chúng ta có thể có sự công bình mà không có bình an. Chúng ta có thể cho nhiều người lính có quyền hành quyết những người phạm luật. Nhưng chúng ta không thể có sự bình an mà lại thiếu sự công bình. Trước hết, chúng ta phải có sự công bình của Đức Chúa Trời trước khi chúng ta có thể có sự bình an với Ngài.
Sự công bình và bình an của Chúa chúng ta được nhấn mạnh trong sách Hê-bơ-rơ, trong con người của vua Mên-chi-xê-đéc. Chúa Giê-xu là Vua công bình và bình an. Ngài cũng đem đến cho chúng ta sự hồi sinh. “Ngài sẽ giáng xuống như mưa trên cỏ mới phát, như mưa rào tuôn trên đất” (c.6). Chúng ta sẽ có những ngày này khi lòng chúng ta khô hạn như hoang mạc. Nhưng Chúa luôn tưới phước hạnh trên chúng ta và sinh bông trái trong chúng ta. Tất cả những điều này sẽ đưa đến chiến thắng. “Hết thảy các vua sẽ sấp xuống trước Ngài, tất cả các quốc gia sẽ phục vụ Ngài” (c.11). Chúng ta hãy thờ phượng Ngài và vâng lời Ngài là Đấng vĩ đại hơn vua Sa-lô-môn rất nhiều.
Sẽ có một ngày, Đức Chúa Giê-xu Christ thiết lập vương quốc Ngài trên đất này. Bởi Ngài tể trị bằng sự công bình, nên Ngài sẽ đem bình an đến cho chúng ta. Hiện nay, Ngài đang thiết lập vương quốc Ngài trong lòng và trong đời sống của mọi kẻ tin Ngài. Vì sự công bình Ngài, bạn có thể được Chúa ban bình an vào lòng bạn. Hiện tại, bạn có sự bình an ấy chưa?
2. Danh diệu kỳ (Thi 72:12-20)
“Danh Ngài sẽ còn mãi mãi, hễ mặt trời còn tồn tại bao lâu thì danh Ngài cũng sẽ tiếp tục tồn tại bấy lâu. Loài người sẽ được hưởng phước hạnh trong Ngài. Các quốc gia kêu cầu Ngài sẽ được phước” (c.17). Trước hết Thi-thiên này được viết với mục đích nói về Sa-lô-môn, thế nhưng, khi đọc câu trên, chúng ta thấy nó cũng nói về Chúa Giê-xu nữa.
Nó nói đến danh Ngài. “Ngươi sẽ gọi tên Ngài là Giê-xu, vì Ngài sẽ cứu dân sự Ngài ra khỏi tội” (Mat 1:21). Đó là điều danh Ngài nói đến Đấng Cứu Thế. Vậy, danh Ngài có tính chất gì? Nó rất bền vững, trường tồn. “Danh Ngài sẽ còn mãi mãi” (c.17).
Tôi là một người nghiên cứu đang thực hiện công việc viết tiểu sử. Tôi đi đến những cửa hàng sách cũ mua các cuốn sách viết về người cao niên – những diễn giả, các nhà truyền giáo, các chính sách lão thành là những người đã bị lãng quên.
Có bao giờ bạn đã đọc một bản bách khoa toàn thư cổ điển chưa? Bạn có suy nghĩ về những danh nhân được đề cập trong đó là ai không? Và rằng vì sao tôi chưa bao giờ nghe nói về họ cả? Tên tuổi của họ đã bị mai một.
Thực tế, có một số tên tuổi xuất hiện trên dòng đầu của các trang báo hôm nay, thì chỉ vài tháng tới nó sẽ bị người ta lãng quên ngay. Nhưng đối với Chúa Giê-xu thì không phải vậy. Ngài có danh xưng trường tồn, đó là danh “trên hết mọi danh” (Phi 2:9).
• Chúa Giê-xu cũng có danh xưng giàu có.
“Loài người sẽ được hưởng phước hạnh nơi Ngài”. Tên tuổi của một số người không hề đem lại phước hạnh – nhưng chỉ đem lại sự nguyền rủa. Chắc chắn, bạn sẽ không đặt tên con trai bạn là “Giu-đa”, hoặc gọi con gái bạn là “Giê-sa-bên”! Nhưng danh xưng của Chúa Giê-xu là danh xưng giàu có, phong phú. Danh xưng Ngài đem lại phước hạnh. Chúng ta đã nhận được ơn phước từ nơi Ngài “với mọi thứ phước hạnh tâm linh” (Êph 1:3).
• Chúa Giê-xu còn có danh xưng quyền năng.
“Hãy ngợi khen, chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Chúa của dân Y-sơ-ra-ên, Đấng duy nhất làm được những điều lạ lùng” (c.18). Nhờ danh Chúa Giê-xu, Đức Chúa Trời sẽ khiến chúng ta làm được những việc diệu kỳ. Trong sách Công-vụ, chúng ta thấy danh Chúa Giê-xu luôn ở trên môi của các sứ-đồ. “Nhân danh Chúa Giê-xu người Na-xa-rét, ngươi hãy đứng dậy và bước đi” (Công 3:6). Chúng ta có một đặc ân tuyệt vời là được biết đến danh Chúa. Chúng ta cũng có đặc ân đặc biệt nữa là được nhận quyền năng từ danh Chúa khi chúng ta cầu nguyện và hầu việc Ngài.
Không có danh nào giống danh Chúa Giê-xu. Danh Ngài là danh quyền năng. Danh ấy luôn trường tồn, đem lại phước hạnh và khiến những ai biết đến danh Ngài thì sẽ nhận được quyền năng. Bạn có nhận biết Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế của bạn không? “Bất kỳ ai kêu cầu danh Chúa đều sẽ được cứu” (Rô 10:13).
73. SỨ ĐIỆP TẠ ƠN (Thi 73:1-28)
A-sáp bắt đầu Thi-thiên này bằng việc bênh vực cho lẽ thật về những gì ông tin nơi Chúa. Nhưng rồi, ông trượt ngã vì ông bắt đầu nhìn vào những người hàng xóm và ganh tỵ với họ. Ông cứ tự hỏi mình không biết tại sao kẻ ác lại hưng thịnh. Khi ông đánh mất sự ngợi khen Chúa, ông bắt đầu ngã và phải chịu đau đớn. Đáng lý ra, ông nên tìm câu trả lời bằng cách nhìn lên, chứ đừng nhìn quanh hoặc nhìn vào trong.
A-sáp hiểu rất rõ kết cuộc của kẻ ác là thế nào. Câu hỏi quan trọng không phải là “Bạn ở đâu?” nhưng là “Bạn đang đi đâu?” Bạn đang đi trên con đường rộng thoáng đãng là con đường dẫn đến sự hủy diệt hay bạn đang đi trên con đường hẹp dẫn đến sự sống? (c.20). Tác giả Thi-thiên này nhìn xem Chúa và khám phá ra được nhiều điều.
-Thứ nhất, ông khám phá ra rằng chúng ta có thể tạ ơn Chúa về sự hiện diện một cách bảo đảm của Ngài. Tên Ngài là Em-ma-nu-ên nghĩa là “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Mat 1:23; Ês 41:10; Thi 23:4; Ês 43:2).
-Thứ hai, chúng ta có thể nắm chặt tay Ngài. Chúng ta nhìn thấy bàn tay quyền năng Ngài trong công việc sáng tạo vũ trụ. Chúng ta thấy bàn tay nhân từ của Ngài dẫn chúng ta đến bên mé nước bình tịnh. Và chúng ta cũng đã thấy bàn tay bị đóng đinh của Ngài trên thập tự giá khi Ngài chịu chết vì cớ chúng ta.
-Thứ ba, chúng ta có sự chỉ dạy của Chúa dẫn dắt. Mạng lệnh và sứ-điệp của Chúa dành cho tất cả mọi người vậy. Ngài biết rõ mỗi cá nhân chúng ta một cách riêng tư. Ngài biết chúng ta ngay từ lúc chúng ta còn trong lòng mẹ, và Ngài sắp đặt cuộc sống cho chúng ta theo ý Ngài muốn chúng ta sống. Chúng ta hãy sống đời sống trọn vẹn mỗi ngày và bước đi thật trọn vẹn (Ch 4:18). Sự chỉ dạy của Chúa sẽ đến với chúng ta từ Lời Ngài và qua sự cầu nguyện.
Cuối cùng, chúng ta sẽ có sự vinh hiển của thiên đàng Ngài. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta biết mình đang đi về thiên đàng vì cái giá mà Chúa Giê-xu đã trả thay cho chúng ta trên thập tự giá (ITês 5:10), vì lời hứa mà Ngài đã lập (Gi 14:1,3), và vì lời cầu xin mà Ngài đã cầu thay cho chúng ta (Gi 17:24). Ngày hôm nay, có thể chúng ta không hiểu hết được mọi việc, nhưng chúng ta sẽ nhận được sự vinh hiển trong tương lai (IPhi 1:3; IIPhi 1:11; Phi 4:14).
Là Cơ-đốc nhân, hẳn bạn có rất nhiều điều để cảm tạ Chúa. Ngài luôn ở với bạn. Khi bạn thấy mình bắt đầu chán nản bởi những sự bất công trong thế gian này, thì bạn hãy mau dừng lại, ngước nhìn lên và tạ ơn Chúa về các ơn phước của Ngài.
1. Cái nhìn lệch lạc (Thi 73:1-12)
Khi nào chúng ta phải mang lấy gánh nặng và bị quấy rầy bởi những điều chúng ta nhìn thấy trong thế gian này, thì chúng ta hãy đọc Thi-thiên này. Nó bắt đầu với một đức tin được xác tín rất tuyệt vời. “Quả thật, Đức Chúa Trời đối đãi với dân Y-sơ-ra-ên và những ai có lòng trong sạch” (c.1).
A-sáp đặt lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va của dân Y-sơ-ra-ên, và ông tin rằng Chúa sẽ tôn quý và ban thưởng cho những ai giữ gìn đời sống mình trong sạch.Nhưng trong câu 2, ông đã xây ánh mắt mình khỏi Chúa và bắt đầu nhìn vào những người xung quanh. “Còn về phần tôi, chân tôi xuýt vấp ngã bước tôi gần trượt vì tôi đã ganh tỵ với kẻ kiêu ngạo khi tôi trông thấy sự thịnh vượng của kẻ ác” (c.2,3).
Bây giờ, chúng ta hãy nhìn vào hai vấn đề chính yếu của A-sáp.
-Thứ nhất, có điều gì đó sai trật trong cái nhìn của ông.Ông không nhìn Chúa. Ông đang nhìn vào những kẻ độc ác xung quanh ông. Những kẻ ấy là ai? A-sáp mô tả họ trong câu 4-9. “Vì họ không bị đau đớn khi lìa đời, sức lực họ luôn đầy đủ, mạnh mẽ” (c.4). Họ không bị ốm đau, không nợ nần như người khác. Họ chẳng gặp rắc rối, gian truân lại rất kiêu ngạo và tàn bạo. “Mắt họ lồi ra cùng với sự giàu có, thừa mứa. Họ có quá nhiều đất đay mầu mỡ hơn cả điều họ ao ước” (c.7).
Tuy nhiên, họ là những con người xấu xa, đồi bại. Họ dùng môi miệng chống nghịch lại Chúa. Trong câu 10, A-sáp nói: “Họ đã uống cạn chén nước đầy”. A-sáp đang phải uống chén đắng. Cái nhìn của ông trở nên lệch lạc, méo mó. Đây là điều chắc chắn xảy ra khi chúng ta bước đi bằng cái nhìn thay vì bằng đức tin.
Thứ hai, có điều gì đó sai trật trong sự đánh giá của ông. “Tôi ganh tỵ… khi tôi nhìn thấy sự thịnh vượng của kẻ ác” (c.3). Liệu ông ấy cho rằng những người sống không có Chúa thì sẽ thịnh vượng chăng? Những đánh giá của ông có được thay đổi ngay không? A-sáp đang sống bằng những nhận định, đánh giá về thế giới này chứ không phải bằng những nhận định đánh giá về thế giới hầu đến.
“Họ càng thêm giàu có” (c.12) Nhưng chúng ta hãy xem đó là sự giàu có về cái gì? Khi nào chân bạn bắt đầu trượt ngã và bạn đòi hỏi những ơn phước Chúa với sự cai trị của Ngài trên thế gian này, thì bạn cần phải xem xét lại cái nhìn và những sự đánh giá của bạn.
Để sống đời sống đức tin, bạn cần hiểu rõ cái nhìn của Chúa đối với thế giới này. Bạn hãy bước đi bằng đức tin, không phải bằng mắt thấy. Hãy luôn giữ mắt bạn chăm xem Chúa và đừng sống theo những nhận định, đánh giá của thế gian này. Chúa thành tín sẽ tiếp trợ cho bạn.
“Trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ ban thêm tất cả mọi điều ấy cho các con” (Mat 6:33).
2. Cái nhìn của Đức Chúa Trời (Thi 73:13-17)
Có thật đáng để làm Cơ-đốc nhân dâng mình cho Chúa không? Có đáng để vâng lời Chúa khi những kẻ bất tuân với Ngài lại có vẻ càng ngày càng thịnh vượng hơn chúng ta? Đó là điều A-sáp thắc mắc khi ông viết Thi 73:1-28. Trong 12 câu đầu, ông cho rằng ông đã thực sự bỏ lỡ cuộc sống tốt đẹp: “Tôi đã luống công khi thanh tẩy lòng mình, và rửa tay trong sự vô tội. Tôi gặp phải tai ương suốt cả ngày dài, lại bị sửa phạt vào mỗi buổi sáng. Nếu tôi nói: Tôi sẽ thưa rằng: Kìa, ắt con sẽ không thành thật với dòng dõi con cái Ngài” (c.16,17).
Và mọi sự sẽ kết thúc ra sao? “Thật quá đớn đau cho tôi mãi cho đến chừng tôi bước vào nơi thánh của Chúa và hiểu được kết cuộc của mọi sự ấy” (c.16,17). A-sáp đã có cái nhìn không đúng, điều này khiến cho ông cứ chất vấn đời sống mình mãi cho đến khi ông tìm được Chúa.
Nếu bạn nhìn lên một ngọn núi với tầm nhìn bắt đầu từ một vị trí thuận lợi, thì bạn sẽ thấy thế này. Nhưng nếu bạn đi đến gần núi hơn hoặc lùi ra xa núi, thì bạn lại thấy khác.
Khi chúng ta ngắm tranh ảnh tuyệt đẹp trong phòng triển lãm tranh cũng tương tự như vậy.
Cái nhìn của bạn không làm thay đổi được bức tranh hoặc một thực tế nào đó, nhưng nó có thể làm thay đổi phản ứng của bạn đối với thực tế. Vì thế, chúng ta cần đi vào nơi thánh của Đức Chúa Trời.
Chúng ta cần biết quan điểm của Ngài để dựa vào đó sống cho Ngài.
Bạn đã thanh tẩy lòng mình một cách vô ích chăng? Dĩ nhiên là không. Tất cả chúng ta đều muốn có tấm lòng trong sạch. Có phải bạn đã rửa tay mình trong sự vô tội chăng? Lưỡi bạn có nói điều gì mà đáng lý ra không nên nói chăng? Theo lời khuyên trong câu 15, chúng ta đừng sợ hãi. Hãy nói cho Chúa biết đích xác cảm nghĩ của bạn thế nào.
Bạn đang hoang mang chăng? Lòng bạn đang đau xót phải không? Nếu vậy, bạn cần phải đi vào nơi thánh của Chúa. Ở đó, bạn biết được quan điểm của Ngài bằng cách bạn dành thì giờ ở với Ngài qua Lời Ngài, trong sự cầu nguyện và suy gẫm.
Hãy xem xét đối chiếu các đánh giá của bạn và những đánh giá của Chúa, cái nhìn của bạn và quan điểm của Ngài. Hãy chắc chắn rằng quan điểm của bạn sẽ là quan điểm của thiên đàng. Điều này sẽ giữ cho chân bạn khỏi trượt ngã, và bạn sẽ bước đi với Chúa trong chiến thắng.
Lúc cần thiết, quan điểm của bạn có thể tạo nên một sự khác biệt rất lớn. Đức Chúa Trời muốn chúng ta tiếp nhận quan điểm của Ngài. Để làm việc đó, bạn phải bước vào nơi thánh Chúa. Hãy suy gẫm Lời Ngài và đổ đầy Lời ấy vào lòng vào trí bạn. Sau đó, bạn hãy trao gánh nặng mình cho Chúa. Ngài sẽ giúp bạn tiếp nhận quan điểm của Ngài.
3. Hãy nhìn xa hơn (Thi 73:18-28)
“Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy dẫn dắt con và sau đó tiếp rước con trong vinh hiển” (c.24). A-sáp viết câu này khi ông trải qua một thời kỳ nghi ngờ, và nó chính là kết luận tuyệt vời dành cho sự ngã lòng trầm trọng của ông. Ông bước ra khỏi từng trải của mình bằng những sự tin tưởng chắc chắn.
-Thứ nhất, Chúa luôn nắm lấy chúng ta. “Song, con cứ ở cùng Chúa luôn luôn, thì Ngài nắm lấy tay hữu con” (c.23). Kẻ ác có thể tàn bạo, thừa mứa của cải, thịnh vượng và hay gặp may mắn. Còn chúng ta, chúng ta có Chúa, và Ngài luôn nắm lấy chúng ta.
-Thứ hai, Chúa thường dẫn dắt chúng ta. “Chúa sẽ dùng sự khuyên dạy dẫn dắt con, và sau đó tiếp rước con trong vinh hiển” (c.24). Điều quan trọng là ở chỗ “và sau đó”. Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Chúng ta có thể tin chắc rằng chúng ta sẽ được ở với Chúa mãi mãi. Chừng nào có một điều hơi khác biệt xảy ra cho chúng ta về phương diện vật chất và phương diện thuộc thể trong cuộc đời này thì chừng nấy chúng ta sẽ được giàu có trong đời sau. Có một số người giàu có trong thế giới này ắt sẽ trở nên nghèo khổ trong thế giới sau. Nhưng ngược lại, những ai nghèo túng trong đời này thì sẽ được giàu có trong đời sau.
-Thứ ba, Chúa bổ lại sức cho chúng ta. “Thể xác và tâm trí con mòn mỏi, nhưng Chúa chính là sức lực của lòng con, là tất cả đời con đến mãi mãi” (c.26)
Thứ tư, Chúa luôn vừa giúp chúng ta trong mọi giai đoạn của cuộc sống. “Nhưng lấy làm tốt thay cho con để được đến gần Ngài” (c.28). Dù chúng ta đang ở bất kỳ nơi nào hoặc đang phải trải qua bất kỳ điều gì, thì chúng ta đều cần đến gần Chúa. “Con đã đặt lòng tin của con nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và con có thể khoe ra mọi công việc Ngài” (c.28).
Lời hứa về một quê hương vĩnh cửu trên thiên đàng với Chúa là sự khích lệ chúng ta trong cuộc đời này. Đức Chúa Trời đã chuộc bạn với giá rất cao. Ngài gìn giữ và bảo vệ bạn trong mọi sự. Vậy, bạn có một sự bảo đảm tuyệt vời biết bao!
74. THI-THIÊN (Thi 74:1-23)
1. Một đền thờ mới (Thi 74:1-11)
Ắt hẳn người Do-thái rất khốn khổ khi nhìn thấy người Ba-by-lôn hủy phá thành và đền thờ của họ. Vì thế, không ai thắc mắc về điều A-sáp viết: “Chúa ôi! Sao Ngài lìa bỏ chúng con mãi mãi? Sao cơn giận Ngài lại phừng lên thiêu đốt bầy chiên của đồng cỏ Ngài?” (c.1)
Hãy nhớ cho rằng điều này xảy ra là do dân sự phạm tội. Họ có một thành phố vĩ đại. Họ có một đền thờ đẹp đẽ. Nhưng rồi, họ đã gây nên vấn đề, họ tin cậy thành và đền thờ, không vâng lời Chúa. Họ phạm tội làm ô uế đền thờ. Giê-rê-mi bảo họ là những người đã làm cho đền thờ trở thành hang ổ của bọn trộm cướp (Giê 7:11). Đức Chúa Trời không thể chấp nhận điều này, vì vậy, Ngài cho phép người Ba-by-lôn phá hủy thành và đền thờ. Thi 74:1-23 bày tỏ sự đau lòng của A-sáp.
Ngay cả trong hiện nay, ma quỷ vẫn đang phá hủy công việc Chúa. “Chúng trông giống như những kẻ giơ rìu lên giữa cây cối rậm rạp kia” (c.5). Dân sự Chúa có thể làm gì? Xin lưu ý điều A-sáp nói về dân sự Chúa. Chúng ta là bầy chiên của đồng cỏ Ngài (c.1). Ngài là Đấng Chăn Chiên hiền lành, và Ngài đã ban sự sống mình cho bầy chiên. Ai bảo vệ bầy chiên chống lại đội quân Ba-by-lôn? Đó là Đức Chúa Giê-xu, Đấng Chăn Chiên.
Chúng ta là những thành viên của hội chúng thuộc về Chúa. “Xin hãy nhớ lại hội chúng thuộc về Chúa mà Ngài đã mua từ rất lâu, là chi phái được hưởng phần cơ nghiệp Chúa mà Ngài đã chuộc” (c.2). Chúng ta là những người được Chúa mua chuộc về. “Cũng hãy nhớ… núi Si-ôn, nơi Ngài đã ngự” (c.2).
Chúa hằng sống với chúng ta. Mặc dù thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ bị tàn phá, nhưng Chúa còn có nhiều thứ vĩ đại hơn nữa đã được sắm sẵn. Chúa Giê-xu đến thế gian bày tỏ vinh quang của Đức Chúa Trời ra. Hiện giờ, Ngài đang xây một đền thờ mới, là Hội thánh Ngài, và nó không bao giờ bị huỷ diệt cả.
• Chúa là niềm hy vọng của bạn.
Nếu bạn tin cậy Ngài, thì bạn sẽ ưa thích vâng lời Ngài. Bạn hãy cẩn thận kẻo đặt nhầm đức tin mình vào những điều giả trá ở đời này. Ma quỷ sẽ làm mọi thứ để có thể làm lệch hướng đức tin của bạn đặt nơi Chúa. Hãy giữ vững đức tin nơi Ngài và vui mừng vì Ngài không hề hư mất bao giờ.
2. Một kỳ đen tối (Thi 74:12-23)
“Vì Chúa là Vua của con từ ngàn xưa, đang thực hiện công việc cứu rỗi giữa thế gian này” (c.12). A-sáp viết những câu trên sau khi chứng kiến cảnh đổ nát của Giê-ru-sa-lem và đền thờ do người Ba-by-lôn gây ra. Trong câu 1-11, ông đưa mắt nhìn quanh và thấy những cảnh hoang tàn sẽ lưu dấu mãi mãi. Ông nhìn thấy quân thù đã phá hủy nơi Thánh của Chúa.
Người Ba-by-lôn đã hạ cờ xí của Ngài xuống và giương ngọn cờ của họ lên. Tất cả vẻ đẹp sự nguy nga tráng lệ của thành Giê-ru-sa-lem đã bị hủy hoại trong khói lửa. Lúc nào bạn nhìn quanh và thấy quyền lực huỷ diệt của ma quỷ, thì hãy nhớ rằng: “Chúa là Vua của con từ ngàn xưa, đang thực hiện công việc cứu rỗi giữa thế gian” (c.12).
Trong câu 12, A-sáp thôi không nhìn quanh nữa mà nhìn lên. Ông nhận ra một điều Chúa đang ngự trên ngai. Vào những lúc chúng ta kêu cầu: “Chúa ôi! Cho đến chừng nào? Còn bao lâu nữa? Tại sao những việc này lại xảy ra? Tại sao Ngài không hành động?”, thì bạn nên biết lý do Chúa cho phép người Ba-by-lôn phá hủy thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ: vì những nhà lãnh đạo dân sự về phương diện thuộc linh đã dẫn dân sự vào lối sống thờ cúng thần tượng và nói lời phạm thượng do đó Ngài sửa phạt họ. A-sáp ngước nhìn lên và nói: “Chúa là Vua. Ngài chẳng hề hư mất bao giờ, và Ngài đang thực hiện công việc cứu rỗi. Ma quỷ hiện đang ra tay hủy hoại, nhưng Chúa là Vua và Ngài đang thực hiện công việc cứu rỗi giữa thế gian này”.
A-sáp cũng nhận được sự khích lệ thứ ba. Ông nhớ lại những gì Chúa đã làm trong quá khứ (c.13-23). Đức Chúa Trời rẽ Biển Đỏ, đập tan quân thù khi chúng tấn công dân sự Ngài. Rồi Ngài dẫn dân sự vượt qua đồng vắng. Ngài mở miệng đá và chu cấp nước uống cho họ. Ngài làm cho các dòng sông cạn khô.Tôi rất thích câu Thi 16: “Ngày thuộc về Chúa, đêm cũng vậy”.
Chúng ta thích ngày nhưng không thích đêm. Xin hãy nhớ cho, Chúa cai trị cả đêm lẫn ngày. A-sáp đang phải trải qua thời kỳ đen tối trong tâm hồn ông khi ông thấy mọi thứ quanh mình tan tành, vụn vỡ. Và ông có giải pháp gì? Đó là tin cậy Chúa. “Vì Chúa là Vua của con từ ngàn xưa, đang thực hiện công việc cứu rỗi giữa thế gian” (c.12).
Có phải ma quỷ đang thực hiện công việc hủy diệt của nó trên đời sống bạn chăng? Hãy nắm lấy những sự khích lệ trong đoạn Thi-thiên này: Chúa đang ngự trên ngai. Ngài đang vùa giúp để giải cứu bạn. Và Ngài rất thành tín hành động như Ngài đã từng hành động trong quá khứ. Hãy khởi sự bằng việc thừa nhận sự tể trị của Chúa trên đời sống bạn. Cầu xin Ngài giúp đỡ bạn, khích lệ bạn đặt đức tin mình nơi Ngài.
75. AI ĐÃ ĐẶT ĐỂ BẠN, Ở ĐÓ! (Thi 75:1-10)
Lúc bấy giờ, dân sự Chúa đã tự đề cao họ và chỉ lo quan tâm đến “địa vị” họ mà thôi. Chúng ta đọc câu Thi 7: “Nhưng Chúa là Đấng phán-xét, Ngài có quyền hạ người này xuống và tôn cao người khác lên”.
Câu Kinh Thánh này quở trách sự kiêu ngạo của chúng ta. Ai là Đấng cho phép con người có mặt nơi họ đang ở? Là Chúa. Giăng Báp-tít đã nói “Loài người sẽ chẳng nhận được trừ khi có mọi thứ từ trời được ban xuống cho họ” (Gi 3:27). Phi-e-rơ thì ghi lại rằng: “Vậy, hễ anh em tự hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức Chúa Trời thì khi có thì giờ thuận tiện Ngài sẽ tôn cao anh em lên” (IPhi 5:6).
Ai là Đấng nhấc con người ở những vị trí của hàng lãnh đạo? Là Chúa. Ai là Đấng phế truất con người khỏi những địa vị nào đó? Là Chúa. Ai là Đấng đủ khôn ngoan thông biết được thời khắc để thực hiện những việc này? Là Chúa. Thế mà chẳng có ai lại nghĩ rằng anh ta đang có mặt trong một địa vị nào đó là vì Chúa cần anh ta.
Chúng ta hãy nhận ra rằng chúng ta ở tại nơi chúng ta đang ở bởi vì Chúa đặt để chúng ta ở đó. Ở đây, câu 7 không chỉ quở trách sự kiêu ngạo của chúng ta, mà nó còn khích lệ lòng kiên nhẫn của chúng ta nữa. Hãy nghĩ về Giô-sép. Ông đợi chờ Chúa hạ kẻ thù của ông xuống và nhấc ông lên, đặt ông vào vị trí mà ông tưởng đến! Hãy ngẫm nghĩ Môi-se và Nê-hê-mi. Ồ! Chúng ta cần phải kiên nhẫn biết bao! Đôi khi Chúa cho phép dân sự Ngài phải sống dưới một chế độ chuyên chế tàn bạo của những nhà lãnh đạo xấu xa hoặc của nhà độc tài ngoại bang. Tương tự như Ngài đã làm trong thời Cựu-ước. Ngài hiện đang cho phép chúng ta trải qua những hoàn cảnh khó khăn để đập vỡ ý riêng của chúng ta và khiến chúng ta ngày càng trở nên giống Ngài hơn.
Thi 75:7 đã giúp làm giảm áp lực trong cuộc sống chúng ta. Có phải bạn đang ở trong một vị trí lãnh đạo? Chính Chúa đặt để bạn ở vị trí ấy. Và bởi vì Chúa đặt để bạn ở đó nên Ngài cứ giữ bạn ở mãi đó cho đến chừng nào Ngài muốn. Ngài sẽ đại dụng bạn theo cách Ngài chọn. Hãy cẩn thận đối với sự kiêu ngạo. Khi nào chúng ta trở nên tự cao, ngạo mạn nghĩ rằng mình có tất cả mọi lời giải đáp, thì Chúa sẽ bảo: “Đã đến lúc ta gọi ngươi xuống rồi”. Nhưng nếu chúng ta tự hạ mình xuống thì Ngài sẽ tôn cao chúng ta lên. Nếu chúng ta khiêm nhường tự hạ mình xuống dưới Ngài thì tay ấy sẽ chuyển sang nâng chúng ta lên cao. “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, bạn ơn cho kẻ khiêm nhường” (IPhi 5:5).
Có bao giờ bạn phải sống khổ sở bởi vì bạn ở dưới các nhà lãnh đạo xấu xa tại nơi sở làm hoặc tại Hội thánh của bạn chưa? Có phải ở đó người ta đã đưa ra nhiều quyết định không ra gì phải không? Hãy trao gánh nặng của bạn cho Chúa và nói cho Ngài biết về việc ấy. Cũng hãy cầu xin Chúa ban cho bạn sức lực để tiếp tục sống và luôn nhớ rằng Ngài là Đấng phán xét.
76. SỰ TÔN KÍNH THÍCH ĐÁNG (Thi 76:1-12)
Chúng ta đọc và nghe về tình yêu thương của Chúa quá nhiều đến nỗi lắm lúc chúng ta quên bẵng sự kính sợ Ngài. “Lạy Chúa! Chính mình Chúa thật đáng sợ. Hễ khi Ngài nỗi cơn thịnh nộ thì có ai đứng nỗi trước mặt Ngài?” (c.7).
A-sáp đề cập đến sự kính sợ ai? Đó là sự kính sợ Chúa, chúng ta phải tỏ lòng tôn kính Ngài vì sự vĩ đại và quyền năng Ngài. Chúng ta là con cái Chúa, Đức Thánh Linh luôn ngự trong lòng chúng ta khiến chúng ta có thể gọi Ngài “A-ba là Cha”. Chúng ta thường cầu nguyện: “Lạy Cha, chúng con ở trên trời”.
Chúng ta có thể đến gần Chúa và Ngài sẽ đến gần chúng ta. Nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng Chúa luôn là Đức Chúa Trời, còn chúng ta chỉ là những con người mà thôi. Ngài ở trên trời còn chúng ta ở dưới đất. Ngài còn đến đời đời, và một ngày nào đó chúng ta sẽ được ở với Ngài trong Thiên đàng. Còn sự tồn tại của chúng ta hiện ở trần gian này chỉ tạm thời mà thôi.
Sự kính sợ Chúa không giống nỗi kinh hãi của một tên tù trước quan tòa. Đó cũng chẳng phải là sự khúm núm, sợ sệt của tên đầy tớ trước ông chủ mình, nhưng là sự tôn kính của một đứa con được bày tỏ ra khi nhận thức thấu đáo về sự vĩ đại và vinh quang của Chúa. Chúng ta kính sợ Chúa vì Ngài quá vĩ đại. “Ngài nổi tiếng trong Giu-đa, và danh Ngài thật vĩ đại trong Y-sơ-ra-ên” (c.1). Ồ! Ngài có danh vĩ đại biết bao! Nhưng thật đáng buồn làm sao, khi con người thế gian đã khinh thị danh Ngài. Chúng ta kính sợ Chúa vì Ngài rất vinh hiển, uy nghi. “Ngài chói lọi, vinh quang rất tuyệt vời hơn cả của cải cướp giựt được chất hàng đống cao như núi” (c.4).
Chúng ta còn phải kính sợ Chúa vì cớ Ngài là Đấng Hằng Hữu và về những điều Ngài đã làm. “Hỡi Đức Chúa Trời của Gia-cốp, khi Ngài quở trách thì cả xe lẫn ngựa đều rơi vào giấc ngủ mà như chết” (c.6). Vậy, kết quả của sự kính sợ Chúa là gì? Chúa sẽ chỉ huy trận đánh của chúng ta. Ngài luôn đi trước những ai kính sợ Ngài. Chúng ta có thể đứng trước Ngài bởi vì Chúa Giê-xu đã can thiệp giúp chúng ta. Đức Chúa Trời sẽ không nổi cơn thịnh nộ vì cớ tội lỗi chúng ta. Chúa Giê-xu đã chịu trách nhiệm về tội lỗi chúng ta rồi. Chúng ta hãy kính sợ Chúa, Ngài sẽ chỉ huy trận đánh của chúng ta vì cớ chúng ta.
Đức Chúa Trời rất xứng đáng với sự tôn kính của bạn. Và bạn có nhiều lý do để tôn kính Ngài. Bạn có dâng cho Ngài sự tôn kính thích đáng không? Hãy dành thì giờ suy gẫm vì Chúa là Đấng Hằng Hữu và về những gì Ngài đã làm cho bạn. Hãy bước vào sự hiện diện của Chúa và thờ phượng Ngài. “Kính sợ Chúa là khởi đầu của sự khôn ngoan” (Ch 9:1)
77. THI-THIÊN (Thi 77:1-20)
1. Những cuộc trò ghuyện trong đêm (Thi 77:1-6)
Không phải chỉ khi nào chúng ta ở giữa đêm đen thì mới có bóng tối bao quanh chúng ta, nhưng đôi lúc bóng tối ở ngay trong lòng chúng ta. Khi sự ngã lòng ập đến, chúng ta sẽ giống như A-sáp, là người đã nói rằng: “Tay tôi đưa ra trong đêm không hề mỏi, và linh hồn từ chối được an ủi” (c.2). Cũng có một vài bản dịch là “Vết thương lòng tôi đang nhói đau trong đêm”. Bạn sẽ làm gì khi tâm hồn bạn từ chối được an ủi?
A-sáp đã nói cho chúng ta biết cần phải làm những gì.
-Thứ nhất, hãy thưa chuyện với Chúa. “Tôi lấy giọng mình kêu cầu Chúa, hướng tiếng kêu cầu của tôi về Chúa và Ngài đã nghe tôi” (c.1). Có người gợi ý rằng khi nào bạn không ngủ được trong đêm, thay vì bạn đếm chiên thì nên thưa chuyện với Đấng Chăn Chiên.
Và đó là điều A-sáp đã làm. Có đôi khi việc đến với Chúa lại rất đớn đau, nhức nhối. “Tôi nhớ đến Chúa thì bối rối, lo ngại” (c.3). Ông nhớ gì về Chúa khiến ông bối rối? Có lẽ ông bất tuân một mạng lệnh nào đó hoặc nghi ngờ lời hứa của Ngài. Cũng có lẽ ông nhận ra Chúa thánh khiết biết bao, còn ông thì tội lỗi ra sao.
Tuy nhiên, việc nói chuyện với Chúa cũng đem lại sự bảo đảm một lần nữa. “Tôi ngẫm nghĩ về những ngày xưa, những năm xa vắng” (c.5). Mặt khác, Chúa có thể được tin cậy. Ngài lo lắng cho bạn trong quá khứ, và Ngài cũng sẽ chăm sóc bạn trong tương lai.
-Thứ hai, bạn hãy tự nói chuyện với mình.
“Tôi ngẫm nghĩ trong lòng, tâm linh tôi đang thực hiện một cuộc tìm kiếm kỹ càng” (c.6). Bạn hãy tự trò chuyện với chính mình về Chúa. Hãy kiểm tra đời sống bạn và bước đi của con người Cơ-đốc của bạn. Sự thất vọng, nản lòng của bạn sẽ được thay thế bằng một bài ca. “Tôi sẽ hồi tưởng lại bài ca của tôi trong đêm” (c.6)
Khi nào bạn cảm thấy nản lòng, thì hãy mau rời mắt bạn khỏi những hoàn cảnh và nhìn xem Chúa. Đồng thời, bạn hãy kiểm tra đời sống mình. Bạn có bất tuân với Chúa không? Hãy thưa chuyện với Ngài và để Ngài khích lệ bạn. Sau đó, bạn nên trò chuyện với chính mình và tự khích lệ mình bằng những gì do Chúa đã làm cho bạn. Ngài sẽ ban cho bạn một bài ca trong đêm.
2. Những câu hỏi không được trả lời (Thi 77:7-10)
Hỏi những câu hỏi thì dễ hơn nhiều so với việc trả lời chúng. Nếu bạn có con cái hoặc cháu chắt, bạn sẽ biết điều này thật đúng như thế nào. Những câu sau đây chứa đựng một loạt câu hỏi của một người nản lòng: “Chúa sẽ lìa bỏ chúng con mãi mãi phải không? Sự nhân từ Ngài sẽ không còn đời đời nữa ư?”
Và Ngài sẽ chẳng còn làm ơn nữa chăng? Lời hứa của Ngài sẽ bị hư mất vĩnh viễn hay sao? Ngài quên tỏ lòng nhân từ rồi chăng? “Trong cơn thạnh nộ, Ngài há khép lại lòng thương xót của Ngài ư?” (c.7-9). Sau đó, ông kết luận rằng: “Đây chính là nỗi đau thương của tôi, nhưng sẽ nhớ lại những năm có tay hữu của Đấng Chí Cao” (c.10)
Thật là điều bình thường để đặt ra các câu hỏi trên khi chúng ta đang trải qua gian truân và bị đớn đau. Đa-vít đã cầu nguyện: “Đức Chúa Trời của con ôi! Đức Chúa Trời của con ôi! Sao Ngài bỏ con?” (Thi 22:1). Chúa Giê-xu cũng đã kêu lên những câu này trên thập tự giá (Mat 27:46). Khi chúng ta đang trải qua gian truân, chúng ta sẽ rất mong đợi Chúa đến giúp đỡ và giải cứu chúng ta. Nhưng khi chờ đợi sự giải cứu đó, chúng ta thường mất kiên nhẫn. Và đó là lúc các câu hỏi xuất hiện.
Đừng sợ hãi khi phải mở miệng và tỏ lòng thành thật với Ngài. Hãy nói cho Ngài biết bạn cảm thấy thế nào và bạn đang nghĩ gì. Ngài ưa thích tình cảm thành thật chứ không phải giả hình của bạn. Xin bạn lưu ý điều này: Là Cơ-đốc nhân, chúng ta sống không phải nhờ vào những lời thanh minh biện hộ mà nhờ vào những lời hứa. Giả sử Chúa bắt đầu trả lời những câu như sau: Chúa sẽ lìa bỏ chúng con mãi mãi chứ?
–Không bao giờ. Ngài sẽ không làm ơn nữa chăng? – Dĩ nhiên, Ngài vẫn sẽ còn làm ơn. Và Ngài hoàn toàn hết thương xót chúng con rồi sao? Không phải vậy. Nếu Chúa đáp lời tất cả các câu hỏi trên, thì liệu việc ấy có đem lại điều gì khác không? Có thể nó chỉ xoa diệu tinh thần bạn một chút thôi, nhưng rồi nó cũng chẳng thực sự làm thay đổi hoàn cảnh bạn. Hãy sống bằng đức tin chứ không phải bằng cái nhìn. Hãy tin cậy những lời phán hứa của Chúa. Ngài không hề thay đổi.
Chẳng phải lúc nào Chúa cũng đem đến cho bạn lời giải thích nguyên nhân các gian truân của bạn, nhưng Ngài luôn luôn ban cho bạn những lời hứa trong Thánh Kinh. Hễ khi nào bạn nhận thấy mình nản lòng, thì bạn hãy cầu nguyện đặt những câu hỏi với Chúa và tỏ cho Ngài biết mối quan tâm của bạn. Sau đó, bạn hãy nhờ cậy vào các lời hứa của Lời Ngài. Chúa biết bạn cần gì và Ngài sẽ đáp ứng cho bạn.
3. Thánh khiết và được giấu kín (Thi 77:11-20)
A-sáp từ chối được an ủi. Ông đặt nhiều câu hỏi với Chúa. Vào lúc thất vọng, chán nản, ông lại đưa ra hai kết luận rất tuyệt vời.
-Thứ nhất “Chúa ơi! Con đường Chúa ở trong nơi thánh. Có ai quá vĩ đại như Chúa là Đức Chúa Trời của chúng con không?” (c.13).
-Thứ hai, “Con đường Chúa ở trên biển, các lối Chúa ở trong những dòng nước lớn và chẳng ai biết được dấu bước chân Ngài” (c.19).
Thật là một cái cách biểu lộ đức tin lạ lùng biết bao! A-sáp nói cho chúng ta biết rằng con đường Chúa ở trong nơi thánh. Đó là con đường thánh hoá và thánh khiết. Chúa dẫn chúng ta vào trong ân điển rồi từ đó Ngài lại đưa chúng ta đến với sự vinh hiển. Ngài không hề sai lầm – Cho nên, con đường Ngài là con đường tốt nhất và mãi mãi như vậy.
Nếu bạn sống trong nơi Chí Thánh, bạn sẽ có thể khám phá ra con đường của Chúa. Nếu bạn ở trong Lời Thánh của Ngài, thì bạn sẽ có bước đi thánh khiết với Ngài.
-Thứ ba, con đường Chúa ở trên biển.
Đó là con đường được giấu kín. Chúng ta không thể hiểu hết tất cả mọi sự chỉ dẫn của Chúa, nhưng chúng ta có thể biết điều này: Chúa đang chỉ dẫn. A-sáp nói: “Chúa nhờ tay Môi-se và A-rôn dẫn dắt dân sự Ngài như dẫn dắt bầy chiên” (c.20). Con đường Ngài ở trên biển, và nếu Ngài muốn Ngài sẽ rẽ biển ra cho bạn. Nếu cần thiết, Ngài sẽ giúp bạn bước đi trên mặt nước. Tuy nhiên, tác giả đoạn Thi-thiên này đã đưa ra kết luận đúng đắn. Con đường của Chúa rất thánh khiết. Vì thế, chúng ta hãy vâng lời Ngài. Con đường Ngài là con đường được giấu kín, nên chúng ta hãy tin cậy Ngài.
Có lẽ hiện giờ bạn đang trải qua gian truân nào đó và đang hỏi Chúa rất nhiều câu hỏi - Tại sao? Thế nào? Khi nào? Bao lâu? Và đó cũng là những câu hỏi mà A-sáp đã hỏi. Hãy để Chúa đem bạn đến gần chính Ngài bằng việc bạn bước đi theo sự dẫn dắt của Ngài.
78. THI-THIÊN (Thi 78:1-72)
1. Những người phụng sự cho ngày mai (Thi 78:1-8)
Chúng ta phải có trách nhiệm với thế hệ mai sau. Tác giả đoạn Thi-thiên này viết: “Chúng ta sẽ chẳng giấu diếm con cái họ những điều ấy, nhưng sẽ bảo con cháu họ hãy đến ngợi khen Chúa, và thuật cho chúng biết sức lực với các công việc lạ lùng của Ngài mà Ngài đã làm” (c.4).
Tại sao chúng ta phải chia sẻ Lời Chúa cho thế hệ mai sau? “Hầu cho họ đặt lòng hy vọng nơi Ngài, không hề quên các công việc Ngài, song gìn giữ các mạng lệnh Ngài” (c.7). Đó chính là sự chuẩn bị tương lai cho họ, bởi vì niềm hy vọng của họ được hướng về tương lai. Cơ-đốc nhân được tái sinh, bước vào niềm hy vọng sống nhờ sự sống lại của Chúa Giê-xu.
Chúng ta biết rằng Chúa chúng ta sắp trở lại đem chúng ta về nhà Ngài trên thiên đàng. Hiện nay, có quá nhiều người của thế hệ trẻ đang đặt hy vọng của họ vào tiền bạc vào chính quyền hoặc vào tài năng của họ.
-Vì vậy, chúng ta cần chia sẻ ơn phước Chúa cho thế hệ mai sau để giúp họ đặt niềm hy vọng nơi Ngài.
-Thứ hai, chúng ta muốn thế hệ mai sau luôn nhớ đến các công việc Chúa. Thật dễ biết bao để quên đi những gì Ngài đã làm cho chúng ta! Tuy nhiên nếu chúng ta thường xuyên nhắc nhớ thế hệ sau, thì cũng sẽ luôn nhớ. Những ai quên quá khứ thì họ ắt sẽ lặp lại các lỗi lầm mà họ đã từng sai phạm trong quá khứ.
-Cuối cùng, chúng ta hãy chia sẻ những gì thuộc về Đức Chúa Trời cho thế hệ trẻ để họ vâng giữ các mạng lệnh Ngài. Tác giả đoạn Thi-thiên không đề cập đến một nếp sống chú trọng hình thức. Ông đang nói về một sự vâng lời với lòng yêu mến đối với Chúa. Vâng, chúng ta sống phải có trách nhiệm với thế hệ mới, và chúng ta hãy thể hiện trách nhiệm ấy một cách thực tiễn qua việc làm những người gương mẫu, dạy dỗ, chia sẻ và khích lệ.
Chúa đã ủy thác cho bạn sản nghiệp dành cho người Cơ-đốc. Khi nào bạn chia sẻ Lời Chúa và các công việc Ngài cho thế hệ mai sau, thì bạn nhớ dạy họ những bài học quý báu về cách thức Chúa vẫn tiếp tục hành động trong cuộc sống dân sự Ngài. Hãy cố gắng làm một tấm gương khích lệ thế hệ sau vâng lời Chúa.
2. Hãy luôn trung tín (Thi 78:9-20)
Thi 78:1-72 đề cập đến việc con cháu Ép-ra-im bội ước với Chúa. Họ cũng bội ước với những người Y-sơ-ra-ên đồng sự của họ khi mà sự giúp đỡ của họ thật rất cần thiết đối với người Y-sơ-ra-ên lúc bấy giờ. “Con cháu Ép-ra-im cầm binh khí và giương cung, họ quay lưng lại trong ngày chiến trận. Họ không giữ giao-ước với Chúa, họ từ chối bước đi theo luật lệ Ngài, và quên các công việc và công tác lạ lùng của Ngài mà Ngài đã tỏ cho họ thấy” (c.9-11).
Thật là một thảm kịch khi người ta bội ước trong trận chiến của họ. Chúa Giê-xu cảnh cáo về những kẻ nào ngoái nhìn lại đằng sau và không thực hiện ý muốn Chúa (Lu 9:62). Nếu chúng ta ngoái nhìn lại đằng sau, thì chúng ta sẽ không thể nào cầm cày, cày tới phía trước được. Và nếu chúng ta nhìn lại phía sau, thì chúng ta sẽ không thể nào chiến đấu nổi khi chúng ta buộc phải chiến đấu. Vâng, có một chiến trường thuộc linh đang tiếp diễn, và chúng ta cần có người đánh trận. Nhưng, điều gì đó sai lạc xảy ra với những chiến sĩ Ép-ra-im. Họ đã không trung thành. Mặc dù tay cầm binh khí, thế mà họ đã quay lưng lại trong ngày chiến trận.
• Bước đi của họ sai trật.
“Họ không giữ giao-ước với Chúa, họ từ chối bước đi theo luật lệ Chúa” (c.10). Đó chính là khởi đầu của mọi thất bại. Chúa muốn họ bước đi theo luật lệ Chúa để Ngài có thể giúp họ chiến thắng trong trận chiến, nhưng họ đã không vâng lời Ngài.
Cuối cùng, họ quên những gì Chúa đã làm cho họ. “Và quên công việc với những công tác lạ lùng của Ngài mà Ngài đã từng tỏ cho họ thấy” (c.11). Có thể nào bạn lại mau quên một phép lạ nào đó? Nếu có một phép lạ xảy ra trong đời sống bạn hiện nay, thì ắt bạn sẽ cứ nhắc đến nó hoài cho đến ngày Chúa gọi bạn về nhà Ngài. Bạn có thể làm một cuộc họp báo để nói về phép lạ này! Hãy nghĩ về những phép lạ Chúa từng làm cho dân sự. Thế nhưng, họ đã quên các phép lạ ấy. Người Ép-ra-im không thể cậy trông vào chiến trận của họ được bởi vì họ đã quên những điều Chúa từng làm cho họ. Họ quay lại chống nghịch luật pháp của Chúa, và họ đã xây khỏi các công tác Ngài. Hậu quả là, họ chẳng còn có ích cho công việc Ngài.
Tính phản bội thường phổ biến trong thiên hạ. Nhưng đối với Chúa thì không phải như vậy. Sự thành tín là một phần tính cách của Chúa. Lẽ thật này có thể khích lệ bạn nếu bạn nhận biết Chúa. Hãy trung tín bước đi với Ngài. Hãy luôn nhớ đến các công việc Ngài và làm người lính trung thành có mặt trên trận chiến cho Ngài.
3. Sự hư không và nỗi sợ hãi (Thi 78:21-33)
Lịch sử Y-sơ-ra-ên trong thời Cựu-ước thực sự là lịch sử của tất cả Cơ-đốc nhân. Tương tự người Y-sơ-ra-ên, chúng ta đã được cứu chuộc nhờ huyết Chiên Con. Và giống như dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta đang tiến về Miền Đất Hứa.
Bạn cần thứ gì nhất cho cuộc hành trình từ thế gian đi về thiên đàng. Có phải tình yêu chăng? Đúng vậy, đó là thứ quan trọng. Có phải hy vọng chăng? Đó cũng là yếu tố quan trọng. Nhưng theo tôi thì đức tin là thứ cần nhất. Có một điều bạn phải làm đó là tin cậy Chúa. Đó chính là vấn đề tác giả đề cập đến trong đoạn sách này.
Thiên hạ sẽ không tin Chúa và tiếp tục phạm tội. Chúng ta thấy hậu quả được ghi trong c.Thi 33: “Vì cớ ấy, Chúa làm cho các ngày của họ tan ra hư không, và Ngài dùng sự kinh khiếp làm tiêu nát các năm của họ”. Khi người Y-sơ-ra-ên đi đến bờ rìa miền đất hứa, họ lại chối từ, không chịu bước vào. Họ không muốn nhờ Chúa dẫn đường nữa. Vì thế, họ đã phải đi lang thang gần 40 năm trong sự vô ích, hư không, lại phải luôn vật lộn với nan đề này đến nan đề khác.
Thật đáng buồn thay, có nhiều người trong dân sự Chúa lại là những người đứng cửa giữa – Họ sống ở khoảng giữa của xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an. Họ đã được giải phóng khỏi ách nô lệ nhờ huyết Chiên Con, nhưng họ sẽ không bao giờ được vào vùng đất vốn được làm sản nghiệp cho họ. Họ sống ở giữa khoảng thời gian của Thương khó và lễ Phục sinh. Họ tin rằng Chúa Giê-xu đã chịu chết trên thập tự giá, nhưng họ lại không sống trong quyền năng Phục sinh của Ngài.
Đừng làm người sống nửa vời. Hãy suy gẫm xem Chúa đã ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên ra sao. Ngài ban cho họ bánh ma-na và chim cút để làm thức ăn. Ngài còn cho họ nước uống. Và chúng ta cũng hãy ngẫm nghĩ xem Chúa đã sửa phạt họ vì cớ vô tín của họ thế nào. Tuy nhiên, với lòng kiên nhẫn, cuối cùng, Ngài đã đưa họ vượt qua mọi gian lao nguy hiểm. Chúng ta cũng giống dân Y-sơ-ra-ên. Điều cần thiết nhất của chúng ta chính là tin cậy Chúa. Chúng ta sống không phải nhờ lời biện hộ giải thích, nhưng nhờ những lời hứa. Ngày hôm nay, khi nào bạn nghe tiếng Ngài, thì chớ cứng lòng.
Lòng vô tín thường đưa đến sự hư không và sợ hãi. Có lẽ, bạn hiện đang là “người sống nửa vời” từ chối nhờ cậy sự dẫn dắt của Chúa. Khi dân Y-sơ-ra-ên tin cậy vào các lời phán hứa của Chúa, thì Ngài đã ban phước cho họ.
Hãy hy vọng nơi Ngài, vâng lời Ngài và tin Ngài, rồi phước hạnh của Ngài sẽ đến!
4. Sự nịnh hót thường đưa bạn đến với hư không (Thi 78:34-39)
Lời nịnh hót không phải để giao tiếp mà chỉ nhằm gây ảnh hưởng. Chúng ta nịnh người khác bởi vì chúng ta muốn điều gì đó ở họ. Nịnh hót con người đã là điều xấu, nịnh hót Chúa là điều càng tồi tệ hơn biết bao. “Thậm chí, chúng nó lấy miệng nịnh hót Ngài, dùng lưỡi mình dối gạt Ngài, vì lòng chúng nó không kiên định với Ngài và không giữ lòng trung tín với giao ước Ngài” (c.36, 37).
Chúng ta thường nịnh hót Chúa như thế nào?
-Thứ nhất, ấy là khi chúng ta ngợi khen Chúa không thật lòng. Thật dễ để đứng trong nhà thờ hát những bản thánh ca ngợi khen Chúa nhưng tâm trí và lòng dạ chúng ta lại để đâu đâu. Như vậy, chúng ta chỉ là đang kinh nghiệm một hình thức lễ nghi tôn giáo rỗng tuếch mà thôi. Chúng ta còn nịnh hót Chúa khi chúng ta hứa nguyện với Ngài nhưng lại không chú tâm giữ lời hứa ấy. Có lúc chúng ta đã làm như vậy trong sự cầu nguyện của mình.
Chúng ta cũng nịnh hót Chúa bằng cách thứ ba là khi chúng ta cầu nguyện với Chúa nhưng lại không thực sự tìm kiếm ý muốn Ngài. Thật dễ cho chúng ta để cầu nguyện theo thói quen và hứa hẹn nhiều điều. “Kính lạy Chúa yêu thương! Hôm nay, con sẽ làm chứng cho Ngài”, hoặc “Lạy Chúa, hôm nay con sẽ đọc Kinh Thánh” hoặc là “Chúa ôi! Hôm nay con sẽ không đầu hàng cám dỗ”.
Thế nhưng, thật tâm, chúng ta chẳng mảy may thực hiện những sự hứa hẹn đó chút nào. Chúng ta dối Chúa. Dân Y-sơ-ra-ên cũng thường dối Chúa như vậy. Họ dâng của lễ cho Chúa với hy vọng mua lấy ơn phước của Ngài. Họ cử hành những nghi thức tôn giáo và thờ phượng theo thói quen, hy vọng rằng Ngài sẽ giải cứu họ bằng cách nào đó. Họ nịnh hót Chúa – còn lòng dạ họ lại không ngay thẳng với Ngài.
Thế nào là một tấm lòng ngay thẳng đối với Chúa? Đó là: chúng ta phải thật thà, không xảo trá với Chúa. Chúng ta phải chân thành, không giả dối. Chúng ta phải nói cho Chúa biết ngay chúng ta cảm thấy thế nào và thuật lại thật chính xác với Ngài về những gì chúng ta đang trải qua. Đó là điều Chúa muốn, Ngài muốn chúng ta bước đi trong ánh sáng vì Ngài là sự sáng (IGi 1:7), đừng cố gắng che đậy hoặc bào chữa cho tội lỗi bạn, nhưng hãy xưng nó ra. Để có tấm lòng ngay thẳng với Chúa, chúng ta không được nịnh hót Ngài nữa và phải luôn tương giao với Chúa trong sự thành thật.
Chúa muốn bạn không xảo trá, nhưng hãy thành thật với Ngài. Đừng bao giờ dùng sự giả dối, giả hình hoặc sự lừa gạt để nịnh hót Ngài.Có một cách giúp bạn thành thật trong sự tương giao với Chúa là: hãy giữ lòng mình trong sạch. Bạn cũng hãy xưng tội lỗi mình ra thay vì che đậy nó. Ngài biết rõ tấm lòng bạn, vì thế, Ngài sẽ tin lời cầu nguyện của bạn.
5. Ký ức có tì vết (Thi 78:40-53)
Càng về già, chúng ta lại càng mau quên. Điều này hoàn toàn đúng trong mối tương giao của chúng ta với Chúa.
Dân Y-sơ-ra-ên thường nhớ đến những điều mà đáng lý ra họ phải quên đi, và họ lại quên những điều mà lẽ ra họ nên nhớ! “Họ không nhớ quyền năng Ngài, họ quên cả cái ngày Ngài đã giải cứu họ khỏi kẻ thù, khi Ngài bày tỏ các dấu lạ của Ngài tại xứ Ê-díp-tô, và các công việc lạ lùng của Ngài trong cánh đồng Xô-an” (c.42,43).
Thật đáng kinh ngạc biết bao! Người Do-thái đã từng chứng kiến Đức Chúa Trời thay mặt họ làm 10 phép lạ tại Ê-díp-tô. Thậm chí, Môi-se nói rõ rằng đó là do tay Chúa làm, tuy nhiên, họ đã quên tất cả những việc ấy. Sau khi họ được Chúa giải cứu ra khỏi xứ Ê-díp-tô và đi vào sống trong đồng vắng thì lần khát nước đầu tiên họ đã lằm bằm, họ cũng trách mắng khi lần đầu tiên họ đói.
Họ thường xuyên kêu la: “chúng ta hãy quay về”. Họ nhớ về những gì ở Ê-díp-tô? Ách nô lệ chăng? Về những người quản đốc chăng, hay là về việc bị đánh đập bằng roi vọt? Về việc phải mang vác những gánh nặng ê chề? Họ quên hết những điều này. Thế nhưng, họ lại nhớ đến những dưa kiệu, củ hạnh, củ tỏi và dưa chuột. Họ nhớ đến những thứ đã làm thoả mãn bao tử họ. Họ quên khuấy những chiến thắng thuộc linh mà Chúa đã ban cho họ, họ quên cả sự giải cứu và sự dẫn dắt của Ngài. Ngài từng nuôi nấng họ và dẫn đường họ, bảo vệ, che chở họ và tiếp trợ cho họ. Vậy mà, họ đã quên tất. Điều này cũng thường đúng đối với chúng ta. Chúng ta quên những gì Chúa đã làm cho chúng ta, và khi chúng ta quên, chúng ta lại bắt đầu đi thụt lùi.
• Tính hay quên thường đem lại nhiều hậu quả.
“Vâng, chúng cứ thử Đức Chúa Trời và giới hạn Ngài là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên” (c.41). Hãy tưởng tượng xem kẻ vô tín, yếu đuối lại đi giới hạn Đức Chúa Trời quyền năng! Nhưng đó cũng chính là điều hay xảy ra khi chúng ta quên Ngài. Ngày hôm nay, đừng giới hạn Chúa trong cuộc sống chúng ta. Ngài là Đấng khôn ngoan vô cùng, có quyền năng vô biên, và cuộc sống chúng ta có một tiềm lực vô hạn trong tay Ngài. Đừng quay lưng. Hãy nhìn về phía trước. Chớ thử Ngài. Nhưng hãy tin cậy Ngài và nhớ đến lòng thương xót của Ngài.
Đức Chúa Trời đã từng thực hiện hết phép lạ này đến phép lạ khác cho dân Y-sơ-ra-ên, hiện Ngài cũng chính là Đấng đang làm điều như thế vì cớ bạn. Đừng sống với một ký ức có tì vết. Nhưng hãy suy gẫm về sự thành tín và lòng nhân từ của Chúa.
6. Sự thử Chúa (Thi 78:54-64)
Chỉ có một hướng duy nhất dành cho Cơ-đốc nhân đi – về phía trước. Chúng ta không nên nghĩ lại, đừng nhìn lui và cũng chớ quay lưng lại.Chúng ta phải đi về phía trước, từ bỏ đời sống cũ và bước vào đời sống mới.
Đó là bức tranh nói về dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời giải cứu họ thoát khỏi xứ Ê-díp-tô. Ngài đem họ vào Miền Đất Hứa. Thế nhưng, khi họ đi đến đó, thì họ lại bội ước với Ngài. “Tuy nhiên, chúng nó đã thử Ngài và chọc giận Ngài là Đức Chúa Trời Chí Cao, không giữ các chứng cớ Ngài, lại quay lưng hành động bất trung như các tổ phụ mình. Họ trở hướng như cây cung bị lệch. Chúng lập các nơi cao cho chúng để khiêu khích Đức Chúa Trời nổi giận, và giục Ngài ghen tuông với các tượng chạm của họ” (c.56-58).
Họ chẳng lưu tâm chút nào đến sự vĩ đại của Đức Chúa Trời. Ngài đã đánh bại các dân tộc khác.Ngài ban cho người Do-thái nhà cửa mà họ không phải xây cất. Họ được uống nước ở các giếng mà họ không phải đào. Họ ăn trái từ những cây mà họ chưa bao giờ trồng tỉa. Họ quên lòng nhân từ Chúa, và sau đó họ đã cố tâm thử Ngài.
Bạn thường thử Chúa bằng cách nào? Đó là khi bạn cố tình bất tuân với Ngài và thách Ngài làm điều gì đó. Bạn không đang bước đi trong sự ngu dốt – bạn sẽ nhận biết được điều bạn đang làm là điều gì. Bạn mở to mắt mình ra nhưng vẫn phạm tội thì ấy là bạn đang thử Chúa. Điều này chọc giận Ngài.
Dân Y-sơ-ra-ên thậm chí đã thờ cúng hình tượng của những dân họ đã đánh bại! Ngày hôm nay, chúng ta cũng hay hành động như vậy. Thật dễ dàng biết bao cho chúng ta tôn thờ thần tượng của thế gian này, tức là tin cậy vào tiền bạc, địa vị, tức là tin cậy vào thế gian của loài người thay vì tin cậy vào Lời Chúa. Và hậu quả ra sao? “Ngài lìa bỏ đền tạm” (c.60). Đức Chúa Trời đã lìa khỏi dân sự. Ngài phán: “Nếu các con không ưa thích ta, thì ta sẽ lìa đi”. Và kết cuộc là: dân Y-sơ-ra-ên lâm vào cảnh tù đày.
Thật là một thảm kịch nếu như bạn bước vào nguồn ước phước Chúa nhưng lòng bạn đầy ích kỷ và tự mãn đến nỗi bạn quên cả Đấng đã ban phước cho bạn.
Hãy cẩn thận đừng bao giờ đặt đức tin bạn vào ơn phước Chúa hơn là đặt vào Chúa.
Hãy vui mừng về Đấng ban phước – là Đức Chúa Trời luôn ban cho và dẫn dắt bạn hơn là vui mừng về các ơn phước.
7. Từ kẻ tôi tớ trở thành người cai quản (Thi 78:65-72)
Chúng ta biết rằng Đa-vít phạm tội tà dâm và đã làm cho một người trở nên say sưa để rồi cuối cùng giết chết anh ta. Thêm một việc nữa, ông đã có lần thực hiện cuộc điều tra dân số Y-sơ-ra-ên mà bất tuân ý Chúa đem lại hậu quả: 70.000 người bị chết. Tuy thế, Đa-vít vẫn là một vĩ nhân. Đức Chúa Trời tha thứ cho ông và đại dụng ông trong một cái cách rất tuyệt vời.
• Đa-vít là người khiêm nhường.
“Ngài cũng chọn Đa-vít làm tôi tớ Ngài, và Ngài dẫn ông về từ các chuồng chiên, Ngài cũng đem ông về từ những chiên mẹ đang có chiên con nhỏ đặng chăn giữ Gia-cốp là dân sự Ngài, chăn giữ dân Y-sơ-ra-ên là cơ nghiệp Ngài” (c.70,71). Đa-vít khởi đầu như là một tôi tớ, nhưng Chúa đã làm cho ông trở thành người cai quản. Đó thường là cách thức của Chúa. Có nhiều người tự khiến họ trở thành những nhà lãnh đạo, nhưng Chúa không ban ơn phước trên họ. Đa-vít được Chúa ban phước bởi vì ông trung tín trong công việc mình.
Đó chính là điều Chúa Giê-xu đã dạy qua một ẩn dụ của Ngài. “Tốt lắm, hỡi đầy tớ trung tín và ngay lành, con đã trung tín trong việc nhỏ, nên ta sẽ khiến con trở thành người cai quản nhiều công việc khác nữa, bây giờ con hãy đến vui hưởng niềm vui của chủ con” (Mat 25:21).
Vậy, nếu bạn muốn trở thành nhà lãnh đạo, thì trước hết bạn hãy học cách trở thành người giúp việc, phụ tá. Và nếu bạn muốn làm người cai quản, thì nên học cách làm kẻ tôi tớ trước đã, và trung tín làm những việc gì Chúa giao cho.
• Đa-vít là người thanh liêm chánh trực.
“Như thế, người chăn giữ họ theo sự thanh liêm của lòng người” (c.72). Tính thanh liêm chánh trực còn mang ý nghĩa là một lòng một dạ sắc son. Ngược lại, kẻ hai lòng là kẻ không kiên định trong tất cả công việc và đường lối mình (Gia 1:8). Còn đối với Đa-vít mục đích duy nhất của ông là phục vụ và hầu việc Chúa.
• Đa-vít là người có tài năng.
Ông “đã dùng sự khôn khéo của tay mình dẫn dắt họ” (c.72). Tính thanh liêm, chánh trực thường bó buộc tấm lòng và đôi tay bạn lại với nhau. Tấm lòng bạn phụng sự Chúa thì đôi tay bạn sẽ luôn bận rộn vì cớ Ngài. Ngày hôm nay, chúng ta cần có những người như thế. Cho dù chúng ta có cống hiến nhiều đến đâu chăng nữa nhưng thiếu năng lực thì chẳng ích gì và ngược lại. Vì vậy, chúng ta cần phải có cả hai.
Đa-vít đã thể hiện những đặc điểm tính chất của một nhà cầm quyền chân chính – khiêm nhường, thanh liêm chánh trực và rất tài năng. Đó cũng là đức tin, đặc điểm đòi hỏi bạn cũng phải có để phục vụ Chúa một cách trung tín. Chúa đã đặt để bạn ở đâu để phục vụ Ngài? Bạn có phải là người lãnh đạo hay là người giúp việc trung tín chăng? Chúa sẽ thưởng cho những đầy tớ trung tín của Ngài. Bạn hãy dâng mình cho Chúa ngay hôm nay và trung tín hầu việc Ngài.
79. KHI TẤT CẢ DƯỜNG NHƯ BỊ THẤT BẠI (Thi 79:1-13)
Chúng ta thường trải qua nhiều ngày tháng để mắt đến mọi thứ xung quanh và thấy dường như thể là ma quỷ đã chiến thắng. Đó là điều A-sáp đã cảm nhận được khi ông viết Thi-thiên 79.
• Ông nhìn quanh và thấy sự ô uế.
“Đức Chúa Trời ôi! Các dân khác đã vào trong sản nghiệp Chúa. Họ làm ô uế đền thờ thánh của Ngài. Họ chất thành Giê-ru-sa-lem thành đống đổ nát” (c.1). A-sáp đang đề cập đến sự hủy phá đền thờ và thành phố Giê-ru-sa-lem. Cũng vậy, ngày hôm nay, chúng ta có thể nhìn quanh và thấy sự ô uế trong tâm trí và lòng dạ con người.
• Kế đó, A-sáp thấy sự chết.
“Thi thể của các đầy tớ Chúa đã bị bọn chúng đem làm thức ăn cho chim trời. Chúng còn làm đổ huyết họ ra như nước quanh Giê-ru-sa-lem” (c.2, 3). Thế gian của chúng ta thực sự chỉ là một nghĩa trang mà thôi. Tiền công của tội lỗi là sự chết. Chúng ta thấy điều đó tại bất cứ nơi nào chúng ta nhìn vào.
• A-sáp còn nhìn thấy sự nhạo báng.
“Chúng con đã trở thành sự sỉ nhục đối với kẻ lân cận mình, là sự khinh miệt và là điều phỉ nhổ cho những kẻ ở xung quanh chúng con” (c.4). Thiên hạ ngày nay không tán tụng Chúa nhưng lại cười nhạo Ngài. Họ cười nhạo Hội thánh, cười nhạo dân sự Chúa. Chúng ta là những người bị sỉ nhục theo thói thường thì điều ấy trông có vẻ như thể là chúng ta đang thất bại, còn thiên hạ thì đang chiến thắng vậy.
Cuối cùng, A-sáp nhìn thấy kẻ thù đang cắn xé. “Vì chúng nó đã cắn nuốt Gia-cốp, phá hoang chỗ ở của người” (c.7). Vâng, bàn tay huỷ diệt và cắn nuốt của Sa-tan đang hoành hành. Thế nhưng, A-sáp lại thưa: “Hỡi Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi chúng con, xin cứu giúp chúng con!” Tại sao vậy? “Vì cớ vinh hiển của danh Ngài, xin giải cứu chúng con” (c.9). Bằng cách nào? “Xin ban sự cứu chuộc cho tội lỗi chúng con vì cớ danh Ngài!” A-sáp không quan tâm nhiều đến niềm an ủi cho cá nhân mình bởi lẽ ông đang bận tâm đến sự vinh hiển Chúa. Vì vậy, ông cầu nguyện “xin cứu giúp chúng con”.
Chúa cứu giúp chúng ta bằng cách thanh tẩy tội lỗi chúng ta. Thêm vào đó, câu 11 và câu 12 còn dạy chúng ta rằng Chúa sẽ đến cứu chúng ta. Thật tuyệt vời biết bao khi ngày ấy đến. Vì ngày mà Đức Chúa Giê-xu Christ đến giải cứu chúng ta! Trong khi đó, chúng ta sẽ nhìn thấy sự ô uế, sự chết, sự chế nhạo, sự hủy diệt và sự cắn nuốt trong thế gian này. Hiện tại là thì giờ để kêu cầu và thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa vì cớ vinh hiển của danh Ngài, xin giúp chúng con thực hiện ý muốn Chúa”.
Sa-tan đang tác oai tác quái trong thế gian. Nhưng, sẽ có một ngày Chúa được vinh hiển và giải cứu dân sự Ngài khỏi trần thế này. Chúa hứa ở với bạn và Ngài là Đấng Cứu Rỗi của bạn. Hãy yên lòng nghỉ ngơi trên lời phán hứa ấy.
80. THI-THIÊN (Thi 80:1-19)
1. Sự khôi phục (Thi 80:1-7)
“Hỡi Đức Chúa Trời! Xin khôi phục chúng con, và làm cho mặt Ngài chiếu sáng thì chúng con sẽ được cứu” (c.3). Chúng ta tìm thấy lời cầu nguyện này ba lần trong Thi-thiên 80. Cơ-đốc nhân nên cầu nguyện như vậy mỗi ngày.
Chúng ta nên cầu nguyện như vậy trong khi đau đớn, ưu phiền. Lúc bấy giờ, dân Y-sơ-ra-ên đang trải qua nỗi thống khổ. Ngài nổi giận với họ và đã phải sửa phạt họ. Tác giả Thi-thiên này thưa rằng “Chúa đang dùng bánh làm bằng nước mắt mà nuôi nấng chúng con. Chúng con đang uống nước mắt mình và chỉ làm sự tranh cãi cho những kẻ lân cận chúng con mà thôi. Kẻ thù của chúng con đang cười nhạo chúng con” (c.5,6). A-sáp không cầu xin Chúa thay đổi hoàn cảnh mình. Thay vào đó, ông thưa: “Kính lạy Chúa, xin khôi phục chúng con.Chúng con đã bị tản lạc, lang thang. Chúng con chẳng còn như trước nữa rồi. Xin một lần nữa đem chúng con trở lại con đường ngay thẳng”.
Chúng ta cũng có thể cầu nguyện như A-sáp đã cầu trong những lúc có sự nổi loạn.
Dân sự Chúa nổi loạn chống nghịch lại Ngài, và đó là lý do tại sao Ngài sửa phạt họ. Nhưng mặc cho họ bội ước vô tín, Ngài vẫn không hề thay đổi. Tác giả cầu nguyện: “Lạy Chúa là Đức Chúa Trời vạn quân, Ngài sẽ giận vì lời cầu xin của dân sự Chúa cho đến khi nào mới nguôi?” (c.4).
Trong lời cầu nguyện của họ có gì sai vậy? Họ đã cầu nguyện một cách ích kỷ cho mỗi việc tìm kiếm sự an ủi và sự giải cứu cho chính họ mà thôi. Họ không nghĩ đến sự vinh hiển Chúa. Nhưng đối với A-sáp thì khác. Ông cầu nguyện cho sự khôi phục dân sự. Khi nào bạn nhìn vào những thất bại của mình, thì hãy mau chóng tìm kiếm ơn phước và sự cứu rỗi của Ngài.
Có nhiều khi bạn rất cần đến sự khôi phục của Chúa. Thỉnh thoảng, Ngài làm đau đớn đến bạn và sửa phạt bạn vì sự vinh hiển Ngài. Bạn có bao giờ thất hứa với Chúa chưa? Bạn có cần sự khôi phục của Ngài không? Ngày hôm nay, bạn hãy cầu nguyện như A-sáp đã cầu nguyện bằng cả tấm lòng bạn.
2. Hãy nở hoa ở nơi bạn được trồng (Thi 80:8-13)
Một trong những thảm kịch lớn nhất trong cuộc đời chính là bỏ phí cơ hội – tức là không làm tròn hầu hết những công việc Chúa giao cho chúng ta làm. Chúng ta được sinh ra trong thế gian này với những khả năng nào đó, và khi Chúa cứu chúng ta, Ngài đã ban cho chúng ta nhiều tài năng và ân-điển để chúng ta có thể sử dụng các tài năng ấy giúp đỡ người khác, để xây dựng cuộc sống cho chính chúng ta và để làm vinh hiển danh Ngài.
Đây là lý do tại sao Chúa đặt chúng ta vào những từng trải. A-sáp nói, “Ngài đem cây nho ra khỏi xứ Ê-díp-tô, Ngài đuổi các dân khác ra rồi trồng cây ấy vào. Ngài đã sửa soạn chỗ cho nó, khiến nó đâm rễ sâu vào đất và bò lan đầy mặt đất” (c.8,9). Cây nho ấy, dĩ nhiên chính là dân tộc Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ê-díp-tô và trồng nó như trồng một cây nho tươi tốt đẹp đẽ trong xứ Ca-na-an. Nhưng rồi, Ngài đã phải nhanh chóng bẻ gãy cây nho ấy Ngài phải sửa phạt dân sự Ngài. Cây nho đã không đơm hoa, kết trái như Chúa mong muốn.
Chúa ban phước cho chúng ta để khiến chúng ta trở thành một nguồn phước. Ngài trồng dân tộc Y-sơ-ra-ên trong xứ mà họ có thể dùng đời sống và những chứng cứ của họ đậu trái thuộc linh, để cho các dân ngoại đạo biết về Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Ngài ban cho họ một cơ hội để bày tỏ cho các dân khác biết những gì Ngài có thể làm cho những ai tin cậy và vâng lời Ngài. Thay vì như thế, cây nho Chúa trồng lại trở nên giống như tất cả các cây nho khác. Dân Y-sơ-ra-ên đã thỏa hiệp và phạm tội. Vì vậy, Đức Chúa Trời phải đốn cây nho của Ngài xuống và sửa phạt dân sự Ngài.
Hãy ghi nhớ, Chúa luôn trồng bạn ở nơi bạn đang trú ngụ để bạn có thể trở thành một nguồn phước. Ngài muốn bạn đâm rễ thật sâu Ngài cũng muốn bạn ra trái thật nhiều. Và nếu bạn nhờ cậy vào quyền năng thuộc linh của Ngài, thì Ngài sẽ khiến bạn trở thành một nguồn phước. Hãy nở hoa ở nơi bạn được trồng và đậu quả để làm vinh hiển Chúa, và để làm nguồn phước phong phú, dư dật cho người khác.
Chúa ban phước cho bạn cùng với những khả năng nào đó để bạn có thể dùng chúng giúp đỡ người khác và đem lại vinh hiển cho Ngài. Khi bạn sử dụng những ta lâng do Chúa ban cho bạn, thì bạn sẽ làm vinh hiển Ngài và đem lại phước hạnh cho người khác. Hãy nhờ vào nguồn sức lực thuộc linh của Chúa và để Ngài dùng bạn làm cho nhiều người khác trở nên giàu có, dư dật.
3. “Xin khôi phục lại chúng con” (Thi 80:14-19)
Hãy chú ý hai từ quan trọng trong Thi 80:1-13. Từ thứ nhất là “trở về” “Kính lạy Đức Chúa Trời của các đạo quân, chúng con cầu xin Ngài trở lại, từ trên trời, xin Ngài ngó xuống đoái xem và thăm viếng cây nho này” (c.14). Từ còn lại là “khôi phục”. “Thì chúng con sẽ không xây khỏi Chúa nữa; xin khôi phục chúng con, và chúng con sẽ cầu khẩn danh Ngài” (c.18).
• Đức Chúa Trời đã lìa bỏ dân sự Ngài.
Ngài trồng một cây nho, là dân tộc Y-sơ-ra-ên trong xứ Ca-na-an. Ngài đánh đuổi các dân tộc khác ra khỏi đó và sắm sẵn một chỗ cho dân Y-sơ-ra-ên. Cây nho ấy đâm rễ và bắt đầu ra trái. Nhưng, dân Y-sơ-ra-ên lại bắt đầu phạm tội chống nghịch Chúa. Thay vì phân rẽ thật rõ ràng, dân Y-sơ-ra-ên lại bắt đầu bắt chước các dân tộc khác đi viếng các bàn thờ cúng tế và dự phần vào các tế lễ của họ. Vì vậy Chúa bảo: “Rồi Ngài lìa bỏ họ. Từ “Ichabod” (Y-ca-bốt, theo tiếng Hê-bơ-rơ) có nghĩa là “sự vinh hiển đã lìa khỏi” (ISa 4:21).
Đức Chúa Giê-xu hứa: “Ta sẽ không bỏ các con, không lìa các con đâu! ” (Hêb 13:5). Chúa sẽ không bao giờ cất đi sự hiện diện của Ngài, nhưng Ngài sẽ cất đi quyền năng và ơn phước của Ngài. Nếu cần thiết, Ngài sẽ giữ lại sự xức dầu đặc biệt mà Ngài định ban cho chúng ta. Câu 18 và 19 là lời cầu nguyện cho sự khôi phục.
“Kính lạy Đức Chúa Trời của các đạo quân! Xin khôi phục chúng con, thì chúng con sẽ cầu khẩn danh Ngài. Xin làm cho chúng con được mới lại, khiến mặt Ngài được chiếu sáng, và chúng con sẽ được cứu”.
Chúa sẽ không bao giờ lìa bỏ bạn, nhưng có thể có nhiều lần Ngài đành giữ lại quyền năng và ơn phước của Ngài vì cớ tội lôi trong đời sống bạn. Bạn có đang cần sự khôi phục từ Chúa không? Ngài luôn nghe lời cầu nguyện cho sự khôi phục. Hãy nài xin Ngài thanh tẩy lòng bạn và sau đó cầu nguyện với những lời như A-sáp đã cầu.
81. NHỮNG ĐIỀU ẮT SẼ XẢY ĐẾN (Thi 81:1-16)
Cuộc sống được tạo nên bởi những gì đã từng có, những sự kiện đang diễn ra, và những điều sẽ xảy đến. Chúng ta sẽ tìm thấy 3 điều trên trong Thi 81:1-16.
-Thứ nhất, chúng ta tìm thấy những gì đã từng có (c.1-10).
Tác giả Thi-thiên này đang bàn về Đức Chúa Trời của Gia-cốp và bảo rằng: “Chúng ta hãy cùng nhau lập ban nhạc hát xướng. Chúng ta hãy thổi kèn, ca hát ngợi khen Đức Chúa Trời, vì Ngài đã ban luật pháp cho chúng ta và giải cứu chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô”.
Tác giả ngẫm nghĩ về quá khứ và lấy làm vui mừng. Nhưng những gì đã từng có đó không tồn tại được lâu bởi cớ dân sự nổi loạn chống nghịch Chúa.
-Thứ hai, chúng ta nhìn thấy những gì đang hiện có.
“Nhưng dân sự ta không khứng nghe tiếng ta, và một người dân Y-sơ-ra-ên nào muốn nghe ta. Vì vậy, ta bỏ mặc chúng nó đi theo tấm lòng cứng cỏi của chúng nó và nghe theo mưu kế riêng của chúng nó” (c.11,12).
Những thứ từng có trước đó đã mang lại niềm vui. Còn những gì hiện đang có thì chỉ là những biểu hiện của sự nổi loạn mà thôi. Dân sự Chúa đã dấy nghịch chống lại Ngài. Họ không muốn lắng nghe Ngài, cũng chẳng kêu cầu Ngài không vâng lời Ngài. Vì thế, họ đánh mất tất cả những gì Chúa đã từng ban cho họ.
-Cuối cùng, chúng ta nhìn thấy những điều ắt sẽ xảy đến (c.13-16).
“Ồ! Dân sự ta ắt sẽ lắng nghe ta, dân Y-sơ-ra-ên ắt sẽ bước đi trong đường lối ta! Ta sẽ tiêu diệt kẻ thù cho dân sự ta, tay ta sẽ xây qua chống nghịch kẻ thù nghịch của họ. Những kẻ ghen ghét Đức Giê-hô-va ắt sẽ khẩn xin được suy phục Ngài. Song, sinh mệnh của dân sự Ngài sẽ tồn tại đời đời. Ngài sẽ nuôi nấng họ bằng ngũ cốc tốt nhất với mật ong lấy từ vầng đá, cũng sẽ làm thỏa lòng họ”.
Vậy, những điều ắt sẽ xảy đến là gì? Đó là sự chiến thắng, sự thỏa lòng, ngũ cốc tốt nhất và mật ong được lấy từ vầng đá.
Đừng nổi loạn chống nghịch Chúa chớ bỏ lỡ các ơn phước mà Ngài muốn ban cho bạn.
Cứ nghĩ ngợi mãi về những thất bại trong quá khứ thì chỉ làm cho cuộc đời bạn biến thành sự hối tiếc mà thôi. Nếu bạn đã bội ước với Chúa, thì hãy mau quay lại với Ngài, cầu xin sự tha thứ. Bạn hãy dâng mình cho Chúa và bắt đầu kinh nghiệm những điều ắt sẽ xảy đến. Chúa luôn có chương trình tốt nhất dành cho bạn.
82. SỰ PHÁN XÉT CUỐI CÙNG (Thi 82:1-8)
Khi xem tin tức trên truyền hình hoặc xem báo chí, chúng ta có thể nghĩ rằng sự bất công đang thắng thế, còn sự công bằng thì đang thất bại. Chúng ta cũng sẽ có ý tưởng tương tự khi đọc Thi 82:1-8. Nhưng, Thi-thiên này còn bảo rằng Chúa là một phần trong hội đồng xét xử.
Chúa tham dự phiên tòa: “Chúa đứng trong hội những quan toà có quyền bính. Ngài xét xử giữa các thần” (c.1). Từ “các thần” ở đây có nghĩa là “các quan tòa”. Khi các quan tòa họp lại với nhau trong tòa án thì Chúa đã có mặt ở đó cho dù họ có nhận ra Ngài hay không.
• Chúa quở trách các quan tòa.
“Các người còn sẽ xét xử bất công và thiên vị cho kẻ ác cho đến bao giờ nữa?” (c.2).
Ngài dạy họ phải làm những điều sau: “Hãy bảo vệ, bệnh vực kẻ nghèo và kẻ mồ côi, xét xử công bình kẻ cho kẻ gặp hoạn nạn tai ương và người thiếu thốn túng ngặt. Hãy giải cứu người nghèo túng, giải thoát họ khỏi tay kẻ ác” (c.3,4)
• Chúa xét xử các quan tòa.
Các quan toà tưởng rằng họ đang xét xử người khác, nhưng kỳ thực là Chúa đang xét xử họ. “Họ không biết chi, cũng chẳng hiểu gì cả. Họ đang bước đi trong sự tối tăm, là nơi mà tất cả nền trái đất đều đang rúng động” (c.5). Hễ luật pháp không còn được duy trì, bảo vệ nữa, thì tất cả các quốc gia ắt sẽ bị tan rã thành từng mảnh.
“Ta đã nói: các ngươi là những quan tòa, hết thảy các ngươi đều là con cái của Đấng Chí Cao. Nhưng dầu vậy các ngươi sẽ chết như người dân thường, và sa ngã như một trong số các vương tử của ta” (c.6,7). Tác giả Thi-thiên này tin rằng sẽ có một ngày Chúa xét xử mọi thứ thật công bình. “Kính lạy Chúa! Xin hãy dấy lên, phán xét thế gian, vì Chúa sẽ có muôn dân làm cơ nghiệp” (c.8).
Vâng, sẽ không có sự phán xét công bằng cho cả thế gian này cho đến khi Đức Chúa Giê-xu tái lâm. Song, khi Vua của các vua trị vì và Chúa của các chúa lấy quyền tối cao thống trị, thì cuối cùng chúng ta sẽ thấy sự công bằng trên thế gian này.
Mặc dù thế gian đầy sự bất công, Đức Chúa Trời vẫn đang kiểm soát mọi thứ, nhìn thấy mọi sự diễn ra. Chúng ta còn phải tiếp tục sống ở thế gian này mãi đến khi Chúa Giê-xu đến trị vì. Trong khi chờ đợi Ngài, chúng ta hãy tin cậy Ngài, vâng lời Ngài và làm theo ý chỉ của Ngài.
83. KẺ THÙ CỦA VUA THÁNH (Thi 83:1-18)
Cơ-đốc nhân là những người khách lạ đang sống trên lãnh thổ của kẻ thù. Kẻ thù của chúng ta là những người không yêu mến Đức Chúa Giê-xu Christ, Hội thánh Ngài và Lời Ngài. Chúng ta sẽ làm gì đối với kẻ thù mình và cũng chính là kẻ thù của Chúa? Hãy noi theo gương tác giả Thi-thiên này giao phó chúng cho Chúa.
“Vì kìa! Các kẻ thù nghịch Chúa gây náo loạn, và những kẻ ghen ghét Chúa đang ngước đầu lên” (c.2). Tác giả đang đề cập đến kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên là dân Ê-đôm, dân Ích-ma-ên, dân Mô-áp và các dân tộc ngoại đạo khác đang bao vây Y-sơ-ra-ên. Trải qua nhiều thế kỷ, dân Y-sơ-ra-ên có rất nhiều kẻ thù, và Chúa đã đánh bại tất cả các kẻ thù ấy. Tuy nhiên, Ngài đã ban phước cho chúng để chúng lại đem đến phước hạnh cho Y-sơ-ra-ên.
Vậy, Chúa sẽ làm gì đối với kẻ thù của chúng ta? Tác giả bảo rằng Ngài sẽ xét xử chúng, nhưng chúng ta không biết điều ấy sẽ xảy ra ở đâu và vào lúc nào. Tác giả vẽ nên một số bức tranh sống động: “Ôi, Đức Chúa Trời của con ôi! Xin khiến cho chúng trở nên giống bụi đất đang bị gió xoáy lên” (c.13).
Có một bản dịch khác dịch rằng “…xin khiến chúng nó trở nên giống một bánh xe nào đó cày lăn trên đường đầy bụi đất, thì nó sẽ xoáy tung bụi đất lên. Kẻ thù chẳng khác nào bụi đất đang bị gió cuộn lên và thổi bay đi, Chúng tựa như rơm rạ trước gió! Chẳng khác nào đám cháy rừng, và giống như lưỡi lửa đặt các núi trên ngọn lửa” (c.13,14).
Sẽ có một ngày, lửa phán-xét của Đức Chúa Trời lan đến bao trùm chúng, và chúng nó sẽ bị hủy diệt. Câu 15 so sánh sự việc ấy với một cơn bão: “Xin Chúa hãy lấy cơn giận dữ nhất của Ngài truy đuổi chúng nó, và dùng cơn bão của Ngài làm kinh khiếp chúng”.
Tại sao Đức Chúa Trời phán xét các kẻ thù của Ngài? “Để cho nhân loại biết rằng Ngài là Chúa có danh là Giê-hô-va Đức Chúa Trời Đấng Chí Cao trên khắp đất” (c.18) Chúa là Vua. Cho nên, bạn hãy giao phó kẻ thù mình cho Ngài. Ngài luôn có cách đối xử với chúng.
Trong suốt nhiều thế kỷ qua, Đức Chúa Trời đã phải đối phó với các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên. Hiện tại, Ngài cũng đang hành động đối phó với kẻ thù của chúng ta. Hễ khi nào bạn bị kẻ thù bao vây, thì bạn hãy giao phó chúng cho Chúa và nghỉ ngơi trong sự chăm sóc của Ngài.
84. THI-THIÊN (Thi 84:1-12)
1. Sự khao khát Chúa (Thi 84:1-4)
Thi 84:1-12 diễn tả ý tưởng của một người muốn đi đến Giê-ru-sa-lem để dự một bữa tiệc nhưng lại không thể đi được. Chúng ta không biết lý do tại sao. Có lẽ ông ta bị bệnh, hoặc đang gặp một vài vấn đề nào đó ở gia đình và ông viết: “Hỡi Đức Giê-hô-va của các đạo quân, đền tạm của Ngài xinh đẹp biết bao! Linh hồn con khao khát, thậm chí mòn mỏi về hành lang Chúa; tâm tư và thể xác con kêu la về Đức Chúa Trời hằng sống” (c.1,2)
Sự khát khao hết lòng của tác giả không phải chỉ là đi lên Giê-ru-sa-lem để tuân giữ ngày lễ thánh mà là đi đến đền thờ gặp Chúa. “Ngay cả con chim sẻ cũng tìm được một cái ổ, còn chim én thì xây tổ cho chính nó để nó có thể đẻ trứng vào đó” (c.3). Mặt khác, nhà Chúa đối với linh hồn tác giả như là cái tổ đối với con chim én nơi để nghỉ ngơi rất an ninh và thỏa lòng. Tác giả còn ganh tỵ với các thầy tế lễ: “Phước cho những người được ở trong nhà Đức Giê-hô-va, họ sẽ ngợi khen Chúa mãi mãi” (c.4). Những kẻ đứng bên ngoài nhà Chúa không được phép sống ở đó, họ bị giới hạn trong những nơi họ được cho phép mà thôi. Chỉ có các thầy tế-lễ mới có quyền đi vào Nơi Chí Thánh.
bottom of page