top of page

KỶ NGUYÊN SƠ KHAI

Hung Tran

Jul 27, 2023

Từ nguyên thủy đến khoảng năm 2000 T.C. SaSt 1:1-11:32 là phần mở đầu cho cả Kinh Thánh.



KỶ NGUYÊN SƠ KHAI


* Đọc kinh thánh: SaSt 1:1-11:32

* Quãng Thời gian: Từ nguyên thủy đến khoảng năm 2000 T.C

1:1-11:32 là phần mở đầu cho cả Kinh Thánh. Dầu ngắn ngủi, phần này bao quát một quãng thời gian lâu hơn cả phần còn lại của Cựu Ước, tức là từ Áp-ra-ham đến Ma-la-chi. Trong cả Kinh Thánh có nhiều chổ trưng dẫn, quãng diễn, và giải thích phần ngắn ngủi này. Những chương này rất cần thiết để hiểu cho đúng toàn bộ mặc khải thành văn của Thượng Đế.

Phần mở đầu này rất quan trọng cho cả sách Sáng-Thế ký và bốn sách còn lại của Bộ ngũ kinh (Pentateuch). Từ 12:1-20 trở đi, lời hứa về sự cứu chuộc của Thượng Đến tập trung vào Áp-ra-ham và gia đình người. Từ xuất Ai-cập đến Phục truyền luật lệ ký mô tả sự hình thành một quốc gia từ con cháu của các vị thánh tổ (patriarchs) dưới sự lãnh đạo của Môi-se. Môi-se là người có liên hệ mật thiết với các biến cố và luật lệ ghi trong bốn sách này, nên được Kinh Thánh công nhận là tác giả của năm cuốn sách gọi là Ngũ Kinh. Có thể Môi-se đã dựa trên những nguồn tài liệu thành văn cũng như truyền khẩu để viết ra lịch sử Y-sơ-ra-ên như đã ghi trong Sáng-thế ký. Cho nên, Sáng-thế ký được xem như là cuốn sách dẫn nhập của Môi-se cho Ngũ Kinh của ông.


* Thời kỳ sơ khai có thể phân bố như sau :


I. Câu chuyện sáng tạo, 1:1-25

A. Vũ trụ và vạn vật: 1:1-2a

B. Con người trong nơi ở đầu tiên 2:4b-25


II. Sự sa ngã của loài người và hậu quả 3:1-6:10

A. Bất tuân và bị trục xuất 3:1-24

B. Ca-in và A-bên 4:1-24

C. Dòng dõi của A-đam 4:25-6:10


III. Nước lụt: Thượng Đế phán xét loài người 6:11-8:19.

A. Chuẩn bị trước cơn lụt, 6:11-22

B. Trận hồng thủy, 7:1-8:19


IV. Khởi đầu mới của con người 8:20-11:32

A. Giao ước với Nô-e, 8:20-9:19

B. Nô-e và các con, 9:20-10:32

C. Tháp Ba-bên 11:1-9

D. Sem và hậu tự 11:10-32


CÂU CHUYỆN SÁNG TẠO


* Đọc Kinh Thánh 1:1-2:25

Câu chuyện về nguồn gốc của vũ trụ tuy giản dị nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là về hoạt động sáng tạo của Thượng Đế bày tỏ ra trên đất. Nó khẳng định rằng thượng đế tạo dựng nên muôn loài. Thượng Đế là chủ từ của động từ tạo dựng ở đây cũng như ở hầu hết những nơi nó xuất hiện. Khi có một túc từ đi theo động từ này, thì hàm ý là không có một vật liệu nào có trước đó cả. Động từ ba-ra này thường nói về sự sáng tạo ex -nihilo (từ chổ trống không), đôi khi cũng dùng chỉ năng lực sáng tạo của Thượng Đế trong lịch sử (XuXh 34:10 Dan Ds 16:30; Gie Gr 31:22; EsIs 45:7; 48:7)


MỘT KẾ HOẠCH THIÊN THƯỢNG


Mục đích và trật tự được nêu lên một cách rõ ràng. SaSt 1:2b có thể giải thích là sự phục hồi lại một tình trạng hỗn loạn. Theo quan điểm này, câu 1 nói về cuộc tạo dựng nguyên thủy đã bị xáo trộn (1:2a) vì bị phán xét và hủy diệt. Những người theo quan điểm này thường trích EsIs 45:18 và giải thíchh chữ Hy-Bá Lai “Bohu”có nghĩa là “tiêu tán, trống không“ ngoài ra, họ còn cho là “Vua Ty-rơ “ trong Exe Ed 28:1-26 ám chỉ Sa-tan, và Gie Gr 4:23-26 nói về tình trạng trước thời A-đam. Quan điểm này cho rằng câu 1 và 2 nói về cuộc tạo dựng nguyên thủy, còn những câu sau kể lại cuộc phục hồi.

Mặt khác, cũng có thể giải thích câu 2 như một giai đoạn sơ khởi trong trình tự sáng tạo. Theo quan điểm này, chúng ta thấy sự chuẩn bị theo thứ tự để tạo điều kiện duy trì sự sống trên đất, như sau:

1. Trời và đất được tạo dựng để làm nền tảng cho một tình trạng trật tự.

2. Điều hòa tình trạng khí quyển.

3. Đất khô thành hình nơi nước rút đi để cây cối sinh trưởng.

4. Ánh sáng và tinh tú đã có từ ban đầu (SaSt 1:1) được dùng để điều hòa thời gian và thời tiết, chu kỳ luân chuyển của trái đất của mặt trăng.

5. Thú vật xuất hiện trên đất.

6. Con người, cao điểm của kỳ công sáng tạo của Thượng Đế, được đặt trên đất như một cá nhân có trách nhiệm.

7. Nói chung, địa chất học hiện đại trình bày một thứ tự giống như trong Kinh Thánh.

Cuộc sáng tạo diễn tiến trong thời gian bao lâu không thấy nói tới, ngoại trừ những câu tóm tắt thời gian sáng tạo trong sáu ngày hay liên hệ tới sáu ngày. Mỗi ngày dài bao lâu không có nói, bởi đó có nhiều lối giải thích khác nhau. Trong mười một chương đầu, chưa nói tới phần còn lại cùa Kinh Thánh, chữ “ngày“ có thể nói vè một thời gian dài (2:4) hay một thời gian 24 giờ (8:12), Những người chủ trương 24 giờ thường chấp nhận thuyết phục hồi trong 1:2b


THƯỢNG ĐẾ, ĐẤNG TẠO HÓA VÀ NUÔI DƯỠNG


Phần đầu của câu chuyện dùng tên “Thượng Đế” (Elohim) còn phần sau kể từ 2:4 thì dùng tên kép

“Chúa Thượng Đế” hay “Thượng Đế Giê-hô-va”. Tên trước để chỉ tương quan giữa Thượng Đế như Đấng Tạo hóa với vũ trụ vạn vật. Tên sau để chỉ tương quan giữa Ngài với loài người như một Đấng yêu thương chăm sóc, cung ứng cho họ. Dầu loài người chỉ xuất hiện lúc cuối cùng, nhưng ta thấy rõ họ là trung tâm của sân khấu kể tư 2:4


TƯƠNG QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ TẠO VẬT


Kinh Thánh xem con người là một hữu thể rất thông minh và có trách nhiệm. Khi được tạo dựng, A-đam đã khác biệt và cao hơn các thú vật. A-đam được đặc quyền đặt tên cho thú vật, cai trị chúng, và trồng giữ vườn Ê-đen. Người được phép tương giao vơi Thượng Đế tạo nên Ê-va để làm bạn đời cho người (2:20). Thượng Đế yêu thương chăm sóc con người, dự bị vườn Ê-đen cho họ an hưởng.


SỰ SA NGÃ VÀ HẬU QUẢ


* Đọc kinh thánh 3:1- 6:10

Sự sa ngã của loài người là một biến cố hết sức quan trọng trong lịch sử con người trước khi Chúa Giê-xu Chí Tôn xuất hiện để đem sự cứu chuộc đến cho họ. Chúng ta có thể dựa vào sự mặc khải của Thượng Đế để biết gốc tích của loài người và sa ngã của họ, vì sự sa ngã xảy ra trước khi có văn tự. Nhiều khúc Kinh Thánh khác quả quyết sự sa ngã và hậu quả của nó là điều xảy ra thật sự đúng theo nghĩa đen, nhất là ITi1Tm 2:13, 14.


A-ĐAM VÀ Ê-VA BẤT TUÂN VÀ BỊ ĐUỔI RA


Vấn đề lớn của A-đam và Ê-va trong mối liên hệ với Thượng Đế là sự bất tuân của họ. Họ ngheo theo lời đứa cám dỗ và trái mạng Chúa vì nghi ngờ. Theo GiGa 8:44; RoRm 16:20; IICor 2Cr 11:3; KhKh 12:9 và 20:2, thì con rắn ở đây không phải chỉ là một vật bò sát thôi đâu. Sự phán xét được công bố cho mọi phía liên hệ _ con rắn và Sa-tan, Ê-va và A-đam. Tuy nhiên, sự thương xót đi trước sự phán xét một nguyên tắc luôn luôn thấy trong Kinh Thánh- trong lời hứa rằng hậu tự người đàn bà sẽ chiến thắng dòng dõi con rắn (SaSt 3:15). Lời hứa về Đấng Thiên Sai (Messiah) về sau lại được mở rộng trong 12:1-3; Dan Ds 24:17, IISu 2Sb 17:11-14; EsIs 7:14; 19:6, 7 và nhiều câu khác nữa. Lời hứa ấy đã ban cho họ từ lúc còn trong vườn Ê-đen, trước khi họ bị đuổi ra và chịu hậu quả của sự rủa sả. Thượng Đế ban bộ áo da ngụ ý sự cứu chuộc cần phải có đổ máu.


NIỀM HY VỌNG ĐƯỢC CỨU CHUỘC


Ê-va đã diễn tả hy vọng được cứu khỏi hình phạt định cho hai ông bà khi bà sinh Ca-in (SaSt 4:1). Sau khi thất vọng với Ca-in và cái chết của A-bên, bà lại nói lên ước vọng đó khi sinh Sết (4:25). Những thế hệ sau ấp ủ hy vọng được giải cứu khỏi lời rủa sả, như trường hợp của La-méc (Lamech) nói tiên tri về sự ra đời của Nô-e (5:28-30). Lời hứa về sự cuứ chuộc nhờ giòng giống người đàn bà đã được lưu truyền từ đời nọ sang đời kia (5:28-30).


VỤ ÁN MẠNG ĐẦU TIÊN


Ca-in trở thành kẻ sát nhân đầu tiên. Ông ta đã cố ý thách đố khi dâng lên một lễ vật không đẹp lòng Thượng Đế. Những diễn biến về sau có thể cho phép ta kết luận rằng Thượng Đế đòi hỏi loại lễ vật gì, và Ca-in đi ngược lại chỉ thị đó. Khi lễ vật của A-bên được Thượng Đế nhận, Ca-in nổi giận và giết em mình.


DÒNG DÕI VÔ ĐẠO CỦA CA-IN


Nền văn minh của Ca-in và hậu tự ông tóm tắt trong một gia phả bao gồm một thời kỳ lâu dài (4:17-24). Ta thấy Ca-in xây một thành phố; dân cư sống phần lớn nhờ chăn nuôi. Dần dân nghệ thuật phát triển, dụng cụ âm nhạc được phát minh. Khoa luyện kim thành hình vi người ta càng ngày càng dùng nhiều đồng và sắt. Hình như con người bắt đầu tự tạo cảm tưởng an ninh giả tạo. Lê méc, người đa thê đầu tiên, tỏ thái độ khinh mạn, hợm hĩnh, khoe khoang rằng ông ta có thể tiêu diệt người khác nhờ khí giới tốt hơn. Trong phần ghi lại dòng dõi Ca-in không có chổ nào nhìn nhận hay nói về Thượng Đế .


DÒNG DÕI ĐẠO HẠNH CỦA SẾT


Khi sinh Sết, niềm hy vọng của A-đam và Ê-va lại hồi phục (4:25). Đến đời Ê-nót (Enos), người ta bắt đầu quay về cùng Thượng Đế. Nhiều thế kỷ sau, một bậc đạo hạnh xuất hiện, đó là Hê-nóc (Enoch). Cuộc sống tương giao với Thượng Đế của ông đã không chấm dứt bằng cái chết nhưng đã được chuyển hóa vào một cõi khác. Khi Nô-ê ra đời, cha ông là Lê-méc lại bày tỏ hi vọng rằng nhân loại sẽ được cứu thóat khỏi sự rủa sả mà họ đã chịu từ khi A-đam và Ê-va bị đuổi khỏi vuờn Ê-đen.


CƠN LỤT: SỰ PHÁN XÉT CỦA THƯỢNG ĐẾ


* Đọc kinh thánh : 6:11-8:19

Vào đời Nô-e, tình trạng vô đạo đã lên đến độ Thượng Đế phải ra tay phán xét. Con người càng ngày càng dùng những phú bẩm tốt lành của Thượng Đế cho những lạc thú của mình, không đếm xỉa gì đến Đấng đã ban phát cho họ. Hủ bại và bạo động cang ngày càng bành trướng khiến mọi hành vi của con người đều đầy sự ác. Theo lời chép thì Thượng Đế hối hận vì đã tạo dựng con người và định tiêu diệt họ khỏi mặt đất (6:7). Một lần nữa, sự thương xót lại đi trước sự phán xét; loài người được cảnh cáo trước về sự hủy diệt trong hơn một trăm hai mươi năm. Trong khi giống người nói chung tiếp tục làm hư hỏng trái đất , Thượng Đế bảo đảm với Nô-e rằng Ngài sẽ lập giao ước với người và dòng dõi người (6:12, 18).

Thượng Đế ra lệnh cho Nô-e đóng tàu để được an toàn trong cơn lụt. Chiếc tàu lớn đủ để chứa các giống vật, hai cặp cho mỗi giống không thanh sạch, và bảy cặp cho giống thanh sạch. Thượng Đế đã dự bị để duy trì sự sống trên chiếc tàu trong hơn một năm.

Trận đại hồng thủy là một cuộc phán xét nghiêm khắc và toàn diện hơn hết trong thời Cựu Ước. Nó có mục đích tiêu diệt nhân loại tội lỗi, đồng thời để gây dựng lại một nhân loại mới với một số đạo hạnh còn sống sót. Những câu kinh Thánh về sau nhắc đến trận lụt đều dùng nó cảnh cáo nhân loại sau này (LuLc 17:27; HeDt 11:7; IPhi 1Pr 3:20; IIPhi 2Pr 2:5; 3:3-7). Qua cơn đại hồng thủy mục đích của Thượng Đế được hoàn thành, giao ước của Ngài được thiết lập lần này với Nô-ê và gia đình ông.


KHỞI ĐẦU MỚI CỦA CON NGƯỜI


* Đọc kinh Thánh: SaSt 8:20-11:32

Con người lại có một cơ hội mới trên trái đất tân trang. Hành động đầu tiên của Nô-ê khi ra khỏi tàu là phụng thờ Thượng Đế bằng sự dâng sinh tế.


GIAO ƯỚC CỦA THƯỢNG ĐẾ VỚI NÔ-Ê


Cái móng là dấu hiệu giao ước giữa Thượng Đế và loài người, bảo đảm với họ brằng họ sẽ không bị tiêu diệt bởi nước lụt nữa. Sau khi nhận giao ước, Nô-ê và các con được lệnh tái lập dân số và làm chủ trái đất. Bây giờ Thượng Đế lại cho họ giết súc vật làm đồ ăn. Nhưng mọi người đều chịu trách nhiệm trước Thượng Đế nếu làm đổ máu anh em mình. Ca-na-an, con trai của Cham, bị rủa sả vì hành vi bất kính của Cham đối với Nô-ê. Nhiều thế kỷ về sau dân Ca-na-an bị hình phạt khi dân Do Thái dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, đưo cự lệnh tiêu diệt dân Ca-na-an.


THÁP BA BÊN


Khi còn là một đơn vị chủng tộc và ngôn ngữ, loài người cứ ở nguyên một chỗ trong một thời gian vô định (11:1-9) để chống lại lệnh Thượng Đế bảo phân tán ra khắp đất, và vì kiêu căng với những thành tích của mình, họ bắt tay xây tháp Ba-bên trên đồng bằng Si-na (Shinar). Nhưng Thượng Đế can thiệp chặn đứng lại toan tính của họ bằng cách làm xáo trộn ngôn ngữ của họ. Kết quả là họ tản mác ra khắp nơi theo như ý định ban đầu của Thượng Đế.


CON CÁI NÔ-Ê TẢN LẠC


Sự phân số chủng tộc và địa lý của loài người được mô tả trong đoạn 10. Gia-phết và con cháu ông đi về hướng Tây ban nha (Spain) qua Hắc Hải (Black Seas) và biển Capian. (10:2-5). Con cháu Cham đi về hướng Nam xuống Phi Châu (10:6-14) và dòng dõi Sem (10:21-31) chiếm ngụ vùng Bắc Vịnh Ba-tư.


DÒNG THIÊN SAI CỦA SEM (Messianic Line of Shem)


Ký sự về sự phát triển thời ban đầu dân dần thu hẹp lại vào dòng dõi của Sem (11:1-32). Theo gia phả ghi 10 đời thì ký sự tập trung vào Tha-rê (Terah), người đã từ urơ (Ur) di trú đến Cha-ram (Haram). Cao điểm của ký sự là lúc Ap-ram (Abraham) (17:5). Ông trở thành tổ phụ và người sáng lập tuyển dân Do Thái. Qua dân này, hy vọng phước hạnh được ban cho nhân loại, các lời hứa về Đấng Cứu Thế (Messianic promises) được thành tựu (22:15-18; Mat Mt 1:1, 2). Phần còn lại của cựu Ước chính yếu là lịch sử và văn chương của tuyển dân Y-sơ-ra-ên.


Bài làm:

1. Tại sao việc nghiên cứu Cựu Ước là nền tảng cho việc hiểu Tân ước?

2. Liệt kê những sự phân chia lịch sử của cựu ước?

3. Làm một dàn bài ngắn về thời kỳ ban đầu

4. Liệt kê các biến c ố sự kiện theo thứ tự của những ngày sáng tạo

5. A-đam và E-va được giao cho những trách nhiệm nào

6. Điểm then chốt trong tương quan giữa A-đam, E-va với Đức Chúa Trời là gì?

7. Lòng yêu thương nhân từ của Đức Chúa Trời tỏ ra như thế nào trong sự sa ngã của tổ phụ loài người

8. Những nguyên nhân nào đã đưa đến tai họa đại hồng thủy?

9. Cho biết dấu hiệu (sign) và ý nghĩa (significance) của giao ước Đức Chúa Trời lập với Nô-ê?

10. Những động cơ nào thúc đẩy hậu tự Nô-ê xây tháp Ba-bên?

11. Hãy nêu ra những bước bất vâng phục (steps of disobedience) trong sự sa ngã của tổ phụ loài người. Hãy so sánh với con ngưòi ngày nay.

12. Hãy viết một đoạn ngắn giải thích sự nhấn mạnh của Tân ước trên các biến số sau đây:

- Sáng tạo (xem GiGa 1:1, 2; Cong Cv 14:15; HeDt 1:10; 11:3; KhKh 4:11; 10:6)

- Con người được tạo dựng theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời (ICor1Cr 11:7; CoCl 3:10; Gia Gc 3:9)

- Cơn đại hồng thủy (nước lụt) (Mat Mt 24:37-39; LuLc 17:26-27; IPhi 1Pr 3:20)

13. So sánh dòng dõi Sét với dòng dõi Ca-in. Đối chiếu hai dòng dõi này với con người thiêng liêng (Spiritual man) và con người tự nhiên (natural man) xem giống nhau như thế nào?

14. Hãy lượt kê những bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời quan tâm đến loài người trong SaSt 1:1-11:32. Hãy cho ít ra là 5 bằng cớ chứng tỏ Đức Chúa Trời quan tâm đến loài người ngày nay.


* Tài liêu tham khảo:

- Davis, Uohn J. Paradise to Prison : Studies in Genesis. -Grand Rapids : Baker Book House, 1975

- Keil, Carl F. and Delitzsh, Franz. The Pentateuch Commentary on the Old Testament in Ten Volumes. Vol I. Grand Rapids : Wm B. Eerdmans Pub. Co., 1982

Kidner, Derex. Genesis. The Tyndale Old Testament Commentaries. Downers Grove, IL : Inter Varsity Press, 1968

- Morris, Henry M. The Bibliecal Basis of Modern Science.

- Grand Rapids : Baker House, 1984

Philips, John Exploring Genesis. Chicago. Moody Press, 1980

- Schultz, Samuel J. The Old Testament Speaks. New York : Harper and Row, 1980. (Helpful for the remainder of this study)

- Walton, John. Chronological Charts of the Old Testament. Grand Rapids : Zondervan Pub. House, 1977



bottom of page