top of page

CÁC VỊ THÁNH TỔ

Hung Tran

Jul 26, 2023

Các vị thánh tổ sống giữa các nền văn hóa Cận đông vào đầu thiên niên kỷ thứ hai T. C. Áp-ra-ham di cư từ thung lũng Ơ-phơ-rat đến Palestine,...



CÁC VỊ THÁNH TỔ


* Đọc kinh Thánh: 12:1-50:26

* Quãng thời gian: Chừng năm 2000 - 1600 T.C


Các vị thánh tổ sống giữa các nền văn hóa Cận đông vào đầu thiên niên kỷ thứ hai T. C. Áp-ra-ham di cư từ thung lũng Ơ-phơ-rat đến Palestine, còn Gia-cốp định cư tại Ai-cập vào cuối thời đại các thánh tổ. Vùng nằm giữa các sông Nil, Ti-gơ-rơ và Ơ-phơ-rat được gọi là vanh đai phì nhiêu (Fertile Crescent).

Vào thời kỳ này, các kim tự tháp lớn đã được xây tại Ai-cập. Tại Lưỡng hà châu (mesopotamia) đã có những bộ luật điều hành các hoạt động thương mại và xã hội. thương gia thường xuyên xuôi ngược qua cùng Palestine bằng lạc đà, lừa, để giao thương giữa hai trung tâm văn hóa lớn của thế giới cổ.


BỐ CỤC THỜI KỲ CÁC THÁNH TỔ NHƯ SAU:


1. Áp-ra-ham/ 12:1-25:18

2. I sác và gia cốp, 25:19-36:43

3. Giô sép, 37:1-50:26


1. ÁP-RA-HAM


Áp-ra-ham là một trong những nhân vật được biết nhiều hơn hết trong lịch sử. Áp-ra-ham là vị thánh tổ không những cho Do-thái Giáo mà cho cả Hồi giáo nữa. Trong Cơ-đốc giáo, ông là tấm gương của một người có đức tin lớn, và là vị cha của những kẻ có đức tin. ta có thể phân bố cục những đoạn về đời Áp-ra-ham như sau :


I. Áp-ra-ham đến Ca-na-an, 12:1-14:24

A. Di chuyển từ Cha-ran đến Si-chem, Bê-tên và miền Nam, 12:1-9

B. Kiều ngụ tại Ai-cập, 12:10-20

C. Phân rẽ với Lót, 13:1-13

D. Được hứa ban đất, 13:14-18

E. Giải cứu Lót, 14:1-16

F. Áp-ra-ham được Mên-chi-xê-đéc chúc phước, 14:17-24


II. Áp-ra-ham trông đợi con trai Chúa hứa cho mình 15:1-24:67

A. Lời hứa ban con trai, 15:1-21

B. A-ga sinh Ích-ma-ên, 16:1-16

C. Tái xác nhận lời hứa _dấu hiệu giao ước, 17:1-27

D. Áp-ra-ham cầu thay _ Lót được giải thoát, 18:1-19:38

E. Áp-ra-ham được cứu khỏi tay A-bi-mê-lec, 20:1-21

G. Áp-ra-ham ngụ tại Bê-e-sê-ba, 21:22-34

H. Giao ước được xác nhận do vâng phục, 22:1-24


III. Áp-ra-ham dự bị cho hậu thế 23:1-25:18

A. Áp-ra-ham mua đất nghĩa trang, 23:1-20

B. Cưới vợ cho con trai, 24:1- 67

C. I-sác được chỉ định thừa kế _ Áp-ra-ham qua đời, 25:1-18


BỐI CẢNH LỊCH SỬ


Áp-ra-ham sinh trong một gia đình và xã hội thờ thần tượng (Gios Gs 24:2,3). Cha người có lẽ đã tham dự vào sự thờ cúng mặt trăng tại U-rơ và Cha-ran. Theo tiếng gọi của Thượng Đế, Áp-ra-ham bỏ Cha-ran đi đến Palestine, cách đó 400 dặm.

Ta có thể theo dõi các cuộc di chuyển của Áp-ra-ham qua lời kể của sách Sáng Thế ký. Hầu hết những chổ người đến, ngày nay ta vẫn có thể nhận ra được. Trạm dừng chân đầu tiên của người là Si-chem (Shechem), khoảng ba mươi dặm về phía bắc Giê-ru-sa-lem. Gần Hếp-rôn (Hebron), du khách vẫn còn có thể thấy những cây sồi Mam-rê (Mamre), nơi Áp-ra-ham dựng bàn thờ để tương thông với Thượng Đế. Các thành phố khác mà người đã đến là Ghê-ra (Gerar) trong xứ Phi-li-tin (Philistine), Bê-e-sê-ba về phía nam. Cũng là một chuyến đi qua Ai-cập của ông được Kinh Thánh ghi lại nữa.

Phần lớn những chương 12-20 nói về hai mươi lăm năm của đời Áp-ra-ham trước khi sinh I-sác. Bảy mươi lăm năm còn lại chỉ có ít chi tiết trong chương 21-25


THỊNH VƯỢNG


Sáng Thế ký cho biết Áp-ra-ham rất giàu có. Câu SaSt 12:5 chỉ nói tổng quát những thứ sở hữu của ông, nhưng câu 14:14 mới cho thấy thế lực lớn lao của ông, vì chỉ trong một lúc ông có thể huy động được 318 gia nhân đã được huấn luyện dể đi giải cứu Lót. Việc người đầy tớ đi Mê-sô bô-ta-mi đem theo một đoàn lữ hành gồm mười lạc đà chứng tỏ Áp-ra-ham có một gia sản khổng lồ, vì một con lạc đà đòi hỏi những đầu tư rất lớn mà một người bình thường không thể nào kham nổi (24,10). Áp-ra-ham có nhiều tôi tớ là do ông mua, do người ta tặng và do sinh ra trong nhà ông (16:1; 27:23; 20:4). Các tù trưởng địa phương công nhận Áp-ra-ham là một vị vương hầu, liên minh và lập ước với ông (14:13; 21:32; 23:6)


PHONG TỤC VÀ VĂN HÓA


Khi bị đói kém, ông đã di cư đến Ai-cập và ở lại đó, điều này có thể cho thấy sự thiếu đức tin của ông; và hành vi của ông trước Pha-ra-ôn nói lên một giai đoạn sa sút thuộc linh. Nếu nói là chồng của Sa-ra thì ông có thể bị giết, còn nói là anh thì ông hy vọng sẽ được ưu đãi. Áp-ra-ham đã dẹp sự trung trực và tự trọng qua một bên, nhưng cuối cùng ông đã bị tống xuất cách nhục nhã (12:11-20).

Luật lệ thịnh hành trong văn hóa Mê-sô-bô-ta-mi lúc Áp-ra-ham đến đó giải thích tại sao Áp-ra-ham xem người đầy tớ thâm niên Ê-li-ê-se là kẻ thừa kế (15:1-3). Luật Nuzu qui định rằng khi một cặp vợ chồng không con, họ có thể nuôi một đầy tớ làm con với đầy đủ quyền lợi pháp lý, và để được hưởng gia tài, người con nuôi phải thường xuyên chăm sóc họ và lo chôn cất chu đáo khi họ qua đời. Trong lúc Áp-ra-ham đang cân nhắc quyết định đó, Thượng Đế đã tái lập lời hứa với người (15:4, 5).

Theo đề nghị của Sa-ra (Sarah), Áp-ra-ham chấp nhận có con với A-ga (Hagar), nữ tì của Sa-ra. Điều này cũng dựa theo phong tục của thời đó. Một cặp vợ chồng không còn có thể nuôi con của nàng hầu làm kẻ kế tự theo pháp lý. Sau mười năm ở Ca-na-an, không còn thấy triển vọng gì về đứa con Chúa hứa ban, chắc Áp-ra-ham và Sa-ra đã nghĩ rằng phương pháp này có thể giúp cho lời hứa của Thượng Đế thành tựu. Mười ba năm sau, lúc Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi, Thượng Đế bác bỏ kế hoạch đó và lần sau này xác quyết rằng Sa-ra sẽ sinh con theo lời hứa. Giao ước lại được tái lập và lễ cắt bì được thiết lập để làm dấu chứng (17:27 cũng xem 12:1-3; 13:14-18; 15:18-21; CoCl 2:11).

Một lần nữa, Áp-ra-ham lại sa sút, nói dối được A-bi-mê-léc, nhưng được Chúa can thiệp, cho phép người cầu thay cho vua và cả nhà (SaSt 21:1-18).

Áp-ra-ham quan tâm đến số phận A-ga lúc nàng bị đuổi, có lẽ vì ông nghĩ đến luật lệ đương thời. Theo luật, đem bán một nàng hầu đi làm nô lệ sau khi nàng đã sinh con cho chủ là điều bất hợp pháp. Dầu trường hợp này không hẳn như vậy, Áp-ra-ham chỉ đuổi A-ga khi được Thượng Đế cho biết đó là ý Ngài. Dù vậy ông cũng đã cung cấp đầy đủ cho nàng và con trai khi họ ra đi.

Khi Sa-ra qua đời, Áp-ra-ham mua một khu đất chôn nơi người Hê-tít (23:1-20). Ông chỉ muốn mua hang đá Mắc-bê-la (Machpelah) thôi, nhưng Ep-rôn nhất quyết chỉ bán cái hang cùng với cánh đồng. Như vậy, Áp-ra-ham buộc phải đóng thuế theo luật Hê-tít. Còn nếu, Áp-ra-ham chỉ làm chủ cái hang thì khỏi phải đóng thuế.


MỘT NGƯỜI CÓ ĐỨC TIN


Khi tin nơi lời hứa của Thượng Đế, Áp-ra-ham đã vượt lên trên trình độ tôn giáo của người đồng thời. Người đã vâng phục ngay từ buổi đầu. Đi đến đâu, người cũng thiết lập bàn thờ để thờ “Thượng Đế của trời và đất (24:3) giữa một thế giới ngoại giáo. (12:7, 8 tt)


Hãy xét sáu phần của lời hứa Thượng Đế phán cho Áp-ra- ham.

1. Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn.

2. Ta sẽ ban phước cho ngươi.

3. Ta sẽ làm nổi danh người.

4. Người sẽ thành một nguồn phước.

5. Ta sẽ ban phước cho kẻ nào chúc phước ngươi và rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi.

6. Các chi tộc trên thế giới sẽ nhờ ngươi mà được phước.


Lời hứa phong phú này đã có ảnh hưởng sâu xa trong lịch sử cho đến ngày nay _ rộng lớn hơn tầm hiểu biết của Áp-ra-ham rất nhiều. Khi còn sống, Áp-ra-ham đã được phước lớn, và trước khi qua đời, ông hiểu rằng rồi đây sẽ có nhiều dân tộc sinh ra từ Ích ma ên, I-sác và các người con khác. Ngày nay, Áp-ra-ham được tôn trọng giữa cả những người theo Hồi giáo, Do-thái giáo và Cơ-đốc giáo. Lời hứa mọi chi tộc trên đất sẽ nhờ người được phước đã ứng nghiệm trong Chúa cứu thế Giê-xu. Ma-thi-ơ giới thiệu Chúa Giê-xu là “con của Áp-ra-ham (SaSt 1:1 cũng xem GaGl 3:6-9).


GIAO ƯỚC VỚI ÁP-RA-HAM


Trong khi nghiên cứu về đời sống Áp-ra-ham, ta thấy ông càng ngày càng hiểu rõ hơn về các lời hứa của Chúa cho ông. Trong những lúc gặp khủng hoảng thì Áp-ra-ham càng hiểu thêm về những lời hứa đó. Khi có vụ tranh chấp đất đai, Áp-ra-ham đã tỏ ra rộng lượng để Lót chọn phần tốt (SaSt 13:1-18). Trong khi Lót quyết định dựa trên lợi lộc vật chất ở vùng đất vô đạo thì Áp-ra-ham được Thượng Đế xác nhận với người rằng đất đó thuộc về người và hậu tự người.

Khi Áp-ra-ham giải cứu lót, ông đã không nhận phần thưởng của vua Sô-đôm, và ông nghĩ đến chuyện dàn xếp về pháp lý cho tương lai. Nhưng Thượng Đế cho biết nhiều hơn trong những ngày tới. Ngài hứa rằng hậu tự của ông sẽ đông như sao trên trời, nhưng họ sẽ ở trong Ai- cập 400 năm. Kinh Thánh nói Áp-ra-ham tin lời Thượng Đế và bởi điều đó mà ông được kể là người công chính (RoRm 4:3, 22).

Giao ước lại được mở rộng và xác nhận khi Áp-ra-ham 99 tuổi. Điều kiện giao ước rất minh bạch (17:1-27). Trong khi người con Chúa hứa vẫn chưa ra đời thì phép cắt bì được lập để làm dấu hiệu đặc biệt của giao ước cho Áp-ra-ham và con cháu (4:9-12).


NGƯỜI BẠN CỦA THƯỢNG ĐẾ


SaSt 18:1-19:38 cho ta thấy tình bạn giữa Áp-ra-ham và Thượng Đế (xem EsIs 4:18; Gia Gc 2:22, 23). Khi Thượng Đế cho Áp-ra-ham hay bí mật của kết hoạch về Sô-đôm và Gô-mô-rơ, thì ông được thúc giục cầu nguyện. Ông dựa trên lý luận, “Thượng Đế của cả thế giới há lại không làm điều phải sao?” Ngài tỏ ra rằng lòng thương xót của Ngài đi trước sự công bình, và Ngài hứa sẽ chừa các thành đó lại nếu có được mười người công chính. Các thành đó đã bị diệt, nhưng Lót và gia đình đã được cứu.


CHỊU THỬ NGHIỆM


Thử nghiệm lớn nhất cho Áp-ra-ham là Thượng Đế đã bảo người hãy dâng I-sác làm của tế lễ trên núi Mô-ri-a (Moriah). Áp-ra-ham vâng lời, bày tỏ niềm tin rằng Thượng Đế có thể khiến người chết sống lại (HeDt 11:19) . Trả lời cho câu hỏi khó xử của con, Áp-ra-ham đã nói một câu có tính cách tiên tri (SaSt 22:1-19) bảo đảm với I-sác là Thượng Đế sẽ dự bị cho họ của tế lễ (22:1-19; ICor1Cr 5:7; HeDt 9:26; KhKh 13:8). Thượng Đế đã dự bị, trước hết là con chiên đực, rồi nhiều thế kỷ về sau, chính con yêu dấu của Ngài.


DÒNG DÕI ÁP-RA-HAM


Người con mà Thượng Đế nhiều lần hứa ban cho Áp-ra-ham là I-sác. Câu chuyện Áp-ra-ham kiếm vợ cho I-sác (ch24) là một câu chuyện sống động lý thú, trong đó chứa đựng những bài học về sự hướng dẫn của Thượng Đế đối với người đầy tớ của Áp-ra-ham qua sự cầu nguyện của người. Cuối cùng Rê-bê-ca đã lìa nhà cha mình để về làm vợ I-sác. Kinh Thánh nói rất ít về I-sác. Cuộc đời của người khá bình lặng so với cha và các con của người. Người sống gần như trọn đời ở miền Nam Ca-na-an quanh quẫn ở vùng Ghê-ra, Rê-bô-bốt và Bê-e-sê-ba. Theo SaSt 27:27-33, I sác là một con người có đức tin đã chúc phước lành cho các con mình. (xem HeDt 11:20).


I. Gia đình I-sác, SaSt 25:18-34

A. Rê-bê-ca sinh đôi, 25:19-26

B. Ê-sau bán quyền trưởng nam cho Gia-cốp 25:27-34

II. I-sác lưu ngụ tại Ca-na-an 26:1-33

A. Giao ước được xác nhận với I-sác 26:1-5

B. Rắc rối với A-bi-mê-léc, 26:6-22

C. Thượng Đế ban phước cho I-sác 26:23-33

III. Phước lành của tổ phụ 26:34-28:9

A. I-sác thiên vị Ê-sau, 26:34-27:4

B. Phước lành bị tráo _ hậu quả 27:5-28:9


Áp-ra-ham còn có những người con khác nữa. Được biết nhiều nhất là Ích-ma-ên, tổ phụ dân Ả rập, và Ma-đi-an, tổ phụ dân Ma-đi-an, Áp-ra-ham cho họ của cải để họ đi khỏi xứ Ca-na-an là lãnh thổ của I-sác, người thừa kế sản nghiệp Áp-ra-ham.


2. I-SÁC VÀ GIA-CỐP


HAI ANH EM SINH ĐÔI


Học về cuộc đời của hai người con song sinh của I-sác là Ê-sau và Gia-cốp thì vừa thú vị vừa thất vọng. Gia-cốp lợi dụng mua quyền trưởng nam của Ê-sau, và toa rập với mẹ để lừa I-sác cướp phước lành. Còn Ê-sau thiếu đức tin nơi Thượng Đế, thiếu ý thức về những giá trị chân thật, coi thường quyền trưởng nam (25:29-34). Về sau ông bất cần những tiêu chuẩn của cha mẹ mà đi cưới một người đàn bà Hê-tít làm vợ (26:34). Tác giả Hê-bơ-rơ gọi ông là “phàm tục. Lịch sử của dân Ê-đôm, hậu duệ của Ê-sau, cần được học riêng.


I. Gia-cốp tới nhà La-ban 28:10-32:2

A. Giấc mơ tại Bê-tên 28:10-12

B. Lập gia đình và gây dựng sản nghiệp , 29:1-30:43

C. Chia tay với La-ban 31:1-32:2


II. Gia-cốp trở về Ca-na-an 32:3-33:51

A. Ê-sau và Gia-cốp giải hòa , 32:3-33:17

B. Rắc rối tại Si-chem, 33:18:34:31;

C. Phụng thờ tại Bê-tên 35:1-15


III. Hậu duệ của I-sác 35:22-36:43

A. Các con trai của Gia-cốp 35:22-26

B. Chôn I-sác 35:27-29

C. Ê-sau và lãnh thổ Ê-đôm , 36:1-43


CÁC CUỘC PHIÊU LƯU CỦA GIA-CỐP


Dầu đã được cha chúc phước, Gia-cốp đã phải qua nhiều nổi truân chuyên mới trở thành con người có đức tin. Gia cốp sợ anh là Ê-sau trả thù, còn cha mẹ thì không muốn chàng cưới con gái Hê-tít làm vợ, nên bảo chàng đi qua Mê-sô-bô-ta-mi. Dọc đường Gia-cốp nằm mơ và hứa phụng thờ Thượng Đế với điều kiện Gia-cốp làm việc cho La-ban và rất phát đạt về nhân số cũng như tài vật .


TRỞ VỀ CA-NA-AN


Biết được sự hướng dẫn của Thượng Đế, Gia-cốp hoạch định trở về Ca-na-an. Giao thiệp giữa Gia-cốp và La-ban trở nên căng thẳng, nên lợi dụng lúc La-ban đi hớt lông cừu, Gia-cốp dọn đi. La-ban đuổi theo nhưng vì Gia-cốp đi đã được ba ngày nê chỉ theo kịp khi Gia cốp đến vùng đồi Ga-la-át (Gilead). La-ban kêu mất mấy tượng thần trong nhà. Ra-chên đã giấu tượng Thê-ra-phim dưới ghế ngồi. Có lẽ đối với La-ban, các tượng này không phải chỉ có nghĩa tôn giáo. Theo luật Nuzu, người con rễ nào có những tượng thần của nhà vợ, thì có thể đòi quyền hưởng gia tài trước tòa. Dầu La-ban không tìm được tượng, ông đã khôn khéo lập ước với Gia-cốp để Gia-cốp không qua được đất ông mà đòi quyền lợi của mình.

Đến rạch Gia-bốc (Jabbok), Gia-cốp được tin Ê-sau mang 400 gia nhân đến gặp mình, người bèn cho gia nhân mang theo một số lễ vật đi trước để làm nguôi giận Ê-sau. Trong đêm, người vật lộn với một vị mà người tin là Thượng Đế . Trong cuộc gặp gỡ đó, tên Gia-cốp của người được đổi thành Y-sơ-ra-ên, nghĩa là “Người cùng cai trị với Thượng Đế. Kể từ đây, người không còn là kẻ lừa đảo (Gia-cốp nắm gót, lừa đảo) nữa mà là người cùng chiến thắng với Thượng Đế.

Sau khi giải hòa với anh, Gia-cốp dời về phía Nam đến Si-chem (Shechem). Tai đây Lê-vi và Si-mê-ôn đã gây thù oán với dân thành (34:1-31). Gia-cốp tách ra đi đến Bê-tên, nơi người đã cam kết phụng sự Ngài và loại trừ hết Thượng Đế thần tượng còn sót lại trong nhà mình. Tại đây, người dựng một bàn thờ. Đáp lại, Thượng Đế tái lập giao ước với người và hứa rằng nhiều dân tộc và vua chúa sẽ ra từ Y-sơ-ra-ên (35:9-15).

Cuối cùng, Gia-cốp định cư tại Hếp-rôn, nơi nhà cha mình. Trong khi đi đường, Ra chên qua đời và được chôn gần Bết-lê-hem. Khi I sác qua đời, Ê-sau từ Sê-i-rơ tới hiệp với em là Gia-cốp lo chôn cất cha mình.


3. CUỘC ĐỜI GIÔ-SÉP


Giô-sép, con lớn của Ra-chên, là niềm vui và hãnh diện của Gia-cốp. Gia-cốp may cho chàng một chiếc áo dài nhiều màu sắc. Dường như đó là dấu hiệu đặc biệt của một trưởng tộc. Các anh lớn của Giô-sép đã ghét Giô-sép vì chàng thường hay mách cha những chuyện xấu họ làm. Nay họ lại càng ghét hơn. Đến khi Giô-sép nằm mộng thấy chàng sẽ được cất lên cao hơn họ, thì họ bán chàng cho các lái buôn Ích-ma-ên và Ma-đi-an khi những người này ghé qua trại họ ở Đô-than. Khi Giô-sép bị đem qua Ai-cập , thì các anh không nghĩ rằng sẽ có ngày gặp lại chàng. Họ bịa chuyện để cho Gia-cốp tin rằng Giô-sép đã bị thú dữ phanh thây.


I. Giô-sép là con cưng , 37:1-36

A. Bị các anh ghét 37:1-24

B. Bị bán qua Ai-cập 37:25-36


II. Giu-đa và Ta-ma 38:1-29


III. Giô-sép, làm nô lệ rồi làm quan

A. Giô-sép bị sa ngục 39:1-20

B. Giải mộng 39:21-26

C. Cầm quyền chỉ dưới Pha-ra-ôn 41:37-57


IV. Giô-sép và các anh em 42:1-45:38

A. Chuyến đi đầu, Si-mê-ôn bị giữ làm con tin , 42:1-28

B. Chuyến thứ hai có Bên-gia-min _ Giô-sép nói thật lý lịch mình 43:1-45:28


V. Gia đình Giô-sép đến Ai-cập 46:1-50:26

A. Cấp đất Gô-sen cho dân Y-sơ-ra-ên

B. Chúc phước, 47:28-50:14

C. Giô-sép hi vọng cho dân Y-sơ-ra-ên, 50:15-26


NÔ LỆ AI-CẬP


Suốt thời gian ở Ai-cập, dù gặp cảnh ngộ nào, Giô-sép cũng luôn tôn vinh Thượng Đế. Vì không muốn phạm tội với Thượng Đế và với chủ, nên Giô-sép không chiều theo sự cám dỗ của bà chủ (39:9). Khi giải mộng, Giô-sép cho biết là nhờ Thượng Đế mình mới làm đưọc như vậy (40:8). Người cũng mạnh dạn quả quyết với Pha-ra-ôn rằng qua chiêm bao của Pha-ra-ôn. Thượng Đế cho biết sẽ có một số năm được mùa, rồi tiếp theo là những năm đói kém (41:14-36). Khi đặt tên con là Ma-na-se (41:51), người xác nhận rằng Thượng Đế đã giúp mình quên những nổi sầu khổ. Khi tỏ thật mình cho anh em, người nhận rằng Thượng Đế đã đem mình đi Ai-cập. Sau khi Gia-cốp qua đời, Giô-sép trấn an anh em rằng Thượng Đế đã bố trí mọi biến cố để đem lại lợi ích cho mọi người và họ không nên sợ ông, làm như ông thay chổ cho Thượng Đế (50:15-21).


CỨU TINH CỦA GIA ĐÌNH


Lòng trung kiên của Giô-sép đối với Thượng Đế trong những lúc gian nan đã được bù bằng sự thăng tiến. Trong nhà Phô-ti-pha (Potiphar), ông được tin cậy và cho làm quản lý. Khi bị tù, ông được làm cai, nhờ đó có thể giúp các bạn đồng tù. Một vị quan đồng tù được Giô-sép giải mộng cho, đã quên bẵng Giô-sép sau khi được thả ra. Mãi đến hai năm sau mới tiến cử Giô-sép lên giải mộng cho vua. Đây là một cơ hội lớn vì vua đang cần một người thông minh như Giô-sép. Được làm thủ tướng cho Pha-ra-ôn, Giô-sép đã lèo lái xứ Ai-cập qua những năm đói kém, và nhân đó cứu được gia đình mình. Nhờ địa vị của ông, dân Y-sơ-ra-ên được cấp cho đồng cỏ rộng lớn ở Giô-sen để nuôi bầy súc vật của họ và của vua ban.

Lời chúc phước của Gia-cốp có thể dùng làm kết luận cho thời đại các thánh tổ. Thể theo lời hứa của Thượng Đế , lời chúc phước của Gia-cốp có tính cách tiên tri.

Trước khi qua đời tại Ai-cập, Giô-sép nói lên lòng tin tưởng của mình đối với giao ước Thượng Đế đã lập với Áp-ra-ham, I-sác và Gia-cốp. Lời hứa đó được lưu truyền cho từng thế hệ, và Giô-sép tin tưởng rằng Thượng Đế sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên trở về đất mà Ngài đã hứa ban cho họ (xem 15:1-21; 50:24-46)


Bài làm:

1. Những ai là thánh tổ?

2. Liệt kê những biến cố chính của đời sống Áp-ra-ham

3. Tại sao những bàn thờ Áp-ra-ham dựng lên để thờ Thượng Đế có ý nghĩa đặc biệt.

4. Tại sao Áp-ra-ham được gọi là ngươi có đức tin?

5. Dấu hiệu và ý nghĩa của Giao ước Thượng Đế với Áp-ra-ham là gì?

6. Bằng cách nào người đầy tớ của Áp-ra-ham phân biệt được sự hướng dẫn của Thượng Đế khi đi chọn vợ cho I-sác?

7. Kể lại hoàn cảnh đã đưa Giô-sép ra khỏi ngục ở Ai-cập .

8. Giô-sép đã tỏ ra tinh thần tha thứ đối với các anh khi họ đến Ai-cập như thế nào?

9. Theo dõi lời hứa cho các thánh tổ trong Sáng-thế ký 12-50. Ngày nay nó có ý nghĩa gì ?

10. Tìm trên bản đồ những thành phố có liên hệ đến các thánh tổ. Thành nào có ý nghĩa tiên tri ngày nay.

11. Cho biết nguồn gốc của các dân tộc ghi trong Sáng-thế ký: Mô-áp, Am-môn, Ma-đi-an (Midianites), Ả-rập (Arabs) , Ê-đôm (Edomites). Dân nào còn tồn tại ngày nay?

12. Đối chiếu tính tình của Ê-sau và Gia-cốp. Những nét nào của cá tính họ tiêu biểu cho con người ngày nay?

13. Những chổ trong Tân Ước đề cập đến các nhân vật này trong Sáng thế ký cho biết gì về họ.

- Áp-ra-ham (RoRm 4:1-22; GaGl 3:16, 17; 4:22-32; HeDt 11:17, 18)

-I-sác (LuLc 13:28; RoRm 9:7, 10; GaGl 4:28; HeDt 11:9; Gia Gc 2:21)

- Ê-sau (RoRm 9:13; HeDt 12:16, 17)

- Giô-sép (Mat Mt 1:2; 8:11; LuLc 13:28; GiGa 4:12; RoRm 9:13; HeDt 11:9, 20, 21)

- Giô-sép (Cong Cv 7:11-14; HeDt 11:21, 22; KhKh 7:8).

14. Những luật lệ và phong tục nào đã ảnh hưởng đến cách cư xử của các vị thánh tổ. Văn hóa được ảnh hưởng đến mức nào trên đạo đức Cơ-đốc (Christian Ethics)?. Cho hai ví dụ về những yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến tiêu chuẩn đạo đức Cơ-đốc . Cho biết giải pháp thực tế của Kinh thánh về hai vấn đề này.


*Tài liêu tham khảo:

- Aharoni, Y.and Avi - Yonah , M. The Macmillan Bible Atlas. New York . Macmillan Publishing Co. 1977.

- Albright, William F. The Archeology of Patesline. Gloucester, MA: Peter Samith Publisher, 1960.

- Beitzel, Barry, J. The Moody Atlas of Bible Lands. Chicago: Moody Press 1985.

- Edersheim Aldreed, Old Testament Bible History. Grand Rapids : Wn. B. Eerdmans Pub. Co 1972.

- Finegan, Jack. Light from the Ancient Past. 2nd ed. Princeton , NJ : Princeton Univ . Press 1959

- Harrison, Roland K. Old Testament Times. Grand Rapids : Wm . B. Eerdmans Pub . Co 1970.

- Vos, Howard F, Archeology in Bible Lands. Chicago: Moody Press 1977.



bottom of page