top of page

Hung Tran
Jun 26, 2023
Giáo Trình I.S.O.M International School of Ministry
(Mục sư Dick Benjamin)
Mục sư Benjamin đang giữ chức vụ chăm sóc cho 60 hội thánh, phần lớn là do ông mở mang. Hội thánh của ông tại Alaska đã gởi hơn 1000 thành viên để mở mang hội thánh mới.
(Mở Bài Học - Mở Bài Thi)
E5.1 Trưởng Lão - Chức Vụ Trưởng Lão Và Hành Chức Trưởng Lão.
E5.2 Công Tác Và Các Mối Quan Hệ Của Các Trưởng Lão Trong HT Tân Ước.
E5.3 Các Phẩm Chất Của Trưởng Lão.
E5.4 Chức Vụ Năm Phương Diện.
E5.5 Chức Vụ Năm Phương Diện (Tiếp Theo).
PHẦN 1: TRƯỞNG LÃO, CHỨC VỤ TRƯỞNG LÃO VÀ HÀNH CHỨC TRƯỞNG LÃO
LỜI GIỚI THIỆU
Lời chứng cá nhân của Richard C. Benjamin Sr về kinh nghiệm của ông trong chức vụ và trong đời sống gia đình của mình.
Chúng ta được Chúa Jêsus phán dạy là phải rao giảng Phúc-âm cho toàn thế giới. Chúng ta được dạy bảo là phải môn đồ hóa những người hư mất sau khi họ đã được cứu. Nhưng ý định của Đức Chúa Trời là xây dựng các Hội thánh giữa những người đó.
Thật là một điều buồn lòng Chúa khi thấy nhiều người được cứu nhưng lại không được đưa vào các Hội thánh cách thích hợp để được chăm sóc. Mỗi con chiên đều cần một người chăn và một ràn chiên. Vậy là tôi sẽ nói về chức vụ trưởng lão theo Kinh Thánh.
DÀN Ý BÀI HỌC
I. THÀNH VIÊN CỦA MỘT HỘI THÁNH ĐỊA PHƯƠNG
Khi viết thư cho Hội thánh Phi-líp, sứ đồ Phao-lô bắt đầu bằng cách nói là gởi cho các thánh đồ, các chấp sự và các trưởng lão. Mỗi Hội thánh địa phương đều cần các thánh đồ, các chấp sự và các trưởng lão.
A. Các thánh đồ:
Chữ “thánh” có nghĩa là được thánh hóa hay biệt riêng ra cho công việc cuả Đức Chúa Trời. Trong cách sử dụng chung, thánh đồ nói đến tất cả các tín hữu trong Đấng Christ.
B. Các chấp sự: từ liệu Hy-lạp chủ yếu nói về người đầy tớ.
Từ này được dùng trong các bối cảnh khác nhau.
1. Những người giúp đỡ. (Cong Cv 19:22)
2. Những nhà cầm quyền dân sự. (RoRm 13:4)
3. Những đầy tớ. (nô lệ) (16:1; I Cor1Cr 3:5)
4. Các thiên sứ. (HeDt 1:14).
Đây là từ có nhiều nghĩa. Các tiêu chuẩn ( phẩm chất) theo Kinh thánh dành cho các chấp sự (Cong Cv 6:3; ITi1Tm 3:8-14). Họ là những người có đặc tính xuất sắc. Trước tiên họ phải được chứng tỏ là xứng đáng. Vợ của họ phải đáp ứng một số phẩm chất nhất định.
Khi viết thư cho Hội thánh tại Phi-líp, sứ đồ Phao-lô viết cho các thánh đồ, các chấp sự và các trưởng lão.
C. Người Coi Sóc.
1. Từ này đã tự giải thích về mình rồi.
Những chỉ dẫn cho các trưởng lão.
Từ Mi-lê, Phao-lô sai mời các trưởng lão của Hội thánh Ê-phê-sô đến (Công Cv 20:17) “Anh em em hãy giữ lấy mình, và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc, để chăn Hội thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằngchính huyết mình.” (20:28) “Tôi gởi lời khuyên nhủ nầy cho các bậc trưởng lão trong anh em, tôi đây cũng là trưởng lão như họ, là người chứng kiến sự đau đớn của Đấng Christ, và cũng có phần về sự vinh hiển sẽ hiện ra: hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho an em; làm việc đó chẳng phải bởi ép tình, bèn là bởi vui lòng, chẳng phải vì lợi dơ bẩn, bèn là hết lòng nà làm” (I Phi 1Pr 5:1-2).
2. Các trưởng lão phải là những người chăn giữ bầy chiên.
Tất cả những ai ở trong chức vụ năm phương diện phải là các trưởng lão. Nó không có nghĩa là tất cả các trưởng lão đều ở trong chức vụ năm phương diện đó hết. Họ không được cai trị (làm chủ) trên người khác. Họ phải là những người chăn bầy của Hội thánh Đức Chúa Trời.
3. Chúa Giê-xu là Đấng chăn Bầy số Một.
Chúa Giê-xu Christ với tư cách là Đấng chăn Chiên Lớn có những người chăn bầy dưới quyền của Ngài. Nhưng Chúa Giê-xu với tư cách là chủ thì không có những người chủ dưới quyền. Không có chỗ cho nhà độc tài hay cho người kiêu căng. Đó là địa vị của chức vụ đầy tớ. Trọng tâm của chúng ta là chứng minh rằng các trưởng lão là những người coi sóc.
II. SỰ SỬ DỤNG TỪ “TRƯỞNG LÃO” TRONG KINH THÁNH
A. Trong Cựu Ước, từ này được dùng trong các sách:
Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân-số ký, Phục-truyền luật lệ ký, Giô-suê, Các quan xét, Ru-tơ, I Sa-mu-ên, II Sa-mu-ên, I Sử ký, II Sử ký, Ê-xơ-ra, Gióp, Thi-thiên, Đại tiên tri và tiểu tiên tri.
B. Trong Tân Ước, nó được dùng trong các sách Phúc-âm và Công vụ.
Dù nhiều người trong số đó là các trưởng lão xấu, nhưng nguyên tắc vẫn còn đó (MatMt 16:21; Cong Cv 4:5-8).
III. CÓ BAO NHIÊU TRƯỞNG LÃO TRONG MỘT HỘI THÁNH ĐỊA PHƯƠNG?
Có thể có một diễn giả chính. Thường thì có một vài. Đức Chúa Trời muốn có nhiều trưởng lão trong Hội thánh.
• “Phao-lô và Ba-na-ba khiến lựa chọn những trưởng lão trong mỗi Hội thánh…” (14:23).
• “Từ thành Mi-lê, Phao-lô sai người đến thành Ê-phê-sô, mời các trưởng lão trong Hội thánh đến” (20:17).
• “Ta đã để con ở lại đảo Cơ-rết đặng … lập những trưởng lão trong mỗi thành ” (Tit Tt 1:5).
• “Trong anh em có ai đau ốm chăng? hãy mời các trưởng lão Hội thánh đến” (Gia Gc5:14).
IV. HỌ ĐƯỢC LẬP LÊN LÀM TRƯỞNG LÃO RA SAO?
A. Bởi đủ phẩm hạnh.
1. Chúa bảo Môi-se lập các trưởng lão (Dan Ds 11:16-17).
Nó không phải một cuộc đua có tính chất phổ thông. Đức Chúa Trời muốn một số người trở thành trưởng lão trong Hội thánh địa phương.
2. Bởi được chỉ định (lập lên).
Phao-lô và Ba-na-ba đã lập lên các trưởng lão (Công Cv 14:23; Tit Tt 1:5). Họ là những con người trưởng thành. Những nhà lãnh đạo của các Hội thánh phải vững vàng và đem các chức vụ khác đến kết quả.
V. CÔNG TÁC CỦA CÁC TRƯỞNG LÃO TRONG HỘI THÁNH THỜI TÂN ƯỚC.
1. Họ không chỉ mời và đuổi các mục sư đi, họ phải coi sóc Hội thánh.
Hãy giữ chính mình các bạn và luôn cả bầy của mà Đức Thánh Linh đã lập các bạn làm người coi sóc (chăn giữ). Dù có nhiều người tham dự vào tiến trình này, nhưng Đức Thánh Linh mới là Đấng điều hành (điều phối, sắp đặt, bố trí, lèo lái) tiến trình đó.
2. Họ phải coi sóc (IPhi 1Pr 5:2 ).
Sự coi sóc được thực hiện ở mức độ địa phương.
TÓM LƯỢC
Sự chăn giữ không thể thực hiện ở mức độ rộng được. Nó phải được thực hiện ở cấp độ địa phương bởi các trưởng lão là những người làm trọn các quy định này. Tôi thúc giục các bạn hãy đào tạo những con người có phẩm cách và khả năng. Hãy dùng họ ở cấp độ địa phương và hãy để Đức Chúa Trời hướng dẫn. Rồi sai phái họ đi ra mở các Hội thánh địa phương khác.
THẢO LUẬN NHÓM
Hãy nói đến ý nghĩa của từ “chấp sự ” trong bài học này và hãy thảo luận ai đang được gọi là các chấp sự trong Hội thánh của bạn? Hãy đề cập đến những chức viên là những người đang làm công việc đó nhưng không đang được gọi là các chấp sự hay nữ chấp sự.
“Chấp sự” có phải là một danh xưng trong Tân Ước không hay nó nói đến một sự phục vụ cần có? Các từ ”người coi sóc”, “trưởng lão” và “giám mục”được dùng thay thế nhau trong Tân Ước và nói đến cùng một chức vụ.
Những chức viên này là ai trong Hội thánh đầu tiên? Người tương đương với họ trong Hội thánh ngày hôm nay là ai?
Các tước hiệu: Giáo trưởng và Tổng giám mục có được dùng trong Tân Ước không?
TỰ NGHIÊN CỨU
Hãy nghiên cứu Công Cv 6:1-4 và ITi1Tm 3:8-14 và liệt kê những phẩm chất cần có của một chấp sự trong Hội thánh.
Hãy tìm một cuốn Thánh Kinh phù dẫn rồi hãy liệt kê các câu Kinh Thánh sử dụng từ “trưởng lão” trong Cựu Ước. Cũng hãy để ý đến văn mạch và cách sử dụng từ đó.
Bài học khuyên có bao nhiêu trưởng lão trong một Hội thánh địa phương? Các trưởng lão được nhận ra và đặt để trong chức vụ như thế nào? Dan Ds1:16-17; Công Cv 14:23; Tit Tt 1:5.
PHẦN 2: CÔNG TÁC VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CỦA CÁC TRƯỞNG LÃO TRONG HỘI THÁNH TÂN ƯỚC
LỜI GIỚI THIỆU
Trong bài học đầu tiên chúng ta nói đến những con người trong Hội thánh địa phương là Hội thánh trong đó bao gồm cả các thánh đồ, các chấp sự và các trưởng lão.
Tất cả những con người này là một mà thôi trong Chúa Jêsus Christ. Ao ước của lòng tôi khi dạy loạt bài học này là bạn được thúc đẩy để đào tạo những con người bước vào vị trí trưởng lão trong các Hội thánh địa phương của bạn.
Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, Hội thánh thuộc về Chúa Jêsus Christ. Bất cứ việc gì chúng ta làm, hoặc tích cực hoặc tiêu cực thì chúng ta đang làm cho Chúa Jêsus Christ. Ngài phán rằng: “Ta sẽ xây Hội thánh Ta trên đá này.” Ngài đã nêu ra một gương mẫu cho chúng ta trong việc đào tạo những nhà lãnh đạo. Mac Mc 3:14 cho chúng ta biết 2 lý do tại sao Ngài lập các sứ đồ lên:
• Để họ ở với Ngài.
• Để Ngài sai phái họ đi ra rao giảng và thi hành chức vụ.
Trong việc đào tạo những nhà lãnh đạo trong Hội thánh điạ phương, chúng ta ít nhất cũng phải có 2 mục tiêu này.
DÀN Ý BÀI HỌC
I. CÔNG TÁC CHO CÁC TRƯỞNG LÃO TRONG HỘI THÁNH TÂN ƯỚC.
A. Họ phải coi sóc Hội thánh.
B. Họ chăn giữ bầy chiên (Công Cv 20:28 ).
C. Họ là những người chăn của bầy chiên Đức Chúa Trời (I Phi 1Pr 5:2 ).
1. Là những người chăn, các trưởng lão phải cho bầy ăn. “Hãy làm người chăn Hội thánh của Đức Chúa Trời mà Ngài đã mua bầy bằng chính huyết mình.” (Cong Cv 20:28 ). Bản dịch King James Version dùng từ “nuôi” (cho ăn ). Trong tiếng Hy-lạp từ “nuôi” có nghĩa là: Chăn giữ hay dưỡng dục.
2. Bảo vệ và hướng dẫn chiên của Chúa.
Cung cấp ràn (bầy) cho chiên.
“Hãy chăn bầy của Đức Chúa Trời đã giao phó cho anh em.” (I Phi 1Pr 5:2). Trong bản King James Version, từ “chăn” có nghĩa là “nuôi ”.
3. Thức ăn mà bầy chiên của Chúa cần là Lời Đức Chúa Trời.
Các trưởng lão phải có khả năng dạy Lời Chúa.
4. Các trưởng lão phải cai quản, rao giảng và dạy dỗ.
Họ khộng thể cai trị nếu họ không thể cho ăn.
Lời của Đức Chúa Trời dạy cả hai: cho ăn và dạy dỗ.
Họ cai trị nhà riêng mình cho tốt (ITi1Tm 3:4-5 ).
Họ điều hành Hội thánh tốt và được tôn trọng 5:17).
Những ai làm việc siêng năng, chăm chỉ cả trong rao giảng lẫn trong dạy dỗ là những trưởng lão thuộc một trong năm chức vụ trong Hội thánh.
5. Các trưởng lão phải lo toan các vấn đề thuộc về giáo lý: Các sứ đồ và trưởng lão đã gặp nhau để xem xét câu hỏi này (Cong Cv 15:6 ).
D. Các trưởng lão dự phần trong việc đặt tay với lời tiên tri (ITi1Tm 4:14 ).
E. Các trưởng lão phải cầu nguyện cho người bệnh (Gia Gc 5:14 ).
F. Các trưởng lão phải được sử dụng trong việc ban phát quyền năng chữa lành của Đức Chúa Trời cho người bệnh.
G. Các trưởng lão phải lo toan những vấn đề nhu cầu tự nhiên nữa (Cong Cv11:30).
Có nhiều điều thiết yếu, tự nhiên xảy ra trong Hội thánh địa phương. Đó có thể là mua đất, mở mang nhà cửa hoặc mua trang thiết bị. Hàng ngũ lãnh đạo phải lo những công việc như thế.
H. Các trưởng lão phải tỏ lòng hiếu khách.
Sự hiếu khách (ITi1Tm 3:2; Tit Tt 1:8).
Cần phải có một mối tương giao cá nhân giữa các trưởng lão và dân sự của Đức Chúa Trời.
II. CÁC THÁNH ĐỒ LIÊN HỆ CÁCH THÍCH HIỆP VỚI CÁC TRƯỞNG LÃO (ITi1Tm 5:17-18; ITe1Tx 5:12-13).
1. Dân sự của Đức Chúa Trời phải tôn kính các trưởng lão.
2. Dân sự Đức Chúa Trời phải cầu nguyện cho các trưởng lão.
3. Dân sự Đức Chúa Trời phải trợ cấp cho các trưởng lão.
4. Dân sự Đức Chúa Trời phải vâng lời các trưởng lão (HeDt 13:7 )
5. Dân sự Đức Chúa Trời phải phục tùng các trưởng lão.
6. Dân sự Đức Chúa Trời không được kiện cáo các trưởng lão nếu không có đủ bằng chứng.
7. Dân sự Đức Chúa Trời phải kính trọng các trưởng lão.
Một vài người cảm thấy khó kính trọng những ngươi trên mình.
III. CÁC TRƯỞNG LÃO LIÊN HỆ VỚI MỤC SƯ QUẢN NHỊÊM
Trong khi có nhiều trưởng lão trong Hội thánh thì Đức Chúa Trời chỉ có một người trong đó, đó là người lãnh đạo cao nhất.
A. Trong Cựu Ước (Dan Ds 27:15-18 ).
1. Trong giai đọan đầu tiên của Hội thánh Tân Ước, Phi-e-rơ là người lãnh đạo.
Khi Phi-e-rơ bắt đầu đi ra nhiều nơi hơn thì Đức Chúa Trời dấy lên một vị sứ đồ khác, đó là Gia-cơ em Chúa Jêsus.
- Gia-cơ và Phao-lô (Công Cv 15:13 ).
- Gia-cơ và Phao-lô vào lúc khác (21:17-18 ).
- Phi-e-rơ, Gia-cơ và dân ngoại bang (GaGl 2:12 ).
Trong sách Khải huyền, mỗi bức thư được gửi đến cho “thiên sứ” của Hội thánh địa phương (KhKh 1:20; 2:1, 8, 12, 18; 3:1, 7, 14). Đây là một từ Hy-lạp, được chuyển ngữ là ”Angelos”. Từ này được dịch là sứ giả trong những câu Kinh thánh sau: Mat Mt 11:10; LuLc 9:25.
TÓM LƯỢC
Để Hội thánh hoạt động cách trật tự, các trưởng lão phải kính trọng Mục sư quản nhiệm. “Phải có một người lái chiếc xe buýt.” Phải có một người đứng đầu (làm đầu) dưới Chúa cho mỗi Hội thánh địa phương.
THẢO LUẬN NHÓM
Hãy chia sẻ với nhóm nhỏ của bạn ít nhất một khái niệm mới mà bạn học được trong bài này. Hãy thảo luận về nhiều phương cách khác nhau mà Mục sư quản nhiệm có thể điều động các trưởng lão trong công việc của Hội thánh địa phương, cả vấn đề thuộc linh lẫn thuộc thể (tự nhiên).
Các thánh đồ phải trợ cấp cho các trưởng lão như thế nào?Hãy thảo luận xem vai trò của Mục sư quản nhiệm quan trọng như thế nào trong việc điều hành trật tự, đúng đắn trong một Hội thánh địa phương.
Hội thánh địa phương cuả bạn đã nhận ra và có các trưởng lão đương chức không? Hãy so sánh các (hoạt động) chức năng của họ với những hướng dẫn của Kinh thánh mà bạn vừa mới học.
TỰ NGHIÊN CỨU
Hai mục tiêu của Kinh Thánh mà chúng ta phải giữ luôn trong trí khi đào tạo hàng ngũ lãnh đạo trong Hội Thánh địa phương là gì?
Công việc chính của trưởng lão trong chức vụ năm mặt là gì?
Dùng từ riêng của bạn, hãy mô tả mối quan hệ đúng đắn cần có giữa các trưởng lão và dân sự của Đức Chúa Trời. Quan hệ của các trưởng lão với Mục sư quản nhiệm phải như thế nào?
Phải có nhiều trưởng lão trong Hội thánh địa phương, thế thì tại sao Đức Chúa Trời vẫn dựa rất nhiều vào Mục sư quản nhịêm trong việc (thông đạt, giao tiếp) trò chuyện với Hội thánh của Ngài?
Nếu chưa có các trưởng lão được chỉ định trong Hội thánh địa phương của bạn( hoặc “phải” hoặc “có thể”) phải có thể làm gì?
PHẦN 3: CÁC PHẨM CHẤT CỦA TRƯỞNG LÃO
LỜI GIỚI THIỆU
Trong hai bài trước, chúng ta đã học về chức vụ của trưởng lão theo Kinh thánh. Chúng ta đã khám phá ra rằng, trong mỗi Hội thánh địa phương cần có các thánh đồ, các chấp sự và các trưởng lão.
Trong bài học này, chúng ta sẽ học về những phẩm chất của những con người trở thành trưởng lão trong Hội thánh địa phương.
Trong I Phi-e-rơ 5, sứ đồ Phi-e-rơ nhận chính ông là một trưởng lão. Ông đã đưa ra những lời chỉ dẫn thêm cho những ai muốn trở thành trưởng lão trong Hội thánh. Ông nói rằng, trước hết họ phải là người làm gương cho các tín hữu.
Một trưởng lão là người lãnh đạo trong Hội thánh. Nếu ông là một người lãnh đạo thì ông phải có người đi theo và những người đi theo đó sẽ bắt chước nếp sống của ông. Vì vậy, Chúa đưa ra một số phẩm chất nghiêm ngặt cho những ai bước vào chức vụ trưởng lão.
DÀN Ý BÀI HỌC
I. CÁC TRƯỞNG LÃO PHẢI THỎA MÃN CÁC PHẨM CHẤT CỦA KINH THÁNH (ITi1Tm 3:1-7; Tit Tt 1:5-9)
Danh sách các phẩm chất này rất giới hạn. Đức Chúa Trời muốn những con người xuất sắc trở thành trưởng lão trong Hội thánh của Ngài. Có 28 phẩm chất trong hai phân đọan Kinh thánh này. Những phẩm chất này có thể chia làm 3 phần.
A. Đặc điểm phẩm chất của trưởng lão.
Hầu hết các phẩm chất một trưởng lão cần có liên hệ đến đặc tính (hay nhân cách) hơn là ân tứ.
1. Không chỗ trách được: ông phải là người chính trực tuyệt đối.
2. Phải có tiếng tốt giữa người ngoại: ông phải là người được tôn trọng trong cộng đồng của mình và thậm chí giữa vòng những người không phải là Cơ-đốc.
3. Đáng tôn trọng: dân sự của Đức Chúa Trời phải tôn trọng những người lãnh đạo. Tuy nhiên rất khó tôn trọng những người không đáng tôn trọng và không đáng kính nể.
4. Tiết độ, tức là nghiêm trang: ông không được làm những gì quá khích.
5. Kỷ luật: ông phải là người kỷ luật trong thói quen làm việc, trong việc đến nhà thờ đúng giờ giấc, trong việc đến các buổi họp của trưởng lão.
6. Tự chủ: ông phải là người được Chúa kiểm soát và tự kiểm soát, không phải là người bị vợ kiểm soát hay bị người khác kiểm soát.
7. Ngay thẳng: nghĩa là phải làm những gì đúng, phải trong việc đối xử với người khác
8. Thánh khiết: nghĩa là phải biệt riêng ra cho Chúa. Nó cũng có nghĩa là không yêu thế gian hay tuân theo những luật lệ của nó. Đây không chỉ là sự thánh khiết bên trong mà là sự công chính bên trong được biểu lộ ra bên ngoài.
9. Người yêu mến điều tốt: ông yêu mến những điều tốt đẹp, những hoạt động và thông công tốt đẹp với những người tốt đẹp.
10. Hiếu khách: nghĩa là ông thích có khách.
11. Nhân từ: ông phải phô bày ra nhân cách cân bằng của Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu thường rất nhân từ, nhưng cũng có khi Ngài quở trách người Pha-ri-si. Trên đảo Bát-mô khi Ngài nói chuyện với sứ đồ Giăng, mắt Ngài giống như những ngọn lửa. Không có nghĩa là một trưởng lão không được kiên định và cương quyết trong những điều ông tin và giảng.
12. Không cãi vả: ông phải là một người hòa bình.
13. Không mau giận (Gia Gc 1:19).
• Không có nghĩa là ông sẽ không bao giờ giận. Nó có nghĩa là ông phải chậm giận. Chúa Giê-xu đã chữa lành bệnh trong ngày Sa-bát và những con người tôn giáo tố cáo Ngài.
• Ngài nhìn họ với sự giận dữ (Mac Mc 3:5).
14. Không hung dữ: ông không được gây gổ.
15. Không theo đuổi thành quả bất chính: ông không đòi hỏi tiền bạc cách không trung thực.
16. Không phải là người yêu tiền.
Có tiền không có gì là sai cả. Vấn đề là nhiều người yêu tiền hơn yêu Chúa.
17. Không quá hống hách: ông không kiêu ngạo và không thống trị người khác.
18. Không nộp mình vào sự say sưa: các trưởng lão không bao giờ được say rượu.
B. Đặc điểm gia đình:
19. Chồng của một vợ.
Nhiều nhân vật trong Cựu Ước có nhiều hơn một vợ. Một trưởng lão trong thời Tân Ước được lệnh không có nhiều hơn một vợ.
20. Ông phải khéo cai trị gia đình mình.
Gia đình của ông là bầy chiên đầu tiên. Ông phải điều hành các vấn đề của gia đình riêng mình cách cẩn thận. Con cái ông phải vâng lời ông với một sự tôn kính đúng đắn. Con cái ông phải là người tin Chúa Giê-xu. Con cái ông không được bị gọi là hoang đàng. Con cái ông không được bị mang danh là bất phục tùng (bất hiếu).
C. Những khả năng:
21. Ông phải giữ vững sứ điệp đáng tin cậy.
22. Ông phải có khả năng dạy.
Không có nghĩa là ông phải trở thành một thầy giáo theo Eph Ep 4:11. Việc dạy dỗ được thực hiện trong nhiều bối cảnh hoặc lãnh vực khác nhau.
23. Ông phải có khả năng khuyến khích người khác bằng giáo lý chân chính và khước từ những ai chống đối.
24. Ông không được là người mới tin Chúa.
Trong thời Cựu Ước, làm một trưởng lão tùy thuộc vào tuổi tác. Trong thời Tân Ước, đòi hỏi phải có sự trưởng thành thuộc linh. Chúa Giê-xu đã bắt đầu chức vụ của Ngài lúc 30 tuổi.
II. CÁC TRƯỞNG LÃO NÀO CỨ MÃI PHẠM TỘI PHẢI BỊ KỶ LUẬT: (ITi1Tm 5:20-21).·
A. Một trưởng lão cứ phạm tội hoài sẽ bị quở trách, cách chức và được phục hồi. Ông phải bị quở trách trước công chúng để người khác bắt sợ: Việc này phải được thực hiện công bằng, không có thiên vị. Nó phải được thực hiện nghiêm khắc, không chiếu cố (dung dưỡng, thân thiện).
B. Ông phải bị cách chức trưởng lão.
C. Ông phải được phục hồi, nếu ông ăn năn.
• Ông phải được phục hòa với Chúa.
• Ông phải được phục hòa với gia đình của mình.
• Ông phải được phục hòa với Hội thánh địa phương.
Một lần nữa, ông phải làm trọn các phẩm chất của Kinh thánh để được phục hồi vào chức vụ.
III. NHỮNG KHÚC KINH THÁNH KHÁC CẦN ĐƯỢC XEM XÉT
A. Các trưởng lão không được làm chủ trên dân sự của Đức Chúa Trời (Mat Mt20:25-28)
1. Họ phải phục vụ dân sự của Đức Chúa Trời.
2. Họ phải nói cùng chung một điều (I Cor1Cr 1:10).
3. Các trưởng lão phải bước vào sự hiệp một.
a. Họ phải có cùng một tư tưởng.
b. Họ phải dạy cùng một giáo lý.
c. Họ phải có cùng triết lý mục vụ.
d. Họ phải có khải tượng của Hội thánh mình.
4. Họ phải được chứng là trung tín (4:2).
TÓM LƯỢC
Các trưởng lão phải yêu mến Mục sư quản nhiệm của Hội thánh mình. Họ cũng phải yêu mến vợ và con của Mục sư. Nếu bạn tuân theo những phẩm chất này cách chính xác thì bạn sẽ cứu chính mình khỏi rất nhiều rắc rối và bạn sẽ đem lại rất nhiều phước hạnh cho Hội thánh địa phương của mình khi bạn có các trưởng lão thích hợp.
THẢO LUẬN NHÓM
Việc một người phải thỏa đáp tất cả những phẩm chất được nêu lên trong Tân Ước trước khi người đó được chỉ định làm trưởng lão có phải là bắt buộc không?
Hãy thảo luận xem không mau giận có nghĩa là gì và nó không có nghĩa gì bằng cách sử dụng gương của Chúa Giê-xu Christ và Phao-lô.
Hãy thảo luận những hàm ý (ngụ ý) khi một trưởng lão tiêu thụ các thức uống có liên quan đến rượu.
Ảnh hưởng của gương này trên ngững tín hữu khác ra sao? Xem 10:29-33; 8:11-13.
Một trưởng lão được lệnh phải là chồng của một vợ. Vậy thì nó có nghĩa là, những thánh đồ khác có thể cưới nhiều vợ cùng một lúc không? Những chỉ dẫn để cách chức một trưởng lão sai phạm khỏi chức vị trưởng lão là gì?
TỰ NGHIÊN CỨU
Hãy nghiên cứu cẩn thận ITi1Tm 3:1-7 và Tit Tt 1:5-9, rồi liệt kê phẩm chất và đặc điểm gia đình trong các phân đoạn này. Dưới mỗi đặc điểm, hãy đo lường (lượng giá) chính bạn trong tinh thần cầu nguyện. Nếu bạn tìm thấy bất cứ lãnh vực khó khăn nào, hãy cầu xin Chúa ban sức mạnh để chiến thắng và sống đúng trong lãnh vực đó.
PHẦN 4: CHỨC VỤ NĂM PHƯƠNG DIỆN
LỜI GIỚI THIỆU
Trong bài trước, chúng ta đã học về các phẩm cách dành cho chức vị trưởng lão theo Thánh kinh. Tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời thật rất cao thay! Ý định của Đức Chúa Trời trong việc đưa ra những phẩm cách này không phải để làm thất vọng chúng ta, nhưng để thách thức chúng ta tăng trưởng trong Ngài; hầu cho chúng ta có thể đủ năng lực hay tiêu chuẩn cho chức vụ (công tác) của Ngài.
Các tiêu chuẩn cho chức vụ trưởng lão rất cao, nhưng chúng không đòi hỏi sự tuyệt hảo. Trong bài học, chúng ta sẽ học chức vụ năm phương diện như được đề cập đến trong Eph Ep 4:11. Mỗi người truyền đạo năm phương diện cũng là một trưởng lão trong thân thể của Đấng Christ.
BỐ CỤC BÀI HỌC
Kinh thánh: Eph Ep 4:7-13
“7 Nhưng, đã ban ân điển cho mỗi một người trong chúng ta theo lượng sự ban cho của Đấng Christ. 8 Vậy nên có chép rằng: Ngài đã lên nơi cao, dẫn muôn vàn kẻ phu tù, Và ban các ơn cho loài người. 9 Vả, những chữ "Ngài đã lên" có nghĩa gì, há chẳng phải là Ngài cũng đã xuống trong các miền thấp ở dưới đất sao? 10 Đấng đã xuống tức là Đấng đã lên trên hết các từng trời, để làm cho đầy dẫy mọi sự.
11 Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng Tin Lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư, 12 để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ, 13 cho đến chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con Đức Chúa Trời, mà nên bậc thành nhân, được tầm thước vóc giạc trọn vẹn của Đấng Christ.”
I. CHỨC VỤ NĂM PHƯƠNG DIỆN (NĂM MẶT)(4:7-13 )
Phân đoạn này nói về sự hiệp một nhưng đa dạng của chức vụ. Phao-lô đã trích một phần của Thi Tv 68:18 trong Eph Ep 4:8. Phần tiếp theo của câu này trong Thi Tv 68:18 nói rằng: ”hầu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời được ở với chúng nó”.
* Chúa Giê-xu Christ đã làm trọn tất cả các chức năng của chức vụ năm phương diện.
1. Chúa Giê-xu là một sứ đồ. (HeDt 3:1)
2. Chúa Giê-xu là một Tiên tri Vĩ Đại. (Cong Cv 3:32)
3. Chúa Giê-xu là một nhà Truyền giáo Vĩ Đại. (LuLc 19:10)
4. Chúa Giê-xu là một Đấng chăn chiên Vĩ Đại. (GiGa 10:11)
5. Chúa Giê-xu là một Giáo sư Vĩ Đại. (Cong Cv 1:1 )
Tất cả năm ân tứ này cần phải có trong Hội thánh, nhưng không nhất thiết có đủ trong một Hội thánh địa phương.
II. LẬP LÊN VÀ ĐẶT ĐỂ NHỮNG CHỨC VỤ NÀY
Đức Chúa Trời lập lên những chức vụ này (I Cor1Cr 12:28 ) Một số người tin rằng, sứ đồ cao hơn tiên tri trong khi giáo sư thì thấp hơn tiên tri. Điều này không có trong khúc Kinh thánh này.
Trái lại, khúc Kinh Thánh này chép rằng các sứ đồ xuất hiện trước. Trong phần ký thuật lịch sử của sách Công-vụ, các tiên tri và những nhà truyền giáo đến sau đó (hay xuất hiện sau).
Eph Ep 4:11 chép rằng, chính Đấng Christ làm việc qua những người theo Ngài, là người đã ban các ân tứ này. Yếu tố thời gian của những chức vụ này (4:11-13 ) “Khi Ngài đã lên nơi cao … ” (4:8 )
Những cái tên này không được ban cho như những danh xưng, chúng chỉ là những lời mô tả công việc mà thôi. Những chức vụ này sẽ kéo dài ở đây bao lâu?
“Cho đến chừng chúng ta thảy đều hiệp một trong đức tin. ” (4:13 ) Có sự khác biệt giữa “sự hiệp một của Thánh Linh ” trong câu 3 với “sự hiệp một của đức tin trong câu 13”.
III. NHỮNG CHỨC VỤ NỖI LÊN NHƯ THẾ NÀO TRONG HỘI THÁNH ĐẦU TIÊN.
A. Đấng Christ đã lập 12 người đầu tiên.
1. Thành Giê-ru-sa-lem đã có các sứ đồ, tiên tri và có thể các giáo sư nữa.
2. Thành Sê-sa-rê được viếng thăm bởi các sứ đồ, tiên tri A-ga-bút và nhà truyền giáo Phi-lip đã sống ở đó (Cong Cv 21:8-11).
3. Hội thánh An-ti-ôt có các tiên tri và giáo sư (13:1).
Các sứ đồ cũng được sai đi từ An-ti-ôt (15:23).
B. Phao-lô đã sống ở Ê-phê-sô trong một thời gian dài.
IV. MỤC ĐÍCH CHUNG (TỔNG QUÁT) CỦA CHỨC VỤ NÀY.
“Để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ.” (Eph Ep 4:12).
V. CHỨC VỤ SỨ ĐỒ
Ví dụ của Phao-lô và Ba-na-ba
A. Rao giảng và thiết lập các Hội thánh. (Cong Cv 13:4; 14:28).
1. Phao-lô là một thợ cả (thợ khéo) I Cor1Cr 3:10).
2. Phao-lô quan hệ một cách cá nhân với các Hội thánh và người khác.
- Ông quan tâm đến các Hội thánh (11:28).
- Ông là cha của những người ông đem đến với Chúa (4:15-16).
- Ông là sứ đồ cho một vài người, nhưng không phải cho những người khác (9:1-2).
3. Phao-lô là người lo tổ chức nhân sự của Đức Chúa Trời (viên chức nhân sự)
- Ông sai Ti-mô-thê đến Cô-rinh-tô (4:17).
- Ông để Ti-mô-thê ở lại Ê-phê-sô (I Ti1Tm 1:3).
- Ông để Tít ở lại đảo Cơ-rết (Tit Tt 1:5).
4. Phao-lô diễn tả câu nói có thẩm quyền.
- Ông đã đặt quy luật cho tất cả mọi Hội thánh (I Cor1Cr 7:17).
- Ông đưa ra lời hướng dẫn thêm (11:24).
- Ông đưa ra lời khuyên răn (II Cor 2Cr 8:10).
- Ông ao ước có sự vâng phục đối với giáo huấn của ông (II Te 2Tx 3:14).
- Ông dùng thẩm quyền của mình để gây dựng (II Cor 2Cr 13:10).
B. Hội thánh được xây dựng trên nền các sứ đồ và tiên tri. (Eph Ep 2:20).
TÓM LƯỢC
Ngày hôm nay chúng ta cần năm chức vụ này. Ngày hôm nay xin Chúa ban cho chúng ta nhiều sứ đồ trong Hội thánh của Ngài. Hội thánh cần họ để làm trọn mục đích của Đức Chúa Trời.
THẢO LUẬN NHÓM
Vì tất cả năm ân tứ đều cần thiết trong Hội thánh để trang bị các thánh đồ, nên một Hội thánh địa phương thiếu những con người có ân tứ này có thể làm gì để trang bị cho các thánh đồ? Có phải mỗi vị trong năm vị Hầu việc Chúa này (sứ đồ, tiên tri, truyền giáo, mục sư và giáo sư) người này cao hơn người khác không?
Hãy giải thích câu trả lời của bạn.
Hãy giải thích quan điểm của bạn trên I Cor1Cr 12:28; Eph Ep 4:11. Ngày hôm nay, việc những người Hầu việc Chúa được kêu gọi bước vào các ân tứ mục vụ này đặt danh xưng các ân tứ sau tên của họ có đúng Kinh Thánh không? Hãy giải thích câu trả lời của bạn. Sự thừa nhận tổng quát trong Hội thánh để những người Hầu việc Chúa này có thể thi hành chức vụ của mình cách thích hợp có cần thiết không?
TỰ NGHIÊN CỨU
Hãy đọc 4:1-13 và giải thích sự khác nhau giữa “sự hiệp một của Thánh Linh“ trong câu 3 với “sự hiệp một của đức tin” trong câu 13. Phao-lô đã thi hành thẩm quyền của một sứ đồ của mình trên các Hội thánh ông đã thành lập như thế nào?
Chúa Giê-xu đã làm trọn chức vụ năm phương diện theo những câu Kinh Thánh sau đây như thế nào? HeDt 3:1; Cong Cv 1:1; 3:22; LuLc 19:10; GiGa 10:11.
PHẦN 5: CHỨC VỤ NĂM PHƯƠNG DIỆN (Tiếp theo)
LỜI GIỚI THIỆU
Trong bài trước, chúng ta nghiên cứu sâu về chức vụ sứ đồ. Chúng ta đã thấy rằng, Chúa Jêsus đã làm trọn tất cả chức vụ năm phương diện đó. Ngài là một sứ đồ, tiên tri, nhà truyền giáo, mục sư và giáo sư.
Trong bài học này, chúng ta sẽ xem xét những chức vụ khác, bắt đầu với tiên tri.
DÀN Ý BÀI HỌC
I. CHỨC VỤ CỦA TIÊN TRI THỜI TÂN ƯỚC
Lưu ý: Có sự khác biệt giữa một người có thể nói tiên tri bởi ân tứ của Đức Thánh Linh và một người được phong chức làm một tiên tri (I Cor1Cr 12:10; 14:1; Công Cv 19:1-6).
Chính Đức Thánh Linh ban ân tứ nói tiên tri trong khi Chúa Jêsus Christ Con Đức Chúa Trời ban ân tứ làm một nhà tiên tri.
Chức này được làm sáng tỏ trong tiên tri A-ga-bút (11:27-28). Họ tiên báo những sự kiện tương lai (11:17-18). Có thể họ đã nói để sai Phao-lô và Ba-na-ba đi (13:1-2).
• Giu-đe và Si-la đã khích lệ và làm cho các tín hữu mạnh mẽ (15:32).
• A-ga-bút nói với Phao-lô cách cá nhân (21:10-11).
- Mỗi người trong những người Hầu việc Chúa này đều phải chịu trách nhiệm lo cho một Hội thánh địa phương. Đức Chúa Trời bày tỏ các lẽ thật cho họ (Eph Ep 3:5).
- Họ vui mừng khi đại dâm phụ bị phán xét (KhKh 18:20). - Một số tiên tri bị tử đạo (18:24).
- Lời nói của họ phải được suy xét (I Cor1Cr 14:29).
Một tiên tri thật chẳng có vấn đề gì trong việc bị suy xét.
* Năm chức vụ trang bị các thánh đồ.
Sứ đồ đưa ra cho họ một khải tượng liên quan đến hoặc thuộc về sứ đồ. Tiên tri trang bị cho họ trong các lãnh vực chuyên sâu về thuộc linh. Nhà truyền giáo rao giảng Lời Đức Chúa Trời nhưng dạy họ cách chinh phục linh hồn. Mục sư truyền cho dân sự Chúa một sự quan tâm về chăm sóc. Giáo sư dạy họ để họ có thể dạy lại người khác.
II. CHỨC VỤ CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO THỜI TÂN ƯỚC
Chỉ có một người được gọi là truyền giáo trong Tân Ước. Đó là chấp sự Phi-líp. Từ “nhà truyền giáo” cần được định nghĩa theo Kinh Thánh. Định nghĩa của nó được rút (tạo) từ những từ Hy-lạp. Có 2 danh từ và một động từ.
1. Danh từ đầu tiên của từ Hy-lạp cho biết một nhà truyền giáo là gì.
2. Từ thứ hai cho biết ông giảng gì.
3. Động từ Hy-lạp cho biết ông làm gì.
Từ 3 từ Hy-lạp này, chúng ta có được định nghĩa này cho một nhà truyền giáo Tân Ước: Nhà truyền giáo là một ngưòi rao giảng (truyền giảng, rao báo, tuyên rao) Phúc-âm của Đấng Christ.
- Ông công bố tin mừng.
- Ông là người báo tin vui.
- Nhà truyền giáo có thể hoặc lưu động hoặc cố định.
Từ ”nhà truyền giáo” xuất hiện chỉ 3 lần trong Tân Ước.
Từ “Phúc-âm“ mà ông rao giảng đó xuất hiện khoảng 80 lần trong Tân Ước. Hơn nữa, hành động rao giảng thực xuất hiện liên tục trong Tân Ước. Công tác của nhà truyền giáo thực sự quan trọng.
4. Chúa Jêsus là Nhà Truyền Giáo Vĩ Đại.
Chúa Jêsus rao giảng tin mừng ở Ga-li-lê (Mat Mt 4:23). Ngài rao giảng ở các thành và các làng (9:35). Đấng Christ dạy các sứ đồ của Ngài rao giảng Phúc-âm (Mac Mc 16:15). 5. Phao-lô là người rao giảng Phúc-âm (II Ti 2Tm 1:11).
Ân điển và ân tứ chính của ông là sứ đồ; nhưng trong II Ti-mô-thê
a. ông cho biết chính ông là người công bố Phúc-âm,
b. là một sứ đồ và là một giáo sư. Một người có thể có nhiều hơn một chức vụ trong năm chức vụ của Ê-phê-sô 4.
6. Ti-mô-thê được khích lệ làm công việc của một nhà truyền giáo (4:5).
Phao-lô đã để ông ở Ê-phê-sô để làm một trưởng lão chính yếu của Hội thánh đó. Phao-lô đã dạy dỗ ông nhiều điều. Một trong những lời dạy đó là: “hãy làm công việc của nhà truyền giáo.” Không phải là Ti-mô-thê dường như được phong chức làm nhà truyền giáo nhưng là ông
đã được để làm công việc đó. Phi-líp là người duy nhất được gọi là “nhà truyền giáo”.
Ông đã giảng cho đám đông. (Cong Cv 8:4-8).
Ông thực hiện dấu kỳ phép lạ.
Ông đã giảng cho một người (8:26-38).
Ông đã giảng từ thành này đến thành kia (8:40). Nhà truyền giáo được kêu gọi để trang bị cho các tín đồ (Eph Ep 4:12).
III. CHỨC VỤ CỦA MỤC SƯ THỜI TÂN ƯỚC
Ngày hôm nay, đây là chức vụ quen thuộc với chúng ta nhất. Đức Chúa Trời có nhiều cách để miêu tả Hội thánh như: Đội quân, Cây, Nhà, Gia đình của Đức Chúa Trời, Thân thể của Đấng Christ. Tuy nhiên, có một hình ảnh thường xuyên xuất hiện, đó là bầy chiên của Đức Chúa Trời.
Danh từ Hy-lạp dùng cho Mục sư cũng được dịch là “người chăn” trong chỗ khác củaTân Ước. Chữ Hy-lạp được dịch là: “chăn giữ như một người chăn”. Từ Mục sư xuất hiện chỉ 1 lần trong Tân Ước. Nhưng từ “người chăn” lại xuất hiện nhiều lần. Mỗi con chiên đều cần đến một bầy chiên và một người chăn.
A. Dân sự của Đức Chúa Trời là những con chiên cần những người chăn.
1. Một bầy (Cong Cv 20:28)
Bầy của Đức Chúa Trời (I Phi 1Pr 5:2 )
2. Đấng Christ là Người Chăn Hiền Lành.
Người chăn hiền lành phó (từ bỏ) sự sống mình (GiGa 10:11 ).
Người Chăn Hiền Lành biết chiên của mình (10:14 ).
3. Đấng Christ - Người Chăn Vĩ Đại của bầy chiên (HeDt 13:20 ).
4. Đấng Christ - Người Chăn Vĩ Đại và Người Coi Sóc (giám mục). Các trưởng lão dự phần trong công tác giám mục (mục vụ). “Hãy chăn (cho ăn) Hội thánh” (Cong Cv 20:28 ).“Hãy chăn (cho ăn) bầy” (I Phi 1Pr 5:1-2 ). Phi-e-rơ, một sứ đồ được bảo là phải chăn chiên Đấng Christ (GiGa 20:16 ). Các mục sư nhận một ân điển đặc biệt từ Đấng Christ (Eph Ep 4:17).
Các mục sư cũng phải trang bị cho các thánh đồ (4:12). Trong các Hội thánh của chúng ta ngày nay, rất nhiều công việc (hoặc chức năng) khác được giao cho mục sư. Một số những chức năng này thuộc về Kinh thánh, một số thì không.
IV. CHỨC VỤ CỦA GIÁO SƯ THỜI TÂN ƯỚC
Chúa Jêsus ra lệnh cho chúng ta phải dạy Phúc-âm (Mat Mt 28:20). Các sứ đồ đã giảng và dạy (Cong Cv 5:42).
Có các giáo sư trong Hội thánh An-ti-ôt (11:26; 13:1).
Đức Chúa Trời đặt để các giáo sư trong Hội thánh. (ICo1Cr 12:28). Các trưởng lão trợ giúp trong công việc này (ITi1Tm 5:17 ).
Phao-lô nhận chính ông là một giáo sư (2:7 ).
Lưu ý: Có vài người nói rằng chỉ có 4 chức vụ. Họ dạy rằng, công tác “mục sư và giáo sư” chỉ là một mà thôi. Tôi chỉ ra rằng, công việc của “giáo sư“ được để riêng ra trong I Cor1Cr 12:28 và trong Cong Cv 13:1. Vì thế, tôi tin rằng đó là một công tác riêng biệt và một chức vụ biệt lập.
V. NHẬN DIỆN CÁC NHÀ TRUYỀN ĐẠO NĂM MẶT.
Mỗi người trong những người này phải được nhận diện. Bởi chức vụ của họ mà không cần phải gán cho họ một danh xưng nào. Hàng ngũ lãnh đạo của Hội thánh địa phương phải nhận ra những con người đã chứng tỏ khả năng và các ân tứ chức vụ năm phương diện của họ.
TÓM LƯỢC
Tất cả những người truyền đạo năm phương diện đều là các trưởng lão và phải thỏa đáp các phẩm cách của Kinh thánh dành cho các trưởng lão. Tuy nhiên, tôi không tin rằng, tất cả những trưởng lão đều là những người truyền đạo năm phương diện. Trong ITi1Tm 3:1, mỗi ngưòi đều có thể ao ước chức vụ của một người coi sóc (giám mục) hay trưởng lão. Trong Eph Ep 4:11, Đấng Christ ban cho các chức vụ này theo ý chỉ và mục đích của Ngài.
THẢO LUẬN NHÓM
1. Hãy đọc PhuDnl 10:21-22 và Cong Cv 11:27-28. Hãy thảo luận một trong những dấu chứng để biết một tiên tri thật khi nó liên hệ đến sự tiên đoán các sự kiện tương lai. Phần trắc nghiệm chính là gì?
2. Chúa Jêsus cảnh cáo các tín hữu về nhiều tiên tri giả là những kẻ sẽ nổi lên để dối gạt nhiều người trước khi Ngài tái lâm. Vì thế, việc suy xét (trắc nghiệm) mọi thần (linh) là cần thiết. Dấu hiệu khác của một tiên tri thật là gì?
3. Vì có nhiều tiên tri giả trong thế giới ngày nay, việc đó có làm thất vọng Hội thánh, khiến khỏi nhận ra ân tứ mục vụ của một tiên tri trong Hội thánh địa phương không? Hãy giải thích câu trả lời của bạn.
4. Một nhà truyền đạo có thể vận dụng nhiều hơn một hay tất cả năm chức vụ trong Eph Ep Eph4:11 được không? Hãy dùng Kinh Thánh để bảo vệ quan điểm của bạn.
5. Các chức vụ mục sư và giáo sư có phân cách ra được không? Hãy dùng Kinh Thánh để bảo vệ quan điểm của.
6. Hãy cầu nguyện cho nhau.
TỰ NGHIÊN CỨU
1. Hãy nghiên cứu I Cor1Cr 12:14 Cong Cv 19:1-6 và Eph Ep 4:11. Từ những khúc, phân đọan, đọan Kinh Thánh này, hãy phân biệt giữa ân tứ nói tiên tri và ân tứ mục vụ của một tiên tri.
2. Hãy nghiên cứu Mat Mt 7:15-23, liệt kê những đặc điểm của một tiên tri giả và một tiên tri thật.
3. Phi-líp là người duy nhất được gọi là nhà truyền giáo trong Tân Ước, nhưng có rất nhiều người làm công việc của nhà truyền giáo mà không được nói đến như là những nhà truyền giáo. Hãy liệt kê những nhà truyền đạo này trong Tân Ước. Hãy giải thích câu này băng lời riêng của bạn: “Mỗi con chiên đều cần một bầy chiên và một người chăn.”
bottom of page