top of page

BÀI 15 : TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊ-XU - GIÁO LÝ CĂN BẢN

Hung Tran

Jun 17, 2023

Ngài yêu cả thế gian, đặc biệt Ngài yêu Hội thánh; đặc biệt hơn nữa, Ngài yêu từng cá nhân Tín đồ...



BÀI 15: TÌNH YÊU CỦA CHÚA GIÊ-XU



• Ê-phê-sô 3:18-19: “Để anh em khi đã vững bền trong sự yêu thương, được hiệp cùng các thánh đồ mà hiểu thấu bề rộng, bề dài, bề cao, bề sâu của nó là thế nào, và được biết trong sự yêu thương của Đấng Christ là sự trỗi hơn mọi sự thông biết, hầu cho anh em được đầy dẫy mọi sự dư dật của Đức Chúa Trời.”

Đành rằng chúng ta có nhiều điều cần phải biết, nhưng không có điều nào cần biết bằng Tình yêu của Chúa. Biết Tình yêu của Chúa là trỗi hơn hết mọi sự thông biết. Tình yêu của Chúa bao la, sâu hơn biển, cao hơn trời, dài rộng hơn thời gian, không gian và không thể đo lường được. Hưởng được Tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy ngọt ngào hơn bất cứ điều gì tại trần gian. Nhu cầu tâm linh của chúng ta là tình yêu của Chúa.


I. TÌNH YÊU CỦA CHÚA ĐỐI VỚI LOÀI NGƯỜI


1. Ngài yêu Hội thánh.

• Ê-phê-sô 5:25: “Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình như Đấng Christ đã yêu Hội thánh.” Dầu Ngài yêu nhân loại, chẳng trừ ai hết, thì Ngài yêu Hội thánh đặc biệt hơn. Chúa yêu cả thế gian, nhưng yêu chúng ta một cách đặc biệt như cha yêu đàn con của mình.

2. Ngài yêu cá nhân Tín đồ.

• Ga-la-ti 2:20: “Tôi đã bị đóng đinh trên Thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi . Nay tôi còn sống trong xác thịt, ấy là tôi sống trong đức tin của con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi.” Dầu Ngài yêu cả thế gian, đặc biệt Ngài yêu Hội thánh; đặc biệt hơn nữa, Ngài yêu từng cá nhân Tín đồ.

Một bà mẹ có mười con, không phải bà yêu cách tổng quát, nhưng yêu từng đứa. Bà biết mỗi con của mình, tên tuổi, tánh tình, nhu cầu. Đức Chúa Trời biết tất cả chúng ta như vậy và hơn, bởi Ngài đã tạo chúng ta từ trong lòng mẹ một cách kỳ diệu vô cùng. Chúng ta đều có thể nói được như Phao-lô: Đấng đã yêu tôi và đã phó chính mình Ngài vì tôi.”

3. Ngài yêu kẻ thuộc về Ngài

• Giăng 13:1b: “…Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng.”

Ai là kẻ thuộc về Ngài? - Chúng ta, dầu Ngài đã yêu chúng ta là Hội thánh của Ngài, là con cái của Ngài, yêu từng cá nhân, yêu cách đặc biệt, nhưng theo một khía cạnh khác Ngài yêu chúng ta vì chúng ta thuộc về Ngài.

Nàng Su-la-mít nói: “Lương nhơn tôi thuộc về tôi và tôi thuộc về người. Tôi thuộc về lương nhơn tôi và lương nhơn tôi thuộc về tôi.” (Nhã-ca 2:16;6:3). Mỗi chúng ta ai nấy đều có thể nói: “Tôi thuộc về Chúa Giê-xu tôi và Chúa Giê-xu thuộc về tôi.” Ôi, sung sướng vô cùng nếu chúng ta biết chúng ta thuộc về Chúa, vì nếu chúng ta thuộc về Chúa bao nhiêu thì Chúa cũng thuộc về chúng ta bấy nhiêu. Vợ thuộc về chồng thì chồng cũng thuộc về vợ; con thuộc về cha, thì cha cũng thuộc về con. Cha nói rằng: “Cha tôi đây”, và tôi nói rằng: “Cha tôi đây”. Hết thảy của cha là của con, hết thảy của chồng là của vợ. Nếu một cô gái sắp lấy chồng là tỉ phú thì cô ta sắp là bà tỉ phú. Tất cả vũ trụ thuộc về Chúa Giê-xu, đồng thời cũng thuộc về chúng ta nữa.

4. Ngài yêu kẻ giữ điều răn của Đức Chúa Trời.

• Giăng 14:21: “Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy ấy là kẻ yêu mến ta ; người nào yêu mến ta sẽ được cha ta yêu lại, ta cũng sẽ yêu người và tỏ cho người biết ta.” Nếu chúng ta yêu Chúa thì vâng giữ lời Ngài. Nếu chúng ta yêu Ngài như vậy thì Ngài rất yêu chúng ta. Con yêu mẹ vâng lời mẹ thì được mẹ yêu lại nhiều hơn biết bao. Tình yêu của Chúa đối với chúng ta hơn Tình yêu của mẹ đối với con. Chúa bảo rằng: “Dầu đàn bà quên con, Ta không hề quên ngươi. Nầy, Ta sẽ chạm ngươi trong lòng bàn tay Ta.” (Ê-sai 49:15-16). Ngày nay, Chúa Giê-xu có bàn tay còn dấu đinh, vì vậy, mỗi khi nhìn bàn tay đó, Ngài nhớ đến chúng ta.

5. Ngài yêu tội nhân.

• Ma-thi-ơ 9:13b: “…Vì Ta đến đây không phải để kêu kẻ công bình, song kêu kẻ có tội.” Dầu Ngài yêu Hội thánh, yêu cá nhân Tìn đồ, yêu kẻ thuộc về Ngài, thì đồng thời Ngài cũng yêu tội nhân. Ngài yêu tội nhân một cách khác hơn là yêu vì thương hại, còn Ngài yêu Hội thánh vì thỏa lòng. Tôi yêu con tôi cách thỏa lòng, nhưng tôi yêu kẻ ngoài đường vì lòng trắc ẩn (Rô-ma 5:6-8).

6. Ngài yêu kẻ thù Ngài.

• Lu-ca 23:34: “Song Đức Chúa Giê-xu cầu rằng: Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì. Đoạn, họ bắt thăm chia nhau áo sống của Ngài.” Đó là Ngài cầu nguyện cho những kẻ đóng đinh Ngài trên Thập tự giá. Kỳ diệu thay Tình yêu của Ngài ! Ngài yêu chúng ta đã đành, nhưng kẻ thù nghịch Ngài, đóng đinh Ngài, Ngài vẫn yêu và cầu thay Đức Chúa Trời tha thứ cho họ. Ai là người chưa tin Chúa, nên nhớ rằng Chúa yêu mình. Đến nay mà Chúa chưa Tái lâm là Ngài đương chờ đợi những thù nghịch đó ăn năn, để Ngài tha thứ và cứu rỗi họ.

7. Ngài yêu con trẻ.

• Mác 10:14: ”Đức Chúa Giê-xu thấy vậy, bèn giận mà phán cùng môn đồ rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng cấm chúng nó ; vì nước Đức Chúa Trời thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy.” Ngài yêu trẻ con như yêu bất cứ ai. Ngài quý chúng nó, nên các bà mẹ thích đem con mình đến với Chúa để Ngài bồng ẵm trong tay rồi chúc phước cho.

Mục sư Moody giảng trong một buổi tối nọ. Sáng hôm sau có người hỏi ông: “Mục sư, tối qua có bao nhiêu người được cứu?“. Mục sư đáp: “Có hai người rưỡi”. Ông bạn ngẩn ngơ không hiểu. Mục sư nói thêm: ”Có hai em nhỏ và một người lớn”, rồi giải thích: “Hai em nhỏ là hai người, vì đời của chúng còn dài, nhưng người lớn thì còn phân nửa thôi”. Chúng ta hãy quan tâm đến con trẻ, đưa chúng đến với Chúa Ngài sẽ trọng dụng chúng trong tương lai. Tương lai Hội thánh nằm trong tay các em bé đó.

8. Ngài yêu một số người cách đặc biệt.

• Giăng 11:5: “Vả, Đức Chúa Giê-xu yêu Ma-thê, em người và La-xa-rơ.” Có một gia đình được Chúa yêu cách đặc biệt, vì mỗi lần đến nhà họ, thì Ma-ri ngồi dưới chân Ngài nghe dạy dỗ, Ma-thê lo bữa ăn, La-xa-rơ ở ngoài đồng. Nên một lần nọ Chúa đến Đền thờ vào lúc trời tối, Ngài liếc qua rồi bỏ đó mà đi đến ở qua đêm tại nhà của ba người nầy.

Giăng 19:26: “Đức Chúa Giê-xu thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người thì nói cùng mẹ rằng : Hỡi người đờn bà kia, đó là con của ngươi!.” Một môn đồ Ngài yêu – đó là sứ đồ Giăng. Mặc dầu có mười hai sứ đồ, nhưng trong đó có ba người đặc biệt là Giăng, Gia-cơ, Phi-e-rơ. Trong ba người nầy có một người đặc biệt hơn là Giăng. Ông nầy yêu Chúa tha thiết, nên được Chúa cho ngồi gần, đến nỗi nghiêng mình trên ngực Ngài. dường như Giăng nghe được nhịp đập của trái tim Chúa Giê-xu và ông hiểu thấu Tình yêu của Ngài hơn bao người khác. Đọc sách Tin lành Giăng, và ba thư tín của ông thì thấy Giăng để cập đến Tình yêu của Chúa nhiều hơn bất cứ ai.

Nếu chúng ta muốn hiểu thấu Tình yêu của Chúa thì phải chạy vào lòng Ngài, nghiêng mình trên ngực Ngài. Không có chỗ nào tốt đẹp bằng, an ninh bằng chỗ đó. Một trẻ em đang chơi ngoài đường, có thể bị bạn bè hà hiếp, em chạy vào nhà ngã vào lòng mẹ, tại đó em tìm được an ủi, Tình yêu của Chúa bao la như đại dương man mác, còn tôi là một con cá nhỏ trong đại dương đó. Tôi không biết đại dương bao lớn, bao sâu nhưng hằng ngày tôi lặn hụp trong tình yêu của Chúa như con cá nhỏ lặn hụp trong đại dương. Lúc nào tôi cũng nếm biết sự ngọt ngào vô cùng về Tình yêu của Chúa.


II. TÌNH YÊU CỦA CHÚA ĐƯỢC THỂ HIỆN


Tình yêu của Chúa không phải chỉ bằng lời nói, nhưng được thể hiện bằng hành động chứng minh.

1. Ngài tự làm nên nghèo để chúng ta trở nên giàu.

• II Cô-rinh-tô 8:9: “Vì anh em biết ơn của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta, Ngài vốn giàu, vì anh em mà tự làm nên nghèo, hầu cho bởi sự nghèo của Ngài, anh em được nên giàu.” Không ai giàu bằng Chúa Giê-xu, nhưng Ngài đã tự làm nên nghèo, và nghèo hơn bất cứ ai trên thế giới. Dầu chúng ta nghèo đến đâu cũng được sanh ít nhất là trong chòi tranh vách đất, nằm trên mảnh vạt tre, dưới có mẻ lửa ấm áp. Nhưng Chúa Giê-xu không được như vậy, Ngài đã sanh ra trong chuồng chiên, nằm trong máng cỏ. Ngài hết sức giàu, nhưng vì cớ chúng ta đã trở nên hết sức nghèo. Ngài ở nơi vinh hiển tuyệt vời, cam xuống nơi thấp hèn để đem chúng ta từ nơi thấp hèn cùng tôn lên nơi vinh hiển tuyệt vời. Cảm tạ Chúa không ai có thể kéo Ngài từ trời xuống đất, chỉ có Tình yêu Ngài thúc đẩy Ngài thôi. Không ai có thể đem Ngài lên Thập tự giá, đồi Gô-gô-tha, chỉ có Tình yêu, Ngài đối với chúng ta. Các thầy Tế Lễ, các thầy Thông giáo và các Trưởng lão thách đố Ngài: “Nếu phải là vua Y-sơ-ra-ên, hãy xuống khỏi Thập tự giá đi, thì chúng ta mới tin.” Ngàn mũi đinh to, cả đế quốc La-mã và toàn thế giới, cũng không thể giữ Ngài trên Thập tự giá, chỉ có Tình yêu của Ngài đối với chúng ta đã giữ Ngài tại đó.

2. Ngài hy sinh vì chúng ta.

• Ê-phê-sô 5:2: “Hãy bước đi trong sự yêu thương cũng như Đấng Christ đã yêu thương anh em, và vì chúng ta phó chính mình Ngài cho Đức Chúa Trời làm của dâng và của tế lễ, như một thức hương có mùi thơm.” Vì yêu chúng ta, Chúa Giê-xu đã tình nguyện hy sinh trên Thập tự giá để cứu chúng ta. Có rất nhiều câu Kinh thánh chứng minh điều nầy (Giăng 3:15;15:15; IPhi 3:18; Khải 1:5).

3. Ngài tha thứ cho tội nhân ăn năn.

• Lu-ca 7:48: “Ngài bèn phán cùng người đàn bà rằng: tội lỗi ngươi đã được tha”. Câu nầy hết sức quan trọng, không phải ai nói cũng được. Có một đàn bà xấu nết, có lẽ là một kỹ nữ đã tin nhận Chúa Giê-xu, được Ngài tha thứ và thay đổi đời sống. Dầu ai nói gì, nghĩ gì không quan trọng, một lời phán của Chúa là đủ.

4. Ngài rửa sạch tội lỗi chúng ta.

• Khải-huyền 1:6: “Đấng yêu thương chúng ta, đã lấy Huyết mình rửa sạch tội lỗi chúng ta.” Tội lỗi chúng ta không thể nào rửa sạch được bằng bất cứ thứ gì, phải có Huyết của Chúa Giê-xu. Đó là lý do Ngài đã giáng thế và chịu chết vì chúng ta trên cây Thập tự. Chúng ta được phiếu trắng như tuyết, còn hơn tuyết nữa (Thi 51:7).

5. Ngài tìm kiếm chúng ta như người chăn tìm chiên lạc.

• Lu-ca 15:4-7: “4. Trong các ngươi ai là người có một trăm con chiên, nếu mất một con, mà không để chín mươi chín con nơi đồng vắng, đặng đi tìm con đã mất cho kỳ được sao? 5. Khi đã kiếm được, thì vui mừng vác nó lên vai; 6. đoạn, về đến nhà, kêu bạn hữu và kẻ lân cận, mà rằng: Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được con chiên bị mất. 7. Ta nói cùng các ngươi, trên trời cũng như vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn hơn là chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn.

Đây có 99 người, thiếu một người, Chúa khao khát, ước ao tìm được người hư mất.

6. Ngài chăm sóc chúng ta như người chăn chăm sóc bầy chiên.

• Giăng 10:4: “Khi người đã đem chiên ra hết, thì đi trước, chiên theo sau vì chiên quen tiếng người.” Người chăn đi trước để bảo vệ bầy chiên khỏi hiểm nghèo, dẫn bầy chiên đến đồng cỏ xanh, mé nước trong, thì Chúa đối với chúng ta cũng vậy.

7. Ngài mang lấy tật nguyền, bệnh hoạn của chúng ta và chữa lành cho.

• Ma-thi-ơ 8:17: “Chính Ngài đã lấy tật nguyền của chúng ta, và gánh bịnh họan của chúng ta.” Khi Chúa chịu chết trên Thập tự giá, không những mang lấy tội lỗi của chúng ta để linh hồn được cứu rỗi, đồng thời cũng mang lấy tật nguyền, bệnh hoạn của chúng ta để thân thể được khoẻ mạnh.

8. Ngài lo liệu cho chúng ta mọi nhu cầu.

• Ma-thi-ơ 15:32: “Khi đó, Đức Chúa Giê-xu gọi môn đồ đến mà phán rằng: Ta thương xót đoàn dân nầy; vì đã ba ngày ở cùng ta, bây giờ không có chi ăn hết. Ta không muốn để họ nhịn đói mà về, e phải mệt lủi dọc đường chăng.” Đoàn dân nghe Chúa giảng như đi dự một Hội đồng suốt ba ngày. Ngày cuối cùng họ ra về thì một số đông không còn thức ăn. Chúa đã dùng năm cái bánh và hai con cá hóa ra cho năm ngàn người và một số đàn bà, con trẻ ăn và còn dư. Ngài cảm thương chúng ta, không để một điều gì quá sức chịu đựng của chúng ta. Nếu cần Ngài cũng sử dụng cõi thiên nhiên để phục vụ chúng ta. Trong thời Môi-se và Giô-suê Chúa đã khiến mặt trời dừng lại, rẽ Biển đỏ, sông Giô-đanh, mưa Ma-na từ trời, thì cũng vậy, Ngài có hàng ngàn đường lối khác nhau để lo liệu mọi nhu cầu cho chúng ta.

9. Ngài cảnh tỉnh chúng ta.

• Khải-huyền 3:19: “Phàm những kẻ yêu Ta thì Ta quở trách sửa phạt . Vậy, hãy có lòng sốt sắng và ăn năn đi.” Chúa không chịu nổi lòng nguội lạnh, hững hờ của chúng ta. Vì vậy, Chúa phải sửa trị bằng đau yếu, khó khăn để thức tỉnh và đem chúng ta đến sự ăn năn.

10. Ngài không để chúng ta mồ côi.

• Giăng 14:18: “Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu.” Dầu chúng ta ở đầu non, góc biển chân trời hay bất cứ nơi nào, tại đó, Chúa ở với chúng ta. Vì vậy, một số anh em phải xa gia đình, xa Hội thánh, ở nơi nào đó, nhưng có sự hiện diện của Chúa, cánh tay vô hình của Ngài vẫn bảo vệ và giải cứu họ.

11. Ngài khóc về sự đau đớn của chúng ta.

• Giăng 11:35: “Đức Chúa Giê-xu khóc.” Chúa đã khóc bên mộ La-xa-rơ vì cảm thương. Nhưng Ngài không khóc cách tuyệt vọng, vì sau đó Ngài kêu La-xa-rơ sống lại. Chúng ta đau đớn bao nhiêu thì Chúa cũng đau đớn bấy nhiêu. Con bị đau đớn thì mẹ cũng thấy như chính mình bị đau đớn vậy.

Người đàn bà Ca-na-an thưa với Chúa Giê-xu: “Xin Chúa thương xót tôi; con tôi mắc quỷ ám khốn cực lắm!.” Con bà khốn cực nhưng bà xin Chúa thương xót bà, vì con bà đau bao nhiêu thì bà cũng đau đớn bấy nhiêu. Chúa bảo: “Hễ khi dân Ngài bị khốn khổ, chính Ngài cũng khốn khổ.” (Ê-sai 63:9).

12. Ngài an ủi khi chúng ta bối rối.

• Giăng 14:1: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối.” Lúc Chúa sắp từ giã các môn đồ về trời, thấy mình cô đơn, họ bối rối Chúa hứa để lại cho họ sự bình an.

• Giăng 14:27: “Ta để sự bình an lại cho các ngươi; Ta ban sự bình an cho các ngươi; Ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi.” Chúa không để lại cho họ vàng bạc hay của cải nhưng sự bình an của Ngài. Đó là một sự bình an vượt qua trí hiểu sẽ giữ gìn lòng và ý tưởng của chúng ta. Hiện nay có nhiều người bị Huyết áp cao, mang đủ thứ khó khăn trong thể xác lẫn tâm hồn, thảy đều do thiếu bình an mà ra. Chúng ta hãy hưởng cái di sản lớn nhất mà Chúa để lại.

13. Ngài buồn khi chúng ta cứng lòng.

• Mác 3:5: “Bấy giờ Ngài lấy mắt liếc họ, vừa giận, vừa buồn vì lòng họ cứng cỏi.” Khi chúng ta cứng lòng, đã phạm tội mà không chịu ăn năn thì Chúa buồn giận, vì quá yêu chúng ta mà thôi. Cha mẹ buồn con cái vì cớ yêu chúng, Chúa cũng buồn chúng ta vì cớ yêu chúng ta. Ngài cầu nguyện cho chúng ta (Lu-ca 22:31-32). Tất cả những điều kể ra trên đây thể hiện Tình yêu của Chúa Giê-xu.


III. TÌNH YÊU CỦA CHÚA ĐỐI VỚI KẺ HƯ MẤT


1. Ngài đến trần gian tìm và cứu con người hư mất.

• Lu-ca 19:10: “Bởi Con Người đã tìm đến và cứu kẻ bị mất.” Chúa đến trần gian không để tìm vàng, bạc, của cải hay bất cứ gì khác, nhưng tìm những linh hồn hư mất. Ngày nào Chúa chưa Tái lâm là để có thêm những linh hồn hư mất được cứu.

2. Ngài luôn tìm cơ hội cứu linh hồn hư mất.

• Giăng 4:6-7: “Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhơn đi đàng mỏi mệt, Đức Chúa Giê-xu ngồi gần bên giếng ; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu.” Ngài chờ đợi để cứu một đàn bà hư mất, Ngài xem việc đó ngon hơn bất cứ một thức ăn nào.

3. Ngài vui mừng cho một tội nhân ăn năn.

• Lu-ca 15:7-10: “Ta nói cùng các ngươi, trước mặt Thiên sứ của Đức Chúa trời cũng vậy, sẽ mừng rỡ cho một tội nhân ăn năn.” Không có gì dưới làm cho trên trời vui mừng bằng có một tội nhân ăn năn.

4. Ngài khóc về các linh hồn hư mất.

• Lu-ca 19:41: “Khi Đức Chúa Giê-xu gần đến thành, thấy thì khóc về thành.”

Tại sao Ngài khóc ? -Vì họ cứng lòng không ăn năn, và số phận của họ khốn nạn dường nào. Ngài kêu gọi: “Ôi, Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, đã bao nhiêu lần Ta muốn nhóm họp các ngươi như gà mái tủa con mình lại ủ trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng.” Qua lời kêu gọi đó, chắc Chúa khóc, khi chúng ta từ chối không ăn năn thì Ngài khóc ! Ôi, Tình yêu, Tình yêu của Chúa.



bottom of page