top of page

ĐA-VÍT TRỊ VÌ

Hung Tran

Jul 20, 2023

Đa-vít là vị vua nổi bật nhất trong cả lịch sử Y-sơ-ra-ên trong thời Cựu ước...



ĐA-VÍT TRỊ VÌ


* Kinh Thánh: II Sa-mu-ên, I Sử ký

* Quãng thời gian: độ 1011 - 971 TC


Đa-vít là vị vua nổi bật nhất trong cả lịch sử Y-sơ-ra-ên trong thời Cựu ước. Triều đại của người đánh dấu bằng những thành tích rực rỡ thường được nhắc lại trong cả Kinh Thánh.

Về phương diện chính trị và tôn giáo, Đa-vít là một nhà lãnh đạo lỗi lạc. Vua đã thành công trong công cuộc đoàn kết các chi tộc Y-sơ-ra-ên thành một liên minh hữu hiệu và mở rộng bờ cõi từ sông cái của Ai-cập và vịnh Aqaba đến bờ biển Phê-ni-xi và đất Ha-mát (Hamath). Nhờ những chiến thắng quân sự cũng như chính sách ngoại giao khôn khéo, Đa-vít đã làm cho các nước lân bang kính nể và thừa nhận Y-sơ-ra-ên và cứ giữ địa vị đó cho đến sau khi Sa-lô-môn qua đời.

Về mặt tôn giáo, Đa-vít tổ chức các tế sư và người Lê-vi để toàn dân được tham dự các hoạt động nghi lễ tự cách tốt đẹp. Dầu vua không được phép xây Đền Thờ, vua đã lo chuẩn bị mọi sự cho việc xây cất dước thời vua Sa-lô-môn.


Trong Cựu Ước có hai sách kể lại triều đại của Đa-vít . Sách II Sa-mu-ên mô tả chi tiết sự trì vì, ghi lại bản tường thuật duy nhất về tội ác, tội lỗi và cuộc phiến loạn trong hoàng tộc. I Sử ký ghi lại gia phổ của mươi hai chi tộc, rồi tập trung vào Đa-vít như là vị vua đầu tiên của triêu đại cai trị Y-sơ-ra-ên, và gần như không nhắc tới Sau-lơ.

Sách này chú trọng nhiều tới tổ chức chính trị và tôn giáo của Y-sơ-ra-ên và thuật lại đầy đủ việc Đa-vít chuẩn bị cho công cuộc xây Đền thờ.


Bố cục của triều đại Đa-vít có thể sắp xếp theo thứ tự thời gian của các biến cố ghi trong hai sách trên.

II. Sa-mu-ên I Sử ký

I. Gia phổ 1-9

II. Đa-vít thương khóc Sau-lơ 1 10

III. Triều đại của Sau-lơ tan rã 2-4


VUA GIU-ĐA


Y-sơ-ra-ên lâm vào mạt vận khi vua Sau-lơ cùng với ba con chết trong trận đánh cuối cùng với quân Phi-li-tin. Quan tổng binh Áp-ne (Abner) lập lại trật tự vừa đủ để cho Ích-bô-sết (Ishbosheth- Eshbaal) được xức dầu làm vua tại Ga-la-át (Gilead) phía đông sông Giô-đanh (Jordan). Có lẽ vì quân Phi-li-tin phá rối hoặc chiếm đóng, nên con Sau-lơ lên ngôi trễ mất năm năm , vì người chỉ cai trị có hai năm trong thời gian bảy năm rưỡi Đa-vít cai trị tại Hếp-rôn (Hebron).

Đa-vít ở trong đất Phi-li-tin khi được tin Sau-lơ chết. Sau khi than khóc Sau-lơ và Giô-na-than, Đa-vít trở về Hếp rôn tại đây người được các thủ lãnh chi tộc Giu-đa xức dầu tôn làm vua. Dầu có sự chia rẽ giữa một bên là Giu-đa ủng hộ Đa-vít và một bên là các chi tộc còn lại trung thành với Ich bô sết , chẳng bao lâu họ đã tìm cách hòa giải khi cả Y-sơ-ra-ên nhận thấy Đa-vít không thù hận gì nhà Sau-lơ.

Đang khi còn đàm phán, cả Áp-ne và Ích-bô-sết đều bị giết mà không có sự đồng ý của Đa-vít. Sau bảy năm rưỡi, Đa-vít được toàn thể Y-sơ-ra-ên nhìn nhận mà không xảy ra hành động hiểm ác hay trả thù nào.

IV. Ngôi vua vĩnh viễn IISa 2Sm 7:1-29 ISu1Sb 17:1-27

"Giê-ru-sa-lem" _ Thủ đô của quốc gia.

Phi-li-tin không quan tâm bao nhiêu khi Đa-vít làm vua tại Hếp rôn, nhưng khi Đa-vít được toàn thể quốc dân Y-sơ-ra-ên suy tôn và công nhận thì Phi-li-tin bắt đầu cảnh giác. Đa-vít đánh bại họ hai lần và chắc đã nhận thấy rằng sự chống đối của họ có ích cho sự thống nhất đất nước.

Trong suốt thời gian Y-sơ-ra-ên chiếm đóng Ca-na-an, Giê-ru-sa-lem vẫn là thành trì (Jebusite) của dân Giê-bu-sít . Sau khi Đa-vít quyết định lập thủ đô quốc gia tại vị trí chiến lược này. Giô-áp đã đánh đuổi được quân Giê-bu-sít và được phong làm tư lệnh quân đội Đa-vít. Vị trí Đa-vít chiếm đóng gọi là Ô-phen (Ophel), có lẽ lúc đó vẫn còn cao hơn ngọn đồi ở phía Bắc, nơi xây đền thờ dưới thời Sa-lô-môn. Đồn này về sau được gọi là “Thành Đa-vít (ISu1Sb 11:7) và sau này thường được nhắc tới trong các sách Cựu Ước dưới tên Si ôn, vì nó biểu hiện cho địa vị quyền binh trong Y-sơ-ra-ên.

Sau khi nắm được quyền cai trị trên cả nước, Đa-vít tổ chức lại toàn thể quốc gia. Những người đã theo vua lúc người trốn chạy và lúc người ở Hếp rôn đều được phong vương tước và cho cai trị. Vua ký khế ước với dân Phê-ni-xi mua vật liệu để xây một cung điện nguy nga tại Giê-ru-sa-lem (IISa 2Sm 5:11-12).

Giê-ru-sa-lem được lập làm trung tâm tôn giáo của Y-sơ-ra-ên. Hòm giao ước được đưa về để trong một đền tạm. Các tế sư và người Lê-vi được phân công theo bàn thứ, sự phụng tự được thiết lập trên toàn quốc.


Đa-vít muốn xây một đền thờ. Ban đầu tiên tri Na than đã chấp thuận, nhưng sau Thượng Đế chỉ thị hoãn việc xây cất cho đến khi con vua lên ngôi, vì Đa-vít là con người chuyên về chinh chiến và mặc dầu được Thượng Đế thương yêu Ngài vẫn chỉ định cho con của Đa-vít là Sa-lô-môn được xây cất đền thờ. Tuy vậy lời hứa của Ngài với Đa-vít vượt xa vương quốc của Sa-lô-môn về tầm rộng lớn cũng như về thời gian. Đa-vít đã được bảo đảm rằng ngôi của người sẽ được vững lập đời đời. Tội lỗi của hậu sự Đa-vít sẽ bị phán xét và trừng phạt, nhưng Thượng Đế hứa rằng Ngài sẽ mãi mãi không rút lại sự thương xót của Ngài.


Không một vương quốc hay triều đại trần gian nào, kể cả của Đa-vít, tồn tại mãi mãi nếu không liên hệ với Đức Chúa Giê-xu, người mà Tân Ước gọi là con vua Đa-vít. Lời quả quyết được truyền qua tiên tri Na-than tới Đa-vít này là một móc xích trong chuỗi lời hứa về Đấng Thiên-Sai (Mê-si-a)trong thời Cựu Ước. Về sau, các vị tiên tri bổ túc những lời hứa ấy bằng những lời tiên tri bày tỏ rõ rệt hơn về Đấng Mê-si-a và vương quốc đời đời của Ngài.

IV. Nạn đói IISa 2Sm 21:1-14.

V. Bài ca giải phóng (Thi 18) IISa 2Sm 22:1-51.


THỊNH VƯỢNG VÀ THANH THẾ


Việc mở rộng bờ cõi cai trị của Đa-vít từ những biên giới chi tộc Giu-đa ra thành một đế quốc rộng lớn trải dài từ Sông Cái Ai-cập và Vịnh Aqaba đến vùng sông Ơ-phơ-rát (Euphrates) ít được Kinh Thánh chú ý ghi lại. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, điều này rất có ý nghĩa vì vào đầu thế kỷ thứ mười TC, vương quốc Y-sơ-ra-ên của Đa-vít và Sa-lô-môn là quốc gia hàng đầu trong Vàng đai phì nhiêu (Fertile Gescent).

Vào thời Sa-mu-ên, người Phi-li-tin (Philistines) độc quyền về đồ sắt (ISa1Sm 13:19, 20), nhưng đến cuối đời Đa-vít, nó đã được dùng tự do trong khắp nước Y-sơ-ra-ên (ISu1Sb 22:3). Điều này cho thấy đã có một cuộc Cách Mạng kinh tế xảy ra tại Y-sơ-ra-ên. Có lẽ trong thời gian trốn tránh trong đất Phi-li-tin, Đa-vít chẳng những học được cách dụng binh mà còn làm quen với phương pháp và công thức sản xuất khí giới.


Sa mạc A-ra-ba (Arabah) kéo dài từ biển chết (Dead Sea) về phía Nam đến Vịnh Aqaba có tầm quan trọng chiến lược đối với Y-sơ-ra-ên. Quặng sắt và đồng trong vùng này rất cần để bẻ gãy độc quyền của người Phi-li-tin. Rất có thể lý do khiến Đa-vít chiếm đóng Ê đôm và lập đồn khắp xứ là để kiểm sóat tài nguyên thiên nhiên này (IISa 2Sm 8:14).

Ngoài dân Phi-li-tin và Ê-đôm, Đa-vít còn chinh phục được dân Mô áp và A ma léc, bắt họ triều cống vàng bạc. Vua cũng đánh bại dân Am-môn và A-ram, bành trướng thế lực về phía đông và bắc để kiểm sóat con đường giao thương đi qua Đa-mách và các trục lộ khác. Với người Phê-ni-xi thì vua lập thương ước, vì họ có ngành giao thương hàng hải rất thịnh vuợng.

Câu chuyện về Mê-phi-bô-sết (Mephibosheth) trong những đoạn tường thuận lại sự bành trướng của Y-sơ-ra-ên nói lên sự độ lượng của Đa-vít đối với con cháu của Sau-lơ. Đa-vít không những cấp dưỡng cho Mê-phi-bô-sết bằng quỹ của hoàng gia mà còn cho nhà ở tại Giê-ru-sa-lem.

Mê-phi-bô-sết cũng được biệt đãi trong cơn đói kém trừng phạt Y-sơ-ra-ên vì tội ác ghê gớm của Sau-lơ muốn tận diệt người Ga-ba-ôn trước kia đã lập giao ước với Giô-suê (xem Gios Gs 9:3...) Đa-vít hiểu rằng tội lỗi này phải được chuộc tội (Dan Ds 35:31...) nên cho phép người Ga-ba-ôn xử tử bảy người thuộc giòng dõi Sau-lơ, tuy nhiên Mê-phi-bô-sét thì được tha chết. Vua lúc này Đa-vít cho di chuyển hài cốt của Sau-lơ và Giô-na-than về nghĩa trang gia tộc ở Bên-gia-min.

Trong khi làm vua Y-sơ-ra-ên, Đa-vít không bao giờ quên rằng Thượng Đế là đấng ban cho vua những thắng lợi quân sự và thịnh vượng vật chất. Trong một bài thờ cảm tạ (IISa 2Sm 22:1-51; Thi Tv 18:1-50) Đa-vít đã tỏ lòng ca ngợi Chúa. Đây chỉ là một bài tiêu biểu trong nhiều bài thơ Đa-vít soạn trong những trường hợp khác nhau, khi Đa-vít làm cậu bé chăn chiên, làm đầy tớ trong cung vua, làm kẻ trốn tránh và c uối cùng làm vị vua xây dựng đế quốc rộng lớn nhất của Y-sơ-ra-ên.


TỘI LỖI TRONG HOÀNG GIA


Kinh Thánh không bao giờ che giấu tội lỗi của các thủ lãnh Y-sơ-ra-ên. Khi Đa-vít buông mình vào tội lỗi, vua không thể thóat được sự phán xét của Thượng Đế, nhưng khi vua ăn năn nhìn nhận tội lỗi, thì vua lại được xem là người vừa ý Thượng Đế (ISa1Sm 13:14).

I. Đa-vít phạm tội và ăn năn IISa 2Sm 11:1-12:31.

II. Tội của Am-nôn (Ammon) và hậu quả 13:1-36.

III. III.III. Áp-sa-lôm (Absalom) phản loạn và bị hại 13:37-18:33.

IV. Đa-vít dành lại ngôi vua 19:1-20:6.


Đa vít có nhiều vợ. Vào thời đó, việc vua chúa có nhiều cung tần mỹ nữ là biểu tượng của quyền quý và rất thông thường. Cựu Ước cho phép chế độ đa thê vì lòng người cứng cỏi, nhưng với sự khải thị đầy đủ hơn thì dứt khóat Tân Ước cấm. Cựu Ước cũng cảnh cáo các vua về việc lấy nhiều vợ (PhuDnl 17:17). Đối với Đa-vít, việc cưới Mi-canh (Michal) con gái của Sau-lơ và cưới Ma-a-ca (Maacah) con gái của Thanh-mai (Talmai) vùa Ghê-su-rơ (Geshur) bao hàm dụng chính trị. Giống như mọi người khác Đa-vít phải gánh chịu các hậu quả trong cuộc sống gia đình với các tội ác như tội loạn dâm, tội giết người, tội phản loạn.


Việc Đa-vít thông dâm với Bát-sê-ba và giết U-ri là một tội ác trót lọt toàn hảo đối với con người. Vì không phải chịu trách nhiệm với ai trong nước, nên Đa-vít tưởng mình có thể giấu được mọi người. Trong một lúc, vua đã quên rằng Thượng Đế biết hết mọi tư tưởng và hành động của vua. Đối với một vua của dân ngoại, tội gian dục và giết người có thể không bị moi móc, nhưng với vua của Y-sơ-ra-ên thì không thể như vậy vì họ lãnh một sự ủy thác thiêng liêng. Khi nhà tiên tri Na-than chỉ tội lỗi của vua ra thì vua ăn năn. Đa-vít đã diễn tả cuộc khủng hoảng tâm linh này trong Thi-thiên 32 và 51 qua những lời thơ trác tuyệt. Vua được tha tội, nhưng hậu quả xảy ra trong gia đình thật trầm trọng (IISa 2Sm 12:11). Thượng Đế đã bày tỏ ân huệ của Ngài khi tha chết cho Đa-vít không bị ném đá vì đây là hình phạt mà luật pháp dành cho tội tà dâm. Ân điển của Thượng Đế cũng được bày tỏ ra khi đứa con không chính thức của Đa-vít bị che lấp bởi việc Bát-sê-ba sinh ra Sa-lô-môn sau này trở thành vua.

Đa-vít đã làm gương xấu cho con cái, để rồi họ cũng có những hành vi vô luân, sát nhân. Hành động vô luân của Am-nôn đối với cô em gái cùng cha khác mẹ đã khiến Áp-sa-lôm giết Am-nôn. Khi Đa-vít nổi giận, Áp-sa-lôm phải chạy trốn về nhà Thanh-mai ông ngoại chàng trong ba năm nhưng rồi được Giô-áp trung gian, chàng được phép trở về Giê-ru-sa-lem. Sau bốn năm tìm cách lấy lòng quần chúng ở Giê-ru-sa-lem, Áp-sa-lôm dấy binh làm loạn và có nhiều dấu hiệu thành công. Đa-vít buộc phải bỏ kinh đô chạy trốn vì sự phản nghịch xảy ra bất ngờ. Đa-vít là nhà quân sự thao lược.

Sau khi có đủ thì giờ tổ chức lại lực lượng, vua đã đánh tan quân đội của Áp-sa-lôm, đứa con phản loạn. Áp-sa-lôm bị giết. Thay vì ăn mừng chiến thắng, Đa-vít lại thương xót người con đã chết khiến cho Giô-áp trách vua quên lãng những người Y-sơ-ra-ên trung thành đã ủng hộ vua. Sau khi dẹp nốt một đám phản loạn nữa do Sê-ba người Bên-gia-min cầm đầu, Đa-vít khôi phục lại ngôi báu.


Trong gần một thập niên sau khi Đa-vít phạm tội, những lời tiên tri của Na-than đã ứng nghiệm cụ thể. Thượng Đế quả đã tha thứ tội lỗi Đa-vít, nhưng vua phải gánh chịu những hậu quả xảy ra ngay trong nhà mình.

III. Nhiệm vụ của người Lê vi ISu1Sb 23:1-26:28.

VI. Đa-vít trăn trối IISa 2Sm 23:1-7.


HỒI TƯỞNG VÀ TRIỂN VỌNG


Đa-vít đã vẻ kiểu chi tiết và sắp đặt tỉ mỉ cho việc xây đền thờ. Tuy đã đánh thắng các quốc gia lân cận và mở rộng bờ cõi Y-sơ-ra-ên. Đa-vít đã lập hiệp ước với người Phê-ni-xi là dân có ngành thương mại hàng hải rộng rãi khắp vùng Địa trung hải. Vua thương lượng với người Phê-ni-xi để nhờ họ cung cấp vật liệu. Lao công trong nước và ngoại quốc được tổ chức qui cũ, ngay cả chi tiết thờ phượng trong ngôi đền mới cũng được hoạch định cẩn thận.


Việc kiểm tra quân số và trừng phạt sau đó có liên hệ đến kế hoạch tỉ mỉ xây đền thờ. Kinh Thánh không nói rõ lý do tại sao vua và dân bị phạt, có thể Đa-vít đã kiêu hãnh vì sức mạnh quân sự và các thành tích của mình. Còn dân chúng bị phạt có lẽ vì đã theo Áp-sa-lôm và Sê-ba làm loạn. Giô áp phản đối ý kiến kiểm tra, nhưng bị vua áp đảo.

Gát, nhà tiên tri, công bố hình phạt cho tội này. Được phép lựa chon, vua đã lựa dịch hạch, mong còn hi vọng nơi sự thương xót của Thượng Đế. Trong cơn phán xét, vua và các trưởng lão dâng lời cầu thay nơi sân đạp lúa của A-ran-na (Arannah) người Giê-bu-sít về hướng Bắc thành Giê-ru-sa-lem mà vua đã mua theo lời khuyên của Gát. Trong khi vua dâng tế lễ, Thượng Đế nhậm lời và trận dịch ngừng lại.


Địa điểm này ở trên núi Mô-ri-a (Moriah), được Đa-vít chỉ định làm nơi đặt bàn tờ để dâng lễ thiêu và xây Đền Thờ. Rất có thể đây là nơi trước đó một ngàn năm Áp-ra-ham ta dâng con trai mình là I-Sắc. Tuy núi Mô-ri-a ở ngoài phạm vi thành Si-ôn (Giê-ru-sa-lem) lúc Đa-vít chiếm cứ ban đầu, sau này dưới thời Sa-lô-môn núi dó được nhập chung vào thủ đô.


Đa-vít ôn lại cuộc đời chinh chiến của mình. Bảy năm rưỡi ở Hếp-rôn là thời gian chuẩn bị và phân tranh quốc gia. Trong thập niên kế tiếp, Giê-ru-sa-lem trở thành thủ đô và nhiều nước xung quanh bị thôn tính sát nhập vào vương quốc. Tội lỗi Đa-vít và các cuộc nổi loạn kế tiếp chiếm hầu hết thời gian của thập niên thứ ba. Trong thập niên cuối cùng, Đa-vít tập trung sửa soạn cho công cuộc kiến thiết Đền Thờ mà mình không được phép xây cất.


Đa-vít khuyên Sa-lô-môn vâng phục Luật Pháp của Thượng Đế đã ban cho Môi-se và nhận biết trách nhiệm mình trước mặt Ngài. Trong một cuộc hội họp dân chúng, vua kêu gọi các vương hầu và tế sư công nhận Sa-lô-môn là người kế vị vua.

Những lời cuối cùng của Đa-vít nói lên sự cao cả của vị anh hùng được tôn kính nhất của Y-sơ-ra-ên này (IISa 2Sm 23:1-7). Đa-vít nói tiên tri rằng vương quốc của người sẽ tồn tại mãi mãi. Thượng Đế đã phán và lập một giao ước đời đời với người. Lời chứng này đáng dùng làm bia mộ cho Đa-vít.


Bài làm:

1. Giai đoạn nào của triều đại Đa-vít được đặc biệt ghi chép trong sách II Sa-mu-ên?

2. Những ai làm tổng binh cho Sau-lơ và Đa-vít?

3 Đa-vít tỏ lòng nhân từ đối với nhà Sau-lơ như thế nào?

4. Tại sao Đa-vít không được phép xây Đền thờ?

5. Cho biết tên hai vị tiên tri trong đời Đa-vít?

6. Đa-vít chiếm được tài nguyên kinh tế nào trong vùng sa mạc Si-nai?

7. Sự trốn tránh của Đa-vít qua xứ Phi-li-tin chuẩn bị con người ông cho tương lai thế nào?

8. Tại sao Áp-sa-lôm bị đày khỏi Giê-ru-sa-lem?

9. Ai hiến kế bất lợi cho Áp-sa-lôm?

10. Ai được Đa-vít chỉ định kế vị?

11. So sánh nội dung và cách đề cập tới lịch sử giữa sách II Sa-mu-ên và sách I Sử ký. Thượng Đế giữ địa vị nào trong các biến cố lịch sử ngày nay ?

12. Liệt kê tên các dân tộc bị Đa-vít chinh phục và vẽ trên bản đồ bởi cõi nước Y-sơ-ra-ên mở rộng tới đâu. So sánh với lời hứa trong SaSt 15:18. Có thể ứng dụng nào về phương diện tâm linh?


13. Tìm hiểu những hậu quả của tội lỗi Đa-vít. Khía cạnh nào trong cách Thượng Đế đoán phạt tội lỗi vẫn không thay đổi từ thời Đa-vít đến nay ? Trung dẫn Kinh Thánh để kiểm chứng câu trả lời của bạn .

14. So sánh cá tính của Sau-lơ và Đa-vít. Trong cuộc đời của họ có những đặc điểm nào mà bạn thấy giống những nhà lãnh tụ mà bạn biết?

15. Những điểm nào trong sự cai trị của Đa-vít tiên báo về Chúa Cứu thế ?


* Tài liệu tham khảo:

- Ackroyd, Peter R. The Second Book of Samuel. New York: Cambridge Univ. Press , 1977.

- Coggins, R,J. The First and Second book of the Chronicles. New York: Cambridge Univ. Press 1976.

- Keil, Carl F. “The Books of the Chronicles” Commentary on the Old Testament in Ten Volumes. Vol III. Grand. Rapids: Wn. B. Eerdmans Pub. Co. 1982.

- Sailhamer, John, First and Second Chronicles. Everyman’s Bible Commentary. Chicago: Moody Press, 1983.

- Williamson, H.G.M. 1 and 2 Chronicles. The New Century Bible Commentary . Grand Rapids : Wm . B. Eerdmans Pub Co. 1982.




bottom of page