top of page
Hung Tran
Jul 25, 2023
Thánh sử bắt đầu mang kích thước mới từ sách xuất Ai-cập. Nhiều thế ký đã trôi qua sau khi Giô-sép qua đời...
MỘT QUỐC GIA THÁNH
* Đọc kinh thánh: Xuất Ai-cập _ Lê-vi ký
* Quãng thời gian: độ 1600 - 1400 TC.
Thánh sử bắt đầu mang kích thước mới từ sách xuất Ai-cập. Nhiều thế ký đã trôi qua sau khi Giô-sép qua đời. Con cháu các vị thánh tổ đã sinh sôi nảy nở đông đúc. Một vị Pha-ra-ôn mới lên ngôi ghét số dân đông đúc này, đã bắt họ làm nô lệ và đày đọa họ. Dưới sự lãnh đạo của Môi-se , dân Y-sơ-ra-ên đã được giải phóng, trở thành một dân tộc độc lập và tiến vào chính phục xứ Ca-na-an.
Công cuộc giải phóng này có ý nghĩa quan trọng vượt bực. Phần còn lại của Ngũ kinh, tức khoảng một phần sáu toán bộ Cựu Ước dành cho biến cố này.
Chúng ta cần xem các biến chuyển qua thời gian trong bốn sách theo bố cục dưới đây:
I. Y-sơ-ra-ên bị làm nô lệ, 400 năm XuXh 1:1-2:25
II. Từ Ai-cập đến Si-nai, chưa đầy 1 năm , 3:1-18:26
III. Đóng trại tại Si-nai, độ 1 năm, 19:1-40:38 - Dan Ds 10:1-36
IV. Lang thang trong sa mạc,độ 38 năm , 10:1 -21:33
V. Đóng trại ngoài Ca-na-an, độ 1 năm, 22:1-36:13 - PhuDnl 34:1-12
Ai-cập là một trong những trung tâm văn minh lớn nhất thời bấy giờ. Vương quốc thành lập từ thế kỷ 16 TC sau khi đánh đuổi người Hysok là dân chiếm cứ đất Ai-cập gần hai thế kỷ. Một trong những thủ lãnh quân sự nổi tiếng là Thutmose III (k. 1500 - 1450) thường hành quân qua Palestine và vượt Địa trung Hải mở bờ cõi đến tận sông Ơ-phơ-rát (Euphrates). Người ta thường sánh ông với A-lịch-sơn Đại đế (Alexander the Great) hay Nã-Phá-Luân (Napoleon).
TỪ NÔ LỆ TRỞ THÀNH MỘT DÂN TỘC
Trong một thời gian tương đối ngắn, người Y-sơ-ra-ên dưới sự lãnh đạo của Môi-se đã trở thành một dân tộc độc lập được lập giao ước với Thượng Đế. Có thể chia đoạn từ này như sau:
I. Y-sơ-ra-ên thoát ách nô lệ. XuXh 1:1-13:19
II. Hoàn cảnh ở Ai cập , 1:1-22
III. Môi-se _ ra đời, giáo dục, kêu gọi 2:1-4:31
C. Đấu tranh vơi Pha-ra-ôn 5:1-11:10
D. Lễ Vượt qua (Passover)12:1-13:19
II. Từ Ai-cập tới núi Si-nai 13:20-19:2
A. Sự giải phóng thiên thượng , 13:20-15:21
B. Tiến đến Si-nai , 15:22-19:2
NGƯỜI Y-SƠ-RA-ÊN BỊ ÁP BỨC
Sau thời kỳ Giô sép, người Y-sơ-ra-ên phát triển và gia tăng đông đúc trong vùng đất chăn nuôi Gô-sen (Goshen) thuộc thung lũng sông Nil (Nile) trong mấy trăm năm. Triều đại thứ mười tám của Tân Vương quốc bắt đầu áp dụng chính sách mới nhằm hạn chế nguy cơ nổi loạn của người Y-sơ-ra-ên. Mặc dù bị bắt lao dịch xây thành Ram-se (Rameses) và Phi-thôm (Pithom) (1:11), họ vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở khiến nhà cầm quyền Ai-cập lo sợ đày đọa họ thêm vào ra chỉ dụ thủ tiêu những con trai sơ sinh của họ (1:15-22). Vào thời Môi-se đấu tranh với Pha-ra-ôn dân Ai-cập còn không cung cấp rơm rạ cho họ làm gạch nữa. (5:5-19).
CHUẨN BỊ LÃNH TỤ
Môi-se ra đời trong thời kỳ đen tối đó, được công chúa Ai-cập đem vào cung làm con nuôi và cho ăn học hấp thụ kiến thức của người Ai-cập (Cong Cv 7:22).
Ở giai đoạn thứ hai, Môi-se được huấn luyện trong sa mạc Ma-đi-an trong bốn mươi năm. Tại đây, người cưới Xê-phô-ra (Zipporah) con gái của Ru-ên (Reuel) cũng gọi là Giê-trô, một tế sư của Ma-đi-an. Trong khi chăn súc vật ở vùng vịnh Aqaba, Môi-se thuộc lòng địa thế của vùng này, mà không ngờ rằng một ngày kia mình sẽ lãnh đạo dân Do-thái đi qua đó.
Khi được Thượng Đế kêu gọi (XuXh 3:1-4:17). Môi-se biết rõ khả năng của triều đình Ai cập và hoàn cảnh vô vọng của người Y-sơ-ra-ên. Môi-se cũng biết Pha-ra-ôn không phải là kẻ làm theo lệnh kẻ khác. Nhưng với sự bảo đảm của Thượng Đế, người đã trở về Ai-cập làm theo diều Ngài truyền dạy.
CUỘC CHẠM TRÁN
Pha-ra-ôn ngoan cố không cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Môi-se đã phải thách thức quyền uy của Pha-ra-ôn bằng mười tai họa liên tiếp. Mục đích của tai họa là chứng tỏ quyền năng của Thượng Đế cho người Y-sơ-ra-ên và ai cập thấy (9:16). Mặc dầu các dịch họa xảy đến qua hiện tượng thiên nhiên, ta vẫn thấy rõ quyền năng siêu nhiên của Thượng Đế trong sự kiểm sóat mức độ, thời gian và phân biệt đối tuợng. Các dịch họa đó có thể là nhắm vào các thần Ai-cập.
CUỘC VƯỢT QUA
Cuộc vượt qua và cái chết của các con đầu lòng Ai-cập đã đưa cuộc đọ sức dến cao điểm. Mọi gia đình Ai-cập đều cảm biết sự phán xét của Thượng Đế trong cái chết của con trai đầu lòng mình. Mọi gia đình Y-sơ-ra-ên, ngược lại, cảm biết quyền năng cứu chuộc của Thượng Đế khi họ bôi máu lên cột cửa, ăn thịt chiên con, và vội vã chuẩn bị hành trang ra khỏi Ai-cập (xem Mat Mt 26:26-28; ICor1Cr 5:7; HeDt 9:14, 15)
PHÉP LẠ GIẢI CỨU
Lộ trình ngắn nhất từ Ai-cập tới Ca-na-an là con đưòng bộ dọc theo bờ biển Địa trung hải (Mediterranian). Nhưng Môi-se theo lệnh của Thượng Đế, đã dẫn đám người mới thoát ách nô lệ đó qua Hồng Hải đến bán đảo Si-nai. Theo sau phép lạ giải cứu là một số biến cố can thiệp của Thượng Đế để bảo vệ dân Y-sơ-ra-ên và nuôi sống họ. Trụ mây và trụ lửa không những chỉ để bảo vệ họ lúc nguy nan mà còn hướng dẫn họ nữa (xem ICor1Cr 10:1)
LUẬT PHÁP CHO DÂN THÁNH
Tôn giáo của Y-sơ-ra-ên là một tôn giáo mặc khải. Nó không du nhập từ các quốc gia lân cận. Nó có những tiêu chuẩn và cách hành đạo khác hẳn tôn giáo của các dân tộc ngoại giao thời ấy.
-Sự mặc khải tại núi Si-nai có thể phân bố cục như dưới đây:
I. Giao ước của Thượng Đế với Y-sơ-ra-ên, XuXh 19:3-24:8
A. Chuẩn bị gặp gỡ Thượng Đế 19:3-25
B. Thập giới 20:1-17
C. Các mạng lệnh cho Y-sơ-ra-ên 20:18-23:33
D.phê chuẩn giao ước, 24:1-8
II. Nơi thờ phượng 24:9-40:38
A. Chuẩn bị xây cất, 24:10-31:18
B. Thờ thần tuợng và bị phán xét 32:1-34:35
C. Cất đền tạm (Tabernacle) 35:1-40:38
III. Huấn thị về nếp sống thánh thiện LeLv 1:1-27:34
A. Các lễ vật 1:1-7:38
B. Chức vụ tế lễ 8:1-10:20
C. Luật lệ thanh tấy 11:1-15:33
D. Đại lễ Chuộc tội , 16:1-34
E. Cấm các phong tục ngoại giáo 17:1-18:30
F. Luật lệ về sự thánh khiết 19:1-22:32
G. Lễ hội và mùa màng 23:1-25:55
H. Điều kiện để hưởng phước lành của Thượng Đế 26:1-27:34.
GIAO ƯỚC MÔI-SE
Thượng Đế cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập để lập giao ước với họ như Ngài đã lập với các tổ phụ, hầu họ làm dân thánh cho Ngài (XuXh 19:3-24:8). Nếu họ tuân theo các luật lệ Ngài ban, họ sẽ là một dân thánh phân biệt với các dân tộc ngoại giáo xung quanh.
- Quan trọng hơn hết là Mười điều Răn hay thập giới (20:1-7). Tất cả những điều luật đạo đức này, ngoại trừ điều luật về ngày Sa-bát, đều được Tân ước lặp lại.
- Đặc điểm của Thập Giới là chủ nghĩa độc thân, không cho người Y-sơ-ra-ên dùng cả đến hình tượng. Điều này khiến họ khác hẳn những dân tộc xung quanh.
Những luật lệ đó được triển khai thành những quy tắc hướng dẫn người dân trong cách cư sử (21:1-24:17; LeLv 11-26:46). Vâng theo những luật lệ về đạo đức, dân sự, và nghi lễ đó là dấu phân biệt họ là dân thánh của Thượng Đế. Nhiều hành vi bị cấm đối với Y-sơ-ra-ên lại rất phổ thông ở Ai-cập và Ca-na-an. Tục anh chị em ruột lấy nhau ở Ai-cập, bị cấm đối với dân Y-sơ-ra-ên. Những quy luật về sinh con đẻ cái chẳng những nhắc họ về bản chất tội lỗi của con người, mà còn làm nổi bật hình ảnh tương phản với sự bại hoại dâm dục và cúng tế trẻ con thường có trong các lễ nghi tôn giáo ở Ca-na-an. Chúng ta có thể hiểu được sự hạn chế về thức ăn và hạ thịt một số loại súc vật chắc là do các tục thờ cúng ngoại giáo lúc bấy giờ. Họ cũng được lệnh nhớ đến kẻ nghèo khi đến mùa gặt, giúp đỡ kẻ cô đơn, tôn trọng người già, xét xử công minh. Nhiều điều khoản của dân luật và nghi lễ chỉ có tính chất tạm thời và sau này đã bị hủy bỏ khi hoàn cảnh thay đổi.
ĐỀN TẠM (Tabernacle)
Không như Ai-cập có nhiều đền thờ, Y-sơ-ra-ên chỉ có một thánh điện thôi. Việc xây cất Đền Tạm được giao phó cho hai người cai tên Bết-sa-lê-ên (Bezalel) và Ô-hô-li-áp (Aholia). Đây là những người “Đầy dẫy Thần của Thượng Đế, sự khôn ngoan, thông sáng” (XuXh 31:3) để họ trông coi công việc. Dân chúng kẻ bỏ công, người góp của vào việc xây cất.
- Đền Tạm dài 45 bộ (13,5m), rộng 15 bộ (4,5m), chia làm hai phần. Lối vào từ hướng đông trổ vào nơi thánh dài 30 bộ (9m). Phía trong cùng là nơi Chí Thánh. Xung quanh Đền Tạm là một cái sân chu vi 450 bộ (135m). Phần phía đông của khu này là khu thờ phượng, nơi đặt bàn thờ bằng đồng để dân chúng đến dâng tế. Giữa bàn thờ này và đền tạm có một chậu bằng đồng để các tế sư rửa chân khi chuẩn bị hành lễ trước bàn Thượng Đế hờ sinh tế trong Đền Tạm.
Trong nơi thánh có ba vật dụng: bên phải là bàn để bánh trưng bày cho các tế sư, bên trái là chân đèn vàng, và một bàn thờ dâng hương phía trước bức màn ngăn nơi thánh ra nơi Chí Thánh.
Hòm Giao Ước là kỷ vật thiêng liêng nhất của Y-sơ-ra-ên . Đó là vật duy nhất đặt trong nơi Chí Thánh. Trên nắp hòm có hai tượng Chê-ru-bim (Cherubim) bằng vàng đối diện nhau, cánh chúng che phía trên một chổ gọi là ngai thi ân (mercy seat), tượng trưng cho sự hiện diện của Thượng Đế . Khác với ngoại giáo, Y-sơ-ra-ên không có một vật nào tượng trưng cho Thượng Đế. Vinh quan Shekinah của Giê-hô-va Thượng Đế ngự với Y-sơ-ra-ên trong Đền Tạm. Tại đây, vị thượng tế rưới máu mỗi năm một lần vì dân chúng, vào ngày Đại Lễ Chuộc Tội. Sau này trong hòm giao ước có để bảng Mười điều răn (Decalogue) (25:21; 31:38), một hộp ma-na (16:34) và cây gậy trổ hoa của A-rôn Dan Ds 17:1). Trước khi Y-sơ-ra-ên vào xứ Ca-na-an, quyển sách Luật Pháp được đặt bên cạnh hòm giao ước (PhuDnl 31:26)
CHỨC TƯ TẾ ( Priesthood)
Trong thời các thánh tổ, vị gia trưởng là người dâng tế lễ. Khi Y-sơ-ra-ên trở thành một dân đông, họ cần có những tế sư để đặc trách công tác tế lễ. A-rôn là anh Môi-se được chỉ định làm Thượng thế, các con làm phụ tá. Sau khi thóat chết ở Ai-cập, con đầu lòng trong mọi gia đình đều đương nhiên thuộc về Thượng Đế. Chi tộc Lê-vi được chọn thay thế cho các con đầu lòng để giúp việc các tế sư (Dan Ds 3:5-14; 8:17). Như vậy chức tư tế thay mặt cho toàn thể dân tộc.
Các tế sư đại diện cho dân trước mặt Thượng Đế, dâng sinh tế theo quy định (XuXh 28:1-43; LeLv 16:1-34), dạy Luật pháp cho dân, và phục vụ trong Đền Tạm. Những đòi hỏi thánh thiện đối với các tế sư (LeLv 21:1-22:10) tương phản với tập tục ngoại giáo.
SINH TẾ
Việc dâng sinh tế dã được thực hiện từ sau khi loài người bị đuổi khỏi vườn Ê-đen. Dân Y-sơ-ra-ên khi lìa Ai-cập đã biết rõ các loại tế lễ chưa, đó là điều còn phải bàn cãi. Tuy nhiên, khi đã được tự do và lập ước với Thượng Đế, họ nhận được những chỉ thị rành rẽ và các lễ vật (Sacrifices) (1:1-7:38)
- Có bốn loại lễ vật cần phải đổ máu:
* Lễ vật thiêu (Burnt offering)_ đặc điểm là toàn thể con vật làm sinh tế phải bị thiêu hủy, nói lên sự tận hiến (xem HeDt 10:1-3, 10, 11)
* Lễ vật hòa bình (Peace offering) _ là lễ vật tự nguyên, người dân và tế sư cùng ăn một phần con sinh, tượng trung cho sự giao hảo giữa người và Thượng Đế (xem Eph Ep 2:13-14)
* Lễ vật chuộc tội (Sin offering)_ phải dâng khi vô tình phạm những tội mình không biết (xem GiGa 1:29; 6:51)
* Lễ vật chuộc lầm lỗi (Trespass offering ) _ phải dâng khi xâm phạm quyền lợi người khác và phải đền bù nếu được (Xem CoCl 2:13)
* Lễ vật bằng ngũ cốc tượng trưng cho bông trái của công lao con người (LeLv 2:1-16; 6:14-23 xem Mac Mc 8:15: ICo1Cr 5:8; GaGl 5:9). Thường những thứ này không phải là lễ vật đem dâng riêng mà được kèm theo với lễ vật khác. Chỉ khi nào tội lỗi đã chuộc xong bằng đổ máu thì Thượng Đế mới nhận các tặng vật dâng lên cho Ngài.
CÁC LỄ HỘI VÀ MÙA MÀNG (Feasts and Seasons)
Các lễ tiết và mùa màng nhắc cho người Y-sơ-ra-ên nhớ rằng họ là dân thánh của Thượng Đế .Theo giao ước, họ phải giữ các kỳ lễ thánh đó. Các lễ phải giữ là Ngày Sa-bát (Sabbath) _ hàng tuần, nghỉ ngơi không làm việc, nhắc họ nhớ lại công cuộc sáng tạo của Thượng Đế và sự giải phóng họ khỏi Ai-cập. Ngày nghỉ này có ghi trong Thập Giới (Dan Ds 5:12-12 , xem Mac Mc 2:27, 28)
. Ngày trăng mới và lễ thổi kèn (New Moon and Feast of Trumpets) _ Mỗi đầu tháng có một hồi kèn báo hiệu. Lễ thổi kèn là vào ngày đầu của tháng thứ bảy, mở màn cho nhiều lễ tôn giáo (Dan Ds 29:1-6 , xem CoCl 2:16).
. Năm Sa-bát _ Sau khi vào Ca-na-an, cứ bảy năm họ phải để đất nghỉ một năm, không gieo hạt và không tỉa vườn nho. Họ phải xóa nợ và phóng thích nô lệ để nhắc họ nhớ lại sự giải phóng khỏi Ai-cập (XuXh 21:2-6; PhuDnl 15:12-18 cũng xem HeDt 4:1-11).
. Năm Hân-Hỉ (Jubilee)_ Sau bảy năm Sa-bát thì tới năm Hân-hỉ. Đây là năm tự do, gia sản không may bị mất đi được hoàn trả, người Y-sơ-ra-ên làm nô lệ được phóng thích, đất được nghỉ ngơi (LeLv 25:8-55 xem Cong Cv 4:36, 37; 11:29; CoCl 7:23)
. Lễ Vượt qua và Bánh không men (Passover and Feast of Unleavend Bread)- giữ lần đầu tiên ở Ai-cập rồi sau đó giữ hàng năm để nhắc lại sự giải phóng khỏi Ai-cập. Sau ngày Vượt qua là một tuần ăn bánh không men. Lễ vượt qua nhằm ngày mười bốn của tháng Ni-san, tức là tháng thứ bảy trong năm, nhưng là tháng đầu của năm tôn giáo (XuXh 34:17, 18; PhuDnl 16:1-7 xem Mat Mt 26:26-29; LuLc 22:7-11; 12:1; ICo1Cr 5:6-8).
. Lễ các Tuần (Feast of weeks) _ giữ vào ngày thứ năm mươi sau lễ Vượt Qua. Người ta dâng của lễ bằng hạt lúa hoặc bột, nhìn nhận Thượng Đế là Đấng ban bánh ăn hàng ngày (LeLv 23:15-20 , xem Cong Cv 1:5; 2:1).
. Lễ Đền Tạm (Feast of Tabernacles) _ giữ vào cuối mùa gặt, lễ này chấm dứt năm tôn giáo. Trong tuần này, người ta sống trong các lều dựng tạm để nhắc lại thời kỳ lưu trú trong đồng vắng. Bảy năm một lần, người ta đọc Luật Pháp cho công chúng nghe trong dịp lễ này (PhuDnl 31:9-13 xem GiGa 7:2)
. Ngày chuộc tội (Day of Atonement) - đây là lễ long trọng nhất trong năm (LeLv 16:1-34; 23:26-32; Dan Ds 29:7-11).
Thượng Đế đã ban những điều trên đây để giúp dân Y-sơ-ra-ên sống theo kế hoạch Thượng Đế với tư cách là dân giao ước của Ngài. Họ cần phải vâng phục và tin cậy để duy trì liên hệ giao ước đó.
Bài làm:
1. Cho biết những cuộc di chuyển chính trong sách Xuất- Ai-cập đền Phục truyền Luật lệ.
2. Tại sao Pha-ra-ôn gia tăng áp bức Y-sơ-ra-ên?
3. Môi-se đã được huấn luyện gì trong sa mạc để chuẩn bị cho vai trò lãnh đạo tương lai?
4. Môi-se đã nêu lên những nan đề gì với Thượng Đế để khước từ sự kêu gọi?
5. Thượng Đế đã trả lời thế nào để trấn an Môi-se?
6. Mục đích cho các dịch họa là gì?
7. Tai dịch nào đưa cuộc đọ sức giữa Pha-ra-ôn và Thượng Đế dến cao điểm?
8. Điều kiện của liên hệ giao ước giữa Y-sơ-ra-ên và Thượng Đế là gì (Xem XuXh 19:1-5)
9. Y-sơ-ra-ên phụng thờ Thượng Đế khác người Ai-cập thế nào?
10. Ghi những biến cố siêu nhiên giúp dân Y-sơ-ra-ên biết Thượng Đế chú ý chăm sóc họ.
11. Dùng thánh kinh Phù Dẫn (Concordance) tra xem chữ Vượt Qua được dùng thế nào trong suốt Kinh Thánh. Tại sao nó quan trọng như vậy? Có thể so sánh lễ Vượt qua với lễ Tiệc Thánh như thế nào?
12. Vẽ một sơ đồ của Đền tạm kể cả sân, cùng các vật dụng trong đó. Thử tìm xem chúng có ý nghĩa tượng trưng nào không?
13. Những ngày lễ, lễ vật, chức tư tế giúp dân Y-sơ-ra-ên phụng sự Thượng Đế như thế nào? Chúng chỉ về công tác cứu chuộc của chúa Cơ đốc như thế nào?
14. Những dịch họa liên hệ đến các thần Ai-cập như thế nào
* Tài liệu tham khảo:
- Cole, R, Alan. Exodus: An Introduction and Commentary . The Tyndale Old Testament Commentaries. Downers Grove IL: Inter Varsity Press , 1973
- Davis, John J Moses and the Gods of Egypt. Grand Rapids: Baker Book House 1971
- Goldberg, Louis Leviticus: A Study Guide Commentary . Grand Rapids: Zondervan Pub. House 1980
- Harrison, Roland K. and Wiseman, JD. Leviticus : An introduction and Commentary. The Tyndale Old Testament Commentaries. Downers Grove , IL: Inter Varsity Press, 1980
- Keil, Carl F. and Delizsh, Franz “Exodus“ Commentary on the Old Testament in Ten Volumes. Vol . I . Grand Rapids: Wm. B. Eerdmans Pub Co 1982
- Schultz , Samuel J.Leviticus . Everyman’s Bible Commentary. Chicago: Moody Press 1983
- Wenham, Gordon J. The Book of Liviticus. The New International Commentary of the Old Testament . Grand Rapids: Wm. B. Eerdmans Pub Co1970
- Youngblood, Ronald F. Exodus . Everyman’s Bible Commentary . Chicago: Moody Press, 1983
bottom of page