top of page

I CÁC VUA (1)

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Lịch-Sử (Cựu-ước) (12)



1. HOÀNG HÔN VÀ BÌNH MINH (IVua 1:1-2:46; ISu 29:22-30)


Cơn...

...khủng hoảng không tạo nên một con người nhưng nó có thể phơi bày bản chất của con người đó”. Từ cổ chí kim, ý niệm này đã được nhiều nhà tư tưởng thể hiện một cách sâu sắc trong những tác phẩm của mình dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói cách khác, “Những điều mà cuộc sống đem lại cho bạn phụ thuộc vào những gì có ở nơi bạn”. Ánh mặt trời làm cứng đất sét cũng chính là ánh mặt trời làm tan tảng băng.


Khi vua Đa-vít đang ở vào những giờ phút cuối của đời mình thì vương quốc Y-sơ-ra-ên phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng lớn và nhiều người đã có những phản ứng khác nhau.


1. A-đô-ni-gia, kẻ cơ hội (IVua 1:1-10)

Khi đối diện với cơn khủng hoảng, một nhà lãnh đạo chân chính sẽ tự hỏi, “Tôi có thể làm điều gì hữu ích nhất để giúp đỡ những người khác?” Một kẻ cơ hội thì nhìn vào cuộc khủng hoảng và tự hỏi, “Tôi có thể tận dụng tình thế này như thế nào để giúp mình thăng tiến và đạt được những ước vọng của mình?” Những kẻ cơ hội thường xuất hiện như những vị khách không được mời. Họ tập trung mọi sự chú ý vào chính mình và hoàn tất công việc của mình bằng việc làm cho cơn khủng hoảng càng tồi tệ hơn. A-đô-ni-gia là loại người như vậy.


Cơ hội (IVua 1:1-4).

A-đô-ni-gia là người lớn nhất trong những người con còn sống của Đa-vít.

Có thể ông khoảng 35 tuổi vào thời điểm đó. Con trưởng nam của Đa-vít là Am-nôn đã bị Áp-sa-lôm giết chết; người con thứ nhì là Ki-lê-áp (hay còn gọi là Đa-ni-ên) có lẽ đã chết sớm bởi vì không có tài liệu nào ghi chép về cuộc đời anh ta; con trai thứ ba là Áp-sa-lôm đã bị Giô-áp giết chết (IVua 3:1-2). Là con trai trưởng của Đa-vít, A-đô-ni-gia nghĩ rằng mình xứng đáng với ngai vàng. Suy cho cùng, Đa-vít luôn đau yếu và sẽ sớm qua đời, vì thế điều quan trọng là phải có một vị vua trên ngai vàng của Y-sơ-ra-ên. Giống như người anh là Áp-sa-lôm (IISa 15:1-6), A-đô-ni-gia nắm lấy cơ hội của mình khi Đa-vít đang yếu sức và nằm liệt giường.

Mặc dù vậy, A-đô-ni-gia đã đánh giá quá thấp sức chịu đựng và sự khôn ngoan của Đa-vít, người chiến sĩ lão luyện, nên cuối cùng anh đã phải trả giá đắt cho tính tự phụ bằng cả cuộc đời của mình.


A-bi-sác đã trở thành người bầu bạn và chăm sóc cho Đa-vít. Có thể nàng đã được công nhận là vợ lẽ của nhà vua một cách chính thức, vì thế không có gì trái với đạo đức trong mối quan hệ giữa họ. Nàng sẽ trở thành một nhân vật quan trọng trong chuỗi những sự kiện đầy kịch tính sau cái chết của Đa-vít (IVua 2:13-23).

A-đô-ni-gia đã mắc sai lầm khi nghĩ rằng cha mình không thể điều hành công việc một cách bình thường vì thế anh ta đã can thiệp vào công việc của cha. Tuy nhiên, anh đã mắc sai lầm to lớn. Thay vì là một người con cảm thông với cha, A-đô-ni-gia tự cho rằng ngai vàng là của mình. Nếu giành được sự ủng hộ của anh chị em, những nhà lãnh đạo triều đình, các thầy tế lễ và quân đội, anh ta có thể đảo chính và trở thành vị vua kế tiếp của vương quốc Y-sơ-ra-ên.


Kẻ phản bội (IVua 1:5-7).

Theo gương của người anh đáng hổ thẹn là Áp-sa-lôm (IISa 15:7-12), A-đô-ni-gia bắt đầu tự tôn mình lên và tìm kiếm sự ủng hộ của dân sự. Giống như Áp-sa-lôm, A-đô-ni-gia rất lịch lãm và được cha nuông chìu (c.6,13-14). Những người thiếu suy nghĩ đã tham gia vào cuộc vận động của anh ta. Nhờ vào sự khéo léo của mình, A-đô-ni-gia đã nhận được sự ủng hộ của cả quân đội và các thầy tế lễ khi ông đã lôi kéo được quan tổng binh Giô-áp, và thầy tế lễ cả A-bi-tha.

Cả hai người này đã phò trợ vua Đa-vít và đã từng sát cánh với nhà vua trong những lúc nguy nan nhất nhưng bây giờ họ lại quay trở lại chống đối ông. Vả lại, A-đô-ni-gia biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn Sa-lô-môn làm vị vua kế vị của Y-sơ-ra-ên (IVua 2:15) cả A-bi-tha và Giô-áp cũng biết điều đó.

Khi Đức Chúa Trời lập giao ước với Đa-vít (IISa 7:1-29), Ngài bày tỏ rằng một đứa con trai trong tương lai sẽ lên ngôi ông và xây dựng đền thờ (ISu 22:8-10), và người đó chính là Sa-lô-môn (ISu 28:4-7). A-đô-ni-gia, A-bi-tha, Giô-áp đang chống lại ý muốn của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ họ quên rằng: “mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời” (Thi 33:11).


Người trung thành (IVua 1:8-10).

Một lần nữa giống như anh mình là Áp-sa-lôm, A-đô-ni-gia tổ chức một bữa yến tiệc linh đình (IISa 15:7-12) và mời tất cả các anh em mình tham dự ngoại trừ Sa-lô-môn (c.26). Ông cũng không mời những triều thần quan trọng của vương quốc bao gồm thầy tế lễ cả Xa-đốc, người đứng đầu đội thị vệ của vua Bê-na-gia, tiên tri Na-than và những “dõng sĩ” của Đa-vít (IISa 23:1-39).

Đây là bữa yến tiệc lên ngôi và các vị khách mời đang tung hô A-đô-ni-gia là vua Y-sơ-ra-ên (c.25).

Có lẽ một vài người trong số họ nghĩ rằng vị vua già yếu Đa-vít đã đặt tay trên A-đô-ni-gia và phong cho ông làm vua. Hơn nữa, các anh em của A-đô-ni-gia đều có mặt ở bữa yến tiệc cho thấy rằng họ không có quyền thừa kế ngai vàng. Nhưng chắc chắn ai cũng nhận thấy sự vắng mặt của Sa-lô-môn, Xa-đốc, Bê-na-gia và Na-than. Liệu có ai thắc mắc rằng Na-than đã xức dầu cho A-đô-ni-gia ở đâu và khi nào, và nếu ông đã được xức dầu, tại sao điều này lại diễn ra trong bí mật? Những tôi tớ trung thành của Đức Chúa Trời và Đa-vít đã bị bỏ mặc, một tình tiết rõ ràng rằng A-đô-ni-gia đã tự phong mình làm vua mà không hề nhận được thẩm quyền từ Đức Chúa Trời hoặc vua Đa-vít.


Kinh Thánh thường cho thấy rằng “lẽ thật vấp ngã giữa đường phố và sự ngay thẳng chẳng được vào” (Es 59:14), nhưng Đức Chúa Trời luôn luôn hoàn thành được mục đích của Ngài. “Kẻ ác bị công việc tay mình làm trở vấn lấy” (Thi 9:16). Bữa yến tiệc lớn của A-đô-ni-gia là dấu hiệu nhắc cho các tôi tớ trung thành của Đa-vít rằng họ phải cấp báo cho nhà vua biết đã đến lúc phải phong Sa-lô-môn làm vị vua kế vị của vương quốc Y-sơ-ra-ên.


2. Na-than, người trung thành (IVua 1:11-53)

Tiên tri Na-than là người bạn và cũng là người cố vấn trung thành của Đa-vít. Na-than mang đến tin tức tốt lành về giao ước của Đức Chúa Trời cho Đa-vít và hậu tự của ông (IISa 7:1-17). Chính Na-than đã cảnh tỉnh, động viên vua Đa-vít để đưa ông thoát khỏi giai đoạn đen tối nhất sau khi phạm tội tà dâm với Bát-sê-ba (IISa 12:1-31).

Có lẽ Na-than có tài về âm nhạc vì ông đã giúp Đa-vít tổ chức những buổi lễ thờ phượng trong đền thánh (IISu 29:25-26). Khi Sa-lô-môn ra đời, Na-than đã thông báo cho cha mẹ đứa trẻ rằng Đức Chúa Trời muốn nó cũng được gọi là “Giê-đi-đia, nghĩa là được Đức Giê-hô-va yêu mến” (IISa 12:24-25). Khi nghe tin về bữa yến cùng với lời tuyên bố về quyền kế vị ngai vàng của A-đô-ni-gia, Na-than lập tức hành động.


Na-than báo tin cho Bát-sê-ba (IVua 1:11-14).

Mặc dầu không biết thêm điều gì về Bát-sê-ba sau khi Sa-lô-môn ra đời, chúng ta cũng đừng vội kết luận rằng bà không có phần quan trọng trong những vấn đề của hoàng cung. Việc bà một mình hành động trong đoạn này chứng tỏ bà là người phụ nữ can đảm, mong muốn làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Mặc dầu biết chắc con trai bà sẽ là vua nhưng nếu lỡ A-đô-ni-gia thành công trong việc chiếm ngôi, cả Bát-sê-ba và con trai bà sẽ bị giết (c.12,21).

Nhưng việc Na-than ngay lập tức tìm đến Bát-sê-ba cho thấy rằng ông biết được điều mà người mẹ của vị vua tương lai này có thể làm. Cũng giống như vậy, cách A-đô-ni-gia tìm đến Bát-sê-ba và cách Sa-lô-môn đón tiếp bà (IVua 2:13-19) cho thấy cả hai người này đều cho rằng bà là người phụ nữ có uy thế lớn. Thật đáng tiếc cho nhiều người khi nghĩ rằng Bát-sê-ba chỉ là “nàng vợ lẽ” trong khi chính sự can thiệp của bà đã cứu vương quốc Y-sơ-ra-ên khỏi thảm họa trong giờ phút nguy kịch nhất.


Bát-sê-ba báo tin cho Đa-vít (IVua 1:15-21).

Nhà tiên tri đã định sẵn cho Bát-sê-ba những lời phải nói, một bản tường trình ngắn gọn chỉ bao gồm hai câu hỏi được trình bày với giọng rất khẩn thiết. Từ chìa khóa trong cuộc nói chuyện này là “thề”, được sử dụng trong câu 13,17,29 và 30. Na-than và Bát-sê-ba biết rằng Đa-vít đã hứa Sa-lô-môn sẽ là vị vua kế vị và Sa-lô-môn là người được Đức Chúa Trời lựa chọn. Đa-vít đã chính thức thông báo về sự xức dầu cho Sa-lô-môn khi ông nói về việc xây dựng đền thờ (ISu 22:28). Việc Đức Chúa Trời cho Sa-lô-môn một cái tên đặc biệt cho thấy chắc chắn Sa-lô-môn sẽ là người kế vị Đa-vít (IISa 12:24-25).


Bát-sê-ba quỳ trước nhà vua (c.16,23,31,47,53) và nhắc ông nhớ về lời thề rằng Sa-lô-môn sẽ làm vua dân Y-sơ-ra-ên. Sau đó bà báo cho ông biết A-đô-ni-gia đang tổ chức một bữa yến tiệc lớn mừng lễ lên ngôi và A-bi-tha, Giô-áp cùng tất cả các vương tử trừ Sa-lô-môn đang ở đó. Chắc chắn bữa tiệc này không nhằm tôn vinh Sa-lô-môn. A-đô-ni-gia tự phong mình làm vua, nhưng cả Y-sơ-ra-ên đang chờ đợi lời tuyên bố chính thức của Đa-vít về người sẽ kế vị. Nếu trở thành vua, thì hiển nhiên rằng A-đô-ni-gia sẽ nhanh chóng loại bỏ Bát-sê-ba và con trai bà. Điều Đa-vít sẽ làm có liên quan đến sự sống hoặc cái chết. A-bi-sác là người chứng kiến những điều Bát-sê-ba nói (c.15).


• Na-than báo tin cho Đa-vít (IVua 1:22-27).

Trong khi Bát-sê-ba đang nói chuyện với nhà vua được thì Na-than đến. Sau đó Bát-sê-ba rời khỏi phòng (c.28) và Na-than được phép vào yết kiến vua tại giường. Ông đã hỏi nhà vua hai câu hỏi: có phải Đa-vít đã tuyên bố A-đô-ni-gia sẽ ngồi trên ngai vàng và có phải nhà vua đã thực hiện việc này trong bí mật mà không hề nói cho tôi tớ ông là nhà tiên tri? (c.24,27).

Xen giữa hai câu hỏi này là lời thông báo về việc A-đô-ni-gia đang tổ chức lễ lên ngôi của mình, tất cả các vương tử trừ Sa-lô-môn đều đến dự, A-bi-tha cùng các nhà lãnh đạo quân sự cũng có mặt ở đó. Na-than không nhắc đến Giô-áp nhưng Bát-sê-ba đã làm việc đó. Điều Na-than cho biết là Giô-áp đã đem theo các tướng lãnh của mình vì thế hiện thời quân đội đang ủng hộ A-đô-ni-gia. Tuy vậy, những tôi tớ trung thành của Đa-vít, Na-than, Xa-đốc và Bê-na-gia đã bị A-đô-ni-gia loại ra. Với tình thế như vậy, a-than tự hỏi liệu A-đô-ni-gia có thể có đủ quyền lực để xưng mình là vua.


Rất có thể lời tường thuật của Na-than về những sự việc này nhắc Đa-vít nhớ về những ngày đen tối khi Áp-sa-lôm nổi loạn và Đa-vít không muốn đất nước mình phải trải qua một cuộc nội chiến khác. Sa-lô-môn là con trai của sự hòa bình (ISu 22:9). Do được nuôi dưỡng trong cung điện, a-lô-môn không từng trải qua chiến tranh như cha ông; và nếu nội chiến xảy ra, àm sao ông có thể xây đền thờ?


Đa-vít chỉ thị cho những tôi tớ trung thành của mình (IVua 1:28-37). Trước cuộc khủng hoảng, Đa-vít hành động ngay lập tức và truyền cho Na-than gọi Bát-sê-ba trở vào. Nhà vua và Bát-sê-ba nói chuyện riêng với nhau (c.32). Một lần nữa Đa-vít khẳng định với Bát-sê-ba sự thật rằng Sa-lô-môn con trai bà sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên. Ông đã từng thề với bà điều này và sẽ không nuốt lời. Sau đó Đa-vít đi xa hơn về lời thề của mình và lập Sa-lô-môn là người cùng nhiếp chính với mình kể từ ngày đó! “Ngày nay ta sẽ hoàn thành điều đó…” (c.30).


Nếu Đa-vít trì hoãn quá lâu, cuộc nổi loạn của A-đô-ni-gia sẽ lớn mạnh. Nếu Đa-vít qua đời thì ai còn có thẩm quyền để hành động? Bằng việc lập ngay Sa-lô-môn làm người cùng nhiếp chính, Đa-vít đã kiểm soát được sự việc và Sa-lô-môn sẽ thi hành mệnh lệnh của ông. Sa-lô-môn không còn là hoàng tử hay hoàng thái tử nữa:ông bây giờ là người cùng nhiếp chính với cha mình và là vua Y-sơ-ra-ên.


Sau đó Đa-vít truyền gọi những tôi tớ trung thành của ông là tiên tri Na-than, thầy tế lễ Xa-đốc và người đứng đầu đội quân thị vệ Bê-na-gia. Họ là những người Đa-vít có thể tin tưởng. Ông ra lệnh cho họ hãy phong Sa-lô-môn làm vua trong buổi lễ trọng thể tại Ghi-hôn. Đây là địa điểm quan trọng nằm ở sườn phía Tây núi Si-ôn cách Ê-rô-ghên nơi A-đô-ni-gia đang tổ chức yến tiệc một dặm (c.9). Sẽ không mất nhiều thời gian để tin tức đến được với A-đô-ni-gia!

Sa-lô-môn sẽ cưỡi con la của Đa-vít và dân sự sẽ được thông báo rằng Sa-lô-môn đang chia sẻ ngai vàng với Đa-vít và sẽ là người kế vị vua cha. Xa-đốc và Na-than sẽ dùng dầu thánh nơi bàn thờ xức cho Sa-lô-môn. Kèn sẽ trổi lên, loan báo cho mọi người đây là một sự kiện trọng thể. Sa-lô-môn bây giờ là vua, là người cai trị toàn thể Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (IVua 4:20,25).


Bê-na-gia là con trai thầy tế lễ (ISu 27:5), nhưng ông chọn công việc quân sự và trở thành một trong những dõng sĩ của Đa-vít (IISa 23:20-23) đồng thời là người đứng đầu đội thị vệ của nhà vua hay còn gọi là quan trưởng của người Kê-rê-thít và Phê-lê-thít (c. 38 IISa 8:18). Sau khi nghe chỉ thị của Đa-vít, Bê-na-gia bày tỏ ngay sự đồng tâm nhất trí của mình với đức vua vì vậy ông cho binh lính của mình ủng hộ Đa-vít và Sa-lô-môn. Sau này, Sa-lô-môn xử tử Giô-áp vì tội phản bội vua cha để đi theo A-đô-ni-gia. Sa-lô-môn bàn giao lại cho Bê-na-gia chức vụ mà Giô-áp đã đảm trách (IVua 2:35). Bê-na-gia cũng trung thành với Sa-lô-môn như đã từng trung thành với Đa-vít.


Đức Chúa Trời báo tin cho dân Y-sơ-ra-ên (IVua 1:38-53). Xa-đốc, Na-than và Bê-na-gia được đội quân nhà vua bảo vệ, tuân lệnh Đa-vít thông báo cho toàn thể Y-sơ-ra-ên biết Sa-lô-môn là vua. Dân sự vui mừng khôn xiết khi họ chơi kèn và tung hô “Vua Sa-lô-môn vạn tuế”. Tiếng la vang xuống thung lũng và vọng đến Ên-rô-ghên nơi mọi người đang tung hô “Vua A-đô-ni-gia vạn tuế” (c.25).


Khi A-đô-ni-gia và các khách mời của mình dự xong tiệc, họ nghe tiếng la cùng tiếng kèn và tự hỏi chuyện gì đang diễn ra ở Giê-ru-sa-lem. Có phải vua Đa-vít đã qua đời? Hay đó là một sự tuyên chiến?


Những câu hỏi này được giải đáp khi Giô-na-than đến. Ông là con trai của thầy tế lễ A-bi-tha, người đã ủng hộ Đa-vít trong cuộc nổi loạn của Áp-sa-lôm (IISa 17:17-22). A-đô-ni-gia nghĩ rằng Giô-na-than mang đến tin tức tốt lành, nhưng hóa ra đó là tin tệ nhất có thể có cho A-đô-ni-gia, A-bi-tha và Giô-áp. Giô-na-than tường thuật rằng đã có người tận mắt chứng kiến Sa-lô-môn cỡi con lừa của nhà vua còn Xa-đốc và Na-than thì xức dầu cho vị vua mới. Nhưng câu 47-48 lại mô tả những gì đang diễn ra nơi giường Đa-vít (c.36-37), và chúng ta tự hỏi từ đâu mà Giô-na-than có được những thông tin này. Có phải ông nghe Bê-na-gia ra lệnh cho đội quân của mình phải trung thành với Sa-lô-môn như họ đã từng trung thành với Đa-vít? Có phải Na-than và Xa-đốc đã lặp lại lời của Đa-vít cho dân sự?


Giô-na-than nói rõ rằng vào chính thời điểm đó Sa-lô-môn làm vua Y-sơ-ra-ên. A-đô-ni-gia, những kẻ đồng đảng và các vị khách mời biết điều này có nghĩa gì. Tất cả họ đều vô cùng hoang mang. Các khách mời, kể cả những vương tử hãy còn non nớt, thảy đều đứng dậy chạy về thành phố tìm sự an toàn, còn A-đô-ni-gia chạy đến đền tạm ẩn náu. Đây là căn lều được dựng ở Giê-ru-sa-lem để đặt hòm giao-ước (ISu 16:1,37).

Còn Đền tạm cùng các khí dụng khác thì đặt tại Ga-ba-ôn (ISu 16:39-40; IVua 3:4). Có một bàn thờ tại đó và A-đô-ni-gia nắm các sừng của bàn thờ. Đây là điều mà mọi người gặp nguy hiểm thường làm trước khi sáu thành ẩn náu được xây dựng (IVua 2:28; Xu 21:13-14). Nơi ẩn náu ít ra cũng có thể góp phần trì hoãn sự phán xét và cho bị cáo một cơ hội được giải bày (Phuc 19:1-21).


Sa-lô-môn bày tỏ sự nhân từ với người anh trai của mình khi cho A-đô-ni-gia trở về nhà tại Giê-ru-sa-lem. Đây chẳng qua là sự giam lỏng tại gia vì đội thị vệ của nhà vua lúc nào cũng có thể giám sát A-đô-ni-gia. Sa-lô-môn cũng cảnh cáo anh mình hãy cẩn thận trong cách cư xử vì chỉ cần một sự nổi loạn thì A-đô-ni-gia sẽ phải chết. Nếu bước ra khỏi ranh giới, A-đô-ni-gia sẽ bị xử tử. A-đô-ni-gia cúi lạy trước Sa-lô-môn, nhưng tấm lòng ông không hề phục tùng Đức Chúa Trời hay em trai mình.


3. Đa-vít, người thực tế (IVua 2:1-11) (ISu 29:26-30)

“Trong đời mình, Đa-vít đã phục vụ cho mục đích của Đức Chúa Trời” (Công 13:36), nhưng ông cũng quan tâm đến Sa-lô-môn và thế hệ sau. Đa-vít có nhiều kẻ thù, một vài người trong số họ ở ngay trong nhà và là những người thân cận của ông, ông muốn chắc chắn rằng vị vua mới sẽ không phải vướng mắc những vấn đề như của ông. Trong 40 năm trị vì, Đa-vít đã thống nhất đất nước, đánh bại kẻ thù, giải quyết thành công những vấn đề của vương quốc và chuẩn bị rất nhiều cho việc xây dựng đền thờ. Ông hát bài ca chót (IISa 23:1-7) và trao phó nhiệm vụ cuối cùng của mình cho Sa-lô-môn.


Hãy đặt Đức Chúa Trời lên trên hết (IVua 2:1-4).

Cựu-ước ghi lại những lời cuối cùng của Gia-cốp (Sa 49:1-33), Môi-se (Phuc 33:1-29), Giô-suê (Gios 23:1-24:27) và Đa-vít (IVua 2:1-11). Câu “Ta hầu đi con đường chung của cả thế gian” được trích dẫn từ lời của Giô-suê vào lúc cuối đời (Gios 23:14), và câu “Khá mạnh dạn và nên người trượng phu” dường như là lời Đức Chúa Trời nói với Giô-suê khi ông bắt đầu bước vào chức vụ (Gios 1:6).

Sa-lô-môn là một người trẻ tuổi được sống trong sự bảo bọc che chở vì thế rất cần lời khuyên dạy này. Trên thực tế, ngay từ lúc bắt đầu trị vì, Sa-lô-môn đã phải thực hiện nhiều quyết định cứng rắn và ban hành nhiều mệnh lệnh đầy khó khăn. Đa-vít đã ủy thác cho Sa-lô-môn công việc xây đền thờ, một công tác sẽ phải mất bảy năm.

Một ngày nào đó Sa-lô-môn sẽ qua đời và Đa-vít muốn con trai mình có thể nhìn lại cuộc đời nó với sự thỏa lòng. Phước cho người nào có lòng ngay thẳng trước mặt Đức Giê-hô-va, có lương tâm trong sạch, có thể nhìn lại cuộc đời mình và nói như Chúa Giê-xu: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4).


Những lời của Đa-vít tương tự những lời của Môi-se khi ông trao phó trách nhiệm cho Giô-suê (Phu 31:1-30). Đầu tiên, Môi-se khuyên bảo Giô-suê “hãy nên người trượng phu”, hãy đối mặt với trách nhiệm của mình bằng sự can đảm và ngay thẳng (c.1-8). Sau đó, Môi-se ban luật pháp cho các thầy tế lễ và khuyên bảo mọi người (kể cả Giô-suê) hãy học và làm theo. Đa-vít mong đợi Sa-lô-môn sẽ thông thạo luật pháp và giao ước của Đức Chúa Trời (Phuc 17:14-20), và nếu vị vua mới nầy tuân theo những lời của Đức Giê-hô-va thì người sẽ được ban cho nhiều sức mạnh, sự khôn ngoan và phước hạnh.


Tuy nhiên Đa-vít cũng nhắc con trai mình về lời giao ước đặc biệt của Đức Chúa Trời liên quan đến vương triều nhà Đa-vít (c.4 IISa 7:1-17). Ông cảnh báo rằng nếu bất tuân luật pháp của Đức Chúa Trời thì Sa-lô-môn sẽ gánh lấy sự trừng phạt, sự đau khổ cho chính mình và cho đất nước. Ngược lại, nếu tuân thủ theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ chúc phước cho Sa-lô-môn và dân sự.

Điều quan trọng hơn nữa là Chúa sẽ nhìn thấy điều đó Ngài sẽ làm cho hậu tự nhà Đa-vít luôn vững bền trên ngôi vua. Đa-vít ý thức sâu xa về trọng trách của quốc gia Y-sơ-ra-ên. Họ sẽ là một phương tiện để qua đó lời hứa về Đấng Cứu Thế được thành tựu. Kế hoạch cứu chuộc của Đức Chúa Trời cho nhân loại trong tương lai sẽ được thực hiện qua tuyển dân Y-sơ-ra-ên. Thật đáng tiếc khi Sa-lô-môn không đi theo đường lối của Đức Giê-hô-va một cách trọn vẹn. Việc làm nầy đã tạo điều kiện cho sự thờ cúng thần tượng lan tràn khắp nơi và dẫn đến việc vương quốc bị chia cắt.


Bảo vệ vương quốc! (IVua 2:5-9).

Đa-vít biết rằng có những hiểm họa đang rình rập trong vương quốc, ông cảnh báo Sa-lô-môn phải hành động ngay lập tức và xử lý hai kẻ nguy hiểm. Giô-áp, quan tổng binh của Đa-vít, là kẻ được nêu tên đầu tiên.Giô-áp đã đứng về phía Đa-vít trong những thử thách khó khăn nhất, nhưng có đôi lúc ông đã tự làm theo ý riêng và đã phạm tội mưu sát hai người vô tội.

Giô-áp là cháu của Đa-vít, là anh của A-bi-sai và A-sa-ên. Cả ba người họ đều là những dõng sĩ. Giô-áp đã giết Áp-ne vì Áp-ne đã giết A-sa-ên (IISa 2:12-3) Giô-áp giết con trai của Đa-vít là Áp-sa-lôm mặc dù biết Đa-vít muốn cho con trai mình sống (IISa 18:1-30).

Chính Giô-áp đã mưu sát A-ma-sa, người được Đa-vít lập làm trưởng đạo binh (IISa 20:1-43) và hắn đã ủng hộ A-đô-ni-gia trong cuộc tìm kiếm ngai vàng (IVua 1:7). Giô-áp cũng có dính líu trong kế hoạch của Đa-vít nhằm giết chồng của Bát-sê-ba là U-ri (IISa 11:14), và có lẽ vị tướng xảo quyệt này đã dùng những hiểu biết của mình để đe dọa nhà vua. Đa-vít không nhắc đến chuyện của U-ri hay Áp-sa-lôm nhưng chắc chắn Sa-lô-môn biết Giô-áp là kẻ phản bội nhà vua.


Kẻ nguy hiểm thứ hai là Si-mê-i (IVua 2:8-9).

Hắn ta là người Bên-gia-min và thuộc về dòng dõi Sau-lơ. Hắn luôn muốn nhìn thấy sự phục hồi ngai vàng cho nhà Sau-lơ. Hắn đã nguyền rủa Đa-vít khi ông chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm


(IISa 16:5-13). Nguyền rủa nhà vua là một sự vi phạm luật pháp (Xu 22:28) nhưng Đa-vít đã chấp nhận cách xử sự không mấy tử tế này của Si-mê-i và coi đó như là một sự rèn luyện của Đức Chúa Trời. Sau đó, khi Đa-vít trở về với ngai vàng, Si-mê-i đã hạ mình trước mặt nhà vua và Đa-vít đã tha thứ cho hắn (IISa 19:18-23). Nhưng Đa-vít biết rằng luôn luôn có những phần tử ủng hộ Sau-lơ ở các chi phái phía Bắc, vì thế ông cảnh báo Sa-lô-môn phải đặt Si-mê-i dưới sự kiểm soát chặt chẽ.


Không chỉ nhớ đến những kẻ nguy hiểm như Giô-áp và Si-mê-i, Đa-vít còn nhớ đến những người đã giúp đỡ ông như Bát-xi-lai (c.7), người đã chu cấp cho Đa-vít và những người theo ông những gì họ cần khi họ chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm (IISa 17:27-29). Đa-vít muốn thưởng cho Bát-xi-lai một chỗ ngồi nơi bàn của mình, nhưng người đàn ông già yếu này lại muốn qua đời tại nhà của mình. Bát-xi-lai đã xin Đa-vít ban ân huệ cho con trai mình là Kim-ham (IISa 19:31-38) nhưng bây giờ Đa-vít chỉ thị cho Sa-lô-môn phải quan tâm đến tất cả các con trai của Bát-xi-lai chứ không riêng một mình Kim-ham.


Đa-vít đã “hầu đi con đường chung của cả thế gian”, và “băng hà tuổi cao, thỏa nguyện về đời mình, về sự giàu có, và về vinh hiển…” (ISu 29:28). Sa-lô-môn đã lên ngôi vua và ngai vàng của ông đã vững chắc, vì thế không cần thiết có bất cứ quyết định chính thức hay nghi lễ nào nữa.


4. Sa-lô-môn, nhà chiến lược (IVua 2:12-46)

Các công việc của vị vua mới đều đã được định sẵn: xử lý Giô-áp, xử lý Si-mê-i, thưởng cho các con trai của Bát-xi-lai và xây đền thờ. Nhưng cơn khủng hoảng đầu tiên xảy ra với ông chủ yếu đến từ người anh cùng cha khác mẹ A-đô-ni-gia.


Yêu cầu của A-đô-ni-gia (IVua 2:13-25).

Sa-lô-môn đã có lòng độ lượng chấp nhận sự quy phục triều đại mới của A-đô-ni-gia (IVua 1:53), mặc dù ông biết rằng người này là giả dối và sẳn sàng dấy loạn một lần nữa. Chi tiết A-đô-ni-gia đi đến Bát-sê-ba với lời cầu xin cho thấy ông nghĩ rằng bà có ảnh hưởng lớn đối với con trai mình. Lời tuyên bố của A-đô-ni-gia trong câu 5 chỉ ra những sự rối rắm trong suy nghĩ của ông: nếu Sa-lô-môn được Đức Chúa Trời chọn để ngồi trên ngai vàng và A-đô-ni-gia biết điều đó thì tại sao ông lại cố gắng đảo chính và giành lấy ngai vàng? Giống như Áp-sa-lôm, ông nghĩ rằng thành công có nghĩa là một cuộc diễn hành rầm rộ và tiếng tung hô của mọi người. Có lẽ khi A-đô-ni-gia nói “vì do nơi Đức Chúa Trời mà thuộc về người (Sa-lô-môn)”, ông chỉ muốn Bát-sê-ba cảm động.


Các nhà nghiên cứu có nhiều cách diễn dịch khác nhau về vai trò của Bát-sê-ba trong tình huống này. Một số người cho rằng bà rất ngây thơ khi giúp A-đô-ni-gia cầu xin Sa-lô-môn, nhưng thật ra Bát-sê-ba đã tự chứng tỏ mình là một người phụ nữ can đảm và có nhiều ảnh hưởng. Rất có thể bà đang nghi ngờ về một âm mưu khác bởi vì chiếm hữu được vợ hay các cung phi của vua có nghĩa là đã sở hữu được cả vương quốc.

Đây là điều giải thích tại sao Áp-sa-lôm công khai chiếm hữu các cung phi của Đa-vít (IISa 16:20-23), điều nầy đồng nghĩa với việc thông báo cho dân sự biết rằng ông bây giờ là vua. Thật khó để tin rằng mẹ nhà vua không biết gì về chi tiết này. Tôi có thể sai nhưng tôi cảm thấy rằng bà nhận lời A-đô-ni-gia là vì bà biết rằng Sa-lô-môn sẽ dùng cơ hội này để phơi bày âm mưu của A-đô-ni-gia. Bằng việc lấy A-bi-sác làm vợ, A-đô-ni-gia đang tuyên bố mình là người cùng nhiếp chính với Sa-lô-môn.


Sa-lô-môn lập tức nhận ra lý do đằng sau lời yêu cầu và nói “Cũng hãy xin nước cho người luôn!”. Nhà vua biết rằng A-đô-ni-gia, A-bi-tha và Giô-áp vẫn còn liên kết với nhau nhằm giành quyền thống trị vương quốc. Bằng việc hỏi A-bi-sác làm vợ, A-đô-ni-gia đã tự đưa ra bản án tử hình cho mình và Bê-na-gia đã đi đến lấy mạng kẻ phản bội.

Đa-vít không còn nữa để đau xót cho cái chết của một đứa con trai khác, nhưng việc hành hình A-đô-ni-gia là sự hoàn trả cuối cùng cho món nợ phải đền gấp bốn lần của Đa-vít (IISa 12:5-6). Đứa trẻ con của Bát-sê-ba đã chết, Áp-sa-lôm giết Am-nôn, Giô-áp giết Áp-sa-lôm và Bê-na-gia xử tử A-đô-ni-gia. Đa-vít phải trả giá cho tội lỗi của ông gấp bốn lần.


Việc cách chức A-bi-tha (IVua 2:26-27).

Nhưng Sa-lô-môn không dừng ở đó: ông đã tước bỏ chức thầy tế lễ của A-bi-tha, người đã theo phe A-đô-ni-gia và đuổi ông về ẩn dật tại thành phố dành cho các thầy tế lễ ở A-na-tốt, cách Giê-ru-sa-lem ba dặm. Khi cách chức A-bi-tha, Sa-lô-môn đã làm ứng nghiệm lời tiên tri phán về nhà Hê-li rằng gia đình ông sẽ không còn tiếp tục trong chức vụ thầy tế lễ (ISa 2:27-36; Exe 44:15-16). Xa-đốc trở thành thầy tế lễ cả (c.35) và hậu tự ông tiếp tục chức vụ đến tận năm 171 T.C. Sa-lô-môn nhận thấy A-bi-tha đã tận tụy phục vụ cha mình nên ông không xử tử hắn.


Việc xử tử Giô-áp (IVua 2:28-35).

Giô-áp rất có thể đã có một hệ thống do thám hiệu quả và khi ông nghe tin A-đô-ni-gia bị xử tử, ông biết mình là người tiếp theo trong danh sách. Ông chạy trốn đến Đền tạm ở Giê-ru-sa-lem, nơi Đa-vít đã dựng để đặt hòm giao-ước (IISa 6:17) tại đó ông đòi hỏi sự ẩn náu bằng cách nắm các sừng của bàn thờ.

Tuy nhiên, chỉ có người phạm tội ngộ sát mới được làm điều này và yêu cầu sự xét xử, còn Giô-áp là kẻ phạm tội mưu sát, bất trung với vua Đa-vít và vua Sa-lô-môn. Giô-áp thách thức cả Bê-na-gia và Sa-lô-môn bằng việc từ chối ra khỏi Đền tạm, nhưng Sa-lô-môn sẽ không chịu thua cách cư xử ngạo mạn của kẻ rõ ràng là phản bội và mưu sát.

Mặc dầu là một chiến sĩ nhưng Bê-na-gia thuộc về gia đình thầy tế lễ nên ông được phép vào nơi thánh, và ông đã đi vào đánh giết Giô-áp tại nơi bàn thờ và chôn cất hắn. Sau đó Sa-lô-môn đã phong cho Bê-na-gia làm quan tổng binh thay cho Giô-áp (c.35).


Điều quan trọng mà chúng ta cần phải hiểu là Sa-lô-môn không đơn thuần hành động để trả thù cho cha mình. Sa-lô-môn giải thích rằng cái chết của Giô-áp cất đi vết nhơ do huyết vô tội mà Giô-áp đã làm đổ ra khi hắn giết Áp-ne và A-ma-sa. Huyết vô tội đổ ra làm ô uế cả xứ (Dân 35:30-34) và huyết của kẻ vô tội sẽ đòi sự báo thù nơi Đức Giê-hô-va (Sa 4:10).

Những thành ẩn náu chỉ dành cho những kẻ lỡ tay giết một ai đó. Họ có thể chạy đến một trong sáu thành này và được an toàn cho đến khi các trưởng lão xem xét vụ án. Nhưng những kẻ mưu sát như Giô-áp sẽ không được nhận bất cứ ân huệ nào mà sẽ bị xử tử, như thế huyết vô tội mà họ đã làm đổ ra sẽ không làm ô uế xứ thánh (Phuc 19:1-13; Phuc 21:1-9; Le 18:24-30). Sự đối đãi của Sau-lơ đối với dân Ga-ba-ôn đã làm ô uế xứ thánh và đã tạo ra những sự khó khăn cho Đa-vít (IISa 21:1-14), nhưng Sa-lô-môn không muốn điều đó xảy ra trong đời trị vì của mình.


Sự liều lĩnh của Si-mê-i (IVua 2:36-46).

Bởi vì Si-mê-i có họ hàng với Sau-lơ (IISa 16:5; ISa 10:21), ông là kẻ có thể gây rối loạn, xúi giục chi phái Bên-gia-min hay có lẽ là cả mười chi phái phía Bắc Y-sơ-ra-ên chống lại vị vua mới. Đa-vít đã mang lại sự thống nhất và hòa bình cho đất nước nên Sa-lô-môn không muốn Si-mê-i phá hỏng điều đó.

Ông ra lệnh cho Si-mê-i phải di dời đến Giê-ru-sa-lem, cất một cái nhà cho mình và ở tại đó.Nếu ông ra khỏi thành phố và đi qua khe Xết-rôn thì ông sẽ phải chết. Vào thời bấy giờ Giê-ru-sa-lem không phải là thành phố lớn nên người của Sa-lô-môn có thể giám sát người Bên-gia-min nầy, kẻ đã nguyền rủa Đa-vít, hất bụi và ném gạch đá vào ông.


Si-mê-i tuân thủ điều này trong ba năm nhưng sau đó lại bất tuân. Khi hai kẻ tôi tớ ông trốn đến Gát cách đó 25 dặm, Si-mê-i quyết định đi một mình và dẫn chúng về. Chắn chắn rằng ông đã có thể thuê một ai đó để bắt hai kẻ tôi tớ về nhưng ông lại tự mình làm điều đó. Có lẽ ông nghĩ mình đã hoàn thành kỳ hạn giao kèo hoặc có thể ông nghĩ rằng những cận vệ nhà vua không chú ý đến ông.

Rất có thể ông cố ý thách thức Sa-lô-môn khi vượt quá giới hạn để xem thử nhà vua sẽ làm gì. Ông đã khám phá ra được điều đó. Sa-lô-môn biết được Si-mê-i đã rời khỏi thành phố nên khi ông trở về, nhà vua đã đối chất với Si-mê-i về tội của ông. Sa-lô-môn nói ngắn gọn nhưng đầy uy quyền, kết tội Si-mê-i vì những gì ông đã làm với Đa-vít và những gì ông vừa mới làm với Sa-lô-môn và kết thúc bằng việc Bê-na-gia xử tử kẻ phản bội Si-mê-i.


Sa-lô-môn là “người thái bình” (ISu 22:6-10), nhưng mà ông đã bắt đầu sự trị vì của mình bằng ba lệnh xử tử. Nhưng sự thái bình thật sự phải dựa trên sự công bình, không phải trên cảm tính “Nhưng sự khôn ngoan từ trên mà xuống trước hết là thanh sạch, sau đó lại hòa thuận…” (Gia 3:17). Vùng đất đã bị ô uế bởi máu vô tội mà Giô-áp đã làm đổ và nó chỉ có thể được thanh tẩy bằng việc xử tử kẻ giết người. Đa-vít không xử tử Giô-áp, ngay cả sau khi Giô-áp giết Áp-sa-lôm, bởi vì Đa-vít biết tay mình cũng vấy máu vô tội (Thi 51:14). Đa-vít đã phạm tội khi ra lệnh cho Giô-áp làm đổ máu vô tội của U-ri, nhưng tay Sa-lô-môn thì thanh sạch. Sa-lô-môn thật sự là “người thái bình”, và ông đã có được sự thái bình khi mang đến sự công bình cho vương quốc.


Theo quan điểm của con người (không phải là quan điểm của Kinh Thánh) thì đây là sự kết thúc của Đa-vít và là sự khởi đầu cho Sa-lô-môn.“Nhưng con đường người công bình giống như sự sáng chiếu rạng, càng sáng thêm lên cho đến giữa trưa” (Ch 4:18). Là một người lãnh đạo, Đa-vít “giống như sự chói lòa buổi sáng…khác nào một buổi sớm mai chẳng có mây” (IISa 23:4), và vì Đa-vít, Đức Chúa Trời đã để một ngọn đèn sáng mãi ở Giê-ru-sa-lem (IVua 11:36; IIVua 8:19). Ngay cả bây giờ, khi chúng ta đọc và hát các thi-thiên của ông cũng như học về cuộc đời ông, ánh sáng đó vẫn soi dẫn đường lối chúng ta.





2. SỰ KHÔN NGOAN TỪ THIÊN THƯỢNG (IVua 3:1-4:34)


Khi Sa-lô-môn lên ngôi, dân Y-sơ-ra-ên sớm nhận thấy ông không phải là một Đa-vít thứ hai. Ông là một nhà thông thái nhưng không phải là một chiến sĩ. Ông là người thích xây đền đài hơn là chiến đấu. Đa-vít vui hưởng đời sống giản dị của một người chăn chiên, còn Sa-lô-môn lại chọn cách sống xa hoa. Cả Đa-vít và Sa-lô-môn đều viết thi-thiên nhưng Sa-lô-môn giỏi hơn về châm-ngôn.

Chúng ta có nhiều thi-thiên của Đa-vít trong sách Thi-thiên nhưng chúng ta không có một thi thiên nào trong ba ngàn thi-thiên của Sa-lô-môn ngoại trừ (Thi 72:1-20; Thi 127:1-5).


Đa-vít là một người chăn đầy lòng yêu mến và phục vụ dân sự của Đức Chúa Trời trong khi Sa-lô-môn trở nên nổi tiếng qua cách ông sử dụng những người chu cấp cho lối sống phung phí của mình. Khi Đa-vít qua đời, dân sự than khóc; còn sau khi Sa-lô-môn qua đời, dân sự cầu xin người kế vị là Giê-rô-bô-am giảm nhẹ gánh nặng mà cha ông đã chất trên họ. Đa-vít là người chiến sĩ đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời trong khi đó Sa-lô-môn là nhà chính trị đặt niềm tin vào quyền lực, những hiệp ước và sự thành tựu. Frederick Buechner nói rằng, “Vua Sa-lô-môn là người khôn ngoan nhất trong những kẻ ngu dốt từng đội vương miện”.


Sa-lô-môn được nhắc đến 300 lần trong Cựu-ước và rất nhiều lần trong Tân-ước. Ông có tên trong gia phổ của Chúa Giê-xu (Mat 1:6-7) và được nhắc đến như là ví dụ về sự huy hoàng (Mat 6:29; Lu 12:27) và khôn ngoan (Mat 12:42; Lu 11:31). Ông được công nhận là người xây dựng đền thờ (Công 7:47). Một trong những cửa đền thờ được lấy tên là Sa-lô-môn (Gi 10:23; Công 3:11 Công 5:12). Cha ông, vua Đa-vít được xem là nhà lãnh đạo mẫu mực, và những ghi chép về ông đã trở thành tiêu chuẩn để đánh giá những vị vua Giu-đa kế vị. Tuy nhiên, không ai xem Sa-lô-môn là gương mẫu của một nhà lãnh đạo tin kính Chúa.


Chương 3 và 4 ghi lại những sự kiện xảy ra trong ba năm đầu trị vì trước khi Sa-lô-môn xây dựng đền thờ (IVua 6:1) và ông được mô tả dưới nhiều vai trò khác nhau.


1. Người đem lại hòa bình (IVua 3:1a)

Tên của Sa-lô-môn có nguồn gốc từ một chữ trong tiếng Hê-bơ-rơ là shalom có nghĩa là “hòa bình” và trong suốt những năm trị vì, vương quốc của ông luôn hòa bình với các nước lân cận. Cha ông là Đa-vít đã hy sinh cả đời mình trong chiến trận để đánh bại các nước thù địch và giành đất đai cho Y-sơ-ra-ên, nhưng Sa-lô-môn có cách giải quyết khác cho những vấn đề ngoại giao.

Ông kết ước với các vua láng giềng bằng cách cưới con gái họ, điều này giải thích tại sao ông có đến 700 bà vợ là công chúa cũng như 300 cung phi (IVua 11:3). Có vẻ như Sa-lô-môn kết ước với bất kỳ tiểu vương nào có con gái mà ông có thể cưới được, mặc dù luật pháp Môi-se đã răn dạy các vua Do-thái không nên có nhiều vợ (Phuc 17:14-20).


Người vợ đầu tiên mà ông cưới sau khi lên ngôi vua là con gái của Pha-ra-ôn Ai-cập, kẻ thù cũ của dân Y-sơ-ra-ên. Sự liên minh này cho thấy Ai-cập đã yếu hơn các nước khác còn Y-sơ-ra-ên đã lớn mạnh hơn bởi vì các vua Ai-cập không bao giờ gả con gái họ cho các vua lân cận. Điều đáng lưu ý là Sa-lô-môn không để người vợ Ai-cập của mình ở trong cung điện của Đa-vít vì nơi đó gần hòm giao ước (IISu 8:11), nhưng ông để bà ở trong một cung điện khác cho đến khi cung điện riêng của bà được xây dựng xong. Ông đã mất bảy năm xây dựng đền thờ của Đức Chúa Trời nhưng mất đến mười ba năm để xây dựng cung điện cho riêng mình (IVua 6:37-7:1).


Những hiệp ước đầy rắc rối của Sa-lô-môn đã làm mất đi vị trí trung tâm độc nhất của dân Y-sơ-ra-ên khi dân sự Chúa bị hòa lẫn với các dân tộc khác. Họ là dân thánh của Đức Chúa Trời, những người được chọn trong vòng các dân tộc Đức Chúa Trời đã dựng nên (Xu 33:16; Phuc 4:7-8,32-34). Đức Chúa Trời không lập giao ước với các dân ngoại cũng như Ngài không ban cho họ luật pháp, sự vinh hiển và chức thầy tế lễ thánh của Ngài (Ro 9:1-5). Đức Chúa Trời phán với dân Do-thái “Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các ngươi, đã phân rẽ các ngươi cùng các dân” (Le 20:24,26). Khi nào dân Y-sơ-ra-ên còn tin cậy và vâng theo lời Ngài, quốc gia của họ sẽ “ở bình an” (Phuc 33:2. Tiên tri Ba-la-am đã mô tả dân Y-sơ-ra-ên như là “một dân ở riêng ra, không nhập số các nước” (Dân 23:9).


Đức Chúa Trời đã đặt dân Y-sơ-ra-ên ở giữa các dân ngoại để làm chứng về Ngài như là một Đấng sống và hiện hữu và đặt họ làm sự sáng cho các dân ngoại (Es 42:6). Nếu Y-sơ-ra-ên trung tín đi theo đường lối của Đức Chúa Trời (Phuc 27:1-30:26), Ngài sẽ chúc phước cho họ và dùng họ như là “bài giảng sống động” cho các nước thờ tà thần xung quanh họ.

Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên đã bắt chước các dân ngoại, thờ lạy hình tượng và từ bỏ trách nhiệm làm chứng về một Chúa chân thật. Vì lý do này mà Đức Chúa Trời đã phạt họ lưu đày qua Ba-by-lôn. Đức Chúa Trời muốn đặt Y-sơ-ra-ên ở “đằng đầu” các dân nhưng vì sự thỏa hiệp của họ, Y-sơ-ra-ên lại ở “đằng đuôi” (Phuc 28:13,44). Có thể Sa-lô-môn đã nghĩ rằng ông đang làm cho tình hình chính trị tiến triển bằng cách đưa Y-sơ-ra-ên hòa mình vào các quốc gia khác, nhưng hậu quả lại là sự thoái hóa về thuộc linh. Sa-lô-môn cũng bước vào sự thỏa hiệp thương mại với các nước lân cận nhằm thu lợi về cho mình (IVua 10:1-15,22) và làm cho vương quốc được phồn thịnh nhưng cái giá ông phải trả quá đắt.


Vương quốc Y-sơ-ra-ên chỉ thật sự được phồn thịnh khi tin vào Đức Chúa Trời và tuân theo giao ước của Ngài. Nếu họ trung thành với Đức Chúa Trời, gài hứa sẽ ban cho họ những gì họ cần, bảo vệ họ khỏi kẻ thù và chúc phước trên công việc của họ. Nhưng ngay từ khi người Do-thái bắt đầu nền quân chủ, hững vị lãnh đạo Y-sơ-ra-ên chỉ ra rõ ràng là họ “muốn như các dân tộc khác” (ISa 8:1-22), và Sa-lô-môn đã dẫn họ gần hơn đến mục tiêu đó. Sau cùng, Sa-lô-môn đã cưới nhiều bà vợ theo tà giáo bắt đầu thờ lạy các vị thần giả dối của họ, nên Đức Chúa Trời đã trừng phạt ông. (ISa 11:1-27).


2. Nhà xây dựng (IVua 3:1b)

Sa-lô-môn được nhắc đến như là vị vua xây dựng đền thờ trong thời ông trị vì (đoạn 5-7; IISu 2:1-4:22). Mối giao hảo với Hi-ram, vua Ty-rơ, tạo điều kiện cho ông tìm được nhiều gỗ quý và những người thợ lành nghề. Nhưng ông cũng xây cung điện làm nơi ở cho riêng (IVua 7:1-12), và “cung rừng Li-ban”, nơi chế tạo và cất giữ vũ khí (IVua 10:16-17), hiên để ngai và hiên xét đoán. Ông cũng xây một cung điện ở Giê-ru-sa-lem cho người vợ của ông là công chúa Ai-cập (IISu 8:1). Những vị khách đến với vương quốc bị choáng ngợp bởi sự lộng lẫy của những công trình kiến trúc này (đoạn 10).


Mặc dù Sa-lô-môn không phải là một chiến sĩ, ông vẫn rất quan tâm đến an ninh của vương quốc. Ông mở rộng và củng cố “Mi-lô” (IVua 9:24; IVua 11:27) là tường thành hoặc đồn lũy bảo vệ mà Đa-vít đã bắt đầu xây dựng (IISa 5:9). Từ “Mi-lô” có nghĩa là “sự đổ đầy”. Sa-lô-môn có sở thích đặc biệt về ngựa và xe ngựa, ông đã xây “những thành chứa xe” (IVua 4:26; IVua 9:17-19; IVua 10:26-29). Ông dường như trở thành “người buôn bán ngựa” khi mua và bán ngựa với các nước khác (IISu 1:14-17; IISu 9:25-28), chắc chắn đây là nguồn thu lợi đáng kể cho thương mại. Ông cũng xây dựng “các thành làm kho dự trữ lương phạn” ở các nơi chiến lược (IVua 9:15-19; IISu 8:1-6). Vào thời điểm đó, Y-sơ-ra-ên kiểm soát nhiều tuyến thương mại quan trọng cần phải được bảo vệ. Các binh lính được bố trí trong những thành này và họ được cung cấp lương thực và vũ khí.


Sa-lô-môn đã vi phạm luật pháp của Môi-se không chỉ bởi việc cưới nhiều vợ nhưng cũng bởi việc làm tăng thêm ngựa và nương dựa vào lính kỵ (Phuc 17:14-17). Trái với mạng lệnh của Đức Chúa Trời, Sa-lô-môn quay trở lại Ai-cập để thực hiện cả hai việc này! Nhà vua được yêu cầu phải chép một bản sách Phục-truyền luật-lệ ký cho mình (Phuc 17:18-20), và chúng ta tự hỏi rằng Sa-lô-môn đã đáp ứng lại theo cách nào khi ông đọc những mạng lệnh về vợ và ngựa. Hay ông đã từng ngẫm nghĩ về những gì cha mình viết trong (Thi 20:7) cũng xem (Thi 33:16-19)? Trong đời trị vì của Sa-lô-môn, sự giàu có và rực rỡ bên ngoài của Y-sơ-ra-ên chỉ che đậy sự suy tàn bên trong mà cuối cùng đã dẫn đến sự chia rẽ sau đó là sụp đổ.


3. Người thờ phượng (IVua 3:2-15)

Sa-lô-môn chắc chắn có một sự khởi đầu tốt vì ông “kính mến Đức Giê-hô-va và đi theo các luật lệ của Đa-vít” (c.3) nhưng một sự khởi đầu tốt không bảo đảm cho một kết thúc tốt đẹp. Sau-lơ, vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, đã khởi đầu bằng sự khiêm nhường và chiến thắng nhưng ông lại kết thúc bằng việc bị Đức Chúa Trời từ bỏ và đã tự sát trong chiến trận. Chính Sa-lô-môn đã viết trong (Tr 7:8) “cuối cùng của một việc hơn sự khởi đầu của nó” và “Danh tiếng hơn dầu quý giá và ngày chết hơn ngày sinh” (Tr 7:1). Chúng ta được đặt tên ngay sau khi sinh ra, và giữa khoảng thời gian sống và chết, chúng ta có thể làm giảm hoặc tăng giá trị của cái tên đó. Sau khi chết, chúng ta không thể thay đổi tiếng tốt thành tiếng xấu hoặc tiếng xấu thành tiếng tốt. Nhà thơ Longfellow người Mỹ đã viết, “Tuyệt thay cho lúc bắt đầu, song hồi chung kết còn hơn muôn phần”.


Sự dâng của lễ (IVua 3:2-4).

Đức Chúa Trời có ý định rằng dân Y-sơ-ra-ên phải có một nơi làm trung tâm của sự thờ phượng và không bắt chước những quốc gia ở Ca-na-an bằng việc xây dựng “những nơi cao” ở bất cứ nơi nào họ chọn.

Khi Y-sơ-ra-ên vào đất hứa, họ được ra lệnh phải phá hủy “những nơi cao” này cùng các thần tượng được thờ lạy tại đây (Dân 33:52; Phuc 7:5; Phuc 12:1; Phuc 33:29). Tuy vậy, dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn thờ phượng Đức Chúa Trời tại “các nơi cao” cho đến khi đền thờ được xây dựng và sự thờ phượng tập trung được thiết lập trong vương quốc. Kể từ đó, cụm từ “nơi cao” bắt đầu được sử dụng có nghĩa là “một nơi để thờ phượng” và người Do-thái thờ phượng Đức Giê-hô-va tại những nơi tế lễ tạm thời này.


Ga-ba-ôn là nơi tế lễ như thế và Đền tạm được đặt tại đây. Đặt bước khởi đầu trong việc xây dựng Đền tạm, Đa-vít đã di dời hòm giao-ước về Giê-ru-sa-lem nhưng phần còn lại của Đền tạm, bao gồm bàn thờ bằng đồng vẫn còn được đặt tại Ga-ba-ôn, cách Bắc Giê-ru-sa-lem năm dặm. Sa-lô-môn nhóm họp các vị lãnh đạo Y-sơ-ra-ên và sắp xếp cho họ đi đến Ga-ba-ôn với ông để cùng thờ phượng Đức Chúa Trời (IISu 1:1-6).

Sự kiện này không chỉ là một hành động dâng của tế lễ nhưng nó còn tỏ cho dân sự thấy sự thống nhất trong hàng ngũ những người lãnh đạo. Sa-lô-môn đã dâng một ngàn con sinh làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời khi ông cùng các cận thần của mình thờ phượng và tìm kiếm mặt Đức Giê-hô-va. Của lễ thiêu biểu trưng cho sự tận hiến hoàn toàn cho Đức Chúa Trời.


Sự mặc khải (IVua 3:5).

Buổi lễ kéo dài cả ngày và đoàn người nghỉ đêm ở Ga-ba-ôn.Tại đây, vua Sa-lô-môn đã nhận được một giấc mơ đặc biệt từ Đức Chúa Trời. Đa-vít có tiên tri Na-than và Gát là người cố vấn nhưng dường như không có một nhà tiên tri nào trong những người cố vấn của Sa-lô-môn. Đức Chúa Trời nói chuyện với nhà vua hai lần thông qua giấc mơ (IVua 9:1-9).

Đôi khi Đức Chúa Trời gửi thông điệp của Ngài thông qua chiêm bao không chỉ riêng cho đầy tớ Ngài nhưng còn cho những người ở các nước khác, như cho A-bi-mê-léc (Sa 20:1-18), cho các đầy tớ người Ai-cập của Pha-ra-ôn (Sa 40:1-26), và cho chính Pha-ra-ôn (Sa 41:1-57).


Sa-lô-môn nghe Đức Chúa Trời phán “Hãy xin điều gì ngươi muốn ta ban cho ngươi?” (c.5). Mệnh lệnh và câu hỏi của Đức Chúa Trời là sự tỏ bày ân điển của Ngài cũng như sự thử nghiệm tấm lòng của Sa-lô-môn. (Từ “xin” được tìm thấy tám lần trong đoạn này).

Điều người ta cầu xin thường cho thấy điều thật sự họ mong ước, và điều họ mong ước tùy thuộc vào cách họ hình dung về tiếng gọi của cuộc đời mình. Nếu Sa-lô-môn là một chiến sĩ, ông sẽ cầu xin được chiến thắng kẻ thù của mình; nhưng ông nhìn nhận mình là một người lãnh đạo trẻ tuổi rất cần sự khôn ngoan để có thể phục vụ tốt dân sự của Chúa. Ông đã nối ngôi Đa-vít, vị vua vĩ đại nhất Y-sơ-ra-ên, và ông biết rằng dân chúng sẽ không thể không so sánh và đối chiếu giữa cha ông và ông.

Nhưng hơn thế nữa, ông đã được kêu gọi để xây dựng đền thờ của Đức Chúa Trời, một công tác đầy khó khăn cho nhà một lãnh đạo chưa có kinh nghiệm. Sa-lô-môn biết rằng ông không thể nào hoàn tất công tác vĩ đại đó nếu không có sự khôn ngoan từ thiên thượng.


Sự cầu xin (IVua 3:6-9).

Lời cầu nguyện của Sa-lô-môn ngắn gọn và vào đúng trọng tâm. Nó được nói ra với sự khiêm nhường chân thật: ba lần Sa-lô-môn đã tự gọi mình là “kẻ tôi tớ Chúa”. Đầu tiên, Sa-lô-môn nhớ lại quá khứ và cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự thành tín và tình yêu bền vững của Ngài dành cho cha ông (c.6).

Sa-lô-môn nhận biết sự tốt lành của Đức Chúa Trời khi Ngài gìn giữ cha ông qua nhiều thử thách và sau đó cho ông có con trai nối ngôi. Ở đây Sa-lô-môn nhắc đến giao ước của Đức Chúa Trời lập với Đa-vít khi ông diễn tả tấm lòng khát khao được xây dựng đền thờ cho Đức Chúa Trời (IISa 7:1-29).

Trong giao-ước đó, Đức Chúa Trời hứa rằng con trai Đa-vít sẽ xây đền thờ và Sa-lô-môn chính là con trai đó. Sa-lô-môn thừa nhận rằng ông là vua không bởi vì Đức Chúa Trời nhận thấy năng lực của ông nhưng bởi vì Ngài giữ lời hứa của Ngài với Đa-vít cha ông.


Sau đó, Sa-lô-môn liên hệ đến hiện tại và nhận biết ân điển của Đức Chúa Trời khi lập ông làm vua (c.7). Nhưng ông cũng thừa nhận sự non trẻ và thiếu kinh nghiệm của mình vì thế ông rất cần sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời khi trở thành vua Y-sơ-ra-ên. Vào lúc đó Sa-lô-môn có thể khoảng 20 tuổi và dĩ nhiên trẻ hơn rất nhiều so với các cố vấn và cận thần của ông, một vài người trong số họ đã phục vụ cha ông.

Ông gọi mình là “một đứa trẻ nhỏ” (ISu 22:5; ISu 29:1), một dấu hiệu của sự thành thật và khiêm nhường. Cụm từ “đi ra đi vào” nói đến quyền lãnh đạo của đất nước (Dận 27:15-17; Phuc 31:2-3; ISa 18:13,16; IIVua 11:8).


Trong lời cầu nguyện của mình, nhà vua không chỉ thừa nhận sự nhỏ bé của ông mà còn nhắc đến sự to lớn của đất nước (c.8). Dân Y-sơ-ra-ên là dân của Đức Chúa Trời. Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời có một mục đích lớn lao cho họ hoàn thành trên đất và vua của họ có trách nhiệm rất lớn trong việc quản trị họ. Đức Chúa Trời đã mở rộng đất nước rất nhiều và làm thành lời hứa của Ngài với Áp-ra-ham (Sa 12:2; Sa 13:16; Sa 15:5), với Y-sác (Sa 26:1-5), với Gia-cốp (Sa 28:10-14), và Sa-lô-môn muốn phước hạnh đó cứ tiếp tục.


Nhà vua kết thúc lời cầu nguyện bằng việc dự đoán trước tương lai và cầu xin Đức Chúa Trời ban cho ông sự khôn ngoan cần thiết trong việc cai trị đất nước (c.9). Khôn ngoan là một yếu tố quan trọng trong đời sống ở vùng Trung Cận Đông và mỗi vị vua đều có một nhóm những “nhà thông thái” để cố vấn cho mình. Nhưng Sa-lô-môn không cầu xin có được nhóm những nhà cố vấn khôn ngoan; ông cầu xin sự khôn ngoan cho chính mình.

Vào thời đó, người khôn ngoan là người khéo léo quản trị cuộc sống. Nó mang ý nghĩa nhiều hơn là khả năng tạo dựng một cuộc sống; nó là khả năng vận dụng và khai thác hết mọi điều cuộc sống có thể đem đến. Sự khôn ngoan thật sự bao gồm kỹ năng giao tiếp cũng như khả năng thông hiểu và hợp tác với những luật lệ cơ bản Đức Chúa Trời đã đặt vào sự sáng tạo của mình. Người khôn ngoan không những có kiến thức về bản chất con người và thế giới đã được tạo ra nhưng họ còn biết sử dụng những kiến thức này đúng cách và vào đúng thời điểm thích hợp.

Sự khôn ngoan không phải là một ý niệm trên lý thuyết hay là một sản phẩm trừu tượng; nó rất thực tế và mang tính cá nhân. Có rất nhiều người có đủ khôn ngoan để kiếm sống đầy đủ nhưng họ lại thiếu sáng suốt để có một cuộc sống tốt đẹp, một cuộc sống trọn vẹn để tôn vinh Đức Chúa Trời.


Sa-lô-môn cầu xin Đức Chúa Trời ban cho ông “tấm lòng khôn sáng”, bởi vì dẫu cho lý trí có khôn ngoan bao nhiêu, nếu tấm lòng sai trật, cả cuộc sống sẽ sai trật theo.

“Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Ch 4:23).

Từ “khôn sáng” trong nguyên văn có nghĩa là “lắng nghe; Sa-lô-môn muốn một “tấm lòng biết lắng nghe”. Sự khôn sáng thật sự đến từ việc lắng nghe những lời Đức Chúa Trời phán, và theo Cựu-ước Do-thái “lắng nghe” có nghĩa là “vâng lời”. Khi Đức Chúa Trời phán với chúng ta, điều chúng ta cần làm không phải là học và đưa ra nhận xét về những gì Ngài nói, nhưng là làm theo những điều đó.

Người có tấm lòng khôn sáng có sự hiểu biết sâu sắc, nhận biết lẽ thật và thực hành điều đó. Người đó có thể phân biệt những điều khác biệt (Phi 1:9-11), biết điều thật và điều giả, điều thuộc gì là tạm bợ, điều gì có giá trị đời đời. Loại khôn sáng này được mô tả trong (Es 11:1-5), đây là lời tiên tri về Đấng Mê-si-a. Ngày nay những người tin Chúa có thể trông cậy vào lời hứa trong Gia 1:5.


Sự tán thành (IVua 3:10-13).

Đức Chúa Trời đẹp lòng về lời cầu xin sự khôn ngoan của Sa-lô-môn vì nó cho thấy rằng nhà vua quan tâm đến việc phục vụ Đức Chúa Trời và dân sự Ngài thông qua sự tìm kiếm và làm theo ý muốn Chúa. Sa-lô-môn chưa bao giờ đọc (Mat 6:33), nhưng ông đã thực hành nó và Đức Chúa Trời ban cho ông thêm nhiều phước hạnh mà ông không xin. Đức Chúa Trời luôn luôn dành điều tốt nhất của Ngài cho những người chọn lựa Chúa. Khi bạn đọc Châm-ngôn, bạn sẽ thấy sự tìm kiếm sự khôn ngoan thông sáng sẽ dẫn đến nhiều phước hạnh kèm theo (Ch 3:1-2,10,13-18).

Trong đoạn tiếp theo, chúng ta sẽ học biết về sự giàu có và vinh hiển của Sa-lô-môn cũng như việc ông thu hút các vị khách từ những vương quốc khác muốn nghe về sự khôn ngoan của ông như thế nào.


Bổn phận (IVua 3:14)

Đức Chúa Trời đã cẩn thận nhắc nhở Sa-lô-môn rằng sự vâng theo lời giao ước và sự tận hiến của ông cho Ngài là chìa khóa cho những phước hạnh trong tương lai. Sa-lô-môn được yêu cầu phải chép một bản sách Phục-truyền cho ông (Phuc 17:18-20), và nó bao gồm cả giao ước được ghi trong (Phuc 28:1-30:20).

Sa-lô-môn cũng biết được những điều kiện trong giao-ước Đức Chúa Trời lập với Đa-vít (IISa 7:1-17) nó đòi hỏi cả sự vâng lời của con trai Đa-vít và người kế vị (c.12-16). Đức Chúa Trời hứa ban cho Sa-lô-môn được sống lâu trên đất nếu ông tuân theo lời Ngài (Ch 3:2,16), như vậy ông sẽ tôn vinh Đức Chúa Trời và cha mình là Đa-vít và có thể đòi hỏi lời hứa trong (Xu 20:12; Eph 6:1-3). Thật đáng tiếc khi Sa-lô-môn với tất cả sự khôn ngoan của mình lại quên đi phần thỏa thuận này dần dần chìm đắm trong tội lỗi và sự bất tuân, vì thế Đức Chúa Trời đã phải trừng phạt ông.


Khi Sa-lô-môn quay trở về Giê-ru-sa-lem, ông đến Đền tạm nơi đựng hòm giao-ước và dâng thêm của tế lễ tại đó (c.15). Hòm giao-ước tượng trưng cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời giữa vòng dân sự Ngài và cho luật lệ của Chúa trên dân sự (Thi 80:1 Thi 99:1). Sa-lô-môn nhận biết quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời trên chính cuộc đời ông và trên cuộc sống của đất nước. Nói cách khác, Sa-lô-môn biết rằng ông đứng vị trí thứ hai trong quyền lãnh đạo. Khi ông bắt đầu quên đi chân lý cơ bản đó thì chính ông rơi vào rắc rối.


4. Người có ơn nhận thức (IVua 3:16-28)

Những người lãnh đạo được Đức Chúa Trời chọn lựa không thể lúc nào cũng duy trì sự vinh quang thiên thượng cho riêng mình nhưng phải đem sự vinh quang và phước hạnh đó vào vị trí của sự phục vụ và trách nhiệm. Đức Chúa Giê-xu rời núi hóa hình đi qua thung lũng của sự xung đột, mâu thuẫn (Mat 17:1-21), Phao-lô từ bỏ sự cao trọng của thiên đàng mà mang lấy sự đau đớn bởi cái giằm xóc vào da thịt ông ở trên đất này (IICo 12:1-10). Sa-lô-môn đã thờ phượng Đức Chúa Trời ở Ga-ba-ôn và Giê-ru-sa-lem nhưng bây giờ ông trở về với trách nhiệm trên ngai vàng.


Giống như cha mình là Đa-vít, Sa-lô-môn cho những thường dân có thể đến tiếp kiến nhà vua (IISa 14:1-33). Đức Chúa Trời đã ban cho Sa-lô-môn món quà đặc biệt của sự khôn ngoan và bây giờ là thời điểm ông sử dụng nó. Ông đã đứng trước hòm giao ước, ngai của Đức Chúa Trời, và bây giờ dân sự ông có thể đứng trước ngai ông và tìm kiếm sự giúp đỡ. Nhưng việc ông cho phép hai con bợm đứng trước ngai mình là một hành động đầy sự nhã nhặn. Giống như Chúa Giê-xu, ông đón tiếp cả “người thâu thuế và kẻ có tội” (Lu 15:1-2), duy chỉ khác một điều là Chúa Giê-xu còn đi xa hơn trong việc giải quyết nan đề của họ: Ngài thay đổi tấm lòng và tha thứ tội lỗi họ. Trong mọi phương diện, Chúa Giê-xu “tôn trọng hơn Sa-lô-môn nhiều” (Mat 12:42).


Luật pháp Môi-se đã ngăn cấm và trừng phạt nghiêm khắc tình trạng mãi dâm (Le 19:29; Le 21:7,9,14; Phuc 23:18) tuy nhiên dường như tình trạng này vẫn được dung dưỡng trong Y-sơ-ra-ên. Sách Châm ngôn cảnh báo những người trẻ về mưu mẹo của những cô gái điếm (“người đàn bà lạ”) và Phao-lô dạy dỗ những người tin Chúa phải tránh xa khỏi gái điếm (ICo 6:15-16).

Hai người đàn bà này sống chung với những gái điếm khác trong nhà chứa, họ cùng mang thai và cùng sanh con. Người ta không thể không cảm thương cho những đứa bé ra đời trong một nơi như thế, không có cha chăm sóc và bảo vệ chúng. Tuy nhiên với loại đàn ông tìm đến gái điếm thì làm sao có thể trở thành người cha tốt được!


Vì không có nhân chứng cho sự ra đời của hai đứa bé cũng như sự chết của một trong hai, tình huống như thế không thể xét xử tại tòa án theo cách bình thường. Chính lời của người đàn bà này sẽ tố cáo người đàn bà kia, mặc dầu rõ ràng rằng một trong hai người đàn bà là kẻ nói dối.

Dùng sự khôn ngoan tuyệt vời Đức Chúa Trời ban cho, Sa-lô-môn đã bỏ qua lời khai của hai người đàn bà và đi thẳng vào tấm lòng họ, vì trung tâm của mọi vấn đề xuất phát từ trong lòng. Bằng việc đề nghị “chia đôi đứa trẻ” cho họ, Sa-lô-môn đã thấy được tấm lòng của người mẹ thật và trả con lại cho bà. Chúng ta không được biết ông làm gì với người đàn bà đã nói dối và ăn cắp (bắt cóc) đứa bé. Chúng ta tin rằng người mẹ thật sẽ từ bỏ cách sống tội lỗi và nuôi dưỡng con trai mình theo đường lối của Đức Chúa Trời.


Trong nhiều tuần, những chi tiết của vụ việc là đề tài bàn tán trong nhiều cuộc nói chuyện của dân Y-sơ-ra-ên, và quyết định của Sa-lô-môn cho thấy rằng ông thật sự là người khôn ngoan.


5. Nhà cầm quyền (IVua 4:1-28) (IISu 1:14-17)

Đa-vít là nhà lãnh đạo thiên tài (IISa 8:15-18; IISa 20:23-26) và con trai ông thừa hưởng khả năng đó nơi ông. Mặc dầu Sa-lô-môn có sự khôn ngoan và quyền lực rất lớn, ông không thể nào giải quyết mọi công việc của vương quốc một mình. Một nhà lãnh đạo giỏi là người biết chọn những người cộng tác có năng lực, để cho họ phát huy tài năng của mình và bằng cách đó họ có thể phục vụ Đức Chúa Trời và con người.


Các triều thần (IVua 4:1-6).

A-xa-ria là thầy tế lễ cả (c.2). Ông là con trai của A-hi-mát và cháu của Xa-đốc, thầy tế lễ đã trung thành phục vụ Đa-vít. Hình như A-hi-mát đã chết vì thế con trai ông được giao cho chức việc của ông. (IISa 15:27,36; ISu 6:8-9). Từ “ben” trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là con trai hoặc cháu trai. Trong khi Đa-vít chỉ có một người ký lục, Sa-lô-môn có đến hai người (c.3), và họ đều là con trai của Si-sa, ký lục của Đa-vít. Si-sa cũng được gọi là Sê-ra-gia (IISa 8:17), Sê-gia (IISa 20:25) và Sa-vê-sa (ISu 18:16). Vương quốc của Sa-lô-môn rộng lớn và phức tạp hơn rất nhiều so với vương quốc mà cha ông đã cai trị, vì thế việc lưu giữ văn thư phải cần nhiều hơn.


Giô-sa-phát đã làm quan thái sử dưới thời Đa-vít (IISa 8:16; IISa 20:24), và Bê-na-gia được Sa-lô-môn đặt làm quan tổng binh (IVua 2:35). Bê-na-gia sinh ra trong gia đình thầy tế lễ nhưng ông lại chọn cuộc sống của một nhà quân sự. A-bi-tha bị đi đày vì ông đã tham gia vào âm mưu phản loạn của A-đô-ni-gia (IVua 2:27;), còn Xa-đốc qua đời và cháu ông thay thế chức vị của ông.

Vì cả Xa-đốc và A-bi-tha đã phục vụ Đa-vít nên tên của họ có trong bảng danh sách các triều thần. A-xa-ria là trưởng 12 người làm đầu các quan lại cai trị 12 tỉnh đã được Sa-lô-môn phân chia trong Y-sơ-ra-ên (c.7-19). Cha ông có thể là tiên tri Na-than, hoặc Na-than con trai Đa-vít (IISa 5:14), hoặc một người nào khác tên Na-than.Na-than là tên phổ biến trong Y-sơ-ra-ên.


Xa-bút là thầy tế lễ hầu việc như người cố vấn đặc biệt cho nhà vua;A-hi-sa giải quyết những sự vụ phức tạp trong cung vua; và A-đô-ni-ram quản xuất những người làm xâu làm việc trong các công trình xây dựng của vương quốc (IVua 9:15-23; IISu 2:2,17-18; IISu 8:7-10). Những người này không phải là người Y-sơ-ra-ên nhưng là kẻ ngoại bang. Tuy nhiên, trong việc xây dựng đền thờ, Sa-lô-môn bắt những người Y-sơ-ra-ên đến tuổi đi lính phục vụ bốn tháng mỗi năm trong các công việc chung (IVua 5:13-18).

A-đô-ni-ram cũng được gọi là A-đô-ram và khi Rô-bô-am lên làm vua thì ông đã bị dân chúng ném đá chết (IVua 12:18-20). Sa-mu-ên đã cảnh báo dân sự rằng vua của họ sẽ làm những việc như vậy (ISa 8:12-18).


Những người làm đầu quan lại (IVua 4:7-19,27-28).

Sa-lô-môn đã quy định 12 “tỉnh” theo nhiều diện tích khác nhau và đặt một người đứng đầu mỗi tỉnh. Ranh giới của mỗi tỉnh không theo ranh giới cũ của các chi phái nhưng kết hợp chặt chẽ những vùng đất mà Đa-vít đã chiếm được trong chiến trận và mỗi tỉnh sẽ cung cấp lương thực cho nhà vua trong một tháng. Rất có thể những người này kiêm luôn nhiệm vụ thâu thuế, tuyển mộ binh lính và xâu cho việc xây dựng đền thờ cùng những cung điện khác.

Bằng việc thành lập những quận mới vượt qua ranh giới cũ, Sa-lô-môn có thể đã hy vọng sẽ giảm thiểu sự trung thành của các chi phái và loại bỏ một số căng thẳng giữa chi phái Giu-đa và các chi phái phía bắc. Tuy vậy, kế hoạch này chỉ làm tăng thêm căng thẳng, đặc biệt từ khi Giu-đa không có trong chương trình lập lại tỉnh mới. Là chi phái hoàng gia nơi có thành phố của vua, Giu-đa được cai quản riêng.


Bất cứ vị vua nào có 700 bà vợ và 300 cung phi cùng với vô số triều thần và những vị khách thường xuyên đều có nhu cầu rất lớn về lương thực. Nữ vương nước Sê-ba đến Giê-ru-sa-lem “có hầu hạ rất đông” có lẽ đến hàng trăm người. Theo câu 22-23, một bữa ăn trong cung điện mỗi ngày cần 30 cô-rơ bột miến lọc, 60 cô-rơ bột miến thường, 10 con bò mập trong chuồng và 20 con bò nơi đồng cỏ, 100 con chiên cùng rất nhiều loại thú rừng và gà vịt. Sa-lô-môn cũng cần rất nhiều thóc lúa cho ngựa của ông chính vì thế mà rất nhiều lúa mạch được dùng.

Các nước chư hầu có thể coi những vật phẩm hàng tháng này là một phần trong đồ tiến cống của họ cho vua Sa-lô-môn, nhưng các chi phái Do-thái cho rằng đây là hình thức bóc lột làm sỉ nhục họ. Sau khi Sa-lô-môn qua đời, không có gì đáng ngạc nhiên khi mười chi phái nổi dậy chống lại “tất cả ngựa và người của nhà vua”.


Vì một vài lý do nào đó, năm trong số mười hai người làm đầu quan lại được nhận diện bởi cha họ vì từ “ben” trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “con trai của” (c.8-11,13). Con trai của A-bi-na-đáp (c.11) có thể là con trai của anh Đa-vít và vì thế có bà con với Sa-lô-môn (ISa 16:8 ISa 17:13). Ông đã cưới con gái của Sa-lô-môn, và A-hi-mát cũng như vậy (c.15). Rất có thể Sa-lô-môn khuyến khích việc nầy trong đời trị vì của mình bởi vì ông không có con lớn khi ông lên ngôi. Ba-a-na có thể là anh của Giê-hô-sa-phát, quan thủ bộ (c.3,12). Mười hai người này có quyền rất lớn trong đất nước và là một phần của bộ máy quan liêu hối lộ mà Sa-lô-môn nói đến trong (Tr 5:8-12).


Những nét độc đáo (IVua 4:20-28).

Nước Y-sơ-ra-ên trở nên nổi tiếng bởi dân số đông đúc, sự thanh bình yên ổn, những cung điện, vị vua khôn ngoan và lối sống hưởng thụ, “ăn uống và vui chơi” (c.20). Dĩ nhiên dân số phát triển là do lời hứa của Đức Chúa Trời với tổ phụ của họ (Sa 15:5; Sa 17:8; Sa 22:17; Sa 26:4; Sa 32:12) và những lời hứa của Ngài trong giao-ước (Phuc 28:1-14).

Bờ cõi được mở rộng cũng là một phần trong lời hứa của Đức Chúa Trời (Sa 15:18; Xu 23:31; Phuc 1:7; Gios 1:4). Các nước chư hầu phục tùng sự cai trị của Sa-lô-môn, hằng năm đều tiến cống cho ông và Sa-lô-môn hưởng phước lớn nhờ giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít (IISa 7:1-29). Trái với luật pháp của Đức Chúa Trời, Sa-lô-môn lại mua nhiều ngựa (Phuc 17:16) và xây dựng nhiều thành để chứa chúng (c.26; IVua 10:26-29; IISu 1:14-17; IISu 9:25,28).


6. Nhà thông thái (IVua 4:29-34)

Vua Đa-vít thích thú tận hưởng thế giới Đức Chúa Trời tạo dựng và ông đã viết nhiều bài thánh ca ca ngợi Đấng sáng tạo cùng những tạo vật của Ngài, trong khi đó Sa-lô-môn lại xem thiên nhiên như là đối tượng để nghiên cứu. Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan và thông sáng trổi hơn mọi người phương đông và ông có thể diễn thuyết chính xác về những vật sống trong sự sáng tạo cuả Đức Chúa Trời. (Tr 2:5) cho chúng ta biết Sa-lô-môn lập những vườn cây lớn và chắc chắn tại nơi đây ông quan sát cách các cây trồng phát triển.


Ê-than và Hê-man được nói đến trong (ISu 15:19) như là những người hát xướng của Đa-vít được giao nhiệm vụ chỉ huy buổi thờ phượng trang nghiêm. Ê-than còn được gọi là Giê-đu-thun, ông có thể là người đã viết Thi-thiên 39 và 89 (ISu 16:41-42; ISu 25:1,6), và Thi-thiên 88 được cho là của Hê-man. Những người này còn được biết đến bởi sự khôn ngoan của họ. Ngoài (IVua 2:6), chúng ta không biết thêm gì về Canh-côn và Đa-ra.


Gần ba ngàn câu châm-ngôn của Sa-lô-môn đã bị thất lạc, chỉ khoảng sáu trăm câu được chép lại trong sách Châm-ngôn. “Sách hành trạng của Sa-lô-môn” (IVua 11:41) cùng các sách về ông do Na-than, A-hi-gia và Giê-đô (IISu 9:29) viết cũng bị thất lạc. Chúng ta có thêm nhiều kiến thức về thiên nhiên khi đọc các sách Châm-ngôn, Truyền-đạo, và Thi-thiên của Sa-lô-môn vì thế những lời chỉ dẫn chính xác của Sa-lô-môn đã mang lại nhiều lẽ thật về tâm linh và những bài học thực tế cho cuộc sống. Sa-lô-môn trở thành người có danh tiếng đồn ra khắp các dân tộc chung quanh và những người có quyền thế từ khắp thế gian đến để xem sự giàu có và nghe sự khôn ngoan của ông.


Khi Sa-lô-môn là vua, cả đất nước luôn được thanh bình và thịnh vượng. Đối với người dân và các vị khách thì mọi sự đều thành công, tuy vậy không phải trong vương quốc tất cả đều tốt đẹp. Sa-lô-môn có vẻ như đang bước đi với Đức Chúa Trời và tìm kiếm ý muốn Ngài từ khi ông lên ngôi cho đến khi tận hiến trong việc xây dựng đền thờ.

Nhưng Alexander Whyte đã miêu tả điều này rất sống động khi viết “con sâu bí mật…lúc nào cũng đang gặm nhấm trong triều đình mà Sa-lô-môn nương dựa vào”. Sa-lô-môn không có sự tận hiến trung tín cho Đức Chúa Trời giống cha ông, và các bà vợ ngoại đạo đang gieo trồng trong lòng ông những hạt giống sanh ra trái đắng.





3. LÀM TRỌN GIẤC MƠ CỦA ĐA-VÍT (IVua 5:1-6:38 IVua 7:13-51 IISu 2:1-4:22)


Tôi hẳn không vào trại mình ở, chẳng lên giường tôi nghỉ, không cho mắt tôi ngủ, cũng không cho mí mắt tôi nghỉ nhọc, cho đến chừng tôi tìm một chỗ cho Đức Giê-hô-va, một nơi ở cho Đấng toàn năng của Gia-cốp” (Thi 132:3-5 KJV). Vua Đa-vít đã viết như vậy để diễn tả sự mong ước nhiệt thành trong việc xây dựng đền thờ cho Đức Chúa Trời. “Tôi đã xin Đức Giê-hô-va một điều và sẽ tìm kiếm điều ấy! Ấy là tôi muốn trọn đời được ở trong nhà Đức Giê-hô-va, để nhìn xem sự tốt đẹp của Đức Giê-hô-va và cầu hỏi trong đền của Ngài” (Thi 27:4).


Đức Chúa Trời biết tấm lòng của Đa-vít nhưng nói rõ rằng Ngài có chương trình khác cho người tôi tớ được Ngài yêu mến (IISa 7:1-29). Đa-vít quá bận rộn với những cuộc chiến bảo vệ và mở rộng bờ cõi Y-sơ-ra-ên nên ông không có thời gian giám sát công việc phức tạp và đòi hỏi nhiều nổ lực như thế. Sa-lô-môn, gười hòa bình, được Đức Chúa Trời chọn để xây đền thờ mà cha ông đã chuẩn bị và khuyến khích ông rất nhiều trong công tác này (ISu 22:1-19; ISu 28:1-21).


Từ thời Môi-se, dân Y-sơ-ra-ên đã dâng của lễ thiêu và của tế lễ ở đền tạm, nhưng bây giờ họ không còn là đoàn người hành hương mà là một quốc gia định cư ngay trên đất của họ. Đền tạm là một công trình kiến trúc vững chắc, có thể di dời được và đã đến lúc dân Y-sơ-ra-ên xây dựng một đền thờ cho Đức Chúa Trời vĩ đại của họ. Những quốc gia xung quanh có các đền thờ thờ các thần hư không của họ, vì thế chỉ thật sự đúng khi dân Y-sơ-ra-ên xây dựng một đền thờ nguy nga để tôn thờ Đức Giê-hô-va, Đấng sống và có thật.

Vào tháng thứ hai năm 966 (tháng tư hoặc tháng năm của chúng ta), năm thứ tư đời trị vì của mình, a-lô-môn bắt đầu công việc và các chương này ghi lại nhiều giai đoạn của tiến trình xây dựng.


1. Tìm được vật liệu (IVua 5:1-12) (IISu 2:1-16)

Khi chuẩn bị cho việc xây cất đền thờ, Đa-vít đã để những chiến lợi phẩm có được dành riêng cho Đức Chúa Trời (ISu 22:14). Các thứ này lên đến 3.750 tấn vàng, 37.500 tấn bạc, và một khối lượng đáng kể đồng, sắt, gỗ và đá.

Ông giao cho Sa-lô-môn tất cả các của cải này trước mặt hội chúng (ISu 29:1-5). Đa-vít còn lấy của cải của riêng mình mà dâng thêm và sau đó kêu gọi những người đứng đầu Y-sơ-ra-ên đóng góp cho công việc (ISu 29:1-10). Tổng số cuối cùng là 4.050 tấn vàng và hơn 38.000 tấn bạc, chưa kể hàng ngàn tấn đồng và sắt cùng nhiều thứ đá quý. Đây là một sự khởi đầu tuyệt vời cho kế hoạch xây dựng.


Đa-vít trao cho Sa-lô-môn kiểu dáng đền thờ mà Đức Chúa Trời đã truyền cho ông (ISu 28:1-21). Đa-vít cũng tuyển chọn nhiều thợ thủ công và nhân công để làm theo kế hoạch. Những người này làm công việc đục gỗ đẽo đá chuẩn bị vật liệu cho đền thờ (ISu 22:4). Sa-lô-môn tranh thủ mối giao hảo tốt đẹp với Hi-ram để yêu cầu ông cung cấp nhân công và gỗ cần cho đền thờ.


Hi-ram đã gửi đến Sa-lô-môn lời chúc mừng tốt đẹp nhân dịp Sa-lô-môn lên ngôi, và Sa-lô-môn đã gửi lại lời cám ơn cùng lời yêu cầu sự giúp đỡ trong việc xây dựng đền thờ. Trong thông điệp của mình, Sa-lô-môn nói rằng ông biết cha ông đã từng bàn với Hi-ram về việc xây đền thờ vì thế đây không phải lần đầu Hi-ram nghe về điều này. Thậm chí Đa-vít còn kể cho Hi-ram nghe về giao-ước của Đức Chúa Trời (IISa 7:1-29) và việc Ngài chọn Sa-lô-môn là người xây đền thờ cho Ngài. Sa-lô-môn nói rõ rằng không phải ông đang xây tượng đài tưởng nhớ về vinh quang của cha mình mà là xây dựng một đền thờ tôn vinh danh Đức Chúa Trời (c.5 IVua 8:16-20,29,33,35,41-44).


Sa-lô-môn cũng yêu cầu có được một người thợ giỏi để làm các vật dụng tinh xảo và phức tạp trong đền thờ (IVua 7:13-14; IISu 2:7), vua Hi-ram sai Hi-ram (hay còn gọi là Hu-ram A-bi, (IVua 2:13-14) đến cho ông. Cha Hi-ram là người Ty-rơ, mẹ là người thuộc chi phái Nép-ta-li. Ông giỏi về nghề chế đồ kim loại và được giao việc đúc hai cây trụ trước cửa đền thờ cùng các vật dụng kim loại bên trong đền thờ. Khi Môi-se dựng đền tạm, Đức Chúa Trời đã tuyển chọn những người thợ cần thiết và chúc phước trên công việc của họ (Xu 31:1-11; Xu 35:30-35).


Lá thư của Sa-lô-môn thật ra là một hợp đồng thương mại. Trong đó ông đưa ra đề nghị chi trả cho số gỗ bằng việc cung cấp lương thực hàng năm cho nhà Hi-ram (IVua 5:11), đồng thời cũng trả công xứng đáng cho các công nhân (IISu 2:1) Khi công việc hoàn tất, nhà vua Hi-ram hàng năm đã nhận được 125.000 giạ lúa mì, 125.000 giạ lúa mạch, 115.000 ga-lông rượu và dầu ô-liu. Tất cả các thứ này được chia sẻ cho họ. Trong lời đáp lại, Hi-ram chấp nhận các điều khoản và vạch kế hoạch thực hin. Người của ông sẽ đốn gỗ tại trên Li-ban và sau đó kết bè thả ra biển hoặc chở bằng tàu đến Gia-phô (hiện nay là Gia-pha, (IISu 2:16). Tại Gia-phô, người của Sa-lô-môn sẽ nhận gỗ và chuyển vào đất liền đến nơi xây dựng, cách đó 35 dặm theo đường chim bay.


Bất cứ mục sư hay ban trị sự nào đều có thể công nhận việc xây dựng không phải là dễ và chúng có thể đem lại điều tốt nhất hoặc tệ nhất cho dân sự của Đức Chúa Trời. Nhưng giống như Môi-se, người đã giám sát việc xây dựng đền tạm, Sa-lô-môn có sự tận hiến rất lớn. Cả hai người này đều biết Đức Chúa Trời đã chọn họ điều khiển công việc và Ngài sẽ giúp họ hoàn tất thành công. Cả hai đều có một khối lượng của cải và vật liệu rất lớn được tùy ý sử dụng trước khi họ bắt đầu công việc và cả hai đều nhận được kế hoạch xây dựng từ chính Đức Chúa Trời. Cả hai đều may mắn có được những người quan trưởng sẳn sàng dâng hiến rời rộng cho công tác xây dựng.


2. Những người thợ thủ công (IVua 5:13-18) (IVua 9:15-23; IISu 2:2,17-18; IISu 8:7-10)

Người ta phải mất rất nhiều công sức để chặt cây, đốn gỗ và vận chuyển chúng đến nơi xây dựng. Theo kết quả tu bộ dân số chưa hoàn chỉnh của Đa-vít, có 1.300.000 đinh nam trong đất nước (IISa 24:9) và Sa-lô-môn chỉ chiêu mộ 30.000 công nhân xây dựng đền thờ, khoảng 2.3 % tổng số lao động. Từng mười ngàn người luân phiên nhau, một tháng ở Li-ban phụ giúp người của Hi-ram, hai tháng ở nhà. Các người này là người Do-thái và không bị đối xử như nô lệ (IVua 9:22; Le 25:39-43). Chúng ta không biết họ có được chia phần trong tiền công mà Sa-lô-môn hứa trả cho công nhân của Hi-ram hay không, nhưng có lẽ là không.


Sa-lô-môn cũng kiểm tra số ngoại kiều trong nước và bắt 150.000 người trong số họ đi khuân vác và đẽo đá xây đền thờ (IVua 5:15-18; IVua 9:15-23; IISu 2:17-18; IISu 8:7-10). Trong số này có 70.000 người khuân vác và 80.000 người đẽo đá trên núi. Có tất cả 3.000 người chịu trách nhiệm giám sát các người này và 300 người giám sát là người nước ngoài, ngoài ra còn có trên 250 đốc công người Do-thái. Các tảng đá phải được đẽo gọt kỹ lưỡng để khít với nhau khi đặt vào vị trí của đền thờ và việc này đòi hỏi sự chuẩn bị và giám sát cẩn thận.


Mặc dầu Sa-lô-môn tuyển mộ rất ít dân chúng nhưng người Do-thái lại oán giận ông vì đã bắt 30.000 người của họ làm việc tại Li-ban bốn tháng trong năm. Những lời chỉ trích này làm tăng thêm sức mạnh cho cuộc nổi loạn của dân sự chống lại Rô-bô-am và thúc đẩy nhanh việc phân chia đất nước sau khi Sa-lô-môn chết (IVua 12:1-21). Sa-lô-môn đã thật sự chất gánh nặng cho dân sự trong vấn đề nhân công và thuế.


Cả người Do-thái và người ngoại bang đều dự phần vào việc xây dựng đền thờ, và điều này càng đáng chú ý hơn khi đền thờ sẽ là “nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Es 56:7; Mat 21:13; Lu 19:46). Sau khi chiếm giữ, chính quyền Ba tư đã giúp người Do-thái xây lại đền thờ của mình, và đền thờ Hê-rốt có một khu vực dành riêng cho dân ngoại. Thật đáng buồn khi một số nhà lãnh đạo Do-thái giáo đã biến khu vực đó thành nơi mua bán các đồ tế lễ và đổi chác tiền bạc.

Hội thánh ngày nay là đền thờ của Đức Chúa Trời, nơi có những người tin Chúa Giê-xu bao gồm cả người Do-thái và người ngoại (Eph 2:11-22). Nó được “xây nên” nhằm tôn vinh Đức Chúa Trời, cả người Do-thái và “người ngoại” nhờ Chúa Giê-xu là “hòn đá sống mà được thêm vào trong đền thờ” (IPhi 2:5).


Những công nhân của Hi-ram không phải là những người thờ phượng Đức Chúa Trời và những người ngoại bang trong nước Y-sơ-ra-ên không phải là những người mới theo đạo Do-thái, nhưng Đức Chúa Trời đã dùng cả hai nhóm “người ngoài cuộc” này trong việc xây dựng đền thờ của Ngài. Đức Chúa Trời muốn cho “mọi người được cứu rỗi” (ITi 2:4), nhưng thậm chí nếu họ không phải là người tin Chúa, Ngài vẫn có thể dùng họ để hoàn thành mục đích của Ngài.

Ngài đã dùng Nê-bu-cát-nết-sa và quân Ba-by-lôn để trừng phạt Y-sơ-ra-ên, và Ngài gọi Nê-bu-cát-nết-sa là “đầy tớ ta” (Gie 25:9). Ngài cũng dùng Si-ru, vua nước Ba-tư, giải phóng cho dân Y-sơ-ra-ên và giúp họ xây lại đền thờ (Exo 1:1-11). Điều này khích lệ chúng ta trong việc cầu nguyện và phục vụ vì Đức Chúa Trời có thể dùng những người chúng ta đánh giá thấp để hoàn thành ý định của Ngài trên đất. Đức Chúa Trời còn có thể làm việc qua những viên chức chính phủ chưa tin Chúa để mở cửa cho dân Ngài hay đáp ứng nhu cầu của họ.


3. Việc xây dựng đền thờ (IVua 6:1-37) (IISu 3:1-17)

Hai tội lớn nhất của Đa-vít là gì? Nhiều người sẽ trả lời là “Tội tà dâm với Bát-sê-ba và tội kiểm kê dân số” và câu trả lời của họ hoàn toàn đúng. Vì hậu quả của tội kiểm kê dân số nên Đa-vít phải mua đất trên núi Mô-ri-a làm nơi xây bàn thờ và thờ phượng Đức Chúa Trời (IISa 24:1-25). Đa-vít lấy Bát-sê-ba và Đức Chúa Trời ban cho họ một đứa con trai đặt tên là Sa-lô-môn (IISa 12:24-25). Và bây giờ chúng ta biết Sa-lô-môn đang xây đền thờ nhờ vào của cải của Đa-vít trên núi Mô-ri-a! Đức Chúa Trời đã dùng hậu quả của hai tội lỗi nặng nhất của Đa-vít, một ít của cải và một đứa con trai, trong việc xây đền thờ! “Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (Ro 5:20). Đây không phải là điều khuyến khích chúng ta phạm tội, bởi vì Đa-vít đã trả giá đắt cho tội lỗi của mình, nhưng đây là sự khích lệ cho chúng ta cứ tiến bước trong con đường phục vụ Chúa sau khi chúng ta đã ăn năn xưng nhận tội lỗi của mình. Sa-tan muốn chúng ta nghĩ rằng tất cả đã thất bại nhưng Chúa ân điển vẫn luôn hành động (IPhi 5:10).


 Kiến trúc bên ngoài (IVua 6:1-10,36-38; IISu 3:1-17).

Ngày xưa có đơn vị đo một “cubit ngắn” hoặc “cubit thường” tương đương khoảng 18 in-sơ (in-sơ: đơn vị đo chiều dài của Anh bằng 2,54 cm) và một “cubit dài” tương đương 21 in-sơ. Cubit thường được dùng cho đền thờ (IISu 3:3), có nghĩa là công trình sẽ dài 90 phút (foot: đơn vị đo chiều dài của nước Anh bằng 0,3048 m), rộng 30 phút và cao 45 phút.

Cổng vào đền thờ rộng 30 phút và sâu 50 phút, và hành lang thầy tế lễ sẽ bao quanh nơi thánh. Nó tách riêng với cấu trúc bên ngoài nhờ một bức tường bằng gỗ và đá chạm (c.36 IISu 4:9). Gie 36:10 gọi hành lang thầy tế lễ là “hành lang trên”, ho thấy nó cao hơn hành lang bên ngoài. Các cửa của đền thờ quay về hướng tây, iống như các cổng của đền tạm.


Không giống như đền tạm, đền thờ có các phòng bao quanh nằm trên ba tầng lầu gắn với vách tường ngoài của đền thờ về phía nam, đông và tây. Mỗi phòng cao bảy phút rưỡi. Các bức tường đỡ các phòng này có cấu trúc như ba bậc thang, và các phòng này được nâng đỡ bởi những cột trụ bằng gỗ tựa vào ba bậc thang này. Phòng trên cùng rộng mười phút rưỡi, ở tầng hai rộng chín phút và tầng dưới cùng rộng bảy phút rưỡi.

Các phòng này có lẽ dùng để làm kho. Ở giữa bức tường phía nam của đền thờ là một cửa dẫn vào phòng dưới cùng và cầu thang xoắn ốc dẫn lên tầng giữa và tầng trên cùng. Mỗi tầng đều phải có lối đi nhỏ nối các phòng. Ở bức tường phía bắc và phía nam, trên ba mức phòng, là một cửa sổ hẹp đưa vào chút ánh sáng (c.4). Trong đền tạm của Môi-se không có cửa sổ. Tuy nhiên, ánh sáng cần thiết cho nơi thánh đến từ 10 giá đèn, 5 cái dọc theo tường phía bắc và 5 cái dọc theo tường phía nam. Dĩ nhiên một công trình kiến trúc to lớn như thế cần có một nền móng vững chắc (c.38).


Lời tiên tri (IVua 6:11-13).

Chúng ta không biết ai đem đến thông điệp này (có thể là một nhà tiên tri) hay là nó được đem đến khi nào, nhưng Đức Chúa Trời đã gửi Lời Ngài đến với nhà vua khi ông đang nản lòng với kế hoạch xây dựng cũng hoặc có thể đang bắt đầu cảm thấy tự hào về những gì mình đang thực hiện. Đức Chúa Trời nhắc nhở Sa-lô-môn giống như Ngài vẫn thường nhắc nhở chúng ta rằng Ngài không cảm động về việc làm của chúng ta nếu chúng ta bất tuân lời Ngài. Điều Ngài muốn là một tấm lòng vâng phục (Eph 6:6).

Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành lời hứa của Ngài với Đa-vít và Sa-lô-môn (IISa 7:1-29) không phải bởi vì việc Sa-lô-môn xây dựng đền thờ nhưng vì ông tuân theo lời Ngài. Một lời răn bảo tương tự cũng có trong giao-ước của Đức Chúa Trời với Môi-se được chép trong Phuc 28:1-30:20, vì thế đây không phải là sự khám phá mới đối với Sa-lô-môn. Đây là lần thứ hai Đức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn về sự vâng phục (IVua 3:5), và Ngài sẽ phán với ông lần nữa về điều này sau khi đền thờ được xây dựng xong (IVua 9:3-9).


Kiến trúc bên trong (IVua 6:14-35).

Khi phần cơ bản của đền thờ hoàn tất, các công nhân tập trung xây dựng bên trong, là phần quan trọng nhất vì các thầy tế lễ thực hiện các nghi lễ cho Đức Chúa Trời tại nơi này. Những tường bên trong từ dưới đất lên trần được đóng ván cây tùng và bọc vàng (c.22), trên đó khắc hình hoa nở và nụ. Nền đền thờ được đóng ván cây thông và lót vàng (c.15,30). Hai cánh cửa khép lại được từ hành lang thầy tế lễ dẫn vào nơi thánh (c.31-35). Giống như những chê-ru-bim, các cánh cửa này được làm bằng gỗ ô-li-ve bên trên bọc vàng và chúng còn có bản lề bằng vàng (IVua 7:50). Dây xích vàng được giăng ngang trước cửa vào (c.21).


Ở trong cùng phía tây nơi thánh, cách cửa vào 60 phút, có treo một bức màn phân biệt nơi chí thánh (IISu 3:10), tạo ra một căn phòng hình khối có kích thước là 30 phút mỗi mặt (c.20). Trong đền tạm của Môi-se, căn phòng nơi chí thánh cũng hình khối nhưng chỉ có 15 phút mỗi mặt. Trên thực tế, kích thước của đền thờ gấp hai lần kích thước của đền tạm (90x30 phút thay vì 45x15). Bức tường trong nơi chí thánh được đóng ván cây tùng và bọc vàng, và nền được làm bằng gỗ thông mạ vàng. Thậm chí những cây đinh dùng trong nơi chí thánh cũng mạ vàng. Nơi chí thánh chính là nơi để hòm giao ước.


Hòm giao ước tượng trưng cho ngôi của Đức Chúa Trời là “Đấng ngự trên chê-ru-bim” (Thi 80:1). Nó là một cái hòm gỗ, dài 45 in-sơ, rộng 27 in-sơ và cao 27 in-sơ. Vì bên trong có hai bảng luật pháp nên nó cũng được gọi là “hòm bảng chứng” (Xu 25:22). Phía trên hòm bảng chứng là “nắp thi ân” bằng vàng, và ở hai đầu nắp là hai tượng chê-ru-bim làm bằng gỗ ô-liu dát vàng. Tượng chê-ru-bim cao 15 phút và từ đầu cánh này đến đầu cánh kia dài 15 phút, vì thế khi hòm giao ước đặt trong nơi chí thánh, bốn cánh chê-ru-bim chạm vách đền thờ (c.23-28 Xu 25:10-22 Xu 37:1-9). Mỗi năm một lần, thầy tế lễ thượng phẩm được phép vào nơi chí thánh, rảy huyết của con sinh trên nắp thi ân và như thế sẽ chuộc tội cho dân sự trong năm (Le 16:1-34).


Hi-ram đúc hai cột trụ bằng đồng lớn, mỗi cột cao 27 phút và chu vi 18 phút. Các cột này rỗng ruột, dày khoảng 4 in-sơ (Gie 52:21). Trên đầu mỗi cột có phần chạm trổ cao bốn phút (IIVua 25:17), bao gồm quả bóng lộn ngược, những cánh hoa sen và lưới kết quả lựu đồng. Hai cột tên là “Gia-kin” (“Chúa sẽ kiên lập”)và “Bô-ách” (“tại đền ấy có sức lực”). Chúng đứng bên ngoài lối vào nơi chí thánh, ia-kin bên hữu và Bô-ách bên tả. Từ “he” trong lời giải nghĩa này chắc chắn chỉ về Chúa, các cây cột là bằng chứng cho người Do-thái rằng chính Đức Chúa Trời là Đấng thành lập quốc gia của họ và niềm tin của người Y-sơ-ra-ên vào Đức Giê-hô-va là nguồn sức mạnh cho họ. Một số người coi đây là sự chứng thực cho vương triều Đa-vít, được Đức Chúa Trời thiết lập (IISa 7:1-29) và được Ngài tiếp tục.


4. Trang bị đồ đạc cho đền thờ (IVua 6:1-38 ) (IVua 7:13-51; IISu 4:1-22)

Việc trang bị đồ đạc cho đền thờ rất quan trọng đối với các thầy tế lễ vì nếu không có những đồ đạc cần thiết, họ không thể thực hiện công việc của mình hay làm đẹp lòng Đức Chúa Trời.


Bàn thờ bằng đồng (IISu 4:1).

Khi bạn đến đền thờ từ phía đông, bạn sẽ đi vào lối dẫn vào bên trong hành lang thầy tế lễ. Dân sự mang con sinh và của tế lễ của họ dâng cho Đức Chúa Trời bằng lối này. Bàn thờ đồng ngang 30 phút và cao 15 phút (IISu 4:1) ở bên phải về phía bắc. Chiều cao của bàn thờ cho ta thấy có thể có những bậc thang nơi các thầy tế lễ có thể đứng và làm lễ (Exe 43:13-17). Một số học giả cho rằng bàn thờ thấp hơn 15 phút nhưng ở trên một bệ đá nên làm cho nó cao hơn. Bàn thờ trong đền tạm chỉ cao 4 phút rưỡi.


Chậu rửa hay biển bằng đồng (IVua 7:23-26 IISu 4:2-5,10).

Phía bên trái lối vào, ở phía nam hành lang (c.39), là “hồ rửa tội” lớn thay thế cho chậu rửa tội nhỏ hơn trong sân đền tạm (Xu 30:17-21; Xu 38:8). Nó hình tròn và làm bằng đồng dầy một gang tay với hình hoa huệ ở quanh miệng, và nó có thể chứa 17.000 ga-lông nước (gallon: đơn vị đo lường chất lỏng, bằng 4,64 lít ở Anh, và bằng 3,78 lít ở Mỹ). Cái chậu lớn này rộng 15 phút và cao 7 phút rưỡi. Nó được đặt trên lưng của tượng 12 con bò, mỗi nhóm gồm ba con bò quay mặt theo những hướng khác nhau. Có lẽ 12 con bò này tượng trưng cho 12 chi phái Y-sơ-ra-ên (IIVua 16:17).


Chắc hẳn phải có một hệ thống tháo nước nhỏ để các thầy tế lễ có thể rửa tay chân, nhưng hệ thống này không được nói đến trong đoạn này. Có thể có những vòi nước ở dưới đáy chậu. Nếu các thầy tế lễ không giữ tay chân sạch sẽ khi hành lễ trong đền thờ, họ có thể bị chết (Xu 30:20). Trong Kinh Thánh, nước uống là hình ảnh chỉ về Chúa Thánh Linh (Gi 7:37-39) trong khi nước rửa tượng trưng cho lời Đức Chúa Trời (Thi 119:9; Gi 15:3; Eph 5:25-27). Khi các thầy tế lễ phục vụ Đức Chúa Trời trong đền thờ, họ bị ô uế và cần được thanh tẩy; cũng như thế, khi chúng ta phục vụ Đức Chúa Trời, chúng ta có thể trở nên quá ô uế và cần “được thanh tẩy bởi lời của Chúa”. Chúa Giê-xu đã mô tả chân lý này trong Giăng 13 khi Ngài rửa chân cho các môn đồ.


Mười cái bục đồng và những hồ rửa (IVua 7:27-39 IISu 4:6).

Các vật này được trang trí rất đẹp bằng những bánh xe đồng, 6 phút vuông và cao 4 phút rưỡi có tay cầm ở mỗi góc. Mỗi bục có thể để một cái chậu chứa 230 ga-lông nước. Các bục này được để trong hành lang thầy tế lễ gần nơi thánh, 5 cái ở phía bắc và năm cái ở phía nam. Vì các bục này đặt trên bánh xe nên có thể dễ dàng di chuyển sang nơi khác. Chúng được dùng để rửa và chuẩn bị con sinh (IISu 4:6) và có lẽ được dùng cho sự thanh tẩy chung cho cả đền thờ. Nước dơ sau đó có thể thoát ra và được dùng ở nơi thích hợp, và các chậu rửa sẽ được đổ đầy nước sạch từ biển bằng đồng.


Thật đáng chú ý rằng các chậu rửa hữu dụng này cũng được trang trí rất đẹp. Điều này dạy chúng ta rằng Đức Chúa Trời thấy vẻ đẹp từ trong sự thánh khiết và từ sự thánh khiết của vẻ đẹp (Xu 28:2; Thi 29:2; Thi 96:6,9; Thi 110:3)


Bàn thờ xông hương (IVua 6:20,22; IVua 7:48).

Bàn thờ được làm bằng gỗ cây tùng phủ vàng, nhưng trong Kinh Thánh không đề cập đến kích thước của nó. Nó ở trước bức màn phân cách nơi thánh và nơi chí thánh. Các thầy tế lễ xông hương trên bàn thờ này vào mỗi buổi sáng và buổi chiều khi họ đi xem xét những cây đèn trong đền thờ (Xu 30:1-10; Xu 37:25-29). Trong Kinh Thánh, việc xông hương là hình ảnh tượng trưng của lời cầu nguyện của chúng ta đến với Đức Chúa Trời (Thi 141:1-2; Kh 5:8; Lu 1:8-10).

Đức Chúa Trời đã truyền cho Môi-se cách pha trộn các hương liệu để dùng trong đền tạm và đền thờ (Xu 30:34-38), và không ai được phép bắt chước hay sử dụng hỗn hợp này vào mục đích khác. Bàn thờ vàng không được dùng cho mục đích nào khác, và vào ngày lễ chuộc tội hằng năm, thầy tế lễ cả sẽ bôi huyết con sinh lên bàn thờ này để thanh tẩy nó (Xu 30:10). Chúng ta không thể đến gần Chúa và mong đợi Ngài nghe và đáp lời cầu nguyện của chúng ta (Thi 66:18; He 10:19-2) nếu chúng ta không có “tay trong sạch và lòng thánh khiết” (Thi 24:3-5).


Những chân đèn và bàn bằng vàng (IVua 7:48-49; IISu 4:7-8,19-20).

Trong đền tạm mà Môi-se dựng nên chỉ có một cái bàn để bánh trần thiết, nhưng trong đền thờ có đến 10 cái bàn bằng vàng, 5 cái ở mỗi bên của nơi thánh. Đền tạm chỉ có một chân đèn bằng vàng với 7 ngọn nến, nhưng đền thờ có đến 10 chân đèn bằng vàng trong nơi thánh, 5 cái ở tường phía bắc và 5 cái ở tường phía nam. Chúng mang lại ánh sánh cần thiết cho nơi thánh.


 Những vật dụng (IVua 7:40-45; IISu 4:7-8,11-22).

Các thầy tế lễ cần nhiều vật dụng khác nhau để thực hiện công việc của mình, bao gồm kéo cắt tàn tim đèn, chén đựng nước rảy và huyết con sinh, đĩa, vá, nồi nấu thịt từ của lễ chuộc tội và xẻng xúc tro. Đền thờ là một công trình kiến trúc nguy nga chứa những đồ vật làm bằng vàng và đánh bóng bằng thiếc, nhưng các công việc thường ngày sẽ không thể thực hiện được nếu không có những vật dụng nhỏ bé này.


Thật khó tính chi phí của đền thờ bằng tiền tệ hiện thời. Chỉ biết giá trị của những quý kim ngày nay thôi thì chưa đủ nhưng chúng ta còn phải biết khả năng mua bán trao đổi của chúng. Vì thể chúng ta cần tính xem Sa-lô-môn đã tốn bao nhiêu cho nhân lực và vật liệu và thử chuyển chúng ra giá trị hiện thời.

Khi bạn nhận thấy rằng chính là vàng đã phủ lên tường và nền nhà, các vật dụng, các cửa và các chê-ru-bim, bạn không ngần ngại kết luận rằng đây là một công trình kiến trúc đáng giá. Tuy nhiên tất cả sự đẹp đẽ này đều bị tàn phá và những của cải này bị tịch thu khi quân Ba-by-lôn chiếm được Giê-ru-sa-lem và hủy phá đền thờ (Gie 52:1-34). Nê-bu-cát-nết-sa cướp đền thờ và lưu đày tù nhân theo từng giai đoạn. Cuối cùng người của ông đốt thành phố và đền thờ vì như thế họ sẽ lấy được vàng trong đó.


Thật đáng tiếc khi Sa-lô-môn, người đã xây dựng đền thờ, lại chính là người cưới nhiều vợ ngoại bang và khuyến khích việc thờ hình tượng trong Y-sơ-ra-ên. Chính tội lỗi đó đã đưa đất nước ông đi xa khỏi Đức Chúa Trời và đem lại cho họ sự phán xét nghiêm khắc từ Đức Chúa Trời.





4. NHÀ CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ TẤM LÒNG CỦA SA-LÔ-MÔN (IVua 8:1-9:9,25-28; IISu 5:1-7:22)


“Hỡi các công dân, chúng ta không thể chạy trốn lịch sử”. Abraham Lincoln đã nói những lời này với Quốc hội Mỹ vào ngày 1 tháng 12 năm 1862, nhưng vua Sa-lô-môn có thể đã nói điều đó với những nhà lãnh đạo Do-thái khi ông khánh thành đền thờ vào ngày lễ lều tạm vào năm thứ hai mươi bốn đời trị vì của mình.

Bất cứ người Do-thái nào trên thế giới hoặc ở vào bất cứ thế kỷ nào, họ đều có nguồn gốc từ Áp-ra-ham, Môi-se và Đa-vít.

Vua Đa-vít được nói đến 12 lần trong đoạn này và Môi-se được nhắc đến ba lần. Trong lời cầu nguyện của mình, Sa-lô-môn có nhắc đến giao ước của Đức Chúa Trời với cha mình (IISa 7:1-29) và cả giao ước Đức Chúa Trời lập với Môi-se được chép trong (Phu 28:30). Điểm nhấn mạnh chính trong lời cầu nguyện của ông là cầu xin Đức Chúa Trời nghe những người cầu nguyện hướng về đền thờ và tha thứ tội lỗi cho những ai phạm tội. Lời thỉnh cầu này dựa trên lời hứa trong (Phuc 30:1-10). Vua Y-sơ-ra-ên được ra lệnh phải chép một bản sách Phục-truyền (Phuc 17:18-20), và những lời của Sa-lô-môn dựa trên sách Phục-truyền cho thấy ông biết sách này rất rõ.


Loại “nhà” nào mà Sa-lô-môn cung hiến vào ngày đó?


1. Một ngôi nhà của Đức Chúa Trời (IVua 8:1-11) (IISu 5:1-14)

Sa-lô-môn nhóm họp tại Giê-ru-sa-lem những nhà lãnh đạo của 12 chi phái Y-sơ-ra-ên và bất cứ người dân nào có thể tham dự được từ phía bắc đến phía nam (c.65). Họ sẽ giúp đỡ ông trong việc cung hiến đền thờ của Đức Chúa Trời. Từ “nhà” được sử dụng 26 lần trong đoạn này (37 lần trong IISu 5:1-7:22), vì công trình kiến trúc này thật sự là “nhà của Đức Chúa Trời” (c.10,11,17, v.v…).

Nhưng điều gì khiến cho toà nhà quý giá này là nhà của Đức Chúa Trời? Không đơn giản là vì Đức Chúa Trời ra lệnh xây nó và chọn Sa-lô-môn là người xây dựng, hay chính Ngài trao cho Đa-vít kế hoạch và cung cấp của cải để xây nó. Những điều trên cũng quan trọng, nhưng điều làm cho đền thờ này trở thành nhà của Đức Chúa Trời là sự hiện diện của Đức Giê-hô-va trong đền thánh này.


Hòm giao ước được đem vào (IVua 8:1-9; IISu 5:1-9). Trong nơi chí thánh, Đức Giê-hô-va “ngự giữa chê-ru-bim” (Thi 80:1). Những quốc gia đa thần cũng có đền thờ, bàn thờ, thầy tế lễ và của lễ riêng của họ, nhưng đền thờ của họ trống rỗng và của lễ của họ vô dụng. Đức Chúa Trời sống động và có thực sự ngự giữa đền thờ trên núi Mô-ri-a! Đó chính là lý do tại sao việc làm đầu tiên của Sa-lô-môn trong việc cung hiến đền thờ là dời hòm giao ước từ trại Đa-vít (IISa 6:17) vào trong nơi chí thánh của đền thờ.

Các khí dụng thánh của đền tạm cũng được đem lên đền thờ và để tại đó (IISu 5:5). Hòm giao-ước cũng chỉ là một chiếc hòm gỗ nguyên thủy được đặt trong nghi thức thờ phượng dưới sự vận hành của Đức Chúa Trời để không điều gì có gì có thể thay thế ngai của Đức Chúa Trời hay bảng luật pháp của Môi-se được để trong hòm. Lễ cung hiến đền thờ diễn ra trong kỳ lễ lều tạm này rất quan trọng vì hòm giao-ước đã dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên trong suốt hành trình trong đồng vắng của họ.


Các thầy tế lễ đặt hòm giao-ước trước tượng chê-ru-bim lớn mà Hi-ram đã làm. Hai cánh của tượng này sải dài chiều ngang nơi chí thánh (IVua 6:23-30) Tượng chê-ru-bim trên nắp thi ân đầu tiên đối diện nhau, trong khi tượng chê-ru-bim mới nhìn ra nơi thánh nơi các thầy tế lễ hành lễ. Các thiên sứ của Đức Chúa Trời không chỉ “xem thấu” sự huyền bí của ân điển Đức Chúa Trời (IPhi 1:12), hưng họ còn nhìn ngắm công việc của người Đức Chúa Trời và học biết về ân điển Ngài (ICo 4:9; ICo 11:10; Eph 3:10; ITi 5:21). Bình đựng ma-na và cây gậy của A-rôn cũng đặt trước hòm (Xu 16:33; Dân17:10; He 9:4), cả hai thứ này đều là những vật nhắc nhớ về sự nổi loạn trong Y-sơ-ra-ên (Xu16:1-3; Dân16:1-50). Nhưng bây giờ quốc gia này đang bắt đầu một sự khởi đầu mới và những vật này không cần thiết nữa. Điều quan trọng là Y-sơ-ra-ên tuân thủ theo luật pháp của Đức Chúa Trời được để trong hòm bảng chứng. Người Do-thái bây giờ không còn là những người hành hương, nhưng cây gậy vẫn được để trong hòm như là một lời nhắc nhở về sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với họ trong suốt 40 năm rèn luyện.


Sự vinh hiển giáng xuống (IVua 8:10-11; IISu 5:11-14). Hòm giao-ước là biểu tượng về ngôi vua và sự hiện diện của Đức Chúa Trời; chính sự hiện hữu thật sự của Đức Chúa Trời trong nhà Ngài rất quan trọng. Một khi Sa-lô-môn và dân sự đã tôn vinh Đức Chúa Trời đặt ngai Ngài trong nơi chí thánh, vinh hiển của Đức Chúa Trời giáng xuống và bao phủ khắp nhà Ngài. Trụ mây đã dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên suốt trong đồng (Dân9:15-23), nhưng bây giờ sự vinh hiển đã đến ngự vào đền thờ đẹp đẽ mà Sa-lô-môn xây dựng. Khi sự vinh quang bao phủ đền thờ, ác thầy tế lễ dùng môi miệng và các nhạc cụ mà tôn vinh Đức Chúa Trời, bởi vì Đức Chúa Trời ngự giữa sự ngợi khen của dân sự Ngài (Thi 22:3).


Sự hiện hữu của vinh hiển Đức Chúa Trời là dấu hiệu phân biệt nước Y-sơ-ra-ên (Xu 33:12-23; Ro 9:4). Tội lỗi của dân sự làm cho vinh hiển của Đức Chúa Trời rời khỏi đền tạm (ISa 4:19-22), nhưng nay sự vinh hiển đã trở lại. Tuy nhiên nước Y-sơ-ra-ên lại sẽ phạm tội và bị đày sang Ba-by-lôn, tại đó tiên tri Ê-xê-chi-ên đã có sự hiện thấy về việc sự vinh hiển của Đức Chúa Trời rời khỏi đền thờ (Exe 8:1-4; Exe 9:3; Exe 10:4,18-19; Exe 11:22-23). Mặc dầu vậy Đức Chúa Trời cũng cho ông thấy sự vinh hiển trở lại đền thờ (Exe 43:1-5). Sự vinh hiển đến thế gian qua chính Chúa Giê-xu (Gi 1:14 Mat 17:1-7), nhưng tội nhân đã đóng đinh “Chúa vinh hiển” (ICo 2:8). Khi Chúa Giê-xu về trời, đám mây của sự vinh hiển bao phủ Ngài (Cong 1:9) và đền thờ bị bỏ hoang (Mat 23:38-24)


Khi Đức Thánh Linh giáng lâm vào ngày lễ Ngũ tuần (Cong 2:1-47), vinh hiển của Đức Chúa Trời đã ngự trị trong lòng con dân Ngài một cách riêng tư (ICo 6:19-20)cũng như trong Hội thánh địa phương (ICo 3:16) và Hội thánh trên toàn cầu (Eph 2:19-22). Cho đến khi Chúa Giê-xu đem chúng ta vào trong sự vinh hiển đời đời thì đặc ân và trách nhiệm của chúng ta vẫn là đem vinh hiển về cho Chúa khi chúng ta phục vụ Ngài trên đất. Khi Hội thánh nhóm lại thờ phượng Đức Chúa Trời bằng tâm thần và lẽ thật, hãy bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (ICo 14:23-25).


2. Ngôi nhà của lời chứng (IVua 8:12-21) (IISu 6:1-11)

Đức Chúa Trời không chỉ ngự giữa dân sự Ngài nhưng Ngài còn ban cho họ lời của Ngài và giữ lời hứa một cách thành tín. Đó là chủ đề chính của phần này, vì ở đây Sa-lô-môn tôn vinh Đức Giê-hô-va thông qua việc hồi tưởng lại lịch sử xây dựng đền thờ.


Sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời (IVua 8:12-13; IISu 6:1-2).

Nhà vua đang đứng trên một cái bục đặc biệt (IISu 6:13), đối mặt với đền thánh, các thầy tế lễ đứng ở bàn thờ (IVua 5:12) và dân sự tập trung thành nhóm. Tất cả họ đều đã xem thấy sự bày tỏ vinh quang kỳ diệu của Đức Chúa Trời. Lúc này Sa-lô-môn mở đầu bài nói chuyện của mình bằng câu nói “Đức Giê-hô-va có phán rằng Ngài ngự trong nơi tối tăm mờ mịt” (c.12). Tại sao ông nói là tối tăm trong khi họ vừa mới được nhìn ngắm sự vinh quang chói rực của Đức Chúa Trời?

Sa-lô-môn đang nhắc đến lời của Đức Chúa Trời phán với Môi-se trên núi Si-na-i: “Nầy, ta sẽ ở trong đám mây mịt mịt đi đến ngươi; đặng khi nào ta phán cùng ngươi, thì dân sự nghe và tin cậy ngươi luôn luôn” (Xu 19:9). Thật sự đã có một đám mây mù mịt trên núi (Xu 19:6 Xu 20:21 Phuc 4:11; Phuc 5:22) và Môi-se đã bước vào sự tối tăm đó với sự sợ hãi rất lớn (He 12:18-21). Sa-lô-môn đang liên hệ sự kiện của ngày đó với kinh nghiệm của dân Y-sơ-ra-ên trong quá khứ tại núi Si-na-i, bởi vì dân sự của Đức Chúa Trời không được phép rời bỏ nguồn gốc của họ trong lịch sử.


Đức Chúa Trời là sự sáng (IGi 1:5) và ngự giữa sự sáng (ITi 6:16), nhưng Ngài không thể bày tỏ chính Ngài hoàn toàn cho con người vì “không ai thấy mặt ta mà còn sống” (Xu 33:20). Trên núi Si-na-i Đức Chúa Trời nhấn mạnh việc lắng nghe Ngài, không phải là nhìn thấy Ngài để người Do-thái không bị cám dỗ làm ra hình tượng của Đức Chúa Trời và thờ lạy chúng.

Giống như Hội thánh ngày nay, dân Y-sơ-ra-ên là dân sự lắng nghe và vâng lời Đức Chúa Trời. Vua Đa-vít đã nhìn thấy Đức Chúa Trời trong sự tối tăm dưới chân Ngài như cái màn trướng (Thi 18:9,11; Thi 97:2). Đức Chúa Trời luôn có sự huyền bí làm hạ thấp chúng ta, bởi vì chúng ta không phải lúc nào cũng hiểu được Ngài và đường lối của Ngài, nhưng sự huyền bí này cũng khích lệ chúng ta tin nơi Chúa và nương dựa nơi lời của Ngài. Sa-lô-môn không muốn dân sự nghĩ rằng Đức Chúa Trời bây giờ là “láng giềng” của họ và vì thế họ có thể nói chuyện với Ngài hay nói về Ngài theo bất cứ cách nào họ thích. “Nhưng Đức Giê-hô-va ở trong đền thánh của Ngài, trước mặt Ngài, cả đất hãy làm thinh” (Ha 2:20) NASB).


Giống như người đầy tớ báo cáo công việc cho chủ của mình, Sa-lô-môn thông báo rằng ông đã xây xong cái đền làm nơi ngự của Đức Chúa Trời (c.13). Điều này nhắc chúng ta nhớ về việc Môi-se hoàn thành công tác xây dựng đền tạm (Xu 40:33), về Chúa Cứu Thế Giê-xu đã hoàn tất những điều Cha Ngài giao cho (Gi 17:4), về cả Giăng Báp-tít và Phao-lô đã làm xong công tác của mình (Cong 13:25; IITi 4:7). Tất cả chúng ta rồi sẽ phải tường trình cuộc đời và sự phục vụ của chúng ta trên đất khi gặp Đức Chúa Trời (Ro 14:10-13), và vì thế chúng ta cần phải trung tín với sự kêu gọi của Ngài dành cho để chúng ta có thể có kết thúc tốt đẹp.


Sự tốt lành và sự thành tín của Đức Chúa Trời (IVua 8:15-21). Trong hơn 50 năm chức vụ, tôi có được đặc quyền giúp đỡ nhiều Hội thánh trong việc cung hiến đền thờ;và trong thông điệp của mình, tôi cố gắng nhấn mạnh công việc của Đức Chúa Trời trong lịch sử của dân sự Ngài. Như A.T. Pierson thường nói, “Lịch sử là chuyện của Ngài”. Thật dễ cho những người mới trong Hội thánh và những thế hệ tiếp theo quên đi lịch sử của Hội thánh họ. Ngày Sa-bát, những ngày lễ trong năm (Le 23:1-44), và sự hiện diện của đền thờ sẽ làm nhân chứng cho người Do-thái, cả người trẻ và già, rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của họ. Từ “nhớ” được dùng ít nhất 14 lần trong sách Phục-truyền bởi vì Đức Chúa Trời không muốn dân sự Ngài quên đi bài học trong quá khứ.


Trong sự tốt lành và ân điển của Đức Chúa Trời, Ngài đã lập giao ước với Đa-vít liên quan đến gia đình và ngôi vị của ông (IISa 7:1-29), trong đó có lời hứa về một người con trai sẽ xây dựng đền thờ. Điều gì miệng Đức Chúa Trời nói, chính tay Ngài sẽ hoàn thành nó (c.15), và điều gì Ngài hứa với Đa-vít, Ngài sẽ hoàn thành thông qua Sa-lô-môn (c.20). Nhưng Đức Chúa Trời làm những điều này vì sự vinh hiển của danh Ngài, không phải để tôn vinh Đa-vít hay Sa-lô-môn (c.16-20).

Danh của Đức Chúa Trời được nhắc đến ít nhất 14 lần trong lời giới thiệu và cầu nguyện của Sa-lô-môn. Nhà vua đã biết dâng cho Đức Chúa Trời tất cả sự vinh hiển. Bất cứ khi nào dân sự đến thờ phượng, họ sẽ nhớ rằng chính sự tốt lành và sự thành tín của Đức Chúa Trời làm cho đền thờ được đứng vững.


3. Nhà cầu nguyện (IVua 8:22-53) (IISu 6:12-42)

Theo (IISu 6:13) khi Sa-lô-môn cầu nguyện ông quỳ trên một cái bục đặc biệt gần bàn thờ và giơ tay lên trời. Tư thế cầu nguyện truyền thống của chúng ta (“khoanh tay và nhắm mắt”) là xa lạ với người Do-thái. Tư thế của họ là nhìn lên với sự tin tưởng hướng về Đức Chúa Trời trên trời (hay hướng về đền thờ) và giơ tay lên bày tỏ sự thấp kém và chờ đợi sự trả lời (c.38,54; Xu 9:29,33; Thi 63:4; Thi 88:9; Thi 143:6). Điều này được áp dụng cho Hội thánh thời Phao-lô (ITi 2:8). Từ “trời” được dùng ít nhất hàng chục lần từ câu 22-54.


Sa-lô-môn mở đầu lời cầu nguyện của mình bằng sự ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Trời là Đấng lập và giữ giao ước. “Chẳng có một thần nào giống như Chúa” (c.23 so sánh với Xu 15:11 và Phuc 4:39). Sau đó ông nhắc đến giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít cha mình. Giao ước này chỉ ra rằng Sa-lô-môn là người thừa kế Đa-vít và là người xây dựng đền thờ (II Sa.7). Nhưng Sa-lô-môn cũng nhắc đến lời hứa của giao-ước về vương triều nhà Đa-vít và cầu nguyện rằng dòng dõi nhà Đa-vít sẽ tiếp tục như Đức Chúa Trời đã hứa. Dĩ nhiên, sự hoàn thành sau cùng của lời hứa đó là trên Chúa Giê-xu (Lu 1:26-33,67-75; Cong 2:29-30; Ro 1:3).


Khi Sa-lô-môn cầu nguyện, ông bị bối rối bởi sự tương phản giữa sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và sự tầm thường của công việc ông đã làm trong việc xây dựng đền thờ. Làm sao Thượng Đế, Chúa của trời đất, có thể ngự giữa đền thờ do tay người làm ra? Sa-lô-môn đã bày tỏ điều tương tự cho vua Hi-ram trước khi ông bắt đầu xây dựng (IISu 2:6) và tiên tri Ê-sai đã lặp lại lời này (Es 66:1). Ê-tiên có nhắc đến những lời này của Sa-lô-môn khi ông tự bảo vệ mình trước toà công luận Do Thái (Cong 7:47-50), và Phao-lô nhấn mạnh chân lý này trong bài giảng cho dân ngoại (Cong 17:24). Sa-lô-môn nhận ra rằng việc Đức Chúa Trời sẳn lòng ngự giữa dân sự Ngài hoàn toàn là việc làm ân điển.


Ý chính trong lời cầu nguyện của Sa-lô-môn là mắt Đức Chúa Trời sẽ đoái xem đền thờ, tai Ngài sẽ lắng nghe lời cầu nguyện của dân sự và đáp lời họ khi họ cầu nguyện hướng về đền thờ. Ông xin Đức Chúa Trời hãy tha thứ tội lỗi của dân sự khi họ cầu nguyện (c.30,34,36,39,50) và “binh vực quyền lợi của dân sự Ngài là Y-sơ-ra-ên” (c.59). Sa-lô-môn biết điều kiện trong giao ước chép trong Phục-truyền 28-29, và những tai họa mà ông nhắc đến trong lời cầu nguyện của mình chính là những sự kỷ luật Ngài hứa dành cho Y-sơ-ra-ên nếu họ bất tuân luật pháp của Ngài.

Nhưng Sa-lô-môn cũng biết Phục-truyền. 30 lời hứa về sự tha thứ và phục hồi nếu dân sự của Đức Chúa Trời ăn năn, quay trở lại với Ngài. Giô-na hướng về đền thờ cầu nguyện và Đức Chúa Trời tha tội cho ông (Gion 2:4). Đa-ni-ên cầu nguyện cho dân sự khi ông hướng về Giê-ru-sa-lem (Dan 6:10). “Nhà ta sẽ gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc” (Es 56:7; Mat 21:13; Mac 11:17; Lu 19:46). Sa-lô-môn trình lên Đức Chúa Trời bảy lời thỉnh cầu rõ ràng.


(1) Sự công bình trong vương quốc (IVua 8:31-32; IISu 6:22-23).

Sa-lô-môn đã bắt đầu công tác trị vì bằng việc phân xử hai người đàn bà (IVua 3:16-28), nhưng ông không thể giải quyết mọi mâu thuẫn cá nhân trong vương quốc khi vẫn phải thi hành mọi nghĩa vụ của nhà vua. Các quan trưởng được chỉ định để phân xử những vụ việc nhỏ trong dân chúng (Xu 18:13-27; Xu 21:5-6; Xu 22:7-12; Phuc 17:2-13; Phuc 25:1), và các thầy tế lễ cũng luôn có mặt để áp dụng luật pháp và đưa ra quyết định (ISu 23:4; ISu 26:29). Nếu một người bị buộc tội đã phạm tội với người lân cận của mình, bị cáo sẽ phải thề trước bàn thờ của đền thờ và Đức Chúa Trời sẽ tuyên bố người đó có tội hay không. Lời phán quyết này được tuyên bố ra sao không được giải thích, nhưng có lẽ các thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim (Xu 28:30 Le 8:8). Sự công bình trong vương quốc cần thiết để người dân hưởng “cuộc sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc”. Thật bi thảm vì những năm sau đó, chính những vị vua vô thần của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa là những người cho phép sự bất công bước vào vương quốc.


Trách nhiệm của quan tòa là “kết tội kẻ ác … và chứng minh cho sự ngay thẳng”, nhưng khi cứu vớt linh hồn tội nhân, Đức Chúa Trời biện hộ cho những người không theo tôn giáo nào (Ro 4:5) thông qua sinh tế là Chúa Giê-xu trên thập tự giá (Ro 5:6). Đức Chúa Trời đã định tội tất cả mọi người (Ro 3:23) vì thế Ngài sẽ bày tỏ ân điển cho toàn thể nhân loại và cứu vớt những ai đặt niềm tin nơi Con Ngài.


(2) Thất bại quân sự (IVua 8:33-34; IISu 6:24-25).

Sự thất bại này xảy ra bởi vì dân sự đã phạm tội theo cách nào đó (Gios 7:1-26) và Đức Chúa Trời không đẹp lòng với họ. Nếu Y-sơ-ra-ên tuân theo những điều kiện trong giao-ước, trong xứ sẽ có hòa bình và Đức Chúa Trời sẽ cho Y-sơ-ra-ên đánh bại mọi kẻ thù nào tấn công họ. Nhưng nếu Y-sơ-ra-ên phạm tội, Đức Chúa Trời sẽ cho phép kẻ thù chiến thắng họ (Le 26:6-8,14-17,25,33,36-39; Phuc 28:1,7,15,25-26,49-52). Nếu sự thất bại này làm cho họ ăn năn, Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho họ, Ngài sẽ giải thoát và đem những tù binh trở về nhà.


(3) Hạn hán trong xứ (IVua 8:35-36; IISu 6:26-27).

Y-sơ-ra-ên có tên trong xứ bởi vì giao-ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham, nhưng họ chỉ có thể sở hữu nó và tận hưởng phước lành trong xứ chỉ khi nào họ tuân theo luật lệ của Đức Chúa Trời. Một trong những kỷ luật nghiêm khắc nhất liệt kê trong giao ước là hạn hán trong xứ (Le 26:19; Phuc 28:22-24,48). Đức Chúa Trời hứa với dân sự Ngài sẽ cho mưa xuống vào mùa của nó (Phuc 11:10-14) chỉ khi nào họ tôn vinh Ngài.

Vì người Y-sơ-ra-ên là những người chăn nuôi và làm nông nghiệp, mưa thật sự rất cần thiết cho sự sống còn của họ. Bất cứ khi nào dân sự tuân theo Đức Chúa Trời, họ sẽ hưởng được những vụ mùa bội thu và súc vật bầy đàn của họ sẽ khỏe mạnh và tăng lên nhanh chóng. Mục đích của hạn hán là đem dân sự đến chỗ ăn năn, và Đức Chúa Trời hứa sẽ tha tội cho họ và đem mưa đến trong đất. (IVua 18:1-41).


(4) Những thiên tai khác (IVua 8:37-40; IISu 6:28-31).

Đức Chúa Trời cảnh báo trong giao ước rằng sự bất tuân của Y-sơ-ra-ên sẽ đem lại sự trừng phạt nghiêm khắc cho họ. Ngài sẽ đem đến nạn đói (Le 26:26,29; Phuc 28:17,48), bệnh tàn rụi của cây cối (Le 26:20; Phuc 28:18,22,30,39-40), sự xâm hại của sâu bệnh (Phuc 28:38,42), và nhiều dịch bệnh khác (Le 26:16,25; Phuc 28:21-22,27,35,59-61). Tuy nhiên, nếu dân Chúa vâng theo lời Ngài, Ngài sẽ bảo vệ họ và xứ của họ khỏi những thiên tai này. Nhưng một lần nữa, Sa-lô-môn cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân sự Ngài khi họ xưng nhận tội lỗi, và phục hồi xứ của họ (IISu 7:13-14).


Trong lời cầu nguyện của mình, Sa-lô-môn thường nhắc đến đất đai (c.34,36-37,40-41,46-48) vì đây là một phần trong của thừa kế Y-sơ-ra-ên nhận được từ Đức Chúa Trời. Khi dân sự bắt đầu phạm tội, Đức Chúa Trời trừng phạt họ trong xứ (xem sách Các quan-xét), và khi họ cứ tiếp tục trong tội lỗi, Ngài cho phép những nước thù địch đem họ ra khỏi xứ.

Vào năm 722 B.C, người A-si-ri xâm chiếm Y-sơ-ra-ên và đồng hoá họ, và vào năm 606-586 người Ba-by-lôn đánh bại người Giu-đa, đốt Giê-ru-sa-lem và đền thờ, và bắt nhiều người Y-sơ-ra-ên đến Ba-by-lôn làm phu tù. Khi Đức Chúa Trời trừng phạt dân sự Ngài bên ngoài xứ, Ngài cuối cùng chữa họ khỏi bệnh thờ thần tượng.


(5) Những dân ngoại đến cầu nguyện (IVua 8:41-34; IISu 6:32-33).

Họ không phải là những “khách ngoại bang” cư ngụ trong Y-sơ-ra-ên và có những nghĩa vụ và trách nhiệm đối với luật pháp (Lê 16:29; Lê 17:10,12; Lê 18:26; Lê 19:34; Lê 20:2; Lê 25:6,45) Từ “người nước ngoài” là những người đến Y-sơ-ra-ên bởi vì họ đã nghe về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và đền thờ của Ngài. (Những công nhân không phải là người Do-thái đã giúp trong việc xây dựng đền thờ).

Người Do-thái có trách nhiệm là “ánh sáng” cho những quốc gia thờ thần tượng và hướng dẫn họ đến sự vinh hiển của Đức Chúa Trời hằng sống và có thật. Sa-lô-môn có ý tưởng này trong trí khi ông cầu xin Đức Chúa Trời lắng nghe và đáp lời cầu nguyện của những người ngoài giao ước, để “muôn dân của thế gian nhận biết dân Chúa và kính sợ Chúa” (c.43,60). Nếu những người này bắt đầu cầu nguyện Đức Giê-hô-va, có lẽ họ sẽ đi đến tin cậy và tôn vinh Ngài.


Ngay chính từ khi quốc gia bắt đầu, khi Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham và Sa-ra rời khỏi U-rơ đi đến Ca-na-an, Đức Chúa Trời tuyên bố rằng Ngài muốn Y-sơ-ra-ên trở thành nguồn phước cho thế gian (Sa 12:1-3). Sự phán xét của Đức Chúa Trời chống lại Pha-ra-ôn và Ai Cập cùng với việc Ngài đi xuyên qua Biển Đỏ trong Xuất Ê-díp-tô ký (Gios 2:8-13) là bằng chứng cho những quốc gia xung quanh (Xu 9:16).

Khi Đức Chúa Trời làm cho sông Giô-đanh bày đất khô ra để dân Y-sơ-ra-ên có thể đi vào đất hứa, Ngài bày tỏ quyền năng và vinh hiển của Ngài cho những quốc gia khác (Gios 4:23-24). Phước lành của Ngài trên Y-sơ-ra-ên trong đất Ca-na-an là bằng chứng cho những đất nước thờ đa thần (Phuc 28:7-14), và chiến thắng của Đa-vít với Gô-li-át cũng vậy (ISa 17:46).

Đức Chúa Trời chúc phước cho chúng ta để chúng ra trở thành một nguồn phước, không phải để chúng ta khoe khoang về những phước lành. Người Do-thái cầu nguyện.

 “Nguyện Đức Chúa Trời thương xót chúng tôi, và ban phước cho chúng tôi, soi sáng mặt Ngài trên chúng tôi. Để đường lối Chúa được biết trên đất, và sự cứu rỗi của Chúa được biết giữa các nước” (Thi 67:1-2).

Hội thánh ngày nay cần có những lời cầu nguyện như vậy và giữ mục tiêu đó trong trí.


(6) Quân đội trong chiến trận (IVua 8:44-45; IISu 6:34-35).

Khi Đức Chúa Trời đưa dân Ngài vào chiến trận, đó là “một cuộc thánh chiến” chỉ có thể thắng bằng sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài. Các thầy tế lễ thổi những cây kèn bạc để kêu gọi vào chiến trận (IISu 13:12-16; Dân 10:1-10). Họ giúp quân đội tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời (ISa 23:1-2), và họ khuyến khích các chiến sĩ chiến đấu vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời và chỉ tin cậy vào một mình Ngài mà thôi (Phuc 20:1-4). Ngay cả giữa lúc chiến trận, các chiến sĩ cũng có thể hướng về đền thờ và cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ.

Khi mô tả những vũ khí của người chiến sĩ Cơ-đốc, Phao-lô đã nói đến lời cầu nguyện như là một trong những thứ cần thiết để chiến thắng (Eph 6:18-19). Nhà văn Pháp Voltaire viết “Người ta nói rằng Đức Chúa Trời luôn đứng về phía những quân đoàn mạnh nhất”, nhưng sự thật là Đức Chúa Trời lại đứng về phía những ai cầu nguyện theo ý Ngài.


(7) Bại trận và bị bắt làm phu tù (IVua 8:46-53; IISu 6:36-39).

Đại từ “họ” trong câu 46 chỉ về người dân Y-sơ-ra-ên, và lịch sử Y-sơ-ra-ên cho thấy rằng đất nước này dễ phạm tội. Tất cả chúng ta đều là tội nhân (Ch 20:9; Ro 3:23), nhưng những phước lành đặc biệt Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên và giao ước của Ngài với họ làm cho sự bất tuân của họ càng thêm nghiêm trọng.

Bằng việc bất tuân luật pháp của Đức Chúa Trời và bắt chước tội lỗi của những nước thờ thần tượng xung quanh, người Do-thái đang phạm tội chống lại ánh sáng từ thiên thượng.

Trong giao-ước, Đức Chúa Trời cảnh báo rằng sự chống lại Chúa lặp đi lặp lại sẽ dẫn đến sự tù đày (Lê 26:27-45; Phuc 28:49-68). Những kỷ luật khác lấy những phước lành của xứ khỏi người Do-thái, nhưng chính sự tù đày đem họ ra khỏi xứ. Người Do-thái đã kinh nghiệm sự bại trận và sự tù đày. A-si-ri tấn công vương quốc Y-sơ-ra-ên ở phía bắc vào năm 722. Ba-by-lôn tấn công vương quốc Giu-đa ở phía nam vào năm 606-586 và người Do-thái bị lưu đày đến Ba-by-lôn.

Sự kiện khủng khiếp này đã được Ê-sai (Es 6:11-12; Es 11:11-12; Es 39:6) và Mi-chê (Mi 4:10) nói tiên tri. Giê-rê-mi bày tỏ rằng sự lưu đày đến Ba-by-lôn sẽ kéo dài 70 năm (Giê 25:1-14; Giê 29:11-14). Khi tiên tri Đa-ni-ên hiểu được những gì Giê-rê-mi viết, ông bắt đầu cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài (Phuc 30:1-10) và giải phóng đất nước (Đa 9:1). Rất có thể nhiều người Do-thái khác (“những người còn sót lại”) cũng can thiệp vào, và Đức Chúa Trời đã cảm động lòng Si-ru, vua Phe-rơ-sơ, để cho phép người Do-thái trở về xứ của họ và xây lại đền thờ (Exo 1:1-11; IISu 36:22-23).


Sa-lô-môn trình lên Đức Chúa Trời nhiều lý do tại sao Đức Chúa Trời nên tha thứ cho dân Ngài khi họ ăn năn tội và quay trở về với Ngài. Trên hết, họ là dân sự của Ngài, những người mà Ngài đã chuộc và giải thoát khỏi cảnh làm nô lệ tại Ai-cập (c.51). Y-sơ-ra-ên là dân đặc biệt của Ngài, được tách biệt khỏi những dân tộc xung quanh để tôn vinh Đức Chúa Trời và hoàn thành công tác của Ngài trên đất.

Một lần nữa, Sa-lô-môn lại bày tỏ sự hiểu biết của ông về sách Phục-truyền (Phuc 4:20; Phuc 7:6; Phuc 9:26-29; Phuc 32:9).


Ông kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng việc xin mắt Chúa hãy đoái xem đền thờ và những người thờ phượng ở đó, xin Chúa hãy lắng tai nghe lời cầu xin của những người cầu nguyện tại đền thờ và hướng về đền thờ (IISu 6:40-42).

Câu chúc phước của ông trong câu 41 được tìm thấy trong (Thi 132:8-10). Y-sơ-ra-ên không còn là những người hành hương, nhưng họ vẫn cần Đức Chúa Trời dẫn dắt và giúp đỡ. (Cũng xem những lời của Môi-se trong (Dan 10:35-36). Cám ơn những chiến thắng của Đa-vít trong chiến trận, Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa của Ngài và đem Y-sơ-ra-ên vào sự yên nghỉ; nhưng như Andrew Bonar nói “Chúng ta hãy cảnh giác sau chiến thắng như trước khi chiến trận”. Sa-lô-môn kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng việc cầu xin Đức Chúa Trời đừng loại bỏ ông, vị vua được xức dầu, on trai và người thừa kế của Đa-vít.

“Khá nhớ lại sự nhân từ của Chúa đối với Đa-vít” (IISu 6:42), điều này nói đến lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít trong giao-ước (IISa 7:1-29; Thi 89:19-29).


“Sự nhân từ chắc thật đã hứa cùng Đa-vít” này (Es 55:3) bao gồm sự giáng thế của Chúa Giê-xu Christ, hậu tự Đa-vít, là Chúa Cứu Thế của thế gian (Cong 13:32-40).


4. Nhà ngợi khen (IVua 8:54-61) (IISu 7:1-3)

Nhà vua đã quỳ trên cái bục đặc biệt gần bàn thờ, tay giơ lên trời, nhưng bây giờ ông đứng lên chúc phước cho dân sự. Thông thường thì các thầy tế lễ là người chúc phước (Dan 6:22-27), nhưng trong dịp đặc biệt như thế này, nhà vua có thể chúc phước như Đa-vít đã làm (IISa 6:18,20). Sa-lô-môn chúc phước cho cả hội chúng và dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời vì ân điển lớn lao của Ngài.


Khi Sa-lô-môn ôn lại lịch sử của nước Do-thái, ông kết luận rằng Đức Chúa Trời không bao giờ thất hứa, dầu một lần cũng không. Dân sự của Đức Chúa Trời thường quên Ngài, nhưng Ngài không bao giờ quên họ. Ngài hứa với Môi-se rằng Ngài sẽ cho dân sự an nghỉ, và Ngài đã làm điều đó (Xu 33:14).

Bằng quyền năng của mình, Đức Chúa Trời đã giúp đỡ Giô-suê chiến thắng các đất nước ở Ca-na-an và tuyên bố xứ thuộc về sản nghiệp của Y-sơ-ra-ên. Môi-se truyền cho dân sự khi họ đã vào đất hứa, Đức Chúa Trời sẽ cho họ một đền thánh, nơi họ có thể dâng của tế lễ và thờ phượng Đức Chúa Trời (Phuc 12:1-14) và bây giờ đền thờ đó đã được xây dựng.

Trong bài giảng chia tay với các quan trưởng, Giô-suê cũng nhấn mạnh sự thật tương tự (Gios 23:14-15; Gios 21:45). Nhưng Giô-suê đồng thời nhắc nhở họ rằng những lời cảnh cáo sẽ được làm thành cũng như những lời hứa, và ông cảnh báo họ phải vâng lời Đức Chúa Trời trong mọi việc.


Sa-lô-môn đặc biệt nhấn mạnh đến một lời hứa mà Đức Chúa Trời đã hứa cùng tổ phụ ông và được lặp lại nhiều lần trong lịch sử Do-thái rằng Đức Chúa Trời sẽ không rời bỏ dân sự Ngài. Đức Chúa Trời đã ở cùng Áp-ra-ham trong suốt cuộc đời ông, và Ngài hứa sẽ ở với Y-sác (Sa 26:3,24) và Gia-cốp (Sa 28:15; Sa 31:3; Sa 46:1-4). Ngài nhắc lại lời hứa đó cho Môi-se (Xu 3:12; Xu 33:14) và Môi-se lặp lại cho Giô-suê (Phuc 31:6-8,17). Chính Đức Chúa Trời cũng hứa điều đó với Giô-suê (Gios 1:5,9; Gios 3:7; Gios 6:27). Ngài cũng hứa với Ghê-đê-ôn (Cac 6:15-16), và tiên tri Sa-mu-ên lặp lại lời hứa của Đức Chúa Trời cho cả vương quốc (ISa 12:22). Đa-vít khích lệ Sa-lô-môn bằng lời hứa này khi ông xức dầu cho Sa-lô-môn xây đền thờ (ISu 28:20).


Sau thời Sa-lô-môn, tiên tri Ê-sai nhắc lại lời hứa này và yên ủi những người Do-thái bị bắt làm phu tù qua Ba-by-lôn (Es 41:10,17; Es 42:16; Es 44:21; Es 49:14-16). Đức Chúa Trời dùng điều này để khích lệ Giê-rê-mi (Gie 1:8,19; Gie 20:11), và Chúa Giê-xu phán điều này cho các môn đồ của Ngài trước khi Ngài về trời (Mat 28:19-2) Hội thánh ngày nay có thể đòi hỏi lời hứa này như những người tin Chúa ngày xưa (He 13:5). (Thi 27:9; Thi 37:25,28; Thi 38:21).


Sa-lô-môn cũng cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ ông và dân sự ông có lòng hướng về Đức Chúa Trời và sẵn sàng tuân lệnh Ngài (c.58). Ông biết sách Phục-truyền và chắc chắn ông thuộc (Phuc 5:29)

“Ồ! Chớ chi dân nầy thường có một lòng kính sợ ta, hằng giữ theo các điều răn ta như thế, để chúng nó và con cháu chúng nó được phước đời đời!”. Sa-lô-môn răn bảo dân sự khá có lòng thành thật và toàn tâm toàn ý đi theo Đức Chúa Trời (c.61).


Cuối cùng, Sa-lô-môn cầu xin Đức Chúa Trời hãy nhớ đến những lời cầu nguyện mà ông đã nói bằng môi miệng và xuất phát từ tấm lòng (c.59-60). Những lời chúng ta nói chỉ là hơi thở và âm thanh, chúng biến mất ngay lập tức.

Điều này khích lệ chúng ta khi biết rằng không có lời cầu nguyện nào trình dâng lên Đức Chúa Trời bị bỏ quên, nhưng Đức Chúa Trời nhớ những lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài sẽ trả lời chúng vào đúng thời điểm và theo cách của Ngài. (Kh 5:8; Kh 8:3). Những lời cầu nguyện của Sa-lô-môn không phải là ích kỷ. Ông muốn người Y-sơ-ra-ên phải trung thành với Đức Chúa Trời để mọi nước trên thế gian sẽ đến tìm biết và tin tưởng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Thật khích lệ biết bao khi biết lời cầu nguyện của một con người có thể ảnh hưởng và đụng chạm đến toàn thế gian! Đức Chúa Trời vẫn muốn nhà của Ngài được gọi là “nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”.


Đức Chúa Trời đáp lời cầu xin của Sa-lô-môn bằng cách giáng lửa từ trời xuống thiêu hủy của lễ trên bàn thờ, và một lần nữa vinh quang của Đức Chúa Trời bao trùm cả đền thờ (IISu 7:1-3). Đức Chúa Trời giáng lửa từ trời xuống khi thầy tế lễ A-rôn chúc phước cho dân sự (Le 9:23-24), điều này cũng xảy ra khi tiên tri Ê-li kêu cầu Đức Chúa Trời (IVua 18:38).

Bây giờ Ngài giáng lửa khi vua Sa-lô-môn dâng lời cầu nguyện và của lễ lên cho Đức Chúa Trời. Dân sự đáp lại bằng cách quỳ xuống đất và ngợi khen Đức Chúa Trời. Hãy tưởng tượng âm thanh của hàng ngàn người la to “Chúa là nhân từ, vì sự thương xót của Ngài còn đến đời đời” (IISu 7:3 NASB). Đức Chúa Trời đã chấp nhận lời cầu nguyện của nhà vua và sự thờ phượng của dân sự.


5. Ngôi nhà đoàn kết (IVua 8:62-66) (IISu 7:4-10)

Hội chúng nhóm họp cho lễ cung hiến đền thờ đến từ biên giới phía nam của vương quốc (“khe Ê-díp-tô”: sông Ê-díp-tô chỉ có nước vào mùa mưa) cho đến biên giới phía bắc (“cổng Ha-mát”) và tạo thành một “hội chúng rất lớn” (c.65; IVua 4:21). Nhiều người trong số họ dâng của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời và chính mình Sa-lô-môn dâng 22.000 con bò đực và 120.000 con chiên và dê. Bàn thờ mới quá nhỏ để dâng lên nhiều của lễ như vậy, vì thế để giải quyết vấn đề, nhà vua đã thánh hoá cái sân trong đền thờ và dùng nó làm nơi dâng của tế lễ.


Thông thường dân sự ăn tiệc và vui vẻ trong tuần lễ chuẩn bị cho lễ Lều Tạm. Bữa tiệc kỷ niệm sự chăm sóc của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài trong những năm ở trong đồng vắng, và người Y-sơ-ra-ên có thể nhìn lại những gì đã qua và dâng lời cảm ơn Chúa. Nhưng bây giờ họ có thể nhìn xung quanh và cảm tạ Đức Chúa Trời về đền thờ mới, lời hứa của Đức Chúa Trời, và sự hiện diện của vinh quang Đức Chúa Trời. Giống như những của lễ khác, của lễ thù ân (Lê 3:1-17; Lê 7:11-34) được dâng lên cho Đức Chúa Trời, nhưng một phần thịt đưa cho các thầy tế lễ và người dâng của lễ giữ lại một phần.

Anh ta và nhà anh ta có thể ăn tiệc và thậm chí có thể mời các bạn của mình cùng ăn. Người Do-thái nuôi súc vật lấy sữa, ông và con thú nhỏ nhưng họ không ăn thịt, vì thế bữa tiệc của lễ thù ân sau khi tế lễ thật sự là một điều thú vị. Lễ cung hiến đền thờ kéo dài một tuần, ữa tiệc ở tuần sau đó và sự kiện này kết thúc bằng một ngày giữ lễ trọng thể (IISu 7:8-9). Các của lễ có lẽ được dâng ngày này qua ngày khác, vì thịt của của lễ thù ân chỉ có thể ăn trong hai ngày và những phần thịt còn lại phải bị thiêu qua ngày thứ ba (Lê 19:5-8).


Trong khi một số Hội thánh quá thích thú trong việc ăn uống- “Phòng cao đã trở thành phòng ăn”- thì không có gì là sai trong việc con dân của Chúa dùng bữa chung với nhau. Chúa Giê-xu thường dùng bữa khi giảng dạy, và Hội thánh đầu tiên thỉnh thoảng tổ chức những “bữa ăn thân ái” (agape), hững bữa ăn chỉ có thể là ngon lành đối với những người nghèo, đặc biệt là những người nô lệ (ICo 11:20-22,33-34; Giu 1:12). Những môn đồ ở thành Giê-ru-sa-lem thường ăn chung với nhau Cong 2:42-47 Cong 4:35 6:1), và lòng mến khách là một đức tính tốt đẹp thường được khuyến khích trong các thư tín (Ro 12:13; Ro 16:23; ITi 3:2; ITi 5:10; Tit 1:8; IPhi 4:9 IIIGi 1:8). “Vậy, anh em hoặc ăn hoặc uống hay là làm sự chi khác hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm” (ICo 10:3).


Tuy nhiên, của lễ thù ân tượng trưng cho Chúa Giê-xu là sự hòa hiệp của chúng ta (Eph 2:14) với Ngài là Đấng đã ban cho chúng ta món quà của sự hòa bình (Gi 14:27). Bởi sự hy sinh của Ngài trên thập tự giá, chúng ta được “hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Ro 5:1), và khi chúng ta đầu phục Ngài, chúng ta có “sự bình an của Đức Chúa Trời” ở trong lòng (Phi 4:6-9). Con cái của Đức Chúa Trời được “nuôi dưỡng” trong Chúa Giê-xu khi chúng ta đọc lời Chúa, lấy đó là một phần trong cuộc sống chúng ta và khi chúng ta vâng lời Chúa. Chúa Giê-xu là trung tâm của tình bằng hữu giữa chúng ta, giống như trong lễ cung hiến đền thờ, của lễ thù ân là trung tâm của tình bằng hữu.


Đức Chúa Trời không ở trong những tòa nhà thờ chúng ta dựng nên, nhưng khi chúng ta nhóm lại trong những tòa nhà được cung hiến cho Ngài, chúng ta nên nhấn mạnh sự thờ phượng, tình bằng hữu, sự vui mừng và sự làm chứng. Những buổi nhóm như vậy sẽ là dịp cho sự vui mừng và sự trang nghiêm. “Khá hầu việc Đức Giê-hô-va cách kính sợ và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi 2:11). Khi Thánh Linh ngự trị, sự vui mừng và sự tôn kính sẽ tràn ngập buổi nhóm.


6. Nhà trách nhiệm (IVua 8:62-66) (IVua 9:1-9; IISu 7:11-22)

Sự hiện diện của vinh quang Đức Chúa Trời trong đền thờ và việc lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt của lễ đảm bảo cho Sa-lô-môn rằng lời cầu nguyện của ông đã được Đức Chúa Trời nghe và chấp nhận. Nhưng không phải lúc nào trong đền thờ cũng chỉ có vinh quang rực rỡ hay có lửa từ trời thiêu đốt của lễ như vậy; Đức Chúa Trời còn phán lời Ngài với Sa-lô-môn vì “Lời Chúa còn lại đời đời” (IPhi 1:25).


Lời hứa (IVua 8:1-3; IISu 7:11-16).

Như Ngài đã từng làm tại Ga-ba-ôn (IVua 3:4-5), Đức Chúa Trời hiện ra với Sa-lô-môn và truyền cho ông những lời cần phải nghe. Ngài bảo đảm cho nhà vua rằng Ngài đã nghe lời cầu nguyện của ông và sẽ trả lời nó. Mắt Ngài sẽ luôn đoái xem cái nhà mà Sa-lô-môn đã xây và cung hiến, tai Ngài sẽ luôn lắng nghe lời cầu nguyện của dân sự Ngài. Dân sự và vua của họ đã cung hiến đền thờ cho Đức Chúa Trời, nhưng bây giờ Ngài sẽ thánh hóa nó và biến nó thành của riêng Ngài. Danh Đức Chúa Trời ngự tại đó, mắt Ngài sẽ luôn dõi theo, và tai Ngài sẽ luôn lắng nghe. Đó thật sự là nhà của Đức Chúa Trời.


IISu 7:11-16 có nói đến một số lời cầu xin cụ thể của Sa-lô-môn, và Đức Chúa Trời hứa trả lời từng lời cầu xin. Khi dân Ngài phạm tội, Ngài sẵn sàng tha thứ cho họ nếu họ hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ngài và xây bỏ khỏi tội lỗi.Ngoài Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời chưa hề lập giao ước với một quốc gia nào khác, hưng vì Cơ-đốc nhân ngày nay là con cái Ngài và được gọi bằng tên của Ngài, họ có thể được hưởng lời hứa này.


 Sự vâng lời (IVua 8:4-5; IISu 7:17-18).

Nhưng Đức Chúa Trời đề cập vấn đề này một cách cụ thể và riêng tư với Sa-lô-môn, có liên quan đến giao-ước Ngài đã lập với cha ông là Đa-vít (IISa 7:1-29). Đức Chúa Trời tái khẳng định những điều kiện trong giao-ước và xác quyết với Sa-lô-môn rằng nhà Đa-vít sẽ luôn có một vị vua ngồi trên ngai cho đến khi nào hậu tự ông vẫn còn tuân theo luật pháp và bước đi trong sự kính sợ Chúa.

Sa-lô-môn không thể đòi hỏi ơn phước từ Đức Chúa Trời chỉ bởi vì Đa-vít là cha ông và ông đã vâng lời Đa-vít mà xây đền thờ. Sa-lô-môn phải là một người giống như cha ông, một người theo lòng Đức Chúa Trời (IISa 13:14), một người thanh liêm (Thi 78:72). Đáng lưu ý là Đức Chúa Trời không hề nhắc đến tội tà dâm, sự lừa dối và âm mưu giết U-ri của Đa-vít.

Đây là những tội lỗi nghiêm trọng mà Đa-vít đã phải trả giá rất đắt, nhưng ông đã xưng nhận nó và Đức Chúa Trời đã tha thứ cho ông.


• Lời cảnh báo (IVua 8:6-9; IISu 7:19-22).

Đức Chúa Trời đã ban cho người Do-thái lời của Ngài, và Ngài muốn họ làm theo. Nhà vua phải là người thực hành vâng lời Chúa và làm gương cho những người khác. Thật đáng buồn là sau khi Sa-lô-môn qua đời, đất nước bị chia đôi và cả hai vương quốc dần dần suy tàn cho đến khi chúng bị hủy diệt. Những lời này của Đức Chúa Trời chỉ là những điều nhắc lại các điều kiện trong giao ước được chép trong (Le 26:1-46; Phuc 28:1-30:20), giao-ước này người Do-thái biết rất rõ.

Vương quốc Giu-đa trở lại thờ thần tượng, không vâng lời Đức Chúa Trời, và khiến Ngài phải trừng phạt họ. Quân đội Ba-by-lôn hủy phá toàn xứ, tiêu hủy thành Giê-ru-sa-lem, cướp phá và đốt cháy đền thờ Sa-lô-môn đã xây dựng. Thay vì là nguồn phước cho các nước trên thế gian, thành phố và đền thờ đổ nát gây sốc cho những người đến thăm và trở thành đề tài cho họ nhạo báng.


Trước khi chúng ta xét đoán dòng dõi nhà Đa-vít, chúng ta hãy suy nghĩ xem có bao nhiêu Hội thánh, trường học, tổ chức giáo phái và những đoàn Cơ-đốc đã bỏ qua niềm tin thật sự và thôi không đem lại vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Chúng ta phải thành thật ghi trên những tòa nhà đẹp đẽ nơi trước kia Chúa từng được tôn vinh và từ nơi đó phúc âm của Chúa Giê-xu được rao ra cho thế gian hư mất rằng “Ichabod- sự vinh hiển đã ra khỏi”.


Từ khi Sa-lô-môn băng hà vào năm 931 cho đến vương triều của Sê-đê-kia (597-586), Triều đại nhà Đa-vít sẽ tiếp tục vì Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục giữ lời hứa của Ngài với Đa-vít. Nhưng chỉ có một người Do-thái duy nhất ngày nay còn sống xứng đáng ngồi trên ngai Đa-vít và có thể chứng minh qua phả hệ đó là Giê-xu người Na-xa-rét, con trai của Đức Chúa Trời. Một ngày kia Ngài sẽ trị vì trên ngai Đa-vít và “sự nhận biết vinh quang Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất như nước đầy tràn biển”. (Ha 2:14).

-IVua 8:10-28; xem giải nghĩa IVua 7:1-12.





5. VƯƠNG QUỐC, QUYỀN LỰC VÀ SỰ VINH HIỂN (IVua 7:1-12; IVua 9:10-10:29; IISu 8:1-9:29)


Nhiều người nhớ đến vua Sa-lô-môn là người xây đền thờ cho Đức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem, nhưng trong đời trị vì của mình, ông rất bận rộn với nhiều công việc khác nhau. Những đoạn này phác họa lại một số việc Sa-lô-môn đã làm để đưa đất nước mình đi lên và đồng thời nâng cao đời sống của ông. Nhưng những việc làm này cũng cho thấy tính cách của Sa-lô-môn và phơi bày một số mặt yếu kém mà sau này đưa đến một kết quả cay đắng. Dần dần, Sa-lô-môn trở nên thích thú với giá cả hơn là giá trị, với danh tiếng hơn là nhân cách, với sự hào nhoáng của vương quốc hơn là lợi ích của dân chúng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.


1. Sa-lô-môn xây cung điện (IVua 7:1-12)

Công việc xây dựng kiến trúc đền thờ được hoàn tất trong bảy năm1, nhưng phải mất nhiều năm nữa để Hi-ram và thợ của ông trang trí bên trong và làm các vật dụng của đền. Trong khi họ đang bận rộn với công việc ở đền thờ, Sa-lô-môn thiết kế và xây dựng cung điện cho riêng mình. Đó là sự kết hợp giữa dinh thự riêng, cung điện, xưởng đúc vũ khí và nơi tiếp đón trọng thể. Sa-lô-môn viết “Ta làm những công việc cả thể; ta cất nhà cho mình” (Tr 2:4 NASB).


Khi bạn đọc lời miêu tả kế hoạch xây dựng, bạn có cảm giác rằng nó bao gồm những cấu trúc riêng lẻ, nhưng (IVua 9:10) nói đến “hai cái nhà”, đền thờ và “cung điện”. Cung điện lớn gấp hai lần đền thờ và có thể có hai đến ba tầng. Nó dài 150 phút, rộng 75 phút và cao 45 phút. (Đền thờ dài 90 phút, rộng 30 phút, cao 45 phút). Cả công trình bao gồm hai cổng vòm hay những hàng cột, dinh thự riêng của Sa-lô-môn, một dinh thự cho người vợ Ai-cập (và có lẽ một phần hậu cung của ông), phòng để ngai (“hiên xét đoán”), và một phòng tiếp tân lớn. Tất cả đều liên kết với nhau nhờ một sân lớn giống như sân trong ở đền thờ.


Không có một miêu tả cụ thể nào để có thể hướng dẫn chúng ta, nhưng dường như khi bạn bước vào tòa nhà, bạn sẽ đi qua một cổng vòm nhỏ hơn được thiết kế như lối vào chính (c.7). Cổng này dẫn vào một cổng vòm lớn hơn hay hàng cột làm bằng gỗ bá hương, có thể là một phòng chờ. Từ đây bạn sẽ bước vào “hành lang cột”, bao gồm 60 cây cột bằng gỗ bá hương (c.2-3), 45 cây cột chống đỡ trần nhà bằng gỗ bá hương tạo thành nền nhà của tầng hai. 15 cây cột được đặt đối diện nhau dựa vào tường, từ phải sang trái lối vào, và 15 cây cột ở phía dưới trung tâm của phòng. Tất cả những cây cột này đều chống đỡ xà gỗ bá hương. 15 cây cột khác được đặt ở những nơi nào cần thiết, đặc biệt là ở lối vào (c.6).


Bởi vì có quá nhiều cột gỗ bá hương từ Li-ban nên kiến trúc này được biết đến như là “cung rừng Li-ban”. Phòng hội nghị rất có thể được dùng cho những dịp hội họp long trọng của triều đình. Sa-lô-môn trưng bày 300 cái khiên lớn và 200 cái khiên nhỏ được làm bằng gỗ dát vàng (IVua 10:16-17). Mỗi cái khiên lớn sử dụng 7 pao rưỡi vàng, tổng cộng đã dùng 1.500 pao vàng; mỗi cái khiên nhỏ sử dụng 3 pao rưỡi vàng, tổng cộng 1.025 pao vàng. Tất cả 500 khiên sử dụng 2.525 pao vàng. Vì vàng quá mềm để dùng cho sự tự vệ, những cái khiên này không được dùng trong trận chiến mà chỉ để gây ấn tượng với các vị khách. Chúng chỉ được đem ra khỏi cung diện trong những dịp lễ đặc biệt.


Từ phòng hội nghị bạn bước vào bên trong phòng để ngai, còn gọi là “Hiên xét đoán”. Nơi đây Sa-lô-môn tiếp các cận thần của mình, dàn xếp những mối bất hòa với ông và đưa ra phán xét có liên quan đến những vấn đề của đất nước. Ngai vàng uy nghi của ông được mô tả trong IVua 10:18-20 ở tại đây. Cung Sa-lô-môn ở và cung của hoàng hậu có lẽ ở sau phòng để ngai này (IVua 7:7-8). Dĩ nhiên có nhiều cửa vào dẫn đến các phần khác nhau của toà nhà, tất cả những cửa này đều được bảo vệ bởi đội quân đặc biệt của nhà vua. Sa-lô-môn có một lối đi riêng dẫn từ dinh thự của ông đến đền thờ. Sau đền thờ của Đức Chúa Trời, “cung điện” của Sa-lô-môn ắt hẳn là một công trình kiến trúc đường bệ.

-IVua 7:13-51 xem giải nghĩa IVua 5:1-6:38.

-IVua 9:1-9 xem giải nghĩa IVua 8:62-66.


2. Sa-lô-môn làm một người bạn thất vọng (IVua 9:10-14) (IISu 8:1-2)

Hi-ram, ua Ty-rơ, từng là bạn tốt của Đa-vít, và Đa-vít đã kể cho ông biết kế hoạch của mình về việc xây dựng đền thờ cho Đức Chúa Trời (IVua 5:1-3), kế hoạch mà Đức Chúa Trời không cho Đa-vít thực hiện. Sau khi Đa-vít qua đời, Sa-lô-môn trở thành bạn của Hi-ram (Ch 27:10) và ông đã giao kèo với Hi-ram về việc giúp đỡ xây dựng đền thờ (IVua 5:1-12). Hi-ram sẽ cung cấp gỗ và công nhân cho Sa-lô-môn đổi lại Sa-lô-môn phải trả lương cho công nhân và chu cấp lương thực cho nhà Hi-ram. Sa-lô-môn cũng bắt người Do-thái đi đẽo đá (IVua 5:13-18) và những người ngoại bang trong xứ cũng cùng chung gánh nặng (IVua 9:15,20-23; IISu 8:7-10).


Nhưng (IVua 9:11,14) cho chúng ta biết Hi-ram cũng cung cấp cho Sa-lô-môn 120 ta-lâng vàng (khoảng 4 tấn rưỡi). Vua Sa-lô-môn có ít nhất 3.750 tấn vàng dự trữ trước khi ông bắt đầu xây dựng đền thờ (ISu 22:14-16), việc ông lấy vàng của Hi-ram làm chúng ta ngạc nhiên. Vàng, bạc và những vật liệu khác dùng cho đền thờ liệt kê (ISu 22:28-29) được dâng cho Đức Chúa Trời vì thế chúng không được dùng để xây một tòa nhà nào khác. Điều này có nghĩa là Sa-lô-môn phải cần vàng cho khu “cung điện” và có lẽ cả cho các cái khiên vì thế ông phải mượn chúng từ Hi-ram đổi lại ông ban cho Hi-ram 20 thành nằm ở cạnh biên giới Phê-ni-xi và Ga-li-lê.


Ngoài việc Sa-lô-môn không nên quá phung phí trong sự xây dựng “cung điện” ra ông còn không có quyền bỏ đi 20 thành phố chỉ để trả nợ cho mình. Toàn đất đai trong xứ thuộc về Đức Chúa Trời và không thể chuyển giao cho người khác được (Le 25:23). Mục đích của năm hân hỉ (Le 25:8) là làm cho những đất đai đã bán trở về chủ cũ của nó và như thế không có chi phái nào bị tước đoạt khỏi tài sản của họ. Nhưng Sa-lô-môn đang bắt đầu cư xử giống như cha vợ người Ai-cập của mình, người đã tiêu diệt toàn bộ dân số của một thành phố Ca-na-an và trao thành phố đó cho con gái của mình như là món quà cưới (c.16).


Nhưng Hi-ram không thích những thành phố Sa-lô-môn trao cho ông! Sau khi xem qua chúng, ông gọi chúng là “Ca-bun” trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “không ra gì hết”. Ông không nghĩ rằng vật thế chấp đáng giá với những gì ông đã đầu tư. Tuy nhiên, câu chuyện dường như có một kết thúc có hậu. Sa-lô-môn phải trả những gì ông đã mượn vì Hi-ram trả lại Sa-lô-môn những thành phố ông đã trao cho mình.Sa-lô-môn xây sửa lại chúng cho người Y-sơ-ra-ên (IISu 8:1-2). Có phải Sa-lô-môn trả nợ bằng 120 ta-lâng vàng mà nữ vương nước Sê-ba dâng cho ông (IVua 10:10)?


Trong sự việc này, Sa-lô-môn phơi bày một số nét cá tính làm chúng ta phải suy nghĩ.Chi phí quá cao của “cung điện” đòi ông hỏi phải vay nợ, và sau đó là việc trao cho bạn mình là vua Hi-ram những vật thế chấp quá tệ, thậm chí còn không xứng để cho nữa. Theo phương diện con người mà nói thì nếu không có Hi-ram, đền thờ sẽ không được xây dựng, và đây không phải là cách Sa-lô-môn nên đối xử với một người bạn rộng rãi như vậy.


3. Sa-lô-môn làm vững mạnh vương quốc (IVua 9:15-24) (IISu 8:1-11)

Khi Đức Chúa Trời hiện ra với Sa-lô-môn tại Ga-ba-ôn, Ngài hứa ban cho ông sự giàu có và vinh hiển trọn đời ông đến nỗi không có một vị vua nào sánh nổi với ông (IVua 3:13). Ngài đã giữ lời hứa đó, làm cho Sa-lô-môn nổi danh và những thành công của ông làm nhiều người ở các những nước khác ngưỡng mộ. Cha của Sa-lô-môn là Đa-vít đã xâm chiếm đất đai của kẻ thù và mở mang vương quốc nhưng ông không cố gắng tạo dựng một mạng lưới quốc tế để làm cho Y-sơ-ra-ên hùng mạnh giữa các nước.

Đa-vít là một vị tướng lãnh tài ba không sợ bất cứ kẻ thù nào, nhưng Sa-lô-môn là một nhà ngoại giao và nhà chính trị khôn ngoan không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để gia tăng của cải và quyền lực của mình. Phần này liệt kê cho chúng ta những thành công của Sa-lô-môn cả ở trong và ngoài nước.


Chúng ta thường không nghĩ Sa-lô-môn là một nhà quân sự, nhưng kỳ công này lại được chép trong Kinh Thánh (IISu 8:3). Ha-mát là một thành phố ở phía bắc Đa-mách, nằm ở biên giới xa nhất phía bắc vương quốc Y-sơ-ra-ên (Dân 34:8; Gios 13:5). Người dân ở vùng này có tham dự lễ cung hiến đền thờ (IVua 8:65; IISu 7:8). Thành phố nằm trên tuyến thương mại rất quan trọng vì từ đây Sa-lô-môn có thể thu thuế hải quan và đồng thời phải canh phòng những kẻ xâm lược. Cùng với Ha-mát, a-lô-môn củng cố các thành Hát-so, Mê-ghi-đô và Ghê-xe và biến chúng thành “những thành dự trữ”. Đó là nơi dành cho quân kỵ, xe ngựa, vũ khí và lương thực dự trữ cho quân đội Do-thái. Sa-lô-môn biết rằng nếu ông không bảo vệ ngoài biên giới, chiến tranh sẽ nổ ra dầu cho đã có những hiệp ước giữa ông với các nước lân bang.


Sa-lô-môn cũng củng cố và mở rộng “Mi-lô”, một nơi cao kế bên tường thành Giê-ru-sa-lem, ó chống đỡ tường thành và bảo vệ nhiều hơn cho thành phố. Từ Mi-lô có nghĩa là “đồn lũy”. Đây là một “nơi bảo vệ vững chắc” được Đa-vít xây dựng (IISa 5:9) và Sa-lô-môn tiếp tục (IVua 9:24; IVua 11:27).


Nhà vua và gia đình, những người dân trong thành phố, của cải trong đền thờ và cung điện phải được bảo vệ.


Để hoàn thành công việc xây cất Mi-lô, nhà vua đã bắt những người ngoại bang trong Y-sơ-ra-ên, những con cháu còn sót lại của người Ca-na-an từng cai trị vùng đất làm công nhân phục dịch (c.20; Sa 15:18-21; Gios 3:10). Trong việc xây dựng đền thờ, ông cũng tuyển mộ những người Do-thái tạm thời (IVua 5:13-14; IVua 9:15,22-23), nhưng không một công nhân Do-thái nào bị đối xử như nô lệ. Những người Do-thái được làm người lãnh đạo trong công tác xây dựng đền thờ.


4. Sa-lô-môn thờ phượng Đức Chúa Trời (IVua 9:25) (IISu 8:12-16)

Hằng năm, những người nam Do-thái trưởng thành phải lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt qua, lễ mùa gặt và lễ lều tạm (Xu 23:14-19; Phuc 16:1-17). Đối với Cơ-đốc nhân ngày nay, ba lễ này biểu thị cho sự chết của Chúa Giê-xu vì tội lỗi của chúng ta (Gi 1:29; ICo 5:7) sự phục sinh của Chúa Giê-xu và sự giáng lâm của Đức Thánh Linh (ICo 15:23; Cong 2:1-47) và sự nhóm họp của con cái Đức Chúa Trời trên thiên đàng (Kh 20:1-6).

Đối với người Do-thái, lễ Vượt qua là cơ hội để họ nhìn lại sự kiện được giải phóng khỏi cảnh nô lệ tại Ai-cập, trong khi lễ lều tạm kỷ niệm về sự chăm sóc của Đức Chúa Trời trong những năm họ ở trong đồng vắng. Lễ mùa gặt ca ngợi sự tốt lành của Đức Chúa Trời trong việc đem mùa thu hoạch đến.


Sa-lô-môn ở Giê-ru-sa-lem, nhưng ông đã làm gương bằng việc đi đến đền thờ và dâng của lễ. Các thầy tế lễ dĩ nhiên là người dâng hương và của lễ. Của lễ thiêu tượng trưng cho sự tận hiến hoàn toàn cho Đức Chúa Trời; của lễ thù ân nói lên sự hòa thuận trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời và người khác; hương đốt là hình ảnh của lời cầu nguyện dâng lên cho Chúa (Xu 30:1-10; Thi 141:2; Kh 8:3). Trong Kinh Thánh không có trường hợp người dân thường dâng hương lên bàn thờ vàng vì đây là công việc thầy tế lễ làm hai lần trong ngày thay cho cả nước. Tuy vậy, (Thi 72:24), “một thi-thiên của Sa-lô-môn”, nói đến lời cầu nguyện liên tục dành cho nhà vua (c.15), và không có lý do nào thấy rằng Sa-lô-môn có thể đã không dâng một số vật liệu cần thiết cho hương thánh (IVua 10:2,10; Xu 30:34-38).


(IISu 8:1-18) cho biết Sa-lô-môn có dâng của tế lễ trong những ngày lễ trên cùng trong ngày Sa-bát và tuần trăng mới. Về mặt này, ông đã tuân theo luật pháp Môi-se và ông cũng làm theo kế hoạch do Đa-vít đặt ra về chức việc của thầy tế lễ và người Lê-vi trong đền thờ (ISu 23:1-26:32). A-sáp đứng đầu những nhạc công (ISu 16:4-5). Có 4.000 người ca hát chia làm 24 ban và mỗi người giúp việc trong đền thờ hai tuần mỗi năm. Có một đội hợp xướng đặc biệt gồm 288 người (ISu 25:7). Sa-lô-môn cẩn thận trong việc xem xét những bài hát và nhạc cụ của Đa-vít có được sử dụng và kế hoạch của ông về sự sắp xếp thầy tế lễ và người Lê-vi có được tiến hành hay không.


5. Sa-lô-môn mở rộng ảnh hưởng của mình (IVua 9:25) (IVua 8:26-10:13; IISu 8:17-9:12)

Sa-lô-môn là một nhà doanh nghiệp lớn. Ông ký kết hợp đồng thương mại với nhiều nước, xây dựng hải quân, và thuê những thủy thủ lành nghề của Hi-ram quản lý cho ông. Là những người dân trong đất liền, người Do-thái không theo đuổi nghề hàng hải, vì thế Sa-lô-môn dựa vào người Phê-nê-xi, những người ở miền duyên hải để quản lý mọi công việc của ông. Những sản phẩm nhập khẩu từ phương đông làm giàu thêm cho kho bạc của Sa-lô-môn và giúp vương quốc hòa nhập hơn với thế giới bên ngoài.

Việc làm này chắc chắn tạo nhiều cơ hội cho người Do-thái làm chứng về Đức Chúa Trời của họ cho dân ngoại, nhưng không có một ghi chép nào về những việc làm như vậy. Sa-lô-môn phải giữ một ngân quỹ lớn và ông cần nhiều tiền như ông có thể kiếm được. Trong một chuyến hải trình, người ta mang về 420 ta-lâng vàng, khoảng 60 tấn vàng. Các con tàu cũng mang về những vật phẩm xa xỉ như ngà voi, con khỉ và con công. Dường như Sa-lô-môn cũng có một vườn thú (Tr 2:4-9). Nhà văn Anh Oliver Goldsmith đã nói như vầy:


Khi tật bệnh tràn lan,

Nhanh như cắt vồ mồi;

Thân xác người mục nát,

Của cải sẽ về đâu…


Động cơ chuyến thăm viếng của nữ vương nước Sê-ba (IVua 10:1-13) chắc chắn đến từ nổ lực trong thương mại của Sa-lô-môn cũng như niềm ao ước của bà được gặp Sa-lô-môn, được tận mắt chứng kiến sự vinh quang của vương quốc và thử xem sự khôn ngoan tột bậc của ông. Sê-ba là một nước giàu có và rất văn minh nằm ở phía nam A-rập. Nữ vương của họ đến đem theo nhiều món quà quý giá và cũng có ý nghĩa cho biết đó là những gì họ phải dâng tặng (Es 60:6; Gie 6:20; Exe 38:13).

“nói với ông mọi điều có trong lòng mình” và ông giải đáp cho bà mọi điều bà muốn biết. Những điều bà nghe và những gì bà thấy làm bà kinh ngạc. Bà đã nghe mọi người thuật lại nhưng bà chưa thật sự tin cho đến khi bà được tận mắt chứng kiến. Chúng ta được nhắc nhở về kinh nghiệm của Thô-ma (Gi 20:24-29).


Nhưng những gì ghi chép về chuyến thăm viếng của nữ vương nước Sê-ba cho chúng ta có cơ hội để nhìn lại cuộc sống trong cung vua. Nữ vương không những ngạc nhiên về cung điện của Sa-lô-môn nhưng bà còn bị gây ấn tượng bởi những bữa ăn tại đó (IVua 4:7,22-23), chế phục và việc quản lý các tôi tớ, chỗ ngồi của các quan và khách mời, những của cải lạ thường được trưng bày trên bàn và xung quanh bàn. Bà đi với Sa-lô-môn trên lối đi riêng của ông đến đền thờ, tại đó bà xem ông thờ phượng (IVua 10:5; IISu 9:4). Những lời nói khôn ngoan của Sa-lô-môn và sự giàu có của vương quốc ông là quá lớn so với bà mặc dù chính bà không phải là một người nghèo túng! Bà đem cho Sa-lô-môn những món quà đắt tiền, bao gồm những vật phẩm đa dạng và 120 ta-lâng vàng (bốn tấn rưỡi). Sa-lô-môn đáp lại bằng cách ban cho bà bất cứ những gì bà xin vì lòng mến khách của mình.


Nữ vương không thể nào kiềm chế được mình. Bà công khai nói rằng Sa-lô-môn và những đầy tớ của ông là những người hạnh phước nhất trên thế gian, mặc dầu sau đó trong Truyền-đạo chính Sa-lô-môn đã viết “Đồng hư không, thảy hư không!”.

Chúng ta tự hỏi liệu các quần thần và tôi tớ của Sa-lô-môn có dần dần quen với tất cả sự phù hoa và đời sống vương giả, đặc biệt là sự phô trương của cải lòe loẹt. Thậm chí Sa-lô-môn còn viết “Thà có ít của cải mà kính sợ Đức Giê-hô-va, còn hơn là tài sản nhiều mà bối rối cặp theo. Thà một món rau mà thương yêu nhau, còn hơn ăn bò mập béo với sự ganh tỵ cặp theo” (Ch 15:16-17). Những vị khách dùng bữa sẽ thấy thú vị khi nghe những lời khôn ngoan của Sa-lô-môn nhưng các quần thần và tôi tớ của ông đã nghe chúng trước đó. Một trong những sự nguy hiểm khi sống trong hoàn cảnh như vậy là chúng ta bắt đầu cho mọi thứ mình có là điều dĩ nhiên, và lâu dần không còn biết đến giá trị của chúng nữa. Điều này có thể áp dụng cho cả của cải thuộc linh và của cải vật chất.


Khi nữ hoàng nói “Đáng ngợi khen thay Giê-hô-va Đức Chúa Trời của vua” không phải là bà đang xác nhận đức tin của bà nơi Đức Giê-hô-va. Những người thời đó tin vào “vị thần của vùng đất”. Mỗi quốc gia có một hay nhiều vị thần riêng (IVua 20:28;) và khi bạn mất nước, bạn mất luôn vị thần của mình (ISa 26:19). Một khi nữ vương trở về nhà, bà sẽ tiếp tục thờ lạy vị thần của xứ mình mặc dầu bà đã được nhìn xem sự vinh hiển của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và nghe biết sự khôn ngoan của Ngài. Chúa Giê-xu không khen ngợi nữ vương Sê-ba vì niềm tin của bà mà vì bà đã cố gắng vượt qua 1.500 dặm để nghe về sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, trong khi con trai của Đức Chúa Trời, một người “tôn trọng hơn Sa-lô-môn”, đang ở giữa dân Do-thái (Mat 12:39-42). Thật đáng tiếc khi bỏ lỡ cơ hội!


Thật thú vị khi so sánh chi tiết về cuộc gặp gỡ giữa Sa-lô-môn và nữ vương nước Sê-ba với chi tiết về cuộc xử kiện đầu tiên của Sa-lô-môn với hai người dâm phụ (IVua 3:16). Họ là những người dân thường còn bà là một nữ hoàng, họ có rất ít còn bà rất giàu có. Nhưng cửa của nhà vua vẫn mở cho cả ba người và ông cố gắng giúp đỡ họ. Dĩ nhiên, nữ vương Sê-ba ký kết hiệp ước thương mại với Sa-lô-môn, hưng không có bằng chứng nào cho thấy bà tin vào Đức Chúa Trời sống và có thật.


Mạng lưới thương mại mà Sa-lô-môn thiết lập chắc chắn giúp ích rất nhiều cho nền kinh tế của đất nước và thu hút nhiều vị khách có ảnh hưởng tới Giê-ru-sa-lem, hưng liệu điều này có giúp ích cho nhà vua và người dân của ông đến gần với Đức Chúa Trời? Y-sơ-ra-ên không cần phải tách biệt khỏi cộng đồng các nước vì nó là ánh sáng cho dân ngoại, nhưng Y-sơ-ra-ên phải tránh xa khỏi tội lỗi của những nước không tin vào Đức Chúa Trời hằng sống và có thật. Bên cạnh dòng chảy của hàng hóa ngoại nhập là dòng chảy của nhiều ý tưởng ngoại lai, bao gồm quan niệm về tôn giáo và sự thờ phượng; cuối cùng chính Sa-lô-môn, bị ảnh hưởng những người vợ ngoại bang, đã không chống nổi lại thần tượng (IVua 11:1).

-IVua 10:1-13; xem giải nghĩa IVua 9:25.


6. Sa-lô-môn sống trong sự huy hoàng (IVua 10:14-29) (IISu 9:13-28)

Khi Đức Chúa Trời hứa ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan, Ngài cũng hứa ban cho ông sự giàu có và vinh hiển (IVua 3:13). Việc sở hữu hay thừa kế của cải không phải là tội lỗi. Áp-ra-ham là người rất giàu có và ông đã để lại toàn bộ tài sản của mình cho con trai ông là Y-sác (Sa 24:34-36). Kiếm tiền một cách chân chính không phải là tội, nhưng yêu mến tiền bạc và sống chỉ để đạt được sự giàu có là tội lỗi (ITi 6:7-10).


Chính Sa-lô-môn đã viết, “Kẻ tham tiền bạc chẳng hề chán lắc tiền bạc; kẻ ham của cải chẳng hề chán về huê lợi. Điều đó cũng là sự hư không” (Tr 5:10). Một người nào đó đã khôn ngoan nói rằng, “Có những thứ tiền có thể mua được thì thật tốt, iễn là bạn không đánh mất những điều tiền không thể mua được.”


Huê lợi hàng năm của Sa-lô-môn là 666 ta-lâng vàng, khoảng 25 tấn. Nó đến từ nhiều nguồn: (1) thuế, (2) lệ phí cầu đường, thuế quan và thuế thân, (3) thương mại, (4) vật cống từ các nước chư hầu, và (5) quà tặng. Việc ông sử dụng nhân công cũng là một hình thức thu lợi. Phải tiêu tốn rất nhiều tiền để thoả mãn cách sống huy hoàng của ông, và sau khi Sa-lô-môn chết, dân Y-sơ-ra-ên đã phản đối gánh nặng mà họ đang mang và yêu cầu được giảm nhẹ gánh nặng (IVua 12:1-15).


Tại sao Sa-lô-môn lại cần 500 cái khiên được làm bằng 2.525 pao vàng? Tại sao ông lại cần một cái ngai bằng ngà voi phủ vàng? Tại sao ông và những vị khách mời của mình lại chỉ uống từ những cái bình bằng vàng? Ông thu thập hàng ngàn con ngựa và lính kỵ để làm gì? Tại sao ông lại cần 700 bà vợ và 300 cung phi? Trong việc theo đuổi mỗi một mục đích này, Sa-lô-môn đã bất tuân chính lời của Đức Chúa Trời!

Đức Chúa Trời đã cảnh cáo trong (Phuc 17:14-20) rằng vua Y-sơ-ra-ên không nên có nhiều ngựa và không nên đến Ai-cập để mua ngựa, cũng như không nên có nhiều vợ và vàng. Sa-lô-môn không những kiếm được nhiều ngựa nhưng chính ông còn là người buôn ngựa! (Phuc 17:20) cảnh báo nhà vua rằng phải luôn khiêm nhường trước mặt Đức Chúa Trời “và không tự cho mình là tốt hơn anh em mình”. Không khó để tin rằng lòng Sa-lô-môn đang dương dương tự đắc, và sự tự cao luôn luôn dẫn đến sự bại hoại và sa ngã (Ch 16:18).


Vào thời đó và đặc biệt đối với người Do-thái, Sa-lô-môn trở thành một kiểu mẫu của sự giàu có và vinh hiển, chắc chắn có nhiều người ghen tỵ với ông. Nhưng Chúa Giê-xu nói rằng những hoa huệ do Đức Chúa Trời tạo nên còn được mặc đẹp hơn vua Sa-lô-môn ở trong sự vinh hiển của mình (Mat 6:28-30). Vẻ đẹp thật sự đến từ bên trong, từ “con người bề trong giấu ở trong lòng” (IPhi 3:4). Chúng ta càng thêm nhiều của cải trước sự ngưỡng mộ của mọi người, chúng ta càng có ít tài sản và vẻ đẹp thật sự.


Đa-vít có những tiên tri và thầy tế lễ.

Họ là những người cho ông lời khuyên và ngay cả cảnh, quở trách ông, nhưng dường như không ai khuyên răn Sa-lô-môn phải chú ý hơn vào nếp sống của mình thay vì lo việc tích góp của cải. Một câu châm ngôn La-mã nói rằng “Sự giàu có giống như là nước muối, bạn càng uống thì bạn càng khát”.

Henry David Thoreau nói một người là giàu có tỷ lệ với những gì anh ta có thể bỏ qua; và Chúa Giê-xu đã hỏi “Người nào nếu được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì? Vậy thì người lấy chi mà đổi linh hồn mình lại?” (Mat 16:26).





6. NGƯỜI KHÔN NGOAN DẠI DỘT (IVua 11:1-43 IISu 9:29:31)


“Kinh Thánh không bao giờ nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi của những người anh hùng được chép trong đó”, nhà diễn thuyết thiên tài người Anh Alexander Maclaren đã viết. “Kinh Thánh không hề che dấu một điểm khiếm khuyết, một nếp nhăn nào các chân dung những nhân vật được nói đến nhưng Kinh Thánh phơi bày tất cả với sự chính xác tuyệt đối.”1 Sự chân thật đầy cảm hứng này được tìm thấy trong những ghi chép về cuộc đời của vua Sa-lô-môn. Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan tuyệt vời, sự giàu có tột bực, và những cơ hội to lớn, hưng trong tuổi già của mình, ông lại quay mặt với Đức Chúa Trời, có những quyết định ngu dại, và có kết thúc không tốt đẹp gì. “Sự ngu dại của người nào làm cho hư hỏng đường lối mình” (Ch 19:3). Sa-lô-môn đã viết những lời này và chắc hẳn ông tin vào chúng, nhưng ông lại không để ý đến chúng.


Không khó để chúng ta tìm thấy những bước trong tiến trình đi xuống của Sa-lô-môn.


1. Sa-lô-môn bất tuân lời của Đức Chúa Trời (IVua 11:1-8)

Trở lại Ai-cập có lẽ là bước đi đầu tiên của Sa-lô-môn trong việc quay mặt với Đức Chúa Trời. Ông tìm được một cô dâu từ Ai-cập (c.1 IVua 3:1; IVua 9:24) ông mua ngựa và xe ngựa tại đó (IVua 4:26-28; IVua 10:26-29). Cả hai hành động này phơi bày sự thiếu lòng tin của Sa-lô-môn. Ông cưới công chúa Ai-cập nhằm để xây dựng một hiệp ước hòa bình với cha nàng, và ông muốn nhiều ngựa và xe ngựa vì ông không thật sự tin rằng Đức Giê-hô-va có thể bảo vệ vương quốc. Những gì Đa-vít cha ông đã viết không có trong quan điểm của Sa-lô-môn: “Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa; nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi” (Thi 20:7). Những cuộc hôn nhân cùng với việc thu thập ngựa và xe ngựa của ông là những sự không vâng lời trực tiếp với mạng lệnh rõ ràng của Đức Chúa Trời (Phuc 17:16-17; Phuc 7:1-6; Xu 23:31-34; Xu 34:15-16; Gios 23:12-13). Gương xấu của Sa-lô-môn trong việc chọn vợ từ các nước thờ thần tượng đã tạo ra vấn đề cho E-xơ-ra và Nê-hê-mi hơn bốn thế kỷ sau (Exo 9:2; Exo 10:2-3; Ne 3:23-27).


Trong những cụm từ về những “Địa danh trong Kinh Thánh”, Ai-cập tượng trưng cho cảnh nô lệ của thế gian. Đồng vắng là biểu tượng của sự thiếu lòng tin của con dân Đức Chúa Trời, giống như dân Y-sơ-ra-ên, họ đi lầm đường và không nắm bắt được gia tài của họ trong Đấng Christ.

Vùng đất hứa tượng trưng cho sự yên nghỉ mà Đức Chúa Trời dành cho những ai tin vào Đấng Christ, ầu phục Ngài, và tiến về phía trước trong cuộc chiến với lòng tin cậy. Tất cả những người tin Chúa đã được cứu khỏi thế gian đối nghịch với Đức Chúa Trời (Ga 1:4), và tất cả họ được thúc đẩy để nhận lấy gia tài trong Đấng Christ bây giờ và không còn đi lòng vòng không mục đích trong đời sống nữa. Không một Cơ-đốc nhân nào phải tin vào thế gian vì bất cứ điều gì, bởi vì chúng ta đã nhận lấy mọi phước lành mà chúng ta cần từ Đấng Christ (Eph 1:3; IIPhi 1:1-4). Chúng ta đang ở trong thế giới vật chất, không phải trong thế giới tâm linh (Gi 17:14:19), là tất cả những nhu cầu của chúng ta được Cha chúng ta ở trên trời đáp ứng (Mat 6:11; Phi 4:19).


Sự nguy hiểm của việc cưới những người không tin Chúa và thờ thần tượng được giải thích rõ ràng trong câu 2, là một trích dẫn từ (Phuc 7:4 “chúng nó hẳn sẽ quyến dụ lòng các ngươi hướng theo các thần chúng nó.” Đó là những điều chính xác xảy ra với Sa-lô-môn (c.3,4,9). Dân Am-môn và Mô-áp là hậu tự của Lót, cháu trai của Áp-ra-ham (Sa 19:30). Dân Am-môn thờ thần Mô-lóc gớm ghiếc và dâng con trẻ của họ trên bàn thờ của thần này (Le 18:21; Le 20:1-5; Gie 7:29-34; Exo 16:20-22). Kê-móc là thần chính của dân Mô-áp, Át-tạt-tê là nữ thần của người Ty-rơ và Si-đôn. Là nữ thần của sự sinh sản, việc thờ phượng bà bao gồm cả “sự mại dâm hợp pháp”, có các đền thờ mại dâm của nam và nữ. Sự thờ phượng này là một sự bẩn thỉu không thể tả xiết. (Phuc 23:1-8; IVua 14:24; IVua 15:12; IVua 22:46). Người Ba-by-lôn cũng thờ phượng nữ thần này và gọi là Ishtar.


Sa-lô-môn kêu gọi dân sự hãy có “lòng trọn lành đối với Đức Chúa Trời” (IVua 8:61), có nghĩa là hoàn toàn đầu phục một mình Đức Chúa Trời; nhưng chính lòng ông lại không trọn lành với Đức Chúa Trời (c.4). Sa-lô-môn không hoàn toàn từ bỏ Đức Giê-hô-va nhưng biến Ngài trở thành một trong những thần mà ông thờ phượng (IVua 9:25). Đây là sự vi phạm trực tiếp hai điều răn đầu tiên trong mười điều răn được Đức Chúa Trời đưa cho Môi-se trên núi Si-na-i (Xu 20:1-6). Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Chúa duy nhất, Đức Chúa Trời sống và có thật, Ngài sẽ không bị đặt ngang vị trí với những thần tượng hư không của những quốc gia khác. “Vì ta là Đức Chúa Trời, chẳng có Chúa nào khác; ta là Đức Chúa Trời, chẳng có ai giống như ta” (Es 46:3).


Sự thỏa hiệp của Sa-lô-môn không phải là việc thình lình, vì ông từ từ đi xuống trong việc thờ thần tượng (Thi 1:1). Ban đầu ông cho phép các bà vợ của mình thờ lạy thần của họ; sau đó ông chịu đựng việc thờ thần tượng của họ và thậm chí xây điện thờ cho họ. Cuối cùng ông bắt đầu tham dự vào những buổi thờ lạy thần tượng với các bà vợ của mình.

Tình yêu xác thịt ông dành cho các bà vợ của mình hấp dẫn hơn tình yêu thuộc linh ông dành cho Đức Chúa Trời, Chúa của Y-sơ-ra-ên. Ông là người có lòng bất nhất và bất tuân. Những người hai lòng và không kiên định thì nguy hiểm (Gia 1:8). Làm sao Y-sơ-ra-ên có thể là ánh sáng cho những nước ngoại bang khi vua của họ công khai thờ phượng và ủng hộ những thần tượng của các nước này? Ông thường dâng của tế lễ và đốt hương chỉ cho một mình Giê-hô-va Đức Chúa Trời, nhưng khi về già, ông bắt đầu thờ lạy những thần tượng hư không mà các bà vợ mình thờ phượng (IVua 8:25; IVua 11:8).


Khi bạn đọc sách Truyền-đạo, bạn khám phá ra rằng khi lòng Sa-lô-môn bắt đầu xây bỏ Đức Chúa Trời, ông trải qua giai đoạn cay đắng và tuyệt vọng. Ông thậm chí tự hỏi rằng cuộc đời ông có đáng để sống. Không có sự bước đi gần gũi với Đức Chúa Trời, tâm hồn ông trống rỗng, vì thế ông tìm kiếm niềm vui, tham gia nhiều vụ mạo hiểm trong thương mại với các nước, và tiến hành nhiều chương trình xây dựng đồ sộ. Tuy nhiên, ông vẫn không tìm thấy sự khoái lạc trong cuộc sống. Trong Truyền-đạo có ít nhất 38 lần ông viết “Hư không của sự hư không”.


Tình yêu ông dành cho những giá trị tâm linh bị thay thế bởi một tình yêu của thú vui xác thịt và của cải vật chất, và dần dần lòng ông xây bỏ Đức Chúa Trời. Đầu tiên ông làm bạn với thế gian (Gia 4:4), sau đó bị ô uế bởi thế gian (Gia 1:27), rồi ông bước vào sự yêu mến thế gian (IGi 2:15-17) và làm theo thế gian (Ro 12:2). Đáng buồn thay, kết quả của sự sa sút này có thể dẫn đến việc bị kết tội với thế gian và mất tất cả (ICo 11:32). Đó là điều đã xảy ra với Lót (Sa 13:10-13; Sa 14:11-12; Sa 19:1), và nó có thể xảy ra với những người tin Chúa ngày nay.


2. Sa-lô-môn phớt lờ lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời (IVua 11:9-13)

Sự vinh hiển của hoàng gia Sa-lô-môn không làm Đức Chúa Trời ấn tượng, vì Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng (ISa 16:7) và dò xét tấm lòng (ISu 28:9 Gie 17:10 Kh 2:23). Chính Sa-lô-môn đã viết “Khá cẩn thận giữ tấm lòng của con hơn hết, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Ch 4:23), nhưng trong tuổi già của mình, ấm lòng của chính ông lại cách xa Đức Chúa Trời.

Từ khi William Harvey khám phá ra vòng tuần hoàn của máu vào thế kỷ 17, mọi người biết rằng trung tâm sự sống của cơ thể con người là trái tim. Nhưng những gì đúng với tự nhiên cũng đúng với tinh thần và linh hồn. Chúng ta phải yêu mến Đức Chúa Trời với tất cả tấm lòng của mình (Phuc 6:5) và tiếp nhận lời Ngài vào lòng chúng ta (Ch 7:1-3). Đức Chúa Trời muốn việc chúng ta làm theo ý muốn Ngài xuất phát từ tấm lòng (Eph 6:60). Nếu lòng chúng ta có điều sai trái trước mặt Đức Chúa Trời, cả cuộc đời chúng ta sẽ sai trật cho dù chúng ta có thành công đến đâu trước mặt người khác.


Khi Sa-lô-môn sanh ra, ông rất được Đức Chúa Trời yêu mến và được có một cái tên đặc biệt “Giê-đi-đia” có nghĩa là “được Đức Chúa Trời yêu thương” (IISa 12:24-25). Nhưng bây giờ chúng ta đọc rằng Đức Chúa Trời nổi giận với Sa-lô-môn vì tấm lòng của nhà vua đã xây bỏ Đức Chúa Trời. Sa-lô-môn đang quay lưng lại với những phước lành phong phú mà Đức Chúa Trời ban cho ông và phạm tội chống lại Đức Chúa Trời là nguồn của sự sáng.

Đầu tiên, Đức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn một người cha, mặc dù cha Sa-lô-môn không hoàn hảo (vì người nào có thể hoàn hảo được?) nhưng ông đã dâng hiến cho Đức Chúa Trời một tấm lòng chân thật. Đa-vít đã cầu nguyện cho Sa-lô-môn và khích lệ con mình làm theo ý muốn Đức Chúa Trời và xây dựng đền thờ. Đức Chúa Trời đã hiện ra với Sa-lô-môn hai lần (IVua 3:5 IVua 9:2) và nhắc ông về những điều kiện trong giao ước Ngài đã lập với cha ông (IISa 7:1-29). Chắc chắn Sa-lô-môn biết những điều kiện của giao-ước trong (Phuc 28:1-30:20) vì ông đã nói đến chúng trong lời cầu nguyện của mình khi cung hiến đền thờ.


Chúng ta không biết Đức Chúa Trời đem lời cảnh cáo này tới Sa-lô-môn bằng cách nào;có lẽ thông qua một vị tiên tri. Nhưng Đức Chúa Trời cảnh báo Sa-lô-môn rằng sau khi ông qua đời, vương quốc sẽ bị phân chia và con trai ông sẽ chỉ trị vì chi phái Giu-đa và Bên-gia-min. Mười chi phái còn lại sẽ trở thành vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên. Từ “xé” trong câu 11 có liên hệ với “lời giảng bằng hành động” của tiên tri A-hi-gia khi ông xé áo tơi của Giê-rô-bô-am thành 12 miếng (c.29). Sự phân chia vương quốc này không phải là công việc hoà bình của một nhà ngoại giao nhưng là công việc đau khổ của một Đức Chúa Trời đang nổi giận.


Nếu không phải vì giao-ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít và tình yêu Ngài dành cho Giê-ru-sa-lem, thành phố nơi đền thờ của Ngài ở tại đó, Đức Chúa Trời hẳn đã lấy toàn bộ vương quốc khỏi con cháu Sa-lô-môn. Đức Chúa Trời hứa rằng vương triều nhà Đa-vít sẽ không kết thúc, và vì thế Ngài giữ một trong những hậu tự của Đa-vít trên ngôi ở Giê-ru-sa-lem cho đến khi thành phố bị Ba-by-lôn tấn công và hủy diệt. Dĩ nhiên, sự hoàn tất sau cùng của lời hứa giao ước là trong Chúa Giê-xu Christ (Lu 1:32-33,69; Cong 2:29-36; Thi 89:34-37). Danh của Đức Chúa Trời ở trên đền thờ (IVua 8:43) vì thế Ngài bảo tồn Giê-ru-sa-lem; vì giao-ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít Ngài duy trì vương triều nhà Đa-vít. Đó chính là ân điển của Đức Chúa Trời.


Không có bằng chứng nào cho thấy Sa-lô-môn lưu tâm đến lời cảnh cáo này. Nếu ông nhớ lời cầu nguyện cung hiến của mình, có lẽ ông đã hướng về đền thờ và xưng nhận với Đức Chúa Trời tội lỗi của mình.


3. Sa-lô-môn chống lại kỷ luật của Đức Chúa Trời (IVua 11:14-25)

Những cuộc hôn nhân của Sa-lô-môn là những sự bảo đảm hòa bình của ông với các nước lân bang, và trong đời trị vì của Sa-lô-môn, đất nước được thái bình. Nhưng bây giờ hệ thống của ông bắt đầu tan rã, vì Đức Chúa Trời dấy lên “những kẻ thù nghịch” chống lại Sa-lô-môn (c.14,23,25) và dùng họ để thi hành kỷ luật với nhà vua nổi loạn. Việc Đức Chúa Trời sẽ kỷ luật người thừa kế bất tuân của Đa-vít là một phần trong giao-ước (IISa 7:14-15) và được tái khẳng định với Sa-lô-môn khi Đức Chúa Trời nói chuyện với ông ở Ga-ba-ôn (IVua 3:14).

Điều này được nhắc lại một lần nữa khi Sa-lô-môn xây dựng đền thờ (IVua 6:11-13) và sau khi đền thờ được cung hiến (IVua 9:3-9). Cũng xem trong (ISu 22:10; Thi 89:30-37). Nhà vua chắc chắn có thể đã không biết về sự nguy hiểm của việc không vâng lời Đức Chúa Trời. Ba kẻ thù của Sa-lô-môn được nói đến riêng biệt từng người.


Ha-đát người Ê-đôm (IVua 10:14-22).

Sa-lô-môn có những người phụ nữ Ê-đôm sống trong hậu cung (c.1), nhưng điều này không ngăn Ha-đát khỏi việc dấy loạn Y-sơ-ra-ên. Đa-vít và Giô-áp đã có chiến thắng vang dội trước dân Ê-đôm và đã tiêu diệt những người nam (IISa 8:13-14; ISu 18:11-13 xem tựa đề Thi 60:1-12), nhưng Ha-đát, một trong những hoàng tử Ê-đôm, đã chạy trốn cùng với những người lãnh đạo của cha mình và tìm nơi ẩn náu tại Pha-ra-ôn ở Ai-cập. Đây ắt hẳn là một Pha-ra-ôn mới, người thấy không cần thiết phải công nhận hiệp ước hôn nhân giữa Sa-lô-môn với công chúa Ai-cập. Hơn nữa, không những ông cấp cho Ha-đát thức ăn và chỗ ở, ông còn gả em vợ mình cho người, và bởi người này Ha-đát có một đứa con trai. Điều này có nghĩa rằng Ai-cập và Ê-đôm bây giờ liên minh với nhau chống lại Y-sơ-ra-ên.


Sự qua đời của vua Đa-vít và tổng tư lệnh Giô-áp có nghĩa rằng Ha-đát và đồng bọn của hắn có thể trở về Ê-đôm an toàn. Tại đây Ha-đát lên kế hoạch làm nước mình vững mạnh và chỉ huy một loạt những đợt tấn công chống lại Y-sơ-ra-ên. Ha-đát biết rằng mình không thể nào tiếp quản vương quốc của Sa-lô-môn, nhưng Đức Chúa Trời dùng ông để quấy rối Sa-lô-môn và quân đội của mình trong đợt tấn công biên giới. Sự quấy rối liên tiếp từ phía nam này có thể nhắc nhở Sa-lô-môn rằng Đức Chúa Trời đang kỷ luật ông và kêu gọi ông quay trở về với đời sống của sự vâng phục.


Rê-xôn của Đa-mách (IVua 10:23-25).

Khi Đa-vít đánh bại quân Sy-ri ở Xô-ba (IISa 8:5-8), một người trẻ tuổi tên là Rê-xôn chạy đến Đa-mách cùng với nhóm người của mình và tự xưng mình là vua. Đa-vít rõ ràng đã công nhận người này là vua, và Rê-xôn ắt hẳn là một người có năng lực vì sức mạnh của quân Sy-ri gia tăng dưới sự lãnh đạo của ông. Nhưng Rê-xôn liên kết với Ha-đát, người lãnh đạo Ê-đôm, bắt đầu quấy rối Sa-lô-môn từ phía bắc. Rê-xôn thành lập một vương triều gồm những người thống trị vững mạnh trong vùng (được biết đến như là A-ram). Tất cả bọn họ gây rắc rối cho vua Giu-đa (IVua 15:18-20; IVua 20:1; IIVua 8:1-13:25; IIVua 15:1-16:20) khắp nơi. Rê-xin là vua của A-ram (Sy-ri) trong thời tiên tri Ê-sai (Es 7:1-8; Es 8:6; Es 9:11).


4. Sa-lô-môn chống đối đầy tớ của Đức Chúa Trời (IVua 11:26-43) (IISu 9:29-31)

Ha-đát tấn công Sa-lô-môn từ phía nam và Rê-xôn từ phía bắc, nhưng Giê-rô-bô-am là một trong những người lãnh đạo của Sa-lô-môn, ông đe dọa nhà vua từ trong hàng ngũ những quan trưởng. Ông là người Ép-ra-im có tài quản lý và được Sa-lô-môn chú ý. Vì Giê-rô-bô-am thuộc chi phái Ép-ra-im, Sa-lô-môn đặt ông cai quản những nhân công người Do-thái từ nhà Giô-sép, ấy là chi phái Ép-ra-im và Ma-na-se.

Vào lúc bấy giờ, đất nước đã trở nên mệt mỏi bởi vì những kế hoạch xây dựng của Sa-lô-môn và đặc biệt vì cái cách mà ông bắt ép những người Do-thái làm công việc này (IVua 5:13-18), Giê-rô-bô-am trẻ tuổi có lời giới thiệu với phong trào ngầm chống lại nhà vua. Sự nhận biết này, cộng với sự thật rằng Sa-lô-môn đã đặt ông đứng đầu những chi phái phía bắc sẽ giúp đỡ ông khi thời cơ thành lập vương quốc riêng của mười chi phái phía bắc đến.


Một ngày nọ trong khi làm việc, Giê-rô-bô-am bị tiên tri A-hi-gia từ Si-lô chặn lại. Vị tiên tri này có thông điệp từ Đức Chúa Trời cho Giê-rô-bô-am. Trong đời trị vì của Sa-lô-môn, các vị tiên tri không có vai trò nổi bật, nhưng họ sẽ trở nên rất quan trọng từ đây cho đến khi vương quốc Giu-đa sụp đổ. Bất cứ khi nào những nhà vua hay những thầy tế lễ không vâng lời Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời thường phái một vị tiên tri đến cảnh cáo họ. Tiên tri là cũng nói trước những điều sẽ xảy đến nhưng họ không phải như “thầy bói”. Họ mang đến thông điệp từ Đức Chúa Trời vào thời điểm đó, và nếu họ tiết lộ bất cứ điều gì về tương lai, ó giúp họ kêu gọi dân sự trở về trong sự vâng phục ý muốn Đức Chúa Trời.


A-hi-gia thể hiện thông điệp của mình bằng cách xé áo tơi của Giê-rô-bô-am thành 12 miếng đưa cho ông 10 miếng. Đây là cách Đức Chúa Trời phán Giê-rô-bô-am sẽ trở thành vua của 10 chi phái phía bắc Y-sơ-ra-ên.A-hi-gia giải thích tại sao hai chi phái lại giành riêng cho nhà Đa-vít và tại sao con trai Sa-lô-môn lại chỉ được ban cho hai chi phái này. Sa-lô-môn đã phạm tội trọng vì đã đem sự thờ thần tượng vào trong đất nước, một tội mà cuối cùng sẽ dẫn đến sự hủy diệt đất nước và dẫn họ vào sự lưu đày.


Chính vì lợi ích của Đa-vít mà Đức Chúa Trời bảo vệ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Sa-lô-môn không giữ những điều kiện trong giao ước mà Đức Chúa Trời lập với cha ông (IISa 7:1-29), nhưng Đức Chúa Trời sẽ thành tín với Lời của Ngài (IISa 7:11-13). Đèn nhà Đa-vít sẽ sáng luôn cho đến khi nền quân chủ của người Do Thái kết thúc với sự sụp đổ của Sê-đê-kia (IIVua 25:1-30; IVua 11:36; IVua 15:4; IIVua 8:19; IIVua 21:7; Thi 132:17).


A-hi-gia kết thúc thông điệp của mình bằng việc cảnh báo Giê-rô-bô-am rằng những gì xảy ra cho ông hoàn toàn là ân điển của Đức Chúa Trời. Ông nên nghiêm túc nhận lãnh sự kêu gọi của mình và làm theo lời của Đức Chúa Trời, nếu không Ngài sẽ thi hành kỷ luật với ông như Ngài đã làm với Sa-lô-môn. Đức Chúa Trời sẽ ban cho Giê-rô-bô-am một vương triều bền vững nếu ông tuân theo luật pháp của Ngài.

Tuy nhiên, vương triều đó sẽ không thay thế vương triều của Đa-vít ở Giu-đa, vì từ vương triều nhà Đa-vít Đấng Mê-si-a sẽ đến và hoàn thành những lời hứa trong giao ước. Đức Chúa Trời hạ thấp những người kế vị Đa-vít bằng việc chỉ cho họ hai chi phái, nhưng Ngài sẽ không hạ thấp họ mãi mãi. Sẽ có một sự hàn gắn về việc phân chia đất nước khi Đấng Mê-si-a đến (Gie 30:9; Exe 34:23; Exe 37:15-28; Os 3:5; Am 9:11-12), và sau đó nhà vua sẽ trị vì toàn đất nước.


Vì chỉ có A-hi-gia và Giê-rô-bô-am ngoài đồng khi thông điệp được nói ra (c.29), chúng ta không biết những lời kêu gọi đặc biệt dành cho Giê-rô-bô-am đến tai Sa-lô-môn như thế nào. Giê-rô-bô-am có thể đã kể cho một vài người bạn thân cận của mình, những người thất vọng vì cách nhà vua đối đãi với dân sự, hay có lẽ Đức Chúa Trời cho phép A-hi-gia gửi thông điệp này đến Sa-lô-môn. Thông điệp này là những lời khiển trách và kỷ luật cuối cùng của Đức Chúa Trời dành cho vị vua bướng bỉnh.

Ngài có thể làm gì hơn để thức tỉnh Sa-lô-môn ngoài việc lấy đi phần lớn vương quốc của ông khỏi người kế vị mình? Sa-lô-môn lẽ ra đã nên ăn năn hối lỗi và tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời, nhưng thay vì vậy ông tìm cách giết địch thủ của mình. Giê-rô-bô-am chạy đến Ai-cập tìm sự an toàn. Vị Pha-ra-ôn mới là Si-sắc không hề mang ơn với nhà Đa-vít.


Sa-lô-môn đã từ bỏ Đức Chúa Trời (c.33 IVua 9:9), và đây sẽ là tội lặp đi lặp lại của nhiều vị vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (IVua 18:18; IVua 19:10,14; IIVua 17:16; IIVua 21:22; IIVua 22:17). Tội thờ hình tượng làm tổn thương niềm tin trong chính lòng của người Y-sơ-ra-ên, Đức Giê-hô-va là Đấng sống và có thật, là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.


Sa-lô-môn trị vì từ năm 971 đến 931.

Ông có trở về cùng Đức Chúa Trời trước khi ông qua đời không? Những nhà giải kinh không thống nhất với nhau về những lời giải thích và câu trả lời của mình. Chắc chắn lời khuyên của ông trong (Tr 12:13-14)chỉ ra hướng ăn năn và phục hồi, chúng ta tin rằng điều này là như vậy. Những thành tựu trong suốt cuộc đời của ông được chép không những trong I Các-vua và II Sử-ký, nhưng còn trong một số sách chúng ta không có, bao gồm Công việc của Sa-lô-môn ( có thể là sổ ghi chép chính thức), sách do tiên tri Na-than viết, ùng với những tài liệu do A-hi-gia và Y-đô chép. Sa-lô-môn là vị vua Do-thái đầu tiên mà sự qua đời của ông được ghi lại bằng “những lời trang trọng” trong câu 41-43 và (IISu 9:29-31; IISu 9:29; IISu 12:15; IISu 26:22; IISu 32:32).


Giống như vua Sau-lơ, Sa-lô-môn được ban cho nhiều cơ hội tuyệt vời nhưng không tận dụng được hết. Ông biết rất nhiều về loài vật, cây cối, đem lại sự giàu có cho đất nước, và xây dựng nhiều công trình kiến trúc, nhưng ông lại thiếu sót trong việc chia sẻ những hiểu biết về Đức Chúa Trời cho những người ngoại đến thăm ngai vàng của ông. Giống như cha mình Đa-vít, Sa-lô-môn thích thú với phụ nữ, hưng khi Sa-lô-môn phạm tội, ông không có tấm lòng thành khẩn và tâm hồn tan vỡ ăn năn của Đa-vít. Sự huy hoàng của vương quốc không phải là sự vinh hiển của Đức Chúa Trời là những gì chi phối cuộc sống của Sa-lô-môn.


Ông để lại đền thờ của Đức Chúa Trời, cung điện hoàng gia, một đất nước trong cảnh nô lệ, một nền kinh tế gặp khó khăn, cùng với các sách Châm-ngôn, Truyền-đạo, và Thi-thiên của Sa-lô-môn. Đất nước được thống nhất trong đời trị vì của ông, hưng có một sự rạn nứt trong đất nước và cuối cùng nó phơi bày ra trong sự nổi loạn và chia rẽ công khai. Sự thèm khát của cải và thành công của Sa-lô-môn đã đặt gánh nặng về tài chính lên vương quốc, và sau khi ông qua đời dân sự đã nổi dậy.


Nhưng dân sự còn làm điều tệ hơn: họ theo gương xấu của Sa-lô-môn và bắt đầu thờ lạy những vị thần của các nước láng giềng. Hơn bất cứ tội nào khác tội này đã dẫn đến sự sụp đổ của nước Do-thái. “Sa-lô-môn nhập khẩu các bà vợ”, William Sanford LaSor viết, “các bà vợ nhập khẩu các vị thần; Sa-lô-môn khoan thứ, ủng hộ, xây dựng nơi thờ phượng cho những thần tượng này. Bạn có thể mong đợi dân sự làm điều gì khác ngoài việc bắt chước làm theo?”.


Nguyện xin chúng ta luôn thật thà và trung thành với Chúa Giê-xu Christ, người “trổi hơn Sa-lô-môn”, người đã chết cho chúng ta, sống vì chúng ta và một ngày kia sẽ trở lại với chúng ta!





7. ÔNG TA SẼ KHÔNG NGHE (IVua 12:1-24; IVua 14:21-23; IISu 10:1-12:16)


“Ta cũng ghét mọi công lao ta đã làm dưới mặt trời”, Sa-lô-môn viết trong Truyền-đạo, “vì phải để lại cho người sau mình. Vả, ai biết rằng người ấy sẽ khôn ngoan hay làn ngu dại?” (Tr 2:18-19).


Người kế vị của Sa-lô-môn là con trai ông Rô-bô-am, người này thỉnh thoảng mới có được một quyết định khôn ngoan còn phần lớn thời gian là một người cai trị xuẩn ngốc. Bắt đầu đời trị vì của Rô-bô-am, vì một quyết định ích kỷ của mình ông đã làm cho đất nước bị phân chia. Trong năm thứ tư đời trị vì của mình, Rô-bô-am quyết định xây bỏ Đức Chúa Trời và thờ lạy thần tượng, điều này đã mang lại cho ông sự trừng phạt của Đức Chúa Trời. Đời trị vì của ông khó có thể nói là thành công.


Theo (IVua 14:21), Rô-bô-am được 41 tuổi khi ông bắt đầu lên ngôi. Vì Sa-lô-môn trị vì trong 40 năm (IVua 11:42) nên có nghĩa là Rô-bô-am được sinh ra trước khi Sa-lô-môn trở thành vua. Nhưng một đoạn trích Kinh Thánh tương tự cho chúng ta biết rằng mẹ của Rô-bô-am là một người phụ nữ Am-môn tên là Na-a-ma,2 như vậy có nghĩa rằng công chúa Ai-cập mà Sa-lô-môn cưới không phải là người vợ đầu tiên của ông (IVua 3:1). Cha của Sa-lô-môn là Đa-vít đã cưới một công chúa nước Ghê-su-rơ, một quốc gia ở Sy-ri, bà là mẹ của Áp-sa-lôm (IISa 3:3). Đây chắc chắn là một nước cờ chính trị của Đa-vít, vì thế cuộc hôn nhân của Sa-lô-môn với một người phụ nữ Am-môn có lẽ không làm Đa-vít phiền lòng trong những năm sau cùng của ông. Trong bản Kinh Thánh tiếng Hê-bơ-rơ, đoạn (He 14:21 ghi rằng “Na-a-ma người Am-môn” (Naamah the Ammonite), điều nầy cho thấy bà được phân biệt với những người phụ nữ Am-môn khác trong cung. Điều nầy bao gồm cả những bà vợ người Am-môn của Sa-lô-môn và những cung phi. Khi trở thành vua, Rô-bô-am được thừa hưởng những người này.


Những điều mà cuộc sống đem lại cho chúng ta phụ thuộc vào những điều có ở nơi chúng ta. Trong suốt 17 năm trị vì của Rô-bô-am, cách mà ông phản ứng lại với mọi tình huống cho thấy ông thật sự là loại người nào. Có ít nhất 4 đặc điểm nổi bật trong đời trị vì ngắn ngủi của ông.


1. Một vị vua kiêu ngạo (IVua 12:1-17) (IISu 10:1-19)

Alexander Maclaren gọi chi tiết này là “một câu chuyện đáng thương của sự khờ dại và kiêu ngạo,” và ông đã đúng. Câu chuyện cho thấy rằng, dù cho Rô-bô-am có những tài năng nào đi nữa, ông vẫn không có tài liên kết được dân sự và thấu hiểu nhu cầu của họ. Đa-vít là một vị vua yêu dân và liều cả mạng sống mình vì hạnh phúc của họ. Sa-lô-môn là một vị vua không những không phục vụ dân nhưng còn sử dụng họ để thỏa mãn những mong ước của mình. Rô-bô-am là một vị vua phớt lờ những bài học trong quá khứ và làm ngơ trước những tiếng kêu than của dân sự. Ông không đủ tư cách để quản trị.


Hội chúng tại Si-chem (IVua 12:1-3; IISu 10:1-3). Sa-lô-môn ắt hẳn đã thông báo rõ ràng rằng Rô-bô-am là vị vua kế tiếp, nhưng vẫn cần thiết cho dân sự xác nhận sự chọn lựa này và bước vào trong giao ước với Đức Chúa Trời và nhà vua. Điều này đã được làm khi Sau-lơ (ISa 10:17), Đa-vít (IISa 2:4; IISa 5:1) và Sa-lô-môn (IVua 1:28) trở thành vua. Rô-bô-am và người của ông chọn Si-chem là nơi hội họp, Giê-rô-bô-am cùng những người của vương quốc phía bắc tham dự.

Giê-rô-bô-am đã trở về từ nơi ẩn náu tại Ai-cập và là người lãnh đạo được thừa nhận của 10 chi phái phía bắc. Rô-bô-am biết người này là kẻ thù của mình nhưng ông không dám công khai chống lại Giê-rô-bô-am vì sợ rằng dân sự sẽ xa lánh ông. Chắc chắn Rô-bô-am biết lời tiên tri của A-hi-gia rằng Giê-rô-bô-am sẽ trở thành người lãnh đạo vương quốc phía bắc, nhưng có lẽ ông không nghĩ rằng nó thật sự sẽ xảy ra. Rất có thể ông nghĩ rằng vương triều Đa-vít cùng với sự thịnh vượng của nhà Sa-lô-môn sẽ thuyết phục được dân sự trong ngày này. Ông quên IISa 7:12-14.


Nếu Rô-bô-am chọn Si-chem cho buổi hội họp quan trọng này, đó là một trong những điều sáng suốt nhất mà ông đã làm. Si-chem cách bắc Giê-ru-sa-lem 40 dặm, là một thành phố trung tâm thích hợp cho những buổi hội họp quan trọng như thế này. Nó nằm trong chi phái Ma-na-se, và điều này sẽ làm hài lòng người dân ở 10 chi phái phía bắc. Mộ của Giô-sép tại Si-chem (Gios 24:32), đền tạm đã ở tại Si-lô trong chi phái Ép-ra-im, và tiên tri Sa-mu-ên sinh ra từ vùng núi Ép-ra-im (ISa 1:1). Áp-ra-ham, tổ phụ của dân Do-thái, đã từng ở tại Si-chem (Sa 12:6) và Gia-cốp cũng vậy (Sa 33:18). Giô-suê đã xác quyết giao ước với dân Y-sơ-ra-ên tại Si-chem (Gios 24:1-33), vì thế đối với người Do-thái Si-chem là một nơi rất quan trọng về mặt lịch sử và tôn giáo.


Phái Ép-ra-im và Ma-na-se, con cháu của Giô-sép, tự coi mình là những chi phái hàng đầu trong Y-sơ-ra-ên và đã công khai bày tỏ sự bực mình của mình về sự lãnh đạo của chi phái Giu-đa (Thi 78:60,67). Đa-vít đã chào đón những người tình nguyện từ Ép-ra-im và Ma-na-se vào đội quân của ông (ISu 12:30-31) nhưng trải qua nhiều năm, Ép-ra-im và Ma-na-se đã gieo những hạt giống chia rẽ và bất đồng trong xứ (Cac 8:1; Cac 12:1). Có lẽ Rô-bô-am nghĩ rằng được đội vương miện tại Si-chem sẽ là một bước tiến đến hòa bình và thống nhất giữa miền bắc và miền nam, nhưng hóa ra lại trái ngược.


Lời thỉnh cầu của mười chi phái (IVua 12:4-5; IISu 10:4-5).

Được Giê-rô-bô-am dẫn đầu, những người lãnh đạo những chi phái phía bắc phản đối gánh nặng mà cha Rô-bô-am đã chất trên họ, bao gồm sưu thuế cao và việc lao động cưỡng bức. Khi Sa-lô-môn tổ chức lại đất nước thành 12 tỉnh (IVua 4:7-19), chi phái Giu-đa không có trong đó và chính sách này có lẽ cũng được tiếp tục khi ông thâu nhân công (IVua 5:13-18). Chúng ta có thể dễ dàng hiểu được những chi phái khác phản ứng thế nào trước sự thiên vị rành rành như thế. Tại sao những người làm việc chăm chỉ này phải hy sinh chỉ vì để cho nhà vua có thể được sống trong một tòa nhà lộng lẫy, được tôi tớ hầu hạ, và được tiệc tùng mỗi ngày? Dân sự đang mang một gánh nặng cay đắng và quá mệt mỏi vì nó.


Trở về thời kỳ của các quan xét, khi Y-sơ-ra-ên cầu xin một vị vua, Sa-mu-ên đã cảnh báo họ rằng việc có một vị vua là một điều xa xỉ (ISa 8:10-22). Những điều Sa-mu-ên báo trước với họ đã được Sa-lô-môn thực hiện và sẽ được Rô-bô-am tiếp tục trừ phi ông thay đổi chính sách của mình. Ắt hẳn Rô-bô-am bị bực mình khi Giê-rô-bô-am là người phát ngôn cho 10 chi phái phía bắc, vì chắc chắn ông biết rõ về lời tiên tri của A-hi-gia và cha ông là Sa-lô-môn đã tìm cách giết Giê-rô-bô-am (IVua 11:29-40).

Hơn nữa, Giê-rô-bô-am là người được mến chuộng ở Ai-cập, Rô-bô-am không biết được kế hoạch mà ông và Pha-ra-ôn đã hoạch định cùng nhau. Vương quốc không ở trong tình trạng tốt và chỉ có một mình Rô-bô-am mới có thể cải thiện được tình hình. Những vị khách đến Y-sơ-ra-ên bị kinh hoàng bởi những gì họ thấy, nhưng họ không thể nhận ra sự xuống cấp về đạo đức và tôn giáo đang lẻn vào nền tảng của vương quốc, bắt đầu từ ngai vàng.


Dân sự sẵn sàng phục vụ Rô-bô-am chỉ khi nào ông phục vụ họ và làm cho cuộc sống của họ dễ dàng hơn một chút. Tất cả những người lãnh đạo thật sự vĩ đại của Đức Chúa Trời đều là đầy tớ của dân sự- Môi-se, Giô-suê, Sa-mu-ên, và đặc biệt là Đa-vít_nhưng Sa-lô-môn đã chọn trở thành một người danh tiếng, không phải là một đầy tớ, và Rô-bô-am đang đi theo gương xấu của cha mình. Khi con trai của Đức Chúa Trời đến thế gian, Ngài đến như một đầy tớ (Lu 22:24-27; Phi 2:1-13), và Ngài dạy các môn đồ của mình rằng hãy lãnh đạo bằng cách phục vụ.

Việc Chúa Giê-xu rửa chân cho các môn đồ là một tấm gương về sự phục vụ khiêm nhường (Gi 13:1-17), và Ngài muốn chúng ta noi theo gương của Ngài, không phải theo gương của “những vị lãnh đạo cao quý” trong thế tục này (Mat 20:25-28).


Lời khuyên của những vị cố vấn (IVua 12:6-11; IISu 10:6-11).

Chúng ta hãy tin tưởng Rô-bô-am vì đã yêu cầu có thêm thời gian để suy nghĩ và tìm sự cố vấn. Tuy nhiên, thời gian không giải quyết được vấn đề; vấn đề quan trọng là những người lãnh đạo làm gì với thời gian. Không có bằng chứng nào cho thấy nhà vua đã cầu hỏi Đức Chúa Trời hay tham vấn với một thầy tế lễ thượng phẩm hoặc một vị tiên tri.

Chúng ta có cảm giác rằng ông đã quyết định rồi nhưng ông sẵn sàng thông qua những kiến nghị nhằm làm hài lòng dân sự. Một trong những phẩm chất nơi người lãnh đạo Đa-vít là ông sẵn sàng hạ mình và tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, và sau đó cầu xin sự chúc phước của Đức Chúa Trời trên quyết định của mình.

Những người lãnh đạo cố gắng gây ấn tượng cho dân chúng bằng kỹ năng của mình nhưng không để thời gian tìm kiếm Đức Chúa Trời chỉ chứng minh được một điều rằng họ không biết điều quan trọng nhất trong sự lãnh đạo thuộc linh: họ đứng thứ hai trong quyền chỉ huy.


Trong những quyết định quan trọng, chúng ta nên tìm kiếm những lời khuyên thuộc linh hợp lý (Ch 11:14; Ch 15:22; Ch 24:6) nhưng phải chắc chắn những người cho chúng ta lời khuyên là những người chín chắn, có thể hướng dẫn chúng ta đi đúng đường.

Nhà văn người Anh Frank W.Boreham nói, “Chúng ta thực hiện những quyết định của mình, và sau đó những quyết định này quay trở lại và ảnh hưởng trên chúng ta.” Đôi khi chúng ta quên đi những quyết định của mình, nhưng những quyết định không thể nào quên chúng ta, bởi vì chúng ta gặt những gì chúng ta gieo. Nếu con đường chúng ta đã chọn hóa ra là đường vòng, khi đó hãy thừa nhận nó, xưng nhận tội lỗi củamình, và cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt chúng ta quay trở về con đường đúng đắn.


Những vị trưởng lão cho Rô-bô-am lời khuyên tốt nhất: hãy là một đầy tớ của dân sự thì dân sự sẽ phục vụ ông. Tuy nhiên, Rô-bô-am đã có quyết định trước, vì thế ngay lập tức ông phản đối câu trả lời này và quay sang những người cùng tuổi với mình, những người mà ông biết sẽ cho ông câu trả lời mà ông muốn. Ông không có ý định cân nhắc tình hình, tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, và thực hiện sự chọn lựa khôn ngoan nhất.

Trong hơn 50 năm phục vụ Đức Chúa Trời, tôi đã từng thấy những người gọi là những nhà lãnh đạo Cơ-đốc có những bước đi giống như Rô-bô-am, gây sự thiệt hại khủng khiếp cho công việc của Đức Chúa Trời, và sau đó bỏ đi khỏi sự hỗn độn, bỏ lại đằng sau đống đổ nát phải mất nhiều năm mới dọn sạch được.


Thế giới cổ xưa tôn trọng tuổi tác và sự chín chắn, nhưng xã hội hiện đại của chúng ta tôn sùng tuổi trẻ. Trong Hội thánh và giữa những ban ngành với nhau, có một nhu cầu rất lớn về sự cân bằng giữa các thế hệ, giữa thế hệ lớn tuổi và thế hệ trẻ giao thông với nhau và học hỏi lẫn nhau, giống như một gia đình (Tit 2:1-8; ITi 5:1-2). Một người bạn nói với tôi rằng anh muốn lập một nhà thờ chỉ dành cho những người từ 50 tuổi trở lên, và tôi đề nghị anh ta đặt một người lo tang lễ làm lãnh đạo! Đức Chúa Trời muốn Hội thánh của Ngài phải bao gồm đàn ông và đàn bà, người già, người trẻ, và những người trung niên, tất cả họ nên học hỏi lẫn nhau. Có những người già không khôn ngoan cũng như những người trẻ ngu dốt, uổi tác không bảo đảm cho sự khôn ngoan hay những kinh nghiệm hữu ích. Những người trẻ trong cuộc đời tôi giúp tôi bắt kịp với hiện tại, và tôi giúp họ nhớ về quá khứ, vì thế chúng tôi luôn ở trong thế cân bằng và yêu thương nhau.


Những người cố vấn trẻ tuổi chủ yếu thích được trở nên quan trọng và thích thổi phồng chính họ cũng như quyền lực của vị vua mới. Họ nghĩ rằng cách tốt nhất là phải thể hiện vũ lực. Nhìn chung những người trẻ cố gắng tìm kiếm quyền lực và tự do cho đến khi họ nhận ra sự thật đau lòng rằng họ không sẳn sàng để sử dụng những sự ban cho quý giá này một cách khôn ngoan. Sau khi đã khuyên răn cả các trưởng lão và người trẻ tuổi, Phi-e-rơ viết, “Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau phải trang sức bằng khiêm nhường; vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (IPhi 5:5).


Tuyên bố của nhà vua (IVua 12:12-17; IISu 10:12-17). Một người 41 tuổi được lớn lên trong cung điện, được cho ba ngày để suy nghĩ về một vấn đề, có quyền lui tới những người có thể biết được ý muốn của Đức Chúa Trời lẽ ra không bao giờ thực hiện một quyết định như thế này. Cha ông lại còn viết một quyển sách châm ngôn thực tiễn về sự khôn ngoan, một câu trong đó nói rằng, “Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận; Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm” (Ch 15:1).

Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Rô-bô-am bị chi phối bởi sự kiêu ngạo, không phải sự khiêm nhường, và sự kiêu ngạo không biết đến điều gọi là nhẹ nhàng và tử tế. “Lời vô độ đâm xoi khác nào gươm; Nhưng lưỡi người khôn ngoan vốn là thuốc hay” (Ch 12:18). Rõ ràng Rô-bô-am đã không để thời gian đọc và chép lại (Phuc 17:18-20).


Nhà vua trả lời dân sự một cách “lỗ mãng”, trong tiếng Hê-bơ-rơ từ này cũng được dùng trong câu 4 với nghĩa là “khó nhọc”. Cách ông nói thì xẳng xớm và từ ông dùng thì gay gắt. Thay vì giảm nhẹ gánh nặng, Rô-bô-am tuyên bố rằng ông sẽ làm cho nó nặng hơn và khó nhọc hơn nữa. Ngón tay út của ông còn lớn hơn lưng của cha ông, và nếu cha ông dùng roi da, ông sẽ dùng roi bò cạp. (“Roi có mũi sắt” là tên của một loại roi trên đó có những miếng kim loại, giống như roi của người La-mã.) Cả trong lời nói và thái độ của mình, vị vua mới muốn cho dân sự biết rõ rằng ông là quan trọng và đầy uy quyền, còn họ không hề quan trọng và chỉ là những người kém cỏi. Đây thật sự là một thông điệp nguy hiểm.


Rô-bô-am đại diện cho thế hệ thứ ba của vương triều Đa-vít, à thường thì đến thế hệ thứ ba, những gì thế hệ trước đã dựng nên bắt đầu bị xuống dốc. Dân Y-sơ-ra-ên đã phục sự Đức Chúa Trời trong thời Giô-suê và thời các trưởng lão mà ông dạy dỗ, nhưng khi đến thế hệ thứ ba, dân sự quay sang thờ thần tượng và đất nước bị tan rã (Cac 2:7-10). Tôi đã thấy điều tương tự trong các doanh nghiệp và những Hội thánh địa phương.

Những người sáng lập làm việc chăm chỉ và cống hiến rất nhiều để khởi đầu một doanh nghiệp hay một nhà thờ, thế hệ thứ hai trung thành noi theo gương và niềm tin của người sáng lập. Nhưng khi đến thế hệ thứ ba, họ được thừa hưởng mọi thứ mà không phải làm việc hay trả tiền cho những điều đó, và họ làm hỏng những gì người khác đã làm việc cật lực để xây dựng nên. Dĩ nhiên, nếu thế hệ thứ hai không dạy dỗ thế hệ thứ ba đường lối của Đức Chúa Trời, hay nếu thế hệ thứ ba không nhận lãnh lời dạy dỗ, không ngạc nhiên gì khi thế hệ mới đi vào con đường lầm lạc (Phuc 11:18-21; Phuc 32:46; Eph 6:4).


Những hậu quả do lời tuyên bố của Rô-bô-am có thể dự đoán được: “cả Y-sơ-ra-ên” (mang nghĩa là mười chi phái phía bắc) tuyên bố quyết định rằng họ sẽ tách ra khỏi hai chi phái kia và thành lập vương quốc riêng của mình. Họ la lên những lời của Sê-ba, một kẻ nổi loạn trong thời Đa-vít (IISa 20:1), rời khỏi hội chúng và lập Giê-rô-bô-am làm vua của mình. Chỉ có một số ít người là cư dân của mười chi phái phía bắc ở lại Giu-đa vì lý do này hay lý do khác. Họ vẫn giữ sự trung thành với nhà Đa-vít.


Quyết định chính thức đầu tiên của Sa-lô-môn mang lại cho ông tiếng tốt về sự khôn ngoan lớn (IVua 3:16-28), nhưng quyết định chính thức đầu tiên của con trai ông lại cho cả nước biết rằng mình là người ngu dốt và dại dột. Trải qua nhiều thế kỷ, người Do-thái cho rằng việc đất nước bị phân chia là bi kịch lớn nhất trong lịch sử của họ và dùng điều đó để đo lường những tai ương khác. (Es 7:17).


2. Một vị vua giận dữ (IVua 12:18-24) (IISu 10:18-19; IISu 11:1-4)

Trong khi Rô-bô-am vẫn còn ở tại Si-chem, ông cố gắng thi hành một vài biện pháp ngoại giao muộn màng và phái một trong những cận thần đáng tin cậy của mình đến hội chúng nơi 10 chi phái phía bắc nhằm cố gắng đem lại hòa bình hay ít nhất cũng dập tắt sự tranh cãi. Việc ông chọn lựa người điều đình là không sáng suốt bởi vì A-đô-ram có nhiệm vụ cưỡng bức lao động, và việc cưỡng bức lao động là một trong những vấn đề gây khó chịu trong cuộc tranh luận.

Có lẽ A-đô-ram được ủy quyền điều đình về những sắp xếp nhân công sao cho dễ dàng hơn hay cả về việc giảm thuế, nhưng nếu ông được ủy quyền làm những việc đó, ông đã thất bại một cách đáng thương. Dân sự ném đá ông và vị vua kinh hãi đã trốn về Giê-ru-sa-lem ngay khi ông nghe tin đó. Rô-bô-am đã làm theo lời khuyên sai trái, sử dụng những nước cờ sai lầm, và chọn sai người đàm phán. Ông có thể làm sai điều gì nữa?


Ông có thể tuyên chiến! Xét cho cùng, ông là vua, bằng việc tuyên chiến ông có thể đòi lại quyền lợi cũng như biểu dương sức mạnh quân sự của mình. Và có lẽ Giê-rô-bô-am, đối thủ của ông, sẽ là một trong những nạn nhân. Không phải cha ông là Sa-lô-môn đã muốn giết Giê-rô-bô-am hay sao (IVua 11:40), không phải cha ông là người khôn ngoan nhất thế gian này hay sao? Không phải mười chi phái phía bắc đã nổi loạn chống lại nhà vua và giết cả một người vô tội chỉ có nhiệm vụ ủng hộ hòa bình hay sao?

Vị vua được yêu mến Đa-vít đã tuyên chiến với người Am-môn chỉ vì họ đã sỉ nhục sứ giả của ông (IISa 10:1-19), trong khi sứ giả của Rô-bô-am lại bị giết chết. chi phái phía bắc đang chia rẽ những gì Đức Chúa Trời đã kết hợp vào với nhau và họ đáng bị trừng phạt. Họ lại còn lập ra một hội chúng và chỉ định Giê-rô-bô-am làm vua của mình! Việc bất chấp giao ước của Đức Chúa Trời và bỏ mặc dòng dõi Đa-vít là tội lỗi. Dường như mỗi một điều suy xét đều hợp lý dẫn đến kết luận -chiến tranh.


Mỗi một điều suy xét ngoại trừ một điều: có phải cuộc chiến này là ý muốn của Đức Chúa Trời? Sau khi Rô-bô-am đã tập hợp quân đội gồm 180.000 người, ông khám phá ra rằng mình đã phí thời gian. Đức Chúa Trời sai tiên tri Sê-ma-gia đến nói với nhà vua rằng hãy dừng cuộc chiến lại và cho các quân lính trở về nhà. Mặc dù những gì xảy ra là hậu quả do sự ngu dại của Rô-bô-am và sự hung hăng của Giê-rô-bô-am nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng cai trị và điều khiển việc phân chia đất nước, như thế lời tiên tri của A-hi-gia được làm thành. Mỗi người tự do hành động và những cố vấn của họ cũng vậy, nhưng ý định của Đức Chúa Trời lại được thực hiện. (IISa 2:23). Đức Chúa Trời tối cao của chúng ta rất vĩ đại, Ngài để cho dân Ngài tự quyết định nhưng qua đó lại hoàn thành mục đích của Ngài.


Kế hoạch của Đức Chúa Trời chỉ có một nhân tố; nhân tố thứ hai là việc Giu-đa và Bên-gia-min đã làm điều sai trái khi đánh anh em mình (c.24). Có vẻ lạ nhưng những mâu thuẫn của gia đình và của quốc gia cứ lặp đi lặp lại trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Áp-ra-ham và Lót bất hòa với nhau (Sa 13:1-18), và Áp-ra-ham nhắc nhở cháu mình rằng họ không nên tranh chiến với nhau vì họ là anh em (IVua 13:8).

Gia-cốp và Ê-sau có cuộc chiến đấu suốt đời mà con cháu họ cứ tiếp tục trong nhiều thế kỷ (Sa 27:41-46; Thi 137:7; Ap 1:10-13). Các anh trai của Giô-sép ghét ông (Sa 37:1-40), A-rôn và Mi-ri-am phê bình em trai mình là Môi-se (Dan 12:1-19). Sau-lơ là kẻ thù của Đa-vít và đã nhiều lần tìm cách giết ông. “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau thật tốt đẹp thay” (Thi 133:1).


Thường thì trong lịch sử của Cựu-ước chúng ta thấy một vị tiên tri đối đầu với nhà vua bằng “Lời của Đức Chúa Trời nói như thế”. Bất cứ khi nào một vị vua, một thầy tế lễ, hay chính một vị tiên tri khác bước ra khỏi giới hạn, một tiên tri sẽ đến và quở trách người đó; và nếu thông điệp của vị tiên tri bị phớt lờ, bàn tay phán xét của Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu. (IVua 13:21-22; IVua 14:6-11; IVua 16:1-4; IVua 20:28; IIVua 1:16; IIVua 22:14-15). Y-sơ-ra-ên là dân sự của lời Đức Chúa Trời, và lời của Đức Chúa Trời phải được gìn giữ trọng hơn cả lời của vua.


Công của Rô-bô-am đó là đã dừng cuộc tấn công, mặc dầu những năm sau đó liên tục có những cuộc giao tranh nhỏ ngoài biên giới và những mâu thuẫn khó chịu giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am (IVua 14:20; IVua 15:6,16,32; IISu 11:1). Tuy nhiên, có thể Rô-bô-am biết ơn vì kế hoạch của mình không bao giờ thành công. Giống như cha mình, ông không phải là một chiến sĩ và ông không thể chắc chắn mình sẽ chiến thắng. Kế hoạch của Đức Chúa Trời là sẽ có hai vương quốc và điều đó giải quyết được vấn đề. Ít nhất thì ông cũng chịu phục tùng lời của Đức Chúa Trời.


Tới đây thì tác giả dừng chuyện của Rô-bô-am để kể cho chúng ta nghe về chuyện của Giê-rô-bô-am. Chuyện của Rô-bô-am được bàn rộng trong (IISu 11:5-22) và sau đó được nhặt nhạnh và kết luận trong (IVua 14:21-36; IISu 12:1-16).


3. Một vị vua tinh khôn (IVua 12:18-24) (IISu 11:5-22)

Rô-bô-am nghe và làm theo thông điệp của Đức Chúa Trời do Sê-ma-gia truyền lại, Đức Chúa Trời bắt đầu ban cho ông sự khôn ngoan, Ngài chúc phước cho cuộc sống và công việc của ông. Nếu ông cứ ở trong đường lối đó, ông sẽ dẫn Giu-đa bước vào sự ngoan đạo và sự cao cả thật sự, nhưng ông lại xây bỏ Đức Chúa Trời và mất đi những phước lành mà ông và dân sự có thể được hưởng.


Đức Chúa Trời chúc phước trên những kế hoạch xây dựng của ông (IISu 11:5-12). Cha ông là Sa-lô-môn đã làm vững chắc biên giới của vương quốc bằng cách lập nên những pháo đài cho quân lính, ngựa, và xe ngựa (IVua 9:15-19 IISu 8:1-6), và Rô-bô-am theo gương ông. Những thành ông chọn tạo thành một bức tường bảo vệ Giê-ru-sa-lem ở phía đông và phía tây và ở bên kia phía nam. Nhà vua biết rằng Giê-rô-bô-am là người được Ai-cập yêu mến, vì thế có lẽ ông đã nghĩ đến Pha-ra-ôn khi xây dựng tuyến phòng thủ này. Thú vị là ông không đặt những thành bảo vệ ở biên giới phía bắc. Sau những lời cảnh cáo của Sê-ma-gia, ó lẽ nhà vua ngần ngại khiêu khích những chi phái phía bắc hay có ý nghĩ rằng Giu-đa đang chuẩn bị cho chiến tranh. Có lẽ ông hy vọng rằng một “chính sách mở cửa” sẽ làm dịu lại sự căng thẳng và khiến cho người dân ở mười chi phái phía bắc dễ dàng đến Giê-ru-sa-lem hơn.


Đức Chúa Trời chúc phước cho người dân của ông (IISu 11:13-17). Vua Giê-rô-bô-am phong chức cho những thầy tế lễ riêng của mình và biến mười chi phái phía bắc thành một trung tâm thờ thần tượng, nhưng trong ba năm, ô-bô-am giữ người Giu-đa làm theo luật pháp Môi-se. Kết quả là các thầy tế lễ và người Lê-vi trong Y-sơ-ra-ên, những người đã tận hiến cho Đức Chúa Trời, đến Giu-đa và làm cho đất nước thêm giàu mạnh. Một số thầy tế lễ và người Lê-vi chỉ “ủng hộ Rô-bô-am” (c.13) và ở lại Y-sơ-ra-ên, nhưng những người khác từ bỏ sản nghiệp mình trong Y-sơ-ra-ên và đến sống lâu dài tại Giu-đa (c.14). Nhóm thứ ba sống ở Y-sơ-ra-ên nhưng mỗi năm ba lần đế Giê-ru-sa-lem để dâng của lễ (c.16). (Trong một chừng mực nào đó, ngày nay chúng ta cũng có ba nhóm tương tự trong Hội thánh).

Việc các thầy tế lễ và người Lê-vi tin kính Chúa thêm vào số dân Giu-đa làm cho vương quốc vững mạnh và mang đến sự chúc phước của Đức Chúa Trời. “Nước nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình, dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ nghiệp mình có phước thay” (Thi 33:12).


Đức Chúa Trời chúc phước cho gia đình ông (IISu 11:18-23).

Giống như Đa-vít và Sa-lô-môn, Rô-bô-am không vâng lời Đức Chúa Trời và lấy nhiều vợ (Phu 17:17). Chỉ có hai bà vợ của ông được ghi lại tên: Ma-ha-lát, cháu của Đa-vít thông qua cả cha và mẹ bà, và Ma-a-ca, con gái Áp-sa-lôm. Vì con trai Đa-vít là Áp-sa-lôm chỉ có một người con gái là Ta-ma (IISa 14:27) nên Ma-a-ca có thể là cháu ông. Trong (IVua 15:2 nói đến tên cha của Ma-a-ca là A-bi-sa-lôm, và trong (IISu 13:2 Ma-a-ca được gọi là con gái của U-ri-ên ở Ghi-bê-a. Nếu U-ri-ên thật sự là chồng của Ta-ma, con gái duy nhất của Áp-sa-lôm, thì Ma-a-ca là cháu ngoại của Áp-sa-lôm và cháu cố của vua Đa-vít. Ít nhất thì hai trong số 18 bà vợ của Rô-bô-am là từ dòng dõi nhà Đa-vít thuần chủng.


Việc vua và hoàng hậu có một đại gia đình là điều rất quan trọng vì như thế sẽ có người thừa kế ngai vàng và nếu có điều gì xảy ra cho thái tử sẽ có người thay thế. Vua Rô-bô-am được ban cho rất nhiều con- 28 con trai và 60 con gái. Nhà vua đã làm một việc rất khôn ngoan là lập những con trai trưởng thành của mình thành những cận thần của hoàng gia, phân tản họ khắp Giu-đa và Bê-gia-min. Điều này làm được nhiều việc cho sự hòa bình và có hiệu quả trong cung điện. Trước hết, các hoàng tử không theo đuổi những sự mưu cầu riêng của mình và không dính líu đến những mưu đồ trong cung điện, như một số con trai của Đa-vít đã làm và gây đau khổ cho cha mình. Rô-bô-am đã lớn lên trong cảnh xa hoa, nhưng ông đủ sáng suốt khi đặt các con trai mình vào công việc.


Lợi ích thứ hai là Rô-bô-am có thể thấy được những cá tính và khả năng của họ để quyết định người sẽ kế vị mình. Đức Chúa Trời gọi Đa-vít làm vua và sau đó phán với ông rằng Sa-lô-môn sẽ là người kế vị ông. Không có bằng chứng nào cho thấy Đức Chúa Trời chỉ định người sẽ kế vị Sa-lô-môn, vì thế ắt hẳn Sa-lô-môn đã tự chỉ định Rô-bô-am thừa kế ngai vàng. Sau khi quan sát các con trai của mình, ô-bô-am chọn A-bi-gia, con trai của Ma-a-ca,10làm người kế vị mình, ặc dù Giê-úc, con trai của Ma-ha-lát, là con đầu lòng (c.18-19).

Đầu tiên, Rô-bô-am lập A-bi-gia làm “trưởng giữa anh em mình” (c.22) “thái tử”. Điều này cho thấy A-bi-gia là cánh tay mặt của cha mình, có lẽ còn là người cùng nhiếp chính. Rô-bô-am nhận thấy nơi người con trai này năng lực cần thiết cho một vương triều thành công. Đáng tiếc, A-bi-gia không sống đúng với tên của mình, Giê-hô-va là cha”.


“Những người vợ” mà Rô-bô-am cưới cho con mình có thể là “những người vợ của hiệp ước”để bảo đảm hòa bình giữa Giu-đa và các nước láng giềng. Đây cũng là kế hoạch mà cha ông là Sa-lô-môn đã thực hiện.


4. Vị vua bội đạo (IVua 12:18-24) (IVua 14:21-24; IISu 12:1-16)

Sau khi trở thành vua, Rô-bô-am bước đi theo ý muốn của Đức Chúa Trời trong ba năm (IVua 11:17), hưng đến năm thứ tư trong đời trị vì của mình, khi ngôi vua của ông được vững chắc, ông và toàn thể Giu-đa xây bỏ Đức Giê-hô-va để thờ lạy thần tượng (IVua 12:1-2). “Và Rô-bô-am làm điều ác, vì không rắp lòng tìm cầu Đức Giê-hô-va” (IVua 12:1).

Cụm từ “bỏ điều răn của Đức Giê-hô-va” xuất hiện nhiều lần trong những ghi chép về đời trị vì của các vua Giu-đa và Y-sơ-ra-ên (IVua 18:18; IVua 19:10,14; IIVua 17:16; IIVua 21:22; IIVua 22:17; IISu 12:1,5; IISu 13:10-11; IISu 15:2; IISu 21:10; IISu 24:18,20,24; IISu 26:6; IISu 29:6; IISu 34:21). Đa-vít đã cảnh báo Sa-lô-môn về tội này (ISu 28:9,20) và chính Đức Chúa Trời cũng làm điều đó (IVua 3:14 IVua 9:4-9 IVua 11:9-13), nhưng trong những năm sau cùng, a-lô-môn đã thờ phượng cả Đức Chúa Trời và những thần tượng gớm ghiếc của người ngoại đạo; có lẽ Rô-bô-am chịu ảnh hưởng từ người mẹ Am-môn của mình. Dầu cho bất kỳ ảnh hưởng nào, nhà vua biết rằng ông đang phá bỏ giao ước và phạm tội cùng Đức Chúa Trời.


Sự ghen tương thánh của Đức Chúa Trời (IVua 14:21-24).

Khi nói về Đức Chúa Trời như là “một Đấng ghen tương” (IVua 14:22), Kinh Thánh muốn nói đến tình yêu ghen tương Đức Chúa Trời dành cho dân sự Ngài, một tình yêu sẽ không khoan thứ những đối thủ của mình. Y-sơ-ra-ên được Đức Chúa Trời “cưới” tại núi Si-na-i khi họ bước vào giao-ước, và việc thờ lạy thần tượng là một sự vi phạm giao ước rất nghiêm trọng, giống như một người vợ đang phạm tội ngoại tình. Chắc chắn Rô-bô-am biết điều Đức Chúa Trời đã phán với dân sự tại núi Si-na-i: “vì ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, tức là Đức Chúa Trời kỵ tà” (Xu 20:5). Chân lý tương tự cũng có trong Bài ca của Môi-se: “Chúng nó giục ta phân bì, vì cúng thờ thần chẳng phải là Đức Chúa Trời; lấy sự hư không mà chọc giận ta” (Phuc 32:21; Thi 78:58; Gie 44:3. Phao-lô đã sử dụng hình ảnh trong hôn nhân khi răn bảo Hội thánh tránh xa sự thờ lạy đa thần (ICo 10:22), và Gia-cơ gọi những người tin theo thế gian là “bọn tà dâm” (Gia 4:4).


Nhà vua cho phép và khuyến khích việc xây những đền đài thờ thần tượng trong xứ (“những nơi cao”), dựng những hòn đá thiêng (“trụ thờ”) và những tượng dương vật cùng tượng Át-tạt-tê (“những cây rậm”). Ông cũng cho phép những điện thờ mại dâm, đàn ông (“bợm vĩ gian”) và đàn bà, để phục vụ dân sự tại những điện thờ này, một việc làm đáng ghê tởm tuyệt đối bị luật pháp Môi-se cấm (Phuc 23:17-18). Sự thờ lạy thần tượng cùng sự vô đạo đức đi liền với nhau (Ro 1:21-27), không lâu trước kia tội thờ đa thần bị luật pháp trừng phạt thì bây giờ được chấp nhận rộng rãi trong Giu-đa (Le 18:20 Phu 18:9-12). Người Do-thái không còn là ánh sáng cho dân ngoại nữa; thay vào đó, sự tối tăm của dân ngoại đã xâm chiếm xứ và dập tắt ánh sáng.


Trước khi chúng ta đoán xét vua và dân Giu-đa, có lẽ chúng ta nên xem lại đời sống của chúng ta và Hội thánh. Những cuộc khảo sát cho thấy khi nói đến đạo đức giới tính, những người được “tái sanh” trong Hội thánh sống không khác gì so với những người chưa được cứu bên ngoài Hội thánh. Những thần tượng vật chất và con người của thế gian hư mất đã tìm đường vào trong Hội thánh được chấp nhận và ủng hộ. Đức Chúa Trời đã trừng phạt Rô-bô-am vì tội lỗi của ông. Bao lâu nữa Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt Hội thánh của Ngài?


Sự yêu mến kỷ luật của Đức Chúa Trời (IVua 14:25-31; IISu 12:1-16).

Đức Chúa Trời kiên nhẫn với Rô-bô-am và dân Giu-đa trong một năm; nhưng đến năm thứ năm đời trị vì của Rô-bô-am, sự chịu đựng lâu dài của Đức Chúa Trời đã đến lúc kết thúc. Đức Chúa Trời sai Si-sắc, vua Ai-cập, đem một đạo quân lớn đến xâm lược Giu-đa, và thay vì đánh vào những thành bảo vệ mới của Rô-bô-am, ông đánh bại từ tỉnh này sang tỉnh kia. (Một câu viết của Ai-cập nói rằng Si-sắc đã chiếm 156 thành phố của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa). Khi quân Ai-cập đến tận Giê-ru-sa-lem, tiên tri Sê-ma-gia một lần nữa xuất hiện trong bối cảnh này với một thông điệp ngắn và vào đúng vấn đề từ Đức Chúa Trời: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: ‘Các ngươi đã bỏ ta, nên ta cũng đã bỏ các ngươi vào tay Si-sắc”’ (IVua 12:5).


Bất cứ khi nào dân sự của Đức Chúa Trời trải qua sự kỷ luật vì tội lỗi của mình, họ có thể có một sự khởi đầu mới bằng việc lắng nghe Lời của Đức Chúa Trời và hạ mình xuống trước Lời của Ngài. Đây là lời hứa của Đức Chúa Trời với dân sự khi Sa-lô-môn cung hiến đền thờ (IISu 7:13-14). Rô-bô-am và những cận thần của mình hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời và Ngài ngăn việc Si-sắc tấn công Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, bây giờ Giu-đa là nước lệ thuộc Si-sắc và phải nộp cống cho ông. Dân sự của Đức Chúa Trời khám phá ra rằng sự “tự do trong tội lỗi” của họ làm họ đau khổ và tốn hao tiền của nộp cống cho Ai-cập, vì hậu quả của tội lỗi bao giờ cũng tai hại.


Để thỏa mãn những đòi hỏi của Si-sắc, Rô-bô-am nộp cho ông vàng của đền thờ và của cung điện nhà vua. Vàng này bao gồm 500 cái khiên bằng vàng mà Sa-lô-môn đã làm cho cung điện (IVua 10:16-17). Rô-bô-am quá nghèo không thể làm lại những cái khiên bằng vàng tương tự, vì thế ông thay thế chúng bằng những cái khiên bằng đồng, và những nghi lễ hoàng gia cứ tiếp tục diễn ra như không có chuyện gì xảy ra. Thông thường khi những vật quý giá của thế hệ trước bị mất vì tội lỗi thì sau đó được thay thế bằng những vật rẻ tiền. Cuộc sống cứ tiếp diễn và dường như không ai biết được sự khác nhau. Đó là điều đã xảy ra cho Hội thánh Lao-đi-xê (Kh 3:17-19).


Sau cuộc xâm lăng của Si-sắc vào năm 925 B.C, Rô-bô-am trị vì 12 năm nữa và qua đời vào năm 913 B.C. Nếu ông cứ tiếp tục bước đi với Chúa và dẫn dắt dân sự trung thành với giao ước của Đức Chúa Trời, Ngài đã có thể làm những việc lớn cho ông. Như những gì đã xảy ra, tội lỗi của ông và tội lỗi của dân sự, những người làm theo ông đã làm cho đất nước yếu hơn, nghèo hơn, và ở trong cảnh nô lệ. Như Charles Spurgeon nói, “Đức Chúa Trời không cho phép dân sự của Ngài thành công trong sự phạm tội”.


Rô-bô-am đi theo con đường xác thịt và qua đời ở tuổi 58. Chúng ta tin rằng sự hạ mình mà ông và những cận thần của ông đã kinh nghiệm kéo dài đến hết phần đời còn lại của họ và họ bước đi với Đức Chúa Trời.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023-2025 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page