top of page

TRUYỀN-ĐẠO 1

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Văn Thơ



1. ĐỜI NGƯỜI ĐÁNG SỐNG CHĂNG? (Tr 1:1-3)


Sa...

...-lô-môn than vãn rằng: “Hư không của sự hư không, thảy đều hư không”. Truyền-đạo khi viết về đời người “dưới mặt trời”. Từ này có nghĩa là “sự trống rỗng, vô ích, hư ảo, biến mất nhanh chóng và chẳng để lại gì đằng sau”.


Theo quan điểm con người (“dưới mặt trời”), đời người có vẻ phù phiếm và nó dễ khiến chúng ta bi quan. Nhà văn Do-thái Sholom Aleichem có lần đã mô tả đời người như “một chỗ sưng lên trên đỉnh của khối u, và như một cái nhọt trên đỉnh khối u đó”. Bạn hầu như có thể cảm nhận được định nghĩa đó.


Nhà thơ người Mỹ Carl Sandburg ví sánh đời người với “một cũ hành bạn bóc nó ra một lớp mỗi lần, và đôi khi bạn chảy nước mắt?” Và nhà soạn kịch người Anh George Bernard Shaw nói rằng đời người là “một chuỗi những điên rồ đầy cảm hứng”.


Khi bạn học văn chương Anh ở trường, có thể bạn đã đọc bài thơ của Mathew Arnold “Rugby Chapel” trong đó ông kể đến sự mô tả tối tăm này về đời người:


“Người ta đều chuyển động như cơn lốc. Đây đó, ăn và uống nói huyên thuyên, yêu rồi ghét, Thu góp rồi hoang phí, Nổi lên cao, bị quăng vào bụi rác. Nỗ lực cách mù quáng. Chẳng đạt được gì, và rồi họ chết”


Thật là một sự thư giản khi quay lưng với những quan điểm yếm thế này nghe Chúa Giê-xu phán: “Còn ta đã đến, hầu cho chiên được sự sống, và được sự sống dư dật” (Gi 10:10). Hoặc đọc lời tuyên bố uy nghi của Phao-lô “Vậy hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (ICo 15:58).


Đời người “không phải là vô ích” nếu nó bị bỏ qua và thường bị hiểu sai này.

Trước khi chúng ta bắt đầu học về sách Truyền-đạo, trước hết hãy làm quen với tác giả và mục đích ông viết sách này. Chúng ta cũng cần có một tóm lược về cuốn sách để có thể hiểu rõ hơn cách ông trả lời câu hỏi: “Đời người đáng sống chăng?”


1. Tác giả (Tr 1:1-3)

Không chỗ nào trong sách này tác giả cho biết tên mình, nhưng những mô tả công trình bày tỏ về bản thân và những từng trải của mình sẽ cho thấy rằng tác giả là vua Sa-lô-môn. Ông tự xưng là “con trai của Đa-vít” và “vua tại Giê-ru-sa-lem” (Tr 1:1,12), ông tuyên bố có nhiều của cải cùng sự khôn ngoan (Tr 2:1-11; Tr 1:13; IVua 4:20-34; IVua 10:1).

Để đáp ứng lời cầu nguyện khiêm nhường của Sa-lô-môn, Đức Chúa Trời hứa ban cho ông cả sự khôn ngoan, sự giàu có (IVua 3:3-15) và Ngài đã giữ lời hứa.


Mười hai lần trong sách Truyền-đạo, tác giả đề cập “vua” và ông đề cập thường xuyên những vấn đề về “thói quan liêu” (Tr 4:1-3; Tr 5:18; Tr 8:11; Tr 10:6-7).

Hãy nhớ rằng Sa-lô-môn đã cai trị một quốc gia lớn cần có một quân đội lớn thường trực và những cơ quan chính quyền ở phạm vi rộng. Ông xúc tiến nhiều công trình xây dựng đắt giá và sống xa hoa trong cung điện (IVua 9:10-28; IVua 10:1; IISu 1:13-17). Ai đó phải quản lý mọi sự lộng lẫy này của quốc gia và ai đó phải cầu nguyện cho nó!


Sô-lô-môn giải quyết vấn đề bằng cách bỏ qua những ranh giới gốc của 12 chi phái Y-sơ-ra-ên và chia quốc gia thành “12 khu vực thuế”, Mỗi khu vực được quản lý bởi một quan giám sát (IVua 4:7-19). Đúng lúc, cả hệ thống trở nên ngột ngạt và thối nát, Sau khi Sa-lô-môn chết, dân sự nài xin sự giảm nhẹ (IISu 10:1-19). Khi bạn nghiên cứu sách Truyền-đạo, bạn nhận thức được quá trình của sự bóc lột và đàn áp này.


Vua Sa-lô-môn khởi đầu sự cai trị của ông với tư cách một đầy tớ khiêm nhường của Chúa, tìm kiếm sự khôn ngoan và sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời (IVua 3:5-15). Khi về già, lòng ông đã xa rời Đức Giê-hô-va để đến với những tà thần của nhiều bà vợ mà ông đã lấy ở đất ngoại bang (IVua 11:1).

Những cuộc hôn nhân này bị thúc đẩy chủ yếu bởi chính trị, không phải tình yêu, khi Sa-lô-môn tìm kiếm những sự liên minh với các nước lân cận Y-sơ-ra-ên. Thật ra, nhiều điều Sa-lô-môn làm như thể đem vinh quang cho Y-sơ-ra-ên thực tế trái ngược với Lời Đức Chúa Trời (Phuc 17:14-20).


Không giá trị tiền bạc hay quyền thế nào có thể ngăn cản sự chín mùi thầm lặng nhưng chắc chắn của sự xét đoán thiêng liêng.

Nhà truyền giáo người Ê-cốt nổi tiếng Alexander Whyte nói rằng “con sâu bí mật… đang gặm nhấm dần nội các triều đình mà Sa-lô-môn đã dựa vào”.

Những năm cuối của vua thật khốn khổ vì Đức Chúa Trời rút bàn tay chúc phước của Ngài (IVua 11:1-43) và duy trì ngai vàng của Sa-lô-môn chỉ vì lời hứa của Ngài cùng Đa-vít. Sau khi Sa-lô-môn chết đất nước bị phân chia và nhà Đa-vít chỉ còn lại 2 chi phái, Giu-đa và Bên-gia-min.


Sách Truyền-đạo có vẻ là loại sách mà một người nào đó viết gần giống với đời sống, phản ánh những từng trải của đời người và những bài học được rút ra. Sa-lô-môn có thể đã viết sách Châm-ngôn (Ch 1:1; IVua 4:32) và Nhã-ca (Nha 1:1) suốt những năm ông trung tín bước đi với Đức Chúa Trời. Và gần cuối đời ông viết sách Truyền-đạo. Không có ghi chép nào cho thấy Sa-lô-môn đã ăn năn và trở lại với Chúa, nhưng sứ điệp của ông trong sách Truyền-đạo gợi ý rằng ông đã làm vậy.


Ông viết sách Châm-ngôn theo quan điểm của một giáo sư khôn ngoan (Ch 1:1-6) và sách Nhã-ca theo quan điểm của một vị vua đang yêu (Nha 3:7-10). Nhưng khi viết sách Truyền-đạo, ông tự xưng là “người truyền-đạo” (Tr 1:1,2,12; Tr 7:27; Tr 12:8-10).

Từ Hê-bơ-rơ là “koheleth” và là danh hiệu dành cho một người phát ngôn chính thức triệu tập một cuộc họp (IVua 8:1). Từ Hy-lạp cho “cuộc họp” là ekklesia, và từ này cho chúng ta đề tựa tiếng Anh của sách là Ecclesiastes (Truyền-đạo).


Nhưng người truyền-đạo này làm nhiều việc hơn là triệu tập một cuộc họp và diễn thuyết. Từ “koheleth” mang theo nó ý niệm về sự tranh luận không phải với người nghe mà với chính mình. Ông giới thiệu một chủ đề, bàn luận nó heo nhiều quan điểm, và rồi đi đến một kết luận thực tiễn.

Sách Truyền-đạo có vẻ là một tập hợp ngẫu nhiên của những ý niệm hỗn tạp về những chủ đề khác nhau, nhưng Sa-lô-môn bảo đảm với chúng ta rằng điều ông viết là một tuần tự (Tr 12:9).

Bây giờ chúng ta hãy xem xét mục đích và tiến triển của sách.


2. Mục đích (Tr 1:1-3)

Sa-lô-môn đặt chìa khóa cho sách Truyền đạo ngay cửa trước: “Người truyền-đạo nói: Hư không của sự hư không, hư không của sự hư không, thảy đều hư không. Các việc lao khổ của loài người làm ra dưới mặt trời, thì được ích lợi chi?” (Tr 1:2-3). Chỉ trong trường hợp chúng ta bỏ sót nó, ông đặt chìa khóa tương tự ở cửa sau (Tr 12:8). Trong những câu này, Sa-lô-môn giới thiệu một số từ và nhóm từ chủ chốt được sử dụng nhiều lần trong sách Truyên-đạo, vì vậy chúng ta nên làm quen với chúng.


Hư không của sự hư không.

Chúng ta đã để ý rằng Sa-lô-môn sử dụng từ “hư không” 38 lần trong sách này. Đó là từ Hê-bơ-rơ “hevel” nghĩa là “sự trống rỗng, sự vô ích, sự hư ảo”. Tên “A-bên” có lẽ đến từ từ này (Sa 4:2). bất cứ điều gì biến mất nhanh chóng và không để lại chỉ đằng sau và không làm thỏa lòng đều là “hevel”, hư không. Một trong những giáo sư ngôn ngữ của tôi tại thần học viện đã định nghĩa “hevel” là “bất cứ cái gì còn lại sau khi bạn phá vỡ một bong bóng xà phòng”.


Dù xem xét của cải, công việc, sự khôn ngoan hay thế giới của mình, Sa-lô-môn đều đi đến kết luận buồn bã như nhau. Tất cả là “hư không và sự phiền toái của linh hồn” (Tr 2:11). Tuy nhiên, đây không phải là kết luận sau cùng của ông, nó cũng không phải là sứ điệp duy nhất ông dành cho độc giả mình. Chúng ta sẽ khám phá nhiều hơn về điều đó sau này.


Dưới mặt trời 

Bạn sẽ tìm thấy nhóm từ quan trọng này 29 lần trong sách Truyền đạo và cùng với nó là nhóm từ “dưới trời” (Tr 1:13; Tr 2:3; Tr 3:1).

Nó định nghĩa quan điểm của tác giả khi ông nhìn cuộc đời theo một khía cạnh con người và không nhất thiết theo quan điểm trên trời. Ông áp dụng sự khôn ngoan và kinh nghiệm của riêng mình vào hoàn cảnh phức tạp của con người và tìm cách làm cho đời người có ý nghĩa. Sa-lô-môn viết dưới sự thần cảm của Thánh Linh (Tr 12:10-11; IITi 3:16), vì vậy điều ông viết là điều Đức Chúa Trời muốn dân sự Ngài có.

Nhưng khi chúng ta nghiên cứu, chúng ta phải nhớ quan điểm của Sa-lô-môn: ông đang xem xét đời người “dưới mặt trời”.


Trong tác phẩm “Unfolding Message of the Bible” của mình (sứ điệp bày tỏ của Kinh Thánh), G. Campell Morgan tóm tắt đầy đủ quan điểm của Sa-lô-môn: “Người này đã sống trải qua mọi kinh nghiệm ấy dưới mặt trời, chẳng quan tâm điều gì ở trên mặt trời… cho đến khi xảy ra một sự thay đổi mà qua đó ông đã hiểu toàn bộ cuộc đời. Và có cái gì đó ở trên mặt trời. Đó là chỉ khi một người đánh giá điều ở trên mặt trời cũng như điều ở dưới mặt trời hầu cho mọi sự dưới mặt trời được hiểu trọn ánh sáng thật của chúng” (Fleming H.Revell Company, 1961, trang 229).


Ích lợi.

Từ Hê-bơ-rơ “yitron” thường được dịch là “ích lợi”, được sử dụng 10 lần trong sách Truyền-đạo (Tr 1:3 Tr 11:13) (excelleth) Tr 3:9; Tr 5:9,16; Tr 7:12 (sự trội hơn) Tr 10:10,11 (tốt hơn). Nó được sử dụng đâu đó trong Cựu-ước, và ý nghĩa cơ bản của nó là “những gì còn lại trội hơn”. Nó có thể được dịch là “thặng dư, thuận lợi, lãi”. Từ “ích lợi” đúng là phản nghĩa với “sự hư không”. Sa-lô-môn hỏi: “Dưới ánh sáng của những rắc rối và những nan đề của đời người, đâu là ích lợi của sự sống? Có được gì chăng?”


Lao khổ.

Có ít nhất 7 từ Hê-bơ-rơ khác nhau được dịch là “lao khổ” trong bản dịch của chúng ta, và từ này là “amal” được sử dụng 23 lần trong Truyền-đạo. Nó có nghĩa là “làm việc khó nhọc đến độ kiệt quệ nhưng kinh nghiệm chỉ một chút hoặc không có sự hoàn thành nào trong công việc của mình”. Nó mang theo những ý niệm về sự buồn rầu, khốn khổ, thất vọng và mệt mỏi. Môi-se đã bày tỏ ý nghĩa của từ này trong Phuc 26:7 và Thi 90:10.

Dĩ nhiên, được nhìn chỉ “dưới mặt trời”, dù công việc hằng ngày của một người dường như vô ích và nặng nề, nhưng tín hữu Cơ-đốc có thể luôn tuyên bố ICôr 15:58 và lao động một cách vui vẻ trong ý muốn của Đức Chúa Trời, biết rằng công lao mình “không phải là vô ích trong Chúa”.


Loài người.

Đây là từ Hê-bơ-rơ quen thuộc “A-đam” (Sa 1:26 Sa 2:7,19) và chỉ về con người được tạo nên từ đất (“adama” trong Kinh Thánh Hê-bơ-rơ: Sa 2:7 Sa 3:19), đến từ đất và trở về với đất sau khi chết. Sa-lô-môn sử dụng từ này 49 lần khi ông xem xét “loài người dưới mặt trời”.


Đây là những từ cơ bản được tìm thấy trong các câu mở đầu sách Truyền-đạo, nhưng có thêm một số từ then chốt mà chúng ta cần xem xét.


Xấu (evil).

Từ này được dùng 31 lần và trong bản dịch King Jame nó cũng được dịch là “sore” (Tr 1:13 Tr 4:8 (buồn phiền), “hurt” (làm hại) (Tr 5:13 Tr 8:9), “mischievous” (tác hại) (Tr 10:13), “grievous” (đau khổ) (Tr 2:17) “adversity” (bất hạnh) (Tr 7:14) ‘nickedness” (độc hại) (Tr 7:15) và “misery” (khốn khổ) (Tr 8:6).

Nó trái ngược với ‘tốt” và bao phủ vô số sự việc: sự đau đớn, buồn rầu, nghịch cảnh và tai họa. Đó là một trong những từ ưa dùng của Sa-lô-môn để mô tả đời người như ông thấy “dưới mặt trời”.


Sự vui mừng.

Mặc dù có những tự đương đầu đau buồn của mình với thế gian và những vấn đề của nó, Sa-lô-môn không giới thiệu chủ nghĩa bi quan hay hoài nghi. Đúng hơn, ông khuyên chúng ta có óc thực tế về đời người, chấp nhận những sự ban cho của Đức Chúa Trời và vui hưởng chúng (Tr 2:24; Tr 3:12-15,22; Tr 5:18-20; Tr 8:15 Tr 9:7-10; Tr 11:9-10).

Suy cho cùng, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta “được hưởng mọi vật dư dật” (ITi 6:17). Những từ có liên quan đến sự vui mừng được sử dụng ít nhất là 17 lần trong Truyền-đạo. Sa-lô-môn không nói: “Hãy ăn, uống, cưới gả, vì ngày mai ngươi chết!”. Ngược lại, ông khuyên chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời và vui hưởng điều mình có hơn là phàn nàn về những gì mình không có. Đời người ngắn ngủi và đời người khó nhọc, vì vậy hãy tận dụng nó trong khi bạn có thể.


Sự khôn ngoan.

Vì là một trong những sách của sự khôn ngoan thời Cựu-ước, Truyền-đạo có điều gì đó nói về sự khôn ngoan lẫn sự ngu dại. Có ít nhất 32 lần đề cập đến “kẻ ngu dại” với “sự ngu dại”, và ít nhất 5 lần về “sự khôn ngoan”. Vua Sa-lô-môn là người khôn ngoan nhất (IVua 4:31) và ông đã áp dụng sự khôn ngoan này khi ông tìm cách hiểu mục đích đời người “dưới mặt trời”. Người truyền đạo này tìm cách làm một triết gia, nhưng cuối cùng, ông phải kết luận “khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài” (Tr 12:13).


Đức Chúa Trời.

Sa-lô-môn đề cập Đức Chúa Trời 40 lần và luôn sử dụng “Elohim” chớ không hề dùng từ “Jehovah”. Elohim (“Đức Chúa Trời” trong Kinh Thánh tiếng Anh) là Đức Chúa Trời toàn năng, Đức Chúa Trời vinh hiển của sự sáng tạo Đấng thực hiện quyền tối thượng. Jehovah (“Chúa” trong Kinh Thánh tiếng Anh) là Đức Chúa Trời của giao-ước, Đức Chúa Trời của sự mạc khải. Đấng tự hữu đời đời nhưng giữ mối liên hệ của chính Ngài với loài người tội lỗi một cách nhân từ. Vì Sa-lô-môn đang đề cập riêng biệt điều ông thấy “dưới mặt trời”, nên ông sử dụng từ Elohim.


Trước khi đi qua sự nghiên cứu này về từ vựng của Truyền đạo, chúng ta nên lưu ý rằng sách có nhiều đại từ nhân xưng. Vì là một chuyện tự thuật, sách này phải được nghĩ như vậy. Sa-lô-môn là con người lý tưởng để viết sách này, vì ông có sự giàu sang, khôn ngoan và những cơ hội cần thiết để thực hiện “những thí nghiệm” cần có cho sự nghiên cứu này về ý nghĩa đời người.

Đức Chúa Trời không làm cho vua Sa-lô-môn bất tuân vì vậy ông đã có thể viết sách này, nhưng Ngài đã sử dụng những từng trải của Sa-lô-môn để chuẩn bị cho ông làm công tác này.


3. Phân tích (Tr 1:1-3)

Hãy để ý những chỗ Sa-lô-môn khuyên chúng ta vui hưởng cuộc đời và thoả lòng với những gì Đức Chúa Trời phân định cho chúng ta.


Chủ đề: Đời người có thực sự đáng sống chăng?

Câu gốc: Tr 1:1-3; Tr 12:13-14.


A. Vấn đề được tuyên bố (Tr 1:1-2:26).

-Đời nguời không đáng sống! Hãy xem xét.

a. Sự đơn điệu của đời người (Tr 1:4-11).

b. Sự hư không của đời người (Tr 1:12-18).

c. Sự vô ích của của cải (Tr 2:1-11).

d. Tính chắc chắn của sự chết (Tr 2:12-23).

-Hãy vui hưởng cuộc đời (Tr 2:24).


B. Vấn đề được bàn luận (Tr 3:1-10:20).

-Ông xem xét mỗi lý luận trên.

a. Sự đơn điệu của đời người (Tr 3:1-5:9).

1. Hãy nhìn lên (Tr 3:1-8).

2. Hãy nhìn vào trong (Tr 3:9-14).

3. Hãy nhìn phía trước (Tr 3:9-14).

4. Hãy nhìn quanh (Tr 4:1-5:9).

-Hãy vui hưởng cuộc đời (Tr 3:12-15,22).

b. Sự vô ích của của cải (Tr 5:10-6:12).

-Sử dụng của cải (Tr 5:10-17).

-Hưởng thụ của cải (Tr 5:18-6:12).

-Hãy vui hưởng cuộc đời (Tr 5:18-20).

c. Sự hư không của khôn ngoan (Tr 7:1-8:17).

1. Chúng ta hãy làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn (Tr 7:1-10).

2. Chúng ta hãy nhìn cuộc đời rõ ràng hơn (Tr 7:11-18).

3. Chúng ta hãy đối diện với cuộc đời mạnh mẽ hơn (Tr 7:19-8:17).

-Hãy vui hưởng cuộc đời (Tr 8:15).

d. Tính chắc chắn của sự chết (Tr 9:1-10:20).

1. Sự chết không thể tránh khỏi (Tr 9:1-10).

2. Cuộc đời không thể đoán trước (Tr 9:11-18).

3. Hãy coi chừng kẻ ngu dại (Tr 10:1-20).

-Hãy vui hưởng cuộc đời (Tr 9:7-10).


C. Vấn đề được khẳng định (Tr 11:1-12:14).

1. Hãy sống bằng đức tin (Tr 11:1-6).

2. Hãy vui hưởng cuộc đời bây giờ (Tr 11:7-12:8).

3. Hãy sửa soạn cho sự xét đoán (Tr 12:9-14).

-Hãy vui hưởng cuộc đời (Tr 11:9-10).


Trong Tr 12:8-12 Sa-lô-môn giải thích thể nào ông đã viết sách này ông tìm ra những lời hay nhất và sắp xếp chúng theo thứ tự tốt nhất. Khi ông viết, ông kể đến “những gậy nhọn” đâm vào chúng ta trong suy nghĩ cùng chúng ta và “những cái đinh” mà trên đó treo một số kết luận thực tiễn. Hãy ghi nhớ điều này khi bạn nghiên cứu. Công việc của ông được Đức Chúa Trời thần cảm vì ông được hướng dẫn bởi “một Đấng chăn giữ” (Thi 80:1).


4. Ứng dụng (Tr 1:1-3)

Ứng dụng thực tiễn của sách này cho chúng ta ngày nay là gì? Phải chăng sách Truyền-đạo chỉ là một vật triển lãm thú vị trong một viện bảo tàng tôn giáo, hay nó có một sứ điệp cho con người trong thời đại vũ trụ?


Sứ điệp của nó dành cho hôm nay.

Xét cho cùng, xã hội mà Sa-lô-môn nghiên cứu 1.000 năm trước sự giáng sinh của Đấng Christ không quá khác biệt với thế giới của chúng ta ngày nay. Sa-lô-môn đã thấy sự bất công đối với người nghèo (Tr 4:1-3), những quan điểm chính trị cong quẹo (Tr 5:8), những lãnh đạo bất tài (Tr 10:6-7), những người có tội được phép phạm tội thêm (Tr 8:11), chủ nghĩa vật chất (Tr 5:10) và một khao khát về “thời tốt đẹp đã qua” (Tr 7:10).


Nó có vẻ hợp thời phải không?

Nếu bạn chưa từng tin Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của mình, vậy sách này giục giã bạn làm điều đó mà không trì hoãn. Vì sao? Vì dù của cải, học thức và thanh thế bạn có ra sao, cuộc đời không có Đức Chúa Trời là vô ích. Bạn chỉ đang “đuổi bắt gió” nếu bạn mong tìm thấy sự thỏa lòng và sự thành đạt cá nhân trong những điều thuộc về thế gian, Chúa Giê-xu đã hỏi: “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì?” (Mac 8:36).


Sa-lô-môn đã làm thử nghiệm bằng cuộc đời và khám phá rằng không có sự thỏa lòng lâu dài trong cải của, vui thú, quyền lực hay thanh thế. Ông đã có tất cả, nhưng cuộc đời ông rỗng tuếch! Bạn và tôi không cần thiết phải lặp lại những thử nghiệm này. Chúng ta hãy chấp nhận những kết luận của Sa-lô-môn và tránh nỗi đau lòng cùng khốn khổ phải chịu khi bạn thử nghiệm trong phòng thí nghiệm của cuộc đời. Những thí nghiệm này đắt giá và một trong số chúng đã có thể tỏ ra đáng chết người.


Khi bạn thuộc về gia đình của Đức Chúa Trời nhờ đức tin nơi Con Đức Chúa Trời, cuộc đời không còn đơn điệu: nó là một cuộc mạo hiểm hằng ngày xây dựng tính cách và giúp bạn có thể phục vụ người khác để quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Thay vì thực hiện những quyết định trên cơ sở sự khôn ngoan hư không của thế gian này, bạn sẽ có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời dành sẵn cho mình (Gia 1:5).


Nói đến của cải và lạc thú, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta “hưởng mọi vật dư dật” (ITi 6:17) “Phước lành của Đức Giê-hô-va làm cho giàu có Ngài chẳng thêm sự đau lòng gì lẫn vào” (Ch 10:22). Của cải cùng lạc thú của thế gian không làm thoả lòng và sự tìm kiếm quyền lực cùng địa vị là vô ích. Trong Chúa Giê-xu Christ, chúng ta có mọi điều chúng ta cần cho sự sống của sự chết, thời gian và sự vĩnh cửu.


Nếu có một chân lý được Sa-lô-môn nhấn mạnh trong sách này, đó là tính chắc chắn của sự chết. Dù Sa-lô-môn hưởng thụ hay hoàn thành điều gì, bóng kinh khiếp của sự chết luôn ám ảnh ông. Nhưng Chúa Giê-xu đã đánh bại sự chết và là “sự sống lại của sự sống” (Gi 11:25). Sự đắc thắng về sự sống lại của Ngài có nghĩa là “công khó không vô ích trong Chúa” (ICo 15:58).


Nếu bạn không biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa mình, vậy mọi điều bạn làm và sống vì chúng cuối cùng sẽ hư mất. Và bạn cũng sẽ hư mất. Nhưng đức tin trong Chúa Giê-xu đem đến cho bạn món quà của sự sống đời đời và đặc quyền hầu việc Ngài cùng những năm đầu tư của bạn vào những gì còn lại đời đời.


Vì vậy, sứ điệp đầu tiên của sách Truyền đạo là: hãy quay lưng với sự vô ích của tội lỗi và thế gian, hãy đặt đức tin của bạn nơi Chúa Giê-xu (Gi 3:16; Eph 2:8-10).


Nhưng nếu bạn là một người tin Chúa Giê-xu và đã nhận món quà của sự sống đời đời, Sa-lô-môn hỏi bạn: “Bạn đang sống cho Chúa hay cho những điều thuộc thế gian?” Hãy nhớ, Sa-lô-môn đã biết Đức Chúa Trời và được Ngài chúc phước rất nhiều, nhưng ông đã từ bỏ Chúa và đi theo lối riêng của mình. Không có gì lạ khi ông trở nên bi quan và hoài nghi khi nhìn cuộc đời! Ông đã không có cái nhìn của Đức Chúa Trời vì ông đã không sống cho những mục đích của Đức Chúa Trời.


Có hơn một người tự xưng là Cơ-đốc nhân đã theo gương xấu của Sa-lô-môn và bắt đầu sống cho những điều thuộc về thế gian. Phao-lô đã viết về một trong những cộng sự của ông trong chức vụ “Đê-ma đã lìa bỏ ta rồi, tại người ham hố đời này” (IITi 4:10). Sứ đồ Giăng đã cảnh cáo: “Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa” (IGi 2:16) và Gia-cơ khuyên chúng ta giữ mình “cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Tr 1:27).


Khi bạn bắt đầu sống cho thế gian thay vì cho ý muốn của Đức Chúa Trời, bạn bắt đầu nhìn cuộc đời theo quan điểm sai lầm: “dưới mặt trời” chớ không phải “trên mặt trời”. Thay vì tìm kiếm những điều ở trên cao (Co 3:1), bạn bắt đầu nhắm vào những điều ở dưới thấp. Ảo tưởng sai lầm này chẳng bao lâu khiến bạn chọn những giá trị sai lầm và bạn dừng việc sống cho những sự đời đời. Kết quả là sự thất vọng và thất bại, cách điều trị duy nhất là sự ăn năn và xưng nhận tội lỗi (IGi 1:9).


Sách Truyền-đạo cũng chứa đựng một sứ điệp cho tín hữu trung thành muốn hầu việc Chúa và có một cuộc đời được đáp ứng trong Chúa Giê-xu. Sa-lô-môn nói: “Đừng vùi đầu bạn vào trong đống cát và giả vờ như những nan đề không tồn tại. Chúng thật tồn tại đấy! Hãy đối diện cuộc đời cách thành thật, nhưng hãy nhìn cuộc đời theo quan điểm của Đức Chúa Trời. Những triết lý của loài người sẽ làm bạn thất bại.

Hãy sử dụng sự khôn ngoan Đức Chúa Trời ban cho bạn, nhưng đừng cho rằng mình giải quyết được mọi vấn đề và giải đáp được mọi câu hỏi. Điều quan trọng là vâng phục ý muốn của Đức Chúa Trời và vui hưởng mọi điều Ngài ban cho bạn. Hãy nhớ sự chết sắp đến – vậy hãy sửa soạn! ”


Có lẽ sứ điệp này được tóm tắt hay nhất trong lời cầu nguyện của Môi-se: “Vậy xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các ngày của chúng tôi, hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan” (Thi 90:12).


Tôi đã mở đầu chương này bằng cách trích dẫn một số ẩn dụ để mô tả “đời người”, và tôi muốn trích dẫn một ẩn dụ nữa. Đó là lời của nhà văn tiểu thuyết nổi tiếng người Mỹ Peter De Vries: “Cuộc đời là một siêu xa lộ chật ních với những lối rẽ gây lúng túng mà trên đó một người có trách nhiệm giảm tốc theo hướng mình đến”.


Điều đó không cần thiết xảy ra với bạn! Vua Sa-lô-môn đã khảo sát toàn diện con đường này và cho chúng ta một bản đồ có căn cứ để đi theo. Và nếu chúng ta làm theo Lời Đưc Chúa Trời, chúng ta sẽ thoả lòng.

Bạn sẵn sàng cho chuyến đi chưa?

Cuộc đời đối với bạn sẽ là gì? Hư không hay đắc thắng?



 


2. SỐNG TRONG NHỮNG QUỸ ĐẠO (Tr 1:4-18)


Black Elk, chức sắc tôn giáo người người Sioux đã nói: “Mọi điều mà một người da đỏ làm đầu ở trong một quỹ đạo. Thậm chí các mùa cũng tạo nên một quỹ đạo lớn trong sự thay đổi của chúng và luôn trở về lại nơi cũ của chúng. Đời của một người là một quỹ đạo từ thời thơ ấu trở về thời thơ ấu…”


Có lẽ bạn nghĩ Black Elk đã nghiên cứu chương đầu của sách Truyền-đạo ngoại trừ một thực tế: bao thế kỷ qua, những người đàn ông và đàn bà khôn ngoan ở các quốc gia và các nền văn hoá khác nhau đã suy gẫm các bí mật về “những quỹ đạo của đời người. Mỗi khi bạn sử dụng những nhóm từ như “chu trình cuộc đời” hay “Bánh xe số mạng” hoặc “đáo vòng”, bạn đang tham dự với Sa-lô-môn và Black Elk cùng nhiều người khác trong việc chọn một quan điểm hoàn toàn về cuộc đời và tự nhiên.


Nhưng quan điểm “tuần hoàn” này về cuộc đời đã là một gánh nặng cho Sa-lô-môn. Vì nếu đời chỉ là phần của một chu kỳ lớn mà chúng ta không có sự điều khiển nào trên nó, thì đời đáng sống chăng? Nếu chu kỳ này được lặp lại mùa này sang mùa khác, thế kỷ này sang thế kỷ khác, thì vì sao chúng ta không thể hiểu được nó và giải thích nó? Sa-lô-môn đã suy gẫm những câu hỏi này khi ông nhìn vào chu kỳ của đời người “dưới mặt trời” và ông đi đến 3 kết luận ảm đạm: không có gì thay đổi (Tr 1:4-7) không có gì mới mẻ (Tr 1:8-11) và không có gì hiểu nổi (Tr 1:12-18).


1. Không có gì thay đổi (Tr 1:4-7)

Trong phân đoạn này, Sa-lô-môn tiếp cận vấn đề với tư cách một khoa học gia và nghiên cứu “bánh xe thiên nhiên” quanh ông, đất, mặt trời, gió và nước. (Điều này nhắc chúng ta nhớ đến những “phần tử” xa xưa của trái đất, không khí, lửa và nước). Ông bị bất ngờ bởi sự thật rằng các dòng dõi con người đến và đi còn các vật của thiên nhiên vẫn còn lại. Có “sự thay đổi” chung quanh nhưng không có gì thật sự thay đổi. Mọi vật chỉ là phần của “bánh xe thiên nhiên” và góp phần vào sự đơn điệu của đời người. Vì vậy, Sa-lô-môn hỏi: “Đời người đáng sống chăng?”


Sa-lô-môn đã trình bày 4 mảnh chứng cớ chứng minh rằng không có gì thật sự thay đổi.


Trái đất (c.4)

Theo quan điểm con người, không có gì dường như vĩnh cửu và lâu bền hơn hành tinh chúng ta sống. Khi chúng ta nói rằng có cái gì đó “xác thật như thế giới”, chúng ta đang lặp lại sự tin tưởng của Sa-lô-môn nơi sự vĩnh cửu của hành tinh trái đất. Với mọi sự đa dạng của nó, thiên nhiên không thay đổi trong hoạt động của nó, để chúng ta có thể khám phá “các định luật” của nó và đặt chúng vào chỗ hoạt động cho chúng ta. Thật ra, chính “tính có căn cứ” này là cơ sở cho khoa học hiện đại.


Thiên nhiên là vĩnh cửu, nhưng con người thì tạm thời, chỉ là một khách hàng hương trên đất. Cuộc hành hương của con người là một chuyến đi ngắn, vì sự chết cuối cùng sẽ đòi người. Ngay từ đâu sách, Sa-lô-môn đã giới thiệu một chủ đề được đề cập thường xuyên trong sách Truyền-đạo sự ngắn ngủi của đời người và tính chắc chắn của sự chết.


Những cá nhân và gia đình đến và đi, các quốc gia và đế chế nổi lên rồi sụp đổ, nhưng không có gì thay đổi, vì thế giới vẫn y nguyên.

Thomas Carlyle gọi lịch sử là “một vở kịch vĩ đại, được diễn trên sân khấu của thời gian, có mặt trời thay cho đèn và sự vĩnh hằng thay cho một tấm phông”.

Sa-lô-môn sẽ nói thêm rằng y phục và phong cảnh có thể thay đổi. Thỉnh thoảng, nhưng diễn viên và kịch bản vẫn không có gì thay đổi cho lắm, và điều đó là “xác thật như thế giới”.


Mặt trời (c.5)

Giờ đây chúng ta di chuyển từ chu kỳ của sự ra đời và sự chết trên đất đến chu kỳ của ngày và đêm trên trời. “xác thật như thế giới” được thay thế bằng “chắc chắn như đêm đến sau ngày!”. Sa-lô-môn phác hoạ mặt trời mọc ở phương Đông và “vẽ” (bản dịch nguyên văn) đường đi của nó qua bầu trời trong việc đeo đuổi chân trời phía Tây. Nhưng nó hoàn thành điều gì bằng hành trình thường nhật này? Mọi sự vận động và sức nóng này là vì mục đích gì? Nói đến các từng trời, một ngày giống như ngày khác và các từng trời vẫn y nguyên.


Gió 

Từ sự di chuyển của mặt trời theo hướng Đông-Tây có thể thấy được rõ ràng, Sa-lô-môn quay sang sự chuyển động của gió theo hướng Bắc-Nam không thể thấy được. Ông không đưa ra một diễn thuyết về vật lý học của gió. Đúng hơn, ông nhận định rằng gió chuyển động không đổi, theo “những đường vòng” mà con người không thể hiểu hoặc lập biểu đồ một cách đầy đủ. Chúa chúng ta đã phán với Ni-cô-đem: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi ….chẳng biết gió đến từ đâu và cũng không biết đi đâu” (Gi 3:8).


Quan điểm của Sa-lô-môn như vầy: gió di chuyển không đổi và thay đổi hướng, nhưng nó vẫn là gió! chúng ta nghe và cảm nhận nó, và chúng ta hiểu nó làm gì, nhưng qua bao thế kỷ, gió không thay đổi chu kỳ và đường vòng của nó. Con người đến và đi, nhưng gió bất biến cứ tiếp tục vận hành mãi mãi.


Biển (c.7)

Sa-lô-môn mô tả ở đây “chu kỳ nước” giúp duy trì sự sống trên hành tinh chúng ta. Các khoa học gia cho chúng ta biết rằng bất cứ lúc nào cũng có 97 % tổng lượng nước trên trái đất có mặt ở các đại dương. Và chỉ 0,0001% ở trong không khí, sẵn sàng cho cơn mưa (bấy nhiêu là đủ cho 10 ngày mưa). Sự hợp tác của mặt trời và gió tạo khả năng bay hơi và chuyển động của hơi ẩm, và điều này giữ cho nước “tuần hoàn”. Nhưng biển không bao giờ thay đổi! Sông ngòi và mưa đổ nước ra biển, nhưng biển vẫn y nguyên.


Vì vậy, dù chúng ta nhìn xem trái đất hoặc các tầng trời, gió hoặc nước, chúng ta cũng đi đến một kết luận như nhau: thiên nhiên không thay đổi. Có sự chuyển động nhưng không có sự gia tăng, không có gì ngạc nhiên khi Sa-lô-môn nêu sự đơn điệu của đời người làm lý lẽ đầu tiên của ông để chứng minh rằng đời chẳng đáng sống (Tr 1:4-11).


Tất cả những điều này là thật chỉ khi bạn nhìn cuộc đời “dưới mặt trời” và đặt Đức Chúa Trời ở ngoài bức tranh. Khi ấy thế giới trở nên một hệ thống khép kín đồng dạng, không thể biết trước, không thể thay đổi. Nó trở thành một thế giới nơi không có sự trả lời cầu nguyện và không có những phép lạ, vì không điều gì có thể làm gián đoạn chu trình của thiên nhiên. Nếu có một Đức Chúa Trời trong loại thế giới này, Ngài không thể hành động thay chúng ta vì Ngài bị giam cầm trong “những luật của thiên nhiên” không thể bị hoãn lại.


Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thật sự xâm nhập được thiên nhiên để thực hiện những việc lớn lao và kỳ diệu! Ngài nghe và trả lời cầu nguyện cùng hành động thay dân sự Ngài. Ngài giữ mặt trời lại để Giô-suê có thể kết thúc một cuộc chiến quan trọng (Gios 10:6-14), và Ngài khiến mặt trời di chuyển ngược lại làm một dấu hiệu cho vua Ê-xê-chia (Es 38:1-8). Ngài rẽ Biển Đỏ và sông Giô-đanh cho dân Y-sơ-ra-ên (Xu 14:1-31; Gios 3:1-4:24). Ngài “tắt” mưa cho Ê-li (IVua 17:1-24)và “mở” lại (Gia 5:17-18). Ngài làm lặng gió và sóng biển cho các môn đồ (Mac 4:35-41) và trong tương lai, sẽ sử dụng sức mạnh của thiên nhiên để đem đến sự kinh hãi và sự phán xét cho những người trên đất (Kh 6:1-17).


Khi bạn bởi đức tin tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa mình, và Đức Chúa Trời trở nên Cha trên trời của bạn, bạn không còn sống trong một “hệ thống khép kín” của những chu trình đơn điệu bất tận nữa. Bạn có thể hát lên cách vui mừng rằng “Đây là thế giới của Cha tôi!” và biết Ngài sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của bạn khi bạn tin cậy Ngài (Mat 6:25-34). Cơ-đốc nhân sống trong thế giới này như những khách hành hương, không phải những tù nhân, và vì vậy họ vui mừng và xác tín.


2. Không có gì mới mẻ (Tr 1:8-11)

Nếu không có gì thay đổi, vậy thật có lý để kết luận rằng không có gì trong thế giới này mới mẻ cả: “kết luận lô-gic” này có thể đã làm thoả mãn con người trong thời Sa-lô-môn, nhưng nó làm chúng ta hôm nay giật mình. Xét cho cùng, chúng ta bị vây quanh và bị lệ thuộc bởi vô số những kỳ công mà khoa học hiện đại đã cung cấp cho chúng ta mọi thứ từ điện thoại cho đến các thiết bị điều hòa và những vị thuốc kỳ diệu. Bất cứ ai đã theo dõi Neil Armstrong bước đi trên mặt trăng, làm sao có thể đồng ý với Sa-lô-môn rằng không có gì mới dưới mặt trời?


Qua sự bàn luận này, Sa-lô-môn ngừng làm một khoa học gia và trở nên một sử gia. Chúng ta hãy theo dõi những bước trong lý luận của ông.


Loài người muốn điều gì đó mới mẻ (c.8).

Tại sao? Vì mọi sự trong thế gian này cuối cùng đem đến sự mệt mỏi, và con người khao khát cái gì đó làm họ quên đi hoặc giải thoát họ. Họ giống như người A-thên trong thời Phao-lô, phí thời gian để “chỉ lo nói hoặc nghe việc mới lạ mà thôi” (Công 17:21).

Nhưng thậm chí đang khi họ nói, xem và nghe những “việc mới” này, họ vẫn không thoả lòng với cuộc sống và sẽ làm hầu như bất cứ việc gì để tìm lối thoát. Dĩ nhiên, công nghiệp giải trí đem sự dễ chịu cho khao khát này của con người về tính mới lạ và lợi dụng sự khao khát ấy để kiếm lợi lớn.


Trong Tr 3:11 Sa-lô-môn giải thích lý do những người đàn ông và đàn bà không thoả lòng với cuộc sống: Đức Chúa Trời đã đặt “sự đời đời ở nơi lòng họ” và không ai có thể tìm được sự bình an cùng thoả lòng ở ngoài Ngài. Thánh Augustine đã cầu nguyện: “Chính Ngài đã dựng nên chúng con và lòng chúng con không yên cho đến khi chúng con yên nghỉ trong Ngài”.

Mắt không thể thỏa mãn cho đến khi nó nhìn thấy bàn tay của Đức Chúa Trời, và tai không thể thỏa mãn cho đến khi nó nghe tiếng Đức Chúa Trời. Chúng ta phải đáp ứng với lời mời gọi của Chúa mình bằng đức tin. “Hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ“ (Mat 11:28).


Thế gian chẳng cung cấp điều gì mới (c.9-10).

Tiến sĩ H.A.Ironside mục sư lâu năm của Hội thánh Chicago’s Moody, đã thường nói rằng: “Nếu nó mới, thì nó không thật và nếu nó thật, thì nó không mới”. Bất cứ điều gì mới đều đơn giản là một sự tái kết hợp của những cái cũ.

Con người không thể “sáng tạo” bất cứ điều gì mới vì con người là tạo vật, không phải Đấng Tạo Hóa. “Điều chi hiện có, đã có ngày xưa” (Tr 3:15). Thomas Alva Edison, một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất của thế giới, đã nói rằng những phát minh của ông chỉ “đưa ra những bí mật của thiên nhiên và áp dụng chúng vì hạnh phúc của nhân loại”.


Chỉ Đức Chúa Trời mới có thể sáng tạo những điều mới, và Ngài bắt đầu bằng cách khiến tội nhân trở nên “những tạo vật mới khi họ tin Chúa Giê-xu đã cứu họ” (IICo 5:17). Khi ấy họ có thể bước đi “trong đời mới” (Ro 6:4), hát lên một “bài hát mới” (Thi 40:3), và bước vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời bằng một “đường mới và sống” (He 10:20). Ngày nào đó, họ sẽ vui hưởng “Trời mới và đất mới” (Kh 211). Khi Đức Chúa Trời phán: “Này, ta làm mới lại hết thảy muôn vật” (Kh 21:5).


Vì sao chúng ta nghĩ các sự vật là mới (c.11).

Câu trả lời đơn giản là chúng ta có trí nhớ kém cỏi và chúng ta không đọc biên bản của cuộc họp trước (Tr 2:16; Tr 4:16; Tr 9:5). Người ta thường nói rằng người xưa đã đánh cắp mọi ý niệm tốt đẹp nhất của chúng ta và điều này đúng một cách đáng buồn.


Có một thanh niên đến gần tôi ở một hội nghị và hỏi rằng cậu ta có thể chia sẻ một số ý kiến mới cho nhiệm vụ thanh niên hay không. Cậu ta rất nhiệt tình khi phác họa chương trình của mình. Nhưng tôi càng lắng nghe, những ý kiến của cậu ấy càng trở nên quen thuộc. Tôi khích lệ cậu áp dụng những ý nghĩ của mình vào thực tiễn, nhưng rồi cho cậu biết rằng chúng tôi đã thực hiện tất cả những việc đó trong chương trình. “Tuổi trẻ cho Đấng Christ” trước khi cậu ta ra đời, và những cộng sự của chương trình đó vẫn đang thực hiện những việc ấy. Cậu ta hơi sửng sốt khám phá rằng thật sự chẳng có gì mới dưới mặt trời.


Dĩ nhiên, Sa-lô-môn viết về nguyên tắc cơ bản của đời người, chớ không về những phương pháp. Như cặp câu thơ quen thuộc diễn tả:

- Phương pháp thì nhiều, nguyên tắc lại ít.

- Phương pháp luôn đổi, nguyên tắc chẳng hề.


 Các nhà tư tưởng thời xưa đã biết điều này.

Triết gia Marcus Aurelius đã viết: “Những người đến sau chúng ta sẽ không thấy điều gì mới, và những người đi trước chúng ta đã không thấy điều gì hơn chúng ta đã thấy”. Những người duy nhất thật sự nghĩ rằng mình đã thấy cái gì đó mới là những người có từng trải bị hạn chế hoặc có cái nhìn không thể thấu suốt dưới bề mặt của các sự việc. Vì có còn gì đó mới xảy ra đây, họ nghĩ đó là mới, họ lầm lẫn sự mới lạ với tính căn nguyên.


3. Không có gì hiểu được (Tr 1:12-18)

Sử gia giờ đây trở thành triết gia khi Sa-lô-môn cho biết thể nào ông sắp nghiên cứu giải đáp cho vấn đề đã khuấy động ông. Là vua Y-sơ-ra-ên, ông đã có mọi tiềm lực cần thiết cho việc “thí nghiệm” bằng những giải pháp khác nhau để thấy điều gì khiến đời người là đáng sống. Trong phòng thí nghiệm của cuộc đời, ông đã thí nghiệm bằng việc hưởng lạc thú thuộc thể khác nhau (Tr 2:1-3), hoàn thành những công việc lớn lao và đắt giá (Tr 2:4-6) và tích lũy nhiều của cải (Tr 2:7-10) chỉ để khám phá rằng tất cả những điều đó chỉ là “sự hư không, theo luồng gió thổi” (c.14)


Nhưng trước khi lao vào các thí nghiệm, Sa-lô-môn để thời gian tìm cách suy nghĩ vấn đề thấu suốt. Ông là người khôn ngoan nhất trong mọi người và ông áp dụng sự khôn ngoan Chúa ban đó vào vấn đề. Ông dồn hết tâm trí vào vấn đề để đến căn nguyên của nó (“tìm kiếm”) và khảo sát nó từ mọi hướng (“nghiên cứu”). Dorothy Sayers đã viết trong một trong số những tiểu thuyết về sự bí mật của bà, “không có gì bạn không thể chứng minh chỉ khi quan điểm của bạn hạn hẹp đủ”, Sa-lô-môn đã không sử dụng cách đó.


Đây là một số kết luận ướm thử của ông:

Cuộc đời là khắc nghiệt, nhưng đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời (c.13). Ông mô tả cuộc đời như một “sự lao khổ buồn phiền” (“công việc khốn khổ” NIV) chỉ làm bạn mệt mỏi (“có thể bị quấy rầy”). Dĩ nhiên, khi Đức Chúa Trời trước hết ban sự sống cho loài người, thế gian chưa bị rủa sả vì tội lỗi (Sa 3:14).

Vì sự sa ngã của loài người, “muôn vật đều than thở và chịu gánh nặng với những cơn đau khi sanh nở” (Ro 8:22 NKJV). Đây là một lý do đời người quá khó khăn. Một ngày nào đó, khi Chúa chúng ta tái lâm, tạo vật sẽ được giải thoát khỏi sự ràng buộc này.


Khi đang ngồi trong sân sau nhà tôi vào tối nọ, tôi nghe tiếng hót vui vẻ của một con chim cổ đỏ từ trên một dây ăng-ten TV. Khi tôi lắng nghe nó hót, tôi đã tự giảng một bài giảng:


Từ sớm bình minh, chú chim đó đã chẳng làm gì mà chỉ tìm cách tồn tại. Nó đã mệt lữ vì trốn tránh kẻ thù rồi kiếm thức ăn cho bản thân vác các con nhỏ của nó. Vậy mà, khi nó sống đến cuối ngày, nó hát về điều đó!


Còn tôi đây, được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời và được cứu rỗi bởi ân điển Đức Chúa Trời, và tôi phàn nàn thậm chí về những điều bực mình nhỏ nhặt của đời sống. Ngày nào đó, tôi sẽ giống như Chúa Giê-xu, chỉ vì lý do đó thôi, tôi phải hát lên những lời ca ngợi Đức Chúa Trời giống như con chim cổ đó ấy.


Cuộc đời không dễ dàng hơn nếu bạn tìm cách chạy khỏi nó (c.14).

Tất cả công việc được làm “dưới mặt trời” chẳng bao giờ thật sự làm thoả lòng. Chúng chỉ là “hư không theo luồng gió thổi” (c.14). Những người làm việc quá độ và những kẻ nghiện rượu đang chạy trốn thực tại và sống bằng những những điều thay thế, và một ngày nào đó, chiếc bong bóng ảo tưởng sẽ nổ tung. Chúng ta chỉ khiến cho cuộc đời khắc nghiệt hơn khi chúng ta tìm cách trốn thoát. Thay vì chạy trốn khỏi cuộc đời, chúng ta phải chạy đến với Đức Chúa Trời và để Ngài khiến cho cuộc đời đáng sống.


Cửa thoát cuối cùng là sự tự sát, và Sa-lô-môn sẽ có điều gì đó để nói về sự khao khát muốn chết của con người. Một số chuyên gia tuyên bố rằng có 46.000 người tự sát ở Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ hằng năm, và ước tính có 400.000 người tìm cách tự sát. Nhưng một khi bạn đã quyết định sống và bác bỏ ngay sự tự sát như một chọn lựa, vậy bạn phải chọn cách bạn sẽ sống thế nào.Cách đó sẽ là bởi tin nơi bản thân bạn và làm điều bạn có thể, hay bởi đức tin nơi Chúa?


Không phải mọi điều có thể thay đổi được (c.15).

Có lẽ Sa-lô-môn một chuyên gia về châm ngôn (IVua 4:32) đã trích dẫn một câu nói nổi tiếng ở đây để làm nên quan điểm của ông.

Ông thực hiện một tuyên bố tương tự trong IVua 7:13. Nếu chúng ta tiêu mọi thời giờ và năng lực mình để tìm cách làm thẳng mọi điều bị cong quẹo, chúng ta sẽ chẳng còn gì để sống cuộc đời mình với nó! Và nếu chúng ta tìm cách phí những gì mình có, chúng ta sẽ đi đến kết cục phá sản.


Tóm lại, Sa-lô-môn nói “Quá khứ không thể luôn được thay đổi và thật dại dột khi phiền muộn về những gì bạn đã có thể làm” Kor Taylor giải thích c.15 “Điều gì sai không thể được sửa lại, đó là nước ở trên đập và không ích lợi chi khi nghĩ đến điều gì đã có thể” (TLB)


Tuy nhiên, chúng ta phải nhắc nhở chính mình rằng Đức Chúa Trời có quyền năng làm ngay thẳng những gì bị cong quẹo và bổ sung những gì khiếm khuyết. Ngài không thể thay đổi quá khứ, nhưng Ngài có thể thay đổi cách mà quá khứ ảnh hưởng đến chúng ta. Đối với tội nhân hư mất quá khứ là một cái neo nặng nề kéo người ấy xuống, nhưng đối với con cái Đức Chúa Trời, quá khứ thậm chí với tội lỗi và những sai lâm của nó – là một bánh lái hướng chúng ta tới phía trước. Đức tin là quan trọng.


Khi thi hành chức vụ trên đất, Chúa chúng ta thường làm thẳng những gì cong quẹo và bổ sung những gì khiếm khuyết (Lu 13:11-17; Mat 12:10-13; Mat 15:29-39; Gi 6:1-13). Con người không thể làm được điều này nhờ sự khôn ngoan hay năng lực riêng nhưng “không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được” (Lu 1:37). Sa-lô-môn đã nhìn xem những vấn đề này theo một lợi điểm “dưới mặt trời” và đó là lý do chúng dường như không thể giải quyết được.


Sự khôn ngoan và kinh nghiệm sẽ không giải quyết được mọi vấn đề (c.16-18).

Những ai trải qua cuộc đời sống bằng những giải thích sẽ luôn luôn bất hạnh vì ít nhất 2 lý do.

- Thứ nhất, khía cạnh này của thiên đàng, không có lời giải thích nào cho một số sự việc xảy ra, và Đức Chúa Trời không bị buộc phải thanh minh chúng. (Thật ra, nếu Ngài thanh minh, chúng ta có thể hiểu được! ).

- Thứ hai, Đức Chúa Trời đã định rằng dân sự Ngài sống bằng những lời hứa chớ không bởi những lời giải thích, bởi đức tin chớ không bởi ngoại cảnh. “Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!” (Gi 20:29)


Nếu có ai đó được trang bị để giải quyết những nan đề của cuộc sống và cho chúng ta biết cuộc đời ra sao, Sa-lô-môn chính là người đó. Ông là người khôn ngoan nhất, và dân từ khắp nơi đã đến nghe sự khôn ngoan của ông (IVua 4:29-34). Sự giàu sang của ông vượt hơn sự tính toán đến nỗi ông có những tiềm lực sẵn sàng để thực hiện bất cứ điều gì ông muốn. Ông còn kinh nghiệm “sự ngu dại điên cuồng” (sự ngu xuẩn, trái ngược với sự khôn ngoan trong sự tìm kiếm những giải đáp đúng đắn của mình. Không gì quá khó đối với ông.)


Nhưng những thuận lợi này đã không thể giúp Sa-lô-môn tìm ra mọi giải đáp ông đang tìm kiếm. Thật ra, sự khôn ngoan vĩ đại của ông chỉ thêm vào những khó khăn của ông mà thôi, vì sự khôn ngoan và tri thức làm gia tăng sự phiền não và đau khổ.

Những người chưa bao giờ suy tư những vấn đề cuộc sống, những người sống vô tư ngày nay qua ngày nọ, không bao giờ cảm nhận nỗi đau của sự vật lộn với Đức Chúa Trời trong việc tìm cách hiểu các đường lối Ngài. Càng tìm kiếm tri thức và sự khôn ngoan, chúng ta càng biết mình dốt nát hơn. Điều này chỉ thêm vào gánh nặng. T.S.Eliot đã viết trong tác phẩm “Những dàn hợp xướng từ ‘Đá’” (Choruses from ‘The Rock’). Một câu tục ngữ xưa nói rằng “một người khôn ngoan chẳng bao giờ hạnh phúc”.


Tất cả những điều này gợi lại vườn Ê-đen và sự đề nghị của Sa-tan với Ê-va rằng nếu bà ăn trái cây đó, bà sẽ có sự hiểu biêt về thiện và ác (Sa 3:1-24). Khi A-đam và Ê-va phạm tội, họ đã có sự hiểu biết dựa trên kinh nghiệm về thiện ác, nhưng vì họ bị xa cách Đức Chúa Trời, sự hiểu biết này chỉ thêm vào cho họ sự phiền não. Đó là con đường của loài người kể từ ấy. Dù là máy bay phản lực, thuốc diệt côn trùng hay vô tuyến truyền hình, mỗi tiến bộ trong tri thức và thành quả của loài người chỉ tạo ra một tập hợp những vấn đề cho xã hội mà thôi.


Đối với một số người, cuộc đời có thể đơn điệu và vô nghĩa nhưng đời không cần phải là vậy. Đối với tín đồ Cơ-đốc, cuộc đời là một cánh cửa mở, không phải một cái vòng kín. Có những kinh nghiệm hằng ngày về những ơn phước mới tù Chúa. Thật vậy, chúng ta không thể giải thích được mọi điều, nhưng cuộc đời không được xây dựng trên những giải thích: nó được xây dựng trên những lời hứa và chúng ta có nhiều lời hứa trong Lời Đức Chúa Trời! .


- Khoa học gia này cho chúng ta biết rằng thế gian là một hệ khép kín và không có gì thay đổi.

- Sử gia này cho chúng ta biết rằng cuộc đời là một cuốn sách đóng lại và không có gì mới.

- Triết gia này cho chúng ta biết rằng cuộc đời là một vấn đề sâu sắc và không có gì hiểu nổi.


Nhưng Chúa Giê-xu là “quyền phép của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời” (ICo 1:24), và Ngài đã xâm nhập một cách kỳ diệu vào lịch sử để đem đến cuộc đời mới cho mọi kẻ tin nhận Ngài.


Nếu bạn đang “sống trong những quỹ đạo”, vậy hãy quay đời sống bạn về với Ngài.



 


3. CHÁN GHÉT CUỘC ĐỜI? (Tr 2:1-26)


“Chỉ có một bước từ sự hùng vĩ đến cái lố bịch”. Napoleon được cho rằng đã nói lời tuyên bố ấy sau sự rút lui nhục nhã của ông khỏi Mascow vào mùa Đông 1812. Sự kết hợp cua tinh thần chống cự ngoan cường của dân Nga với một mùa Đông khắc nghiệt ở Nga là quá sức đối với quân đội Pháp, và chiến thắng hùng vĩ được mong đợi đã trở thành sự thất bại nhục nhã.


Như một phần của sự tìm kiếm “đời sống tốt đẹp”. Vua Sa-lô-môn đã xem xét mọi việc từ sự hùng vĩ đến cái lố bịch. Trong phòng thí nghiệm lớn của cuộc đời, ông làm thí nghiệm bằng sự việc này đến sự việc khác, luôn ứng dụng sự khôn ngoan được Đức Chúa Trời ban cho mình (c.3,9). Trong chương này, Sa-lô-môn ghi lại 3 giai đoạn trong những thí nghiệm của ông khi ông nghiên cứu một ý nghĩa thỏa lòng cho cuộc đời.


1. Ông xem xét cuộc đời (Tr 2:1-11)

Sa-lô-môn đã có phương tiện và quyền hạn để làm bất cứ điều gì lòng ông mong muốn. Ông quyết định tra xét lòng mình để thấy ông sẽ đáp ứng ra sao với 2 kinh nghiệm rất thông thường của cuộc đời: sự vui sướng (c.1-3) và công việc (c.4-11).


Sự vui sướng (Tr 2:1-3).

Dân Hê-bơ-rơ tin một cách đúng đắn rằng Đức Chúa Trời tạo nên loài người để vui hưởng những ơn phước của sự sáng tạo của Ngài (Thi 104:1-35; ITi 6:17). Mùa gặt là thời gian vui mừng cho họ khi họ thu hoạch những ơn phước của Đức Chúa Trời trên công lao của họ.

Ở phần kết luận của sách, Sa-lô-môn khuyên độc giả vui hưởng những ơn phước của Đức Chúa Trời suốt những năm tuổi trẻ của họ, trước khi tuổi già đến và thân thể bắt đầu tan rã (Tr 12:3). Tám lần trong Truyền đạo, Sa-lô-môn sử dụng từ Hê-bơ-rơ mang ý nghĩa “sự vui sướng”, vì vậy rõ ràng ông không xem Đức Chúa Trời là một người phá đám trên thiên đàng, dò xét tỉ mỉ để chắc chắn rằng không ai có một thời gian tốt lành.


Sa-lô-môn đặc biệt đề cập đến rượu và tiếng cười như 2 nguồn vui thú được sử dụng trong thí nghiệm của ông. Chỉ cần tưởng tượng một chút để thấy vị vua này ở trong phòng tiệc lộng lẫy (IVua 10:21), ăn thức ăn ưa thích (IVua 4:22-23), uống rượu hảo hạng nhất và xem những kẻ múa hát tài năng nhất (Tr 2:8b). Nhưng khi bữa tiệc tàn và vua Sa-lô-môn xét lòng mình, nó vẫn trống rỗng và không được thỏa mãn. Lạc thú và sự cười đùa chỉ là sự hư không, quá nhiều bong bóng xà phòng nhanh chóng vỡ tan và chẳng để lại gì đằng sau.


Có lẽ nhiều tôi tớ của vua ghen tị với Sa-lô-môn và ước ao đổi địa vị với ông, nhưng vị vua này đã bất hạnh. Ông viết trong Ch 14:13 “Dầu trong lúc cười cợt, lòng vẫn buồn thảm và cuối cùng sự vui là sự nặng nề”.


Thế gian hôm nay điên cuồng vui thú. Hằng triệu người sẽ trả hầu như bất cứ khoản tiền nào để “mua kinh nghiệm” và để tạm thời thoát khỏi những gánh nặng của cuộc đời. Mặc dù không có gì sai trật với sự vui đùa vô tư, nhưng người xây dựng cuộc đời mình chỉ trên việc tìm kiếm thú vui chắc chắn sẽ thất vọng lúc cuối cùng.


Tại sao? Vì một lẽ, sự tìm kiếm thú vui thường trở nên một nỗ lực ích kỷ và sự ích kỷ hủy phá niềm vui thật. Những người sống vì thú vui thường lợi dụng kẻ khác để đạt được điều mình muốn, và họ kết thúc bằng những mối liên hệ bị rạn vỡ cũng như tấm lòng trống trải. Con người quan trọng hơn sự việc và cảm xúc.Chúng ta phải là những nguồn mạch, chớ không phải những bể chứa, sự vui mừng lớn nhất đến khi chúng ta chia sẻ những niềm vui của Đức Chúa Trời cho người khác.


Nếu bạn chỉ sống vì thú vui, sự vui mừng sẽ giảm đi trừ phi cường độ của thú vui gia tăng. Khi ấy bạn đi đến một điềm trở lại thu nhỏ, nơi mà chỉ có một chút hoặc chăng có sự vui mừng nào cả, chỉ là sự nô lệ. Ví dụ, người ta càng uống rượu, người ta càng tìm được ít niềm vui từ nó.

Điều này có nghĩa là họ phải có rượu nhiều hơn và rượu mạnh hơn để có thú vui, kết quả đáng buồn là sự khao hát không thoả lòng. Thay cho rượu, những thứ thay thế như thuốc phiện, bài bạc, tình dục, tiền bạc danh tiếng hoặc bất cứ sự theo đuổi nào khác, và nguyên tắc này sẽ chắc chắn đúng: khi chỉ có lạc thú là trung tâm của đời sống, kêt quả cuối cùng sẽ là sự thất vọng và trống trải.


Có một lý do thứ 3 vì sao chỉ lạc thú thì không bao giờ có thể đem đến sự thoả lòng: nó chỉ lôi cuốn một phần con người và phớt lờ toàn bộ sự tồn tại. Đây là sự khác nhau chính giữa “sự giải trí” cạn cợt và “sự vi mừng” thật, vì khi cả con người có liên quan, sẽ có cả sự vui mừng và sự phong phú, sự giải trí có chỗ của nó, nhưng chúng ta phải nhớ rằng nó chỉ giúp chúng ta thoát khỏi cuộc sống một cách tạm thời. Khoái lạc thật không chỉ đem đến sự vui sướng, mà còn xây dựng tính cách bằng sự làm phong phú cả con người.


Công việc (Ch 2:4-11).

Kế đến, Sa-lô-môn tham dự vào mọi loại dự án, hy vọng khám phá điều gì đó khiến cuộc đời đáng sống. Ông khởi đầu bằng những “công việc cả thể” (c.4-6), gồm có nhà cửa (IVua 7:1-51), thành thị (IISu 8:4-6), vườn tược, vườn nho, vườn cây ăn quả và rừng (IVua 4:33) cùng hệ thống nước cần để phục vụ chúng. Dĩ nhiên, Sa-lô-môn cũng giám sát việc xây dựng đền thờ (IVua 5:1-18), một trong những công trình xây dựng vĩ đại nhất trong thế giới cổ đại.


Ông không chỉ có công việc, ông còn có nhân công (c.7a). Ông có 2 loại tôi tớ, những người ông mua và những người được sinh ra trong gia đình ông. Ông có thể thêm vào rằng ông đã “chọn” 30.000 người Do-thái để làm những dự án khác nhau (IVua 5:13-18). Cha của ông là Đa-vít đã điều động những người ngoại trong đất (ISu 22:2), nhưng Sa-lô-môn chọn chính dân của ông và dân sự phẫn uất điều đó (IVua 12:1-33).


Dĩ nhiên, Sa-lô-môn đã tích lũy của cải (c.7b-8a) trong những bầy súc vật (IVua 8:63) cũng như vàng và bạc (IVua 4:21; IVua 10:1). Ông là người giàu có nhât và là người khôn ngoan nhất trên cả thế giới, nhưng ông bất hạnh vì chỉ có sự hoạt động thôi thì không đem lại sự vui sướng lâu dài.


Không thể có sự vui mừng trong việc thực hiện những dự án lớn lao, nhưng điều gì xảy ra khi công việc được hoàn tất? Sa-lô-môn cảm thấy vui vẻ trong mọi công lao mình (Tr 2:10). Nhưng sau đó, khi ông xem xét mọi công việc mình, ông chỉ thấy “sự hư không và phiền toái của linh hồn” (Tr 2:11). Hành trình là một thú vui, nhưng nơi đến mang lại đau khổ. Nhà truyền-đạo người Mỹ Henry Ward Bucher đã nói: “Sự thành công đầy hứa hẹn cho đến khi con người đạt được nó và khi ấy nó là một cái tổ của năm trước mà từ đó những con chim đã bay ra”.


Chúng ta không nên kết luận rằng Sa-lô-môn đang lên án chính công việc, vì công việc là một phước hạnh từ Đức Chúa Trời. A-đam có việc để làm trong Vườn từ trước khi ông phạm tội.

“Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn” (Sa 2:15).

Trong sách Châm ngôn, Sa-lô-môn đề cao sự siêng năng và lên án sự lười biếng, vì ông biết rằng bất cứ công việc lương thiện nào cũng có thể được làm cho vinh hiển của Đức Chúa Trời (ICo 10:31). Nhưng chỉ có công việc mà thôi thì không thể thỏa mãn lòng người, cho dù công việc đó có thể thành công ra sao (Es 55:2).


Điều này giúp chúng ta hiểu vì sao nhiều người thành đạt là những người bất hạnh. Ambrose Bierce gọi thành tích là “sự chết của nỗ lực và sự ra đời của nỗi chán chường”. Điều này thường xảy ra.

Người quá thành đạt thường là một người cố gắng thoát khỏi chính mình bằng cách trở thành một người làm việc quá độ, và điều này chỉ đem lại kết quả là sự thất vọng. Khi những người làm việc quá độ về hưu, họ thường cảm thấy vô dụng và đọi khi chết vì thiếu sự hoạt động có ý nghĩa.

Sa-lô-môn tra xét đời sống, và lòng ông nói “hư không!”


2. Sa-lô-môn phẫn nộ cuộc đời (Tr 2:12-23)

“Ta bèn xây lại đặng xem xét” đơn giản nghĩa là “Ta xem xét các sự việc theo quan điểm khác”. Điều ông làm là nhìn xem sự khôn ngoan của mình (c.12-17) và sự giàu có của mình (c.18-23) trong ánh sáng của tính chắc chắn về sự chết. Có gì tốt lành để khôn ngoan và giàu có nếu bạn sắp chết và để lại mọi thứ đằng sau?


Tính chắc chắn của sự chết là một chủ đề Sa-lô-môn thường đề cập trong sách Truyền-đạo (Tr 1:4; Tr 2:14-17; Tr 3:18-20; Tr 5:15-16; Tr 6:6; Tr 8:8; Tr 9:2-3; Tr 12:7-8). Ông không thể dễ dàng tránh vấn đề này khi ông nhìn cuộc đời “dưới mặt trời”, vì sự chết là một trong những sự thật rõ ràng của cuộc đời. Nhà văn tiểu luận người Pháp Montaigne đã viết “Triết học không phải là điều gì khác hơn cho một người chuẩn bị chính mình để chết”. Chỉ khi con người được chuẩn bị để sống là người được chuẩn bị để chết.


Ông xem xét sự khôn ngoan của mình (Tr 2:12-17).

Vì người khôn ngoan và kẻ dại dột đều sẽ chết, giá trị của sự khôn ngoan là gì? Trước hết, chúng ta có thể để sự khôn ngoan của mình lại để hướng dẫn thế hệ sau. Nhưng làm sao chúng ta có thể chắc rằng họ sẽ quý trọng nó hoặc làm theo nó?

“Người nào đến sau vua sẽ có thể làm gì?” gợi ý rằng thật dại dột cho những thế hệ thành công khi thực hiện “những thí nghiệm” như nhau (và những sai lầm) khi họ có thể học ở tổ phụ mình. Nhưng họ làm giống y! không có gì mới dưới mặt trời (Tr 1:9).

Họ chỉ có thể lặp lại những gì chúng ta đã làm.


Mặc cho sự thật rằng mọi người phải chết sự khôn ngoan vẫn có giá trị lớn hơn sự ngu dại chúng khác nhau như đêm và ngày! Người khôn ngoan thấy rằng sự chết sắp đến và sống tùy theo đó, còn kẻ dại dột đi trong sự tối tăm và không có sự sửa soạn. Tuy nhiên việc không sửa soạn cho sự chết không nhất thiết là giải thoát Sa-lô-môn khỏi gánh nặng về đời sống. Vì một người phải mất một thời gian dài để học cách sống và rồi sự sống chấm dứt. Mọi điều này dường như quá vô ích.


Cả người khôn ngoan lẫn kẻ ngu dại đều chết và người khôn ngoan với kẻ ngu dại đều bị lãng quên (c.16).

Dĩ nhiên, danh tiếng của Sa-lô-môn vẫn tồn tại (IVua 4:29-34; Mat 6:28-30). Nhưng đa số những người “nổi tiếng” đã chết đều hiếm khi được đề cập trong những cuộc nói chuyện thôngthường, dù tiểu sử họ được tìm thấy trong các bộ sách bách khoa. (Tôi để ý rằng một số những tiểu sử này trở nên nhỏ bé dần qua từng đợt xuất bản).


Sa-lô-môn kết luận “Vậy, ta ghét đời sống!” nhưng ông không có ý định tự vẫn, vì sự chết là một điều ông muốn tránh. Nhà nhân Văn học người Pháp Voltaire đã nói: “Tôi ghét đời sống nhưng tôi sợ chết!”. Sa-lô-môn sẽ đồng ý với ông. Đời sống dường như vô lý và vô ích đối với Sa-lô-môn, tuy vậy nó vẫn tốt hơn sự chết. Chúng ta có thể diễn giải nhận định của ông “Vì vậy, ta phẫn nộ đời sống”.


Tín hữu Cơ-đốc giàu có chắc chắn sẽ không ghét đời sống, cho dù mọi hoàn cảnh có thể khó khăn ra sao. Thật có một số người cao trọng đã muốn chết, chẳng hạn như Gióp (Giop 3:21-7:15), Môi-se (Dân 11:15), Ê-li (IVua 19:4) và Giô-na (Gion 4:3) nhưng chúng ta không nên lấy những ví dụ đặc biệt này làm gương cho mình noi theo. Tất cả những người này cuối cùng đã thay đổi tư tưởng của họ.


Không, Cơ-đốc nhân phải “yêu đời” (IPhi 3:10 được trích từ Thi 34:12), tìm cách đặt những gì tốt đẹp nhất vào nó và rứt ra từ nó những gì tốt đẹp nhất, để quy vinh hiển Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể hưởng mọi điều trong đời sống, hay có thể giải thích mọi điều về đời sống, nhưng điều đó không quan trọng. Chúng ta sống bằng những lời hứa chớ không bằng những giải thích, nhưng chúng ta biết rằng “công khó không vô ích trong Chúa” (ICôr 15:58).


Ông xem xét sự giàu có của mình (Tr 2:18-23).

Sa-lô-môn không chỉ ghét đời sống mà ông còn ghét sự giàu có là kết quả sự làm việc khó nhọc của ông. Dĩ nhiên, Sa-lô-môn được sinh ra đã giàu có và sự giàu có lớn lao đến với ông vì ông là vua. Nhưng ông đang nhìn cuộc đời “dưới mặt trời” và nói với “những người bình thường” đang lắng nghe ông bàn luận. Ông đưa ra 3 lý do vì sao ông phẫn nộ sự giàu có.


(1). Trước hết, bạn không thể giữ nó (c.18).

Ngày nay sẽ đến khi Sa-lô-môn chết và để lại mọi thứ cho kẻ thừa kế mình. Điều này nhắc chúng ta về lời cảnh cáo của Chúa trong vì dụ về Người giàu ngu dại (Lu 12:13-21) và lời của Phao-lô trong ITi 6:7-10. Một tục ngữ Do-thái nói rằng “không có túi tiền nào trong vải liệm”.


Tiền bạc là một phương tiện trao đổi.

Trừ khi nó được tiêu xài, nó chỉ có thể làm một chút hoặc chẳng làm gì cho bạn. Bạn không thể ăn được tiền, nhưng bạn có thể sử dụng nó để mua thức ăn. Nó sẽ không giữ cho bạn được ấm, nhưng nó sẽ mua nhiên liệu.

Một nhà văn trong tạp chí The Wall Street gọi tiền là “một vật có thể được sử dụng như một hộ chiếu phổ biến đến mọi nơi trừ thiên đàng, và như một người cung cấp phổ biến mọi điều trừ hạnh phúc”.


Dĩ nhiên, bạn và tôi là những quản gia về của cải mình, Đức Chúa Trời là Đâng Chu Cấp (Phuc 8:18) và là Chủ, chúng ta có đặc quyền hưởng và sử dụng nó vì sự vinh hiển của Ngài. Ngày nào đó, chúng ta sẽ phải khai trình những điều mình đã làm với những sự ban cho rời rộng của Ngài. Mặc dù chúng ta không thể mang theo của cải khi qua đời, chúng ta có thể “gởi nó đi trước” khi chúng ta sử dụng nó hôm nay theo ý muốn Đức Chúa Trời (Mat 6:19-34).


(2). Thứ hai, chúng ta không thể bảo vệ nó (c.19-20).

Thật tệ hại khi chúng ta phải để lại của cải mình, nhưng còn tệ hại khi chúng ta có thể để lại nó cho ai đó sẽ hoang phí nó! Giả sử người đó là một kẻ dại và phá đổ mọi điều chúng ta đã xây dựng? Sa-lô-môn đã không biết điều này lúc đó, nhưng con trai ông là Giê-rô-bô-am sẽ làm chính điều đó (IVua 11:41-12:24).


Nhiều người đã cố gắng viết những ý muốn của họ trong một cách như vậy, rằng tài sản của họ không thể bị phung phí, nhưng họ không luôn thành công. Mặc dù có thể đưa ra chỉ dẫn và gương tốt, những người cha người mẹ không có cách nào biết thế hệ sau sẽ làm gì với của cải họ đã lao động quá vất vả để tích lũy được.

Phản ứng của Sa-lô-môn là đi quanh quẩn và chỉ cam chịu (“thất vọng” c.20) những sự thật của sự sống và sự chết. Như nhà truyền đạo mộc mạc đã nói: “Chúng ta đều phải học cách hợp tác với những điều không thể tránh được!”


(3). Thứ ba, chúng ta không thể hưởng nó như đáng phải được (c.21-23).

Nếu tất cả những gì chúng ta làm là suy nghĩ về của cải mình và lo lắng về những gì sẽ xảy đến với nó, chúng ta sẽ khiến cuộc sống mình trở nên khốn khổ. Chúng ta làm mọi việc và rồi để của cải lại cho ai đó thậm chí đã không làm việc để có nó (c.21).

Có công bằng chăng? Chúng ta đã trải những ngày cực nhọc khốn khổ và có nhiều đêm trằn trọc, nhưng những kẻ thừa kế chúng ta chẳng bao giờ từng trải bất cứ điều gì trong việc này. Tất cả dường như quá vô ích “Vậy, ích chi cho người lao khổ, cực lòng mà làm việc dưới mặt trời?” (c.22).


Ở điểm này, Sa-lô-môn có vẻ rất bi quan, nhưng ông không như vậy lâu. Bằng một bước của đức tin, ông đi đến giai đoạn thứ ba trong thí nghiệm của mình.


3. Ông chấp nhận cuộc đời (Tr 2:24-26)

Đây là điều đầu tiên trong 6 “kết luận” ở sách Truyền-đạo, mỗi kết luận nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chấp nhận cuộc đời như món quà của Đức Chúa Trời và vui hưởng nó trong ý muốn Đức Chúa Trời (Tr 3:12-15,22; Tr 5:18-20; Tr 8:15;Tr 9:7-10; Tr 11:9-10). Sa-lô-môn không tán thành rằng “hãy ăn, uống và cưới gả, vì ngày mai chúng ta chết!” 

Đó là triết lý của thuyết định mệnh, không phải đức tin. Đúng hơn, ông muốn nói “Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời về những gì bạn có và hãy tưởng nó để quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời”. Phao-lô bày tỏ sự tán thành của ông đối với thái độ này khi ông kêu gọi chúng ta tin cậy “nơi Đức Chúa Trời, là Đấng ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (ITi 6:17).


Sa-lô-môn giải thích rõ rằng đó không chỉ là những phước hạnh từ Đức Chúa Trời, mà thậm chí sự tận hưởng những phước hạnh cũng là món quà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta (c.24). Ông xem đó là “tai họa” nếu một người đã có tất cả những phước hạnh của cuộc đời từ Đức Chúa Trời nhưng không thể hưởng chúng (Tr 6:1-5). Thật dễ hiểu vì sao dân Do-thái đọc sách Truyền-đạo vào kỳ lễ chu cấp dư dật của Đức Chúa Trời cho những nhu cầu của họ.


Cách dịch c.25 trong Bản dịch King James có phần rắc rối, Kinh Thánh New American Standard dễ hiểu hơn: “Vì ai có thể ăn và ai có thể được sự vui sướng nếu không có Ngài?” Người nông dân cầu nguyện tại bàn ăn rằng “Cảm tạ Chúa vì có thức ăn và sự tiêu hóa tốt” biết Sa-lô-môn đang viết về điều gì.


Điều quan trọng là chúng ta tìm cách làm đẹp lòng Chúa (c.16) và tin cậy Ngài sẽ đáp ứng mọi nhu cầu. Đức Chúa Trời muốn ban cho chúng ta sự khôn ngoan, tri thức và sự vui mừng, 3 món quà này giúp chúng ta có thể đánh giá cao những phước hạnh của Đức Chúa Trời và đặt sự vui thoả trong chúng.

“mọi sự thì chưa đủ,” chúng ta cũng phải có loại tính cách giúp ta có thể sử dụng “mọi sự” cách khôn ngoan và vui hưởng chúng cách đích đáng.


Đối với tội nhân thì không như thế (từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “không đủ, thiếu chứng cớ”). Tội nhân có thể chất đống mọi loại của cải, nhưng người ấy không bao giờ có thể thật sự vui hưởng chúng bởi vì người ấy đã đặt Đức Chúa Trời ra khỏi cuộc đời mình. Thật ra, của cải của người ấy cuối cùng có thể đi đến với những người công bình. Điều này không phải lúc nào cũng thế, nhưng Đức Chúa Trời thật khiến nó xảy ra hầu cho “của cải kẻ có tội dành cho người công bình” (Ch 13:22).

Khi ra khỏi Ê-díp-tô, dân Y-sơ-ra-ên đã lột trần những người chủ Ê-díp-tô (Xu 3:22 Xu 12:36) và suốt lịchs ử Do-thái, những đội quân của họ đã dành được chiến lợi phẩm to lớnqua nhiều cuộc chinh phạt của mình. Thật ra, nhiều của cải thâu vào đền thờ xuất phát từ những thành tích quân sự của Đa-vít.


Đối với tội nhân, thật là “sự hư không và phiền toái của linh hồn” (“vô nghĩa, một cuộc đuổi bắt gió”, NIV) khi chất chồng của cải nhưng không để ý đến Đức Chúa Trời. Ngoài Đức Chúa Trời, không thể có những điều mà tiền bạc không thể mua được, miễn sao bạn đừng đánh mất những điều tiền bạc không thể mua được.


Vấn đề này hoàn tất phần đầu của sách Truyền-đạo. Vấn đề được tuyên bố. Sa-lô-môn đã trình bày 4 lý luận dường như để chứng minh rằng:

- Đời người thật sự khôn ngoan (Tr 1:4-11),

- Tính hư không của sự khôn ngoan (Tr 1:12-18),

- Sự vô ích của của cải (Tr 2:1-11) và

- Tính chắc chắn của sự chết (Tr 2:12-23).

Lý luận của ông có vẻ là xác thật nếu bạn nhìn đời sống “dưới mặt trời”. Nó chỉ xuất phát từ quan điểm con người.


Nhưng khi bạn đem Đức Chúa Trời vào bức tranh, mọi sự thay đổi! (Hãy chú ý rằng Đức Chúa Trời không được đề cập từ (Tr 1:14-2:23). Sự sống và sự chết, sự khôn ngoan và sự giàu có, đều ở trong tay Ngài, Ngài muốn chúng ta vui hưởng những phước hạnh của Ngài và làm đẹp lòng Ngài. Nếu chúng ta vui mừng trong những sự ban cho, nhưng quên Đấng ban cho, vậy chúng ta là những kẻ sùng bái thần tượng vô ơn.


Trong 8 chương kế tiếp, Sa-lô-môn sẽ xem xét mỗi điều trong 4 lý luận này và bác lại chúng. Cuối mỗi lý luận ông sẽ nói “hãy vui hưởng cuộc đời và cảm tạ Đức Chúa Trời” (xem phần đại cương). Trong những nàm luận của mình, ông sẽ thành thật đối diện với những thử thách và những bất công của cuộc đời, những điều khiến chúng ta kêu lên “Chúa ơi, tại sao?.”

Nhưng Sa-lô-môn không phải là một người lạc quan hời hợt mang cặp kính tô hồng, cũng không phải là một người bi quan hoài nghi mang cặp mảnh da che mắt. Đúng hơn, ông sử dụng một quan điểm quân bình về sự sống với sự chết và giúp chúng ta nhìn 2 vấn đề theo quan điểm đời đời của Đức Chúa Trời.


Chuck Colson, người sáng lập nhóm Prison Fellomship nói rằng: “Đời không giống như một cuốn sách. Đời không hợp lý, hay có thể cảm giác được hoặc theo tuần tự. Đời là một sự hỗn độn phần lớn thời gian. Và thần học phải được sống giữa sự hỗn độn đó”.

Sa-lô-môn sẽ cung cấp cho chúng ta thần học đó.

Sống với nó là điều tùy nơi chúng ta và hãy thỏa lòng!



 


4. THỜI GIAN VÀ CÔNG KHÓ (Tr 3:1-22)


Hãy xét những lời trích dẫn này của 2 giáo sự nổi tiếng.


“Tại sao các sự việc không nên quá ngớ ngẩn, vô ích và tạm bợ? Chúng như thế, và chúng ta như thế, chúng và chúng ta song hành rất giỏi”.


“Không có lý do nào để cho rằng cuộc đời của một người có bất cứ ý nghĩa nào hơn đời sống của loài côn trùng tầm thường nhất bò lê từ sự hủy diệt này đến sự hủy diệt khác”. Lời đó được viết bởi Joseph Wood Krutch, giáo sư Anh ngữ tại Đại học Columbia từ 1937-1952.


Cả 2 người này đều xuất sắc trong lãnh vực của mình, nhưng đa số chúng ta không đồng ý với điều họ viết. Chúng ta tin rằng điều gì đó có liên quan trong đời sống con người cao hơn sự tồn tại tạm bợ. Chúng ta không giống như loài côn trùng.

Chắc chắn tiến sĩ Krutch biết rằng loài côn trùng có những chu kỳ sự sống, nhưng những người nam người nữ có lịch sử. Một con ong này khá giống con ong khác. Nhưng con người duy nhất và không có 2 câu chuyện y như nhau: Bạn có thể viết “Đời sống loài ong”, nhưng bạn không thể viết “Đời sống đàn ông hay đời sống đàn bà”.


Nếu chúng ta là những cá nhân không duy nhất, vậy chúng ta không quan trọng, nếu chúng ta không quan trọng, vậy cuộc đời không có ý nghĩa. Nếu cuộc đời không có ý nghĩa, thì cuộc đời không đáng sống. Chúng ta có thể theo triết lý hưởng lạc “Hãy ăn và uống vì ngày mai chúng ta chết”.


Sa-lô-môn đã trình bày 4 lý luận chứng minh rằng đời người chỉ là sự bắt lấy những bong bóng xà phòng vỡ tan và sự đuổi bắt gió. Nhưng ông là một người quá khôn ngoan để đưa những lý luận của mình đi đến chỗ không bị phản đối, vì vậy trong Tr 3:1-10:20 ông xét lại mỗi lý luận một cách thận trọng lý luận đầu tiên của ông là sự đơn điệu của đời người (Tr 1:4-11) và ông xem xét nó trong Tr 3:1-5:9. Ông khám phá 4 yếu tố phải được xem xét trước khi bạn có thể nói rằng đời người đơn điệu và vô nghĩa.


Thứ nhất, ông thấy điều gì đó ở trên con người, một Đức Chúa Trời Đấng điều khiển thời gian và là Đấng quân bình những từng trải của đời người (Tr 3:1-8).

Rồi ông thấy điều gì đó ở trong con người ràng buộc con người với Đức Chúa Trời sự đời đời ở trong lòng con người (Tr 3:9-14).

Thứ 3, Sa-lô-môn thấy điều gì đó ở trước con người. Tính chắc chắn của sự chết (Tr 3:15-22).

Cuối cùng, ông thấy điều gì đó ở quanh con người những vấn đề và những gánh nặng của đời người (Tr 4:1-5:9).


Vì vậy, người truyền-đạo đã yêu cầu thính giả của ông nhìn lên, nhìn vào, nhìn trước, nhìn quanh và để thời gian suy gẫm, sự vĩnh cửu, sự chết và sự khốn khổ.

Đây là 4 yếu tố Đức Chúa Trời sử dụng để giữ đời sống chúng ta không trở nên đơn điệu và vô nghĩa. Chúng ta sẽ xem xét 3 trong những yếu tố này ở chương này và yếu tố thứ 4 trong bài học kế tiếp.


1. Nhìn lên: Đức Chúa Trời định thời gian (Tr 3:1-8)

Bạn không cần phải là một triết gia hay một hoa học gia để biết rằng “kỳ và mùa” là một phần bình thường của sự sống, dù bạn sống ở đâu.

Nếu nó không vì tính có căn cứ của “các luật thiên nihên” do Đức Chúa Trời sắp đặt, thì cả khoa học và đời sống hằng ngày sẽ hỗn độn, nếu không, thì cũng không thể thực hiện được. Không chỉ có những kỳ và mùa trên thế giới này, mà cũng có một sự phù hộ trong đời sống chúng ta. Từ trước khi chúng ta ra đời đến lúc chúng ta chêt, Đức Chúa Trời đang thực hiện những mục đích thiêng liêng của Ngài, dù chúng ta không phải lúc nào cũng có thể hiểu điều Ngài đang làm.


Trong 14 lời tuyên bố, Sa-lô-môn xác định rằng Đức Chúa Trời đang hành động trong đời sống cá nhân, tìm cách hoàn thành ý muốn Ngài.

Mọi sự kiện này đến từ Đức Chúa Trời và chúng tốt lành trong kỳ của chúng. Điều suy luận thật đơn giản: Nếu chúng ta hợp tác với sự định giờ của Đức Chúa Trời, cuộc đời sẽ không vô nghĩa. Mọi sự sẽ “tốt đẹp trong giờ của Ngài” (c.11), thậm chí là những từng trải khó khăn nhất của đời sống. Đa số những lời tuyên bố này thật dễ hiểu, vì vậy chúng ta sẽ chỉ xem xét những điều nào có thể cần sự giải thích đặc biệt.


Sự ra đời và sự chết (c.2).

Những việc như phá thai, sinh đẻ có kế hoạch, giết người vì nhân đạo, và tư cách cha mẹ thay thế khiến nó có vẻ như thể con người điều khiển sự ra đời và sự chết, nhưng Sa-lô-môn nói ngược lại. Sự ra đời và sự chết không phải là những sự ngẫu nhiên của con người, chúng là những sự chỉ định thiêng liêng, vì Đức Chúa Trời đang tể trị (Sa 29:31-30:24; 33:5; Gios 24:3; ISa 1:9-20; Thi 113:9; Thi 137:1-9; Gie 1:4-5; Lu 1:5-25; Ga 1:15; Ga 4:4).

Thi 139:13-16 xác định rằng Đức Chúa Trời dệt chúng ta trong lòng mẹ hầu như cấu trúc di truyền của chúng ta hoàn hảo cho công việc Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta làm (Eph 2:10). Chúng ta có thể thúc đẩy sự chết của mình một cách dại dột, nhưng chúng ta không thể cản trở nó khi giờ của chúng ta đến, trừ khi Đức Chúa Trời muốn như vậy (Es 38:1-22). “Tất cả các ngày định cho tôi đã được biên trong sổ của Chúa” (Thi 139:16 NIV).


Việc trồng và việc nhổ (c.2)

Là dân nhà nông, người Do-thái đánh giá cao các mùa. Thật ra, lịch tôn giáo của họ được dựa trên năm nông nghiệp (Le 23:1-44). Con người cày cấy và gieo trồng, nhưng chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm cho sự gia tăng (Thi 65:9-13). “Sự gieo trồng” có thể chỉ về việc gặt hái hoặc nhổ các cây không sinh sản. Một nông dân thành công biết rằng thiên nhiên giúp ích cho người ấy nếu người ấy làm việc cùng với thiên nhiên. Đây cũng là một bí quyết của đời sống thành công: hãy học biết những nguyên tắc của Đức Chúa Trời và hợp tác với chúng.


Giết và chữa lành (c.3).

Điều này có lẽ không phải nói về chiến tranh (c.8) hoặc sự tự vệ, nhưng nói đến những hậu quả của bệnh tật và tai hoạ trên đất (ISa 2:6). Đức Chúa Trời cho phép ai đó chết trong khi những người khác được chữa lành. Điều này không ngụ ý rằng chúng ta phải chối từ sự trợ giúp của y học, vì Đức Chúa Trời có thể sử dụng cả phương tiện và phép lạ để hoàn thành những mục đích của Ngài (Es 38:1-22).


Ném đá và nhóm đá lại (c.5).

Các hướng dẫn viên du lịch ở Y-sơ-ra-ên sẽ cho bạn biết rằng Đức Chúa Trời đã ban đá cho một thiên sứ, bảo vị ấy rải đá khắp thế gian và vị ấy đã vấp ngã ngay trên Palestine! Nó thật sự là một vùng đất đá và các nông dân phải dọn sạch đồng của họ trước khi có thể cày cấy và trồng trọt. Nếu bạn muốn làm tổn hại kẻ thù, bạn lấp đầy đồng ruộng hắn bằng đá (IIVua 3:19,25). Người ta cũng đã nhóm đá lại để xây tường thành và nhà cửa. Nếu kẻ thù lấp đất bạn bằng đá, đừng ném lại. Hãy xây dựng cái gì đó từ chúng!


 Ôm ấp và chẳng ôm ấp (c.5).

Người dân ở Cận Đông công khai bày tỏ tình cảm họ, hôn và ôm chặt khi họ gặp mặt và lúc họ chia tay. Vì vậy, bạn có thể giải thích điều này rằng “Một kỳ để chào và một kỳ để nói lời tạm biệt”. Điều này có thể cũng đề cập đến mối quan hệ giữa vợ chồng (Le 15:19-31; ICo 7:5).


Được và mất (c.6).

“Có kỳ tìm và có kỳ để mất” là cách dịch khác. Nhóm từ kế tiếp trình bày quyền hạn Kinh Thánh đối với những thứ không cần thiết: có kỳ để giữ và có kỳ để dọn sạch nhà cửa!


Xé rách và may (c.7).

Điều này có lẽ chỉ về tập tục của dân Do-thái về việc xé rách quần áo mình suốt thời gian đau khổ hoặc ăn năn (IISa 13:31; Exo 9:5). Đức Chúa Trời mong chúng ta buồn rầu suốt thời gian của sự mất mát người thân, nhưng không giống như người vô tín (ITe 4:13-18). Có một thời kỳ khi chúng ta phải lấy kim ra, xỏ chỉ và may mọi thứ lại!


Yêu và ghét (c.3).

Dân Đức Chúa Trời có được phép ghét không? Vấn đề được nhóm từ kế tiếp đê cập “chiến tranh và hòa bình” gợi ý rằng Sa-lô-môn có lẽ chủ yếu nghĩ đến dân tộc. Tuy niên, có một số điều mà thậm chí Cơ-đốc nhân cũng phải ghét (IISu 19:2; Thi 97:10; Ch 6:16-19; Kh 2:6,15).


Đời người là cái gì đó giống như một toa thuốc của bác sĩ, được dùng một mình, các vị thuốc có thể giết chết bạn. Nhưng được pha chế một cách thích hợp, chúng đem lại sự lành bệnh. Đức Chúa Trời đang tể trị với quyền tối thượng vào một kỳ cùng một mục đích cho mọi sự (Ro 8:28). Đây không phải là thuyết định mệnh, nó cũng không cướp của chúng ta sự tự do hay trách nhiệm. Đó là sự chuẩn bị khôn ngoan của một Đức Chúa Cha yêu thương Đấng làm mọi sự tốt lành và hứa khiến mọi sự trở nên ích lợi.


2. Nhìn vào: sự đời đời ở trong lòng bạn (Tr 3:9-14)

Người truyền-đạo điều chỉnh tầm nhìn của ông và không còn nhìn đời người chỉ “dưới mặt trời”. Ông đặt Đức Chúa Trời vào bức tranh và điều này cho ông một cái nhìn mới. Trong c.9, ông lặp lại câu hỏi mở đầu ở Tr 1:3 “chứng cớ mới”, Sa-lô-môn đưa ra 3 giải đáp cho câu hỏi này.


- Thứ nhất, đời người là một sự ban cho của Đức Chúa Trời (c.6).

Theo quan điểm về sự khó nhọc, mà chúng ta từng trải ngày này sang ngày khác, đời người có vẻ giống như một sự ban cho kỳ lạ, nhưng đó là sự ban cho của Đức Chúa Trời đúng như vậy.

Chúng ta “tập rèn” bản thân trong việc tìm cách giải thích những điều bí ẩn của đời người, nhưng chúng ta luôn không thành công. Nếu chúng ta bằng niềm tin tiếp nhận cuộc đời như một sự ban cho và cảm tạ Đức Chúa Trời về điều đó, chúng ta sẽ có một thái độ tốt hơn đối với những gánh nặng đến trên lối đi của mình. Nếu chúng ta miễn cưỡng tiếp nhận cuộc đời như một gánh nặng, vậy chúng ta sẽ đánh mất những sự ban cho trên lối đi của mình. Quan điểm giúp quyết định kết luận.


- Thứ hai, đời người gắn liền với sự đời đời (c.11).

Con người đã được dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, và được ban cho quyền cai quản sự sáng tạo (Sa 1:26-28). Vì thế, con người khác với các tạo vật khác. Con người có “sự đời đời trong lòng” và được liên hệ với trời.

Điều này giải thích vì sao không ai (kể cả Sa-lô-môn) có thể thoả lòng với những nỗ lực và thành quả của mình, hoặc có thể giải thích những bí ẩn của đời người (Sa 1:12-2:11). Đức Chúa Trời hoàn thành những mục đích của Ngài trong giờ của Ngài, nhưng giờ ấy sẽ chưa đến cho đến khi chúng ta bước vào sự đời đời lúc chúng ta sẽ bắt đầu hiểu toàn bộ kế hoạch của Ngài.


- Thứ 3, đời người có thể vui hưởng ngay bây giờ (c.12-14).

Người truyền đạo gợi ý điều này trong Tr 2:24 và thận trọng nói rằng sự vui hưởng cuộc đời này là sự ban cho của Đức Chúa Trời (Tr 3:13; Tr 6:2; ITi 6:17).

 “Vui hưởng cuộc đời” là một chủ đề quan trọng trong sách Truyền-đạo và được đề cập trong mỗi phần của 4 phân đoạn từ chương 3- chương 10 (xem lại phần đại cương), không phải Sa-lô-môn đang khuyến khích chủ nghĩa khoái lạc vô thần, nhưng đúng hơn là khuyến khích thói quen vui hưởng những sự ban cho của Đức Chúa Trời như thành quả của công lao động, dù đời sống có thể khó khăn ra sao.

Đời người có vẻ tạm thời, nhưng bất cứ điều gì Đức Chúa Trời làm đều đời đời, vì vậy khi chúng ta sống cho Ngài và để Ngài thực hiện cách của Ngài, đời sống có ý nghĩa và dễ kiểm soát. Thay vì phàn nàn những gì chúng ta không có, chúng ta hãy vui hưởng những gì mình có và tạ ơn Đức Chúa Trời về điều đó.


Khi nhà truyền-đạo nổi tiếng người Anh của hội Giám lý tên William Sangster biết rằng ông có bệnh teo cơ đang tiến triển và không thể phục hồi, ông thực hiện 4 giải pháp và giữ chúng đến cùng: (1). Tôi sẽ không phàn nàn, (2). Tôi sẽ giữ cho gia đình lạc quan, (3). Tôi sẽ đếm những ơn phước, (4). Tôi sẽ biến nó thành ích lợi. Đây là cách tiếp cận đời sống mà Sa-lô-môn muốn chúng ta sử dụng.


Tuy nhiên, chúng ta phải để 3 ý rằng Sa-lô-môn không nói: “Đừng lo lắng, hãy vui mừng!”. Ông đề cao đức tin nơi Đức Chúa Trời, không phải “đức tin nơi đức tin” hay “chiếc bánh trên trời trong tương lai”. Đức tin chỉ tốt như đối tượng của đức tin, và đối tượng vĩ đại nhất của đức tin là Chúa. Ngài có thể đáng được tin cậy.


Làm sao cuộc đời có thể vô nghĩa và đơn điệu đối với bạn khi Đức Chúa Trời đã khiến bạn trở nên một phần trong kế hoạch đời đời của Ngài? Bạn không phải là một loài côn trùng vô nghĩa, bò lê từ sự huỷ diệt đáng buồn này đến sự huỷ diệt đáng buồn khác. Nếu bạn đã tin nhận Chúa Giê-xu, bạn là con cái Đức Chúa Trời được chuẩn bị cho một gia đình đời đời (Gi 14:1-6; IICo 4:1-18). Mục sư hội Thanh giáo Thomas Watson đã nói: “Sự đời đời đối với người tin kính là một ngày không có lúc mặt rời lặn; sự đời đời đối với kẻ ác là một đêm không có lúc mặt trời mọc”.


Đối với chúng ta, thái độ đúng đắn là sự kính sợ Chúa (c.14), không phải là sự khúm núm của một chủ độc ác, nhưng là sự đầu phục của một đứa con vâng lời một người cha yêu thương (Tr 5:7; Tr 7:18; Tr 8:12-13; Tr 12:13). Nếu chúng ta kính sợ Đức Chúa Trời, chúng ta chẳng phải sợ bất cứ điều gì khác vì Ngài đang tể trị.


3. Nhìn trước: sự chết sẽ đến với mọi loài (Tr 3:15-22)

Sa-lô-môn đã đề cập tính chắc chắn của sự chết trong Tr 2:12-13 và ông sẽ nêu chủ đề này 7 lần trước khi ông chấm dứt sách (Tr 4:8; Tr 5:15-16; Tr 6:6; Tr 8:8; Tr 9:2-3,12; Tr 12:7-8). Sự sống, sự chết, thời gian và sự đời đời: đây là những “thành phần” tạo nên từng trải ngắn ngủi của chúng ta trong thế gian này, và chúng không nên bị bỏ qua.


Câu 15 giúp chúng ta nhớ lại Tr 1:9-11 và cho chúng ta sự xác quyết rằng Đức Chúa Trời đang điều khiển “chu trình của đời người”. Quá khứ dường như lặp lại chính nó hầu cho “chẳng có điều gì mới ở dưới mặt trời” (Tr 1:9) nhưng Đức Chúa Trời có thể xâm nhập vào lịch sử và làm điều Ngài muốn.

Nhiều phép lạ của Ngài là chứng cớ “chu kỳ” là một kiểu mẫu, không phải một nhà tù. Con Ngài đã xâm nhập vào đời sống con người qua một sự giáng sinh kỳ diệu. Rồi Ngài chết trên thập tự giá và sống lại, bởi đó đắc thắng “chu kỳ sống chết”. Vì Chúa Giê-xu đã phá vỡ “vòng lẩn quẩn” này, nên Ngài có thể khiến chúng ta trở nên một phần của sự sáng tạo mới hắc phục thời gian và sự chết (IICôr 5:17-21).


Sa-lô-môn thêm vào một tư tưởng mới ở đây “và Đức Chúa Trời sẽ tìm kiếm việc gì đã qua” (c.15 NIV). Các học giả có lúc khó khăn khi đồng ý về cách dịch nhóm từ này.Nguyên văn nói rằng “Đức Chúa Trời tìm kiếm những gì xảy ra vội vàng.” Sa-lô-môn dường như nói rằng thời gian trôi qua nhanh chóng và đi xa khỏi chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời giữ dấu vết của nó và kỳ cuối cùng Ngài sẽ yêu cầu sự tường thuật những gì chúng ta đã làm với thời gian (IICôr 12:4). Điều này phù hợp với các câu 16-17 nơi Sa-lô-môn chứng kiến những bất công ở thời của ông và không biết vì sao sự xét đoán thiêng liêng lại bị trì hoãn.


“Làm sao Đức Chúa Trời có thể đang tể trị khi có quá nhiều sự gian ác trên thế giới chúng ta, với kẻ ác được thịnh vượng trong tội lỗi mình và người công bình khốn khổ trong sự vâng phục của họ?” 

Sa-lô-môn không phải là người đầu tiên nêu câu hỏi đó, ông cũng không phải là người cuối cùng. Nhưng một lần nữa, ông tự an ủi bằng 2 sự xác quyết: Đức Chúa Trời có một thời gian cho mọi việc, kể cả sự xét đoán (IICôr 8:6,11) và Đức Chúa Trời đang thực hiện những mục đích đời đời của Ngài trong và qua những việc làm của con người, kể cả những việc làm của kẻ ác.


Vâng, Đức Chúa Trời sẽ xét đoán khi lịch sử đã vận hành tiến trình của nó, nhưng Đức Chúa Trời sẽ khôngđoán xét bây giờ (c.18). Trong những từng trải của đời người, Đức Chúa Trời đang thử thách con người (Từ này là “manifest” (bày tỏ) trong KJV: từ Hê-bơ-rơ có nghĩa “sàng lọc, phận tách”). Đức Chúa Trời đang mạc khải con người thật sự ra sao, Ngài đang sàng lọc con người. Vì, khi con người đặt Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống mình, con người trở nên giống như một loài thú (Thi 32:9; Ch 7:1-27; IIPhi 2:19-20). Con người sống như một loài thú và chết như một loài thú.


 Chúng ta phải cẩn thận đừng giải thích sai c.19-20.

Rút ra một kết luận sai lầm rằng không có gì khác nhau giữa loài người và thú vật. Sa-lô-môn chỉ vạch ra rằng loài người và loài thú có 2 điều chung: 2 loài đều chết và thân xác trở về bụi đất (Sa 2:7 Sa 3:19).

Được tạo nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời, con người có một lợi thế rõ ràng hơn hẳn thú vật về một đời sống, nhưng khi thực tế sự chết xảy ra, con người không có lợi thế đặc biệt nào: cũng trở về bụi đất. Dĩ nhiên, những người đã được cứu rỗi bởi đức tin nơi Đấng Christ ngày kia sẽ được sống lại để có thân thể vinh hiển thích hợp cho gia đình mới trên trời (ICôr 15:35).


Kinh Thánh nói rằng sự chết xảy ra khi linh hồn lìa khỏi thể xác (Gia 2:26 Sa 35:18 Lu 8:55).

Trong c.21, Sa-lô-môn biểu lộ rằng loài người và thú vật không có cùng từng trải lúc chết, dù cả 2 loài trở về với bụi đất sau khi chết. Linh hồn con người đi đến với Đức Chúa Trời (Lu 12:7), trong khi linh hồn của một con thú tự nhiên không tồn tại. Bạn tìm thấy một sự tương phản tương tự được trình bày trong Thi 49:1-20.


Người truyền-đạo kết thúc phân đoạn này bằng cách nhắc chúng ta một lần nữa phải tiếp nhậncuộc đời từ tay Đức Chúa Trời và vui hưởng nó trong khi chúng ta có thể (c.22). Không ai biết tương lai cầm giữ điều gì, và thậm chí nếu chúng ta biết, chúng ta không thể trở lại với sự sống sau khi chúng ta đã chết và bắt đầu hưởng nó lần nữa (Tr 6:12; Tr 7:14; Tr 9:3). Khi biết rằng Đức Chúa Trời đang điều khiển đời sống bằng quyền tối cao (Tr 3:1), chúng ta có thể đầu phục Ngài và ở trong sự bình an.

Đức Chúa Trời nắm giữ chìa khóa của mọi điều chưa biết; Và tôi vui sướng,

Nếu những bàn tay khác nắm giữ chìa khóa.

Hoặc nếu Ngài giao nó cho tôi.

Tôi có thể buồn rầu.

Tôi không thể đoán những kế hoạch tương lai của Ngài.

Nhưng tôi biết điều này:

Tôi có nụ cười của gương mặt Ngài.

Và mọi nơi trú ẩn của ân điển Ngài.

Đang khi ở nơi thấp hèn này.

(J.Parker)


Đức tin biết cách sống với những điều có vẻ mâu thuẫn và vô lý, vì chúng ta sống bởi những lời hứa chớ không bởi những giải thích. Chúng ta không thể giải thích cuộc đời, nhưng chúng ta phải từng trải cuộc đời, dù chịu đựng hay vui hưởng nó.


Sa-lô-môn kêu gọi chúng ta tiếp nhận cuộc đời, vui hưởng nó từng ngày từng giờ, và thỏa lòng. Chúng ta đừng bao giờ thoả lòng với chính mình. Nhưng chúng ta phải thoả lòng với điều Đức Chúa Trời ban cho mình trong đời sống này. Nếu chúng ta tăng trưởng trong tính cách và sự tin kính, và nếu chúng ta sống bởi đức tin, thì chúng ta sẽ có thể nói với Phao-lô rằng: “Tôi đã học cách thoả lòng với bất cứ hoàn cảnh nào” (Phi 4:11 NIV).



 


5. CUỘC ĐỜI CHỈ LÀ BẤT CÔNG (Tr 4:1-16)


Khi Sa-lô-môn trước tiên xem xét đời người “dưới mặt trời”, quan điểm của ông rời rạc và mang tính triết lý (Tr 1:4-11), kết luận của ông là đời người vô nghĩa và đơn điệu. Nhưng khi ông xem xét lại vấn đề, ông đi đến nơi mà con người thật sự sống và khám phá rằng đời người không đơn giản như thế. Khi quan sát con người trong những hoàn cảnh thật, vị vua này đã phải đối phó với một số sự thật đau khổ, như sự sống và sự chết, thời gian và sự sống đời đời, với sự phán xét cuối cùng.


Philip Brooks, Giám mục giáo phái Anh ở Massachusetts một thế kỷ trước, đã bảo các sinh viên trong giáo đoàn đọc 3 “sách”: Sách của các Sách: Kinh Thánh, sách về thiên nhiên, và sách về nhân loại. Người nghiên cứu tháp ngà sẽ chẳng bao giờ có một quan điểm quân bình về chủ đề của mình nếu người ấy cứ ở trong tháp ngà của mình. Việc học và sống phải được sử dụng song song.


Trong chương này, Sa-lô-môn ghi lại những nhận xét của ông từ việc thăm viếng 4 nơi khác nhau và quan sát nhiều người trải qua những kinh nghiệm khác nhau. Kết luận của ông rằng đời người chỉ là cái gì đó đơn điệu, vì chúng ta không có ý niệm những vấn đề nào có thể đến với chúng ta vào ngày nào đó. Chẳng lạ gì khi ông viết: “Chớ khoe khoang về ngày mai, vì con chẳng biết ngày mai sẽ sanh ra điều gì” (Ch 27:1).


1. Trong toà án (Tr 4:1-3)

“Chính trị” đã được định nghĩa là “sự chỉ đạo những công việc chung vì ích lợi riêng”. Dân tộc Y-sơ-ra-ên đã có một hệ thống tòa án thích hợp (Xu 18:13-37; Phuc 17:19) dựa trên luật pháp của Đức Chúa Trời, nhưng hệ thống này có thể bị suy sụp như bất cứ hệ thống nào khác (Tr 5:8).

Môi-se cảnh cáo các quan trưởng phải xét đoán một cách thành thật và công bằng (Le 19:15; Phuc 1:17), và nhà tiên tri cùng người soạn Thi-thiên cũng đả kích sự bất công trong xã hội (Thi 82:1-8; Es 56:1; Es 59:1; Am 1:1-2:16). Sa-lô-môn là một vị vua khôn ngoan và công bình (IVua 3:16-28), nhưng ông không thể bảo đảm được sự chính trực của mỗi quan chức trong chính thể của mình.


Sa-lô-môn bước vào một toà án để xem một cuộc xét xử, và ở đó ông thấy người vô tội bị áp chế bởi những quan lại hám quyền. Các nạn nhân khóc lóc, nhưng nước mắt họ chẳng ích lợi gì. Không ai đứng cạnh họ để an ủi hay giúp đỡ họ. Những kẻ áp bức có mọi quyền hành và nạn nhân của họ vô phương phản kháng hay đề nghị sự đền bù.


Nhà hùng biện người Mỹ Daniel Webster có lần đã gọi công lý là “dây chằng cầm giữ những con người văn minh và … các quốc gia với nhau”.

“Hình thể chính trị” trong thời Sa-lô-môn đã có nhiều dây chằng bị đứt!


Vua đã chứng kiến 3 bi kịch:

(1). Sự áp bức và bóc lột trong tòa án,

(2). Sự đau khổ và buồn rầu trong đời sống người vô tội, và (3). Sự lãnh đạm của những người lẽ ra có thể đem đến sự yên ủi. Sa-lô-môn quá choáng váng bởi những điều ông thấy nên ông quyết định rằng thà chết còn hơn sống và bị áp bức. Thật ra, còn tốt hơn cho ai chưa từng được sinh ra. Khi ấy người đó sẽ không bao giờ phải thấy những việc ác của loài người tội lỗi.


Vì sao Sa-lô-môn không làm gì đó cho sự bất công này? Xét cho cùng, ông là vua. Than ôi, ngay cả vua cũng không thể làm được gì để giải quyết vấn đề. Vì một khi Sa-lô-môn bắt đầu can thiệp vào chính thể của ông và cải tổ mọi sự, ông chỉ tạo ra những vấn đề mới và để lộ ra sự băng hoại hơn nữa. Điều này không gợi ý rằng chúng ta ngày nay phải mất hy vọng về việc thanh tẩy sự băng hoại chính trị.

Là những công dân Cơ-đốc, chúng ta phải cầu nguyện cho mọi người trong chính quyền (ITi 2:1-6) và làm điều gì có thể để thấy rằng luật pháp công bình được tiến hành và có hiệu lực công bằng. Nhưng không chắc rằng một thể hành chính khổng lồ như thể hành chính ở Y-sơ-ra-ên lại chưa từng bị băng hoại, hay một người “tham trận” có thể cải thiện được hoàn cảnh.


Edward Gibbon, tác giả nổi tiếng của tác phẩm “The Decline and Fall of the Roman Empire” (sự suy thoái và sụp đổ của Đế quốc La-mã) nói rằng sự băng hoại chính trị là “triệu chứng chính xác nhất của sự tự do lập hiến”. Có lẽ ông đã đúng, vì nơi nào có sự tự do để phục tùng, nơi đó cũng có sự tự do để bắt phục. Một số quan chức của Sa-lô-môn đã xác định họ ở trên luật pháp, và những người vô tội đã chịu khổ.


2. Trong nơi họp chợ (Tr 4:4-8)

Ghê tởm những điều đã thấy trong “toà án” vua đi xuống nơi họp chợ để quan sát những người lao động khác nhau đang làm việc. Chắc chắn ông sẽ không thất vọng ở đó, vì công khó lương thiện là một sự ban cho từ Đức Chúa Trời. Ngay cả A-đam cũng có việc để làm trong Vườn (Sa 2:15), và Chúa chúng ta là một thợ mộc khi Ngài ở trên đất (Mac 6:3). Sa-lô-môn xem xét 4 loại người khác nhau.


Người siêng năng (c.4).

Thật tự nhiên khi Sa-lô-môn trước tiên tìm thấy một người lao động đang làm việc siêng năng. Vì, xét cho cùng, vua đã chẳng từng ca tụng những đức tính của sự lao động cần cù trong sách Châm ngôn đó sao? Người này không chỉ bận rộn, mà còn khéo léo trong côngviệc của mình và có khả năng trong mọi việc mình làm. Người ấy đã tinh thông những kỹ thuật của nghề nghiệp mình.


Thật quá nhiều đối với đôi tay người lao động, còn tấm lòng người ấy thì sao? Chính ở đây Sa-lô-môn có sự thât vọng kế tiếp. Nguyên nhân duy nhất khiến những người này thành thạo những kỹ năng của họ và lao động siêng năng trong công việc mình, đó là để cạnh tranh với người khác và kiếm tiền nhiều hơn những ngườilân cận mình. Mục đích công việc họ không phải để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ hay hữu ích, hoặc để giúp người, nhưng để ở phía trước sự cạnh tranh và tồn tại trong trận chiến vì kế sinh nhai.


Đức Chúa Trời đã không đặt “nhân tố ích kỷ” này vào trong sự lao động của con người, nó là hậu quả của tội lỗi trong lòng người. Chúng ta thèm muốn những gì người khác có. Chúng ta không chỉ muốn có những điều đó, mà chúng ta còn muốn đi xa hơn và có nhiều hơn nữa. Sự tham lam, tranh cạnh, đố kỵ thường đi chung với nhau.

Sự tranh đua tự nó không phải tội lỗi, nhưng khi “đứng đầu” là quan trọng hơn trung thực sẽ có sự rắc rối. Sự tranh tài truyên thống giữa các đội hay các trường có thể là một điều hữu ích, nhưng khi sự tranh tài trở thành những cuộc nổi loạn, tội lỗi đã xuất hiện.


Người lười biếng (c.5-6).

Sa-lô-môn đi từ thái cực này đến thái cực khác và bắt đầu nghiên cứu một người không có tham vọng gì cả. Có lẽ vua có thể học về đời người bằng cách xem xét phản đề, cách các khoa học nghiên cứu sự lạnh để hiểu rõ sự nóng hơn. Hẳn thật khó cho ông khi quan sát một người lười biếng, vì Sa-lô-môn không có sự thông cảm cho những kẻ lười biếng ngồi cả ngày khoanh tay và chẳng làm gì (Ch 18:9; Ch 19:16; Ch 24:30-34).


Sa-lô-môn không học điều gì mà ông đã không biết: sự lười biếng là một con đường thuận lợi đi đến sự tự huỷ diệt. Có thể dễ chịu khi không có tiền để mua những thứ cần thiết cho đời sống. “Hãy để tôi ngủ một chút nữa!”. Thật chỉ một chút nữa!

“Và khi ngươi ngủ, sự nghèo khó tiến đến ngươi như một kẻ cướp và hủy diệt ngươi, muốn tấn công ngươi với đầy đủ binh giáp” (Ch 6:10-11 TLB).

Phao-lô đã tuyên bố thẳng thừng điều đó: “Nếu ai không khứng làm việc, thì cũng không nên ăn nữa” (IITe 3:10).


Người siêng năng được thúc đẩy sự tranh cạnh và vướng vào cuộc tranh đua quyết liệt của đời sống. Người ấy không có thời giờ rãnh rỗi. Người lười biếng bị thúc đẩy bởi sự khoái lạc và hướng sự huỷ hoại. Người ấy không có thời gian sinh lợi. Phải chăng không có con đường chính giữa 2 thái cực này. Vâng, có.


Người hội nhập (c.6).

Đây là một người có đời sống quân bình, người ấy sinh lợi trong công việc mình, nhưng cũng thận trọng để thời gian yên lặng. Người ấy không chạy trong cuộc tranh đua quyết liệt, nhưng cũng không tìm cách chạy khỏi những trách niệm bình thường của đời sống. Một cuộc khảo sát ở Harris 1989 cho thấy rằng lượng thời gian rãnh rỗi được hưởng của người Mỹ ở mức quâ bình đã rút lại 37 % từ 1973. Điều này cho thấy ít người biết cách giữ đời sống quân bình. Họ bị vướng vào cuộc tranh đua quyết liệt và không biết cách thoát ra.


Tại sao có 2 tay lợi lộc nếu lợi lộc đó khiến bạn trả giá bằng sự bình an của tâm trí và có thể là sức khoẻ của bạn? Thà có thu nhập trong một tay và sự yên lặng trong tay kia khi một tấm lòng bị điều khiển bởi sự đố kỵ và tranh đua, đời sống trở nên một cuộc chiến này tiếp theo cuộc chiến khác (Gia 3:13-4:4; Ch 15:16). Những chỉ dẫn của Phao-lô về tiền bạc trong ITi 6:1-21 có thể áp dụng ở đây, đặc biệt là c.6 “Sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn”.


Người siêng năng nghĩ rằng tiền bạc sẽ đem đến cho mình sự bình an, nhưng người ấy không có thời gian để hưởng nó. Người lười biếng nghĩ rằng chẳng làm gì cả sẽ đem đến cho mình sự bình an, nhưng lối sống của người ấy chỉ hủy hoại mình mà thôi. Người hội nhập vừa hưởng công lao động cùng thành quả lao động của mình và quân bình sự khó nhọc với sự nghỉ ngơi. Bạn có thể sử dụng những gì bạn muốn từ cuộc sống, nhưng bạn phải cầu nguyện cho điều đó.


Người độc lập (c.7-8).

Rồi Sa-lô-môn chú ý một người cô độc, rất siêng năng làm việc, đến nỗi đi đến chỗ chất vấn mình. Vua khám phá rằng người này không có bà con hay bạn bè giúp đỡ trong công việc, người ấy cũng không mong sự giúp đỡ nào. Người ấy muốn tất cả lợi lộc cho chính mình. Nhưng người ấy quá bận rộn, không có thời gian hưởng những lợi lộc của mình. Và, nếu chết, người ấy không có gia đình để thừa kế của cải mình. Nói cách khác, mọi công lao của người ấy đều vô ích.


Triết gia Hy-lạp Socrates đã nói: “Cuộc đời không bị sát hạch thì không đáng sống”. Nhưng người độc lập này không bao giờ dừng lại đủ để tự hỏi mình “Ta đang làm việc cực khổ vì ai? Tại sao ta đang cướp đi của mình những sự vui hưởng của cuộc đời chỉ để tích luỹ thêm tiền bạc?“ Người siêng năng ít nhất đang chu cấp công việc cho người khác, và người làm biếng đang vui hưởng sự an nhàn nào đó, nhưng người độc lập chẳng giúp gì cho kinh tế hay cho bản thân.


Sa-lô-môn kết luận: “Điều này cũng vô nghĩa một công việc cực khổ” (c.8 NIV) Đức Chúa Trời muốn chúng ta lao động, nhưng lao động trong tinh thần đúng đắn và vì những lý do đúng đẳn. Phước cho những người quân bình!


3. Trên đường cái (Tr 4:9-12)

Kinh nghiệm của Sa-lô-môn về người độc lập khiến ông xem xét tầm quan trọng của tình bạn và giá trị của những người làm việc với nhau. Có thể ông nhớ đến câu châm ngôn Do-thái: “Một người không bạn giống như một bànt ay trái bị mất bàn tay phải”. Có lẽ ông đã quan sát một số người hành hương trê đường cái và rút ra kết luận “2 người hơn 1”.


Hai người chắc chắn hơn một người khi làm việc (c.9)

Vì 2 người lao động có thể làm được nhiều việc hơn. Thậm chí khi họ chia lợi, họ vẫn được sự đền bù cho công khó mình khá hơn khi họ làm việc một mình. Cũng vậy, thật dễ dàng để làm những việc khó với nhau vì người này có thể là sự khích lệ cho người kia.


Hai người tốt hơn khi đi đường (c.10).

Đường phố và lối đi ở Palestine không được lát hay thậm chí được san phẳng và có nhiều đá ngồm trong các đồng ruộng. Không có gì lạ khi thậm chí người đi lại có kinh nghiệm nhất cũng bị sẩy chân và té ngã, có lẽ bị gẫy xương, hay thậm chí té xuống một cái hầm bị che giấu (Xu 21:33-34).

Thật tuyệt vời khi có một người bạn có thể giúp bạn đứgn dậy. Nhưng nếu điều này áp dụng cho những cái ngã thuộc thể, nó càng áp dụng cho những lúc ấy biết bao khi chúng ta vấp ngã trong bước thuộc linh của mình và cần sự hồi phục (Ga 6:1-2)? Chúng ta phải biết ơn những người bạn Cơ-đốc dường nào, là những người giúp chúng ta bước đi ngay thẳng.


Hai người tốt hơn một người về sự ấm áp (c.11).

Hai người du lịch đóng trại ở ngoài, hoặc thậm chí ở trong sân của một quán trọ công cộng, sẽ cảm nhận cái lạnh của đêm Palestine và cần sự ấm áp của nhau để được dễ chịu. Cách duy nhất để “ấm một mình” là mang theo những cái mền phụ và chất thêm gánh nặng của mình.


Cuối cung cùng, 2 người tốt hơn một người về việc canh giữ, đặc biệt vào đêm (c.12).

“Dù một người có thể bị áp chế, nhưng 2 người có thể tự bảo vệ mình” (c.12 NIV). Thật nguy hiểm để 1 người đi một mình, ngày hoặc đêm, đa số người đi du lịch theo nhóm để có sự đoàn kết và an toàn. Thậm chí Đa-vít đã biết ơn 1 người bạn đã bước vào và cứu mạng vua (IISa 21:15-17).


Sa-lô-môn khởi đâù bằng con số một (c.8), rồi đi đến số hai (c.9) và sau đó kết thúc bằng số ba (c.12). Điều này tiêu biểu về văn hóa Hê-bơ-rơ (Ch 6:16; Am 1:3,6,9). Một dây thừng có thể bị đứt dễ dàng, 2 dây thừng sẽ cần sức mạnh hơn, nhưng 3 dây thừng đan với nhau không thể dễ dàng bị đứt. Nếu 2 người du lịch tốt hơn 1 người, thì 3 người đi tốt hơn nữa. Sa-lô-môn không chỉ nghĩ đến những con số, ông cũng nghĩ đến sự hiệp nhất có liên quan trong 3 dây thừng được đan với nhau. Thật là một bức tranh đẹp về tình bạn!


4. Trong cung điện (Tr 4:13-16)

Đây là nhận định thứ 4 “tốt hơn” của Sa-lô-môn (Tr 4:3,6,9), giới thiệu một câu chuyện dạy 2 chân lý: tính không ổn định của thế lực chính trị và tính hay thay đổi của sự nổi tiếng. Vị vua trong câu chuyện này có lúc đã chú ý lời khuyên của các cố vấn mình và đã cai trị một cách khôn ngoan, nhưng khi ông về già, ông không chịu lắng nghe họ.

Vấn đề không chỉ là sự kiêu ngạo và sự già nua. Có lẽ ông bị vây quanh bởi một nhóm “ăn bám” dua nịnh ông, tách ông ra khỏi sự thật, và lấy từ ông tất cả những gì họ có thể. Điều này thường xảy ra với những lãnh đạo kém cỏi quan tâm về bản thân nhiều hơn là quan tâm người khác.


Có một anh hùng trong câu chuyện này, một người trẻ tuổi khôn ngoan đang ở trong ngục. Có lẽ người ở đó vì tìm cách giúp vua và vua đã bực bội điều đó. Hoặc có thể ai đó trong toà đã nói dối về chàng trẻ tuổi. Đó là điều xảy đến với Giô-sép. (Sa 39:1-23). Bất cứ giá nào, chàng thanh niên đã ra khỏi ngục và trở thành vua. Mọi người hoan hô người bị thua thiệt và vui mừng rằng đất nước cuối cùng đã có một sự lãnh đạo khôn ngoan.


Giờ đây hãy xem xét câu chuyện này nói gì.

Người trẻ tuổi sanh ra vốn nghèo khó, nhưng chàng trở nên giàu có. Vị vua già giàu có nhưng điều đó không khiến người khôn ngoan hơn chút nào, vì vậy ông cũng như nghèo. Chàng trai trẻ ở trong ngục, nhưng đã ra khỏi ngục và chiếm ngôi vị. Vị vua già bị giam cầm trong sự dại dột của mình (và trong quỹ đạo của những kẻ nịnh hót) và mất ngôi. Cho đến lúc này, luân lý của câu chuyện là: sự giàu có và địavị không phải là sự bảo đảm cho thành công, và sự nghèo khó cùng sự thất bại tưởng chừng không phải là những rào cản cho sự thành đạt. Chìa khóa là sự khôn ngoan.


Nhưng câu chuyện tiếp diễn.

Rõ ràng chàng trai trẻ ra khỏi ngục và chiếm ngôi vị vì yêu cầu của công chúng. “Ta thấy mọi người sống dưới mặt trời đều kéo về phía chàng trai, là người thay thế ông” (vua già) (c.15 NASB). Có vẻ như vị vua mới trẻ tuổi đã sắp đặt điều đó, nhưng than ôi, sự nổi tiếng của chàng không kéo dài. “Người có thể trở thành lãnh đạo của hằng triệu người, và rất nổi tiếng. Nhưng khi ấy thế hệ trẻ hơn lớn lên quanh người và loại bỏ người!” (c.16 TLB). Đám người mới phế truất vua và bổ nhiệm người nào khác.


Oliver Cromwell, người chiếm ngôi Anh quốc của Charles đệ nhất và lập lên khối cộng đồng, đạ nói với một người bạn rằng: “Đừng tin những kẻ cổ vũ, vì những kẻ ấy sẽ reo hò như vậy khi bạn và tôi sắp bị treo cổ”. Cromwell đã hiểu tâm lý của quần chúng!


Một lần nữa, Sa-lô-môn rút ra cùng một kết luận: Tất cả đều “là hư không và sự phiền toái của linh hồn” (c.4,8).


Dù Sa-lô-môn đi đâu, dù ông nghiên cứu khía cạnh nào của đời sống đi nữa, ông đều học một bài học quan trọng từ Chúa. Khi nhìn lên, ông thấy rằng Đức Chúa Trời đang điều khiển đời sống và quân bình những từng trải khác nhau của nó (Tr 3:1-8).

Khi nhìn vào, ông thấy rằng loài người đưọc dựng nên vì sự đời đời và Đức Chúa Trời sẽ làm mọi sự trở nên đẹp đẽ trong kỳ của chúng (Tr 3:9-14).

Khi nhìn quanh (Tr 4:1-16), ông hiểu rằng đời người phức tạp, khó khăn và không dễ giải thích. Một điều chắc chắn dù bạn nhìn ở đâu, bạn đều thấy những thử thách và những vấn đề mà con người có thể sử dụng sự khích lệ nào đó.


Tuy nhiên, Sa-lô-môn không hoài nghi về đời sống. Không chỗ nào ông bảo chúng ta ra khỏi cuộc đua và rút lui vào góc an toàn tiện lợi nào đó của thế gian nơi không gì có thể làm phiền chúng ta. Đời sống không đứng bất động. Đời sống đến với chúng ta hết tốc lực, không có sự cảnh cáo, và chúng ta phải đứng dậy mà nhận lấy nó, với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, hãy tận dụng nó.


Nếu chương này dạy chúng ta điều gì đó, ấy là chúng ta cần nhau vì “Hai người hơn một”. Vậy, có một số tiện lợi cho một đời sống độc lập, nhưng cũng có những bất lợi, và chúng ta khám phá chúng một cách đau khổ khi chúng ta trở về già.


Chương này cũng nhấn mạnh sự quân bình trong đời sống. “Thà đầy một lòng bàn tay với sự yên tịnh hơn là đầy cả 2 tay, cùng với sự lao khổ, theo luồng gió thổi” (c.6 NKJV). Thật tốt lành khi có những điều mà tiền bạc có thể mua được, miễn bạn không đánh mất những gì tiền bạc không thể mua được. Bạn thật sự trả giá điều gì trong phạm vi đời sống để được những điều quan trọng đối với bạn? Bạn đang hy sinh những điều vĩnh cửu ra sao để đặt tay trên những điều tạm bợ?


Hay để trích dẫn lời Chúa Giê-xu: “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình, thì có ích gì?” “Hay là có người nào lấy chi mà đổi linh hồn mình ư?” (Mac 8:36-37).



 


6. HỠI KẺ CẮP, HÃY DỪNG LẠI! (Tr 5:1-20)


Tranh biếm họa của tạp chí cho thấy một người đàn ông vẻ buồn thảm bước ra khỏi văn phòng của một giám đốc ngân hàng và người giám đốc nói với cô thư ký của mình: “Ông ta đau khổ vì những vấn đề còn nợ lại: thuế còn nợ, tiền thuê nhà còn nợ và phí cấp dưỡng còn nợ”.


Nhiều người ngày nay đau khổ vì những “vấn đề còn nợ” tương tự. Họ không chịu để ý lời cảnh cáo mà Bill Earle nêu ra nhiều năm trước: “khi số chi tiêu của bạn vượt hơn thu thập của bạn, phí bảo dưỡng của bạn sẽ là sự sa sút”.


Vua Sa-lô-môn giàu có đã biết điều gì đó về tiền bạc. Một phần sự khôn ngoan này đã được ông chia sẻ trong sách Châm-ngôn và một phần ông kể đến ở đây trong sách Truyền-đạo. Xét cho cùng, ông không thể bàn luận “đời người dưới mặt trời” và không chú ý đến tiền bạc!


Nhưng ông đi xa hơn chủ đề tiền bạc và đề cập những giá trị của đời sống, những điều mà thật sự đánh giá. Xét cho cùng, có hơn một cách để giàu có và hơn 1 cách để nghèo nàn. Trong chương này, Sa-lô-môn đưa ra 3 lời cảnh cáo có liên quan đến những giá trị của đời sống.


1. Đừng ăn cắp của Chúa (Tr 5:1-7)

Sa-lô-môn đã thăm viếng tòa án, nơi họp chợ, đường cái và cung điện. Giờ đây ông viếng thăm đền thờ, công trình kiến trúc nguy nga đó mà việc xây cất nó ông đã giám sát. Ông quan sát những người thờ phượng đến và đi, ngợi khen Đức Chúa Trời, cầu nguyện, dâng của lễ và hứa nguyện. Ông để ý rằng nhiều người trong số họ chẳng thành thật chút nào trong sự thờ phượng của họ, và họ đã để vùng đất thiêng liêng trong tình trạng thuộc linh tồi tệ hơn khi họ bước vào.

Tội lỗi của họ là gì? Họ đang ăn cắp của Đức Chúa Trời sự tôn kính và vinh dự Ngài đáng có. Những hành động thờ phượng của họ là chiếu lệ, không thành thật và giả hình.


Theo ngôn ngữ ngày nay, “Hãy giữ chừng cơn mình” nghĩa là “hãy theo dõi bước mình” Cho dù sự hiện diệnvinh hiển của Đức Chúa Trời không ngữ trong những ngôi nhà thờ của chúng ta như đã có trong đền thờ, nhưng các tín hữu ngày nay vẫn cần phải để ý lời cảnh cáo này.

Sự thờ phượng Đức Chúa Trời là chức vụ cao nhất của Hội thánh và phải xuất phát từ những tấm lòng tậnhiến cùng những ý chí đầu phục. Đối với dân sự Đức Chúa Trời, dự sự thờ phượng chung trong khi chứa chấp tội lỗi chưa xưng nhận là cầu xin sự quở trách và xét đoán của Đức Chúa Trời (Es 1:20-30; Am 5:1-27; Thi 50:1-23).


Sa-lô-môn bàn đến nhiều khía cạnh của sự thờ phượng, khía cạnh thứ nhất là việc dâng của lễ (c.1). Dân Đức Chúa Trời ngày nay không dâng thú vật cho Chúa như trong thời Cựu-ước, vì Chúa Giê-xu đã làm trọn mọi của lễ qua sự chết của Ngài trên thập tự giá (He 10:1-14).

Nhưng với tư cách những thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, các tín hữu ngày nay dâng các của lễ thuộc linh qua Ngài: Thân thể chúng ta (Ro 12:1-2), những người được dẫn đến với Chúa Cứu Thế (Ro 15:16), tiền bạc (Phi 4:18), sự ngợi khen và việc lành (He 13:15-16), một tấm lòng tan vỡ (Thi 51:17) và lời cầu nguyện bằng đức tin của chúng ta (Thi 141:1-2).


Điều quan trọng là người thờ phượng “sẵn sàng hơn để nghe”, ấy là vâng theo Lời Đức Chúa Trời. Của lễ không phải là những vật thay thế cho sự vâng lời, như vua Sau-lơ đã phát minh khi ông tìm cách che đậy sự bất tuân của mình bằng những lời hứa ngoan đạo (ISa 15:12-23).

Những vật dâng hiến trong tay mà không có đức tin vâng phục trong lòng thì trở thành “của tế lễ kẻ ngu muội”, vì chỉ kẻ ngu muội mới nghĩ mình có thể lừa dối Đức Chúa Trời. Kẻ ngu muội nghĩ mình đang làm thiện, nhưng người ấy chỉ đang làm ác. Và Đức Chúa Trời biết điều đó.


Sau đó Sa-lô-môn đưa ra một cảnh cáo về sự cầu nguyện bất cẩn (c.2-3). Cầu nguyện là việc quan trọng. Giống như hôn nhân “sự cầu nguyện không nên được bước vào một cách hời hợt hay bất cẩn, nhưng nghiêm túc và trong sự kính sợ Đức Chúa Trời”.

Nếu bạn và tôi được đặc quyền đem những nhu cầu và những thỉnh cầu của mình đến Nhà Trắng hoặc đến Điện Buckingham, chúng ta sẽ chuẩn bị những lời nói của mình một cách thận trọng và bày tỏ thái độ đúng đắn. Càng quan trọng hơn biết bao khi chúng ta đến với Ngôi của Đức Chúa Trời toàn năng. Vậy mà có sự cầu nguyện quá suồng sã được thực hiện bởi những người dường như không biết gì về sự kính sợ Chúa.


Khi bạn cầu nguyện, hãy coi chừng những lời hấp tấp và quá nhiều lời (Mat 6:7).

Bí quyết của sự cầu nguyện có thể chấp nhận được là một tấm lòng sửa soạn (Thi 141:1-2), vì miệng nói những điều mà lòng chất chứa (Mat 12:34-37).

Nếu chúng ta cầu nguyện chỉ để gây ấn tượng cho người ta, chúng ta sẽ kông liên lạc được với Đức Chúa Trời. John Bunyan, tác giả của tác phẩm Pilgrim’s Progress (Cuộc kinh lý của người hành hương) đã viết: “Trong sự cầu nguyện, tốt hơn là có một tấm lòng không lời nói, hơn là những lời nói không có tấm lòng”.


Câu 3 trình bày một sự tương tự: Như nhiều chiêm bao chứng tỏ rằng người ngủ là một người làm việc vất vả, thì nhiều lời chứng tỏ rằng người cầu nguyện là một người dại dột (Ch 29:20). Tôi nhớ đến một buổi nhóm cầu nguyện trong Hội thánh mà suốt thời gian đó có một thanh niên cầu nguyện một cách hùng hồn và khá dài, nhưng không ai cảm nhận quyền năng của Đức Chúa Trời hành động.

Khi một người nhập cư ít học đứng dậy và lắp bắp lời cầu nguyện ngắn gọn của cô bằng tiếng Anh bồi, chúng tôi đều nói “A-men!” cách nồng nhiệt. Chúng tôi cảm nhận rằng Đức Chúa trời đã nghe những lời thỉnh cầu của cô. Spurgeon đã nói: “không phải là độ dài của lời chúng ta cầu nguyện, nhưng là sức mạnh của lời chúng ta cầu nguyện có tác động”.


Lời khuyên thứ 3 của Sa-lô-môn có liên quan đến sự hứa nguyện với Chúa (c.4-7).

Đức Chúa Trời không đòi hỏi dân Ngài hứa nguyện để được Ngài chấp nhận, nhưng cơ hội ở đó cho họ để bày tỏ sự tận tâm nếu họ cảm thấy được hướng dẫn để làm vậy (Dan 30:1-17; Phuc 23:21-23; Công 18:18).


Người truyền đạo đã cảnh cáo về 2 tội lỗi. Tội thứ nhất là tội hứa nguyện mà không để ý giữ lời hứa, nói cách khác, là nói dối với Đức Chúa Trời. Tội thứ 2 là hứa nguyện nhưng trì hoãn việc giữ lời hứa, hy vọng mình có thể thoát khỏi sự hứa nguyện đó, khi thầy tế lễ (“thiên sứ” sứ giả) đến thu của lễ hay quà dâng đã được hứa trước, người đó sẽ nói: “Xin hãy quên sự hứa nguyện của tôi! Đó là một lầm lỗi!”


Đức Chúa Trời nghe những lời chúng ta nói và tiếp tục nghe cho đến những lời chúng ta hứa, trừ khi những lời ấy quá dại dột đến nỗi Ngài chỉ có thể bác bỏ chúng. Nếu trường hợp ngăn trở chúng ta làm trọn điều mình hứa, Đức Chúa Trời hiểu và sẽ giảm nhẹ cho chúng ta.

Nếu chúng ta hứa nguyện chỉ để gây ấn tượng cho người khác, hay có lẽ để “hối lộ” Chúa (“Nếu Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của con, con sẽ dâng 500 USD cho linh vụ!” ), thì chúng ta sẽ trả giá cho những lời bất cẩn của mình. Nhiều lần trong chức vụ mục sư, tôi đã nghe những người bệnh hứa hẹn với Đức Chúa Trời họ cầu xin sự chữa bệnh, chỉ để thấy những lời hứa đó bị quên lãng khi họ hồi phục.


Những người nói những lời hứa nguyện rỗng tuếch vì họ sống trong một “thế giới chiêm bao” tôn giáo. Họ nghĩ rằng lời nói giống như việc làm (c.7). Sự thờ phượng của họ không nghiêm túc, vì vậy những lời của họ không đáng tin cậy. Họ hưởng “những cảm giác tốt lành” đến khi họ hứa hẹn với Đức Chúa Trời, nhưng họ làm cho chính mình trở nên nguy hại hơn là tốt lành. Họ thích “chiêm bao” vì việc làm trọn hứa nguyện mình, nhưng họ chẳng bao giờ muốn hoàn nguyện. Họ thực hành một tôn giáo giả vờ, không quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời cũng không xây dựng tính cách Cơ-đốc nhân.


“Tôi sẽ lấy của lễ thiêu mà vào trong nhà Chúa, trả xong cho Chúa các sự hứa nguyện tôi, mà môi tôi đã hứa, và miệng tôi đã nói ra trong khi bị gian truân” (Thi 66:13-14). Khi chúng ta ăn cắp của Chúa sự thờ phượng và sự tôn kính thuộc về Ngài, chúng ta cũng đang tước đi của bản thân những phước hạnh thuộc linh mà Ngài ban cho những ai “thờ phượng Ngài bằng tâm thần và lẽ thật” (Gi 4:24).


2. Đừng ăn cắp của người khác (Tr 5:8-9)

Sa-lô-môn rời khỏi đền thờ và đi đến tòa thị chính nơi ông lần nữa chứng kiến những nhà chính trị đồi bại đàn áp người nghèo khó (Tr 3:6-17; Tr 4:1-3). Các quan chức chính quyền đã phạm luật bằng cách sử dụng quyền hạn của họ để giúp bản thân chớ không phục vụ người hác, một lề thói bị Môi-se lên án (Le 19:15; Phuc 24:17).


Điều đáng chú ý đó là Sa-lô-môn đã viết: “chớ lấy làm lạ về điều này!” chắc chắn ông không tánthành những lề thói bất hợp pháp của họ, nhưng ông biết quá nhiều về lòng người nên không mong điều gì khác với thói quam liêu phức tạp ở Y-sơ-ra-ên.


Cách dịch của Kinh Thánh NIV về c.8 đưa ra một mô tả sống động về tình trạng này! “Một quan chức bị coi chừng bởi một quan chức cao hơn, và trên họ vẫn là những người khác cao hơn”. Thay vì người nghèo được sử kiện công bằng, “vấn đề bị chìm dắm trong tệ quan liêu và chế độ quan liêu” (c.8 TLB) và các quan chức khác nhau đã bỏ vào túi số tiên mà lẽ ra phải gởi đến người nghèo vô tội.


Câu 9 khó hiểu và những bản dịch chính không phù hợp nhau. Ý niệm tổng quát dường như là thay cho sự đồi bại trong chế độ quan liệu, tốt hơn nên có một chính thể có tổ chức, và một vua cai trị xứ, hơn là có tình trạng vô chính phủ. Một số kẻ bất lương có thể trục lợi từ những lề thói đồi bại, nhưng mọi người đều được ích lợi từ chính quyền có tổ chức.

Dĩ nhiên, lý tưởng này phải có một chính thể trung thực và có hiệu quả, nhưng lòng người như vốn là thế, sự cám dỗ đối với lợi bất chính luôn luôn ở đó. Huân tước Acton đã viết cho giám mục Mandell Greighton năm 1887, “quyền lực có khuynh hướng suy sụp, quyền lực tuyệt đối suy sụp một cách tuyệt đối”. Sự nghiên cứu của Sa-lô-môn xác nhận điều này.


3. Đừng ăn cắp của chính bạn (Tr 5:10-20)

Sa-lô-môn đã bàn luận “sự vô ích về của cải” trong Tr 2:1-11 và một phần những ý niệm đó được lập lại ở đây. Điều ông làm trong phân đoạn này là đánh đổ nhiều sự tưởng tượng mà con người đeo đuổi về của cải. Vì họ giữ những ảo tưởng này, họ đánh cắp của chính mình những phước hạnh Đức Chúa Trời dành cho họ.


Của cải đem lại sự thỏa lòng (c.10).

Một số người xem tiền bạc như thể nó là một vị thần. Họ yêu mến nó, dâng tế lễ vì nó, và nghĩ rằng nó có thể làm được mọi sự.

Tâm trí họ đầy dẫy tư tưởng về nó, đời sống họ bị điều khiển bởi việc kiếm nó và bảo vệ nó; rồi khi họ có nó, họ kinh nghiệm một cảm giác tuyệt vời về sự an toàn. Đức tin trong Chúa có ích cho Cơ-đốc nhân thế nào, thì tiền bạc có ích cho kẻ vô tín như thế. Chúng ta thường nghe người ta nói: “À, tiền bạc cóthể không phải là điều số 1 trong đời sống, nhưng con đường của nó thẳng đến những gì là số 2!”.


Người yêu tiền bạc không thể thoả lòng cho dù có bao nhiêu trong tài khoản ngân hàng đi nữa vì lòng người được dựng nên để được thoả lòng chỉ bởi Đức Chúa Trời (Tr 3:11). Chúa Giê-xu đã cảnh cáo “Hãy chú ý và coi chừng sự hà tiện, vì sự sống của người ta không cốt tại của cải mình dư dật đâu!” (Lu 12:15 NKJV).

Trước hết, con người yêu tiền bạc, và rồi muốn có nhiều tiền hơn, và sự đeo đuổi đầy thất vọng đã khởi đầu có thể dẫn đến mọi thứ vấn đề. “Vì sự tham tiền là cội rễ mọi điều ác” (ITi 6:10 NKJV).


Tiền bạc giải quyết mọi vấn đề (c.11).

Không thể tránh sự thật rằng chúng ta cần một số tiền nào đó để sống giữa thế gian này, nhưng tiền bạc tự nó không phải là “liều thuốc vạn ứng” kỳ diệu cho mọi vấn đề. Thật ra, sự gia tăng về của cải thường tạo ra nhữn vấn đề mới mà chúng ta chưa bao giờ biết chúng đã tồn tại trước đó.Sa-lô-môn đề cập một vấn đề: những bà con và bạn bè bắt đầu xuất hiện và hưởng sự tiếp đãi của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là xem họ ăn sạch của cải chúng ta. Hoặc có thể đó là một nhân viên thuế thăm viếng chúng ta và xác định rằng chúng ta nợ chính quyền nhiều tiền hơn.


John Wesley, người đồng sáng lập Hội thánh Giám lý, đã bảo mọi người rằng: “Hãy tạo ra tất cả những gì bạn có thể, hãy để dành tất cả những gì bạn có thể, hãy cho tất cả những gì bạn có thể”. (Chính bản thân Wesley lẽ ra đã có thể là một người rất giàu có, nhưng ông chọn cách sống giản dị và ban cho rời rộng.


Của cải đem đến sự bình an của tâm trí (c.12).

Joe Louis, cựu vô địch quyền anh hạng nặng thế giới, đã từng nói: “Tôi thật sự không thích tiền bạc, nhưng nó làm yên tĩnh thần kinh tôi”. Nhưng Sa-lô-môn nói rằng có của cải không phải là sự bảo đảm thần kinh bạn sẽ êm dịu và giấc ngủ bạn yên ổn. Theo ông, người lao động bình thường ngủ ngon hơn người giàu có. Gợi ý này có vẻ như người giàu đã ăn quá nhiều và bị thức giấc cả đêm bởi bao tử xáo trộn. Nhưng chắc chắn Sa-lô-môn nghĩ đến điều gì đó lớn lao hơn việc ấy. Kinh Thánh Living Bible trình bày câu 12 một cách hoàn hảo: “Người làm việc chăm chỉ ngủ ngon cho dù người ấy ăn ít hay nhiều, nhưng người giàu phải lo lắng và bị chứng mất ngủ”.


Hơn một người truyền đạo đã đề cập đến John D.Rockerfeller trong bài giảng của mình làm ví dụ về một người có đời sống hầu như suy sụp bởi của cải. Ở tuổi 53, Rockerfeller là tỉ phú duy nhất trên thế giới, kiếm được khoản 1 triệu USD mỗi tuần. Nhưng ông là người bệnh hoạn sống nhờ bánh quy với sữa và không thể ngủ được vì lo lắng. Khi ông bắt đầu ban phát tiền bạc của mình, sức khoẻ ông thay đổi dần và ông sống đến lúc kỷ niệm sinh nhật thứ 98 của mình!


Vâng, thật tốt lành để có những thứ mà tiền bạc có thể mua được, miễn là bạn không đánh mất những thứ tiền bạc không thể mua được.


Của cải cho sự an toàn (c.13-17).

Bức tranh ở đây nói về 2 người giàu. Một người tích trự mọi của cải và làm hại chính mình bởi trở nên kẻ hà tiện. Người kia thực hiện những cuộc đầu tư sai lầm và mất của cải. Người ấy trở về nơi mình khởi đầu và chẳng có tài sản để lại cho con trai mình. Người ấy trải qua những ngày cuối đời trong cảnh tối tăm của sự chán nản và thấy bại, rồi người ấy không vui hưởng cuộc đời. Giống như tất cả chúng ta, người ấy chẳng đem gì vào thế gian lúc ra đời, và chẳng đem gì ra khỏi thế gian lúc chết (Giop 1:21; Thi 49:17; ITi 6:7).


Câu chuyện này khiến chúng ta nghĩ đến ví dụ của Chúa về người giàu ngu dại (Lu 12:13-21). Người này nghĩ rằng mọi vấn đề của ông được giải quyết khi ông trở nên giàu có, nhưng bất ngờ ông đối diện với việc chuẩn bị những kho thóc lớn hơn vì sự giàu có. Ông nghĩ ông đã được an toàn và bảo đảm cho những năm sắp đến, nhưng đêm đó ông chết! Tiền bạc của ông chẳng cung cấp sự an toàn nào cả.


Hãy nhớ rằng Sa-lô-môn chẳng tán thành sự nghèo khó hay giàu có, vì cả 2 đều có những vấn đề của chúng (Ch 30:7-9). Người Truyền-đạo đang cảnh cáo thính giả của mình chống lại sự tham tiền bạc và những ảo tưởng mà sự giàu sang có thể đem đến. Trong những câu kết thúc của chương này (c.18-20). Ông khẳng định lần nữa tầm quan trọng của việc chấp nhận vị trí của chúng ta trong đời sống và vui hưởng những phước hạnh Đức Chúa Trời ban cho chúng ta.


Điều “tốt và thích hợp” (c.18 NKJV) là lao động một cách trung thực, hưởng những điều tốt lành của đời sống, và chấp nhận tất cả như sự ban cho nhân từ của Đức Chúa Trời. Sa-lô-môn đã cho chúng ta lời khuyên khôn ngoan này trước đó trong Tr 2:24; Tr 3:12-13; Tr 3:22 và ông sẽ lặp lại lời khuyên ấy ít nhất 3 lần nữa. Truớc khi chấm dứt “bài giảng” của mình.


Có 3 cách để được của cải: chúng ta có thể làm việc để có nó, chúng ta có thể ăn cắp nó, hoặc chúng ta có thể đón nhận nó như một sự ban cho (Eph 4:28). Sa-lô-môn thấy những phước hạnh của đời sống như món quà của Đức Chúa Trời cho những ai làm việc và những ai tiếp nhận công việc đó như đặc ân của Đức Chúa Trời. Để vui hưởng công việc và tiếp nhận phần của mình trong đời sống. “Đó thật sự là một sự ban cho của Đúc Chúa Trời” (c.19 TLB).


Sa-lô-môn thêm vào một tư tuởng quan trọng khác: Khả năng vui hưởng những phước hạnh của đời sống cũng là một sự ban cho của Đức Chúa Trời. Sa-lô-môn sẽ mở rộng tư tưởng này trong chương kế tiếp và chỉ ra sự bất hạnh của những người có của cải nhưng không thể hưởng nó.

Chúng ta tạ ơn Đức Chúa Trời về thức ăn, nhưng chúng ta cũng phải tạ ơn Ngài về các lộc vị giác lành mạnh và một hệ thống tiêu hóa thực hiện chức năng đúng đắn. Một người bạn giàu có, hiện ở thiên đàng, thường chỉ tôi và vợ tôi đến các nhà hàng, nhưng ông ta không thể thưởng thức món ăn vì ông không thể nếm được nó. Mọi của cải ông đã không thể mua được sự chữa lành các lộc vị giác của ông.


Câu 20 có thể mang ý nghĩa rằng người vui mừng trong những phước hạnh hằng ngày của Đức Chúa Trời sẽ chẳng bao giờ có những sự hối tiếc.

“Người nào như thế sẽ không cần phải nhìn lại quá khứ mình với sự uồn rầu, vì Đức Chúa Trời ban cho người sự vui mừng” (TLB). Thời gian để bắt dầu tích luỹ những ký ức hạnh phúc là bây giờ. “Vậy xin hãy dạy chúng tôi biết đếm các ngày của chúng tôi, hầu cho chúng tôi đặt lòng mình vào sự khôn ngoan” (Thi 90:12).


Nó cũng có thể nghĩa là tín hữu nào chấp nhận những sự ban cho của Đức Chúa Trời hôm nay một cách biết ơn sẽ không phiền muộn và lo lắng về việc mình sẽ sống lâu thế nào. Đó là một thực tế xác minh rằng những ai có nhiều sinh nhật nhất thì sống lâu nhất, nhưng nếu họ cứ phàn nàn về việc “trở nên già”, họ sẽ không có một chút gì để vui hưởng. Những người cảm tạ Đức Chúa Trời “sẽ không chăm chú quá mức vào những năm quá khứ” theo như Kinh Thánh New English dịch câu 20. Họ sẽ đón nhận mỗi ngày khi nó đến và sử dụng nó để hầu việc Chúa.


Trong chương 6, Sa-lô-môn sẽ kết luận điều bàn luận của ông về “sự vô ích về của cải”. Ông có thể chọn hợp lý Mat 6:33 làm đề mục cho sứ điệp mình: “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì mọi điều ấy sẽ được cho thêm các ngươi” (NKJV). Điêu quan trọng là chúng ta yêu Chúa, chấp nhận phần Ngài định cho chúng ta, và vui hưởng những phước hạnh Ngài ban cho cách nhân từ.



bottom of page