top of page
Hung Tran
Apr 25, 2024
Tính chất tương phản trong vùng đất của Kinh Thánh càng được khẳng định gấp đôi khi nghiên cứu về khí hậu và thảo mộc ở đó...
Phần hai: Những Đặc Trưng Của Xứ Thánh.
Khí hậu và thảo mộc.
Tính...
...chất tương phản trong vùng đất của Kinh Thánh càng được khẳng định gấp đôi khi nghiên cứu về khí hậu và thảo mộc ở đó. Cả hai yếu tố nầy phô bày mức độ tương phản cao trong vùng đất của Kinh Thánh.
Khí hậu:
Khí hậu có thể được định nghĩa là những điều kiện phổ biến về nhiệt độ, lượng mưa, áp suất không khí trong một khu vực nào đó. Pa-lét-tin là một khu vực có khí hậu chuyển tiếp bao gồm bốn vùng thời tiết nổi bật.
• Khí hậu Địa Trung Hải (khu vực ẩm ướt): Miền nầy bao gồm vùng duyên hải và vùng cao nguyên trải dài từ Giu-đê đến những phần phía bắc của Palestine. Có đặc trưng như một khu vực ẩm ướt bán nhiệt đới, với lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 14 inches (355 mm). Nhờ lượng mưa cao nên khu vực nầy có nhiều rừng, với những cây cối chính là terebinth và sồi xanh quanh năm. Hầu hết các phần đất quan trọng của Kinh Thánh nằm trong vùng khí hậu Địa Trung Hải nầy.
1. Khí hậu Irano-Turonian (thảo nguyên khô -cao nguyên-).
Bao gồm trong khu vực nầy là vùng Nê-ghép (Negev) của Palestine, nhất là vùng chung quanh địa điểm Bê-e Sê-ba. Miền nầy có lượng mưa hàng năm ít hơn khu vực Địa Trung Hải, trung bình từ 6 - 12 inches (152 - 305 mm). Các dạng thảo mộc thấp sống trong khu vực nầy. Về mặt lịch sử nó được xem như một miền của dân du mục và canh tác khô thô sơ.
2. Khí hậu Saharo- Sindian (sa mạc).
Vùng khí hậu nầy chứa đựng các miền sa mạc của Pa-lét-tin bắt đầu với vùng nam Nê-ghép và di chuyển xa hơn về phía nam. Đó là một phần của vùng nhiệt đới khô cằn chính yếu bao gồm các sa mạc A-ra-bia và Sa-ha-ra. Lượng mưa hàng năm ở khu vực khô cằn nầy chỉ có 2 - 6 inches (50-150 mm). Bất cứ việc canh tác nào ở vùng nầy đều hoàn toàn lệ thuộc vào hệ thống thuỷ lợi.
3. Khí hậu Sudano-Deccanian (các ốc đảo).
Những điểm ốc đảo nầy xuất hiện chủ yếu quanh bờ Biển Chết. Những khu vực nầy là những vùng tiểu khí hậu, biệt lập chịu được nhiệt độ cao và duy trì những nguồn nước ngọt phong phú. Giê-ri-cô và Ên-ghê-đi là những kiểu mẫu chính của ốc đảo trong vùng đất của Kinh Thánh. Thảo mộc tiêu biểu nhất là cây lotus.
Vị trí Palestine bên trong bốn vùng nầy dẫn đến sự đa dạng khí hậu rõ nét trên một miền nhỏ. Khoảng cách giữa Giê-ru-sa-lem và Giê-ri-cô chỉ có mười bốn dặm (22.5 km), nhưng sự khác biệt khí hậu là rất lớn. Giê-ru-sa-lem nhận lượng mưa 21 inches (534 mm)một năm và có nhiệt độ trung bình 640 F (17,70 C), trong khi Giê-ri-cô lượng mưa chỉ có 6 inches (150 mm) và có nhiệt độ trung bình là 770 F (250 C).
Thật chẳng có gì lạ khi Hê-rốt Đại Đế cho xây một lâu đài mùa đông tại Giê-ri-cô. Ở đó ông có thể vui hưởng thời tiết êm dịu trong suốt những tháng mưa lạnh lẽo trong năm; dù vậy ông không bao giờ đi xa thủ đô chính tại Giê-ru-sa-lem. Do tính đa nghi về những âm mưu có thể diễn ra trong hoàng cung, Hê-rốt không bao giờ muốn đi xa trung tâm cai trị. Tại Giê-ri-cô, ông được nghỉ ngơi thoải mái mà vẫn nắm vững quyền cai trị.
Palestine có hai mùa rõ rệt. một mùa khô vào mùa hè và một mùa mưa vào mùa đông. Mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 10), được đặc trưng bởi nhiệt độ cao, những đợt gió tây nhẹ liên tục, và những điều kiện hầu như khô hanh. Những cơn bão mùa hè rất hiếm hoi. Việc Sa-mu-ên cầu xin một trận giông tố lớn vào lúc mùa gặt cho thấy tính chất bất thường của một sự kiện như thế (I Sa-mu-ên 12). Mùa khô hanh thường bắt đầu với sự xâm nhập của gió nóng sa mạc gọi là hamsin . Những cơn gió nầy làm khô hẳn quang cảnh Palestine.
Mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 4) trong vùng đất của Kinh Thánh thật khó đoán trước được. Lượng mưa lớn nhất rơi vào mùa nầy. Kinh Thánh mô tả hiện tượng nầy như là việc Đức Chúa Trời ban cho “mưa mùa thu và mưa mùa xuân xuống thuận thì tại trong xứ các ngươi” (PhuDnl 11:14). Lượng mưa có thể xuống dưới dạng mưa đá hoặc tuyết trong các vùng cao nguyên (Thi Tv 68:14). Lượng mưa thường tăng dần từ nam đến bắc.
Khí hậu, nhất là lượng mưa, có lẽ là yếu tố vật lý quan trọng nhất ảnh hưởng đến hoạt động con người trong vùng đất của Kinh Thánh. Những khu định cư gắn liền chủ yếu với các nguồn khí hậu và nguồn nước. Vùng Nê-ghép, những khu vực sa mạc, và Biển Chết, với lượng mưa ít oi, chủ yếu là những vùng định cư tạm thời cho những cư dân bán du mục biết canh tác nông nghiệp thô sơ. Vành đai khí hậu phía bắc có đặc trưng định cư khác hẳn một phần bởi vì thời tiết dịu hơn và lượng mưa lớn hơn. Về mặt lịch sử, phía bắc có nhiều điểm định cư lâu dài hơn và là trung tâm của hoạt động nông nghiệp. Trải qua suốt lịch sử, vùng phía bắc luôn đông dân cư hơn vùng phía nam.
Sự tương phản giữa vùng sa mạc và vùng đất canh tác đã dẫn đến nhiều xung đột giữa các dân tộc sống trong những vùng khác biệt nầy. Những kẻ cướp từ sa mạc như là người A-ma-léc và người Ma-đi-an tỏ ra là những đối thủ nguy hiểm nhất của dân Y-sơ-ra-ên. Con dân của Đức Chúa Trời, sống chủ yếu trong vùng đồi núi và hầu hết đều sống bằng nghề nông, dường như luôn luôn xung đột với các dân tộc vùng biên giới. Sau-lơ, chẳng hạn, nghĩ rằng cần phải bảo đảm biên giới Y-sơ-ra-ên khỏi những kẻ xâm lược từ sa mạc đến nỗi ông phát động một chiến dịch quân sự lớn chống lại những bộ lạc ở sa mạc (ISa1Sm 14:47-48).
Khí hậu quyết định phần lớn nền kinh tế của vùng đất của Kinh Thánh. Vào thời cổ đại, nông nghiệp là cơ sở của nền kinh tế Palestine. Những khu vực nhận được lượng mưa đầy đủ có khả năng duy trì được nền canh tác tự nhiên, và vì vậy có được lợi thế nông nghiệp quan trọng. Vùng Y-sơ-ra-ên của Kinh Thánh trước đó được chiếm cứ chủ yếu bởi một giống dân cao nguyên sống tại các vùng núi non Giu-đê và Sa-ma-ri. Bởi vì những miền nầy nhận được lượng mưa đầy đủ và đất đai phì nhiêu, chúng có thể duy trì được khả năng canh tác nông nghiệp đáng kể. Cả ngũ cốc và cây trái ngon ngọt được trồng trong miền nầy. Những lợi thế nầy dẫn Y-sơ-ra-ên đến chỗ phát triển một nền kinh tế dựa chủ yếu trên nông nghiệp.
Thảo mộc:
Khí hậu, địa hình, và thổ nhưỡng là những yếu tố chủ yếu trong việc quyết định thảo mộc hoặc địa lý cây trồng. Khí hậu cung cấp những điều kiện về lượng mưa và nhiệt độ thích hợp hoặc không thích hợp, như là lượng nước cần thiết cho sự phát triển của cây trồng; địa hình cung cấp một hình trạng bề mặt thích hợp cho những quần thể cây trồng nhất định; và thổ nhưỡng cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho những loại cây trồng đặc thù. Bên trong vùng đất của Kinh Thánh, như đã đề cập, có những khác biệt quan trọng tồn tại trong mỗi một yếu tố nầy. Do đó, Palestine là một vùng đất có nhiều tương phản về thực vật nhưng không kém về chủng loại với trên 3000 lòai thực vật khác nhau.
Bốn quần thể cây trồng có thể được phân biệt trong vùng đất của Kinh Thánh. Những quần thể nầy tương ứng với bốn vùng khí hậu đã trình bày trên đây.
1. Hệ thực vật Địa Trung Hải (khu vực ẩm ướt ):
Vùng nầy là quần thể thảo mộc lớn nhất trong vùng đất Kinh Thánh và nhận được lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 14 inches (355 mm). Cây cối trong vùng Địa Trung Hải được phân bố trên hai phong cảnh khác biệt rộng rãi. vùng đồi núi và vùng duyên hải. Vùng đồi núi đặc trưng trong thời Kinh Thánh là một vùng khí hậu có rừng cây bụi xanh tươi quanh năm và rừng rậm. Trong những vùng đồi núi nầy người ta có thể tìm thấy thảo mộc dạng cây bụi mọc nhiều với cây lớn mọc rải rác như là loại sồi xanh quanh năm, terebinth, và thông Giê-ru-sa-lem. Nhiều giống cây nầy đã biến mất bởi nạn phá rừng, nhưng phần sót lại nghèo nàn của giống cây xanh tươi quanh năm được bảo tồn trong những vùng như núi Cạt-mên.
Những thung lũng và vùng duyên hải Palestine có cây cối thấp cây hơn vùng cao nguyên. Những khu vực nầy được tiêu biểu bởi một thảm dày đặc các lùm cây thấp và
2. Hệ cây cối Irano-Turonian (thảo nguyên khô#).
Nhận được một lượng mưa hàng năm chỉ khoảng 6 - 12 inches (50 -150 mm), vùng nầy có thể duy trì một thảm thực vật thưa thớt. Đặc trưng cho quần thể cây cối nầy là những bụi cây thấp và bụi rậm lè tè. Dạng thực vật nầy tập trung chủ yếu trong vùng Bê-e Sê-ba.
3. Hệ thực vật A-ra-bi (sa mạc).
Khu vực nầy gồm có các vùng sa mạc Palestine, kể cả vùng Biển Chết, vùng sa mạc Giu-đê, phần lớn vùng Nê-ghép, và phần lớn cao nguyên Si-na-i. Dạng thảo mộc sa mạc nầy chỉ có một thảm thực vật thưa thớt. Nhiều vùng khô cằn, không có cây cối nào mọc được. Thảo mộc phần lớn tập trung trong lòng các dòng suối cạn nơi cây cối sinh trưởng nhờ các trận lụt mùa đông.
4. Hệ thảo mộc Su-đan (ốc đảo).
Khu vực nầy bao gồm trên bốn mươi loại thực vật đều cần nhiệt độ cao và nhiều nước. Các địa điểm ốc đảo trong vùng đất Kinh Thánh (Ên-ghê-đi, Giê-ri-cô, vv…) cung ứng đúng loại môi trường cần thiết cho mức độ đa dạng thực vật nầy. Như đã đề cập trước đây, cây lotus là loại thực vật quan trọng nhất trong khu vực nầy.
Nông nghiệp là nền móng của hầu hết các nền kinh tế cổ xưa trong vùng đất Kinh Thánh. Y-sơ-ra-ên, nằm chủ yếu trong các vùng đồi núi thuộc vùng khí hậu và thực vật Địa Trung Hải, là một xã hội nông nghiệp. Tương phản với các dân tộc sống trong vùng Nê-ghép và Si-na-i, người Hê-bơ-rơ ít sử dụng thủy lợi để canh tác bởi lượng mưa cao đủ cho họ để canh tác theo lối tự nhiên. Kinh Thánh mô tả cụ thể ơn phước dành cho Y-sơ-ra-ên ở phương diện nầy. “Nhưng xứ các ngươi sẽ đi vào nhận lấy đó, là một xứ có núi và trũng, nhờ mưa trời mà được thấm tưới. Ấy là một xứ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi săn sóc, mắt Ngài hằng đoái xem nó từ đầu năm đến cuối.” (PhuDnl 11:11-12).
Các sản phẩm nông nghiệp được người Y-sơ-ra-ên trồng trong vùng đồi núi cũng được mô tả trong Kinh Thánh.
Chúng bao gồm các sản phẩm vườn tược cũng như ngũ cốc. “Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ khiến ngươi vào xứ tốt tươi, có nhiều khe, suối, nước sâu phun lên trong trũng và trên núi; xứ có lúa mì, lúa mạch, dây nho, cây vả, cây lựu, dầu ô-liu và mật” (8:7-8).
Người Y-sơ-ra-ên canh tác một số vụ mùa quan trọng. Tại địa điểm Y-sơ-ra-ên ở Ghê-xe, các nhà khảo cổ khám phá một tấm bảng đất sét viết chữ Hê-bơ-rơ mô tả niên lịch nông nghiệp căn bản. Bảng đó như sau.
Hai tháng để thu hoạch ô-liu
• Hai tháng để trồng lúa mì,
• Hai tháng để trồng trọt mùa muộn,
• Một tháng để cày xới cây lanh
• Một tháng để thu hoạch lúa mạch,
• Một tháng cho mùa gặt và hội hè,
• Hai tháng để chăm sóc vườn nho,
• Một tháng cho bông trái mùa hè:
Mặc dù lượng mưa đáng kể của vùng núi Giu-đê và Sa-ma-ri là một thuận lợi cho nông nghiệp Y-sơ-ra-ên, các vùng đất dốc lại là một nan đề. Trong trạng thái tự nhiên, các triền dốc đứng của hầu hết các vùng núi thuộc loại không thể canh tác được. Nước rửa trôi các sườn núi, làm xói mòn hết đất canh tác. Do đó, tầng đất canh tác vùng cao nguyên còn lại rất mỏng. Ngoài ra, một loại đất pha lẫn đá là nét đặc trưng của khu vực. Những yếu tố nầy khiến cho vùng cao nguyên trở nên một vùng khó khăn cho nông nghiệp.
Tuy nhiên, người Hê-bơ-rơ thiết lập những điều kiện nông nghiệp thuận lợi, liên tục và rộng rãi trên những vùng dốc bằng cách làm vườn bậc thang. Làm vườn bậc thang là một hệ thống nhân tạo bởi đó các sườn đồi dốc được cải tạo thành những chuỗi các bề mặt phẳng nằm ngang. Nó có ba chức năng. ngăn ngừa xói mòn, tăng cường độ tích lũy nước và đất trồng, và cất bỏ đá khỏi lớp đất trồng bằng cách sử dụng chúng làm những bức tường cho bậc thang. Theo cách nầy, người Y-sơ-ra-ên có thể sử dụng đất mà trước đây có giá trị nông nghiệp hạn chế. Cả các vụ trái cây ngon ngọt lẫn vụ ngũ cốc đều phát đạt trên những vùng dốc nầy.
Để tạo ra nhiều đất đai nông nghiệp hơn, người Y-sơ-ra-ên dọn sạch cây cối trên vùng cao nguyên. Sách Giô-suê giải thích. “Vả, con cháu của Giô-sép nói cùng Giô-suê rằng. chúng tôi đã thành một dân đông, vì Đức Giê-hô-va đã ban phước cho chúng tôi đến ngày nay; vậy tại làm sao ông ban cho chúng tôi chỉ một phần đất làm sản nghiệp? Giô-suê đáp. Nếu các ngươi đông như vậy, và núi Ép-ra-im rất hẹp cho các ngươi, thì hãy lên khai phá rừng, đặng làm một chỗ ở cho mình… núi sẽ thuộc về các ngươi; Dù là một cái rừng, ngươi sẽ khai phá nó” (Gios Gs 17:14-18).
Một sáng kiến quan trọng khác trong nông nghiệp là việc giới thiệu các bàn ép có đòn bẫy để chế biến dầu ô-liu. Các khám phá khảo cổ về các bàn ép dầu tại địa điểm Hê-bơ-rơ ở Bết Sê-mết, Đan, Ghê-xe, và Tell Beit Mirsim cho thấy rằng chúng được dùng phổ biến không trể hơn thế kỷ thứ tám trước kỷ nguyên Cơ-đốc.
Một số người Y-sơ-ra-ên cư trú trong các vùng sa mạc đòi hỏi phải làm thủy lợi. Các nhà khảo cổ học khám phá bằng chứng các nông gia Hê-bơ-rơ đã tạo ra các đập bậc thang để canh tác trong vùng sa mạc nhằm kiểm soát tốt hơn nguồn cung cấp nước hạn chế. Người Hê-bơ-rơ biết phát triển hoặc vay mượn các thủ thuật nông nghiệp đa dạng để canh tác những khu vực mà mãi đến lúc ấy chỉ mới được định cư thưa thớt.
bottom of page