top of page
Hung Tran
Feb 18, 2024
Mỗi thời đại, Ðức Chúa Trời đều có những tôi tớ vĩ đại của Ngài. Ðây là những “chiếc bình” được lựa chọn, quý trọng...
DẪN NHẬP
“1. Hãy viết cho thiên-sứ của Hội-thánh Ê-phê-sô rằng: Nầy là lời phán của Đấng cầm bảy ngôi sao trong tay hữu và đi chính giữa bảy chân-đèn vàng: 2. Ta biết công-việc ngươi, sự khó-nhọc ngươi, sự nhịn-nhục ngươi; ta biết ngươi không thể dung được những kẻ ác, lại biết ngươi đã thử những kẻ tự xưng là sứ-đồ mà không phải là sứ-đồ, ngươi đã rõ rằng chúng nó giả-dối. 3. Ngươi hay nhịn-nhục và chịu khó vì danh ta, không mệt-nhọc chút nào.” (Khải-huyền 2:1-3).
Hội...
...thánh của Ðức Chúa Trời đã tồn tại trải hai mươi thế kỷ, trong suốt thời gian lâu dài ấy lịch sử Hội thánh gắn liền với những sứ giả, những lãnh tụ kiệt xuất … họ là những người được Ðức Chúa Trời sắm sẵn để lãnh đạo Hội thánh Ngài.
Những lãnh tụ xuất sắc đã đặt nền móng cho sự phát triển Hội thánh cả về tín lý, truyền giáo và nếp sống đạo gương mẫu. Mỗi tấm gương hy sinh là một bài học quý giá của Hội thánh chung. Trong bài này, người viết sẽ điểm qua mười gương mặt xuất sắc nhất trong lịch sử Hội thánh kể từ ngày Lễ Ngũ Tuần.
1. Phao-lô (5 – 67)
Là người Do-thái, sinh tại Tạt-sơ. Phao-lô từng thọ giáo dưới chân giáo sư Ga-ma-li-ên, ông là một người Pha-ri-si cuồng nhiệt với luật pháp. Sau khi chứng kiến cái chết của Ê-tiên, Phao-lô lao vào bắt bớ Hội thánh nhưng sau đó ông được Chúa Jesus hiện ra trên đường đi Ða-mách. Phao-lô trở nên vị sứ đồ nổi tiếng của người ngoại bang. Với quyền công dân La-mã, với tri thức uyên bác về Kinh thánh và với sự xức dầu đặc biệt của Ðức Thánh Linh …
Phao-lô đã thực hiện các cuộc truyền giáo vòng quanh Ðịa Trung Hải trong khoảng 30 năm, Phúc-âm đã đến hầu hết các thành phố lớn. Vô số Hội thánh mọc lên, hàng triệu người được nghe Tin lành. Phúc-âm đắc thắng cả thể trên cả kinh đô triết học của Hy-lạp và kinh đô chính trị của La-mã.
Sứ đồ Phao-lô là người châm ngọn lửa Phúc-âm cho cả thế giới ngoại bang, ông cũng đặt nền tảng Thần học qua 13 bức thơ gửi cho các Hội thánh. Phao-lô là nhà truyền giáo vĩ đại nhất, những thành tựu truyền giáo và thần học của ông là không thể so sánh.
2. Chrysostom (347 – 407)
Ông là vị Giáo phụ nổi tiếng với biệt danh “Môi Miệng Vàng”, là nhà Truyền đạo nổi tiếng nhất của năm thế kỷ đầu tiên . Ông sanh tại thành An-ti-ốt, được phong chức linh mục năm 386. Ông là nhà diễn thuyết vô song với tài hùng biện rất nổi tiếng, là nhà truyền đạo trứ danh chuyên giảng Kinh thánh. Ông từng làm giáo trưởng tại Constantinople. Năm 404 ông bị nữ hoàng Eudoxia trục xuất vì những lời can gián cương quyết. Chrysostom bị đi đày và qua đời năm 407. Những tác phẩm có giá trị của ông là những bài giảng về Tân ước và Thi-thiên.
3. Athanasius (296 – 373)
Sinh ra trong gia đình giàu có, từng học tại trường giáo lý vấn đáp nổi tiếng ở Alexandria. Tác phẩm “De Incarnatione” của ông trình bày giáo lý về Ðấng Christ. Tại Hội nghị Nicea 325, khi vừa mới 30 tuổi, ông đã mạnh mẽ phát biểu chống đối quan điểm tà giáo của Arius và khẳng định rằng Ðấng Christ đã hiện hữu từ cõi đời đời quá khứ với Ðức Chúa Cha và có cùng bản thể (homoousios) như Ðức Chúa Cha, dầu Ngài là một ngôi vị riêng biệt. Quan điểm của ông được chấp nhận và Arius phải đi đày. Lịch sử cho rằng Athanasius có công đem chủ nghĩa tu viện vào phương Tây. Chính Athanasius đã liệt kê 27 sách chúng ta có trong Tân ước hiện nay.
4. Pelagius (360 – 420)
Là một tu sĩ và nhà Thần học người Anh. Vào năm 400 tại Rô-ma, ông trình bày quan điểm của mình về cách con người được cứu, nhưng không được Augustine ủng hộ. Ông tin rằng mỗi người được dựng nên đều tự do như A-đam, có quyền chọn điều thiện hoặc điều ác và không nhiễm tội của A-đam. Tình trạng tội lỗi trong thế gian là sự yếu đuối bởi xác thịt chứ không phải bại hoại của ý chí con người. Do đó con người có thể dùng ý chí để hợp tác với Ðức Chúa Trời trong tiến trình cứu rỗi qua sự trợ giúp của ân điển. Pelagius hoàn toàn đối lập với Augustine và quan điểm của ông bị lên án tại Giáo hội nghị Ê-phê-sô năm 431. Tuy nhiên tư tưởng của ông vẫn ảnh hưởng kéo dài trong suốt lịch sử Hội thánh đến ngày nay.
5. Augustine (354 – 430)
Là giám mục thành Hippo, là Triết gia, Thần học gia nổi tiếng, là cha đẻ của triết lý Cơ-đốc về lịch sử. Ông sinh trường và lớn lên tại Bắc Phi, sau khi cải đạo ông chuyên tâm nghiên cứu lẽ thật. Quan điểm của ông trái ngược với Pelagius khi cho rằng qua sự sa ngã, con người hoàn toàn sa bại vì thừa hưởng nguyên tội từ A-đam nên con người không thể vận dụng ý chí của mình trong sự cứu rỗi. Sự cứu rỗi hoàn toàn do ân điển do Ðức Chúa Trời ban cho. Augustine để lại trên một trăm tác phẩm, năm trăm bài giảng. Nổi tiếng nhất là quyển: “Thành của Ðức Chúa Trời”.
6. Gregory (540 – 604)
Còn gọi là Gregory đại nhân, ông là sinh ra trong thời loạn khi Ðế quốc phía Ðông dưới quyền của Justinian đang tìm cách đoạt lại phần Ðế Quốc phía Tây đã rơi vào tay dân các bộ tộc Teutones.
Ông là tu sĩ, sau làm trưởng tu viện Saint Andrew. Khi giáo hoàng Pelagius chết vì bệnh dịch vào năm 590, Gregory được chọn kế vị. Ông được xem là vị Giáo hoàng đầu tiên. Là người từng sai giáo sĩ đến nước Anh vào năm 597 và đã nhanh chóng chinh phục vua Kent về cho Cơ-đốc giáo.
Gregory cũng là một nhà thần học nổi bật. Ông được xếp ngang hàng với Jerome, Ambrose và Augustine như một trong bốn vị đại tiến sĩ của Hội thánh phương Tây. Ông giảng rất giỏi, viết sách, tổ chức việc ca hát … và là vị giáo hoàng trong sạch nhất, tốt nhất.
7. Thomas Aquinas (1226 – 1274)
Ðược mệnh danh là “Tiến sĩ thiên sứ” vì sự hiểu biết uyên thâm của ông về thiên sứ. Ông từng theo học tại Monte Cassino và đại học Naples và trở thành tu sĩ dòng Dominican. Ông liên kết triết học Aristotle với thần học, nhờ triết học cảm nhận sự hiện hữu của Thượng Ðế và sự bất tử của linh hồn. Aquinas tổng hợp đức tin và lý luận thành một tổng thể của chân lý với tác phẩm vĩ đại: “Summa Theologiae” (Tổng luận thần học). Sách gồm có ba ngàn mục, sáu trăm câu hỏi, đây là bộ sách Hệ thống Thần học của Công giáo. Sách luận về Ðức Chúa Trời, Giáo lý ba Ngôi, công tác của Ðức Chúa Trời, về Ðấng Christ, về con người … Tác phẩm này là nền tảng Thần học Hệ thống cho Hội thánh chung.
8. John Wycliffe (1329 – 1384)
Là người Anh, ông từng được mệnh danh là Sao Mai của Cuộc Cải Chánh. Wycliffe giảng dạy tại Ðại học Oxford, ông phản đối Thời Kỳ Lưu đày - Cuộc Ly Giáo và muốn cải cách Giáo hội. Tác phẩm “Luận về Quyền cai trị Dân sự” của ông đề ra tiêu chuẩn đạo đức của cấp lãnh đạo. Wicliffe khẳng định Kinh thánh là thẩm quyền duy nhất, Ðấng Christ là Ðầu Hội thánh, không phải Giáo hoàng. Wycliffe đã đem Kinh thánh đến với công chúng Anh, và phản đối biến thể thuyết (1328). Các quan điểm của Wycliffe bị lên án tại Luân-đôn năm 1382. Ông thành lập một nhóm truyền đạo nghiệp dư gọi là Lollards, đi rao giảng khắp Anh quốc. Wycliffe là người đặt nền tảng cho cuộc cải chánh của John Hus, Savonarola và cả Luther sau này.
9. Martin Luther (1483 – 1546)
Nhà Thần học cải chánh, cha đẻ của các hệ phái Tin lành. Ông sinh năm 1483 tại Eisleben. Luther là một tu sĩ, ông cũng là giáo sư dạy Kinh thánh tại đại học Wittenberg năm 1511. Khi nghiên cứu Kinh thánh Rô-ma 1:17, ông khám phá rằng người công bình chỉ duy bởi đức tin nơi Ðấng Christ. Những từ ngữ: sola fide, sola scriptura, sola sacerdos (duy đức tin, duy kinh thánh, chức tế lễ của các tín đồ) là những điểm chính trong hệ thống thần học của ông.
Giữa bối cảnh giáo hội đang bán bùa xá tội để có tiền xây dựng Ðại Giáo Ðường Thánh Phi-e-rơ tại La-mã. Ngày 31 tháng 10 năm 1517, Luther dán 95 Luận Ðề trên cửa Nhà Thờ Wittenberg. Trong đó ông lên án việc bán bùa xá tội và nhiều tệ nạn khác trong giáo hội. Năm 1518 – 1519, Luther đã phân rẽ khỏi giáo hội La-mã để thực hiện cuộc cải chánh, ông bắt đầu dịch Kinh thánh sang tiếng Ðức.
Mùa thu năm 1518, Luther bị triệu tập trước hội đồng hoàng gia ở Augsburg, Luther từ chối không rút lại quan điểm của mình. Năm 1520, Giáo hoàng Leo X dứt phép thông công Luther, nhưng ông vẫn kiên quyết theo đuổi chân lý đến cùng. Luther là vị anh hùng đức tin, anh hùng dân tộc, ông được các vương hầu Ðức quốc và dân chúng ủng hộ. Dù có sự chống đối quyết liệt từ Rô-ma nhưng Luther vẫn đứng vững và Tin lành khai sinh từ đó. Bài Thánh ca “Chúa vốn bức thành kiên cố ta” ghi dấu ấn lịch sử trong cuộc cải chánh của ông. Từ đó, có chủ thuyết Lutheranism, giáo phái Lutheran. Nhiều người xem Luther là nhân vật thứ hai sau sứ đồ Phao-lô.
10. John Calvin (1509 – 1564)
Ông là nhà thần học hàng đầu trong thời kỳ Cải chánh (Protestant Reformation). Thừa hưởng các di sản của Luther, Calvin xây dựng nên hệ thống thần học Cải chánh gọi là Calvinism. Năm 1528 bị trục xuất khỏi Paris, ông sang Geneva (Thuỵ sĩ) sống, nghiên cứu và quảng bá Thần học cải chánh. Nhờ ông mà thành phố Geneva trở nên nổi tiếng và giàu có đến ngày nay. Tác phẩm quan trọng nhất của Calvin là quyển “Nguyên lý Cơ-đốc giáo” (Institutes of the Christian Religion). Khi nói đến Calvin, ai cũng biết giáo lý Tiền định rất nổi tiếng của ông. Các giáo hội Cải chánh nhiệt liệt ủng hộ giáo thuyết Calvin như: Particular Baptists, Reformed Baptists, Presbyterians và Congregationalists .
KẾT LUẬN
Mỗi thời đại, Ðức Chúa Trời đều có những tôi tớ vĩ đại của Ngài. Ðây là những “chiếc bình” được lựa chọn, quý trọng (II Tim 2: 21) được Ðức Chúa Trời chuẩn bị sẵn để đáp ứng nhu cầu của con dân Chúa, của Hội thánh trong từng thời kỳ khác nhau. Tấm gương kính mến Chúa, yêu mến Kinh thánh, tận tuỵ với chức vụ, sẵn sàng hy sinh vì chân lý … của họ là sự khuyến khích, là nguồn động viên to lớn cho các thế hệ Cơ-đốc nhân trải mọi thời. Nguyện xin lòng yêu Chúa, sự tin kính, tinh thần phục vụ, sẵn sàng hy sinh cho Lời Chúa, cho chân lý của các bậc tiền bối này… tiếp tục lan tỏa trong mỗi đời sống con dân Chúa hôm nay. Nguyện xin ngọn lửa nhiệt thành từ họ cứ tiếp tục cháy mãi trong mỗi tấm lòng của chúng ta. A-men!
TRÍCH TỪ THẾ HỆ MỚI
bottom of page