top of page
Hung Tran
Mar 14, 2024
ĐÀO LUYỆN MÔN ĐỆ THEO ĐÚNG THÁNH KINH (BIBLE-DRIVEN DISCIPLESHIP)
(Mở Bài Học - Mở Bài Thi)
Bài 1: Các Đặc Tính Của Môn Đệ Lành Mạnh.
Bài 2: Tầm Quan Trọng Và Sự Trả Giá.
Bài 3: Tội Lỗi Là Gì?
Bài 4: Làm Thế Nào Để Giải Quyết Tội Lỗi.
Bài 5: Huyết Của Chúa Jesus.
Bài 6: Sự Tha Thứ Và Một Lương Tâm Trong Sạch.
Bài Học Phụ:
- Môn Đồ Can Đảm.
- Một Môn Đồ.
BÀI 1: CÁC ĐẶC TÍNH CỦA MÔN ĐỆ LÀNH MẠNH
“Anh em hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy dốc chí trượng phu và mạnh mẽ. Mọi điều anh em làm, hãy lấy lòng yêu thương mà làm.” (I Cô-rinh-tô 16:13-14)
I. ÁP DỤNG LỜI CHÚA VÀO CUỘC SỐNG
A. “Kiên trì trong đạo Ta...” Giăng 8:31
B. “Hãy thực hành lời Chúa...” Gia-cơ 1:22
C. Làm theo ý Chúa mới được vào Nước Ngài. (Ma-thi-ơ 7:21)
D. Làm theo lời Chúa dạy sẽ được phước. (Gia-cơ 1:25)
E. Làm theo lời Chúa sẽ trở thành khôn ngoan. (Thi-thiên 119:66)
II. ĐỜI SỐNG TỈNH NGUYỆN
A. Lời Chúa ở trong chúng ta. (Giăng 15:7-8)
B. “Mỗi ngày ca ngợi Chúa 7 lần” (Thi-thiên 119:164)
C. “Thức dậy lúc rạng đông cầu xin” (Thi-thiên 119:147)
D. “Tôi tha thiết tìm kiếm Ngài. Linh hồn tôi khao khát Chúa, Thể xác tôi mong ước Ngài như mảnh đất khô khan, Nứt nẻ, không có nước” (Thi-thiên 63:1)
E. “Mỗi buổi sáng xin cho chúng tôi được thỏa lòng trong tình yêu thương của Ngài; Để chúng tôi được hân hoan ca hát và vui mừng suốt đời” (Thi-thiên 90:14).
III. ĐẶT CHÚA LÀ TRỌNG TÂM
A. Đặt Chúa ưu tiên một trong đời sống. (Ma-thi-ơ 6:33)
B. Đặt Chúa quan trọng hơn người khác. (Công-vụ 5:29)
C. “Hãy vui mừng trong Chúa, Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình mong muốn” (Thi-thiên 37:4).
IV. THAM GIA THỜ PHƯỢNG VÀ NHÓM NHỎ
A. Đến đền thờ để thờ phượng Chúa – Công-vụ 2:46
B. Dạy dỗ và Truyền giảng – Công-vụ 5:42
C. Dạy dỗ Lời Chúa trong nhóm nhỏ – Công-vụ 20:20.
V. HĂNG SAY PHỤC VỤ
A. I Ti-mô-thê 4:14
B. II Ti-mô-thê 1:6
C. Ê-phê-sô 4:11-13.
BÀI 2: TẦM QUAN TRỌNG VÀ SỰ TRẢ GIÁ
A. KINH THÁNH NỀN TẢNG.
1. “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: Lại cũng cho mọi điều các ngươi sẽ nhân danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi.” Giăng 15:16
2. “Đức Chúa Jêsus đến gần, phán cùng môn đồ như vầy: Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho ta. 19. Vậy, hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ, 20. và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi. Và nầy, ta thường ở cùng các ngươi luôn cho đến tận thế.” Ma-thi-ơ 28:18-20
3. “Đoạn, Ngài phán cùng mọi người rằng: Nếu ai muốn theo ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo ta.” Lu-ca 9:23
4. “Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta. 27. Còn ai không vác thập tự giá mình mà theo ta, cũng không được làm môn đồ ta. 28. Vả, trong các ngươi có ai là người muốn xây một cái tháp, mà trước không ngồi tính phí tổn cho biết mình có đủ của đặng làm xong việc cùng chăng sao? 29. E khi đã xây nền rồi, không làm xong được, thì mọi người thấy liền chê cười, 30. và rằng: Người nầy khởi công xây, mà không thể làm xong được! 31. Hay là có vua nào đi đánh trận cùng vua khác, mà trước không ngồi bàn luận xem mình đem đi một muôn lính có thể địch nổi vua kia đem hai muôn cùng chăng sao? 32. Bằng chẳng nổi, khi vua kia còn ở xa, sai sứ đi xin hòa. 33. Như vậy, nếu ai trong các ngươi không bỏ mọi sự mình có, thì không được làm môn đồ ta. 34. Muối là giống tốt, nhưng nếu muối mất mặn, thì lấy chi làm cho nó mặn lại được? 35. Không dùng chi được cho ruộng hoặc cho phân; người ta phải bỏ nó ra ngoài. Ai có tai mà nghe, hãy nghe!” Lu-ca 14:26-35
5. “Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta; 38. ai không vác cây thập tự mình mà theo ta, thì cũng chẳng đáng cho ta. 39. Ai gìn giữ sự sống mình, thì sẽ mất; còn ai vì cớ ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được.” Ma-thi-ơ 10:37-39.
B. VÌ SAO PHẢI MÔN ĐỒ HÓA?
1. Chúa Jesus đã chứng tỏ tầm quan trọng của việc môn đồ hóa qua việc huấn luyện mười hai môn đồ Ngài trong ba năm rưỡi khi Ngài thi hành sứ mệnh trên đất.
2. Mạng lệnh của Chúa cho tất cả kẻ theo Ngài “môn đệ hóa muôn dân” và “trái thường đậu luôn”
3. Môn đồ hóa là phương cách tốt nhất để đem thế gian trở lại cùng Đức Chúa Trời.
Bằng chứng là sự tác động của các môn đồ đầu tiên & sứ đồ Phao-lô cho thấy giá trị của việc môn đồ hóa:
Một nhóm nhỏ môn đồ đầu phục, được huấn luyện tốt, sẽ kết quả cho Chúa nhiều hơn là một số đông tín hữu nhưng lại thiếu chiều sâu thuộc linh.
4. Kết quả cuối cùng là những tín hữu trưởng thành thuộc linh.
Sự trưởng thành không đến một cách tự nhiên hay phát triển theo tuổi tác, tri thức hay kinh nghiệm. Nhưng là kết quả của tăng trưởng thuộc linh dần dà tùy thuộc vào sự đầu phục Chúa Jesus và Lời Ngài.
C. BẢY DẤU HIỆU CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG THUỘC LINH.
1. Kết quả trong đời sống theo Chúa (Ma-thi-ơ 25:14-30)
2. Có thái độ khiêm nhường và thiện chí để phục vụ người khác (Giăng 13:12-17)
3. Đạt đến sự trọn lành mọi mặt trong cuộc sống (II Cô-rinh-tô 13:11)
4. Có sự tương giao thân mật với cứu Chúa Jesus (Ga-la-ti 2:20)
5. Trái của Đức Thánh Linh được thể hiện trong cuộc sống mình (Ga-la-ti 5:22-23)
6. Vững vàng, kiên định và bước đi cách thánh khiết trước Đức Chúa Trời và loài người (Lu-ca 1:75; Ê-phê-sô 4:11-16)
7. Có kiến thức vững chắc về lời Chúa và biết phân biện rõ ràng (Hê-bơ-rơ 5:13; 6:2) phẩm tính nầy giúp một người trở nên giống như Đấng Christ (Christ-likeness) I Giăng 2:6
D. SỰ TĂNG TRƯỞNG LÀ ĐIỀU CẦN YẾU.
1. Tăng trưởng và trưởng thành trong Đấng Christ là điều mà Thánh Kinh đòi hỏi ở mỗi Cơ-đốc nhân (Ê-phê-sô 4:11-16)
2. Nếu không có sự trưởng thành thì cũng không có chức vụ lãnh đạo. Hội thánh phát triển cần người lãnh đạo vì chính họ là người chăn bầy của Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 5:1-3)
3. Chỉ có những tín hữu trưởng thành mới có khả năng chống cự lại kẻ thù nghịch và quyền lực tối tăm của chúng. Đây là điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm. (Ma-thi-ơ 12:29)
4. Chỉ có Cơ-đốc nhân trưởng thành mới ảnh hưởng lâu dài việc Đức Chúa Trời trong thế giới ngày nay.
5. Chỉ có con cái Chúa trưởng thành qua cách sống, gương yêu thương mới bày tỏ tính cách của Chúa Jesus cho thế gian.
E. GHI NHỚ.
Đem một người trở lại với Chúa nghĩa là thêm một người vào danh sách những người được tái sanh; Nhưng huấn luyện môn đồ – người có thuộc linh trưởng thành và kết quả – nghĩa là huấn luyện một người biết huấn luyện người khác và làm tăng gấp bội lần hơn số tân tín hữu và môn đồ trong hội thánh.
F. GIÁ PHẢI TRẢ ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỒ THẬT.
Đây quả là một công việc nghiêm túc & quan trọng. Một vấn đề phải trả giá: Đức Chúa Jesus không bắt đầu việc huấn luyện bằng cách đưa môn đồ vào “con đường đầy hoa”. Ngài giải thích rõ từ ban đầu các khó khăn sẽ xảy đến. Để trở nên một môn đồ của Chúa Jesus:
1. Phải chấp nhận vác thập tự giá mình mà theo Ngài (Lu-ca 14:27)
2. Dâng trọn cuộc đời và mọi điều quý giá mình cho Chúa, những gì Ngài cần sử dụng.
G. NHIỀU NGƯỜI THÍCH AN PHẬN, CHẤP NHẬN GIÁ TRẢ THẤP NHẤT.
Người ta thích chọn những gì nhỏ nhất, dễ nhất trong những gì Chúa truyền dạy và chờ đợi nơi họ. Lời Chúa không thỏa hiệp với những thủ đoạn & lãng tránh sự trả giá. Do vậy có nhiều Cơ-đốc nhân thất bại trong việc chứng đạo như những gì Chúa muốn. Từ đó có nhiều hội thánh được xem như không hiệu quả, yếu đuối và không thích ứng ý Chúa.
• Chúa muốn mọi con cái Ngài hãy bắt chước thích Chúa Jesus và những người thành công của Ngài (I Cô-rinh-tô 11:1)
H. TÍNH TOÁN GIÁ PHẢI TRẢ
Đức Chúa Trời kêu gọi con cái Ngài đối diện với những ứng dụng thực tế của môn đồ hóa. Trung tín, vâng phục Ngài bất chấp những mất mát họ phải trả giá. (Lu-ca 9:57-62)
(Giăng 6:60-66; Mác 10:17-31)
Với sự trả giá rất cao để trở thành môn đồ, từ đó không có gì ngạc nhiên khi thấy Chúa Jesus hoàn thành việc huấn luyện cách thành công chỉ qua một số ít môn đồ.
1. Môn đồ hóa ngoài sự trả giá không được xem là môn đồ hóa thật được.
2. Thập tự giá không phải là một gánh nặng bắt họ gánh chịu, nhưng là những gì đòi hỏi họ cùng gánh vác bởi cớ Tin Lành.
I. MÔN ĐỒ THẬT– NGƯỜI TRẢ GIÁ TRONG MỌI PHƯƠNG DIỆN
1. Cuộc sống của môn đồ không phải nhờ vào thời giờ dư thừa. Nhưng sống như những yêu cầu của Chúa đối với tất cả kẻ theo Ngài.
2. Một môn đồ thật nhận ra và chấp nhận Chúa Jesus là Chúa trọn cuộc đời mình (Giăng 13:13)
3. Môn đồ thật tin vào mọi lời Chúa dạy và giao phó đời mình cho Chúa Jesus
4. Môn đồ thật của Chúa Jesus không thể là kẻ nửa vời, “tàn tàn” (mediocre) trong việc mình được giao. Người đó sẵn sống và chết với những nguyên tắc của vương quốc Chúa.
J. NĂM ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT ĐỐI VỚI MỘT MÔN ĐỒ
1. Trung tín: Chỉ có người trung thành, đáng tin cậy mới đủ phẩm chất huấn luyện môn đồ.
2. Yêu mến Chúa Jesus và luôn đặt Ngài ở hàng đầu: sống một cuộc đời theo ý muốn Chúa, luôn vâng phục Ngài.
3. Sẵn sàng hy sinh chính bản thân mình: Để có sự tăng trưởng đòi hỏi sự hy sinh về thời gian, sức lực, và đôi khi cả sự quan hệ cá nhân. Đức Chúa Trời có kế hoạch môn đồ hóa cho mỗi cá nhân, Ngài đòi hỏi mỗi người phải nổ lực phấn đấu để trở nên giống như Con Ngài là Chúa Jesus (Phi-líp 2:13; II Cô-rinh-tô 9:8)
4. Đói khát thuộc linh: sự khao khát thật sự tận đáy lòng, mong mỏi được Ngài sử dụng.
5. Thái độ chịu học hỏi: điều nầy tự bày tỏ khi một người sẵn lòng đầu phục uy quyền của Lời Đức Chúa Trời và người hướng dẫn thuộc linh.
K. CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Có phải Chúa Jesus đã ảnh hưởng cả thế giới qua các môn dồ Ngài? tại sao?
2. Tại sao chúng ta phải nhằm đến sự trưởng thành thuộc linh? (Cô-lô-se 1:28)
3. Trở nên giống như Chúa là gì? (Rô-ma 8:29)
4. Vác thập tự giá mình là gì? (Ma-thi-ơ 16:24-25)
5. Tại sao ngày nay có nhiều hội thánh trở nên yếu đuối, không hiệu quả?
6. Để trở nên môn đồ Chúa chúng ta có nên tính toán giá phải trả? tại sao? (Lu-ca 14:25-35)
BÀI 3: TỘI LỖI LÀ GÌ ?
A. KINH THÁNH NỀN TẢNG.
“Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” Rô-ma 3:23
“Vì tiền công của tội lỗi là sự chết; nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus-Christ, Chúa chúng ta.” Rô-ma 6:23
“Nhưng ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Đức Chúa Trời; và tội lỗi các ngươi đã che khuất mặt Ngài khỏi các ngươi, đến nỗi Ngài không nghe các ngươi nữa.” Ê-sai 59:2.
B. LỜI MỞ ĐẦU.
Phạm tội là làm điều gì đó không đẹp lòng Đức Chúa Trời (displease God). Mọi người sinh ra trong thế gian đều phạm tội. Cho dầu người nào đó có tuyệt vời nhất, hoặc vô tư như một đứa trẻ đều không tránh khỏi phạm tội.
Không phải hành vi phạm tội lần đầu tiên trong đời của trẻ em bị kể là phạm tội nhưng từ lúc được sinh ra nó đã mang trong mình bản chất tội lỗi (sinful nature) Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi. (Thi-thiên 51:5)
Một đời sống tự nhiên luôn chú trọng cái tôi (self) của mình hơn là vào Thượng Đế. Cái tôi vốn là trung tâm của ước muốn và mục đích của đứa trẻ. Nó nhất quyết mọi việc phải được vừa lòng và đòi cho bằng được điều nó muốn. Hành vi như vậy là tự nhiên đối với một người từ lúc được sinh ra, do vậy không thể tránh được tội lỗi và không hài lòng Thượng Đế (Rô-ma 3:23).
Tội lỗi không chỉ làm buồn lòng Đức Chúa Trời mà còn phân cách loài người khỏi Đấng tạo dựng họ từ sự vinh hiển mà muốn dành cho họ. Từ đây cho thấy tính hủy diệt của tội lỗi. Tội nhân trở nên thù địch với Thượng Đế, không nhận biết Ngài, thậm chí không muốn có sự thông công với Ngài. Từ lúc được sanh ra mọi người đã bị phân cách với Trời Chúa Trời.
C. MỘT VÀI HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI.
- Làm buồn lòng Đức Chúa Trời (Sáng-thế ký 6:5-7)
- Sanh ra tội ác (Thi-thiên 51:3-4)
- Gây nên sự phân cách với Đức Chúa Trời (Ê-sai 59:1-2)
- Đem đến sự đoán xét & hình phạt đời đời (Ma-thi-ơ 25:46)
- Trở thành tôi mọi tội lỗi (Rô-ma 6:17)
- Làm mù lòa tâm linh (II Cô-rinh-tô 4:4)
- Sự chết thuộc linh (Ê-phê-sô 2:1)
- Đánh mất hy vọng & thiếu mất hy vọng (Ê-phê-sô 2:12)
- Làm hư hoại (Tít 1:15)
- Bị đoán phạt (Gia-cơ 5:12)
D. TỪ NGỮ THÁNH KINH VỀ TỘI LỖI.
Thánh Kinh dùng nhiều từ ngữ để mô tả thực trạng chung của loài người khi bị phân cách và thù địch với Đức Chúa Trời. Ở đây được chia thành bốn nhóm chính:
1. Sai lệch khỏi tiêu chuẩn:
- Chattah: lệch khỏi mục tiêu, đi sai (Giu-đe 1:16; Thi-thiên 51:4)
- Avon: dùng sai hay làm sai (to bend or pervert) chủ ý làm sai điều gì đó dù bạn có thể làm điều đúng. (Gióp 33:27)
- Shagah: đi lạc hay lầm lạc (Gióp 19:4, Lê-vi ký 4:13)
- Parabasis: ngoặt quẹo khỏi đường ngay thẳng, chẳng hạn đi vượt quá khỏi giới hạn (Rô-ma 4:15, Ga-la-ti 3:19)
- Hamartia: (to miss the mark) xem Rô-ma 6:23.
- Paraptoma: sự phạm pháp, bước trượt khỏi đường lẽ thật (Cô-lô-se 2:13; Ê-phê-sô 2:5)
2. Loại hạng xấu xa:
- Rasha: thường được dịch để chỉ về kẻ ác (wicked) hay không kính Chúa (ungodly) (Thi-thiên 1:6; 37:28)
- Asham: Gây phiền hà hay lỗi lầm (Sáng-thế ký 26:10 Lê-vi ký 5:15-16)
3. Sự nổi loạn chủ ý: người ta cảm thấy có thể tự sống mà không cần Thượng Đế. Bởi sự kiêu ngạo mà một người có thể tuyên bố sống độc lập ngoài Thượng Đế.
- Persha: giơ nắm đấm nghịch cùng Đức Chúa Trời (Ê-sai 1:2; 1 Các-vua 12:19)
- Anomia: vô luật hay nổi loạn (II Cô-rinh-tô 6:14; I Giăng 3:4)
4. Những hành vi quanh co hay thái độ không ngay thẳng:
- Marah: vẫn tiếp tục, trở nên cứng đầu, hay nổi loạn (Thi-thiên 78:8)
- Marad: dấy loạn, phiến loạn (Dân-số ký 14:9)
- Ra’ah: trở nên hiểm ác hay xấu xa (Sáng-thế ký 19:7)
E. THÁI ĐỘ CHÚNG TA
Mỗi người phải chịu trách nhiệm đối với tội của mình (Rô-ma 14:12). Đức Chúa Trời muốn chúng ta từ bỏ tội lỗi để quay về (Ê-xê-chi-ên 18:20-23). Loài người chọn tội lỗi nghịch cùng Đức Chúa Trời, biết hậu quả của tội lỗi nhưng Ngài cho họ có quyền tự do để lựa chọn.
Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết Ngài, biết ý muốn của Ngài đối với chúng ta, yêu Ngài thật lòng để chuẩn bị hoàn thành ý chỉ Ngài trên mỗi chúng ta. Ngài muốn chúng ta trở nên con cái Ngài, cùng dự phần trong vương quốc Ngài. Trước tiên (1) tội lỗi mình phải đuợc tha (2) bản chất tội lỗi trong chúng ta từ lúc được sinh ra phải chấm dứt bởi việc mỗi chúng ta phải được tái sanh (Giăng 3:5-7) để được trở nên mới mà có thể nhìn biết Đức Chúa Trời và vui hưởng sự thông công với Ngài.
F. TÓM TẮT VÀ ỨNG DỤNG.
1. Tất cả mọi người đều được sinh ra với bản chất tội lỗi trong mình.
2. Là con người nên bản năng tự nhiên thường xu hướng về những việc làm buồn lòng Đức Chúa Trời.
3. Mỗi một người phải chịu trách nhiệm và gánh lấy tội lỗi của chính mình.
4. Đức Chúa Trời là Cha đã sai Chúa Jesus đến để gánh tội lỗi chúng ta trên chính Ngài.
5. Để hưởng ơn cứu mạng của Chúa Jesus, chúng ta cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ tất cả những gì mình làm buồn lòng Ngài, đương nhiên phải tiếp nhận Chúa Jesus làm cứu Chúa cho chính mình.
G. CÂU HỎI VÀ CÁC ĐIỂM THẢO LUẬN.
1. Hậu quả của tội lỗi là gì? (Ê-sai 59:1-2)
2. Vì sao Đức Chúa Trời ban quyền tự do chọn lựa cho loài người dầu Ngài biết họ có thể phạm tội mà bị phân cách khỏi Ngài?
3. Điều gì đã xảy đến cho A-đam sau khi ông phạm tội?
4. Hậu quả xảy đến cho dòng dõi con cháu của A-đam là gì sau khi ông đã phạm tội?
5. Tại sao tội lỗi mới là vấn đề chính đối với con người?
6. Tại sao hầu hết mọi người đều không nhận ra rằng họ đang làm buồn lòng Đức Chúa Trời?
BÀI 4: LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIẢI QUYẾT TỘI LỖI
A. KINH THÁNH NỀN TẢNG
“Phi-e-rơ trả lời rằng: Hãy hối cải, ai nấy phải nhân danh Đức Chúa Jêsus chịu phép báp-têm, để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho Đức Thánh Linh. 39. Vì lời hứa thuộc về các ngươi, con cái các ngươi, và thuộc về hết thảy mọi người ở xa, tức là bao nhiêu người mà Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ gọi.” Công-vụ 2:38-39
“Ta nói cùng các ngươi, trên trời cũng như vậy, sẽ vui mừng cho một kẻ có tội ăn năn hơn là chín mươi chín kẻ công bình không cần phải ăn năn. 8. Hay là, có người đàn bà nào có mười đồng bạc, mất một đồng, mà không thắp đèn, quét nhà, kiếm kỹ càng cho kỳ được sao? 9. Khi tìm được rồi, gọi bầu bạn và người lân cận mình, mà rằng: Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được đồng bạc bị mất. 10. Ta nói cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn năn.” Lu-ca 15:7-10
“Vậy nên Chúa Giê-hô-va phán rằng: Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đoán xét các ngươi, mỗi người theo việc làm của nó. Hãy trở lại và xây bỏ mọi sự phạm pháp của các ngươi; vậy thì sự gian ác không trở nên cớ hư nát cho các ngươi. 31. Hãy liệng xa các ngươi mọi sự phạm pháp mà tự mình đã làm. Hãy làm cho mình lòng mới và thần mới; vì, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, làm sao mà các ngươi muốn chết? 32. Chúa Giê-hô-va phán rằng: Thật vậy, ta không vui đâu về sự chết của kẻ phải chết, vậy các ngươi hãy xây lại, mà được sống!” Ê-xê-chi-ên 18:30-32.
B. PHẦN MỞ ĐẦU.
Để trở nên một tín hữu, một con cái Chúa điều cần yếu đầu tiên là biết ăn năn tội.
Chữ “ăn năn” (Repentance) trong ngôn ngữ Hy-lạp là “metanoia” – nghĩa là có một tâm trí khác hoặc thay đổi suy nghĩ sau khi hiểu thấu điều gì đó (Ma-thi-ơ 4:17 & Mác 1:15). Sự ăn năn được hiểu theo tiếng Hê-bơ-rơ là “shub” có nghĩa là “trở lại”.
Ngày nay “ăn năn” trở nên quá đơn giản như là cảm thấy hối hận điều mình đã làm hay tiếc nuối điều gì đó. Nhưng từ ngữ thánh kinh luôn luôn sâu sắc hơn những quan niệm kia. Thật thế, ăn năn là hành động đầu tiên của chức vụ môn đồ hóa.
C. SỰ ĂN NĂN THẬT LÀ GÌ ?
Là sự thay đổi hoàn toàn trong suy nghĩ và hành động.
1. Chúng ta thay đổi trong cách suy nghĩ , nhận biết con người thật của chúng ta.
2. Thay đổi trong hành động: Từ bỏ sự bất tuân, ích kỷ và nổi loạn. Chúng ta quay khỏi tội lỗi để sống đầu phục Chúa là Đức Chúa Trời và cứu Chúa Jesus.
D. BA YẾU TỐ QUAN TRỌNG TRONG SỰ ĂN NĂN:
1. Ăn năn là nhận biết (cognitive)
Đơn giản là hiểu ra được vấn đề của mình. Ăn năn liên quan đến sự nhận biết tội lỗi của mình và cho rằng điều đó gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời. Bởi thế Đức Chúa Trời muốn chúng ta nhận biết tội lỗi mình để mỗi người có thể so sánh nó trước sự thánh khiết của Chúa- nhờ đó bạn mới phó thác cả cuộc đời mình vào tay Ngài, cho phép Đức Thánh Linh dẫn dắt, chỉ bảo khi ta đọc lời Đức Chúa Trời.
2. Sự ăn năn là xúc cảm: (emotional)
- Nếu nhận biết tình trạng mình trước mặt Chúa, chúng ta mới có những phản ứng xúc cảm mạnh mẻ (Ê-sai 6:5)
- Xúc cảm liên quan đến nội tâm sâu sắc của sự đau đớn và hối lỗi (Thi-thiên 51:9)
- Cảm thấy gánh nặng đè lên khi phạm phải sai lầm trong cuộc sống.
Tóm lại: tất cả chỉ có thể được cất đi thật sự nếu ta chạy đến để nhận lãnh sự tha thứ của Đức Chúa Trời (II Cô-rinh-tô 7:9-10)
- Sự đau buồn theo ý Chúa (Godly sorrow) là cách của Đức Thánh Linh mang đến khi chúng ta nhận lãnh lời Đức Chúa Trời trong đời sống mình.
3. Ăn năn thuộc về sự tự ý (volitional)
- Điều nầy liên quan đến ý muốn hay ý chí. Sự ăn năn là thay đổi tâm trí, tấm lòng, mục đích, hay cả phương hướng của một đời người.
- Đây là sự biến cải (conversion) để một cuộc đời bắt đầu sống trong quyền năng của Đức Chúa Trời.
E. QUYỀN NĂNG CỦA SỰ THA THỨ.
- Sự ăn năn không thể đứng một mình- sự tha thứ (forgiveness) thường đi đôi với sự ăn năn.
- Sau khi trãi qua tình trạng thống khổ trong sự hiện diện thánh khiết của Đức Chúa Trời, chúng ta cần kinh nghiệm tình yêu và sự thương xót lớn lao của Đức Chúa Trời. Ngài yêu chúng ta (1 Giăng 1:7-9)
- Cách duy nhất để thoát khỏi tội là xưng nó ra. Cùng lúc ấy Đức Chúa Trời sẽ tha thứ khi ta tiếp nhận cứu Chúa Jesus. Ngài không bao giờ nhớ tội chúng ta nữa, và bạn cũng đừng để sự mặc cảm tự ti đoán xét mình, bởi Đức Chúa Trời đã tiếp lấy chúng ta. (Rô-ma 2:4)
F. CÂU HỎI VÀ CÁC ĐIỂM THẢO LUẬN.
1. Bạn có thể ăn năn thật lòng được không nếu ta chưa thật sự nhận thức rằng Đức Chúa Trời luôn nhìn thấy ta, cuộc sống và hành động của ta? tại sao?
2. Tại sao chỉ hối tiếc khi mình đã phạm tội thì vẫn chưa đủ?
3. Cuộc sống có nhàm chán và tẻ nhạt khi chúng ta ăn năn không? tại sao?
4. Trong thực tế cuộc sống, sự ăn năn thật đối với bạn là gì?
5. Nếu chúng ta bước theo sự chỉ dẫn của Chúa thay vì theo ý riêng mình, điều gì sẽ ngự trị lòng của chúng ta? (xem Cô-lô-se 3:15-17)
BÀI 5: HUYẾT CỦA CHÚA JESUS
A. KINH THÁNH NỀN TẢNG?
“Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng họ rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không ăn thịt của Con người, cùng không uống huyết Ngài, thì chẳng có sự sống trong các ngươi đâu. 54. Ai ăn thịt và uống huyết ta thì được sự sống đời đời; nơi ngày sau rốt, ta sẽ khiến người đó sống lại. 55. Vì thịt ta thật là đồ ăn, huyết ta thật là đồ uống. 56. Người nào ăn thịt ta và uống huyết ta, thì ở trong ta, và ta ở trong người. 57. Như Cha, là Đấng hằng sống, đã sai ta đến, và ta sống bởi Cha; cũng một thể ấy, người nào ăn ta, sẽ sống bởi ta vậy.” Giăng 6: 53-57
“Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta.” I Giăng 1:7
“Nhưng Đấng Christ đã hiện đến, làm thầy tế lễ thượng phẩm của những sự tốt lành sau nầy; Ngài đã vượt qua đền tạm lớn hơn và trọn vẹn hơn, không phải tay người dựng ra, nghĩa là không thuộc về đời nầy; 12. Ngài đã vào nơi rất thánh một lần thì đủ hết, không dùng huyết của dê đực và của bò con, nhưng dùng chính huyết mình, mà được sự chuộc tội đời đời. 13. Vì nếu huyết của dê đực bò đực cùng tro bò cái tơ mà người ta rưới trên kẻ ô uế còn làm sạch được phần xác thịt họ và nên thánh thay, 14. huống chi huyết của Đấng Christ, là Đấng nhờ Đức Thánh Linh đời đời, dâng chính mình không tì tích cho Đức Chúa Trời, thì sẽ làm sạch lương tâm anh em khỏi công việc chết, đặng hầu việc Đức Chúa Trời hằng sống, là dường nào. 15. Nhân đó, Ngài là Đấng trung bảo của giao ước mới, để khi Ngài chịu chết mà chuộc tội đã phạm dưới giao ước cũ, thì những kẻ được kêu gọi nhận lãnh cơ nghiệp đời đời đã hứa cho mình. 16. Vì khi có chúc thơ, thì cần phải đợi đến kẻ trối chết đã. 17. Chúc thơ chỉ có giá trị sau lúc chết, vì hễ kẻ trối còn sống thì nó không có quyền gì. 18. Ấy vậy, chính giao ước trước nào chẳng phải là không dùng máu mà lập. 19. Lúc Môi-se phán mọi điều răn của luật-pháp cho dân chúng, có lấy máu của bò con và dê đực, với nước, dây nhung đỏ tía và nhành ngưu tất rảy trên sách cùng trên cả dân chúng, 20. mà nói rằng: Nầy là huyết của sự giao ước mà Đức Chúa Trời đã dạy lập với các ngươi. 21. Đoạn, người cũng lấy huyết ấy rảy đền tạm cùng mọi đồ thờ. 22. Theo luật pháp thì hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được sạch: không đổ huyết thì không có sự tha thứ. 23. Vậy, nếu những tượng chỉ về các vật trên trời đã phải nhờ cách ấy mà được sạch, thì chính các vật trên trời phải nhờ của lễ càng quý trọng hơn nữa để được sạch. 24. Vả Đấng Christ chẳng phải vào nơi thánh bởi tay người làm ra, theo kiểu mẫu nơi thánh thật, bèn là vào chính trong trời, để bây giờ vì chúng ta hiện ra trước mặt Đức Chúa Trời. 25. Ấy chẳng phải là dâng chính mình Ngài nhiều lần, như thầy tế lễ thượng phẩm mỗi năm vào trong nơi rất thánh mà dâng huyết không phải là huyết mình; 26. bằng chẳng vậy, thì từ buổi sáng thế đến nay, Ngài đã phải chịu khổ nhiều lần rồi. Nhưng hiện nay đến cuối cùng các thời đại, Ngài đã hiện ra chỉ một lần, dâng mình làm tế lễ để cất tội lỗi đi. 27. Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét, 28. cũng vậy, Đấng Christ đã dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người; Ngài lại sẽ hiện ra lần thứ hai, không phải để cất tội đi nữa, nhưng để ban sự cứu rỗi cho kẻ chờ đợi Ngài.” Hê-bơ-rơ 9:11-28
“vì sanh mạng của xác thịt ở trong huyết; ta đã cho các ngươi huyết rưới trên bàn thờ đặng làm lễ chuộc tội cho linh hồn mình; vì nhờ sanh mạng mà huyết mới chuộc tội được.” Lê-vi ký 17:11
“vì biết rằng chẳng phải bởi vật hay hư nát như bạc hoặc vàng mà anh em đã được chuộc khỏi sự ăn ở không ra chi của tổ tiên truyền lại cho mình, 19. bèn là bởi huyết báu Đấng Christ, dường như huyết của chiên con không lỗi không vít, 20. đã định sẵn trước buổi sáng-thế, và hiện ra trong cuối các thời kỳ vì cớ anh em,” I Phi-e-rơ 1:18-20
B. HUYẾT CỦA CHÚA JESUS CÓ Ý NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI CHÚNG TA?
1. Chúng ta được cứu chuộc bởi huyết Ngài. Bạn được giải cứu khỏi cánh tay và quyền lực của ma quỷ (Cô-lô-se 1:13)
2. Qua huyết Chúa Jesus tất cả tội lỗi chúng ta được tha thứ nếu mình thật lòng tuyên xưng nó ra. Càng bước đi với Chúa Jesus, huyết Ngài càng tiếp tục tẩy rửa tội lỗi chúng ta. (I Giăng 1:7-9)
3. Chúng ta được xưng công bình qua dòng huyết của Chúa Jesus như thể chúng ta chưa từng phạm tội. Bạn được mặc sự công bình của Chúa (Rô-ma 5:9). Một người tin cậy vào Đấng Christ càng dễ trở nên người làm theo ý muốn Chúa chứ không là chính họ nữa (II Cô-rinh-tô 5:21)
4. Qua huyết Chuá Jesus, chúng ta bước vào sự hiện diện cuả Đức Chuá Trời bất cứ lúc nào, để nhận lãnh sự thương xót và giúp đỡ, đặc biệt là trong hoàn cảnh cần thiết. (Hê-bơ-rơ 10:19-20)
5. Chúng ta được nên thánh qua huyết cuả Chúa Jesus. Được biệt riêng cho Đức Chuá Trời. (Hê-bơ-rơ 13:12)
6. Bởi huyết của Chúa Jesus lương tâm cuả chúng ta được rữa sạch khỏi mọi nhơ nhuốc (guilt). Tâm Linh, tâm trí và thân thể chúng ta được tự do để hầu việc Chúa Jesus Christ (Hê-bơ-rơ 9:14; II Ti-mô-thê 1:7)
7. Do đó chúng ta chiến thắng vượt trên ma quỷ và đắc thắng chúng bởi huyết của Chiên Con và lời làm chứng của mình… (Khải-huyền 12 :11)
C. TẠI SAO LẠI LÀ HUYẾT?
Trong cựu ước, thầy cả thượng phẩm vào nơi chí thánh mỗi năm một lần để rải huyết của con sinh tế trước biểu tượng của sự hiện diện Đức Chuá Trời (hòm giao ước). Điều nầy chỉ là tạm thời của việc chuộc tội cho tuyển dân cuả Đức Chúa Trời, cho tất cả tội lỗi họ trong năm. (Lê-vi ký 17:11) giúp hiểu thêm về ý nghiã trọng đại của huyết.
Kinh thánh chép rằng: Vì sanh mạng của xác thịt ở trong huyết; Ta đã cho các ngươi huyết rưới trên bàn thờ đặng làm lễ chuộc tội cho linh hồn mình vì nhờ sanh mạng mà huyết mới chuộc tội được.
Có hai điểm cần lưu ý :
1. Huyết của sự hy sinh (hay của lễ) do sự cung ứng từ Thiên Thượng như lời đã chép: “Ta đã cho các ngươi”
2. Huyết dùng trong của lễ gọi là giá trả cho hành động chuộc tội hay giảng hòa được hiểu đơn giản là đền tội.
• Tội lỗi là một vấn đề và huyết là giải cứu chuộc cái mà để chuộc lại hay mua chúng ta lại từ hậu quả cuả tội lỗi là sự chết.
• Huyết trả một cái giá mà nhờ đó mà chấm dứt sự tấn công cuả tội lỗi.
D. LÀM THẾ NÀO HUYẾT CỦA CHÚA JESUS ẢNH HƯỞNG CUỘC SỐNG HẰNG NGÀY CỦA CHÚNG TA?
1. Chiến thắng sự nổi loạn:
Trong vườn Ghết-sê-ma-nê Chuá Jesus đã cầu nguyện: “Không theo ý con nhưng ý Cha được nên.”
Sự căng thẳng cuả cái Chết quá lớn ở trên Ngài khiến cho những mạch máu trên mặt Ngài vỡ ra hòa lẫn với mồ hôi rơi xuống đất như những giọt máu lớn. Những giọt máu ấy nói về một sự cứu chuộc đặc trưng, một sự cứu chuộc từ trong sự nổi loạn-vận hành trong tâm trí chúng ta chống lại ý muốn cuả Đức Chúa Trời. Từ A-đam cho đến con cháu của ông cứ tiếp tục làm theo ý riêng mình mà giẫm lên trên ý muốn cuả Đức Chúa Trời .
Khi Đức Chúa Jesus nguyện cầu như thầy cả thượng phẩm “Xin cho ý Cha được nên không theo ý con.” Ngài đang cầu nguyện trong vị trí cuả chúng ta, như là điều các thầy tế lễ làm, đại diện dân sự trước mặt Đức Chúa Trời. Trong lúc cầu nguyện đến nỗi đã đổ huyết để mua chuộc ý muốn chúng ta cho nên chúng ta cũng có thể nói: “Không theo ý con nhưng xin ý Cha được nên” (Not my will but yours be done).
2. Huyết cuả Chuá Jesus đổ ra bởi mão gai trên đầu Ngài:
Gai là biểu tượng về sự rủa sã cuả Đức Chúa Trời bởi cớ tội lỗi (Sáng-thế ký 3:18). Nó dược gắn vào Chúa Jesus khi Ngài chịu thương khó trên thập tự giá để mua chuộc chúng ta khỏi sự rủa sã cuả tội lỗi. Được mang trên trán Ngài như một biểu hiện của sự rủa sã, đó là chiếc mão gai. (Ma-thi-ơ 27:29). Điều nầy đã cho thấy Ngài đã mang lấy sự ruả sã trên chính Ngài. Huyết ở đây được đỗ ra để nói lên sự mua chuộc từ rủa sã của tội lỗi.
3. Huyết từ những vết thương do đòn roi:
Huyết chảy ra từ đằng sau lưng cuả Chúa Jesus Ê-sai 53:5 chép rằng: “Nhơn những lằn đòn cuả Ngài mà anh em được lành bệnh” Đây là sự chữa lành cho linh hồn, tâm trí và thể xác; thậm chí cho những thái độ và sự quan hệ của chúng ta.
Bệnh tật và đau buồn là kết quả của tội lỗi nhưng huyết cuả Chúa Jesus cứu chúng ta khỏi sự rủa sã của tội lỗi.
4. Huyết của Chúa Jesus đổ ra trên thập tự:
Huyết đã chảy ra từ chỗ mà những chiếc đinh đóng ghim chặt tay và chân Chuá trên thập tự giá. Huyết này có quyền năng và đủ để cứu chuộc chúng ta đời đời khỏi tội lỗi và sự phán xét cuả Đức Chuá Trời. (Rô-ma 8:1-2; Ê-phê-sô 2:8)
E. CÂU HỎI VÀ CÁC ĐIỂM THẢO LUẬN.
1) Tại sao Đức Chuá Trời lại chọn huyết như là một giá để đền tội?
2) Tại sao Chúa Jesus cần vượt qua nhiều vấn nạn trong 24 giờ trước khi Ngài hoàn toàn phó mạng sống mình? thảo luận.
3) Bạn nghĩ Chuá Jesus đã trãi qua những gì trong vườn Ghết-sê-ma-nê? Tại sao? (Lu-ca 22: 39-46)
4) Vì sao huyết của Chúa Jesus mở một con đường cho chúng ta được đến gần Đức Chuá Trời là Cha?
5) Vì sao chúng ta được nên thánh qua huyết của Chúa Jesus? (Hê-bơ-rơ 13:12)
6) Trong vườn Ê-đen, Đức Chuá Trời đã làm gì (chuộc lỗi –atone) cho tội lỗi đầu tiên của loài người?
BÀI 6: SỰ THA THỨ VÀ MỘT LƯƠNG TÂM TRONG SẠCH
Phần một: SỰ THA THỨ
A. KINH THÁNH NỀN TẢNG
“Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu. 6. Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối và không làm theo lẽ thật. 7. Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta. 8. Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta. 9. Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác.” I Giăng 1:5-9;
“Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.” Ê-phê-sô 4:32;
“Đừng đoán xét ai, thì các ngươi khỏi bị đoán xét; đừng lên án ai, thì các ngươi khỏi bị lên án; hãy tha thứ, người sẽ tha thứ mình. 38. Hãy cho, người sẽ cho mình; họ sẽ lấy đấu lớn, nhận, lắc cho đầy tràn, mà nộp trong lòng các ngươi; vì các ngươi lường mực nào, thì họ cũng lường lại cho các ngươi mực ấy.” Lu-ca 6:37-38;
“Theo luật pháp thì hầu hết mọi vật đều nhờ huyết mà được sạch: không đổ huyết thì không có sự tha thứ.” Hê-bơ-rơ 9:22;
“Vả, nếu các ngươi tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các ngươi. 15. Song nếu không tha lỗi cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha lỗi cho các ngươi.” Ma-thi-ơ 6:14-15;
“Khi các ngươi đứng cầu nguyện, nếu có sự gì bất bình cùng ai, thì hãy tha thứ, để Cha các ngươi ở trên trời cũng tha lỗi cho các ngươi.” Mác 11:25.
B. SỰ THA THỨ LÀ GÌ?
Đức Chúa Trời là sự sáng nên chúng ta bước đi trong sự sáng Ngài, nghĩa là bước đi trong sự thông công (giao hảo) với Ngài cũng như với các tín hữu khác. Nếu bước ra khỏi sự sáng của Đức Chúa Trời, nghĩa là bước vào sự tối tăm. Thật là nguy hiểm nếu sống trong sự tối tăm, bởi vì không ai biết mình sẽ đi về đâu cũng như sự thông công của chúng ta với Đức Chúa Trời cùng những tín hữu khác bị phá vỡ.
Đứng ngoài vòng kiểm soát của Đức Chúa Trời hoàn toàn là sự tối tăm. Đấy là lý do tại sao những người đã từng đứng trong sự sáng của Chúa khi bỏ Ngài thì dường như trở nên tăm tối hơn, thậm chí còn tệ hơn những người chưa từng biết chân lý của Đấng Christ !
Tuy nhiên, sự thông công đã từng gãy đỗ với Đức Chúa Trời có thể được phục hồi qua Chúa Jesus Christ là Đấng bào chữa nơi Đức Chúa Trời (I Giăng 2:1-2). Đấng bào chữa, hay luật sư của chúng ta sẽ biện hộ thay trường hợp của chúng ta ngay khi chúng ta cầu xin sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Ngài sẽ đến trước mặt Cha để bào chữa cho hoàn cảnh của chúng ta và phục hồi mối thông công giữa chúng ta với Đức Chúa Cha.
C. HUYẾT CỦA CHÚA JESUS
Không thể có sự tha thứ nếu không có sự đổ huyết (Hê-bơ-rơ 9:22).
Từ lúc luật pháp của Đức Chúa Trời ấn định rằng hình phạt cho tội lỗi chúng ta là sự chết (Ê-xê-chi-ên 18:4; Rô-ma 6:23). Đức Chúa Jesus, Đấng vô tội duy nhất chịu thương khó để cứu bạn ra khỏi tội lỗi và đem chúng ta lại gần Đức Chúa Trời (I Phi-e-rơ 3:18). Chỉ qua huyết của Chúa Jesus chúng ta mới được rửa sạch khỏi tội lỗi. Chúng ta được xưng công bình bởi huyết của Đấng Christ.
Chúng ta hoàn toàn bất lực không thể đạt đến sự công bình, nhưng Chúa Jesus đã đến để trả giá mạng sống mình vì chúng ta tại thập tự giá. Sự công bình của Ngài đã đổi lấy chúng ta. Thập tự giá là cử chỉ lớn nhất của tình yêu Đức Chúa Trời (Rô-ma 5:8)
D. TẠI SAO PHẢI THA THỨ ?
Tình yêu thương luôn luôn tha thứ, Chúa Jesus đã thể hiện điều nầy khi Ngài bị treo trên thập tự (Lu-ca 23:34). Tâm tình tha thứ là điều cần có trong tấm lòng bạn. Chúa Jesus dạy nếu không hết lòng tha thứ anh em mình thì Cha trên trời cũng không tha thứ cho chúng ta (Ma-thi-ơ 6:5-15)
• Hãy xem Ê-phê-sô 4:32
• Hãy Xem Lu-ca 17:3-4.
- Nếu chúng ta không tha thứ, Đức Chúa Trời sẽ không phóng thích sự tha thứ.
- Chỉ có sự tha thứ mới làm sạch ống dẫn của đức tin hành động trong lòng chúng ta.
- Sự tha thứ là điều kiện tiên quyết trước khi chúng ta muốn đến với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện (Mác 11:25)
- Nếu chúng ta cho phép những lời tiêu cực hiểm độc hoặc những hành vi tổn thương bởi phía người khác ăn mòn chúng ta , đó là lúc bạn đã mở cửa cho Sa-tan bước vào cuộc đời mình.
- Chúng ta có thể được phóng thích khỏi điều nầy chỉ khi nào chịu tha thứ cho người khác cho dù bạn đúng hay người khác sai cở nào. Rồi chính Chúa sẽ đến để phục hồi và chữa lành chúng ta. Sự cay đắng là vũ khí của Sa-tan, cho nên đừng bao giờ để nó có cơ hội châm rể .
Phần hai : MỘT LƯƠNG TÂM TRONG SẠCH
A. KINH THÁNH NỀN TẢNG.
“Họ tỏ ra rằng việc mà luật pháp dạy biểu đã ghi trong lòng họ: Chính lương tâm mình làm chứng cho luật pháp, còn ý tưởng mình khi thì cáo giác mình, khi thì binh vực mình.” Rô-ma 2:15
“nên chúng ta hãy lấy lòng thật thà với đức tin đầy dẫy trọn-vẹn, lòng được tưới sạch khỏi lương tâm xấu, thân thể rửa bằng nước trong, mà đến gần Chúa.” Hê-bơ-rơ 10:22
“Mục đích của sự răn bảo, ấy là sự yêu thương, bởi lòng tinh sạch, lương tâm tốt và đức tin thật mà sanh ra.” I Ti-mô-thê 1:5
“cầm giữ đức tin và lương tâm tốt. Mấy kẻ đã chối bỏ lương tâm đó, thì đức tin họ bị chìm đắm:” I Ti-mô-thê 1:19
“Cũng vì cớ ấy, nên tôi vẫn gắng sức cho có lương tâm không trách móc trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt loài người.” Công-vụ 24:16.
B. LƯƠNG TÂM LÀ GÌ VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG THẾ NÀO?
Lương tâm là điều bên trong thúc giục ta làm gì đó theo như mình suy nghĩ là đúng hay tránh làm điều nào đó mình nghĩ là sai.
Lương tâm là tiếng nói bên trong làm chứng cho chúng ta, cáo buộc ta nếu nó nghĩ chúng ta sai; hoặc sẽ bảo vệ chúng ta nếu chính lương tâm báo mình biết rằng điều đó đúng (Rô-ma 2:15)
Nói một cách khác, lương tâm chúng ta giống như một chiếc chuông báo động mà Đức Chúa Trời dùng để thức tỉnh chúng ta về một điều gì đó có chiều hướng sai trật.
Lương tâm của chúng ta cũng giống như chiếc máy vi tính (computer). Nó chỉ hoạt động với các lệnh đúng nếu chúng ta nhập vào các dữ liệu đúng. Đức Chúa Trời muốn chúng ta lập trình (reprogramme) cho lương tâm của mình để nó làm quen và hành động theo chỉ thị hay ý muốn của Đức Chúa Trời khi chúng ta quyết định điều gì đó. Điều nầy sẽ hạn chế những sự bất tuân chúng ta và giúp chúng ta làm theo những gì Chúa muốn.
Chúng ta cần để Đức Chúa Trời thay đổi lương tâm mình bởi lời Ngài và làm mới lại tâm trí của chúng ta.
C. RANH GIỚI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
• Một người với đức tin và lương tâm yếu đuối cần có những luật lệ bên trong mình để biết dừng lại khi làm những điều sai. Điều nầy có nghĩa là họ đã sắp đặt những ranh giới mà chúng không hề thuộc về Đức Chúa Trời, thật ra những sự kiềm chế đó cũng giúp cho họ. Lương tâm huấn luyện & giúp cho họ ngay trong những ranh giới đó.
• Người có một lương tâm mạnh mẻ dựa vào Lời Đức Chúa Trời không cần đến những sự kiềm chế trong cuộc sống mình, họ đã có một lương tâm đúng theo chuẩn mực ranh giới của Đức Chúa Trời. Đó là nguồn trợ giúp lớn lao để bước đi cách vâng phục với Chúa. Thật ra nó giúp chúng ta sống bởi đức tin (Rô-ma 14:23)
Hãy nhớ rằng lương tâm chúng ta là chiếc chuông cảnh tỉnh của Đức Chúa Trời, nếu nó rung lên thì bạn cần phải xem Đức Chúa Trời có chỉ ra bất cứ điều gì cho bạn có biểu hiện không đúng.
D. ĐƯỢC GIẢI PHÓNG BỞI SỰ TÁI SANH
Chúng ta bắt đầu với bài học môn đồ ”Được giải phóng bởi sự tái sanh” Đọc Cô-lô-se 1:13 trong sách nổi tiếng này chúng ta có sự mô tả kỳ diệu nhất về Đấng Christ trong toàn bộ Kinh Thánh. “Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất yêu dấu Ngài” Được tái sanh là được giải thoát khỏi quyền lực của bóng tối. Khi một người được tái sanh, Đức Thánh Linh đặt người đó “trong Đấng Christ.” “Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu.” (I Giăng 1:5) Ở trong Đấng Christ là được giải thoát khỏi sự tối tăm. Nơi cư ngụ của tạo vật mới là trong Đấng Christ. “Trong Ngài chúng ta hoạt động, chúng ta thở, chúng ta có bản chất thực của chúng ta.” Vì vậy “trong Đấng Christ” không có sự tối tăm, không có tội lỗi, không có ma quỷ.
Phao-lô viết cho các thánh đồ ( đó là những tạo vật mới), ở thành Rô-ma, Ông viết “anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi” (Rô-ma 6:18). Đức Thánh Linh đặt anh em trong Đấng Christ. Anh em không phải làm việc gì ngoài vệc ăn năn và tin vào Phúc-âm. “Đều đã chịu phép báp-tem chung một Thánh Linh để hiệp một thân.” Phao-lô nói trong I Cô-rinh-tô 12:13 rằng: chúng ta có nhiều việc để làm khi ở lại đây. Đức Thánh Linh đặt tôi ở đây, nhưng ở trong Giăng15:14 Ngài phán rằng chúng ta phải ở trong Đấng Christ. Trong Giăng 15:6 cho biết kết cuộc khủng khiếp của những người không ở trong Đấng Christ. “Nếu ai chẳng cứ ở trong ta…”, thì người đó sẽ bị ném ra ngoài. Đức Chúa Cha ném người đó ra ngoài, Chúng ta cùng xem lại Giăng 15:6. “Nếu ai cứ chẳng ở trong Ta thì phải ném ra ngoài, cũng như nhánh nho; nhánh khô đi, người ta lượm lấy quăng vào lữa, thì nó cháy.”
Câu 7 của chương này cho chúng ta biết có một phần thưởng tuyệt vời, nếu chúng ta cứ ở trong Đấng Christ, Hãy lắng nghe “Ví bằng các ngươi cứ ở trong Ta, và những Lời Ta cứ ở trong các ngươi, hãy cầu xin mọi điều mình muốn, thì sẽ được đều đó.” Kể toàn bộ câu truyện trong Thi-thiên 91. Đây là một trong những tác phẩm vĩ đại trong Kinh Thánh.
“1. Người nào ở nơi kính đáo của Đấng Chí Cao, sẽ được hằng ở đưới bóng của Đấng Toàn Năng. 2. Tôi nói về Đức Giê-hô-va rằng: Ngài là nơi nương náu tôi, và là đồn luỹ tôi; cũng là Đức Chúa Trời tôi, tôi tin cậy nơi Ngài. 3. Ngài sẽ giải cứu ngươi khỏi chổ kia, và khỏi dịch lệ độc hại. 4. Ngài sẽ lấy lông Ngài mà che chở ngươi, và dưới cánh Ngài, ngươi sẽ đợc nương náu mình; sự chân thật Ngài là cái khiêng và là cái can của ngươi, 5. Ngươi sẽ chẳng sợ hoặc sự kinh khiếp ban đêm, hoặc tên bay ban ngày, 6. hoặc dịch lệ gây ra trong tối tăm, hay là sự tàn diệt phá hoại đương lúc trưa. 7. Sẽ có ngàn người sa ngã bên ngươi và muôn người sa ngã bên hữu ngươi; song tai họa sẽ chẳng đến gần ngươi. 8. Ngươi chỉnh ấy mắt nhìn xem, và lấy sự báo trả cho kẻ ác. 9. Bởi vì ngươi đã nhờ Đức Giê-hô-va làm nơi nương náu mình, và Đấng chí cao làm nơi ở mình, 10. nên sẽ chẳng có tai họa gì xảy đến ngươi, cũng chẳng có ôn dịch nào tới gần trại ngươi. 11. vì Ngài sẽ ban lệnh cho Thiên Sứ Ngài, bảo gìn giữ ngươi trong các đường lối Ngài. 12. Thiên sứ sẽ nâng ngươi trên bàn tay mình, e chơn ngươi vấp nhằm hòn đá chăng 13. ngươi sẽ bước đi trên sư tử và rắn hổ mang; còn sư tử và con rắn, ngươi sẽ giày đạp dưới chân. 14. bởi vì người trìu mến ta, nên ta sẽ giải cứu người; Ta sẽ đặt người lên ngôi cao, bởi vì người biết danh ta. 15. Người sẽ kêu cầu ta, ta sẽ đáp lời người; Trong sự gian truân, ta sẽ ở cùng người, Giải cứu người, và tôn vinh người. 16. Ta sẽ cho người thỏa lòng sống lâu Và chỉ cho người thấy sự cứu rỗi của ta” (Thi-thiên 91)
Bây giờ mỗi lời hứa được trình bày trong Thi-thiên này toàn bộ đều phụ thuộc vào sự nương cậy của anh em ở nơi kín nhiệm với Đấng Tối Cao. Nơi kín nhiệm đó là Chúa Giê-xu. Khi chúng ta ở trong Đấng Christ, Đức Chúa Trời kể những kinh nghiệm của Đấng Christ như là của chúng ta. Trong Đấng Christ, tất cả các câu hỏi liên quan đến cuộc sống và sự thánh khiết đều sẽ được trả lời. Anh em không phải khuyên bảo tạo vật mới- không có sự thất vọng trong Đấng Christ, nan đề của chúng ta bắt đầu khi chúng ta quay trở lại với tình trạng cũ, khi chúng ta để cho bản chất xác thịt sống lại. “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng không lìa khỏi nó”.
Với tư cách là một Mục sư, có biết bao người đã đến với tôi và nói: Hãy cầu nguyện cho con của tôi, chúng đã quay lưng với Đức Chúa Trời. Tôi không hiểu vì sau, tôi đã nuôi dạy chúng trong Hội thánh, tôi đã dạy chúng lẽ công bình. Ma quỷ đã chỉ vào điều này và cáo buộc sự trái ngược trong Lời Đức Chúa Trời.
Tôi đồng ý với anh em rằng Đức Chúa Trời đang nói về sự huấn luyện và dạy dỗ tạo vật mới, không phải bản chất cũ của A-đam. Nếu chúng ta dạy dỗ tạo vật mới ở trong Đấng Christ và cách ở trong Đấng Christ, khi người đó trưởng thành và về già anh ta sẽ không quay trở lại với thế gian,với xác thịt, với ma quỷ. Trong Đấng Christ tất cả đều là sự sáng, ngoài Đấng Christ mọi vật đều ối tăm.
Sa-tan là Chúa của hệ thống tế gian tối tăm này. Hắn điều khiển mọi vật ngoài Đấng Christ. Cách đây không lân, chính phủ cho khảo sát nhóm Teen Challenge. Họ không muốn biết liệu những lời công bố về chương trình này thật sự có kết quả hay không. Chương trình cay nghiện ma tuý của chính phủ chỉ thành công 2%, vì vậy họ đã chi 5 triệu đô-la để thử nghiệm chương trình của Teen Challenge đạt được 86%. Đều khến cho nó thành công là Chúa Giê-xu Christ. Nhưng tiếc chính phủ đã loại bỏ chương trình này.
Mọi vật trong vũ trụ rồi sẽ kết thúc hoặc ở trong Đấng Christ hoặc là ở địa ngục. Không có điều gì, không có gia đình, không có công việc nào, không có tiền bạc, không có sự bảo vệ nào đối với những gì ở ngoài Đấng Christ. Chúng ta hãy làm rõ điều này: Sa-tan chỉ có thể ăn trộm, cướp giết, và huỷ phá những phần này của anh em còn ở ngoài Đấng Christ. Không có đều gì khác. Khi Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta “đừng để cho ma quỷ nhơn dịp.” (Ê-phê-sô 4:27) Điều này có nghĩa là “đừng để cho ma Quỷ có đất sống.” “cái tôi” là đất của ma quỷ. “Đừng để cho ma quỷ nhơn dịp”. Khi anh em cho phép linh không tha thứ, linh ganh tị, ghen tuông, tà dâm (tính hiểm độc), sự ghét bỏ còn tồn tại tức là anh em đã ban đất cho ma quỷ và không ai đuổi được chúng ra khỏi xác thịt đó. Anh em đã ban đất cho nó và nó đã ở đó cho đến khi anh em cắt bỏ đất đó. Đó là thành lũy của ma quỷ đã chiếm lấy những gì anh em có được. Trong Kinh Thánh chép rằng “hãy chống trả ma quỷ…” (Gia-cơ 4:7) Kinh Thánh còn nhấn mạnh hơn “ ớ Sa-tan, hãy lui ra đằng sau ta” (Ma-thi-ơ 16:23), “chớ phạm tội, chớ căm giận.” (Ê-phê-sô 4:26). Đều đó có nghĩa là “đừng để cho các chi thể của anh em trở thành công cụ của sự không công bình.”, nói cách khác, hãy vứt bỏ lãnh thổ của ma quỷ. Nếu anh em sống trên đất của ma quỷ, trong thế giới của nó, nó sẽ thống trị anh em. Không có gì hoặc người nào trong thế gian này tránh khỏi đều đó. Nhưng Sa-tan không thể chạm được những gì ở trong Đấng Christ và hắn điều khiển thế giới ngoài Đấng Christ, đây là quy luật. Và kẻ thù tệ hại nhất của chúng ta không phải là ma quỷ, đó chính là bản chất xác thịt của chúng ta. Nó là kẻ thù của Đức Chúa Trời.
Chúa Giê-xu nói về bản chất đó và tất cả những ai đi trong nó, “Các ngươi bởi cha mình là ma quỷ…” (Giăng 8:44). Kinh Thánh nói về chi tiết này rất rõ, vì Đức Chúa Trời trở thành cha của anh em, Ngài cũng là Đức Chúa Trời và Chúa của anh em. Điều này cũng vậy đối với ma quỷ. Sa-tan là cha của người nào thì cũng bình thường và là Chúa của người đó. Trong Kinh Thánh chép rằng Sa-tan “là thần của thế gian”, như vậy Hội thánh thật là “Thân Thể của Đấng Christ”, thì “bản chất xác thịt” là thân tể của Satan. Hội thánh là Thân Thể của Đấng Christ và là phương tiện để bày tỏ tất cả những mục đích thiết thực. Sa-tan cũng có một thân thể để bày tỏ chính nó. Nếu chúng ta tiếp tục đóng đinh xác thịt, đóng đinh chính chúng ta thì Sa-tan không thể hiện được gì thông qua chúng ta. Nó đã đến với Chúa Giê-xu mà không tìm được gì ở trong Ngài.
Một trong những công việc của xác thịt là giết người. Đức Chúa Trời nói về Sa-tan “hắn là kẻ sát nhân”. Để nó có thể giết người thì nó phải thực hiện thông qua bản chất thích hợp với nó. Dù cho đó là một tôn giáo thuộc về xác thịt hay xác thịt thế gian thì tất cả điều chung một ruột với nhau cả. Cái này có thể tinh tế hơn cái kia một chút, nhưng tất cả đều là ma quỷ. Xác thịt nào ngồi trên ghế trong Hội thánh vào ngày chúa nhật và thực hiện thủ tục thờ phượng theo thường lệ và sau đó sống cho chính mình vào ngày thứ hai, đó chỉ là sự mở rộng của cộng đồng như Sô-đôm, không có sự khác biệt nào cả. Cho dù đó là tôn giáo hay đó là gì đi chăng nữa thì đó là điều đáng ghét đối với Đức Chúa Trời. Tội lỗi không phải là nan đề đối với các tội nhân. Tội nhân có thể bỏ tất cả tội lỗi mà vẫn xuống địa ngục. Tội lỗi là một vấn đề đối với các thánh đồ. Tạo vật mới chẳng bao giờ cần sự giải thoát, anh ta được dựng nên trong sự công bình và các sự thánh sạch của lẽ thật (Ê-phê-sô 4:24). Anh ta có bản chất của Đức Chúa Trời.
Giăng viết “ai xin ra trong Đức Chúa Trời thì chẳng phạm tội, vì hột giống của Đức Chúa Trời ở trong người, và người không thể phạm tội đợc hết, vì đã sanh bởi Đức Chúa Trời” ( I Giăng 3:9). Ông cũng có viết trong câu 8 “kẻ nào phạm tội là thuộc về ma quỷ.” Đức Chúa Trời muốn nói rằng, khi tội lỗi có trong đời sống của Cơ-đốc nhân, khi đó Cơ-đốc nhân đang đi trong bản chất của Sa-tan, tạo vật cũ. Anh em không giải thoát một người ra khỏi xác thịt mà chính anh em phải đóng đinh xác thịt hoặc làm cho nó chết. Trong I Giăng 3:6 “Ai ở trong Ngài thì không phạm tội…” Khi chúng ta gọi xác thịt là ma quỷ và tổ chức những buổi lễ giải cứu để đuổi ma quỷ thì chỉ làm cho con người biện luận về tội lỗi của họ. Họ đổ lỗi cho Đức Chúa Trời.
Tôi đã thấy những người giảng đạo cầu nguyện cho những người có thói quen hút thuốc, họ la, hét và ra lệnh cho ma quỷ Ni-cô-tin hãy lui ra. Đó không phải là ma quỷ, đó là xác thịt. Khi ông trưởng lý về mổ xẻ, Dr koop nói rằng bệnh ung thư xảy ra là do hút thuốc, ba mươi triệu người đã tránh xa khỏi ma quỷ. Không, anh em không phải thoát khỏi ma quỷ. Đó là xác thịt. Anh em không đuổi nó đi, mà anh em lìa bỏ nó. Ở trong Đấng Christ tức là phải bước đi trong Thánh Linh. Phao-lô viết cho Hội thánh Ga-la-ti 5:16 “hãy bước đi trong Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt.”
Ở trong Đấng Christ là luôn luôn sống trong sự đắt thắng. Nếu chúng ta không ở trong Ngài, chúng ta phải biết rằng sự gian ác, sự bướng bỉnh của chúng ta sẽ chia cắt chúng ta khỏi Đức Chúa Trời, Đấng đắt thắng. Nhà tiên tri vĩ đại nói rằng: “Nhưng, ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Đức Chúa Trời; và tội lỗi các ngươi đã che khuất mặt Ngài khỏi các ngươi, đến nỗi Ngài không nghe các ngươi nữa.” (Ê-sai 59:2) Anh em hiểu rằng Eâsai không nói với những tội nhân. Ông nói với dân Y-sơ-ra-ên, dân của Đức Chúa Trời trong Cựu Ước. Tội lỗi của họ đã làm họ xa cách với Đức Chúa Trời, đến nỗi Ngài không nghe họ nữa. Đức Chúa Trời phán với anh em “Hãy đến gần Đức Chúa Trời thì Ngài đến gần anh em…” (Gia-cơ 4:8)
Tôi gặp nhiều rắc rối với Kinh Thánh này.Tôi gần như đang tưởng tượng. Tôi cố gắng tưởng tượng ra Đức Chúa Trời đang nằm trên chiếc ghế trường kỷ, tôi quỳ xuống và hình dung ra chính tôi đang được kéo gần đến với Ngài. Đức Chúa Trời phán với tôi, con không bị chia cách với ta bởi không gian nhưng chính sự gian ác của con đã làm con xa cách.Nếu con muốn đến gần ta, hãy lìa bỏ những gì không thuộc về con và ta sẽ đến gần con. Bước đi trong Thánh Linh là bước đi trong sự vâng lời “Bất kỳ điều gì Ngài phán với anh em, hãy thực hiện.” Đây không phải là chủ nghĩa hợp pháp, đây là cuộc sống- bước đi trong Thánh Linh.
Anh em hãy dành thời gian để đọc trong Giê-rê-mi 11: 1-11, Đức Chúa Trời đang giải quyết với Y-sơ-ra-ên, dân của Ngài. Ca-na-an là hình bóng về sự chiến thắng của chúng ta. Đức Chúa Trời đã dung thứ thái độ của dân Y-sơ-ra-ên trong suốt bốn mươi năm trong đồng vắng, thử thách thái độ của họ, cất điều tội lỗi ra khỏi lòng họ. Ngài chưa bao giờ đem tội lỗi ra khỏi sứ, nhưng Ngài ra lệnh dân sự của Ngài không được trộn lẫn với dân sự ở đó. Cũng một thể ấy, đối với Hội thánh, “ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian” (Giăng 8:23). Mọi rắc rối đã nảy sinh từ sự pha trộn. Sự nỗi loạn cũng là một nan đề. Nếu chúng ta không vâng lời Ngài thì Ngài không phải là chủ quyền năng ở trong sự chọn lựa. Duy chỉ các Cơ-đốc nhân có ý chỉ tự do. Các tội nhân không thể đến gần Đức Chúa Trời ngoại trừ Cha kéo họ đến.
Thập Tự Giá đối phó với xác thịt. Đức Chúa Trời ra lệnh hãy từ bỏ cái tôi, vác Thập tự giá, đi theo Chúa Giê-xu. Ân điển của Đức Chúa Trời dạy dỗ chúng ta từ bỏ sự không tin kính, những đam mê thế gian để trông đợi Chúa Giê-xu. Chúng ta trông đợi bằng sự sống. Khi chúng ta sống trông đợi Ngài sẽ đến với chúng ta. Khi chúng ta từ bỏ sự không tin kính cũng như những dục vọng của thế gian và trông đợi Chúa Giê-xu thì Ngài sẽ đến. Đây là ân điển mà Đức Chúa Trời ban cho trong đời sống chúng ta.
Để tiếp tục cho loạt bài các môn đồ, tôi muốn trình bày với anh em rằng, người tín đồ được tái sanh là môn đồ. Môn đồ được sanh cách trọn vẹn. “Được dựng nên trong sự công bình và thánh khiết.” Chính những sự chọn lại của anh ta trong cuộc sống quyết định sự kết cuộc của mọi sự việc đối với anh ta. Mỗi lần tôi đối diện với sự cám dỗ, cũng giống như mỗi lần anh em đối diện với sự cám dỗ. Tôi không ngụ ý rằng sự cám dỗ giống hệt như nhau dù đó là dục vọng, hoặc là sự kêu ngạo, hay bất kỳ điều gì đi nữa thì sự chọn lựa cũng như nhau. Tôi sẽ ở trong cái tôi của mình hay là ở trong Đức Chúa Trời? Đó là sự lựa chọn. Ở trong Ngài có nghĩa là cầu xin Đức Chúa Trời cho tôi ở trong Đấng Christ, Ngài kể kinh nghiệm của Đấng Christ như là của tôi. Đối với Đức Chúa Trời đó là một công việc đã hoàn tất mặc dầu Ngài phải thể hiện điều đó trong sự thực hành, sự thánh khiết qua cuộc sống hằng ngày. Nếu tôi ở trong Đấng Christ và Lời Ngài ở trong tôi, tôi có thể xin điều tôi muốn và nó sẽ được ban cho. Ở trong Ngài tức là luôn luôn ở trong những sự chọn lựa mà tôi chọn.
BÀI HỌC PHỤ: MÔN ĐỒ CAN ĐẢM
Hãy đọc Lu-ca 9:23,24 “23. Ngài lại bảo tất cả các môn đệ :Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, hằng ngày vác thập tự giá mình và theo Ta. 24. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; nhưng ai hy sinh tính mạng vì Ta, thì sẽ được cứu.”
Trong sách Phúc-âm khác, Ngài nói “Nếu ai muốn làm môn đồ Ta thì hãy tự bỏ mình đi….” Hội thánh là một cơ quan sinh sản sự sống. Sự sống không phát sinh từ Hội thánh, nhưng Hội thánh phát sinh từ sự sống. Công việc của Hội thánh không phải là sanh ra những người qui đạo, mà là tạo ra các môn đồ. Chúng ta đề cập đến môn đồ hóa và những dấu hiệu của môn đồ. Phải biết rằng khi Hội thánh gia tăng, thế giới cũng gia tăng. Để chữa lành xã hội, anh em phải chữa lành cho Hội thánh. Đây là sự kiện lịch sử. Chưa có xã hội nào hoặc nền văn hoá nào sụp đổ khi Hội thánh chưa bị sa ngã. Khi những gì mà Đức chúa Trời đặt để làm trung tâm của xã hội, của dân sự của Ngài, của Hội thánh Ngài ngưng thể hiện cho Đức Chúa Trời, khi đó toàn bộ nền văn hóa sẽ bị sụp đỗ. Mỗi Nhà Truyền Giáo từ Phao-lô cho đến những nhà truyền giáo hiện tại là những người có tác động đến thế hệ của mình cho Đức Chúa Trời , thì họ đều đề cập đến cái mà chúng ta gọi là Hội thánh. Sứ-đồ Phao-lô đã viết mười bốn sách Tân Ước. Mỗi sách ông viết để điều chỉnh những điều sai trật trong từng Hội thánh. Dĩ nhiên ông đem đến một sự khải thị, trong mỗi thư tín ông viết đều có chỉ ra một số điều sai trật trong Hội thánh. Điều này nói lên vài điều quan trọng về giáo lý.
Để đặt Hội thánh trong một trật tự anh em phải bắt đầu với những nền tảng. Kết quả chỉ được biết trong thế hệ thứ hai. Anh em không chỉ nói “Các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được.” (Ma-thi-ơ 7:16) và đoán xét một người về cách người đó cư xử vào lúc đó. Đây không phải là điều Đức Chúa Trời muốn nói. Thông điệp này là Hội thánh sẽ được biết qua những người qui đạo mà Hội thánh tạo ra. Hội thánh ngày hôm nay sẽ được đánh giá bởi những người qui đạo thành lập Hội thánh ngày mai. Vì vậy chúng ta quan sát người mà Kinh Thánh gọi là môn đồ. Trong lời của Đức Chúa Trời chúng ta thấy rằng dấu hiệu chính của một môn đồ là sự trung thành.
Bây giờ chúng ta nói về dấu hiệu của sự can đảm. Sự can đảm là một dấu hiệu cho biết ai là môn đồ thật của Chúa. Trong Ma-thi-ơ 10:33, Chúa Jêsus đang nói về những người thiếu phẩm chất can đảm này. Ngài phán “Ai chối Ta trước mặt thiên hạ, thì Ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha Ta ở trên trời.” Nếu ngươi xưng Ta ra trước mặt thiên hạ, Ta cũng sẽ xưng họ trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong câu 39 Ngài phán “Ai gìn giữ sự sống mình thì sẽ mất; còn ai vì cớ Ta mất sự sống mình, thì sẽ tìm lại được.” Đó là dấu hiệu của một môn đồ. Chúa Giê-xu nói “Nếu ai làm môn đồ Ta, trước hết hãy từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta.”
Để làm người ngay thẳng thì cần có sự can đảm. Trong thời đại của sự bội tín thì cần phải có can đảm để trở thành người trung tín, để đi với Đức Chúa Trời và nói những điều về lẽ phải. Đối với mỗi một cá nhân, để sống thánh khiết trong một thế hệ gian ác và đầy tội lỗi này thì cần nhiều sự can đảm hơn bất kỳ việc gì khác. Đây là thời kỳ mà sự căng thẳng đang áp chế trên Cơ-đốc nhân. Sự cám dỗ ngày càng khó nhận ra. Điểm yếu của Hội thánh được thể hiện là không có khả năng để đương đầu với sự cám dỗ.
Khi Hội thánh bị thách thức về những niềm tin, Hội thánh lại buông trôi niềm tin của mình để tránh sự đối đầu với thế gian. Những Cơ-đốc nhân đầu tiên chưa bao giờ lo lắng về việc thế gian đang nghĩ gì về họ. Họ có một sứ điệp để rao giảng và họ đã rao giảng sứ điệp đó. Công chúng có đứng về họ hay không thì cũng không quan trọng. Họ biết rằng họ đúng và sự tin chắc mình là đúng đã làm cho họ mạnh dạn để đứng vững. Họ không bao giờ đặt Chúa Jêsus trên vũ đài thi đấu với những thần khác. Họ bước ra từ phòng cao công bố với các tôn giáo khác rằng “không có sự cứu trong một ai khác cả, vì dưới trời không có Danh nào khác được ban cho loài người để chúng ta nhờ Danh ấy mà được cứu” (Công-vụ 4:12). Họ không tranh cạnh với ai. Họ chỉ nói với người nghe một cách đơn giản rằng “Đây là con đường, hoặc anh em đi trong đó hoặc bị hư mất.” Nếu thế gian gọi họ là những con người có đức tin mù quáng thì cũng không sao, họ biết điều họ tin là đúng, và theo lời Chúa họ hiến dâng hết mình cho sứ điệp này.
Đời sống và những hành động của những Cơ-đốc nhân đầu tiên này là đặc trưng cho đức tin. Họ biến nơi tra tấn trở thành những bục giảng, nhà tù trở thành Hội thánh, đánh bại những người hung bạo ở thành Ê-phê-sô. Họ bị đánh đập, tra tấn, đuổi ra khỏi nhà nhưng họ vẫn rao giảng Phúc-âm và làm đảo lộn cả một đế chế. Sự thiếu can đảm trong thế hệ này là một lời nhận xét đáng buồn. Thời đại chúng ta là thời đại tuân theo những quy ước. Chúng ta đã trãi qua cái gọi là “phong trào Chúa Jêsus.” Những người trẻ tuổi tự cho là mình đang quyết liệt chống lại những quy ước của xã hội, tuy vậy mỗi một người trong số họ đều là một bản sao của người khác. Họ nói giống nhau, ăn mặc giống nhau, và đi chung nhóm với nhau.
Tôi nói với anh em rằng chúng ta đang phục vụ một Đức Chúa Trời không theo lề thói Ngài đã kêu gọi chúng ta trở nên khác biệt. Ngài kêu gọi chúng ta công bố một lẽ thật mà nó sẽ làm cho mọi người thay đổi. Người nào sợ chết thì không có quyền sống. Với tư cách là Cơ-đốc nhân, đến khi nào chúng ta tin rằng mục tiêu mà chúng ta phục vụ vĩ đại hơn mục tiêu của chúng ta thì chúng ta sẽ tiếp tục cần sự can đảm để đương đầu với cuộc sống thực tiễn. Không ai biết được giá trị về cuộcï sống nếu như họ chưa hiến dâng điều gì xứng đáng trong cuộc đời của họ cho một mục đích nào đó. Người ta nói về những Cơ-đốc nhân đầu tiên “Họ yêu, đến nỗi phó thác sự sống họ cho đến chết.”
Mặc dù là những người bị lừa dối, nhưng chín trăm người đi theo Jim Jone đến British Guiana vẫn tin rằng con đường của họ là con đường duy nhất của sự sống, họ sẽ giữ lấy chính sự sống của họ còn hơn là đánh mất. Họ đã bị lừa dối, tuy nhiên họ đã chứng minh cho thế giới thấy sự cam kết mà con người có thể có khả năng thực hiện. Nếu chúng ta có thể nhìn thấy. Đấng Christ và mục tiêu của Ngài như Đức Chúa Trời muốn chúng ta nhận biết Ngài thì cũng vậy chúng ta có thể thực hiện một kết ước như thế.
Đức Chúa Trời muốn Đấng Christ thực hữu trong đời sống của chúng ta chứ không như Jim Jone đối với những linh hồn bị lừa gạt. Chúa Jêsus phải là Chúa của chúng ta đến mức độ chúng ta nhận thức được rằng Ngài quan trọng đối với chúng ta hơn là chính cuộc sống của chúng ta. Đó là ý nghĩa của câu nói người nào sợ mất sự sống mình thì sẽ chết. Cuộc sống thật là đáng thương đối với người nhút nhát. Chúng ta sống trong thời đại của sự sợ hãi, với những song sắt trên các cửa ra vào và những nơi kinh doanh giống như các pháo đài. Tôi không bao giờ tin rằng xã hội chúng ta đạt được hết những mục tiêu mà nó đặt ra. Đó là ngày của vô số các tên sát nhân, hầu như là ma quỷ chiếm hữu toàn bộ thế giới. Điều này tạo ra nổi sợ hãi khiến cho con người núp sau những chấn song của các cánh cửa.
Thà chết hơn là sống một cuộc sống như vậy. Thà là sống một năm tự do hơn là một ngàn năm gặp nhiều trở ngại trốn tránh ma quỷ, cả cuộc đời bị săn đuổi bởi sự sợ hãi. Nhiều người quá yếu đuối không thể sống theo điều họ tin tưởng. Là những người lạc lỏng, không thích nghi và luôn thất bại. Thật là đáng buồn để nói rằng bạn sẽ thấy sự sợ hãi ở trong Hội thánh nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác. Người ta đi đến nhà thờ nói về Chúa Jêsus tuyệt vời biết bao, sau đó tiếp tục thực hiện công việc nhưng lại sợ hãi không nói về danh Ngài. Thế gian hà hơi thở đầy mùi bia vào mặt chúng ta, áp đặt những trò vui đùa bẩn thỉu trên chúng ta, và chúng ta thì lại che dấu những điều mà Đức Chúa Trời đã làm trên đời sống chúng ta.
Chúng ta là những môn đồ của Chúa, chúng ta cần phải đứng lên, tuyên bố chúng ta là ai. Nói với họ rằng: “Tôi là Cơ-đốc nhân, tôi thuộc về Đức Chúa Trời.” Để làm điều này đòi hỏi cần phải có nhiều can đảm để thực hiện hơn là dùng nắm tay để đánh một người nào đó. Chúa Jêsus nói: “Nếu ai vả má bên phải ngươi, hãy đưa má bên kia luôn cho họ.”
Điều đó đòi hỏi sự can đảm nhiều hơn là đánh trả người khác. Người sợ hãi sống theo những điều anh ta tin là người không thích nghi được với cuộc sống. Đức Chúa Trời tìm kiếm chất lượng chứ không phải số lượng. Sự thật, trong cuộc sống đó là khi đến càng gần Thập tự giá bao nhiêu thì ở đó càng có ít người bấy nhiêu. “Khi Ngài đến trên đồi Ga-li-lê, bẻ bánh cho hàng ngàn người ăn thì có hàng ngàn người đến xem công việc của tôn giáo, nhưng khi Ngài đi đến Thập tự giá và nói với mọi người rằng: Các ngươi sẽ không có được sự sống trong mình cho đến chừng nào các ngươi ăn thịt của Con Người và uống huyết Người,” (Giăng 6:53). Họ đã rời Ngài và bỏ Ngài lại một mình.
Họ nói một cách thiết thực: Chúng tôi không đến đây nghe chuyện vớ vẩn này. Chúng tôi không đến đây để nghe ông nói những điều chúng tôi phải chịu đau đớn. Chúng tôi đến đây để xem phép lạ. Họ quay đi và rời bỏ Ngài. Ngày Lễ Ngũ Tuần không xuất hiện nhờ sự quảng cáo trên những trang đầu của cột báo Jerusalem Post hay trên 300 đài truyền hình. Nó xuất phát từ sự đối diện của Đức Chúa Trời với mười hai môn đồ. Ngài nhào nắn cảm xúc nhào nắn mỗi tham vọng cho đến khi Ngài phá vỡ nó. Họ nói “Hãy cho con ngồi ở bên tay hữu của Thầy.” Ngài nói, “Đó không phải điều Ta có thể ban cho.” Ngài kéo họ ra từ phòng thu thuế, phòng khám, và kéo ra từ những con thuyền đánh cá và dẫn họ đi. Khi Ngài rời họ, họ cảm thấy trống vắng, tan vỡ, bị bầm dập và chính từ những công cụ tan vỡ đó mà lần đầu tiên Lễ Ngũ Tuần đã xuất hiện. Cũng thông qua công cụ đó mà Ngài sẽ đến lần thứ hai.
Đức Chúa Trời tìm kiếm phẩm chất chứ không tìm kiếm số lượng. Ngài thay đổi thế gian bằng bàn tay của con người. Không phải là do đám đông tôn giáo to lớn, mềm mại và yếu đuối đem đến một sự khác biệt gây ra nhưng đó là phẩm chất của tín đồ, khi anh ta thực hiện tất cả thì anh ta sẽ đứng vững. Cho dù sư tử gầm rống, sông chảy, lửa cháy anh ta vẫn đứng vững với thắt lưng lẽ thật của Đức Chúa Trời.
Khi Martin Luther bị triệu tập phải xuất hiện trước Diet of Worm. Dân sự van nài ông đừng đi. Họ nói với ông, “Họ sẽ trói ông vào cột để thiêu sống.” Câu trả lời của ông là, “Tôi không quan tâm đến việc họ có dựng lên một hỏa đài từ Wittenburg đến Rô-ma hay không, nhưng tôi có thể bước vào đó với lời ngợi khen Ngài đã mua linh hồn tôi đến Thập tự giá.” Điều duy nhất cần phải biết rằng anh em là đúng, sau đó bênh vực cho lẽ phải. Đức Chúa Trời sẽ đứng về phía những con người như vậy. Đức Chúa Trời không bao giờ sử dụng những con người không có quyết định dứt khoát, họ không có chỗ trong vương quốc của Đức Chúa Trời. Nói một cách ngắn gọn “Hoặc có Jêsus hoặc là không có gì cả.” Sách Phúc-âm hoặc là có giá trị hoặc là không có giá trị gì cả. “Tôi đứng ở đây, tôi không thay đổi gì khác cả,” Luther nói những lời này trong giờ phút đen tối nhất của ông và chính thời điểm này ông viết bài hát “Đồn Lũy Đầy Quyền Năng là Đức Chúa Trời Chúng Ta.”
Đức Chúa Trời muốn chúng ta đến nơi mà tất cả các đường biên giới bị chia cắt và chúng ta tin rằng sách Phúc-âm là lời đáp cho chúng ta. Chúng ta không chỉ có lẽ thật, mà chúng ta còn là lẽ thật. Chúng ta đang ở giữa một thế hệ gian ác và phạm tội đang đi sai đường, hãy nói với họ rằng: “Đây là đường đi, anh em hãy đi vào đó.” Đức Chúa Trời đang kêu gọi các môn đồ can đảm. Ngài không sử dụng những người hay lay động. Đức Chúa Trời cần những người lính.
Phao-lô đã dẫn Giăng Mác đi cùng trong chuyến đi truyền giáo. Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, Giăng, Mác đã thối lui. Trong chuyến đi kế tiếp, Ba-na-ba muốn Phao-lô dẫn Giăng Mác đi cùng. Phao-lô đã từ chối. Ông nói, “Tôi đã dựa vào cây sậy đó một lần và nó đã gẫy, tôi không dẫn anh ta nữa đâu.” Giăng Mác “đã cầu nguyện” và trở thành một người lính, nhưng ông phải chứng minh điều đó cùng Phao-lô. Phao-lô nói lý do ông từ chối dẫn Giăng, Mác theo “Tôi không thể sử dụng người không có quyết định dứt khoát.”
Anh em phải quyết định dứt khoát tâm trí của anh em. “Đó là một người phân tâm, không quyết đoán được việc gì.” (Gia-cơ 1:8) Anh em phải xác quyết được rằng mình sẽ không bị lay động. Trong Hê-bơ-rơ có viết “Nếu trong tâm trí họ nghĩ về nơi họ ra đi, họ sẽ ra trở lại nơi đó.” Phao-lô nói “Đê-ma đã rời khỏi tôi, vì yêu thế gian này.” Đê-ma sẽ không bao giờ lìa bỏ thế gian, ông ta đã mơ tưởng đến thế gian và ông đã trở lại cùng nó.
Nếu anh em vẫn còn những khát vọng trong hệ thống thì anh em cuối cùng cũng sẽ trở lại với hệ thống đó. Đức Chúa Trời muốn sự sống của anh em và để Ngài có được sự cố gắng thì anh em phải mất nó. Đức Chúa Trời không tìm kiếm các thánh đồ trong ngày Chúa nhật. Ngài không cần những con người chỉ “khẩn cầu” khi họ gặp nan đề. Ngài muốn anh em nói chuyện với Ngài. Trong II Sử-ký 7:14, Đức Chúa Trời nói “Và nhược bằng dân sự Ta, hạ mình xuống cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta….” Đó không phải sự lặp lại “hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta.” Dân ngoại cũng cầu nguyện, Hồi giáo cầu nguyện, người Hindu cầu nguyện. Tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời là tìm kiếm sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, không chỉ để nhận điều gì đó từ Ngài mà còn phải thông công với Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự tiện lợi. Ao ước của Ngài không dành cho những người ủng hộ Ngài trong ngày Chúa nhật và ngày thứ hai lại sống như ma quỷ. Ngài muốn con người mỗi lúc mỗi ngày hãy để Ngài chiếm hữu. Có một người thì không vui thỏa về những gì Đức Chúa Trời làm cho họ, nhưng có một người thì vui thỏa về chính Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không bị bắt buộc là phải có anh em, nhưng anh em phải có Đức Chúa Trời. Tội lỗi là dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng ta nói về sự ham mê thế gian. Chúng ta cố tìm lời lẽ bình luận về loại quần áo nào đó, nơi nào anh em đi. Sự đam mê thế gian bị ảnh hưởng bởi một hệ thống sai trật.
Cách mà ma quỷ giữ anh em rời xa khỏi Hội thánh là bằng cách đưa Bà Ngoại đến thăm anh em vào ngày Chúa-nhật, khi đó anh em sẽ giống như một người thế gian nếu anh em không muốn đi đến Hội thánh. Nếu sự thăm viếng của Bà Ngoại đối với bạn quan trọng hơn nhà của Đức Chúa Trời, khi đó anh em bị ảnh hưởng bởi hệ thống sai trật. Chúng ta ở thế gian để làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Bất kỳ điều gì khác chúng ta làm chỉ là phương tiện để thực hiện điều mà Ngài đã kêu gọi chúng ta làm. Ý muốn của Đức Chúa Trời là để chúng ta trở thành một ông cụ qua đó Ngài có thể cư ngụ. Chúng ta ở đây để được đổ đầy Đức Thánh Linh và bất kỳ nơi nào chúng ta đi, Đức Chúa Trời cũng ở đó.
Tôi phải có sự can đảm với sự xác quyết là sẽ bày tỏ Đức Chúa Trời. Bấy giờ cho dù con người cần Đức Chúa Trời hay không thì cũng không quan trọng, tôi phải giúp họ biết về Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta lo sợ bị tách biệt với họ, thì khi đó chúng ta không có giá trị đối với Đức Chúa Trời. Nếu anh em là Cơ-đốc nhân thì anh em khác với họ. Thế gian chẳng có gì giống Đức Chúa Trời và nếu anh em là một Cơ-đốc nhân thật thì họ sẽ biết rằng anh em rất khác biệt. Nếu anh em lo sợ mình khác biệt với họ thì anh em sẽ bị chết cùng với đám đông. Đức Chúa Trời sẽ lìa bỏ anh em. Câu nói “Nhập gia tùy tục” là một nguyên tắc nghèo nàn của cuộc sống. Dầu khi bạn ở đâu thì hãy làm theo những điều mà Đấng Christ đã làm. Hãy can đảm trong sự tin quyết, đứng lên và rao giảng về Đấng Christ bất cứ nơi nào anh em đến.
Tất cả tội lỗi là dấu hiệu của sự yếu đuối. Sự nói láo là sự cố gắng che dấu những khuyết điểm trong tính cách của anh em. Lời nguyền rủa chứng minh khả năng yếu kém của anh em trong việc tự bày tỏ chính mình. Thật vậy “Hành động của một người say rượu là ý định của người đó khi tỉnh táo”. Người say rượu không có can đảm để làm điều anh ta muốn làm khi không có rượu. Phao-lô nói “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.” (Phi-líp 4:13). Tôi có thể yêu, tôi có thể tin tưởng, tôi có thể đứng vững và tôi trở nên trung tín nhờ Chúa Jêsus Christ là Chúa.
Trãi qua các thế kỷ thì đã có hàng triệu môn đồ thật đã qua đời. Họ có thể bị trói cột ở các cột để hỏa thiêu, bị cưa ra từng mảnh, chống lại những thú dữ đơn giản bởi vì họ làm chứng về Chúa Jêsus. Nếu họ muốn tránh khỏi những cực hình đó họ chỉ cần chối bỏ Đấng Christ. Tôi đã có mặt ở Scốt-len vào năm 1978, cách đó không xa nơi tôi rao giảng là một nơi được gọi là đồi của những người tuận đạo. Ba trăm ngàn người đã bị giết trong vòng 29 năm, đơn giản chỉ vì họ từ chối thừa nhận rằng Đức Giáo Hoàng là đầu Hội thánh. Những Cơ-đốc nhân này xếp thành hàng dài từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn. Họ có thể nhìn thấy máu của những người bị tàn sát chảy xuống đồi. Khi họ nhích đến gần nơi hành hình, họ có thể nghe tiếng búa. Trong lúc đó có một linh mục của tôn giáo bị ma quỷ chiếm hữu đang nói với những người đang đứng trong hàng “Hãy từ bỏ những điều các ngươi đang tin, hãy thừa nhận Đức Giáo Hoàng là đầu Hội thánh và bước ra khỏi hàng.” “Họ đã phó sự sống họ cho đến chết.” Họ thà chế còn hơn là khước từ những điều họ đã tin cậy. Họ đã tin vào điều gì đó và điều đó có ý nghĩa hơn cả cuộc sống của họ.
Họ có thể cứu lấy sự sống của họ, nhưng họ biết nếu họ giữ lấy mạng sống thì họ sẽ mất nó. Dầu cho ở bất kỳ thế hệ gian ác như thế nào đi chăng nữa, Đức Chúa Trời không cần điều gì khác ngoài người chiến sĩ, môn đồ dũng cảm. Không phải đó là một tình yêu tuyệt vời sao!
Trong ngày của Nô-ê khi thế gian đã trở nên bại hoại đến nỗi Đức Chúa Trời phải hủy diệt bằng một trận lụt. Điều Đức Chúa Trời cần là một chiến sĩ rao giảng. Nô-ê là một trong những diễn giả có hiệu quả nhất ở trên thế gian này. Đứng giữa một thế hệ đầy sự gian ác và ngang bướng, ông đã công bố Phúc-âm về sự giải cứu cho tất cả mọi người nghe. Khi Ni-ni-ve bại hoại đến nỗi con kênh kênh cũng phải bịt mũi lại khi bay ngang qua đó, điều mà Đức Chúa Trời cần ở nơi đó là một con người can đảm. Giô-na vào thành Ni-ni-ve nói rằng: “Còn bốn muơi ngày nữa, Đức Chúa Trời sẽ phá hủy thành này” (Giô-na 3:4). Tức khắc có sáu trăm hai mươi ngàn người đã ăn năn mặc bao gai và ngồi trong bụi tro. Điều Đức Chúa Trời cần để thay đổi tình trạng đó là một chiến sĩ sẽ đứng dậy và rao giảng điều mà anh ta tin.
Vị trí của người rao giảng không phải là diễu hành trên đường phố hay vận động những nhà chính trị, vị trí của họ đó là bục giảng đối với Hội thánh. Tội lỗi trong Hội thánh đủ để làm những người trưởng thành trong Chúa nôn mửa. Hãy thanh tẩy Hội thánh, hãy để Hội thánh đứng lên trong sự công bình của Đức Chúa Trời, và Hội thánh sẽ quở trách sự tối tăm. Hãy để Hội thánh dũng cảm trở nên khác biệt trong xã hội này và Đức Chúa Trời sẽ thay đổi mọi việc. Điều Đức Chúa Trời luôn luôn cần là một người dám đứng mũi chịu sào. Khi Sô-đôm trở nên gian ác đến nỗi khiến cho Đức Chúa Trời không còn sự chọn lựa nào khác hơn là hủy diệt nó, Ngài thực hiện lời hứa với Áp-ra-ham vì cớ Lót. Đức Chúa Trời phán “Nếu ngươi tìm thấy mười người công bình, Ta sẽ chẳng diệt thành” (Sáng-thế ký 18:32). Áp-ra-ham không phải cứu một người Sô-đôm. Điều mà ông phải làm là phải tìm mười người công bình hầu cho Đức Chúa Trời sẽ ngự ở nơi đó.
Hãy để Hội thánh đại diện cho Đức Chúa Trời và Ngài sẽ giải thoát cả dân tộc. Nhưng nếu chúng ta ở trong bi kịch trộn lẫn giữa cái thật và cái giả, giữa xác thịt và Thánh Linh Đức Chúa Trời sẽ cho phép sự phán xét xảy ra trên chúng ta như Ngài cho phép xảy ra ở Đông Âu. Hội thánh thật ở Đông Âu cũng như Ngài cho phép Nê-bu-cát-nết-sa đến thành Giê-ru-sa-lem. Lý do là để phá vỡ đồn lũy của tôn giáo giả.
Đức Chúa Trời không yêu nước Mỹ hay yêu bất cứ quốc gia nào nhiều hơn yêu Đông Âu hay Liên xô. Hội thánh phải công bình hoặc là Đức Chúa Trời sẽ phán xét đất nước. Nếu trong bất kỳ thời đại nào nếu Đức Chúa Trời cũng có thể tìm thấy một người cùng đứng với Ngài và vì Ngài, thì dầu khi xã hội đó đã đến giai đoạn không thể quay trở lại được thì Ngài cũng có thể và sẽ cứu chuộc xã hội đó vì cớ người cùng đứng với Ngài. Những môn đồ thật biết rằng những gì mà Đức Chúa Trời đặt ở trung tâm của nền văn hóa thì Hội thánh của Ngài sẽ tác động lên tất cả. Biết rõ điều này, họ không còn lo sợ khi nhấn mạnh vào trọng tâm của vấn đề.
Ân điển rẻ mạt được bán ở chợ giống như những món đồ chơi rẻ tiền, nghi lễ tôn giáo, sự tha thứ tội lỗi, lễ báp-tem, và sự hợp nhất đức tin, được ném ra ngoài với một giá bèo. Hội thánh hiện đại giảng về một Thiên Đàng không có địa ngục, Tiệc thánh mà không cần tra xét mình và tín đồ trong Hội thánh không có bông trái của sự công bình. Theo đuổi trào lưu ân điển rẻ mạt này, Hội thánh từ chối rao giảng cho toàn bộ hội đồng của Đức Chúa Trời để tránh xúc phạm những linh hồn thuộc về thế gian này là những người sẽ ban vinh dự cho Hội thánh vào mỗi buổi sáng Chúa nhật và tuyên bố là những môn đồ của Đức Chúa Trời, tuy nhiên họ sống giống ma quỷ vào ngày thứ hai.
Hội thánh phải nói với những người như vậy, anh em không thể sống giống như ma quỷ và đòi hỏi Đức Chúa Trời đồng công với anh em. Các môn đồ không sợ hãi khi lên tiếng chống lại sự nhạo báng đó. Sự cống hiến của họ không phải là để đi đến thành công nhưng là cống hiến cho Chúa Jêsus Christ.
Ân điển được tượng trưng như của cải không bao giờ cạn kiệt của Hội thánh, từ đó Hội thánh ban những ơn phước mà không cần hỏi những câu hỏi hay ấn định những giới hạn. Chúng ta dám in những sách chỉ chứa đựng những Lời hứa của Đức Chúa Trời và gọi đó là Kinh Thánh. Không ai có quyền công bố lời hứa nào của Đức Chúa Trời bị trích ra khỏi mạch văn. Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đang tìm kiếm phẩm chất chứ không phải tìm kiếm số lượng. Để trở thành môn đồ của Chúa trong thế hệ đầy sự gian ác và tội lỗi này là điều rất can đảm. Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta trở thành những người can đảm.
Để đứng về phía lẽ thật thì cần nhiều can đảm hơn để làm sự dũng cảm để làm bất cứ điều gì khác. Chắc chắn ở thời điểm này, các môn đồ phải rất can đảm để đứng lên vì lẽ thật ở giữa bầu không khí của giáo hội, nơi mọi thứ đang hình thành nên Hội thánh. Nơi mà lễ Ngũ Tuần mới đang hòa nhập vào những tôn giáo khác và làm giảm đi những giáo lý thật của Đức Chúa Trời. Bây giờ, những điều gì mà nó nói đến chỉ một ân điển rẻ mạt, môn đồ can đảm phải đứng lên chống lại điều này. Ân điển rẻ mạc đang bày bán trên thị trường giống như những món đồ chơi rẻ tiền. Những nghi lễ tôn giáo, sự tha thứ tội lỗi, lễ Báp-tem, sự hợp nhất đức tin, được bán ra với giá rẻ mạc. Hội thánh hiện đại giảng về một thiên đàng không có địa ngục, tiệc thánh không cần phải tra xét mình, các thành viên trong Hội thánh không có trái công bình, và theo đuổi trào lưu của ân điển rẻ mạc, Hội thánh từ chối công bố toàn thể sự khuyên bảo của Đức Chúa Trời, vì sợ xúc phạm những linh hồn thuộc thế gian là những người làm giảm giá trị của ân điển.
Những người này sẽ ban vinh dự cho Hội thánh vào sáng Chúa nhật, tự cho là môn đồ của Đức Chúa Trời, tuy nhiên họ lại sống giống như ma quỷ vào ngày thứ hai. Bây giờ anh em và tôi phải có lòng can đảm để đứng lên chống lại điều này, Hội thánh phải nói với những người như vậy rằng, anh em không thể sống như ma quỷ mà lại đòi hỏi Đức Chúa Trời đồng công với anh em. Các môn đồ không sợ hãi để cất tiếng chống lại sự nhạo báng. Sự cống hiến của họ không phải là để đi đến sự thành công nhưng là cống hiến cho Chúa Jêsus Christ.
Ân điển được tiêu biểu là của cải không bao giờ cạn kiệt của Hội thánh, từ đó Hội thánh ban phước không cần hỏi những câu hỏi hoặc ấn định những giới hạn.
Chúng ta dám in những cuốn sách chỉ chứa đựng những lời hứa của Đức Chúa Trời và gọi đó là Kinh Thánh. Không ai có quyền công bố lời hứa của Đức Chúa Trời khi lời hứa đó bị lấy ra khỏi mạch văn.
Ví dụ: Trong Xuất Ê-díp-tô ký 15:26 có câu “Vì ta là Đức Giê-hô-va Đấng chữa bệnh cho ngươi”, vậy Đức Chúa Trời là Chúa của con người hay Đấng chữa lành cho con người mà không vâng lời phần đầu của câu đó. Ngài phán rằng: “Nếu ngươi chăm chỉ nghe lời GIÊ-HÔ-VA ĐỨC CHÚA TRỜI ngươi, làm sự ngay thẳng trước mặt Ngài, lắng tai nghe các điều răn và giữa mọi luật lệ Ngài, thì ta chẳng giáng cho ngươi một trong các bệnh nào mà ta giáng cho xứ Ê-díp-tô, vì ta là Đức Giê-hô-va, Đấng chữa bệnh cho ngươi.”
Anh em không có quyền trích dẫn ra phần cuối của câu đó, anh em phải trích dẫn toàn bộ câu Kinh Thánh đó. Nếu anh em không vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài không còn là Chúa của anh em nữa, và Ngài sẽ không chữa lành cho anh em. Ân điển rẻ mạc không ấn định số lượng, không đặt trách nhiệm về sự vâng lời trên những tín hữu. Ân điển rẻ mạc cho rằng chỉ cần đến tiếp nhận Chúa Jêsus làm Đấng cứu rỗi của anh em rồi sống theo cách nào mà anh em thích. Quyền làm chủ của Đấng Christ là sự chọn lựa. Chúng ta tin rằng bởi bản chất của ân điển thì giá đó đã được trả trước, và bởi vì nó đã được trả, mọi thứ đều miễn phí.
Đây là thông điệp đang được vang ra trong giờ này. Ân điển rẻ mạt giống như một giáo điều hay nguyên tắc, có nghĩa là sự tha thứ tội lỗi được rao giống như lẽ thật tổng quát. Tình yêu của Đức Chúa Trời được dạy như là những giả định hoặc những khái niệm của Cơ-đốc nhân về Đức Chúa Trời. Những giả định hay những khái niệm đó là bản chất về sự sùng bái, thần tượng. Chúa Jêsus nói tình yêu thì lớn hơn điều mơ hồ mà thế gian thường nói đến “Nếu các ngươi yêu mến ta, thì giữ gìn các điều răn ta.” (Giăng 14:15). Đó là tình yêu. Bản chất của sự sùng bái thần tượng là tưởng tượng ra Đức Chúa Trời là như thế nào và sau đó hành động theo như vậy. Sự phát triển tri thức đối với những giả định này qua con người được xem như là tất cả những gì cần thiết để đảm bảo sự tha thứ tội lỗi. Khi giảng dạy như vậy thì thế gian tìm thấy một ân điển rẻ mạc để bao che tội lỗi của thế gian.
Một người có thể rao giảng chống lại bất kỳ điều gì và công chúng sẽ đứng về phía anh ta, nhưng nếu để anh ta nói chống các tôn giáo thì sẽ có sự phản đối kịch liệt. Tôi đã bị ném ra khỏi đài truyền hình, một vài đài truyền hình thuộc tôn giáo, bởi vì tôi trình bày một lẽ thật: “Đức Chúa Trời không chấp nhận sự pha trộn.” Anh em không thể pha trộn hệ thống Ngũ Tuần với hệ thống tôn giáo công giáo La-mã và cho rằng Đức Chúa Trời sẽ hài lòng.
Giăng nói, Đức Chúa Trời ghét đường lối sai trật. Khi anh em nói chống lại cùng tôn giáo giả, anh em đang đối phó với con “bò thiêng liêng” của thế gian và nếu anh em rao giảng chống lại điều đó anh em sẽ thấy rằng tự mình rước lấy điều rắc rối. James Robinson giảng chống lại tình dục đồng giới tính trên một kênh truyền hình ở Dallas và họ đã đuổi ông. Dân chúng, những diễn giả và các Hội thánh điền kín toàn bộ trang báo của Dallas bằng hàng ngàn chữ ký. Những người này gởi một thông điệp đến đài truyền hình rằng chúng tôi sẽ không xem chương trình của các ông nếu các ông không đem James Robinson trở lại đài truyền hình. Đài truyền hình phải đưa ông ta trở lại làm việc.
Anh em có thể rao giảng chống lại tình dục đồng giới và những người sẽ đứng lên cùng anh em. Tuy nhiên, nếu anh em nói chống lại tôn giáo giả và anh em sẽ là người cô độc nhất trong thành phố. Cảm tạ Đức Chúa Trời, họ đã đứng lên khi họ đã quyết định. Để đứng lên chống lại ân điển rẻ mạt bị bán ngày hôm nay cần phải can đảm nhiều hơn là đứng lên chống lại tình dục đồng giới.
Mỗi người đều được tái sanh. Lắng nghe họ giảng về nó. Một số tuyên bố rằng có 60 triệu tín đồ tái sanh ở Mỹ. Tại sao? Vì chúng ta ở trong thời đại hoàng kim. Có thể có 60 triệu người đi đến Hội thánh mỗi tháng một lần, nhưng tái sanh lại là việc hoàn toàn khác. Một người được tái sanh là một lực lượng chính trên thế gian. Anh ta là một tạo vật mới. Đấng Christ ở trong người đó. Anh em không thể có 60 triệu người của Đấng Christ trong một quốc gia nếu không thấy sự giám sát về điều gian ác. Sự thật là, trong hơn 2,3 thập kỷ gần đây xã hội đã đi xuống địa ngục nhanh hơn bất kỳ thời điểm nào trong lịch sử, tuy nhiên ngày nay cũng có những tôn giáo hơn trước kia.
Theo khảo sát của tạp chí Reader’s Digest (một trong mười người) đã trở thành người có tình dục đồng giới hay ít nhất bị lưỡng tính trong 20 năm gần đây. Cùng một lúc đó, chúng ta bị tấn công dồn dập bởi tôn giáo. Việc phát thanh về tôn giáo ở Los Angeles trong vòng bảy ngày thì có thể phát ra lượng thông tin nhiều hơn bất cứ đài truyền thanh của nước nào phát trong vòng 6 tháng. Nó đến qua thư từ, qua những giấy dán, radio, ti-vi, tuy nhiên lại không có sự giảm sút về tình trạng tội lỗi. 50% các cuộc hôn nhân kết thúc bằng sự ly dị. Chúng tôi cho đẻ non 2 triệu đứa bé một năm. Sự nghiện ma túy đã len vào trường trung học. Tội ác gia tăng và tuổi của người phạm tội đang trở nên thấp dần. Những người bị quỷ ám đi nghênh ngang trên các đường phố của chúng. Đấy là lúc chúng ta giải quyết về vấn đề chính và đó chính là tôn giáo.
Nếu chúng ta muốn thấy sự phục hưng, chúng ta phải đứng về lẽ thật. Việc đứng về lẽ thật sẽ tự động khiến tôi đối đầu với sự lừa dối đảm bảo cho thế gian một giá rẻ mạt để bao phủ tội lỗi của thế gian. Sự lừa dối này ban cho sự cứu rỗi mà không cần ăn năn và không cần giao ước thật sự để giải thoát khỏi tội lỗi. Tôi biết những diễn giả cũng uống rượu. Đối với họ không có gì sai trật khi uống rượu. “Làm sao chúng ta, những người đã chết vì tội lỗi có thể sống trong tội lỗi? Đức Chúa Trời đã cấm!” Khi anh em nói chống lại điều đó, anh em phát hiện ra rằng đây không phải là sứ điệp phổ biến nhất. Đám đông sẽ không chạy để nghe sứ điệp đó. Khi anh em đặt thập tự giá đúng chỗ của nó, đám đông bắt đầu thưa dần. Nhưng, nếu chúng ta muốn thấy được quyền năng của Đức Chúa Trời hành động trong đời sống của chúng ta và muốn thấy sự giải cứu đến, thì chúng ta phải xem lại Kinh Thánh. Anh em không thể vừa sống như ma quỷ vừa có Đức Chúa Trời đồng công (Vừa làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi ma môn nữa).
Ân điển rẻ mạt dẫn đến việc chối bỏ lối hằng sống của Đức Chúa Trời, chối bỏ sự hiện thân của Đấng Christ. Ân điển rẻ mạt nghĩa là chỉ phán xét tội lỗi chứ không phán xét tội nhân. Ân điển rẻ mạt không phải là một loại tha thứ tội lỗi có thể giải phóng chúng ta khỏi những công việc vất vả của tội lỗi. Hãy xem lại những gì mà chúng ta công bố là đã được cứu chuộc bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Không có gì thay đổi trên đời sống của anh em cả. Một đức tin không thay đổi anh em, thì vô nghĩa đối với Đức Chúa Trời.
Chỉ có Lời của Đức Chúa Trời là sắc bén đủ để cắt lấy linh hồn và chạm đến tâm linh “Lời của Đức Chúa Trời là Lời sống? Linh nghiệm, sắc hơn gươm hai lưỡi thấu vào đến đỗi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng” (Hê-bơ-rơ 4:12) Ân điển rẽ mạt đang giảng về sự tha thứ không cần ăn năn. Nếu chỉ tiếp nhận Chúa Jêsus làm Đấng Cứu Rỗi cá nhân của bạn thì chưa hẳn là được tha thứ vì hoàn toàn không có sự tha thứ nếu không có sự ăn năn. Chúng ta hãy xem lại điều này một chút, không có sự tha thứ nếu không có sự ăn năn. Anh em phải từ bỏ điều anh em làm để đến với Đấng Christ.
Khi Giăng Báp-tít đến rao giảng về sự ăn năn, ông biến bờ sông Giô-đanh thành con đường đông đúc của thế gian. Người ta đến từ khắp mọi miền với câu hỏi. “Chúng tôi phải làm gì để được cứu?” Báp-tít đã nói thẳng.
Đối với quân lính ông nói “Đừng hà hiếp, đừng phỉnh gạt ai hết, nhưng hãy bằng lòng về lương hướng mình” Đối với người thâu thuế Giăng nói, “chớ cân lường thêm….” Đối với những lãnh đạo tôn giáo, ông nói: “Hỡi dòng dõi rắn lục, ai đã dạy các ngươi tránh khỏi cơn thạnh nộ ngày sau? Thế thì hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn” (Lu-ca 3:7).
Vua Hê-rốt ngồi trên chiếc xe ngựa làm bằng vàng lắng nghe người đến từ đồng vắng này và rồi vua hỏi một câu, “Còn đối với vua thì sao?” Giăng nhanh chóng nạp vào “Súng Phúc-âm” với điều răn thứ bảy và chỉ ngay vào Hê-rốt: “Đừng làm điều trái pháp luật để cưới vợ em mình” (Mác 6:18). Nó trị giá cả mạng sống của ông. Phải can đảm để trở thành một môn đồ. Ông phải sẵn sàng ban cho con người một câu trả lời và câu trả lời đó phải là lời Đức Chúa Trời.
Khi Cơ-đốc giáo mở rộng ra khắp nơi trong những ngày đầu tiên, Hội thánh càng ngày càng trở nên bị trần tục hóa. Sự nhận biết về giá trị ân điển của Đức Chúa Trời mờ đi và bị biến mất. Thế gian bị Cơ-đốc giáo hóa và ân điển trở nên tài sản chung. Bấy giờ thì sự cải chính xảy ra, Đức Chúa Trời đã đưa Martin Luther lên để phục hồi lại ân điển thánh khiết qua Phúc-âm. Ông là một tu sĩ, tất cả đều trong kế hoạch của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã dạy dỗ ông.
Ông là một thành viên trong hệ thống công giáo La-mã. Ông đã bỏ mọi thứ để theo Đấng Christ, nhưng Đức Chúa Trời đã làm tan vỡ niềm hy vọng của ông. Ngài cho Luther biết rằng đi theo Đấng Christ không phải là thành tựu hoặc công lao của một số người được chọn, nhưng mạng lệnh thánh đối với tất cả Cơ-đốc nhân không có sự phân biệt. Mạng lệnh của Đức Chúa Trời rằng mỗi người đàn ông, hoặc đàn bà được sanh bởi Đức Chúa Trời, phải theo Đấng Christ. Sự cố gắng của Luther để trốn tránh thế gian thật ra cũng chỉ là một hình thức tinh vi của việc ham mến thế gian. Trong tu viện ông khám phá rằng đời sống ở tu viện chính nó là một thế giới trong một hình thức khác. Thế gian, tu viện đang đang đè nghiền ông, và Luther bám chắc lấy ân điển.
Ân điển ban cho ông là một ân điển quí giá. Nó phá vỡ toàn bộ sự tồn tại của ông. Điều răn của Chúa Jêsus phải thống nhất với sự vâng lời trọn vẹn trong đời sống và nghề nghiệp hằng ngày của ai đó. Anh em không phải trốn khỏi thế gian và đi trong những lễ nghi tôn giáo. Anh em đối diện với con người trên đường chính của thế gian với tư cách là một người ngoan đạo, người thánh, sống ngay thẳng giữa một thế hệ gian ác và tội lỗi. Cơ-đốc giáo không phải là một vấn đề về môi trường, nó là điều gì đó bên trong môi trường. Trên con đường chính của thế gian chúng ta phải chứng minh ra đời sống Cơ-đốc nhân. Sự xung đột giữa đời sống của Cơ-đốc nhân và đời sống của thế gian là sự xung đột gay cấn nhất. Đó là sự xung đột tay đôi trực tiếp giữa Đấng Christ và thế gian, và cuộc xung đột đó không thể hòa hợp được.
Bấy giờ, trong thời kỳ của Luther, sự phán xét tội nhân trong thế gian đã thoái hóa thành sự phán xét tội lỗi thế gian. Thật là buồn khi nói như vậy , nhưng thế giới Ngũ Tuần đã rơi vào cùng một cái bẫy, con người xưng nhận Đấng Christ và tiếp tục đời sống cũ. Con người bây giờ được cứu bởi một công thức, bởi một cái bắt tay hay là qua sự báp-tem bằng nước. Ngày nay chúng ta có Lễ Ngũ Tuần không cần đến thập tự giá. Người nói tiếng lạ nhưng chưa bao giờ được tái sanh. Có vài người dạy người khác phải nói gì, đây là điều hầu như phổ biến ngày nay.
Nếu chúng ta là những môn đồ của Chúa, thì chúng ta phải đứng lên chống lại trào lưu đó. Sự báp-tem trong Đức Thánh Linh có ý nghĩa nhiều hơn là dạy người ta cách nói tiếng lạ. Tiếng lạ là kết quả của Đức Thánh Linh. Anh em có thể nói ngôn ngữ do con người tạo ra không cần Đức Thánh Linh nhưng anh em không thể được đầy dẫy thánh linh mà không nói tiếng lạ. Phép lạ không phải là việc tôi nói tiếng lạ nhưng phép lạ đó là Đức Chúa Trời đã ban cho tôi điều gì để nói “Khởi sự nói các thứ tiếng khác theo như Đức Thánh Linh cho mình nói” (Công-vụ 2:4). Dấu hiệu của một môn đồ là sự can đảm. Sự can đảm về niềm tin. Một niềm tin rằng chúng ta công bố lẽ thật về Chúa Jêsus và luôn luôn sống trong lẽ thật đó. Hãy luôn luôn thể hiện lẽ thật đó qua đời sống.
Sự can đảm là dấu hiệu thật của một môn đồ, chúng ta thật cần nghe điều đó biết bao. Chúng ta không phải ở thế gian này để kiếm những người quy đạo nhưng chúng ta muốn họ. Chúng ta có ở đây để đi khắp thế gian và môn đồ hóa muôn dân và tạo môn đồ. Bạn có thể làm bất cứ điều gì với những người qui đạo như môn đồ là một học viên.
Có môn đồ học và áp dụng những gì người đó học. Đây không phải là vấn đề đòi hỏi đầu óc mà là đòi hỏi tấm lòng. Người đó không chỉ biết sự thánh khiết từ lời Đức Chúa Trời nhưng, môn đồ phải thể hiện sự thánh khiết trong thế gian này. Môn đồ biết lẽ thật và đứng về lẽ thật. Để làm được điều này thì đòi hỏi một sự can đảm lớn lao. Thế giới ngày nay thì hầu như trắng tay vì những con người như vậy. Đó là nan đề lớn. Không có khuôn mẫu thật nào để thể hiện những gì Chúa Jêsus đang dự định thực hiện. Hệ thống giáo hội tổng hợp mọi thứ thành Hội thánh, và trong việc tìm kiếm của họ cho sự hiệp nhất, họ đã tước đi của Hội thánh những gì là thật. Họ đã làm giảm Hội thánh để phù hợp với những gì thế gian có thể tin hầu cho thế gian không cảm thấy khó chịu. Tất cả những luân thường đạo lý đã bị xóa bỏ. Mọi thứ được xem như là hành vi Cơ-đốc nhân.
Nhu cầu thực sự ngày nay đó là cần những môn đồ thật đứng lên trong sự can đảm và dám chịu trách nhiệm giảng Phúc-âm mà không sợ hãi và không thiên vị. Hãy để những kẻ hèn nhát biến hết đi. Chớ sợ hãi để nói với “Hê-rốt của thế gian này”. “Cưới vợ em gái mình là trái đạo đức, luật lệ.” Những môn đồ không sợ hãi đứng lên chống lại sự pha trộn tôn giáo mà Đức Chúa Trời không đẹp lòng, họ là những môn đồ can đảm. Nguyện Đức Chúa Trời sẽ tạo nên những môn đồ như vậy từ cá bạn là những ai ở trong trường này. Trong bài học kế tiếp, chúng ta sẽ đề cập ý tưởng “Một Môn Đồ”.
BÀI HỌC PHỤ: MỘT MÔN ĐỒ
Chúng ta đang thảo luận về môn đồ. Chúng ta thấy trước hết môn đồ là một người được tái sanh. Đó là điểm bắt đầu. Anh ta phải được sanh lại và phải không ngừng tăng trưởng trong ý muốn của Đức Chúa Trời. Trong hai bài vừa qua, chúng ta đã xem xét một trong những phẩm chất của Môn đó là sự can đảm; và Môn Đồ Can Đảm. Bây giờ chúng ta xem xét đề tài “Một Môn Đồ”.
Hãy đọc sách Mác 8:34-35 “34. Sau đó, Đức Jesus gọi dân chúng và các môn đệ đến truyền dạy rằng: Nếu ai muốn theo làm môn đệ Ta phải từ bỏ bản thân mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. 35. Vì người nào muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, nhưng ai vì Ta và Phúc-âm mà mất mạng thì sẽ cứu được mạng mình.”
Trong câu 35 “….vì ai muốn cứu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai vì cớ Ta và đạo Tin Lành mà mất sự sống, thì sẽ được cứu.” Ở đây có hai từ khác nhau được dùng cho sự sống. Sự sống chúng ta phải mất đó là sự sống của bản chất xác thịt. Nếu chúng ta sẵn sàng để mất cái tôi của chúng ta, những tham vọng của chúng ta, và cho phép ý muốn đó thuận phục trong ý muốn của Chúa Jêsus thì khi đó và chỉ khi đó chúng ta mới nhận được sự sống của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thể vừa có Đức Chúa Trời lại vừa có thế gian. Chúng ta phải từ bỏ điều này hoặc điều kia. Chúng ta sống trong thế gian, nhưng chúng ta không thuộc về thế gian. Chúng ta phải sử dụng sự sống nhưng chúng ta không được lạm dụng sự sống đó dù ở dưới bất kỳ điều kiện nào, vì chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời.
Trong những năm gần đây chúng ta được hướng dẫn để tin rằng thế gian thực sự không phải là kẻ thù của chúng ta, nhưng đúng hơn thế gian là người bạn bị hiểu lầm. Thay vì giảng về sự thánh khiết thì chúng ta lại giảng về sự giả tạo. Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu giải quyết với dân của Ngài một lần nữa và những ưu tiên đang được đặt vào đúng vị trí của nó. Cuối cùng, mọi việc đạt đến tốc độ chóng mặt. Trong khoảng đời của tôi, tôi đã chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng về mọi việc. Chúng ta thay đổi từ xuồng độc mộc thành những chiếc tàu đi biển sang trọng, từ việc thay thế động cơ máy bay ở Kitty Hawk đến vệ tinh nhân tạo đang được đưa vào quỹ đạo của mặt trời. Từ lều da của người da đỏ đến các tòa nhà của tiểu bang có gắn máy lạnh. Từ cây súng trường thô sơ đến bom hạt nhân. Tất cả những điều này chỉ thay đổi trong một thời gian ngắn. Thế giới đã đạt đến tốc độ thay đổi thật chóng mặt.
Khi tôi còn nhỏ, kiến thức được gấp đôi lên sau mỗi bảy mươi lăm năm. Bây giờ cứ sau mỗi hai năm rưỡi thì kiến thức lại tăng lên gấp đôi. Các nhà khoa học sống ở thời đại này nhiều hơn tất cả các những nhà khoa học trước kia cộng lại. Khi đề cập đến Hội thánh của Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời nói Ngài sẽ làm việc nhanh chóng. Chúng ta chuẩn bị chứng kiến tốc độ về mục đích của Đức Chúa Trời, vì Đấng Christ sẽ không trở lại với những cỗ máy tôn giáo cũ kỹ đó. Ngài sẽ đến khi Hội thánh đầy dẫy chính Ngài và Hội thánh đó khiêu chiến với địa ngục về mọi mặt. Đó là một Hội thánh bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng bắt đầu xem xét điều đó.
Cho đến những ngày gần đây thì tôi mới bắt đầu hiểu rõ hơn về Nhã-ca của Vua Sa-lô-môn. Đọc các chương I và II trong sách Các-vua, sau đó đọc Thi-thiên thứ 45 và câu chuyện bắt đầu hình thành rõ nét hơn. Trong sách I Các-vua có một cô gái tên là A-bi-sác, người Su-nem là người mà Sa-lô-môn đã yêu.
Cô được đưa đến thành Giê-ru-sa-lem khi Đa-vít đã già và sắp qua đời. Những người thân cận xung quanh Đa-vít, các quan lại biết rằng chẳng bao lâu nữa họ sẽ bị sa thải. Chẳng còn gì nghi ngờ nữa khi Vua mới lên ngôi thì sẽ thay đổi toàn bộ các quan lại , vì vậy họ tìm kiếm một người nữ đồng trinh trẻ đẹp với hy vọng có thể đem lại cho Vua Đa-vít một sức sống mới. A-bi-sác là một trong những người nữ đó. Đa-vít chưa hề chạm đến cô và trong suốt thời gian đó cả Sa-lô-môn và A-đô-ni-gia, anh trai của Sa-lô-môn, đều để ý đến cô gái người Su-nem này. khi Đa-vít chết, cô trở lại vùng Su-nem, làng của người Su-nem là nơi mà Nhà Vua có một vườn nho ở đó. Sa-lô-môn cải trang thành người chăn chiên và chinh phục trái tim cô. Cô gái đã không biết ông là Vua cho đến khi ông đã chinh phục được trái tim của cô. Sa-lô-môn yêu nhiều người nữ khác, nhưng đối với cô gái người Su-nem này đó là tình yêu chân thật duy nhất trong cuộc đời của ông.
Thật là một giây phút quan trọng đã xảy ra trong đời sống của cô gái nông dân đó khi ông trở lại tìm cô với tư cách là một Nhà Vua. Trong câu chuyện này, anh em thấy đây là một bức tranh hoàn hảo về Đấng Christ và Cô dâu của Ngài. Ngài đã đến thế gian, trong hình hài của một con người, và với tư cách là một con người Ngài đã chinh phục được tấm lòng của chúng ta. Ngài sẽ trở lại cùng Cô Dâu của mình với tư cách là Vua trên muôn Vua. Sau khi Sa-lô-môn đã chinh phục được cô gái người Su-nem, ông chỉ dẫn cho cô biết người ta đang chờ đợi cô điều gì. Trước kia.Cô chạy qua các đồi ở Su-nem với đôi chân trần, nhưng chẳng bao lâu nữa cô sẽ trở thành Hoàng Hậu. Sa-lô-môn nói với cô rằng khi trở thành Hoàng Hậu sẽ bắt đầu một cuộc sống mới, cô không thể chạy trong thành Giê-ru-sa-lem với đôi chân trần, vì mọi người sẽ không chấp nhận cô làm điều đó. Vì vậy ông bắt đầu quá trình biến hóa, giúp cô chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc sống ở hoàng cung. Ông nói với cô có những con chồn nhỏ cắn phá dây nho. Từ một nông trại ở vùng Su-nem đến ngai vàng ở Giê-ru-sa-lem, đó là một con đường dài, nhưng Sa-lô-môn với tình yêu dành cho cô sẽ cùng hành động với cô cho đến khi cô thật sự hoàn toàn là một nữ hoàng.
Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng ta ra khỏi thế gian và sẽ mất nhiều thời gian thánh hoá để làm cho chúng ta phù hợp để đồng cai trị với Đấng Christ. Với sự tái sanh thì quá trình nên thánh của tạo vật mới của Đức Chúa Trời bắt đầu. Một số người thân trong tôn giáo sẽ sốt sắng thánh hóa anh em trước khi họ xưng cho anh em là công bình nhưng điều đó không có hiệu quả. Đức Chúa Trời xưng công bình cho người không công bình, sau đó sự nên thánh bắt đầu. Đó là toàn bộ công việc của ân điển. Không một ai trong chúng ta xứng đáng có mặt tại đây ngày hôm nay, đó chỉ là do ân điển của Đức Chúa Trời. Khi Lễ Vượt Qua đầu tiên được tiến hành, khi dân Y-sơ-ra-ên sắp rời khỏi xứ Ai-cập thì Thiên sứ bắt đầu đi ngang qua xứ, Thiên sứ chưa bao giờ hỏi xem họ là người thuộc về Ngũ Tuần hay là Báp-tít. Thiên sứ chỉ nhìn vào huyết. Đức Chúa Trời xưng công bình người không công bình và sau đó quá trình nên thánh bắt đầu.
Anh em và tôi được sanh lại bởi Đức Chúa Trời. Chúng ta những người được sanh lại bởi Đức Chúa Trời, chúng ta được xưng công bình hoàn toàn là do bởi ân điển của Ngài, dành cho tất cả chúng ta. Tiến trình nên thánh là một tiến trình chậm và đầy đau đớn. Chúng ta chậm chạp đến dưới một cái ách mà Chúa Jêsus nói là ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng.
Bằng mọi giá chúng ta phải biết rằng để Đức Chúa Trời đồng công với chúng ta, thì chúng ta phải đồng công với Ngài. Hội thánh ở đây không phải chỉ để tạo ra những người quy đạo. Hội thánh phải tạo ra những môn đồ. Hầu hết dị giáo trong Hội thánh là kết quả của việc đặt trọng tâm vào điều sai trật. Quả thật, Đại Mạng Lệnh truyền cho chúng ta “Vậy, hãy đi khắp thế gian và dạy dỗ muôn dân ….” (Ma-thi-ơ 28:19) Bất kỳ một giáo viên Anh Văn giỏi nào đi nữa khi phân tích câu này thì đều biết rằng động từ chính của câu là động tư “dạy dỗ”, chứ không phải là động từ “đi”. Chúng ta thì nhấn mạnh vào động từ “đi”. Có mạng lệnh “ra đi”, nhưng cũng có mạng lệnh “Nán lại cho đến khi…” Điều gì đó phải xảy ra trước khi họ đi. Những bi kịch xảy ra là do kết quả của sự ra đi mà không chờ đợi. Người ra đi đại diện cho một Đức Chúa Trời mà hầu như là họ không biết Đấng ấy là ai. Hội thánh là cơ quan tái sản xuất. Sự sống không sinh ra từ Hội thánh nhưng Hội thánh sinh ra từ sự sống.
Thử thách thật sự cho các môn đồ là chúng ta có tạo ra những điều kiện cho sự sống? Tại nơi làm việc người ta có nhận biết rằng anh em có sự khác biệt hay không? Ở nhà của anh em có sự hiện diện của Đức Chúa Trời hay không? Đây là sự thử thách thực sự, sự thử thách của cuộc sống. Chúa Jêsus phán rằng một môn đồ phải sinh ra lắm trái. Trái là sản phẩm của sự sống, công việc chỉ là máy móc. Anh em có thể dạy dỗ một con khỉ bắt chước đưa tay cao lên nếu anh em có đủ thời gian để dạy nó. Anh em có thể dạy bất kỳ một người nào đó có trí thông minh trung bình bằng cách nói một vài từ mà anh em gọi là tiếng lạ. Điều đó không có nghĩa là họ đã nhận được Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh là sự sống. Tiếng lạ không ban cho anh em Đức thánh Linh, Đức Thánh Linh ban cho anh em tiếng lạ. Phép lạ có được không phải là do tôi có thể nói được vài từ tiếng lạ. Phép lạ đó là do Đức Chúa Trời Toàn Năng ban cho tôi điều gì đó để nói.
Khi một người sanh lại, thì một loạt các kinh nghiệm sẽ bắt đầu. Tạo vật mới đó là sản phẩm của sự sống đời đời. Cơ-đốc giáo là một yếu tố quan trọng của sự sống, một sự sống đời đời, một sự sống mà không bao giờ bị phá hủy. Hội thánh cũng tồn tại đời đời như Đức Chúa Trời. Hãy suy nghĩ về điều đó. Anh em không thể phá hủy được Hội thánh. Khi, Mao, cầm quyền ở Trung Quốc thì lúc đó chỉ có một triệu tín đồ Tin Lành. Mao và Đảng Cộng Sản của ông đã giết những người lãnh đạo Hội Thánh, tịch thu tài sản của Hội thánh, phân tán các con chiên đi khắp mọi miền ở Trung Quốc. Khi Mao xuống địa ngục, có khoảng từ năm mươi đến một trăm triệu tín đồ được tái sanh ở Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là có từ năm muơi đến một trăm lần hơn những người tin Chúa ở Trung Quốc khi Mao qua đời so với khi ông ta bắt đầu cầm quyền ở Trung Quốc.
Họ nhóm nhau trong những ngôi nhà và đó là Hội thánh thầm lặng. Không có cách nào để họ có thể tổ chức những buổi truyền giáo, vì vậy người ta được cứu là không phải thông qua các buổi nhóm trong Hội thánh. Họ được cứu bởi sự sống sinh ra sự sống. Lần lượt từng người một. Tôi được tái sanh, tôi gặp anh, tôi cứu anh. Gần một trăm triệu người đã được cứu mà không cần sự phát thanh qua ra-đi-ô hay ti-vi. Những môn đồ người Trung Quốc này đã có hiệu quả hơn chúng ta trong thế giới tự do môt ngàn lần. Tại sao, vì trong họ có sự sống ư? Đó không phải là một trò chơi. Họ biết có Chúa Jêsus và có ấn tượng sâu sắc về Ngài. Đó không phải là thuyết duy cảm. Họ đã sinh ra những trái công bình.
Trái là sản phẩm của sự sống, công việc chỉ là máy móc. Anh em có thể treo một quả cam trên một cây sồi, nhưng nó sẽ không tăng trưởng và nó sẽ thúi đi. Chúng ta đang nhìn thấy vô số những quả cam tôn giáo treo những trên cây sồi. Chúng ta đã dạy về một Đấng Christ, dạy về tiếng lạ, dạy múa. Những điều đó quáù máy móc đến nỗi một người vô tín cũng có thể làm được. Người ta đến Hội thánh để có một thời gian tốt lành vào ngày Chúa nhật, sau đó ra về và vào ngày thứ hai sống như ma quỷ.
Đức Chúa Trời muốn thế hệ này biết đến quyền năng của Ngài, nhưng để có điều đó Ngài phải bắt đầu từ Hội thánh. Nếu chúng ta để quá trình nên thánh của Ngài thực hiện trong đời sống của chúng ta, chúng ta sẽ sanh ra trái công bình. Trái công bình chỉ có thể đánh giá được ở thế hệ thứ hai. Đức Chúa Trời vẫn xưng những người chưa thánh khiết là công bình. Khi mới sanh ra, con người không hoàn hảo, tạo vật mới cũng vậy, nó phải được dạy dỗ rằng giáo dục thuộc linh và nên thánh là một và như nhau. Sự nên thánh sẽ không xảy ra một cách nhanh chóng ở một số người này như ở một số người khác.
Khi đọc Kinh Thánh Tân-ước chúng ta khó mà tin rằng, Hội thánh Ê-phê-sô và Hội thánh Cô-rinh-tô là cùng một gia đình. Tuy nhiên, Phao-lô gọi họ là các thánh đồ. Một Hội thánh được cất khỏi thế gian bước vào Thiên Đàng, còn Hội thánh kia luôn tranh luận về vị diễn giả nào mà họ thích nhất. Trong Hội thánh Cô-rinh-tô, thì con người là chủ đề về mọi việc. Trong Hội thánh Ê-phê-sô, chỉ có con người duy nhất đó là một con người mới và Chúa Jêsus Christ là người mới đó. Tuy vậy họ vẫn ở chung một gia đình. Ân điển của Đức Chúa Trời đã được thể hiện trên Hội thánh này nhiều hơn Hội thánh kia. Có những người trong Hội thánh chưa tăng trưởng như những người khác, nhưng anh em vẫn không ngừng chăm sóc họ nếu họ chưa thật sự được tái sanh. Kết quả chỉ được biết đến trong thế hệ thứ hai. Chỉ trong thế hệ thứ hai chúng ta mới có thể nói về những dạng người qui đạo nào mà chúng ta đang tạo ra. Kết quả của sứ điệp ngày hôm nay sẽ là Hội thánh của ngày mai.
Tôi đã quan sát điều này trong hơn một thập kỷ. Hội thánh được đồng hóa với những người quy đạo được sanh ra. Chúng ta đã tạo ra những người quy đạo không có sự khao khát thuộc linh. Anh em không thể tổ chức buổi nhóm phục hưng trong vòng ba ngày. Anh em không thể bàn như vậy bởi vì để có được điều đó thì những bông trái của ngày hôm qua phải nhóm nhau lại trong những buổi cầu nguyện. Ngày hôm nay, người không được chú ý đặc biệt nhất trong Hội thánh đó là Đức Chúa Trời. Nếu anh em thông báo là có nhóm ca nhạc nào đó đến hoặc chức buổi lễ tôn giáo tổ nào đó, mọi người sẽ đến. Nếu dùng bữa ngoài trời thì người ta đông đến nỗi anh em sẽ không thể nấu đủ thức ăn. Hãy nói với mọi người rằng sẽ có một buổi cầu nguyện vào tối thứ sáu và anh em sẽ là người cô đơn nhất thành phố. Chúng ta đã đào tạo ra một thế hệ những người qui đạo luôn thu mình lại trước sức nóng của mặt trời.
Bởi vì kết quả chỉ được nhìn thấy ở thế hệ thứ hai, chúng ta sẽ nói đến một vấn đề tối ư là quan trọng. Chúng ta không cần tự hỏi tại sao chúng ta không nhìn thấy được phép lạ của Đức Chúa Trời. Có một khoảng cách quá xa giữa điều chúng ta giảng và điều chúng ta làm. Nếu chúng ta là Thân Thể của Đấng Christ, thì chúng ta phải thể hiện được Đấng Christ qua sự sống chúng ta. Điều mà Đấng Christ làm không xuất phát từ điều Ngài nói, nó xuất phát từ việc Ngài làm. Phao-lô nói chúng ta biết đến không phải do lời nói, nhưng bởi quyền năng của chúng ta. Quyền năng có được xuất phát từ việc trở nên giống với Đấng Christ. Chúa Jêsus nói, “Hết cả quyền phép ở trên trời và dưới đất đã giao cho Ta…” (Ma-thi-ơ 28:18) Với tư cách là Đức Chúa Trời, Ngài không cần được ban cho quyền năng. Quyền năng giao cho Ngài với tư cách là con người, có nghĩa là quyền năng thuộc về Hội thánh, nếu Hội thánh thuận phục Đức Chúa Trời và để cho những nguyên tắc của Đức Chúa Trời để thực hiện công bằng cho tất cả mọi người.
Xã hội của chúng ta có tất ca,û nhưng đã bị phá hủy bởi những người am hiểu giảng giải luật pháp theo cấp trên của họï. Án tử hình thực sự chỉ dành cho người nghèo. Đối với tôi luật pháp có ý nghĩa khác, đối với người khác luật pháp được áp dụng khác đi. Đó là cảnh trạng đáng buồn. Anh em và tôi chẳng làm được gì cho thế gian nhưng có những điều chúng ta có thể làm được cho Hội thánh. Người rao giảng không được rao giảng sai lệch Lời của Đức Chúa Trời rồi khiến cho người nghe hiểu lầm rằng đối với tôi thì Lời Chúa có nghĩa như thế này nhưng sẽ có ý nghĩa khác đối với người kia. Đức Chúa Trời đã viết quyển sách này, nếu anh em không thích điều trong Kinh Thánh nói, hãy nói với Ngài về điều đó. Đức Chúa Trời ra lệnh cho chúng ta, “…ăn ở một cách xứng đáng với chức phận mà Chúa đã gọi anh em” (Ê-phê-sô 4:1).
Ngày hôm nay điều phổ biến đối với người hầu việc Chúa là đứng trên bục giảng thì nói khác với những điều ông ta nói khi ở trong phòng tư vấn. Trên bục giảng người hầu việc Chúa cần phải nói điều ông ta biết đó là lẽ thật. Nếu ông làm việc này một cách trung tín, thì rất ít khi cần đến phòng tư vấn. Tại bục giảng, dưới sự xức dầu của Đức Thánh Linh, người hầu việc Chúa hoàn toàn không thiên vị, tuy vậy cùng một người đó có thể để lòng trắc ẩn của ông ấy tác động đến sứ điệp của ông tùy theo từng tình huống. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những môn đồ.
Môn đồ là người học và thực hành những điều mình đã học. Phao-lô cũng nói đến những người được gọi là môn đồ, điều ông nói với những người này là “Vẫn học luôn mà không hề thông biết lẽ thật được.” (II Ti-mô-thê 3:7) Những người này giữ lấy lẽ thật chỉ bằng lý trí,nhưng họ chưa bao giờ để họ trở thành lẽ thật.
Có những dấu hiệu để nhận biết được những môn đồ như Chúa ao ước. Đặc tính đầu tiên của người được gọi là môn đồ được tìm thấy trong Mác 8:34 “…hãy từ bỏ chính mình….” Tôi không biết anh em giảng giải điều đó như thế nào, nhưng có một điều chắc chắn nó có nghĩa là môn đồ không phải là người ích kỷ. Không bao giờ có một Cơ-đốc nhân ích kỷ.
Người tham lam không thể nào bước vào nước của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô nói người tham lam là người thờ thần tượng và sẽ không được hưởng được nước Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus hoàn toàn không ích kỷ. Ngài đến không phải để con người hầu việc, nhưng để hầu việc con người ta. Ngài đến để ban cho chớ không phải để nhận lấy. Ngài không đòi hỏi điều gì nhưng Ngài lại ban cho tất cả.
Khi một người được tái sanh, anh ta trở nên một người dự phần trong bản chất thiêng liêng của Ngài. Khi điều này xảy ra trong tín đồ, tín đồ sẽ có cùng tính rộng rãi như Chúa Jesus. Khi nói về Hội thánh Ma-xê-đoan, Phao-lô nói, “Vì trong khi bị hoạn nạn thử thách ngặt nghèo thì lòng họ tràn đầy sự vui mừng và lúc nghèo khổ cùng cực thì tấm lòng giàu có rộng rãi càng dư dật.” Trong II Cô-rinh-tô 8:5, “Đó là điều vượt quá điều chúng tôi mong mỏi, trước hết họ đã dâng hiến chính mình cho Chúa vàcũng cho chúng tôi theo ý muốn của Đức Chúa Trời.” Nếu anh em chưa dâng mình thì anh em chưa có gì cả. Phao-lô nói sự hào phóng đã được tìm thấy ở các Hội thánh ở Ma-xê-đoan là sản phẩm trong ân điển của Đức Chúa Trời. Ân điển của Đức Chúa Trời khiến cho người nhận lấy trở nên khoan dung và rộng lượng. Trong thực tế nếu chúng ta là người dự phần trong ân điển của Ngài, sự rộng rãi trong ân điển đó sẽ khắc sâu vào tính cách của chúng ta.
Sau ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đồ của Chúa đã bán hết tài sản của họ và mang tiền thu được đặt dưới chân các sứ đồ. Đó là tinh thần rộng lượng đã bày tỏ qua họ và khiến cho cộng đồng biết rằng họ đã cùng đi với Chúa Jêsus. Họ dâng chính họ. Đây là dấu hiệu thật về một tín đồ tái sanh thật sự, một môn đồ thật thì không ích kỷ. Đây không chỉ là vấn đề tiền bạc mà thôi, nhưng chính đồng tiền của anh em nói rỏ về anh em nhiều hơn bất kỳ điều gì khác. Những gì anh em làm với tài nguyên mà anh em có điều đó nói về chính anh em nhiều hơn là việc anh em có tài nguyên đó.
Trong Lu-ca 16, Chúa Jêsus đang nói về tiền bạc và người Pha-ri-si trở nên giận dữ với Ngài. Chúa Jêsus nói họ giận dữ vì họ có tính tham lam. Sự ích kỷ đã chiếm hữu lấy họ. mỗi ý nghĩ và hành động phải được kiểm soát. Nếu chúng ta muốn được tha thứ chúng ta phải tha thứ. Nếu chúng ta muốn được thương xót, phải bày tỏ sự thương xót. “…Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, hằng ngày vác thập tự giá mình và theo Ta.” (Lu-ca 9:23) Chúng ta phải để ý muốn của chúng ta thuận phục ý muốn của Chúa Jêsus. Thái độ của Ngài là, “Ta chẳng làm điều gì ngoại trừ Ta thấy điều Cha Ta làm.” “Những lời Ta nói chẳng phải là của Ta, nhưng là lời của Đấng sai Ta.” Cả cuộc đời Ngài tuân phục Cha một cách tuyệt đối. Đó là nước của Đức Chúa Trời. “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, rồi Ngài sẽ ban thêm cho các con mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:33)
Nước của Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh ở trong anh em đang hình thành Chúa Jêsus làm Chúa trên mọi lĩnh vực đời sống chúng ta. Đó là lúc mà lẽ sống duy nhất của anh em là làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Cần có sự giải phóng trên đời sống bạn hơn là cần có ai đó đặt tay trên bạn. Bạn phải có đời sống ngay thẳng. Có nhiều khi trong cùng một buổi lễ nhưng anh em sẽ thấy một số người được chữa lành trong khi một số khác thì không. Anh em không thể chê trách những con người đang cầu nguyện. Một số người trong họ đang nhận được sự chữa lành. Chúng ta phải tự kiểm tra lại mình và sẵn sàng để giải quyết những điều đã làm Đức Chúa Trời không đẹp lòng. “Nhưng thức ăn đặc là dành cho người trưởng thành là người nhờ thực hành mà luyện tập được khả năng phân biệt điều thiện, điều ác.” (Hê-bơ-rơ 5:14) Điều này không đề cập đến sự nhận biết rõ về tội tà dâm, say sưa.v.v.. chúng ta biết được những điều này là sai trật trước khi chúng ta được tái sinh. Phân biệt được điều thiện và điều ác tức là biết điều gì thuộc về Đức Chúa Trời và điều nào không phải là của Ngài.
Không ai tốt lành ngoài Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nhìn thông qua cái nhìn của Đức Thánh Linh chúng ta nhìn thấy cả hai con đường. Anh em thấy con đường của Đức Chúa Trời, vì vậy anh em được tự do để chọn lựa lẽ thật. Đức Chúa Trời sẽ không hành động cho đến khi anh em thực hiện sự lựa chọn của mình. Chúng tôi kết thúc bài học này. Khi trở lại lớp học chúng ta sẽ kiểm tra lại bài học “MỘT MÔN ĐỒ” lần nữa.
Trong Hê-bơ-rơ 5:14, “Nhưng thức ăn đặc dành cho người trưởng thành là nhọ thực hành mà luyện tập được khả năng phân biệt điều thiện, điều ác.” Chúng ta biết rõ rằng trước khi chúng ta được tái sanh, chúng ta biết rằng khi phạm tội tà dâm, say sưa, sự nguyền rủa và nói láo là nói sai. Để phân biệt điều thiện và điều ác thì phải biết điều gì thuộc về Đức Chúa Trời và điều gì không thuộc về Đức Chúa Trời. Không ai trọn vẹn ngoài Đức Chúa Trời. Qua Đức Thánh Linh chúng ta có thể thấy cả hai con đường. Anh em có thể thấy được đường lối của Đức Chúa Trời, vì bây giờ anh em có quyền tự do để lựa chọn. Điều đó tùy thuộc trong sự lựa chọn. Chúng ta xác định vận mệnh của mình. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ hành động cho đến khi anh em thực hiện sự lựa chọn của mình.
Khi đối diện với sự cám dỗ của vợ Phô-ti-pha, Giô-sép đã bỏ chạy. Lời nói của ông là, “Thế nào tôi dám làm một điều đại ác dường ấy, mà phạm tội cùng Đức Chúa Trời sao?” Giô-sép thực hiện việc chọn lựa của mình vì Đức Chúa Trời, ông đã bỏ chạy. Ông ta không chạy trốn con người Giô-sép, vì ông biết rằng nếu ông vẫn ở đó ông sẽ phạm tội. Bởi vì ở nơi Giô-sép đứng, ông thấy được cả hai con đường. Giô-sép chọn Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời ban sức cho để ông đứng vững. Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ ép buộc anh em chọn lấy ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng nếu anh em chọn lấy ý muốn của Đức Chúa Trời, Ngài bắt anh em thi hành sự chọn lựa của mình.
Khi Đa-ni-ên thực hiện quyết định của mình để cấu nguyện dù biết rằng sẽ bị ném vào hang sư tử, Đức Chúa Trời Ngài đã khóa hàm sư tử lại. Khi những người Hê-bơ-rơ nói rằng: “Chúng tôi sẽ không quỳ lạy,” Chúa Giê-xu ở trong lửa với họ. Thiên Đàng không bao giờ hành động cho đến khi họ thi hành sự lựa chọn của họ. “Chẳng có cơn cám dỗ nào đã chinh phục anh chị em mà vượt quá sức loài người. Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài sẽ không để anh chị em bị cám dỗ quá sức mình, nhưng trong khi bị cám dỗ sẽ mở đường để anh chị em có thể chịu đựng được.” Con đường của sự giải thoát là Chúa Giê-xu đang đến cùng với chúng ta khi chúng ta vâng lời Ngài trong sự thử thách đó.
Đức Chúa Trời đã thực hiện kế hoạch cứu rỗi và giải thoát cho Hội thánh. Cách đây nhiều năm John Kilpatrick đã đồng công với chúng tôi trong sự phấn hưng. Ông đề ra một kế hoạch tuyệt vời trong một thông điệp mà ông gọi là “Sứ Điệp Bốn P”: lời hứa (promise), luật pháp (principle), nan đề (problem), và sự tiếp trợ (provision). Thật là khó để Đức Chúa Trời nói với anh em nếu anh em không quen thuộc với Lời Chúa. Trong Lời của Đức Chúa Trời có một lời hứa giải quyết hết mỗi nan đề mà anh em chưa bao giờ đối diện. Khi anh em gặp nan đề, khi anh em có nhu cầu, có một lời hứa trong Lời của Đức Chúa Trời giải quyết lấy nhu cầu đó.
Trước hết có một lời hứa, tiếp theo có một nguyên tắc chi phối lời hứa đó. Nguyên tắc đó là “Sự vâng lời”. Đức Chúa Trời đặt A-đam và Ê-va trong vườn Địa Đàng, ngài ban cho đủ mọi thứ để hưởng thụ, nhưng đối vớ trái cây biết điều thiện và điều ác, Ngài ra lệnh họ không được ăn. Mối thông công của A-đam đối với Đức Chúa Trời dựa trên sự vâng lời của ông đối với mệnh lệnh đó. Khi Ê-va ăn trái cấm bà không biết điều đó nhưng Đức Chúa Trời đang xem xét trách nhiệm của bà. Đó là nan đề. Đức Chúa Trời chúng ta rút khỏi ý thức về sự hiện diện của Ngài.
Chúng ta đang bị khô hạn, chúng ta đang bị cám dỗ, chúng ta không cảm nhận được Đức Chúa Trời đang ở đó. Đức Chúa Trời không đi đâu cả vì Ngài có mặt ở khắp mọi nơi. Gióp biết điều nầy. Có thời điểm mà Gióp không thể thấy Đức Chúa Trời, nhưng Gióp hiểu rằng Đức Chúa Trời biết ông đang ở đâu. Lời tuyên bố của ông thật đơn giản “Chúa biết con đường của tôi đi”. Vì vậy trong lúc gặp khó khăn, trong lúc anh em không còn cảm nhận được sự hiện diện của Ngài, ma quỷ đến vây quanh anh em để kiện cáo anh em. Không từ bỏ anh em; Ngài chỉ rút ra khỏi anh em trong sự nhận thức về sự hiện diện của Ngài. Cách anh em hành động trong lúc gặp nan đề sẽ quyết định cho việc anh em nhận được sự tiếp trợ hay không. Anh em sẽ hành động như thế nào khi anh em không còn cảm nhận, không còn nghe, hoặc thấy Đức Chúa Trời nữa?
Khó để mà tiếp tục cầu nguyện khi không còn gì để tin tưởng việc tin vào lời hứa. Đức Chúa Trời đã nói với Giô-sép khi ông còn là một đứa trẻ. Trong giấc mơ Ngài bày tỏ cho Giô-sép biết rằng ông sẽ là người cứu giúp dân tộc Y-sơ-ra-ên. Sau giấc mơ đó ông bị bán làm nô lệ, kết thúc là ở trong ngục tối tại xứ Ê-díp-tô. Một ngàn con quỷ đã đến với Giô-sép nói với ông rằng Đức Chúa Trời đã không nói với ông. Ông không thấy và không cảm nhận được Đức Chúa Trời. Điều ông làm lúc bấy giờ sẽ xác định rằng ông sẽ thấy lời hứa được thực hiện hay không. Giô-sép đã giữ lấy lời hứa của Đức Chúa Trời. Ngày hôm nay ông ngồi trên nền ngục lạnh lẽo nhưng ngày hôm sau ông đã trở thành người có địa vị thứ hai sau vua Pha-ra-ôn mà thôi.
Trong lúc gặp nan đề, hành động của anh em như thế nào thì sẽ xác định được liệu mình có nhận được tiếp trợ hay không. Khi ma quỷ đến với Ê-va và dụ dỗ Ê-va đừng vâng lời Đức Chúa Trời, bà không biết Đức Chúa Trời đang đứng đó lắng nghe cuộc đối thoại. Ngài đứng đó nhưng Ngài không can thiệp. Ê-va biết điều nào là đúng, bà có lời của Đức Chúa Trời. Lúc bấy giờ bà phải thực hiện quyết định của mình mà không cần bất kỳ sự giúp đỡ nào từ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ không ép buộc tôi phải vâng lời Ngài, nhưng nếu tôi chọn lẽ thật, Đức Chúa Trời sẽ thúc đẩy tôi thực hiện những gì tôi đã chọn. Chúng ta còn bị thống trị bởi cảm giác rất nhiều. Khi tôi không còn cảm nhận được sự hiện diện của Đức Chúa Trời, khi đó tôi kết luận rằng chắc chắn là Đức Chúa Trời đã lìa bỏ tôi. Chúng ta trở nên nổi khùng với Đức Chúa Trời, nổi khùng với Hội thánh, từ chối dâng một phần mưđi. Tất cả những hành động đó là biểu hiện của sự ích kỷ.
Trong khi gặp nan đề, “cái tôi” xuất hiện. Chúng ta không bao giờ hành động trái ngược với bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta đi trong Thánh Linh, chúng ta sẽ hành động giống như Chúa Jêsus. Nếu chúng ta đi trong xác thịt, chúng ta sẽ hành động theo cái tôi của chúng ta. Nếu chúng ta ích kỷ, độc ác và khó chịu, khi đó những điều này sẽ được bộc lộ ra. Con người thuộc linh, mặc dù dường như không cảm nhận hoặc nghe từ Đức Chúa Trời thì người đó vẫn biết rằng Đức Chúa Trời vẫn ở đó. Chúng ta những người hay đặt câu họi và sẽ đến một lúc nào đó không ai có thể trả lời những câu họi của chúng ta. Trong những thời điểm đó chúng ta “sẽ cầu nguyện suốt” hoặc là không cầu nguyện gì cả. Chúng ta sẽ phải nắm chặt lấy Đức Chúa Trời, lắng nghe từ Thiên đàng, nhận câu trả lời cho chính mình từ nơi Đức Chúa Trời. Để thực hiện điều nầy, chúng ta phải tin rằng “Đức Chúa Trời là hiện hữu” cho dù chúng ta thấy Đức Chúa Trời hay không. Dấu hiệu đầu tiên về một môn đồ đó là không ích kỷ. Anh ta dâng mọi vật anh ta có. Mọi vật anh ta có điều thuộc về Chúa Jêsus. Anh ta là một người trung tín.
Phao-lô nói “Hơn thế nữa người quản trị phải là người trung tín.” (I Cô-rinh-tô 4:2) Anh ta trung tín không ích kỷ. Đó là loại người mà Đức Chúa Trời mong đợi. Hội thánh có trách nhiệm đào tạo ra những môn đồ như vậy. Các môn đồ nghe, thực hiện, và nhận biết con đường duy nhất là con đường của sự vâng lời. Chúng ta hãy tiếp tục với ý tưởng này. Công việc của Hội thánh là đào tạo những môn đồ, không phải tạo ra những người qui đạo. Anh em có thể làm cho một người tin bất cứ điều gì thông qua lý luận hay nhưng ở chúng ta đang nói về sự sống chứ không phải là lý thuyết suông. Hội thánh được xem như là một tổ chức sinh sản và những đặc tính nào đó luôn luôn được nhận thấy trong môn đồ thật. Một trong những dấu hiệu rõ ràng mà chúng ta vừa nói đó là không ích kỷ.
Hội thánh phát sinh ra từ sự sống, và sự sống sinh ra sự sống. Không phải là thừa khi tôi lập đi lập lại điều đó, nhưng điều đó phải được khắc sâu trong anh em, bởi vì đó không phải điều được dạy dỗ ở trong vòng lẩn quẩn. Thực nghiệm thật để xem thử chúng ta có phải là Hội thánh hay không. Đó là chúng ta đã tạo ra những điều kiện cho sự sống chưa? Chúa Jêsus phán “Nếu ai là môn đồ ta,” và khi Ngài kêu gọi con người cùng các môn đồ đến với Ngài, Ngài phán cùng với họ rằng: “Nếu người nào muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo ta.” (Ma-thi-ơ 16:24) Đây là dạng người mà Hội thánh có nhiệm vụ phải đào tạo ra. Dấu hiệu đầu tiên của những người như vậy là không ích kỷ. Nếu ân điển Đức Chúa Trời ở trong anh em, nó sẽ tạo ra tinh thần ban cho mà tinh thần đó có trong Chúa Jêsus Christ….linh hồn tự do sẽ được no đủ bởi vì linh hồn tự do là linh hồn hiệp nhất với Đức Chúa Trời. Có nhiều dấu hiệu về sự ích kỷ mà chúng ta phải giải quyết.
Tôi muốn nói vài điều có liên quan đến sự ích kỷ mà sẽ rất quan trọng nếu anh em thật sự nghiêm chỉnh nhận lấy bất cứ điều gì từ Đức Chúa Trời. Nếu anh em hình dung về việc đào tạo ra những môn đồ mà Đức Chúa Trời muốn qua chức vụ của anh em. Nếu anh em bệnh vì yêu những con người hư mất, nếu đó là những nan đề trong cuộc đềi của anh em, trước khi những điều này được chữa lành thì chúng ta với tư cách là Cơ-đốc nhân phải được chữa lành về tâm linh. Chúng ta phải đi khắp nơi để trở thành những gì Đức Chúa Trời muốn, nếu chúng ta muốn Đức Chúa Trời hành động trong đềi sống chúng ta. Anh em không thể sống một đềi sống buông thả, phó mặc cho sự may rủi, ích kỷ đối với mình. Nếu anh em muốn được thương xót phải bày tỏ sự thương xót. Nếu anh em muốn có bạn, thế thì hãy tỏ ra chính mình là người thân thiện. Nếu anh em muốn có sự tha thứ thì hãy tha thứ.
Chúng ta hãy gieo ra hạt giống sanh ra một đời sống không ích kỷ. Sự ích kỷ là luật rừng. Trong thời kỳ hoạn nạn, sự ích kỷ sẽ là con thú săn những con người đã bỏ lỡ thời kỳ hoan hỷ. Sự ích kỷ và vô luật pháp là những thuật ngữ đồng nghĩa. Chính tinh thần ích kỷ đã biến những con đường của chúng ta thành rừng rậm. Thật là một bi kịch khi một tinh thần như vậy được tìm thấy ở trong Hội thánh. Luật rừng là quy luật cho sự tồn tại. Khi một động vật sanh con, và nếu con mẹ đói nó sẽ ăn chính con mình. Kinh Thánh nói về sự chia rẽ và sự tàn phá lẫn nhau trong Hội thánh. Nó gây ra sự kinh ngạc cho mọi người, bởi vì dân sự trong Hội thánh, những người chỉ thích ở trong Hội thánh để được “nhận”. Họ không bao giờ đến để ban cho. Họ không quan tâm đến Lời Đức Chúa Trời. Họ là những kẻ ăn bám, đơn thuần chỉ là những khách hàng. Họ sẽ đến ăn hết những hạt giống.
Khi tinh thần nầy xuất hiện trong Hội thánh, Đức Thánh Linh rất đau lòng và công việc của Đức Chúa Trời bị ngưng lại. Tinh thần ích kỷ vạch ra một giới hạn mà không ai có thể vượt qua để được cứu rỗi va được chữa lành. Tiên tri Ê-sai nói về những đứa trẻ sắp ra đời nhưng người mẹ không đủ sức để sinh. Anh em đã gặp tình trạng đó bao nhiêu lần rồi. Những linh hồn đến với đền thọ của chúng ta, họ tìm kiếm Đức Chúa Trời, nhưng họ rời Hội thánh mà vẫn chưa được cứu rỗi. Chúng ta lại đổ lỗi cho họ, nhưng thật ra Hội thánh không đủ sức để sinh con. Trước khi ngành y học biết về phần C, khi đến đúng thời điểm thì đứa bé phải được sinh ra nhưng nếu người mẹ không đủ sức sanh đứa bé ra thì cả mẹ lẫn con điều chết.
Điều đó cũng xảy ra cho Hội thánh. Hội thánh quá yếu bởi tinh thần chỉ muốn nhận mà không muốn ban cho, Hội thánh không đủ sức để giải thoát những người đến với Đức Chúa Trời kêu cầu sự giúp đỡ. Đức Chúa Trời giúp chúng ta sửa chữa tình trạng này. Sự ích kỷ và vô luật pháp là những thuật ngữ điều giống như nhau và không có chổ trong Hội thánh. Sự ích kỷ làm hư họng bản chất con người mà khải tượng gọi là xác thịt. Antichrist sẽ là kết quả cuối cùng về những điều được ngụ ý trong từ “cái tôi”. Vì vậy “cái tôi” sẽ là con thú của thời kỳ hoạn nạn. “Cái tôi” là bản chất cá tính của con người.
Có ba nhân tố trong cá tính con người: Sự đoán xét, tình cảm và ý chí. Sự đoán xét của con người sa ngã là không đáng tin cậy bởi vì có sự lẫn lộn giữa sự tối và sự sáng, sự sáng và sự tối. Tình cảm bị suy đồi. Thay vì tìm kiếm những điều từ nơi thiên thượng, họ lại tìm kiếm những điều ở nơi thế gian. Hãy lắng nghe theo thần học ngày nay trong thông điệp về sự thạnh vượng đang hình thành một Đức Chúa Trời là một người phục vụ cho con người. Nếu chúng ta lắng nghe thông điệp này, anh em được dẫn dắt để tin rằng tình yêu của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua vật chất mà Ngài ban cho anh em. Điều này đánh động vào “cái tôi”, vào lòng tham lam và nó lại phỉ báng vào đặc tính của Đức Chúa Trời.
Một số các Cơ-đốc nhân vĩ đại mà tôi biết thì đang sống nhọ vào Quỹ bảo hiểm xã hội và 90% cô dâu đã chưa bao giờ có tài sản, nhà cửa. Anh em không thể phán xét mối quan hệ của một người đối với Đức Chúa Trời qua những gì người đó có. Chúa Jêsus nói: “Hãy thận trọng, đề phòng mọi thứ tham lam, vì cuộc sống con người không cốt tại cải dư dật đâu!” (Lu-ca 12:15)
Sự nhấn mạnh của thần học ngày hôm nay được đặt vào những điều mà Đức Chúa Trời nói là những tình cảm tập trung vào những việc trần gian. Đức Chúa Trời phán “Hãy tập trung tâm trí vào các việc thiên thượng, đừng lo nghĩ những việc trần gian” (Cô-lô-se 3:2), hãy chăm vào nơi mà Đấng Christ ngồi bên hữu của Đức Chúa Trời.
Với tư cách là các thánh của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể sẽ không bao giờ có nhiều hàng hoá của thế gian, nhưng thật là tốt để biết rằng thế gian là của Chúa và của cải cũng là của Chúa. Thế gian đang đếm tiền của chúng ta. Họ đang ngồi trên của cải của chúng ta. Họ là những kẻ xâm chiếm chứ không phảict. Chẳng bao lâu nữa Chúa Jêsus sẽ đến và đuổi ma quỷ cũng như những người thuộc về hắn, và chúng ta những người thừa kế và là dự phần thừa kế cùng Đấng Christ sẽ sở hữu tất cả. Chúng ta có đủ sức chọ đợi. Càng lúc chúng ta càng thấy sự nhấn mạnh tập trung vào bản chất xác thịt. Chúng ta muốn có của cải ngay bây giờ. Vậy từ “tôi” rất thịnh hành. Tôi muốn một ngôi nhà lớn hơn. Tôi muốn có một chiếc xe lớn hơn. Tôi muốn điều này, tôi muốn điều kia. Nhưng tôi chưa bao giờ muốn điều mà Đức Chúa Trời muốn..
Không thể tin cậy vào những tình cảm xác thịt. tỏ di chúc đã mất hiệu lực. Nó mạnh những điểm mà đáng lẽ nó phải yếu, và yếu ở những điểm mà nó phải mạnh. “Cái tôi” là con thú sẽ săn và làm cho con người khiếp sợ trong thời kỳ hoạn nạn. Ngưđi ích kỷ sẽ trở nên cô độc nhưng không biết điều đó. Thật là một ngày kinh khủng cho những ai chỉ chú trọng vào mình trong thời kỳ đó. Linh hồn của anh ta trơ trụi không tình yêu thương, trái tim của anh ta không còn cảm giác gì với vũ trụ xung quanh mình, khi đó anh ta sẽ đối mặt với tình trạng cô đơn khủng khiếp về cái tôi không bao giờ chết, trong ngày đó con người có muốn chết cũng không chết được.
Nếu anh em phó sự sống mình về Đấng Christ, anh em sẽ tìm thấy sự sống của Ngài. Nếu anh em tự cứu mình, anh em sẽ đánh mất Đấng Christ. Nếu anh em từ chối đóng đinh “cái tôi” của mình bây giờ thì chúng ta sẽ tỉnh dậy trong địa ngïục với “cái tôi” không bao giờ chết. Bây giờ chúng ta nói về môn đồ không ích kỷ, chúng ta phải biết sự ích kỷ thật sự là gì. Sự ích kỷ là bản chất của dòng giống đáng nguyền rủa. Nó là thành lũy của Sa-tan.
Đức Chúa Trời đã chối bỏ “cái tôi” bị sa ngã trong vườn Địa đàng nơi mà con người đã chọn con đường cho riêng mình “15. Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn. 16. Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; 17. nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ họ ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.” (Sáng-thế ký 2:15-17). Con người muốn cây đó. Con người muốn điều mà Đức Chúa Trời nói với con người là không được phép. Trong sự sa ngã, Đức Chúa Trời đuổi con người ra khỏi sự hiện diện của Ngài. Kết quả của “cái tôi” là thó quen và chính là đềi sống tội lỗi. Khi Kinh Thánh nói về sự đắc thắng, Kinh Thánh luôn luôn nói đến sự đắc thắng “cái tôi”.
“Cái tôi” là nguồn gốc của tất cả tội lỗi. Bất kỳ nơi nào anh em đi, con thú “cái tôi” điều có ở đó trong anh em. Bây giờ công việc của xác thịt được biểu lộ, đó là: ngoại tình, thông dâm, không tinh sạch, dâm đãng, thọ hình tượng, ganh ghét, bất hoà, tranh cạnh, xung đột, nổi loạn, dị giáo, giết người, say sưa, chè chén, và những điều tương tự. Nếu anh em không đóng đinh “cái tôi”, “cái tôi” sẽ đóng đinh Đấng Christ. Công việc của ma quỷ được thực hiện qua “cái tôi”.
Sự sống của Đấng Christ không thể có trong chúng ta, cho đến khi tinh thần thế gian, tính ích kỷ, tính tự tư tự lợi bị từ bỏ và quăng ra khỏi chúng ta. Mỗi sự nóng giận và đam mê là kẻ sát nhân và kẻ phá hoại sự sống của Chúa làm cho Đấng Christ không được hình thành trong linh hồn đó. Bản chất trụy lạc phải bị khuất phục. Để được cứu rỗi khỏi bệnh hủi của tội lỗi, anh em phải được cứu khỏi “cái tôi”. Trong sự tái sanh, huyết của Chúa Jêsus rửa sạch mọi tội lỗi trong quá khứ. được xưng công bình bởi đức tin có nghĩa là bây giờ anh em dường như chưa bao giờ phạm tội. Phải hiểu tội lỗi đã được rửa sạch, nhưng “cái tôi” vẫn còn đó. Quá trình thánh hoá bắt đầu ở đây.
Sự thánh hoá là sự thay thế sự sống này bằng sự sống khác. Qua sự tăng trưởng thuộc linh mà tạo vật mới nhận được uy lực đắc thắng bản chất cũ. Vì vậy được cứu chuộc khỏi tội lỗi là được cứu khỏi “cái tôi”. “Cái tôi”, bản chất cũ là gốc, là nhánh, là cây và là nguồn gốc của tội ác trên hành tinh này. Không luật pháp là sự ích kỷ. Sự ích kỷ thống trị tội nhân. Đó là lời giải thích cho những hành động của anh ta. Anh ta sẽ giết, trộm cắp, cướp đoạt bởi vì anh ta nghĩ rằng anh ta có quyền. Cũng giống như một con thú trong rừng rậm. Săn bắt những con thú yếu hơn, thú tính của “cái tôi” cướp bóc những con người khác. Tội lỗi là kết quả của “cái tôi” đang gia tăng thay thế quyền lực tối cao trong linh hồn. Các thánh đồ của Đức Chúa Trời luôn luôn đối phó với bản chất cũ. “Hỡi kẻ làm vợ, phải vâng phục chồng mình như vâng phục Chúa” (Ê-phê-sô 4:22).
Bây giờ chúng ta đến phần cuối của bài học, nhưng tôi cảm thấy rằng chúng ta phải tiếp tục. Có thể chúng ta còn rất ít thời gian cho bài học kế tiếp. Nhưng chúng ta phải tiếp tục, đây là điều mà anh em phải hiểu cặn kẽ. Điều này không nói về các tội nhân, nhưng nói về các thánh đồ. Anh em và tôi, bản chất hư họng vẫn còn đó. Mặc dù anh em đã được cứu, có hai con người trong anh em. Đó là con ngươì cũ và con người mới. “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người được dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, này mọi sự điều trở nên mới.” (II Cô-rinh-tô 5:16). Vẫn còn con người cũ mà phải được đối phó trong cuộc sống anh em mỗi ngày. Nó đã bị đóng đinh với Đấng Christ nhưng nó vẫn được giữ trong phần mộ. Bản chất xác thịt ghét Đức Chúa Trời, ghét Đấng Christ, và ghét sự công bình. Bản chất đó ở trong anh em và nó phải được giữ trong tình trạng đã chết. Phao-lô đã nói với các thánh đồ, những người được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Ông nói với họ rất nhiều điều mà ngày nay anh em không còn nghe nhắc đến.
Phao-lô biết con đường duy nhất mà sự sống này được tuôn tràn là phải có một giới hạn rõ ràng giữa con người thuộc linh với Thiên đàng. Chúa Jêsus phán trong Giăng 16:7 “Dầu vậy, Ta nói thật cùng các ngươi : Ta đi là ích lợi cho các ngươi; vì nếu Ta không đi, Đấng yên ủi không đến cùng các ngươi; nhưng nếu ta đi thì ta sẽ sai Ngài đến.” Đúng như Lời của Ngài, Chúa Giê-xu được cất lên và Đức Thánh Linh đã đến. Bấy giờ Chúa Giê-xu nói về Hội Thánh của Ngài “kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy trong lòng mình, dân Y-sơ-ra-ên như Kinh Thánh đã chép vậy.” ( I Giăng 7:38). Lời bình luận của sứ đồ Giăng về điều đó là “Điều này nói lên Ngài là con sông.” Con sông chảy xuống từ ngôi của Đức Chúa Trời là Đức Thánh Linh. Con đường của Đức Chúa Trời là con sông được tuôn ra từ ngôi Đức Chúa Trời đến Hội thánh và từ Hội thánh đến con người.
Con sông cần có Hội thánh nhưng Hội thánh cần có con sông. Chúng ta là những công cụ của Đức Chúa Trời , là thân thể của Đấng Christ có nghĩa rằng chúng ta là những phương tiện để bày tỏ. Thân thể là một phương tiện mà qua đó cá tính được biểu hiện ra. Để thế gian biết sự đụng chạm của Đức thánh Linh thế thì Ngài phải có một công cụ để qua đó Ngài tuôn đổ. điểm yếu của Hội thánh là những đường giao thông chính bị tắt nghẽn. Con sông bị hạn chế.
Ngành dân Y khoa đã biết rằng cholesterol làm nghẽn động mạch, gây ra hạn chế cho sự giao thông của máu. Khi không có đủ lượng máu đi qua, anh em đang ở trong nhịp đập nguy hiểm. Biện pháp cứu chữa duy nhất là không để máu ngưng đi qua các động mạch, hoặc bỏ chúng. Về mặt thuộc linh, sự sống của Hội thánh là Đức Thánh Linh.
Đức Thánh Linh được gọi là Linh của sự sống.”vì luật pháp của Thánh Linh sự sống đã nhờ Đức Chúa Giê-xu Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết”(Rô-ma 8:2). Khi các đường giao thông chính thuộc linh bởi công việc của xác thịt, khi dòng chảy của sự sống bị hạn chế sẽ dẫn đến sự chết- cái chết của tâm linh là kết quả cuối cùng. Thân Thể của Đấng Christ bị tê liệt vì thiếu nhu cầu của sự sống. Ở nơi đang có sự sống, có sự chết. Để cho thế gian biết Đức Chúa Trời, Ngài phải tuôn đổ chính mình qua Hội thánh. Ngài không thể chảy qua một thân thể xác thịt ích kỷ.
Phản ứng lại tình trạng đáng thương này, Phao-lô đã thốt lên rằng “anh em phải bỏ cách ăn ở ngày trước, thoát lốt người củ là người bị hư họng bởi tư dục dỗ dành.” (Ê-phê-sô 4:22). Thật là một điều đáng nói với Hội thánh! Ông nói về người say rượu, người nghiện ma tuý hay các cô gái ăn xương, ông nói với những con người sinh lại bởi Đức Chúa Trời. Một dân tộc đầy dẫy Đức Thánh Linh .
Phao-lô nói vì một mục đích thiết thực, hãy cởi bỏ sự ích kỷ của mình còn nếu không thế gian sẽ chết mà không biết đến Phúc-âm. Cởi bỏ con người cũ. Chúng ta có khuynh hướng xem điều này đơn thuần như một điều thuộc cá nhân. Khi chúng ta nói về con người cũ, chúng ta nói về bản chất ở trong chúng ta nỗi dậy với sự kích động. Không chỉ thế thôi nhưng nó còn trổi dậy mãnh liệt hơn nữa. Cũng như con người mới là con người thuộc về vũ trụ thì con người cũ cũng thuộc về vũ trụ. Cũng như Đấng Christ là đầu của một dòng giống mới, trái đầu mùa của tạo vật mới thì là đầu của tạo vật cũ. Khi Đức Chúa Trời nói, hãy lột bỏ con người cũ cùng với cách ăn ở của nó. Anh em sẽ không khó gì hình dung ra điều phải lột bỏ, nếu anh em nhận biết rằng con người cũ thuộc về thế gian.
Bất kỳ nơi nào trong hành tin này mà anh em đi đến anh em sẽ thấy rằng những con người cũ điều như nhau. Họ có thể khác về màu da, hoặc nói một ngôn ngữ khác, hoặc sống ở một khí hậu khác. Tuy nhiên nếu con người cũ không tái sanh thì con người cũ sẽ phạm tội tà dâm, giết người, trộm cắp, cũng là một con người thông dâm, nói láo, buôn bán ma túy, cho dù chúng ta đặt con người cũ ở bất cứ nơi đâu thì con người cũ cũng sẽ như vậy. Đức Chúa Trời phán hãy lột bỏ con người cũ.
Người đàn bà phạm tội tà dâm được dẫn đến trước mặt Chúa Giê-xu và những người buộc tội bà đã muốn ném đá bà cho chết. Chúa Giê-xu đã trả lời họ như sau “ai trong các ngươi là người vô tội, hãy trước nhất ném đá vào người.” (Giăng 7:8). Nghe những lời đó những người buộc tội đã bỏ đi, và Chúa Giê-xu nói với người đàn bà “10. Hỡi mụ kia, những kẻ cáo ngươi ở đâu? không ai định tội ngươi sao 11. người thưa rằng: Lạy Chúa, không ai hết. Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Ta cũng không định tội ngươi; hãy đi, đừng phạm tội nữa.” (Giăng 8:10-11) Lúc bấy giờ Chúa Giê-xu nói với bà như nói với đứa con nhỏ của Đức Chúa Trời, bởi vì bà đã gọi Ngài là Chúa. Bà đã thay đổi. Vì vậy Ngài nói bà: ta đây cũng không kết tội ngươi đâu. Tại sao Ngài không kết tội bà? Bởi vì là một tội nhân thì bà đã phạm tội rồi. Những tội nhân phạm tội tà dâm, các thánh đồ thì không.
Hãy cởi bỏ con người cũ. Hãy nghe câu Kinh Thánh kế tiếp. Hãy mặc vào con người mới mà Đức Chúa Trời đã tạo ra trong sự công bình và thánh khiết thật sự. Hãy mặc vào con người mới. Đó cũng là điều phổ biến. Bất kỳ nơi nào anh em thấy những tín đồ được tái sanh, giống như nhau. Không có gì tuyệt vềi hơn gia đình của Đức Chúa Trời.
Nơi mà Đức Chúa Trời thấy tạo vật mới, bất chấp ngôn ngữ họ mới, màu da của họ, nơi họ sống, tất cả tạo vật mới điều giống nhau. “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc; không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ; không còn đền ông hoặc đền bà; vì trong Đức Chúa Giê-xu Christ, anh em, thảy điều là một.” (Ga-la-ti 3:28). Tất cả mọi người là một trong Đấng Christ. Có thể thấy con người mới ở khắp mọi nơi. Con người mới phải mặc vào cái gì? Cởi bỏ tính ích kỷ. Tất cả chúng ta từng chứng kiến sự phân rẽ của tôn giáo. Nếu không có Thánh Linh con người với tôn giáo họ nhào nắn ra, họ muốn đổ mọi người vào tôn giáo của mình. Nếu anh em không giống họ và hành động giống họ, họ sẽ đưa anh em vào địa ngục mà không có chút động lòng. Họ là những người độc ác nhất trong thành phố. Khi “cái tôi” đóng đinh “cái tôi” thì sanh ra một hình thức mới của “cái tôi” và “cái tôi” đó còn tệ hại hơn con người ban đầu. Khi anh em nhìn thấy đàn ông hoặc đàn bà trong Thánh Linh đã đắc thắng con người cũ thì anh em thấy được Đấng Christ. Anh em thấy được tình yêu thương, sự vui mừng, sự bình an, và không còn ích kỷ nữa. Đó là môn đồ mà Đức Chúa Trời ao ước.
Mặc vào con người mới. Điều này khiến cho anh em trở nên tốt hơn hoặc sẽ trở nên tệ hơn nếu anh em mặc lấy hoặc từ bỏ con người cũ. Trong Ê-phê-sô 4:24 chép rằng “và mặc lấy con người mới, tức là con người được dựng lên giống như Đức Chúa Trời, trong sự công bình, và sự thánh sạch của lẽ thật.” “như vậy, mỗi người trong anh em phải chừa trong sự nói dối, hãy nói thật với anh em mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau.” (Ê-phê-sô 4:25). Từ “ where- fore” còn có nghĩa là bởi vì. Nói cách đơn giản, bởi vì anh em đã mặc vào con người mới, lột bỏ con người dối trá, nói lẽ thật với người lân cận… Chúng ta có chi thể của nhau. Lời này dành cho các thánh đồ. Đức Chúa Trời phán với con cái của Ngài, bởi sự dối trá đối với nhau. Có thể chúng ta không nói dối, nhưng chúng ta làm ra vẻ ta đây. Chúng ta đến Hội thánh và hành động như các thánh đồ. Trong khi trong công việc chúng ta độc ác như ma quỷ. Chúng ta muốn mọi người tôn trọng chúng ta hơn con người thực sự của chúng ta.
Đức Chúa Trời bảo lột bỏ con người dối trá. Hãy mở rộng tấm lòng anh em. Nếu anh em cần giúp đỡ, hãy thú nhận sự yếu đuối của mình với người khác. Nếu anh em yếu đức tin, hãy nhọ anh em cầu nguyện cho mình. Đừng có cố thủ nhưng hãy cởi mở. Nếu có điều gì sai trật thì hãy thừa nhận sự sai trật đó. Nếu anh em có điều gì trong cuộc sống mà anh em cần phải xem xét lại và hành động như thể mọi việc điều ổn cả, nhưng anh em đang nói dối, và không có sự giúp đỡ nào cho một kẻ dối trá.
Có một thời gian khi Hội thánh Ngũ Tuần giảng về sự phục hồi. Không cần phải nói gì về điều đó nữa. Có lúc người của Đức Chúa Trời giảng: muốn ngay thẳng với Đức Chúa Trời thì anh em phải ngay thẳng với anh em mình. Bức thông điệp thì không rõ ràng. Nếu anh em làm điều gì sai trật với một người nào khác, anh em phải sửa lại cho đúng. Còn nếu không thì Đức Chúa Trời sẽ không nghe lời cầu nguyện của anh em. “Vậy, hãy xưng tội cùng nhau, và cầu nguyện cho nhau, hầu cho anh em được lành bệnh: người công bình lấy lòng sốt sắn cầu nguyện, thật có linh nghiệm nhiều.” (Gia-cơ 5:16). Anh em nghe tiếng kêu khóc. Tôi không giúp gì được cho họ. Nó sẽ làm tôi bối rối. “cái tôi” bối rối đủ để cho tôi không làm điều đó nữa.
Đức Chúa Trời phán hãy lột bỏ sự dối trá. Từ bỏ hành động làm như mọi việc điều tốt trong khi tội lỗi vẫn còn trong đời sống của anh em. Anh em không dâng 1/10 của mình, anh em đã ăn cắp của Đức Chúa Trời. Anh em không phải rõ ràng về điều này hay là Đức Chúa Trời sẽ không nói với anh em nữa. Đức Chúa Trời yêu anh em, Chúa Giê-xu chết vì anh em, vì vậy anh em được dự phần trong sự đắc thắng. Nhưng anh em sẽ không tăng trưởng nếu anh em vẫn còn có những điều gì dấu kín, vì người che dấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn. Nhưng nếu anh ta thú tội lỗi mình ra thì sẽ được thương xót. Có phải Ngài đang nói về các thánh đồ chăng? Dĩ nhiên rồi! Xác thịt nào chưa được thánh hóa sẽ lộ ra trong Hội thánh , đó là điều Đức Chúa Trời muốn nói đến. Đừng phạm tội trong khi giận dữ. Đừng giận ai cho đến khi mặt trời lặn, có những điều làm cho anh em giận dữ nhưng Đức Chúa Trời phán đừng phạm tội trong khi giận dữ.
Sự cay đắng giống như bệnh ung thư. Nó sẽ phá hủy anh em về mặt vật lý cũng như tâm linh. Dẫu cho những người khác có làm gì đối với anh em, anh em phải là người ngay thẳng. Nếu anh em trả đũa, anh em cũng chẳng tốt hơn họ. Khi con người vẽ một cái vòng và cho họ đứng ở bên ngoài thì anh em phải vẽ cái vòng của mình lớn hơn để cho họ cùng đứng vào trong. Hãy cầu nguyện cho những người đối xử một cách ác ý đối với mình. Hãy yêu kẻ thù mình. Chúa Giê-xu yêu anh em, vì vậy anh em phải yêu những người khác. Hãy giữ tấm lòng mình ngay thẳng. Đừng để những điều gì trong lòng làm gia đình mình cách xa Đức Chúa Trời. Hãy để người trộm cắp không còn trộm cắp nữa. Con người có thể ăn cắp của Đức Chúa Trời được sao? Tuy vậy, các ngươi đã ăn trộm 1/10 tiền dâng của ta, 1/10 là của Đức Chúa Trời. Đó là của lễ thánh. Hãy đoan chắc rằng lòng của anh em ngay thẳng, anh em không ăn cắp của Đức Chúa Trời. Anh em không hiềm khích với bất cứ ai,. Đừng dối trá với Hội thánh bằng cách cố gắng sống che dấu con người thật của mình. Đừng có những lời nói bại hoại nào thốt ra từ miệng anh em. Chỉ nói những điều đem đến sự gây dựng. Chúa Giê-xu nói, ai là môn đồ ta trước hết hãy làm điều gì? phải bỏ chính mình.
Môn đồ thật là một người không ích kỷ, không chứa chấp sự ganh ghét. Chúa Giê-xu bị sỉ vả (có nghĩa bị hành hạ), Ngài đã không sỉ vả lại. Amy Semple Mac Pherson là một trong những diễn giả vĩ đại. Một người bạn của tôi ở Los Angeles kể cho tôi nghe câu truyện này. Khi cô Mac pherson chăn bầy ở Los Angeles Temple thì bạn của tôi là người chuyên đi giao sữa và trên tuyến đường đi giao sữa anh ta sẽ đi ngang qua đền thờ vào lúc 4 giờ sáng. Mỗi buổi sáng, khi anh đi ngang qua, anh luôn nhìn thấy cô đứng trên tháp với đôi tay giơ cao lên chọ đợi Đức Chúa Trời. Khi anh ta trở về vào lúc buổi chiều cô vẫn ở đó với đôi tay đưa cao lên chờ đợi Đức Chúa Trời. Có một thời gian mọi người chống lại người phụ nữ đáng yêu này. Có nhiều điều nói láo kể về cô. Trong suốt thời gian này, một trong những luật sư giỏi ở Los Angeles, tôi biết hầu hết các điều gì đang đồn ra điều là dối trá và nếu cô đồng ý chúng ta sẽ kiện họ. Tôi có thể làm cho cô nhận được một số tiền bồi dưỡng thật xứng đáng. Câu trả lời của cô rất đơn giản. Tôi không bao giờ làm điều đó. Luật sư hỏi cô tại sao. Cô trả lời ông ta “khi tôi còn là một cô gái, tôi đọc truyện thấy rằng một con chó sủa một bà Hoàng Hâu nhưng bà Hoàng Hậu không sủa trả lại.”
Đây là thái độ của môn đồ thật. Đây là ý nghĩ của việc đang trở nên giống với hình ảnh của Đấng Christ. Đó là tâm linh và đạo đức. Đó không phải là đi trên mặt nước. Không phải là làm cho kẻ chết sống lại. Đó là khi tôi bị sỉ vả, đánh đập, tôi không sỉ vả lại. Khi tôi bị lợi dụng một cách sai trật, khi đó tôi sẽ cầu nguyện cho những người lợi dụng tôi một cách sai trật. Khi con chó sủa tôi, tôi sẽ không sủa lại con chó. Nếu anh em muốn được chữa lành, nếu anh em muốn có sự chúc phước, thì đó là cách để nhận lãnh. Điều đó không chỉ nói về đức tin suông, anh em có đức tin nếu anh em được tái sanh. Câu trả lời là hãy khơi cho dòng nước chảy được khai thông. “Và đừng để cho ma quỷ nhơn dịp” (Ê-phê-sô 4:27). Lời này có nghĩa chúng ta đừng để ma quỷ bước vào và chiếm đoạt điều gì thuộc về chúng ta. Điều đó cũng đã là tốt rồi nhưng Đức Chúa Trời muốn nói nhiều hơn thế nữa. Ngài nói đừng để cho ma quỷ nhơn dịp trong sự giận dữ, trong thái độ và trong mối quan hệ của anh em với những người đồng công của anh em. Bất kỳ lúc nào anh em để “cái tôi” xuất hiện thì anh em đã để cho ma quỷ nhơn dịp, vì bản chất đó là thân thể , là đất của ma quỷ. “Anh em chớ làm buồn Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhọ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc.” (Ê-phê-sô 4:30)
Anh em đã làm buồn Đức Thánh Linh như thế nào? Qua việc để cho bản chất xác thịt điều khiển hành động của anh em. Qua sự sử dụng những vũ khí sai trật. Khi ai đó nói xấu anh em, anh em lại nói xấu về họ. Khi ai đó vả vào má anh em, anh em đánh trả lại. Điều này làm buồn Đức Thánh Linh. Những vũ khí của bản chất xác thịt trong trận chiến của chúng ta không phải là xác thịt. Trong trận chiến này, tình yêu thương được thay thế cho sự ghét bỏ. Môn đồ thật có thể yêu kẻ thù nghịch mình. Khi đưa luôn má bên kia của anh em cho đánh thì thật là an đảm hơn là đánh trả lại. Chỉ có Cơ-đốc nhân thật mới làm điều đó. Khi chúng ta chân thật với Đấng Christ chúng ta không làm buồn lòng Đức Thánh Linh … “anh em chớ làm buồn Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời , vì nhọ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc.” Câu 31 chỉ ra giải pháp hãy lắng nghe “phải bỏ khỏi anh em những sự cay đắng…” sự cay đắng độc hại đối với nhân linh con người thể nào thì cũng độc hại đối với đềi sống vật lý như thể ấy. Nó sẽ tàn phá anh em. Anh em sẽ dành thời gian để theo đuổi điều không đánh giá. “Phải bỏ khỏi anh em những sự cay đắng, buồn giận, tức mình, kêu rêu, mắng nhiếc cùng mọi điều ác.” (Ê-phê-sô 4:31)
Khi người đàn ông và vợ anh ta bất hòa với nhau, lời cầu nguyện của họ bị ngăn trở. Lời của Đức Chúa Trời chỉ dẫn chúng ta là hãy chấp nhận khuyết điểm của bạn. Tại sao tôi làm buồn lòng Đức Thánh Linh? Tại sao lại tranh luận? phải giống như Đấng Christ. Anh em sẽ thuyết phục ma quỷ bất cứ điều gì chẳng vì vậy Lời Đức Chúa Trời nói hãy bỏ điều đó ở lại đằng sau. Hãy đi trong Đức Thánh Linh. Hãy vứt bỏ tất cả những lời nói gian ác cùng với sự độc ác. Đây là hình ảnh đẹp. “Hãy ở với nhau cách nhơn từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.” (Ê-phê-sô 4: 32). Nếu thế gian tìm thấy sự nhơn từ của một cộng đồng như vậy thì nó sẽ mở một con đường đến các cửa của chúng ta. Thế gian tìm kiếm tình yêu thương, tìm kiếm những người quan tâm đến họ. Khi họ nhìn vào Hội thánh họ thấy rằng tất cả những sự thù hận, tranh đấu, ẩu đả không còn nữa. Nơi đó “cái tôi” đã chết trong Đấng Christ. Chúa Giê-xu phán “còn ta, khi ta được treo lên khỏi đất, ta sẽ khiến mọi người đến cùng ta.” (Giăng 12:32). Nếu họ nhìn vào Hội thánh, họ thấy được Chúa Giê-xu Christ họ sẽ được kéo đến gần Ngài.
“1. vậy anh em hãy trở nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời như con cái rất yêu dấu của Ngài. 2. Hãy bước đi trong sự yêu thương, cũng như Đấng Christ đã yêu thương anh em, và vì chúng ta phó chính mình Ngài cho Đức Chúa Trời làm của lễ , của dâng và của tế lễ, như một thứ hương có mùi thơm. 3. Phàm những sự gian dâm, hoặc sự ô uế, hoặc sự tham lam, cũng chớ nên nói đến giữa anh em, theo như cách xứng đáng cho các thánh đồ. 4. Chớ nói tục tỉu, chớ giễu cợt, chớ giả ngộ tầm phào, là những điều không đáng, nhưng thà cảm tạ ơn Chúa thì hơn. 5. Vì anh em phải biết rằng kẻ gian dâm, ô uế, tham lam, tức là kẻ thọ hình tượng., không một kẻ nào được dự phần kế nghiệp của nước Đấng Christ và Đức Chúa Trời.” (Ê-phê-sô 5:1-5)
Trong chương 6, sau khi liệt kê cách sống mà Đức Chúa Trời mong đợi ở các thánh đồ của Ngài, Phao-lô nói tiếp trong câu 10 “10. vả lại, anh em phải làm mạnh dạng trong Chúa, nhọ sức toàn năng của Ngài. 11. hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, để được đứng vững mà địch cùng mưu kế của ma quỷ. 12. Vì chúng ta đánh trận chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua Chúa của thế gian mờ tối này, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy.” Trong thời đại này, sự giải cứu được đưa ra hầu hết là về mặt vật lý. Đây là khuyết điểm trầm trọng. Chúng ta sẽ không bao giờ thấy sự giải cứu về mặt vật lý theo như Đức Chúa Trời dự định nếu không có một sự giải cứu về mặt tâm linh. Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời để được đứng vững mà địch cùng sự cay đắng của ma quỷ. Để anh em đứng vững mà chống lại linh nói dối. Để anh em cầu nguyện cho những người lạm dụng anh em.
Tự anh em không thể làm được điều đó. Anh em không thể đắc thắng cơn tức giận bằng một cơn phẩn nộ. Ai dùng gươm sẽ bị chết vì gươm,. Ai mang lấy khí giới của Đức Chúa Trời sẽ sống mãi mãi. Chúng ta muốn có những điều này để giải cứu những ngưởi khác, nhưng Đức Chúa Trời muốn giải cứu chúng ta trước Ngài muốn giải cứu chúng ta khỏi những nổ lực của xác thịt, khỏi tất cả tôn giáo “tự thực hiện” của chúng ta khỏi sự hô hào của các nhà chính trị. Xuống đường chống lại sự phá thai hay điều gì khác. Tôi phản đối sự phá thai. Tôi ao ước họ đừng bao giờ tách phân tử. Tôi rất muốn có sự cầu nguyện trở lại ở trong các trường đại học của chúng ta, nhưng để có điều tôi vừa nói, tôi phải nói nhiều hơn. Thật là vô ích khi cố gắng ép buộc những giáo viên chưa nhận được sự cứu rỗi cầu nguyện khi ngay cả chúng ta cũng không cầu nguyện trong Hội thánh. Tại sao một giáo viên chưa được cứu lại cầu nguyện với con của anh em. Khi chính anh em chưa có lễ bái gia đình. Hãy làm điều tốt cho Hội thánh. Hãy quăng ra khỏi chúng ta sự cay đắng, sự dối trá, trộm cắp và sự giận dữ. Hội thánh sẽ chữa lành cho xã hội.
Chính sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong Hội thánh thực hiện sự chữa lành. Trong Thi-thiên, Đức Chúa Trời nói Biển Đỏ chạy trốn trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong dân Giu-đa. Hãy làm Hội thánh phục hưng. Hãy để Hội thánh được chữa lành mặt thuộc linh và sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong Hội thánh sẽ khiến cho những người bị tà linh không còn xuất hiện trên đường phố của chúng ta nữa. Trong Cựu-ước, khi lời Đức Chúa Trời bị đánh mất đi, họ không còn nhìn thấy Lời Chúa trong trường học, họ tìm thấy Lời Chúa trong Lời Đức Chúa Trời. Đó là nơi đầu tiên nó bị đánh mất. Tôi đang nói về những môn đồ ích kỷ. Đó là những người đã được mua bởi một giá chuộc. Anh em muốn Đức Chúa Trời làm phép lạ trong Hội thánh chúng ta hay không? Anh em muốn Đức Chúa Trời vận hành hay không? Thế thì chúng ta hãy ngưng việc làm buồn Đức Thánh Linh bằng sự ích kỷ của mình.
Bài học này coi như là hai bài. Chúng ta không nghỉ giải lao ở thời gian giữa hai bài này, thế thì bây giờ chúng ta sẽ nghỉ giải lao bù. Nhưng tôi đã cảm nhận rằng tôi phải tiếp tục bài học rất là quan trọng để cho chúng ta biết về phẩm chất này của một môn đồ. Một môn đồ thật thì hoàn toàn không ích kỷ. Có lẽ Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng ta khi chúng ta rời khỏi môi trường này, trở về các Hội thánh của chúng ta, và qua Lời của Đức Chúa Trời , đào tạo ra những môn đồ như vậy cho Đức Chúa Trời .
bottom of page