...Giê-rô-bô-am I là một người hành động, không phải là một nhà triết học; ông là người đầu tiên được Sa-lô-môn chú ý vì ông bận rộn, có năng lực, đáng tin cậy và làm việc hiệu quả (IVua 11:26-28). Ông là người lãnh đạo nhân dân lý tưởng, biết đấu tranh cho cuộc chiến của dân và bênh vực chính nghĩa của họ. Hỏi ông về niềm tin riêng tư của mình nơi Đức Chúa Trời thì câu trả lời của ông hơi mơ hồ.
Ông đã sống ở Ai-cập khá lâu nên có sự khoan dung đối với việc thờ hình tượng cũng như có sự hiểu biết về việc tôn giáo có thể được sử dụng như thế nào để điều khiển người dân. Trong kỹ năng này, Giê-rô-bô-am giống với Nê-bu-cát-nết-sa (Đa 3:1-30), Hê-rốt Ạc-ríp-ba I (Cong 12:19-25), và An-ti-Christ (Kh 13:1-18; Kh 17:1-18), và những kẻ mị dân gần đây nhất. Nhưng Giê-rô-bô-am đã phạm ba lỗi nghiêm trọng trong suốt hai mươi năm trị vì của mình.
1. Ông không tin lời hứa của Đức Chúa Trời (IVua 12:25-33)
Sự thành công trong cuộc đời tùy thuộc vào việc làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời và tin cậy vào lời hứa của Ngài, nhưng Giê-rô-bô-am đã thiếu cả hai điều này.
Khi A-hi-gia nói với Giê-rô-bô-am thông điệp của Đức Chúa Trời bảo đảm cho ông ngôi vua của vương quốc Y-sơ-ra-ên (IVua 11:28-39), tiên tri nói rõ rằng sự chia cắt về chính trị không cho phép sự xa rời tôn giáo. Đức Chúa Trời có lẽ sẽ ban cho Giê-rô-bô-am toàn vương quốc nếu Ngài không lập một giao ước đời đời với Đa-vít bằng việc cho một trong những con cháu của ông ngồi trên ngai (IISa 7:1-17).
Điều này bảo vệ dòng dõi Đấng Mê-si-a để Đấng Cứu thế có thể đến thế gian. Đức Chúa Trời cất 10 chi phái khỏi tay Rô-bô-am vì Rô-bô-am đã đi theo gương xấu của Sa-lô-môn và dẫn dân sự vào việc thờ hình tượng. Đây lẽ ra nên là lời cảnh báo cho Giê-rô-bô-am phải trung thành với Đức Chúa Trời và tránh xa khỏi những thần tượng hư không. Đức Chúa Trời cũng hứa lập cho Giê-rô-bô-am “một nhà vững chắc” (một vương triều tiếp tục không ngừng) nếu ông vâng lời Đức Chúa Trời và bước đi trong đường lối Ngài (c.38). Thật là một lời hứa tốt đẹp biết bao, nhưng Giê-rô-bô-am không thể tin nó.
• Sự sợ hãi (IVua 12:25-28).
Một trong những bằng chứng đầu tiên của sự không tin là sự sợ hãi. Chúng ta rời mắt khỏi Đức Chúa Trời và bắt đầu nhìn vào hoàn cảnh. Chúa Giê-xu đã hỏi các môn đồ của mình, “Hỡi kẻ ít đức tin kia, cớ sao các ngươi sợ?”, (Mat 8:23-27) nhắc nhở họ rằng đức tin và sự sợ hãi không thể cùng tồn tại lâu dài trong một tấm lòng. Sự sợ hãi của Giê-rô-bô-am là vương quốc phía nam sẽ tấn công ông và dân sự của ông sẽ lìa bỏ ông, trở về Giê-ru-sa-lem để thờ phượng.
Luật pháp không chỉ quy định rằng đền thờ ở Giê-ru-sa-lem là nơi dâng của tế lễ duy nhất (Phuc 12:1-32), nhưng còn ra lệnh tất cả người Do-thái phải đến Giê-ru-sa-lem mỗi năm ba lần để giữ những kỳ lễ đã định (Xu 23:14-17). Điều gì sẽ xảy ra nếu người dân quyết định ở lại Giu-đa và không trở về Y-sơ-ra-ên? Thậm chí nếu họ quay trở về phía bắc sau khi đi thờ phượng, họ có thể sống bao lâu với lòng trung thành đã bị phân chia? Có lẽ Giê-rô-bô-am nhớ lại cảnh ngộ của người kế vị Sau-lơ, Ích-bô-sết, người đã cố gắng thống trị mười chi phái phía bắc nhưng đã thất bại và bị giết chết (IISa 4:1-12). Nếu trong Y-sơ-ra-ên đã từng có phong trào của người dân thống nhất hai vương quốc, Giê-rô-bô-am sẽ là người đáng chết.
• Sự an ninh (c.25).
Giống như Sa-lô-môn (IVua 9:15-19; IVua 11:27) và Rô-bô-am (IISu 11:5-12), vua Giê-rô-bô-am củng cố thành phố thủ đô của mình (Si-chem) làm vững chắc những thành phố trọng yếu để chống lại bất kỳ kẻ xâm lăng nào. Phê-nu-ên (Phê-ni-ên) nằm ở phía đông sông Giô-đanh và nổi tiếng vì là nơi Gia-cốp vật lộn với thiên sứ của Đức Chúa Trời (Sa 32:1-32). Có vẻ như sau này Giê-rô-bô-am dời thủ đô của mình từ Si-chem về Tiệt-sa (IVua 14:17), ay có lẽ ông có một cung điện thứ hai ở đo. Thay vì tin cậy vào Đức Chúa Trời như là cái khiên và người bảo vệ mình, Giê-rô-bô-am lại tin tưởng vào sự phòng thủ và chiến lược của riêng mình.
• Vật thay thế (IVua 12:26-33).
Giải pháp dễ dàng nhất cho vấn đề của Rô-bô-am nhằm giữ lòng trung thành của dân sự ông là lập một trung tâm thờ phượng cho họ trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Nhưng ông có quyền gì đặt ra một tôn giáo đối địch khi người Do-thái đã nhận lãnh cách thức của sự thờ phượng từ chính tay Đức Chúa Trời?
Chắc chắn ông không thể xây dựng một đền thờ cạnh tranh với đền thờ của Sa-lô-môn ở Giê-ru-sa-lem, hay viết một luật mới sánh được với những gì Môi-se đã nhận lãnh từ Đức Giê-hô-va, hoặc thiết lập một hệ thống tế lễ bảo đảm cho sự tha tội. Ông không phải là Môi-se và chắc chắn ông cũng không thể tự xưng là Đức Chúa Trời!
Những gì Giê-rô-bô-am làm là lợi dụng xu hướng thích thờ hình tượng của người Do-thái, sự thèm muốn của hầu hết người dân về một tôn giáo tiện lợi, ít tốn kém, à gần với niềm tin cho phép được thoải mái với lương tâm. Giê-rô-bô-am không bảo dân sự quên Đức Giê-hô-va nhưng là thờ phượng Ngài dưới hình một con bò vàng. Trong Ai-cập và đất Ca-na-an, nhà vua đã nhìn thấy những tượng trâu và bò được “dựng nên” và cho là dạng vô hình của các thần.
Trong những tôn giáo đa thần mà Giê-rô-bô-am bắt chước, bò và trâu tượng trưng cho sự sinh sản.Giê-rô-bô-am đã quay lưng lại với thông điệp quan trọng nhất được truyền bảo tại núi Si-nai: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là một Đấng con người có thể nghe nhưng không thể nếm hay rờ. Nghe lời c ủa Ngài là điều tạo nên đức tin (Ro 10:17), và đức tin giúp chúng ta vâng lời. Nhưng nhiều người không muốn sống bởi đức tin; họ muốn bước đi bằng việc nhìn thấy và làm hài lòng các giác quan của mình.
Những lời của Giê-rô-bô-am trong câu 28 cho thấy rằng con bò vàng của A-rôn (Xu 32:1-8) cũng có trong ý nghĩ của ông. Nhưng nhà vua bắt chước hay hơn: ông làm hai con bò và đặt một con tại Bê-tên ở phía biên giới xa nhất về phía nam vương quốc, chỉ cách Giê-ru-sa-lem một quãng đường ngắn, và con bò kia đặt tại Đan ở biên giới xa nhất về phía bắc (Os 8:5-6; Os 13:2-3).
Việc thờ phượng Đức Chúa Trời không thể nào dễ dàng hơn nữa! Nhà vua nói với dân sự, “Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem thật khó thay,” (c.28), và họ còn hơn việc sẵn lòng tin ông. Nhà vua xây những đền đài tại Bê-tên, Đan và cho phép dân sự xây những nơi cao gần nhà họ hơn.
Bằng sự tán thành của mình, nhà vua lập nên một “tôn giáo tự làm lấy” và giống như trong sách Các quan-xét, mọi người làm những điều họ cho là đúng (Cac 17:6 Cac 18:1; Cac 19:1; Cac 21:25). Nếu dân Ca-na-an và người Ai-cập có thể thờ phượng con bò thì người Hê-bơ-rơ cũng vậy! Ông quên (Xu 20:1-3,22-23)_ nhưng Đức Chúa Trời không quên!
Một tôn giáo cần những người hành lễ vì thế Giê-rô-bô-am chọn tất cả mọi loại người vào chức “tế lễ” tại bàn thờ ở Đan và Bê-tên (IVua 13:33-34; IISu 11:13-17). Yêu cầu duy nhất cho mỗi người là đem đến cho Giê-rô-bô-am một con bò đực tơ và bảy con chiên đực (IISu 13:9). Đức Chúa Trời đã phán rõ ràng khi Ngài ban luật pháp cho Môi-se rằng chỉ có con trai A-rôn mới được phục vụ như những thầy tế lễ tại bàn thờ (Xu 28:1-5; Xu 29:1-9; Xu 40:12-16) và nếu người nào từ chi phái khác cố gắng làm điều này thì người đó sẽ bị chết (Dân 3:5-10,38; Dân 4:17-20; Dân 18:1-7).
Những thầy tế lễ không được phép tại những đền thờ không bao giờ được đến với Đức Chúa Trời hay dâng của lễ có thể được Đức Chúa Trời chấp nhận. Đó là một tôn giáo do con người tự tạo để làm hài lòng người dân, bảo vệ nhà vua, và thống nhất đất nước_trừ những người Lê-vi trung thành đã rời bỏ vương quốc phía bắc và đến Giu-đa để thờ phượng Đức Chúa Trời theo như những gì được dạy trong Kinh Thánh (IISu 11:13-17).
Luật pháp Môi-se đòi hỏi người Do-thái phải kỷ niệm bảy kỳ lễ thánh đã định mỗi năm (Le 23:1-44), vì thế Giê-rô-bô-am tự lập một kỳ lễ cho người dân ở vương quốc phía bắc. Lễ lều tạm được định vào tháng thứ bảy trong tròn một tuần lễ. Đây là một kỳ lễ vui mừng khi dân sự nhớ lại những năm trong đồng vắng phải sống trong lều tạm và kỷ niệm sự tốt lành của Đức Chúa Trời vì sự ban cho vụ mùa thu hoạch.
Kỳ lễ của Giê-rô-bô-am được tổ chức vào tháng thứ tám như thế dân sự có thể chọn họ sẽ tham gia lễ nào, điều này phân biệt được những người Do-thái trung thành khỏi những kẻ thờ phượng giả mạo trong Y-sơ-ra-ên. Nhưng tại sao phải đi một quãng đường dài đến Giê-ru-sa-lem trong khi đến Bê-tên và Đan lại dễ hơn rất nhiều?
Cùng với việc dựng lên lịch, đền thờ, bàn thờ, và chức tế lễ tôn giáo của riêng mình, Giê-rô-bô-am còn tự phong mình là thầy tế lễ (c.32-33)! Ông dâng hương và của tế lễ giống như những thầy tế lễ được phép làm trong đền thờ, ngoại trừ một điều là Đức Chúa Trời không bao giờ nhậm của lễ của ông. Của lễ trong ngày thứ mười lăm của tháng thứ tám có quan hệ với kỳ lễ mà ông đã lập, và của lễ này có thể đã bắt chước ngày lễ chuộc tội hằng năm. Ông đã có tất cả những thành tố cần thiết cho một “tôn giáo” nhưng thiếu một điều rất quan trọng_Giê-hô-va Đức Chúa Trời!
• Sự bội đạo.
Ngày nay chúng ta đang sống trong một thời đại khi mà “tôn giáo công nghiệp” được phổ biến, tán thành và chấp nhận. Những nhà lãnh đạo mù quáng của những người mù quáng quả quyết rằng chúng ta sống trong một “xã hội đa nguyên” và không ai có quyền tự cho là chỉ có sự mặc khải là thật và chỉ có một cách cứu rỗi linh hồn là đúng. “Những thầy tế lễ” tự phong chức và những người hành lễ kết hợp thứ thần học của riêng họ với nhau và mạo nhận nó là chân lý.
Họ không mảy may quan tâm đến những gì Kinh Thánh nói; thay vào đó, họ thay thế Lời không thay đổi và đầy cảm hứng của Đức Chúa Trời bằng “những lời giả dối” của họ (IIPhi 2:3), và nhiều người khờ dại sẽ bị những lời dối trá của họ lừa bịp và dẫn dụ (IIPhi 2:1-2). “Tôn giáo” của Giê-rô-bô-am kết hợp chặt chẽ những yếu tố từ luật pháp Môi-se và từ những nước đa thần mà người Do-thái xâm chiếm. Hệ thống của ông là cái ngày nay gọi là “chiết trung” (có chọn lọc) hay “thuyết hổ lốn” (kết hợp nhiều thứ), nhưng Đức Chúa Trời gọi nó là tà giáo và sự bội đạo. Khi tiên tri Ê-sai đối diện với những tôn giáo mới trong thời của mình, ông đã kêu gào, “Hãy theo luật pháp và lời chứng! Nếu dân chẳng nói như vậy chắc sẽ chẳng có rạng đông cho nó” (Es 8:20).
Vì Giê-rô-bô-am không tin những lời hứa của Đức Chúa Trời phán bởi tiên tri A-hi-gia, ông bắt đầu bước đi trong sự không tin và dẫn dân sự vào tôn giáo sai lệch. Tôn giáo mà ông sáng tạo thì thoải mái, thuận lợi và ít tốn kém, nhưng nó không được Đức Chúa Trời cho phép. Nó trái ngược với ý muốn của Đức Chúa Trời được bày tỏ trong Kinh Thánh và nó sinh ra vì mục đích thống nhất vương quốc của Giê-rô-bô-am, không phải vì sự cứu rỗi dân sự và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Nó là một tôn giáo nhân tạo và Đức Chúa Trời hoàn toàn phản bác nó.
Nhiều thế kỷ sau, Chúa Giê-xu phán với người đàn bà Sa-ma-ri (vương quốc trước đây của Y-sơ-ra-ên) rằng “Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:22) NASB). Khi Ngài tuyên bố điều đó, Ngài hoàn toàn loại bỏ những tôn giáo khác và khẳng định rằng con đường cứu rỗi duy nhất đến từ người Do-thái. Chúa Giê-xu là người Do-thái và niềm tin Cơ-đốc đến từ tôn giáo của người Do-thái. Mặc dù “xã hội đa nguyên” hiện đại của chúng ta, sứ đồ Phi-e-rơ nói đúng: “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, hẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Cong 4:12 NASB).
2. Ông không để ý lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời (IVua 13:1-34)
Đoạn Kinh Thánh dài này không phải nói về vị tiên tri trẻ và tiên tri già; nó nói về vua Giê-rô-bô-am và tội lỗi của ông. Chức vụ của vị tiên tri trẻ trong đoạn này rất quan trọng, vì tất cả những gì ông nói và kinh nghiệm, bao gồm cái chết của ông, là một phần trong lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời dành cho Giê-rô-bô-am.Theo câu 33, nhà vua không xây bỏ Đức Chúa Trời: “Sau việc ấy, Giê-rô-bô-am không trở lại con đường ác mình”. Trong đoạn này, vị tiên tri chết, nhưng trong đoạn tiếp theo, thái tử chết! Rõ ràng, Đức Chúa Trời đang cố gắng thu hút sự chú ý của Giê-rô-bô-am.
• Thông điệp (IVua 13:1-2).
Vị tiên tri vô danh đến từ Giu-đa vì tại đó vẫn còn những đầy tớ trung thành Đức Chúa Trời có thể dùng được. Ông gặp Giê-rô-bô-am tại điện thờ ở Bê-tên, nơi rốt cuộc trở thành “nơi thánh của vua” (Am 7:10-12). Khi bạn tự tạo ra một tôn giáo của riêng mình, như Giê-rô-bô-am đã làm, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn, và Giê-rô-bô-am chọn trở thành một thầy tế lễ cũng như một nhà vua. Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên là những thầy tế lễ được gọi là những nhà tiên tri, nhưng luật pháp Môi-se không cho phép nhà vua phục vụ như là thầy tế lễ (IISu 26:16-23). Chúa Giê-xu là vị Vua duy nhất cũng là thầy Tế lễ (He 7:1-8:13), những người tin Chúa là “vua và thầy tế lễ” (Kh 1:6) và là “chức tế lễ nhà vua” (IPhi 2:9). “Chức thầy tế lễ” của Giê-rô-bô-am là giả mạo và bị Đức Chúa Trời bác bỏ. Đó có thể là lý do tại sao vị tiên tri vô danh đến từ Giu-đa truyền thông điệp của mình khi nhà vua đang ở tại bàn thờ.
Vị tiên tri nói với bàn thờ, không phải với nhà vua, như thể là Đức Chúa Trời không còn muốn nói với Giê-rô-bô-am, một người quá bận rộn với chính mình và kế hoạch của mình đến nỗi không có thời gian để lắng nghe Đức Chúa Trời. Thông điệp tuyên bố rằng tương lai ở với nhà Đa-vít, không phải với nhà Giê-rô-bô-am.
Bởi vì đường lối ác của Giê-rô-bô-am, vương quốc Y-sơ-ra-ên trở nên quá ô uế với sự thờ lạy thần tượng và tội lỗi đi kèm với nó đến nỗi vương quốc sẽ bị tiêu diệt trong vòng hai thế kỷ. Vào năm 722, quân Sy-ri bắt Y-sơ-ra-ên và mười chi phái phía bắc đi lưu đày. Vương triều Đa-vít tiếp tục đến đời trị vì của Sê-đê-kia (597-586). Ông là vị vua cuối cùng của Giu-đa cho đến khi quân Ba-by-lôn chinh phục Giê-ru-sa-lem vào năm 586.
Thông điệp của vị tiên tri nói trước về 300 năm sau vào thời trị vì của vị vua yêu mến Chúa: Giô-si-a (640-609), người đã dẹp bỏ tận gốc sự thờ hình tượng trong vương quốc, bao gồm cả điện thờ của nhà vua ở Bê-tên (IIVua 23:15-16). Giô-si-a làm bàn thờ mất tính thiêng liêng bằng việc đốt xương người trên đó, và sau đó ông triệt hạ bàn thờ và đổ tro xuống đất. Lời tiên tri được ứng nghiệm đúng như những gì vị tiên tri nói. Lời hứa này chắc chắn đến nỗi vị tiên tri đã nói cả tên của nhà vua! (Es 44:28; Es 45:1,13).
• Phép lạ (IVua 13:4-6).
Nhà vua không để ý đến thông điệp từ Đức Chúa Trời; những gì ông muốn là trừng trị kẻ mang đến thông điệp đó. Ông rất tức giận khi nghe rằng một vị vua của Giu-đa một ngày kia sẽ mạo phạm và dẹp bỏ hệ thống tôn giáo đang thành công của ông. Khi Giê-rô-bô-am giơ tay ra và chỉ vào vị tiên tri, Đức Chúa Trời đụng vào tay ông và nó bị đột qụy. Thật là một kinh nghiệm nhục nhã cho một vị vua kiêm thầy tế lễ đầy quyền lực! Vào lúc đó, bàn thờ tà thần nứt ra và tro trên đó đổ xuống. Thường Đức Chúa Trời minh chứng cho Lời của Ngài bằng những dấu hiệu kỳ lạ (He 2:1-4;) nhưng chỉ để nhấn mạnh thêm cho thông điệp.
Mặc dầu sự kiêu hãnh ngoan cố và sự không vâng lời bướng bỉnh, Đức Chúa Trời vẫn nhân từ chữa lành cánh tay cho ông. (Xu 8:8; Cong 8:24). Tệ hơn là nhà vua chỉ quan tâm đến sự chữa lành thuộc thể cho thân thể ông hơn là sự chữa lành về đạo đức và thuộc linh cho tấm lòng mình.
Nhà vua chứng kiến ba phép lạ chỉ trong vòng vài phút, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy ông nhận ra được tội lỗi của mình. Bản thân những phép lạ không đem đến sự nhận thức tội lỗi hay cứu rỗi đức tin, nhưng chúng gây sự chú ý đến Lời Đức Chúa Trời. Khi Chúa Giê-xu gọi La-xa-rơ từ sự chết, một vài người chứng kiến đã tin Ngài trong khi một số khác đến ngay những nhà lãnh đạo Do-thái và dựng chuyện (Gi 11:45-54).
Phép lạ không cần thiết cho sự truyền bá Phúc-Âm (Gi 10:40-42), và những người nói rằng họ tin Chúa chỉ bởi vì phép lạ của Ngài thật sự là “những người tin không được cứu” (Gi 2:23-25).
• Thủ đoạn (IVua 13:7-10).
Giê-rô-bô-am là người khôn lanh và cố gắng gài bẫy vị tiên tri bằng cách mời ông đến cung điện dùng bữa.Sa-tan đến như sư tử ăn nuốt chúng ta (IPhi 5:8) và khi không làm được điều đó nó đến như con rắn để lừa gạt chúng ta (IICo 11:3 Sa 3:1).
Nhà vua vừa mới nói “Hãy bắt nó đi” bây giờ thành “Hãy về cung với ta”. Nhưng vị tiên tri từ chối, vì ông biết mạng lệnh của Đức Chúa Trời cho ông là phải rời khỏi Bê-tên và không được lưu lại. Nếu vị tiên tri cùng ăn một bữa với nhà vua, chỉ hành động đơn giản đó sẽ xóa đi hiệu lực của lời chứng và công việc của ông.
Ở phương đông, việc dùng bữa chung là biểu hiện của tình bạn và sự tán thành. Vị tiên tri chắc chắn không muốn trở thành bạn của một người gian ác như vậy hay gây cho người khác ấn tượng rằng mình đang tán thành công việc xấu xa của người đó.
“Người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác khác nào một suối nước bị dấy đục, một nguồn nước bị hư” (Ch 25:26). Một người đầy tớ thỏa hiệp của Đức Chúa Trời làm vẩn đục nước và từ chối sự thánh khiết. Vị tiên tri từ chối tình bạn, thức ăn và tặng phẩn của nhà vua. Giống như Đa-ni-ên, ông nói “Vua hãy giữ lại của ban thưởng, và lễ vật vua hãy ban cho kẻ khác” (Đa 5:17).
• Lỗi lầm (IVua 13:11-34).
Vị tiên tri trung thành từ Giu-đa không thể bị nhà vua gian ác phỉnh gạt nhưng ông lại bị một vị tiên tri già đã nghỉ hưu lừa gạt! Câu chuyện này bày tỏ một số điều làm nhiều người bối rối, nhưng chúng ta không thể quên thông điệp chính: nếu Đức Chúa Trời trừng phạt một vị tiên tri phạm tội bất tuân vì bị lừa gạt thì Ngài sẽ trừng phạt hơn như thế nào đối với một vị vua gian ác đang phạm tội với đôi mắt mở to? Nếu một vị tiên tri thật sự bất tuân và bị kỷ luật, điều gì sẽ xảy ra với những vị tiên tri giả?
Vị tiên tri từ Giu-đa không thỏa hiệp trong thông điệp của mình, nhưng ông đã thỏa hiệp trong cách cư xử, và ông phải trả giá cho sự không vâng lời bằng chính mạng sống của mình. Đức Chúa Trời đang phán với Giê-rô-bô-am, “Lại nếu người công bình còn khó được rỗi thì những kẻ nghịch đạo và có tội sẽ trở nên thế nào?” (IPhi 4:18 Ch 11:31).
Có một số đặc điểm của vị tiên tri già làm tôi băn khoăn. Đầu tiên, ông làm gì khi sống ở Bê-tên khi mà chỉ cần đi vài dặm ông có thể ở Giu-đa? Chúng ta có ấn tượng rằng vị tiên tri này không chính xác là một người phi thường về mặt thuộc linh nếu không thì Đức Chúa Trời đã gọi ông vào việc quở trách nhà vua. Việc ông nói dối vị tiên tri đồng bạn đặt ra một số câu hỏi về nhân cách của ông.
Việc ông khóc than cái chết của vị tiên tri trẻ khi chính ông gián tiếp gây ra điều này, và việc ông sau đó chôn người mà chính ông gián tiếp giết cũng làm cho chúng ta bối rối. Có phải ông đang cố gắng chuộc tội lỗi của chính ông đối với vị tiên tri?
Vị tiên tri trẻ làm tốt công việc của mình và rời khỏi thành. Nếu ông cứ tiếp tục đi và không dừng lại nghỉ dưới gốc cây thì ông sẽ thoát được khỏi lời mời cám dỗ của vị tiên tri già. Những đầy tớ của Đức Chúa Trời thường đối diện với sự cám dỗ to lớn sau những thời gian thành công rực rỡ và sôi nổi. (IVua 18:1-19:21). Con trai của vị tiên tri già chứng kiến sự đối đầu giữa Giê-rô-bô-am với vị tiên tri trẻ tại bàn thờ và kể lại cho cha mình nghe những gì vị tiên tri từ Giu-đa đã nói về nhà vua và về mạng lệnh của Đức Chúa Trời đối với ông (c.8-10).
Khi vị tiên tri già bắt kịp người truyền thông điệp của Đức Chúa Trời, ông cố ý cám dỗ người bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời, và người trẻ tuổi này đã rơi vào bẫy! Vị tiên tri già lẽ ra không nên xúi giục một đầy tớ đồng chức vụ với mình bất tuân lời Đức Chúa Trời, nhưng vị tiên tri trẻ lẽ ra cũng không nên vội tin lời của người này. Nếu Đức Chúa Trời đã phán với người từ Giu-đa thông điệp của Ngài và những chỉ thị để truyền rao điều đó thì sau đó Ngài cũng sẽ cho ông biết những thay đổi trong kế hoạch.
Khi một người bị xáo động về tình cảm nói với Charles Spurgeon rằng Đức Chúa Trời đã bảo ông hãy giảng thuyết cho Spurgeon vào Chúa-nhật tới tại Metropolitan Tabernacle, Spurgeon trả lời rằng “Khi nào Đức Chúa Trời bảo tôi, tôi sẽ cho ông biết.” Những người tin Chúa khác có thể dùng lời Chúa để khích lệ, cảnh cáo, hay sửa dạy chúng ta, nhưng hãy cẩn thận trong việc để cho người khác nói với bạn về ý muốn của Đức Chúa Trời cho cuộc đời bạn. Đức Chúa Cha yêu mỗi một người con của Ngài và muốn truyền đạt ý muốn của Ngài cho mỗi người cách cá nhân (Thi 33:11). Đúng là có sự an toàn giữa vô số những người cố vấn, miễn là bạn bước đi với Đức Chúa Trời, nhưng không chắc chắn rằng bạn có được ý muốn của Đức Chúa Trời chỉ bởi vì cả một đám đông ủng hộ điều đó.
Vì vị tiên tri già biết được những gì vị tiên tri từ Giu-đa có nhiệm vụ phải làm, tại sao ông cố ý nói dối người và khuyến khích người không vâng lời Đức Chúa Trời? Có phải vị tiên tri già lo lắng rằng vị tiên tri đến thăm sẽ khuấy động mọi sự tại nơi Bê-tên dễ chịu và tạo ra vấn đề cho ông cùng những kẻ thỏa hiệp đang thỏa mãn khác? Có lẽ vị tiên tri trẻ đang tự hào về những gì ông đã làmlà truyền dạy một thông điệp đầy quyền năng và thực hiện ba phép lạ_và Đức Chúa Trời dùng người già này để thử ông và đem ông trở lại nơi cần thiết.
Vị tiên tri già đã cám dỗ vị tiên tri trẻ bằng việc nói dối, nhưng vị tiên tri trẻ đã tự cám dỗ chính mình (ông đã ở ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời) và cám dỗ Đức Chúa Trời bằng việc quay trở lại Bê-tên. Tại sao vị khách trẻ không tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời và khám phá ra ý muốn của Ngài? Đoạn Kinh Thánh này chỉ kể cho chúng ta về những sự kiện, không phải về những động cơ trong lòng của mỗi người trong cuộc, vì thể chúng ta không thể trả lời những câu hỏi này một cách dứt khoát được.
Một trong những sự kiện lạ nhất của tất cả những điều này là Đức Chúa Trời đã phán Lời của Ngài cho vị tiên tri già, người đã ở ngoài ý muốn của Ngài! Nhưng Đức Chúa Trời đã phán với Ba-la-am, một người chưa hẳn là tách biệt hay tận hiến cho Đức Chúa Trời; cũng như Ngài đã phán với Ê-li (IVua 18:1-46) và Giô-na (Gion 3:1-4:11). Sau bữa ăn, vị tiên tri trẻ trở về nhà, trên đường gặp một con sư tử và bị nó giết. Nhưng ngay cả sự kiện này cũng có khía cạnh lạ thường vì con sư tử không cắn xé xác người hay tấn công con lừa và con lừa cũng không bỏ chạy.
Những con vật này ắt hẳn đã ở đó rất lâu vì những người chứng kiến đã kể lại chuyện này trong Bê-tên và người ta đến để xem cảnh tượng này, bao gồm cả vị tiên tri già đến mang xác đi đem chôn. Chắc chắn những tin tức này bay đến cung điện và có lẽ nhà vua vui mừng vì kẻ thù của mình đã chết. Nhưng những lời của vị tiên tri sẽ không chết! Và chính cái chết của vị tiên tri là một lời cảnh cáo khác cho Giê-rô-bô-am rằng ông nên bắt đầu vâng phục Lời của Đức Chúa Trời.
Vị tiên tri già ắt hẳn đã lấy lại được can đảm, vì ông công khai tuyên bố rằng lời tiên tri được nói tại bàn thờ ở Bê-tên sẽ ứng nghiệm (c.31-32) và nó đã ứng nghiệm (IIVua 23:15-18). 300 năm sau, vua Giô-si-a nhìn thấy mộ của vị tiên tri già và lấy hết can đảm tin rằng Đức Chúa Trời sẽ làm thành Lời của Ngài. Nhưng có điều gì trong những sự kiện lạ thường này làm thức tỉnh tấm lòng của vua Giê-rô-bô-am và đem ông đến chỗ ăn năn? “Sau việc ấy, Giê-rô-bô-am không trở lại con đường ác mình” (c.33). Tuy nhiên, lời cảnh cáo tiếp theo của Đức Chúa Trời sẽ đến gần nhà hơn.
3. Ông không nhận sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời (IVua 14:1-20)
Chúng ta không đọc thấy trong Kinh Thánh rằng Giê-rô-bô-am tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời, cầu nguyện cho sự nhận thức rõ ràng về mặt thuộc linh, hay cầu xin Đức Chúa Trời khiến ông trở nên một người tin kính Ngài. Ông cầu xin sự chữa lành đôi tay, bây giờ ông cầu xin tiên tri A-hi-gia chữa bệnh cho con trai mình là thái tử và người kế vị. Rõ ràng đối với ông những phước hạnh thuộc thể quan trọng hơn những phước hạnh thuộc linh. Giống như những tín hữu danh nghĩa và những thành viên cẩu thả của Hội thánh ngày nay, lần duy nhất Giê-rô-bô-am muốn người của Đức Chúa Trời giúp đỡ là khi ông gặp vấn đề.
• Người vợ giả dạng (IVua 14:1-3).
Vào lúc ấy A-bi-gia không còn là một đứa trẻ nhỏ. Ông đủ lớn để được Đức Chúa Trời chấp nhận (c.13) và được dân sự đánh giá cao, vì họ than khóc ông khi ông chết (c.18). Rất có thể những người tin kính Chúa còn sót lại trong Y-sơ-ra-ên đặt hy vọng vào vị thái tử trẻ tuổi, nhưng Đức Chúa Trời đã xét đoán gia đình hoàng gia và những cư dân bội đạo bằng cách kêu gọi thái tử tránh xa nơi ô uế trụy lạc được gọi là Y-sơ-ra-ên. “Người công bình chết chẳng ai để ý đến; người nhân đức bị cất đi, hẳng ai suy nghĩ rằng người công bình bị cất đi khỏi tai vạ hầu đến” (Es 57:1).
Nhà vua muốn sự giúp đỡ từ vị tiên tri, nhưng ông quá kiêu hãnh để thừa nhận điều đó hay đích thân đối diện với A-hi-gia. Vị tiên tri vẫn sống tại Si-lô (IVua 11:29). Ông quá già và ốm yếu để dời đến sống tại Giu-đa, ông muốn trung thành đến phút cuối và cảnh báo Giê-rô-bô-am về hậu quả tội lỗi của ông. Có phải nhà vua đã nghĩ rằng một sự cải trang sẽ đánh lừa được vị tiên tri tin kính Chúa nhưng mù lòa? Trong sự mù lòa của mình A-hi-gia có thể thấy nhiều hơn Giê-rô-bô-am và vợ của ông có thể thấy bằng mắt mình. Những vật phẩm mà hoàng hậu mang đi là những thứ rất thông thường của người lao động, không phải là những vật phẩm mà nhà vua thường tặng.
• Vị tiên tri sâu sắc (IVua 14:4-6).
Từ Tiệt-sa đến Si-lô mất khoảng 20 dặm, nhưng vị tiên tri biết bà đang đến trước khi bà đến thành phố. Vị tiên tri lớn tuổi biết ai đang đến, tại sao bà đến và ông phải có nhiệm vụ nói với bà điều gì.
“Đức Giê-hô-va tỏ cho người kính sợ Ngài biết sự kín nhiệm của Ngài” (Thi 25:14).
“Cũng vậy, Chúa Giê-hô-va chẳng có làm một việc gì mà Ngài chưa tỏ sự kín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài là, các đấng tiên tri” (Am 3:7).
Giê-rô-bô-am sai vợ mình đến A-hi-gia, nhưng A-hi-gia lại nói rằng ông được sai đến bà! Ông truyền cho bà thông điệp bà sẽ nói với chồng mình và nó không phải là một thông điệp tốt lành.
• Thông điệp được bày tỏ (IVua 14:7-16).
Đầu tiên, vị tiên tri nhắc Giê-rô-bô-am nhớ về ân điển của Đức Chúa Trời trong quá khứ (c.7-8a). Đức Chúa Trời đã chọn Giê-rô-bô-am và cất nhắc ông từ một người lãnh đạo địa hạt lên thành người cai quản toàn vương quốc phía bắc. c.7 Đức Chúa Trời đã giật mười chi phái khỏi tay nhà Đa-vít và ban chúng cho Giê-rô-bô-am. Nhưng sau đó A-hi-gia phơi bày tội lỗi của Giê-rô-bô-am trong hiện tại (c.8b-9).
Không giống như Đa-vít, người đã tận hiến trọn cả tấm lòng cho Đức Chúa Trời, Giê-rô-bô-am làm điều ác hơn cả điều ác của Sau-lơ, Đa-vít và Sa-lô-môn cộng lại. Ông xây bỏ Đức Chúa Trời chân thật của Y-sơ-ra-ên và làm những thần tượng giả dối, sau đó cho phép dân sự của mười chi phái thờ phượng những thần tượng này. Ông lập ra một tôn giáo giả mạo, chọc giận Đức Chúa Trời, à từ chối lắng nghe những vị tiên tri được phái đến để cảnh cáo ông.
Điều này dẫn đến Sự bày tỏ của A-hi-gia về tương lai của Giê-rô-bô-am (c.10-16). Đầu tiên, không giống như vua Đa-vít, iê-rô-bô-am sẽ không thiết lập một vương triều, mặc dù Đức Chúa Trời đã hứa chúc phước cho ông bằng “một nhà vững chắc” nếu ông vâng lời Đức Chúa Trời (IVua 11:38).
Tất cả những con cháu trai của Giê-rô-bô-am sẽ bị chết đột ngột; Đức Chúa Trời sẽ “quét sạch” gia đình Giê-rô-bô-am và cất đi những người thừa kế có khả năng, giống như cách đầy tớ dọn phân trong nhà. (Đức Chúa Trời không nghĩ nhiều đến những đứa con của vua!). Nhưng tệ hơn nữa không một ai trong số họ trừ A-bi-gia, vị thái tử ốm yếu có được một sự chôn cất đàng hoàng. Những xác chết của các con ông sẽ bị chó trong thành ăn nuốt và chim ngoài đồng cắn rỉa, hông bao giờ được chôn cất. Đây là một sự nhục nhã ghê gớm cho bất kỳ người Do-thái nào.
Sau đó A-hi-gia nói đến việc sắp xảy ra, tương lai của người kế vị ngai vàng đang đau bệnh. A-bi-gia sẽ chết, có sự chôn cất đàng hoàng và được dân sự than khóc.
Con trai duy nhất của Giê-rô-bô-am độc ác, người có thể cai trị đúng đắn đã bị cất khỏi họ, không phải vì ông độc ác nhưng vì ông là người tốt và Đức Chúa Trời muốn miễn cho ông khỏi sự đau khổ đã dành cho vương quốc (Es 57:1).
Trong khi A-hi-gia nói tiên tri (c.14), ông nhìn thấy Na-đáp là con trai và người kế vị của Giê-rô-bô-am sẽ trị vì được hai năm và sau đó bị Ba-ê-sa, một người về nhà Y-sa-ca giết chết (IVua 15:25-31). Ba-ê-sa không chỉ giết Na-đáp, nhưng ông tiêu diệt hết thảy gia đình của Giê-rô-bô-am, làm thành lời tiên tri của A-hi-gia (IVua 15:29).
Nhưng sau đó vị tiên tri mù còn nói tiên tri về những điều xảy ra xa hơn nữa (c.15-16) và nhìn thấy toàn vương quốc Y-sơ-ra-ên bị kẻ thù đánh bại (A-sy-ri)bị đem đi khỏi xứ, và bị phân tán khắp các nước. Điều này xảy ra vào năm 722 T.C. Vương quốc Y-sơ-ra-ên có một hệ thống tôn giáo mới nhưng họ vẫn ở dưới giao ước của Đức Chúa Trời (Le 26:1-46; Phu 28:1-30:20).
Giao ước đó cảnh báo rằng sự bất tuân của họ đối với luật pháp của Đức Chúa Trời sẽ đem đến sự thất bại về quân sự và sự phân tán đất nước giữa vòng những nước khác (Phuc 28:25-26,49-52; Le 26:17,25,33-39) và (Phuc 7:5 12:3-4). Đâu là nguyên nhân gây ra sự đoán phạt khủng khiếp này? “Vì cớ tội Giê-rô-bô-am đã phạm, tức tội khiến cho dân Y-sơ-ra-ên can phạm” (c.16).
Như vua Đa-vít là chuẩn mực của Đức Chúa Trời để đo lường những vị vua tốt thì Giê-rô-bô-am là thí dụ của Đức Chúa Trời về một trong những vị vua tệ nhất. (IVua 15:34; IVua 16:2-3,7,9,26,31; IVua 22:52; IIVua 3:3; IIVua 9:9; IIVua 10:29,31; IIVua 13:2,6,11; IIVua 14:24; IIVua 15:9,18,24,28;IIVua 17:21-22).
• Sự thi hành đau đớn (IVua 14:17-20).
Rõ ràng Giê-rô-bô-am có một cung điện ở Tiệt-sa và một cung điện ở Si-chem ắt hẳn nó ở ngoài bìa thành.A-hi-gia đã báo cho vợ Giê-rô-bô-am biết rằng đứa trẻ sẽ chết ngay khi bà vào thành (c.12), nhưng câu 17 cho biết nó chết khi bà đặt chân trên ngạch cửa.
Toàn Y-sơ-ra-ên khóc than cái chết của người con trai này và họ tổ chức một đám tang xứng đáng với một thái tử cho ông. Tay của nhà vua đã được chữa lành và bàn thờ của ông bị phá đổ (IVua 13:1-16), và bây giờ con trai ông chết. Quân đội của ông sẽ bị vua Giu-đa cũng tên là A-bi-gia (IISu 13:1-22) đánh bại.Trước khi ông ăn năn, đã bao nhiêu lần Đức Chúa Trời phải cảnh cáo ông?
Không ai có thể phạm tội giống như Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát. Trong suốt 22 năm làm vua Y-sơ-ra-ên, ông dẫn gia đình và đất nước vào sự suy đồi. Một ngày nào đó Giê-rô-bô-am qua đời và con trai ông là Na-đáp, người sau này b ị ám sát sẽ kế vị ông. Ngày đó đến thì không có một con cháu nào của vua Giê-rô-bô-am còn sống hay bạn có thể nhận ra được mười chi phái của Y-sơ-ra-ên.
“Tôi thật sự lo sợ cho đất nước tôi khi tôi ngẫm nghĩ rằng Đức Chúa Trời rất công bình; rằng sự công bình của Ngài không thể ngủ yên mãi mãi…”, Homas Jefferson đã viết những lời này vào năm 1781, nhưng chúng cũng thích hợp với chúng ta ngày nay.
IVua 14:21-31 xem giải nghĩa IVua 12:18-24.
9. CUỘC DIỄU HÀNH CỦA CÁC VỊ VUA (IVua 15:1-16:28; IISu 13:1-16:3)
Nếu không phải do bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời tối cao, nước Do-thái không bao giờ có thể hoàn thành những gì Đức Chúa Trời kêu gọi họ làm: làm nhân chứng cho một Đức Chúa Trời hằng sống và có thực, viết Kinh Thánh và đem Chúa Cứu Thế đến thế gian. Thay vì một thì bây giờ có hai vương quốc và những người lãnh đạo cùng người dân thường trong cả hai vương quốc đã rời bỏ Đức Chúa Trời để phục vụ thần tượng.
Ở Giu-đa, những thầy tế lễ vẫn tiếp tục công việc của mình tại đền thờ, nhưng trong suốt 345 năm từ đời Giê-rô-bô-am đến đời Sê-đê-kia chỉ có tám trong số mười chín vua Giu-đa được kể là “tốt”. Hầu hết trong số 20 vị vua của Y-sơ-ra-ên là những người tự lợi, được kể là “gian ác”. Một số người tốt hơn những người khác, nhưng không ai có thể so sánh với vua Đa-vít.
Lưu ý rằng sách Các-vua và Sử-ký không ghi lại lịch sử chính xác từ cùng một viễn cảnh. Trong sách I Các-vua và II Các-vua, trọng tâm là về những vị vua của Y-sơ-ra-ên, nhưng I Sử-ký và II Sử-ký nhấn mạnh về vương triều của nhà Đa-vít trong Giu-đa. Vương quốc phía bắc của Y-sơ-ra-ên, sau này gọi là Sa-ma-ri, chỉ được nói đến trong Sử ký khi nó có quan hệ với Giu-đa.
Một điều nên nhớ nữa là hai vương quốc sử dụng những hệ thống khác nhau trong việc lưu giữ văn thư chính thức. Tại Giu-đa, đời trị vì của nhà vua được tính từ lúc bắt đầu niên lịch kế tiếp sau khi ông bắt đầu trị vì, trong khi tại Y-sơ-ra-ên, việc tính này bắt đầu vào năm nhà vua thật sự lên ngôi. Ngoài ra, một số vị vua dùng con trai mình làm người cùng nhiếp chính trong những năm cuối đời trị vì của họ.
Những yếu tố này làm cho việc tính toán một số vị vua trị vì trong bao lâu trở nên phức tạp, và điều này giúp chúng ta hiểu tại sao những nhà nghiên cứu Kinh Thánh lúc nào cũng không thống nhất với nhau.
1. Một vương triều tiếp tục (IVua 15:1-24) (IISu 13:1-16:13)
Vương quốc phía bắc của Y-sơ-ra-ên có chín vương triều trong khoảng 250 năm, trong khi vương quốc phía nam trung thành giữ vững vương triều Đa-vít trong 350 năm và từ vương triều đó mà Chúa Giê-xu Christ, con trai của Đa-vít sẽ đến (Mat 1:1).
Mặc cho tất cả những tội lỗi của mình, vương quốc Giu-đa vẫn gắn liền vận mệnh của mình với Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, thực hành sự thờ phượng được cho phép trong đền thờ, và có những vị vua thuộc gia đình Đa-vít. Hai trong số những vị vua đó được kể tên trong những đoạn này là A-bi-gia và A-sa.
• A-bi-gia (IVua 15:1-8; IISu 13:1-22).
Người con trai này của Rô-bô-am được cha mình chọn lựa kỹ lưỡng vì những khả năng đã được chứng tỏ của ông (IISu 11:22), hưng ông không phải là một người kính sợ Chúa (IISu 15:3). Ông chỉ trị vì trong ba năm trong khoảng 913-910 T.C. Ông là dòng dõi nhà Đa-vít từ cả cha lẫn mẹ, vì người con trai đáng hổ thẹn của Đa-vít là Áp-sa-lôm chính là ông ngoại của A-bi-gia. A-bi-gia có lẽ có dòng máu của Đa-vít chảy trong người, nhưng ông không có trái tim hoàn hảo của Đa-vít đập trong ngực. Cha của A-bi-gia là Rô-bô-am vẫn không từ bỏ cuộc chiến tranh liên tiếp với Giê-rô-bô-am, và A-bi-gia tiếp tục tryền thống đó.
Tuy nhiên, A-bi-gia biết lịch sử của mình và tin vào những điều Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se và Đa-vít. Ông có can đảm giảng thuyết một bài cho Giê-rô-bô-am và đội quân gồm 800.000 người của ông đông gấp hai lần đội quân của Giu-đa, nhắc nhở họ về nền tảng chân thật của niềm tin của người Do-thái (IISu 13:4).
Ông đứng trên núi Xê-ma-ra-im, một nơi cao nằm ở biên giới giữa Bê-gia-min và Y-sơ-ra-ên (Gios 18:22) và giảng thuyết. Ông mở đầu bài giảng thuyết của mình bằng việc nhắc Giê-rô-bô-am nhớ rằng dòng dõi Đa-vít mới chính là vương triều hoàng gia thật sự vì được khởi đầu bởi giao ước không hề thay đổi của Đức Chúa Trời với Đa-vít (c.4-5 IISa 7:1-29). Cụm từ “giao-ước bằng muối” có nghĩa là “một giao-ước đời đời” (Dan 18:9).
Đưa ra lý lẽ trước về việc Đức Chúa Trời cũng lập Giê-rô-bô-am làm vua, A-bi-gia giải thích tại sao đất nước bị phân chia (IISu 13:6-7). Giê-rô-bô-am đã nổi loạn chống lại cả Sa-lô-môn và Rô-bô-am rồi phải chạy trốn sang Ai-cập. Sau đó, Rô-bô-am vì còn non nớt nên nghe theo những kẻ cố vấn không khôn ngoan và đã có một quyết định dại dột dẫn đến việc Giê-rô-bô-am trở thành vua. Nhưng kế hoạch ban đầu của Đức Chúa Trời là dòng dõi Đa-vít sẽ trị vì một vương qu ốc thống nhất. ISử-ký và IISử-ký nhấn mạnh trên tính chính thống của vương triều Đa-vít (ISu 17:14 ISu 28:5 ISu 29:11,23 IISu 9:8).
Kết thúc vấn đề về việc các con trai Đa-vít nên ngồi trên ngai vàng, -bi-gia nhắc nhở Giê-rô-bô-am rằng chỉ có những con trai của A-rôn mới có thể phục vụ trong đền thờ (IISu 13:8-12). Đền thờ thánh duy nhất của Đức Chúa Trời là ở Giê-ru-sa-lem và tại đó những thầy tế lễ, những con trai của A-rôn tiến hành các nghi lễ thờ phượng đã được Đức Chúa Trời quy định thông qua Môi-se.
Giu-đa thờ phượng một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật duy nhất, trong khi Y-sơ-ra-ên thờ phượng hai tượng bò vàng. Những thầy tế lễ của Y-sơ-ra-ên là những người làm thuê, không phải là những đầy tớ thánh được chọn lựa của Đức Chúa Trời. Ở Giu-đa, dân sự tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời. “Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta!” Vì thế, nếu Y-sơ-ra-ên tấn công Giu-đa, Y-sơ-ra-ên đang đấu tranh chống lại Đức Chúa Trời!
Những lính gác của A-bi-gia không làm tốt công việc của mình, vì trong khi A-bi-gia đang nói, một số quân lính của Giê-rô-bô-am đi vòng đằng sau ông và lập quân mai phục. Nếu Giu-đa tấn công, quân của họ sẽ phải chia ra và đánh ở hai mặt, chắc chắn đây là một tình thế rất nguy hiểm. Có quan điểm thần học tốt là quan trọng, nhưng có chiến lược giỏi và báo cho binh lính phải đề phòng nguy hiểm và sẵn sàng hành động cũng quan trọng.
Nhưng A-bi-gia đủ sức với thách thức này ông kêu cầu sự giải cứu của Đức Chúa Trời. Cùng lúc đó, các thầy tế lễ thổi kèn (Dan 10:8-10) và quân Giu-đa la to, giống như dân sự ngày xưa đã làm với thành Giê-ri-cô (Gios 6:1-27), ngay lập tức Đức Chúa Trời mang đến sự chiến thắng.
Hơn một nửa quân Giê-rô-bô-am bị quân Giu-đa giết chết và quân lính của A-bi-gia di chuyển đến phía bắc để chiếm lấy thành Bê-tên cách Giê-rô-bô-am mười dặm. Từ Bê-tên, họ di chuyển năm dặm về phía nam và chiếm Giê-na-sa, và bốn dặm về phía đông nam chiếm Ép-ran (Ép-rôn). A-bi-gia không những đánh bại quân đội Y-sơ-ra-ên và chiếm lại một số đất đai bị mất, hưng ông còn giáng cho Giê-rô-bô-am một đòn mà ông không bao giờ khôi phục lại được. Sau đó Đức Chúa Trời đánh Giê-rô-bô-am và ông chết (IISu 13:20; IVua 14:19-20).
Chính vì vinh hiển của danh Ngài mà Đức Chúa Trời đã làm những điều này. Trong I Các-vua, A-bi-gia không được kể là một vị vua kính sợ Chúa, nhưng chúng ta ca ngợi ông vì sự hiểu biết của ông về lẽ thật của Đức Chúa Trời và niềm tin của ông nơi quyền năng của Ngài. A-bi-gia không phải là Giô-suê, nhưng Đức Chúa Trời của Giô-suê vẫn là Đức Chúa Trời của dân sự Ngài và chứng tỏ Ngài là thành tín. A-bi-gia càng trở nên cường thạnh hơn, sanh nhiều con cái và tiếp tục vương triều của Đa-vít. Đức Chúa Trời sử dụng người không hoàn hảo để thực hiện ý muốn của Ngài, miễn là họ tin vào Ngài.
• A-sa (IVua 15:9-24; IISu 14:16).
Con trai của A-bi-gia là A-sa trị vì trong 41 năm (910-869). Ông bắt đầu việc trị vì của mình với một tấm lòng giống như Đa-vít (IVua 15:11; IISu 14:2). Mặc dầu là một vị vua tốt trong phần lớn cuộc đời của mình nhưng trong năm năm cuối cùng, ông chống lại Đức Chúa Trời.
Từ “mẹ” trong (IVua 15:10) nên là từ “bà nội” vì nó nói đến cùng một người được nhắc đến trong câu 2. Người Do-thái không phân biệt họ hàng chính xác như chúng ta ngày nay. Có ba sự phân chia chính trong cuộc đời và triều đại của A-sa.
(1) Hòa bình và thắng lợi (IVua 15:9-11; IISu 14:1-15:7).
Nhờ vào chiến thắng của cha ông với Giê-rô-bô-am (IVua 13:1-22) A-sa có được sự hòa bình trong mười năm đầu ông trị vì (IVua 14:1). Trong thời gian đó, ông cải tổ lại đất nước, dẹp bỏ sự thờ lạy thần tượng trong xứ và thúc đẩy dân sự tìm kiếm Đức Chúa Trời (c.2-5). Ông cũng củng cố vương quốc bằng việc xây dựng những thành phố phòng thủ và thành lập một đội quân gồm 580.000 người (c.6-8).
Tuy nhiên, tầm quan trọng không phải trên những thành công về quân sự nhưng trên việc tìm kiếm Đức Chúa Trời (c.7). Chính Đức Chúa Trời đã ban cho họ sự hòa bình vì họ tìm kiếm mặt Ngài. Họ sử dụng thời gian hòa bình đó để chuẩn bị cho bất kỳ cuộc chiến nào sẽ xảy ra, vì đức tin không có việc làm thì chết. Việc A-sa chuẩn bị mọi thứ là điều tốt, vì quân Ai-cập do Xê-rách người Ê-thi-ô-bi dẫn đầu sẽ tấn công Giu-đa. Hai quân đội gặp nhau tại Ma-rê-sa, cách tây nam Giê-ru-sa-lem 25 dặm.
Giống như cha mình, A-sa biết phải kêu cầu Đ ức Chúa Trời như thế nào trong ngày gian truân (IVua 14:11 IVua 13:14-18). Nhà vua biết về cảnh ngộ của mình, vì ông nhận định Giu-đa là “những người không có sức mạnh”. Quân đội của Xê-rách gần như đông gấp hai lần của A-sa, và người của A-sa không có xe ngựa.
Cho dù có nhiều hay ít quân lính, Đức Chúa Trời vẫn có thể hành động với quyền năng vĩ đại. Có thể ông đã nghĩ đến những lời của Giô-na-than khi cầu nguyện theo cách đó (ISa 14:6). Ông cũng có thể đang nghĩ về những điều Sa-lô-môn cầu xin trong lời cầu nguyện dâng hiến (IISu 6:34-35). Sự giải cứu thình lình giữa lúc chiến trận là chủ đề được lặp đi lặp lại trong II Sử-ký (IISu 13:14-18; IISu 14:11-12; IISu 18:31; IISu 20:1; IISu 32:20-22).
Động cơ của A-sa không chỉ đơn giản là đánh bại một kẻ thù nguy hiểm nhưng còn đem lại vinh hiển cho Giê-hô-va. Giống như Đa-vít đi đến Gô-li-át, ông tấn công đội quân kẻ thù “nhân danh Đức Giê-hô-va vạn binh, tức là Đức Chúa Trời của đạo binh Y-sơ-ra-ên” (ISa 17:45).
Đáp lại lời cầu nguyện bằng đức tin của A-sa, Đức Chúa Trời đánh bại quân Ai-cập một cách mạnh mẽ và cho phép A-sa và người của ông đuổi theo quân Ai-cập xuống phía nam về Ghê-ra. Tại đó người Giu-đa và Bên-gia-min cướp bóc những thành phố xung quanh Ghê-ra và mang về rất nhiều chiến lợi phẩm. Sự thất bại này của quân đội Ai-cập quá nhục nhã đến nỗi người Ai-cập không tấn công người Giu-đa lần nào nữa mãi cho đến gần 300 năm sau, khi vua Giô-si-a đương đầu với quân đội của Pha-ra-ôn Nê-cô tại Cạt-kê-mít (IISu 35:20-24).
Đức Chúa Trời phái tiên tri A-xa-ria đi đón A-sa và đội quân chiến thắng trao cho họ một thông điệp khích lệ và cảnh cáo (IVua 12:21-24; IISu 16:7). Có nhiều vị tướng đã chiến thắng trong chiến trận nhưng chung cuộc lại thất bại bởi vì kiêu ngạo hay bất cẩn và Đức Chúa Trời không muốn A-sa rơi vào cái bẫy đó. Thông điệp của A-xa-ria giống như của vua A-sa: tìm kiếm Đức Chúa Trời, vâng lời Ngài, tin cậy Ngài, và vững mạnh trong Đức Chúa Trời (IISu 15:1-7; IISu 14:4; Phuc 4:29).
A-xa-ria hồi tưởng lại thời kỳ đen tối của các quan-xét, khi đất nước không có vua, thầy tế lễ yêu mến Chúa hay một ai để thi hành luật pháp (Cac 2:11-21). Vì dân sự đã quay sang thờ thần tượng, xứ của họ tràn lan kẻ thù và việc đi lại không an toàn (Cac 5:6; Cac 19:20). Điều này làm thành lời cảnh báo trong giao ước của Đức Chúa Trời (Phuc 28:25-26,30,49-52). Nhưng bất kỳ khi nào dân sự kêu cầu Đức Chúa Trời và từ bỏ thần tượng, Ngài sẽ nhân từ tha thứ cho họ và đánh bại kẻ thù của họ.
A-xa-ria khuyên răn nhà vua và dân sự bắt tay vào việc, xây dựng đất nước, rung thành phục vụ Đức Chúa Trời.
(2) Sự cải tổ và đổi mới (IVua 15:12-15; IISu 15:8-19). Đây là giai đoạn thứ hai trong cuộc cải tổ của A-sa và chắc chắn lần này ông nghiêm khắc giải quyết vấn đề tội lỗi trong xứ hơn giai đoạn trước. Ông đuổi những kẻ nam mãi dâm và tình dục đồng giới ra khỏi xứ, vì điều này bị luật pháp của Đức Chúa Trời cấm (Phuc 23:17; Le 18:22; Le 20:13; Ro 1:27; ICo 6:9).
Ông cũng cách chức thái hậu của bà nội mình vì bà có một điện thờ thần tượng dưới những cây rậm.Điều này phải có can đảm mới có thể làm được! Chúng ta không biết những của cải đã dâng hiến này được để ở đâu, nhưng A-sa đem để chúng vào kho của đền thờ vì nó đã được dâng cho Đức Chúa Trời. Đây có thể là những của cướp được từ những kẻ thù mà ông và cha ông đã đánh bại với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời.
Một lần nữa, ông dẹp bỏ những thần tượng khỏi xứ, và ông cũng sửa lại những bàn thờ tế lễ trong sân thầy tế lễ trước đền thờ. Kinh Thánh không nói bàn thờ bị hư như thế nào và tại sao; nhưng không có bàn thờ, các thầy tế lễ không có chỗ để dâng của tế lễ. Sa-lô-môn cung hiến đền thờ vào năm 959, và năm thứ mười lăm đời A-sa là vào năm 896 (IISu 15:10) vì thế bàn thờ đã được sử dụng liên tục trong hơn 60 năm. Có thể nó mới bị hư, nhưng một bàn thờ bị bỏ mặc không được trông nom không là lời chứng tốt cho tình hình tôn giáo trong xứ. Tiếng Hê-bơ-rơ còn có thể có nghĩa là “đổi mới”, vì thế có lẽ bàn thờ được cung hiến lại lần nữa cho Đức Chúa Trời.
Dẹp bỏ thần tượng và sửa lại bàn thờ là một chuyện, nhưng điều cần thiết nhất là việc dâng hiến lại của dân sự. Trong năm thứ mười lăm đời trị vì của mình, A-sa nhóm hiệp một hội chúng lớn tại Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Đức Chúa Trời và nhắc lại giao-ước. Không chỉ có người Giu-đa và Bên-gia-min tham dự, nhưng những người mộ đạo từ Ép-ra-im, Ma-na-se, và Si-mê-ôn cũng đến Giê-ru-sa-lem. Điều thu hút họ là sự thật hiển nhiên rằng Đức Chúa Trời ở cùng với A-sa. Vì họ nhóm hiệp vào tháng thứ ba, họ có thể kỷ niệm lễ mùa gặt (Le 23:15-22). Nhà vua đem những chiến lợi phẩm dâng cho Đức Chúa Trời, bao gồm những kim loại quý (IVua 15:15) và những con sinh tế (IISu 15:11).
Vào những thời điểm quan trọng trong suốt lịch sử Do-thái, bạn thấy những nhà lãnh đạo cùng dân sự nhắc lại lời cam kết của họ với Đức Chúa Trời. Đây là gương tốt cho Hội thánh ngày nay noi theo. Sau khi Y-sơ-ra-ên đã băng qua sông Giô-đanh và vào đất hứa, họ nhắc lại giao ước của mình với Đức Chúa Trời (Gios 8:30).
Giô-suê cũng yêu cầu một buổi hội hiệp như vậy vào lúc gần cuối đời mình (Gios 24:1-33); Khi Sau-lơ được phong làm vua, Sa-mu-ên yêu cầu tập họp hội chúng và có thời gian nhắc nhở họ (ISa 11:14-12:25). Vua Giô-ách và vua Giô-si-a đều nhắc lại giao-ước giữa chính họ và dân sự với Đức Chúa Trời (IIVua 11:4; IVua 23:1).
Sự thức tỉnh thuộc linh hay sự làm mới lại không có nghĩa là cầu xin Đức Chúa Trời ban cho điều gì mới nhưng làm mới lại sự tận hiến của chúng ta với những điều Ngài đã ban cho chúng ta. A-sa không tổ chức lại ban thầy tế lễ hay tu sửa lại đền thờ, ông cũng không du nhập những ý tưởng thờ phượng mới từ những nước thờ đa thần quanh ông.
Ông chỉ đơn giản dẫn dân sự trở lại sự tận hiến với giao-ước mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Họ tìm kiếm Đức Chúa Trời với tất cả tấm lòng của mình và Ngài lắng nghe họ. Đức Chúa Trời hài lòng với bước cam kết mới này và Ngài ban cho Giu-đa và Bên-gia-min 20 năm hòa bình nữa.
(3) Sự tái phạm và sự kỷ luật (IVua 15:16-24 IISu 16:1-14).
Rõ ràng vua A-sa đã trở nên bất cẩn trong sự bước đi với Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời sai Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, gây chiến chống lại ông. Ba-ê-sa xây dựng Ra-ma, cách bắc Giê-ru-sa-lem khoảng sáu dặm. Từ tiền đồn này ông có thể theo dõi dân sự của ông, những người sẽ đi đến Giê-ru-sa-lem và cũng có thể mở cuộc tấn công Giu-đa.
Sau tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm cho A-sa, bạn nghĩ rằng ông sẽ kêu gọi dân sự cùng nhau xưng nhận tội lỗi, tìm kiếm Đức Chúa Trời và học biết ý muốn của Ngài về tình thế nghiêm trọng này. Nhưng thay vào đó, trong sự không tin của mình ông quay sang chính trị. Ông lấy những châu báu trong đền thờ dâng cho Bên-ha-đát, vua Sy-ri và bước vào hiệp ước với một nước thờ tà thần. (Đa-vít đã đánh bại Sy-ri! (IISa 8:3-12; ISu 18:3-4).
Khi Sy-ri tấn công Y-sơ-ra-ên từ phía bắc, Ba-ê-sa sẽ phải bỏ Ra-ma và di chuyển xuống phía bắc để bảo vệ vương quốc của mình. Vua A-sa không chỉ làm theo gương xấu của A-bi-gia cha mình trong việc lập nên một liên minh vô đạo nhưng ông còn cố nài Bên-ha-đát nói dối và hủy bỏ hiệp ước với Y-sơ-ra-ên!
Kinh Thánh không nói cho chúng ta biết A-bi-gia lập hiệp ước với Bên-ha-đát khi nào, nhưng có lẽ ông đã cưới một trong những công chúa Sy-ri và bằng cách đó ông có thể bảo đảm hòa bình. Ông đã làm theo gương của Sa-lô-môn (IISu 13:21).
Bên-ha-đát lấy bạc và vàng, bội ước với Y-sơ-ra-ên và giúp đỡ Giu-đa. Ông chiếm thành Y-giôn, Đan, và A-bên-Ma-im ở phía bắc, sau đó hành quân khắp chi phía Nép-ta-li và lấy tất cả những thành kho tàng quan trọng. Bằng cách này, ông giành được quyền kiểm soát những tuyến thương mại chính yếu và làm tê liệt quyền lực cũng như lợi tức của Ba-ê-sa.
Sau khi đã đạt được mục đích của mình, -sa bắt dân sự đi đến Ra-ma thu lượm đá và gỗ. Với những vật liệu này, nhà vua xây cất hai thành phố kiên cố: Mích-ba cách bắc Ra-ma khoảng hai dặm rưỡi và Ghê-ba cách đông Ra-ma cũng khoảng hai dặm rưỡi. Giu-đa đã mở rộng biên giới của mình đến tận Bê-tên (IISu 13:17) và những địa điểm quân sự mới này sẽ làm cho vị trí của họ vững chắc hơn nữa.
Mọi người ai cũng vui mừng với kết quả của hiệp ước ngoại trừ Đức Chúa Trời. Ngài sai tiên tri Ha-na-ni đến khiển trách nhà vua và trao cho ông Lời của Đức Chúa Trời. Nhiệm vụ của vị tiên tri là khiển trách nhà vua cùng những người lãnh đạo khác bao gồm cả những thầy tế lễkhi họ bất tuân luật pháp của Đức Chúa Trời.Thông điệp của vị tiên tri rất rõ ràng: nếu A-sa nhờ cậy vào Đức Chúa Trời, quân đội Giu-đa có thể đánh bại cả Y-sơ-ra-ên lẫn Sy-ri.
Thay vì vậy, Giu-đa chỉ có được vài thành phố nhỏ, châu báu của Đức Chúa Trời bị cướp đi và nhà vua bây giờ ở trong một liên minh tội lỗi với Sy-ri. Ha-na-ni nhắc A-sa rằng Đức Chúa Trời đã không làm ông thất vọng khi Xê-rách và đội quân Ai-cập hùng mạnh tấn công Giu-đa. Nhà vua đã làm điều ngu ngốc trong việc nhờ cậy Sy-ri. Giu-đa sẽ phải trả giá cho tội lỗi của mình trong những năm tới, và Sy-ri trở thành một vấn đề dai dẳng đối với vương quốc Giu-đa.
Vấn đề chủ yếu không phải là sự thiếu phòng thủ của Giu-đa mà là sự thiếu lòng tin của nhà vua. Không giống như Đa-vít, người có tấm lòng thành thật trước mặt Đức Chúa Trời (IVua 15:5,11), tấm lòng của A-sa đã bị phân chia _ ngày này thì tin cậy Đức Chúa Trời và ngày tiếp theo thì tin cậy vào xác thịt.
Một tấm lòng hoàn hảo không phải là một tấm lòng không có tội nhưng là một tấm lòng hoàn toàn đầu phục Đức Chúa Trời và tin cậy Ngài hoàn toàn. Vua A-sa phơi bày tính độc ác trong lòng mình bằng việc trở nên giận dữ, phản đối những lời của vị tiên tri, và giam ông vào tù. Rõ ràng có một số người phản đối chính sách ngoại giao của A-sa và sự ngược đãi của ông đối với đầy tớ của Đức Chúa Trời vì thế ông áp bức họ tàn bạo.
Đức Chúa Trời cho A-sa thời gian ăn năn, nhưng ông từ chối làm điều đó. Trong năm thứ 39 đời trị vì của A-sa, Đức Chúa Trời làm ông khổ sở với một căn bệnh ở chân. Căn bệnh này ắt hẳn làm ông rất đau đớn và khó chịu. Một lần nữa, ông quay lưng lại với Đức Chúa Trời và từ chối xưng nhận tội lỗi của mình cũng như tìm kiếm Đức Giê-hô-va, nhưng ông quay sang tìm sự giúp đỡ nơi những thầy thuốc.
Hai năm sau ông qua đời và ngai vàng được trao lại cho con trai ông Giê-hô-sa-phát, người có thể đã làm nhiếp chính trong những năm cuối đời của cha mình. A-sa là người đã có một khởi đầu tốt và sống một cuộc đời bằng đức tin, nhưng đến những năm cuối của đời mình, ông chống đối lại Đức Chúa Trời.
Dân sự làm lễ xông hương cho ông rất trọng thể để tỏ lòng tôn kính ông, nhưng trong cách nhìn của Đức Chúa Trời, những năm cuối cùng của A-sa chỉ như làn khói bay lên (ICo 3:13-15). 7
2. Một vương triều chấm dứt (IVua 15:1-24) (IVua 15:25-16:22)
(IVua 15:1-24). Đến đây, các sử gia quay sang ghi chép về các vua Y-sơ-ra-ên và tiếp tục đến cuối sách. Chuyện về các vua Giu-đa chủ yếu được thấy trong II Sử-ký. Vương triều nhà Đa-vít chỉ được đề cập đến trong I Các-vua và II Các-vua khi nào có sự tác động qua lại giữa Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.Vương triều được bắt đầu bởi Giê-rô-bô-am bây giờ sắp chấm dứt.
• Na-đáp bị ám sát (IVua 15:25-31).
Giê-rô-bô-am trị vì Y-sơ-ra-ên trong 22 năm (IVua 14:20) và trở thành tấm gương hàng đầu về một vị vua gian ác (IVua 15:34; IVua 16:2,19,26 v.v…). Na-đáp thừa kế ngai vàng cùng với đường lối tội lỗi của cha mình. Ông chỉ trị vì được hai năm và sau đó nảy sinh một âm mưu dẫn đến việc vua Na-đáp bị Ba-ê-sa, một người về nhà Y-sa-ca ám sát. Na-đáp đang cùng với quân đội Y-sơ-ra-ên bao vây Ghi-bê-thôn, một thành phố của dân Phi-li-tin ở phía nam Éc-rôn. Thành phố nơi biên giới này là đầu mối của sự xích mích giữa Y-sơ-ra-ên và dân Phi-li-tin. Nó thật ra thuộc về chi phía Đan (Gios 19:43-45) và là thành của người Lê-vi (Gios 21:23), Na-đáp muốn chiếm lại cho Y-sơ-ra-ên.
Ba-ê-sa không chỉ giết nhà vua mà còn chiếm ngai vàng và đi đến hoàn thành lời tiên tri của A-hi-gia rằng gia đình Giê-rô-bô-am sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt vì tội lỗi mà Giê-rô-bô-am đã phạm (IVua 14:10-16). Nếu Giê-rô-bô-am vâng Lời Đức Chúa Trời, ông đã hưởng được sự chúc phước và giúp đỡ của Ngài (IVua 11:38-39), nhưng vì ông phạm tội và làm cho cả nước phạm tội, Đức Chúa Trời phải đoán phạt ông và con cháu ông. Đó là sự kết thúc của triều đại Giê-rô-bô-am I.
• Ba-ê-sa không vâng lời Đức Chúa Trời (IVua 15:32-16:7).
Ba-ê-sa xây cất cung điện ở Tiệt-sa và trị vì Y-sơ-ra-ên 24 năm. Thay vì tránh những tội lỗi dẫn đến sự tuyệt diệt nhà Giê-rô-bô-am mà chính tay ông là người đã giết họ, Ba-ê-sa nay lại bắt chước cách sống của người tiền nhiệm!Người ta nói rằng bài học chúng ta rút ra được từ lịch sử là chúng ta không đi theo những vết xe đổ của lịch sử. Ba-ê-sa đã tiêu diệt triều đại nhà Giê-rô-bô-am, nhưng ông không thể phá hủy Lời của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời sai tiên tri Giê-hu đem đến cho nhà vua một thông điệp trang trọng rằng sau khi ông chết, gia đình ông sẽ bị tiêu diệt và một triều đại khác sẽ bị hủy diệt vì tội lỗi của người cha. Con cháu của Ba-ê-sa sẽ bị giết và xác của họ sẽ là thức ăn cho chó và chim trời. Việc thi thể của người Do-thái không được chôn là một sự nhục nhã kinh khủng.8
• Ê-la bị ám sát (IVua 16:8-14).
Ba-ê-sa có một cái chết bình thường, nhưng con trai và cũng là người kế vị ông không đưọc như vậy. Ê-la hóa ra là một kẻ đồi bại, thích uống rượu với bạn bè hơn là phục vụ Đức Chúa Trời và dân sự. At-sa có thể là thủ tướng. Cả hai đã quên lời của Sa-lô-môn, gười biết một hay hai điều về địa vị làm vua: “Hỡi xứ, khốn thay cho mày khi có vua còn thơ ấu, và các quan trưởng mày ăn từ lúc buổi sáng! Hỡi xứ, phước cho mày khi có vua là dòng cao sang và các quan trưởng mày ăn theo giờ xứng đáng, ể bổ sức lại, chớ chẳng phải để say xỉn” (Tr 10:16-17).
Kẻ ám sát lần này là Xim-ri, tướng coi phân nửa xe binh trong quân đội Y-sơ-ra-ên. Là một vị tướng có danh tiếng, ông có thể đi đến nhà vua, và có thời cơ nào tốt hơn khi nhà vua đang say rượu để giết ông? Giống như cha của Ê-la, Xim-ri cướp ngôi và một khi ông có quyền lực, ông giết từng thành viên của gia đình Ba-ê-sa. Ba-ê-sa đã làm thành lời tiên tri của A-bi-gia và Xim-ri làm thành lời tiên tri của Giê-hu. Nhưng phải chỉ ra rằng một người hoàn thành lời tiên tri thánh không phải là người không phạm tội. Cả Ba-ê-sa và Xim-ri là những kẻ giết người và phạm tội giết vua và Đức Chúa Trời bắt họ phải chịu trách nhiệm. Triều đại của Giê-rô-bô-am và triều đại của Ba-ê-sa không còn nữa. Ở Giu-đa, triều đại nhà Đa-vít vẫn tiếp tục.
-IVua 16:1-28; xem giải nghĩa IVua 15:1-24.
10. HÃY ĐỂ NGỌN LỬA LỤI TÀN (IVua 17:1-18:46)
Ê-li người Thi-sê-be1 đột nhiên xuất hiện trong câu chuyện và sau đó rời đi nhanh như khi ông đến, chỉ lại xuất hiện ba năm sau đó để thách đấu với những thầy tế lễ của Ba-anh. Tên ông có nghĩa là “Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Chúa tôi”, một cái tên thích hợp với người kêu gọi dân sự trở lại sự thờ phượng Đức Giê-hô-va (IVua 18:21,39).
Vua A-háp gian ác đã cho phép vợ ông là Giê-sa-bên đem sự thờ lạy thần Ba-anh vào Y-sơ-ra-ên (IVua 16:31-33) và bà kiên quyết trừ bỏ sự thờ phượng Đức Giê-hô-va (IVua 18:4). Ba-anh là thần sinh sản của người Phê-nê-xi, hần này đem mưa và vụ mùa bội thu đến, nghi lễ liên quan đến sự thờ phượng thần thì đồi bại không tả xiết.
Giống như Sa-lô-môn, người đã giúp sức cho việc thờ lạy thần tượng của những người vợ ngoại đạo của mình (IVua 11:1-8), A-háp khuất phục trước dục vọng của Giê-sa-bên còn xây cho bà một đền thờ riêng để bà có thể thờ phượng Ba-anh (IVua 16:32-33). Kế hoạch của bà là tiêu diệt những người thờ phượng Đức Giê-hô-va và làm cho toàn dân Y-sơ-ra-ên phục vụ Ba-anh.
Tiên tri Ê-li là một nhân vật quan trọng trong Tân-ước. Giăng Báp-tít đến trong tâm thần và quyền phép của Ê-li (Lu 1:17), một số người dân còn nghĩ rằng ông là Ê-li được hứa (Gi 1:21; Ma 4:5-6; Mat 17:10-13). Ê-li đã ở với Môi-se và Chúa Giê-xu trên núi Hóa hình (Mat 17:3), và một số học giả cho rằng Môi-se và Ê-li là hai nhân chứng được mô tả trong (Kh 11:1-14). Ê-li không phải là người giảng đạo tao nhã như Ê-sai và Giê-rê-mi, nhưng là một nhà cải giáo vụng về thô kệch, gười đã thách thức dân sự từ bỏ thần tượng của họ và trở về với Đức Chúa Trời.
Ông là một người can đảm, dám đối mặt trực tiếp với A-háp và quở trách tội lỗi của người này, ông cũng thách thức những thầy tế lễ của Ba-anh trong một cuộc thi công khai. Ông không những là người làm ra phép lạ nhưng còn là người kinh nghiệm những phép lạ trong chính đời sống của mình. Hai đoạn này ghi lại bảy phép lạ khác nhau mà Ê-li đã thực hiện và kinh nghiệm.
1. Đợt hạn hán trong cả nước (IVua 17:1)
Người Do-thái dựa vào những cơn mưa theo mùa cho sự thành công về vụ mùa của họ. Nếu Đức Chúa Trời không cho những cơn mưa đầu mùa vào tháng Mười và tháng Mười Một và những cơn mưa cuối mùa vào tháng Ba và tháng Tư thì trong xứ sẽ có nạn đói.
Nhưng phước lành của những cơn mưa mỗi nửa năm mới có tùy thuộc vào việc dân sự tuân theo giao ước của Đức Chúa Trời (Phuc 11:1-32). Đức Chúa Trời cảnh báo rằng sự bất tuân của họ sẽ biến trời thành đồng đất thành sắt (Phuc 28:23-24; Le 26:3-4,18-19). Xứ này thuộc về Đức Chúa Trời và nếu dân sự làm ô uế xứ bằng những hình tượng tội lỗi của mình, Đức Chúa Trời sẽ không chúc phước cho họ.
Có lẽ Ê-li xuất hiện trước vua A-háp vào tháng Mười, vào khoảng thời gian những cơn mưa đầu mùa lẽ ra phải bắt đầu. Đã không có mưa trong sáu tháng, từ tháng Tư đến tháng Mười và vị tiên tri loan báo rằng sẽ không có mưa trong ba năm tới! Dân sự đang theo Ba-anh, không phải Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời không thể giáng mưa theo như đã hứa và vẫn thành tín với giao ước của Ngài. Đức Chúa Trời luôn luôn giữ giao ước của Ngài, hoặc chúc phước vì sự vâng lời của dân sự hoặc phạt họ vì tội lỗi của họ.
Đức Chúa Trời đã ngăn mưa lại vì lời cầu nguyện tha thiết của Ê-li, Ngài sẽ lại ban mưa xuống để đáp lời cầu nguyện hộ của đầy tớ Ngài (Gia 5:17-18). Trong ba năm tiếp theo, lời nói của Ê-li sẽ kiểm soát thời tiết ở Y-sơ-ra-ên! Ba năm rưỡi hạn hán sẽ chuẩn bị cho dân sự trong cuộc tranh đấu kịch tính trên núi Cạt-mên giữa những thầy tế lễ của Ba-anh và tiên tri của Đức Chúa Trời. Ê-li đứng trước mặt Đức Chúa Trời và phục vụ Ngài giống như một đầy tớ trung thành, chăm chú vào những mạng lệnh của chủ mình. (Sau này, người kế nhiệm ông là Ê-li-sê cũng dùng thuật ngữ tương tự. (IIVua 3:14; IIVua 5:16). Một đợt hạn hán kéo dài, được tiên báo và kiểm soát bởi một tiên tri của Đức Giê-hô-va, sẽ nói cho mọi người biết rõ ràng rằng thần bão Ba-anh không phải là một vị thần chân thật.
2. Thức ăn từ những con chim bẩn thỉu (IVua 17:2-7)
Sau khi Ê-li lìa khỏi nhà vua, Giê-sa-bên hẳn đã xúi giục chiến dịch diệt trừ những tiên tri của Đức Chúa Trời (IVua 18:4). Khi hạn hán tiếp tục và nạn đói hoành hoành xứ, A-háp bắt đầu tìm kiếm Ê-li, người ông nghĩ đã gây ra mọi vấn đề (IVua 18:17). Theo một ý nghĩa nào đó, Ê-li đã gây ra hạn hán, nhưng chính tội dẫn đất nước vào sự bất tuân giao ước của Đức Chúa Trời của A-háp và Giê-sa-bên đã đem đến cho họ sự trừng phạt của Ngài.
Đức Chúa Trời có một chỗ ẩn náu đặc biệt dành cho đầy tớ Ngài ở trong một con suối nhỏ nằm ở phía đông sông Giô-đanh, Ngài cũng chuẩn bị sẵn “những đầy tớ” lạ thường để nuôi ông. Đức Chúa Trời thường dẫn những tôi tớ trung tín của Ngài từng bước một khi họ hòa lòng với Lời của Ngài. Thay vào đó, Đức Chúa Trời hướng dẫn tôi tớ Ngài từng lúc và Ê-li vâng lời bởi đức tin.
“Hãy đi ẩn mình đi!” là mạng lệnh của Đức Chúa Trời, ba năm sau mạng lệnh là “Hãy đi tỏ mình ra!”. Khi rời khỏi chức vụ công khai của mình, Ê-li đã tạo ra “một cơn hạn hán” thứ hai trong xứ _ sự thiếu Lời của Đức Chúa Trời. Đối với người Do-thái, Lời của Đức Chúa Trời giống như mưa từ trời (Phu 32:2; Es 55:10): nó cần thiết cho sự sống tâm linh của họ, nó làm cho khoan khoái mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban cho. Sự im lặng của đầy tớ Đức Chúa Trời là một sự phán xét từ Đức Chúa Trời (Thi 74:9), vì không nghe Lời hằng sống của Đức Chúa Trời cũng đồng nghĩa với việc bị tước mất quyền sống (Thi 28:1).
Tại suối Kê-rít (“khe Kê-rít”), Ê-li có được sự an toàn và thức ăn. Mãi tận khi nó khô cạn, con suối vẫn cung cấp nước, vào mỗi buổi sáng và chiều, những con quạ đem đến cho ông bánh mì và nước. Trong danh sách liệt kê những thức ăn bị cấm của Môi-se, con quạ bị cho là “không sạch” và “gớm ghiếc” (Le 11:13-15; Phuc 14:14), nhưng Đức Chúa Trời đã dùng những con chim này để duy trì sự sống cho đầy tớ Ngài. Những con quạ không đem cho Ê-li những xác chết thối rữa mà chúng thường ăn, vì những thức ăn như vậy là không sạch đối với một người Do-thái thánh.
Đức Chúa Trời chu cấp thức ăn và quạ làm công việc vận chuyển! Giống như Đức Chúa Trời đã ban ma-na xuống trại của dân Y-sơ-ra-ên trong cuộc hành trình trong đồng vắng, Ngài cũng đem đến những thức ăn cần thiết cho Ê-li khi ông chờ đợi dấu hiệu để trở về. Đức Chúa Trời ban đồ ăn cho thú vật và những con quạ dc (Thi 147:9; Lu 12:24) và Ngài có thể dùng những con quạ đem thức ăn cho đầy tớ Ngài.
Khi hạn hán ngày càng tệ hơn, con suối bị khô cạn bỏ lại vị tiên tri không có nước; nhưng ông không bao giờ bỏ đi chỗ khác cho đến khi nào Lời của Đức Chúa Trời đến bảo ông phải làm gì. Có một câu nói rằng ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ dẫn chúng ta đến nơi ân điển của Đức Chúa Trời không thể giữ gìn và chăm sóc chúng ta, Ê-li biết điều này từ kinh nghiệm. (Es 33:15-16).
3. Thức ăn từ những chiếc bình rỗng (IVua 17:8-16)
Có thể Ê-li ở tại Kê-rít một năm và sau đó Đức Chúa Trời bảo ông rời đi. Những chỉ thị của Đức Chúa Trời có thể làm cho vị tiên tri kinh ngạc, vì Đức Chúa Trời ra lệnh cho ông đi về hướng đông bắc khoảng 100 dặm đến thành phố Sa-rép-ta của Phi-li-tin. Đức Chúa Trời đang phái Ê-li đi vào lãnh thổ của dân ngoại, vì Sa-rép-ta không xa thành phố Si-đôn, quê nhà của Giê-sa-bên nên ông đang sống trong vùng lãnh thổ của kẻ thù! Hơn nữa, ông được chỉ thị phải sống với một góa phụ, người mà Đức Chúa Trời đã chọn để chăm sóc ông, và góa phụ thường là những người nghèo khổ nhất trong xứ. Vì Phi-li-tin dựa vào Y-sơ-ra-ên trong phần lớn nguồn lương thực (IVua 5:9; Cong 12:20), thức ăn sẽ không có quá nhiều tại đó.
Nhưng khi Đức Chúa Trời sai phái chúng ta, chúng ta phải vâng lời và để phần còn lại cho Ngài, vì chúng ta không sống trên lý lẽ của con người- chúng ta sống trên lời hứa của Đức Chúa Trời.
Watchman Nee đã viết, “Bởi vì thiên hướng của chúng ta là nhìn vào thùng nước và quên đi suối nước nên Đức Chúa Trời thường phải thay đổi phương tiện chu cấp của Ngài để khiến cho mắt chúng ta luôn tập trung vào nguồn suối”. Sau khi Y-sơ-ra-ên vào miền đất hứa, ma-na ngừng rơi xuống trại và Đức Chúa Trời thay đổi cách Ngài nuôi dân sự (Gios 5:10-12).
Vào những ngày đầu của Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem, những Cơ-đốc nhân có tất cả những gì họ cần (Công 4:34-35), nhưng vài năm sau, các thánh đồ ở Giê-ru-sa-lem phải nhận sự giúp đỡ từ những người tin Chúa là dân ngoại tại An-ti-ốt (Công 11:27-30). Ê-li sắp học được rằng Đức Chúa Trời có thể hành động với những chiếc bình rỗng!
Việc người đàn bà đã được Đức Chúa Trời truyền bảo (c.9) không phải là bằng chứng cho thấy bà là người tin nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, vì Đức Chúa Trời cũng truyền lệnh cho một vị vua ngoại đạo như vua Si-ru (IISu 36:22) và còn gọi ông là “người chăn bầy” của Ngài (Es 44:28). Người góa phụ đề cập đến Đức Giê-hô-va như là “Đức Chúa Trời của ông” (c.12, hững chữ in nghiêng là của tôi), vì bà có thể dễ dàng nhận ra người lạ đang nói chuyện với mình là người Do-thái; nhưng ngay cả điều này cũng không phải là bằng chứng rằng bà là người tin Chúa. Chắc hẳn Ê-li ở lại với bà hai năm (IVua 18:1), trong thời gian đó người góa phụ và con trai bà chắc chắn đã từ bỏ sự thờ lạy thần tượng và đặt niềm tin của mình nơi Đức Chúa Trời sống và chân thật.
Những gì người đàn bà có rất ít: một ít dầu trong bình, một nắm lúa mạch trong hũ lớn đựng thóc lúa và một vài que củi để chụm lửa nấu. Nhưng những gì Ê-li có rất lớn, vì Thượng Đế đã hứa sẽ chăm sóc ông, người chủ nhà của ông và con trai bà.Ê-li cho bà lời hứa của Đức Chúa Trời rằng hũ thóc và bình dầu sẽ không hết cho đến khi hạn hán và nạn đói chấm dứt. Một ngày kia Đức Chúa Trời sẽ giáng mưa xuống, nhưng cho đến ngày đó, Ngài sẽ tiếp tục chu cấp bánh cho họ và Ngài đã làm.
Trong xã hội hiện đại của chúng ta, với thẻ tín dụng và việc mua sắm thuận tiện, chúng ta cần nhớ rằng mỗi bữa ăn của chúng ta là một phép lạ từ tay Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể sống xa người nông dân, những người đã trồng những thứ chúng ta ăn, nhưng chúng ta không thể sống mà không có họ. Câu “Xin cho chúng con hôm nay đồ ăn đủ ngày” có ý nghĩa hơn là một câu trong bài cầu nguyện chúng ta có thể quá thuộc lòng. Nó là sự diễn đạt một chân lý vĩ đại rằng Đức Chúa Trời chăm sóc chúng ta và dùng nhiều cách để nuôi chúng ta.
Sau ổ bánh mì là bột mì phủ đầy tuyết,
Và sau bột mì là cối xay,
Và sau cối xay là lúa mì, mặt trời, và mưa rào,
Người nông dân và ý muốn của Đức Chúa Cha.
4. Sự sống cho một đứa bé trai đã chết (IVua 17:17-24)
Đây là trường hợp được ghi chép đầu tiên trong Kinh Thánh về việc làm sống lại một người đã chết. Bằng chứng dường như rõ ràng rằng con trai của người góa phụ thật sự đã chết, không chỉ là bất tỉnh hay nhất thời ngất xỉu. Anh ta ngừng thở (c.17) và linh hồn anh đã rời khỏi thân thể (c.21-22). Theo (Gi 2:26 khi linh hồn một người nào đó rời khỏi thân thể thì người đó đã chết. Nỗi đau buồn lớn của cả người mẹ và vị tiên tri cho thấy rằng đứa bé trai đã chết, và cả hai đã dùng từ “giết chết” có liên quan đến sự việc này (c.18,20).
Phản ứng của người mẹ là cảm thấy tội lỗi vì những tội của bà trong quá khứ. Bà tin rằng cái chết của con trai là cách Đức Chúa Trời trừng phạt bà vì những tội ác của bà. Thông thường con người cảm thấy có tội liên quan đến sự mất đi người thân, nhưng tại sao bà lại chỉ tay vào vị khách của mình?
Bà nhận biết Ê-li là người của Đức Chúa Trời, có lẽ bà nghĩ sự có mặt của ông trong nhà sẽ bảo vệ bà và con trai khỏi những điều phiền hà. Hay có lẽ bà cảm thấy rằng Đức Chúa Trời đã cho vị khách biết về quá khứ của mình hay một vài điều gì đó lẽ ra bà nên xưng nhận với ông. Những lời của bà nhắc chúng ta nhớ đến câu hỏi của các môn đồ trong (Gi 9:2 “Thưa thầy, ai đã phạm tội, người hay là cha mẹ người, mà người sanh ra thì mù như vậy?”.
Phản ứng của Ê-li là mang đứa bé lên phòng cao, có lẽ là trên mái nhà, kêu khóc với Chúa vì sự sống của đứa trẻ. Ông không thể tin rằng Đức Chúa Trời đã chu cấp thức ăn cho cả ba người một cách kỳ diệu và sau đó lại cho phép đứa trai này chết. Điều này thật không hợp lý chút nào. Ê-li không nằm ấp trên người đứa trẻ đã chết với hy vọng rằng ông có thể truyền sự sống của mình cho nó, vì ông biết rằng chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể đem lại sự sống cho người đã chết.
Chắc chắn dáng điệu của ông chỉ ra mối quan hệ hoàn toàn chặt chẽ giữa đứa trẻ và nhu cầu của mình, đây là một yếu tố quan trọng khi chúng ta cầu thay cho người khác. Sau lần thứ ba Ê-li nằm ấp mình trên đứa trẻ thì Đức Chúa Trời gọi nó sống dậy từ sự chết. Đây là hình ảnh nhắc chúng ta nhớ về Chúa Cứu Thế sống lại từ sự chết sau ba ngày. Bởi vì Chúa sống, chúng ta có thể chia sẻ sự sống của Ngài bằng cách đặt niềm tin nơi Ngài. (IIVua 4:34; Cong 20:10).
Kết quả của phép lạ này là sự công khai xưng nhận đức tin nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nơi người đàn bà. Bây giờ bà biết chắc chắn rằng Ê-li là đầy tớ thật sự của Đức Chúa Trời và không phải là một thầy thông giáo tìm kiếm sự giúp đỡ. Bà cũng biết rằng những Lời ông đã dạy bà thật sự là Lời của Đức Chúa Trời sống và chân thật. Trong suốt thời gian sống với người góa phụ và con trai bà, Ê-li đã cho họ thấy rằng Đức Chúa Trời là Đấng duy trì sự sống (bột và dầu không hết) và là Đấng ban sự sống (đứa bé trai sống lại từ sự chết).
Ê-li đã không ở trong chức vụ trước dân chúng trong thời gian dài, nhưng chức vụ cá nhân của ông trước người đàn bà và con trai bà cũng quan trọng đối với Đức Chúa Trời và đối với họ. Người đầy tớ không “ẩn mình” thi hành chức vụ với một vài người sẽ không thật sự sẵn sàng đứng trên núi Cạt-mên và gọi lửa và mưa từ trời xuống. Người chứng tỏ họ trung tín với một ít việc trong nơi nhỏ bé có thể được Đức Chúa Trời tin tưởng với nhiều việc trước nhiều người trong những nơi rộng lớn hơn (Mat 25:21). Ê-li đã chứng tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời trong chính lãnh thổ của Ba-anh, vì thế bây giờ ông đã sẵn sàng thách đ ấu và đánh bại Ba-anh trong vương quốc Y-sơ-ra-ên.
Trong suốt ba năm như một người bị lưu đày và bị săn đuổi này (IVua 18:10), Ê-li đã học được rất nhiều điều về Đức Chúa Trời, về chính mình ông và về nhu cầu của dân sự. Ông đã học sống từng ngày một, tin cậy Đức Chúa Trời về sự ban bánh hằng ngày cho ông. Trong ba năm, dân sự đã luôn thắc mắc, “Tiên tri Ê-li ở đâu?Ông có thể làm gì để giảm nhẹ gánh nặng mà họ đang mang vì cơn hạn hán này?” Nhưng Đức Chúa Trời quan tâm về người làm việc hơn công việc, Ngài đã chuẩn bị Ê-li cho cuộc thách đấu về niềm tin lớn nhất trong toàn bộ chức vụ của ông.
Trước khi chúng ta bỏ qua chi tiết Ê-li lưu lại với người góa phụ Sa-rép-ta một ít lâu nữa, chúng ta phải suy gẫm về việc Chúa Giê-xu sử dụng câu chuyện này trong bài giảng trong nhà hội ở Na-xa-rét như thế nào (Lu 4:16-30). Trong phần đầu của bài giảng, những người nghe tán thành với những gì Chúa Giê-xu nói và khen ngợi Ngài về “những lời đầy ơn lành” của Ngài. Nhưng sau đó Ngài nhắc họ nhớ về ân điển cao cả của Đức Chúa Trời đã đến với những đất nước khác ngoài dân giao ước Y-sơ-ra-ên.
Vị tiên tri vĩ đại người Do-thái Ê-li thật sự đã giúp đỡ một góa phụ người ngoại cùng con trai bà và còn sống chung với họ, mặc dầu ông có thể giúp đỡ bất cứ góa phụ nào trong nước Y-sơ-ra-ên. Thí dụ minh họa thứ hai của Ngài là từ chức vụ của Ê-li-sê, người kế nhiệm Ê-li. Ông thật sự đã chữa lành cho một vị quan tổng binh người ngoại bị bệnh phung (IIVua 5:1-15). Chắc chắn có rất nhiều người Do-thái bị phung ông có thể chữa lành được!
Chúa Giê-xu nhấn mạnh về ân điển của Đức Chúa Trời. Ngài muốn những người Do-thái trong nhà hội nhận biết rằng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cũng là Đức Chúa Trời của dân ngoại (Ro 3:29) cả người Do-thái và người ngoại được cứu bằng cách đặt niềm tin của mình nơi Ngài.
Dĩ nhiên, người Do-thái không chấp nhận ý nghĩ rằng họ cũng là tội nhân giống như dân ngoại và phải được cứu, vì thế họ phản đối cả người truyền rao sứ điệp và chính sứ điệp và bắt Chúa Giê-xu ra khỏi nhà hội để ném Ngài từ trên núi xuống.
Sự giúp đỡ của Ê-li đối với người góa phụ và con trai bà là bằng chứng rằng Đức Chúa Trời không phải là người hay thiên vị kẻ giàu sang và rằng “mọi người đều đã phạm tội, hiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Ro 3:23). Dù là người Do-thái ngoan đạo hay người ngoại thờ đa thần, cách duy nhất để được cứu rỗi linh hồn là phải đặt niềm tin nơi Chúa Giê-xu Christ.
5. Lửa từ trời (IVua 18:1-40)
Trong ba năm, Ê-li đã ẩn mình tại suối Kê-rít và sau đó là tại nhà góa phụ ở Sa-rép-ta, nhưng bây giờ ông được Đức Chúa Trời ra lệnh hãy đi “tỏ mình” cho vua A-háp gian ác. Nhưng cùng với mạng lệnh của Đức Chúa Trời là lời hứa rằng Ngài sẽ ban mưa và chấm dứt cơn hạn hán mà Ngài đã giáng xuống để trừng phạt đất nước thờ thần tượng trong hơn ba năm.
• Áp-đia gặp Ê-li (c.IVua 18:1-16).
Những học giả không thống nhất với nhau về tính cách của Áp-đia, tổng quản hoàng cung. Ông là người đầy quyền lực, ông quản lý cung điện hoàng gia, đồng thời là quản gia và người giám sát bất cứ tài sản nào nhà vua sở hữu. Nhưng ông có phải là người đầy tớ can đảm của Đức Chúa Trời (tên ông nghĩa là “đầy tớ của Đức Giê-hô-va”) hay là một kẻ thỏa hiệp hèn nhát, sợ cho người khác biết lời làm chứng của mình? Kinh Thánh cho chúng ta biết Áp-đia “rất kính sợ Đức Giê-hô-va”, ông chứng tỏ điều đó bằng việc liều cả mạng sống của mình để cứu sống và giúp đỡ một trăm tiên tri của Đức Chúa Trời trong cuộc “thanh trừng” của Giê-sa-bên. Đó không có vẻ gì giống một người đang thỏa hiệp về lời làm chứng của mình! Liệu ông có nên nói cho nhà vua và hoàng hậu những gì ông đang làm cho Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời đã đặt Áp-đia vào cung điện để ông dùng quyền lực Ngài ban cho giúp đỡ cho những vị tiên tri trung thành với Ngài vào thời điểm việc công khai thờ phượng Đức Chúa Trời là một việc nguy hiểm.
Nhà vua và Áp-đia đang tìm kiếm trong xứ cỏ và những thứ lá khác có thể dùng cho ngựa và la trong quân đội ăn. A-háp không đặc biệt quan tâm đến người dân trong xứ, nhưng ông muốn quân đội của mình phải vững mạnh để phòng ngừa trường hợp có ngoại xâm. Đáng chú ý rằng nhà vua sẵn sàng rời bỏ sự an toàn và tiện nghi trong cung điện để đi lùng sục trong xứ thức ăn cho các con vật. Dường như khi A-háp ở xa Giê-sa-bên, ông là một người tốt hơn.
Đức Chúa Trời dẫn Ê-li vào con đường mà Áp-đia đang đi và hai người gặp nhau.Áp-đia rất kính trọng Ê-li và chức vụ của ông đến nỗi Áp-đia sấp mặt xuống đất và gọi ông, “Hỡi Ê-li, chúa tôi!”. Nhưng mục đích của Ê-li là đối diện với vua A-háp gian ác, ông không có ý định đi tìm kiếm nhà vua; vì thế ông ủy thác cho Áp-đia việc nói cho nhà vua biết ông đang ở đâu.
Chúng ta có thể hiểu mối lo lắng của Áp-đia sợ rằng nhà vua trở về và không tìm thấy vị tiên tri. Trong suốt ba năm A-háp đã tìm kiếm Ê-li, chắc chắn ông đã đi theo nhiều sự chỉ dẫn sai, và A-háp không thích thú trong việc phung phí thời gian và sức lực vào thời điểm nguy kịch trong lịch sử đất nước. Hơn nữa, A-háp có thể sẽ phạt Áp-đia hay thậm chí nghi ngờ ông là người theo Đức Chúa Trời của Ê-li. Nhưng khi Ê-li cam đoan với vị quan rằng ông sẽ ở yên tại đó và chờ nhà vua, Áp-đia bèn đi báo tin cho A-háp.
Không phải tất cả những đầy tớ của Đức Chúa Trời có nhiệm vụ xuất hiện trước công chúng như Ê-li và những vị tiên tri khác. Đức Chúa Trời có đầy tớ ở nhiều nơi, àm nhiều việc Ngài kêu gọi họ làm. Ni-cô-đem và Giô-sép A-ri-ma-thê không làm om sòm về niềm tin của họ nơi Chúa Giê-xu Christ, nhưng Đức Chúa Trời đã dùng họ để chôn cất thi thể của Chúa Giê-xu đàng hoàng (Gi 19:38-42).
Ê-xơ-tê giữ im lặng về dòng máu Do-thái của bà cho đến khi tuyệt đối cần thiết dùng nó để cứu mạng của cả nước. Trải qua nhiều thế kỷ, có rất nhiều Cơ-đốc nhân có tiểu sử tầm thường nhưng lại có những đóng góp to lớn cho chân lý của Đấng Christ và cho sự mở rộng vương quốc của Ngài.
• Ê-li gặp A-háp (IVua 18:17-19).
Tất cả mọi điều Ê-li làm là làm theo Lời của Đức Chúa Trời (c.36), bao gồm việc đối mặt với nhà vua mời ông và những thầy tế lễ của Ba-anh đến họp mặt trên núi Cạt-mên. A-háp gọi Ê-li là “kẻ làm rối loạn Y-sơ-ra-ên”, hưng thật sự chính tội lỗi của A-háp mới gây ra những rắc rối trong xứ. Chắc chắn A-háp biết những điều kiện trong giao ước và hiểu rằng những phước lành từ Đức Chúa Trời tùy thuộc vào sự vâng lời của nhà vua và dân sự ông. Cả Chúa Giê-xu và Phao-lô cũng bị gọi là “những kẻ gây rối loạn” (Lu 23:5; Công 16:20;Cong 17:6), vì thế Ê-li có những người bạn đồng hành tốt.
Núi Cạt-mên nằm gần biên giới Y-sơ-ra-ên và Phi-li-tin, vì thế nó là một địa điểm tốt cho thần Ba-anh của người Phi-li-tin gặp Đức Giê-hô-va, Thần của Y-sơ-ra-ên.Ê-li bảo A-háp không những đem 450 tiên tri của Ba-anh nhưng còn thêm 400 tiên tri của Át-tạt-tê, thần tượng tượng trưng cho “vợ” của Ba-anh. Dường như chỉ có những tiên tri của Át-tạt-tê xuất hiện trong cuộc thách đấu (c.22,26,40).
Những tiên tri của Ba-anh gặp Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (IVua 18:20-40). Những người đại diện có mặt ở đó đến từ mười chi phái của vương quốc phía bắc, Ê-li đã nói chuyện với nhóm người này khi buổi họp mặt bắt đầu. Mục đích của ông không chỉ là vạch trần thần Ba-anh giả dối nhưng còn đem những người dân đang thỏa hiệp với thần tượng trở về cùng Đức Chúa Trời. Do bị ảnh hưởng những tội ác của A-háp và Giê-sa-bên, dân sự đang “đi khập khiễng” giữa hai quan điểm cố gắng phục vụ cả Đức Giê-hô-va và Ba-anh.
Giống như Môi-se (Xu IVua 32:26) và Giô-suê (Gios 24:15) trước đó, Ê-li yêu cầu họ phải có một quyết định rõ ràng, nhưng dân sự lặng thinh. Có phải điều này do tội lỗi của họ (Ro 3:19) hay do họ thà muốn nhìn thấy điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Họ là những người yếu đuối, không có sự nhận thức tội lỗi thật sự.
Ê-li làm cho bài thi của mình khó hơn để dành ưu tiên cho những tiên tri của Ba-anh. Họ có thể xây bàn thờ trước, chọn và dâng của tế lễ trước, họ có thể có tất cả thời gian họ cần để cầu khẩn Ba-anh. Khi Ê-li nói rằng ông là vị tiên tri duy nhất của Đức Chúa Trời, ông không hề quên những tiên tri mà Áp-đia đã đem giấu và bảo vệ.
Đúng hơn, ông đang nói rằng mình là người duy nhất phục vụ Đức Chúa Trời công khai, vì thế ông thua kém 450 tiên tri Ba-anh về số lượng. Nhưng một người với Đức Chúa Trời là đa số, vì thế vị tiên tri không có gì sợ hãi. Hẳn là những lời cầu nguyện của 450 tiên tri sốt sắng sẽ được Ba-anh nghe thấy và Ba-anh sẽ đáp lời bằng việc giáng lửa từ trời xuống! (Le 9:24; ISu 21:26)
Đến trưa, Ê-li chế nhạo những tiên tri Ba-anh vì không có gì xảy ra. “Đấng ngự trên trời sẽ cười, Chúa sẽ nhạo báng chúng nó” (Thi 2:4). Những tiên tri Ba-anh đang nhảy múa điên cuồng xung quanh bàn thờ của họ và dùng gươm giáo rạch vào người mình, tuy nhiên không có gì xảy ra. Ê-li giả dụ rằng Ba-anh không thể nghe họ vì Ngài đang ngẫm nghĩ điều gì, hay bận làm một số việc, hay thậm chí đang đi xa. Những lời của ông chỉ làm cho họ trở nên thêm cuồng tín, nhưng không có điều gì xảy ra. Vào lúc ba giờ là thời gian dâng của lễ chiều tại đền thờ ở Giê-ru-sa-lem, Ê-li tiến lên và thi hành nhiệm vụ.
Ai là người đã xây bàn thờ mà Ê-li sử dụng? Có lẽ là một người trong số những người tin Chúa còn sót lại trong Y-sơ-ra-ên, người đã bí mật thờ phượng Đức Chúa Trời. Nhưng bàn thờ đó đã bị phá hủy, có thể là do những tiên tri của Ba-anh (IVua 19:10), vì thế Ê-li sửa lại và thánh hóa nó. Ông sử dụng mười hai hòn đá để tái xác nhận sự thống nhất về thuộc linh của dân sự Đức Chúa Trời mặc cho sự chia rẽ về chính trị của họ. Ê-li đã cho những tiên tri Ba-anh một số thuận lợi, vì thế bây giờ ông cho mình một số bất lợi. Ông đào một con mương xung quanh bàn thờ và đổ đầy nước vào. Ông đặt của lễ thiêu trên củi bàn thờ và làm mọi thứ ướt sũng.
Vào thời gian của lễ thiêu buổi chiều, ông cất tiếng cầu nguyện với Đức Chúa Trời của sự giao ước, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Ông cầu xin rằng Đức Chúa Trời hãy tỏ ra sự vinh hiển như là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, một Đức Chúa Trời sống và chân thật, làm cho mọi người biết Ê-li là tôi tớ Ngài.
Nhưng hơn nữa, bằng việc giáng lửa từ trời, Đức Chúa Trời sẽ nói cho dân Ngài biết rằng Ngài đã tha thứ cho họ và sẽ làm cho lòng họ quay trở về sự thờ phượng một Đức Chúa Trời chân thật.
Ê-li có lẽ đang nghĩ về lời hứa của Đức Chúa Trời cho Sa-lô-môn trong (IISu 7:12-15). Thình lình, lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt của lễ, bàn thờ, và nước trong mương xung quanh bàn thờ. Không có gì còn sót lại để người nào có thể biến thành một vật thờ cúng hay một điện thờ. Bàn thờ Ba-anh vẫn còn đứng đó như một đài kỷ niệm sự thất bại. Những tiên tri Ba-anh bị choáng váng, còn dân Y-sơ-ra-ên sấp mặt xuống đất và thừa nhận “Giê-hô-va là Đức Chúa Trời!”
Nhưng Ê-li vẫn chưa làm xong công việc của mình, ông ra lệnh cho dân sự bắt những tiên tri giả Ba-anh và giết họ. Đây là sự vâng lời mạng lệnh của Đức Chúa Trời trong (Phuc 13:13-18; Phuc 17:2-5). Cuộc thách đấu đã diễn ra công bằng, những tiên tri Ba-anh bị vạch trần là những kẻ sùng bái thần tượng và đáng bị giết. Luật pháp đòi hỏi những kẻ thờ lạy thần tượng phải bị ném đá đến chết, nhưng Ê-li đã giết những tiên tri Ba-anh bằng gươm (IVua 19:1). Dĩ nhiên, hành động này làm Giê-sa-bên nổi giận vì những người này đã ăn tại bàn của bà (c.19) bà quyết tâm bắt Ê-li và giết ông.
6. Mưa trở lại (IVua 18:41-45)
Ba năm trước, Ê-li đã tiên báo rằng bởi lời của ông mà mưa ngừng và chỉ bởi lời của ông mà mới có thể có mưa trở lại (IVua 17:1). Ông đang nói đến quyền năng trong lời cầu nguyện của mình, những lời mà ông nói với Đức Chúa Trời (Gia 5:17-18). Đối với vua A-háp đây là một ngày dài và đáng thất vọng, Ê-li sai những tùy tùng lấy thứ gì cho ông ăn. Ê-li lên chót núi Cạt-mên để cầu nguyện và cầu xin Đức Chúa Trời đem đến những cơn mưa cần thiết.
Nhà truyền giáo Amy Carmichael đã viết, “Mỗi ngày chúng ta sống, chúng ta phải chọn lựa việc chúng ta nên làm theo cách của A-háp hay là của Ê-li.” (Mat 6:33) đến trong tâm trí tôi.
Dáng điệu không bình thường của Ê-li gần giống như một tư thế trong bào thai và chỉ ra sự hèn mọn của vị tiên tri, sự quan tâm lớn lao ông dành cho dân sự và gánh nặng của ông cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Không giống như sự đáp lời tại bàn thờ, sự đáp lời lần này không đến ngay lập tức.
Bảy lần Ê-li sai đầy tớ mình nhìn sang Địa Trung Hải và báo cho ông biết bất cứ dấu hiệu nào về bão, sáu lần đầy tớ báo không có gì. Vị tiên tri không thất vọng và cầu nguyện lần thứ bảy, người đầy tớ thấy một đám mây nhỏ đến từ biển. Đây là một tấm gương tốt cho chúng ta noi theo khi chúng ta “nhìn xem và cầu nguyện” cứ tiếp tục cầu thay cho đến khi nào Đức Chúa Trời đem đến câu trả lời.
Một đám mây nhỏ không phải là một cơn bão, nhưng nó là điềm báo hiệu cho những cơn mưa sắp đến. Ê-li bảo nhà vua lên xe ngựa trở về cung điện ở Gít-ri-ên càng sớm càng tốt. Chúng ta không được biết làm cách nào ông báo tin cho Giê-sa-bên biết là Ba-anh đã bị công khai sỉ nhục và bị tuyên bố là thần giả mạo, những tiên tri Ba-anh mà bà ủng hộ đã bị giết. Nhưng cơn hạn hán hay nạn đói đều không làm cho A-háp và Giê-sa-bên ăn năn, có thể lửa từ trời hay việc mưa đến cũng sẽ không thay đổi lòng họ (Kh 9:20-21; Kh 16:8-11). Mặc cho tất cả những dấu hiệu này, Giê-sa-bên vẫn quyết tâm giết Ê-li (IVua 19:1-2).
7. Sức mạnh cho cuộc hành trình (IVua 18:46)
Chẳng mấy chốc trời trở nên đen kịt với những đám mây và mưa như trút nước bắt đầu đổ xuống xứ. Đức Chúa Trời không chỉ chứng thực rằng Ngài là một Đức Chúa Trời sống và chân thật, nhưng Ngài còn bày tỏ sự tán đồng với chức vụ của người đầy tớ Ê-li. Ê-li không có xe ngựa lẫn tùy tùng nhưng ông có quyền năng của Đức Chúa Trời; ông chạy trước A-háp và đến Gít-ri-ên trước nhà vua. Ông đã chạy khoảng mười bảy dặm. Đây đúng là một kỳ công của một người già và bên trong đó là một dấu hiệu khác cho dân sự rằng bàn tay quyền năng của Đức Chúa Trời ở trên tôi tớ Ngài.
Đức Chúa Trời đã trừng phạt dân sự Ngài bằng hạn hán và nạn đói nhưng đã chăm sóc cho người đầy tớ đặc biệt của Ngài là Ê-li. Ngài đ ã giáng lửa từ trời để chứng tỏ Ngài là một Đức Chúa Trời sống và chân thật. Bây giờ Ngài đáp lời cầu nguyện của tiên tri Ngài và ban mưa tưới khắp xứ. Bạn sẽ nghĩ rằng Ê-li luôn mạnh mẽ về thuộc linh và có thể đối mặt với mọi việc, nhưng đoạn kế tiếp ghi chép điều dường như trái ngược. Là một người vĩ đại như Ê-li, ông vẫn thất bại trước mặt Đức Chúa Trời và với chính bản thân mình.
11. NGƯỜI TRONG HANG ĐỘNG (IVua 19:1-21)
Tôi được khích lệ khi đọc (Gia 5:17), “Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta”. Tôi có khuynh hướng lý tưởng hóa những người nam và người nữ trong Kinh Thánh, nhưng Kinh Thánh là “lời của lẽ thật” (IITi 2:15) mô tả những khuyết điểm của cả người vĩ đại nhất. Khi Gia-cơ viết những lời này, ông chắc chắn có nghĩ đến (IVua 18:1-19:21) vì trong hai đoạn này chúng ta thấy Ê-li ở cả hai thái cực, ở điểm cực đại và cực tiểu trên linh trình của mình. Khi người viết thi thiên ghi rằng “mỗi người dầu đứng vững cũng chỉ là hư không” (Thi 39:5), ông muốn bao gồm tất cả mọi người trừ Chúa Giê-xu. Một câu tục ngữ cổ nhắc chúng ta, “Điều tốt nhất của con người chỉ là con người ở trạng thái tốt nhất của họ” và lịch sử của Ê-li đã chứng minh điều này đúng như thế nào.
Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo nổi bật trong Kinh Thánh, với tất cả nhân tính của mình, biết làm thế nào để tìm đường thoát khỏi cái John Bunyan gọi là “sự sa đọa vào vòng tội lỗi” quay trở lại trên con đường hẹp với Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể học tập từ những thất bại cũng như những thành công của họ. Hơn nữa, khi học những đoạn Kinh Thánh như (IVua 19:1-21) chúng ta được nhắc nhở phải dâng sự vinh hiển lên cho Chúa, không phải cho đầy tớ của Ngài (ICo 1:27-29).
Chúng ta cũng được nhắc nhở phải chuẩn bị cho những gì có thể xảy ra sau những chiến thắng Đức Chúa Trời ban cho chúng ta. Chúng ta có thể di chuyển từ đỉnh chiến thắng đến thung lũng thử thách thật nhanh chóng! Chúng ta cần phải hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời và phải sẵn sàng cho những thử thách thường theo sau sự chiến thắng.
Nếu Ê-li có thể diễn tả cảm giác của ông và điều ông nghĩ với một nhà tư vấn, người đó sẽ chuẩn đoán tình trạng của ông theo như sách nói là bị kiệt sức. Cơ thể Ê-li bị kiệt sức và ông mất sự thèm ăn. Ông thất vọng về chính bản thân, công việc của mình và càng bị sự tự thương mình điều khiển nhiều hơn.“Chỉ một mình tôi còn lại!”. Thay vì quay sang tìm sự giúp đỡ nơi người khác, ng tự cô lập mình_tệ hơn hết_ông muốn chết. (Ê-li không bao giờ chết. Ông được cất lên trời bằng xe ngựa. (IIVua 2:1-22).
Vị tiên tri kết luận rằng ông đã thất bại trong nhiệm vụ của mình và quyết định đã đến lúc phải ra đi. Nhưng Đức Chúa Trời không thấy theo cách đó. Ngài luôn nhìn thấy vượt xa hơn tâm trạng hay thay đổi cùng những lời cầu nguyện mạnh mẽ, Ngài thương xót chúng ta như cha mẹ thương xót những đứa con bị nản lòng của mình (Thi 103:13-14). Đoạn này cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời đối đãi với chúng ta dịu dàng và kiên nhẫn như thế nào khi chúng ta ở trong vực sâu của tuyệt vọng và muốn từ bỏ mọi thứ.
Đoạn này bắt đầu với việc Ê-li chạy trốn và cố gắng cứu mạng mình.Sau đó vị tiên tri cãi lẽ với Đức Chúa Trời và cố gắng bênh vực mình. Cuối cùng, ông vâng lời Đức Chúa Trời, khuất phục chính mình và được phục hồi chức vụ. Trong tất cả những chuyện này Ê-li đang đáp lại với bốn thông điệp khác nhau.
1. Thông điệp của kẻ thù về sự nguy hiểm (IVua 19:1-4)
Khi mưa như trút nước bắt đầu đổ xuống, Giê-sa-bên đang ở Gít-ri-ên và có lẽ đã nghĩ rằng thần bão Ba-anh đã chiến thắng trên núi Cạt-mên. Tuy nhiên, khi A-háp về, ông kể cho bà nghe một chuyện hoàn toàn khác. A-háp là một người yếu đuối, nhưng lẽ ra ông nên đứng với Ê-li và tôn vinh Đức Chúa Trời là Đấng đã bày tỏ quyền năng của Ngài cách mạnh mẽ. Nhưng A-háp phải sống với hoàng hậu Giê-sa-bên và không có sự ủng hộ của bà, ông biết ông chẳng là gì cả.
Nếu từng có một kẻ thống trị kiên quyết làm điều ác thì đó là Giê-sa-bên. Cả A-háp và Giê-sa-bên đều không chấp nhận bằng chứng rõ ràng diễn ra trên núi Cạt-mên rằng Đức Giê-hô-va là một Đức Chúa Trời sống và chân thật. Thay vì ăn năn và kêu gọi đất nước quay trở lại phục vụ Đức Chúa Trời, Giê-sa-bên tuyên chiến với Đức Giê-hô-va và người đầy tớ trung thành của Ngài Ê-li và A-háp cho phép bà làm điều đó.
Tại sao Giê-sa-bên gửi thư cho Ê-li khi bà có thể sai lính giết ông? Ông đang ở Gít-ri-ên và hành động này có thể dễ dàng thực hiện vào một đêm mưa gió. Giê-sa-bên là một người đàn bà gian ác; bà cũng là một nhà chiến lược sắc sảo, người biết tận dụng sự thất bại của Ba-anh trên núi Cạt-mên. A-háp là một người trốn tránh công việc, nhưng vợ ông không phải như vậy! Ê-li bây giờ là một người rất được dân sự yêu mến.
Giống như Môi-se, ông đã đem lửa từ trời và giết những kẻ thờ thần tượng (Le 9:24; Dan 25:1-17). Nếu Giê-sa-bên biến ông thành người tử vì đạo, ông có thể ảnh hưởng đến dân sự bằng cái chết của mình hơn là đời sống của ông. Không, dân sự đang đợi Ê-li bảo họ phải làm gì, vì thế tại sao không đuổi ông khỏi nơi ông chiến thắng?Nếu Ê-li biến mất, dân sự sẽ tự hỏi điều gì đã xảy ra, sẽ có ý hướng trở lại sự thờ lạy Ba-anh để cho A-háp và Giê-sa-bên hướng dẫn đường lối của mình. Hơn nữa, dù cho là Ba-anh hay là Đức Giê-hô-va, mưa đã trở lại và đã có việc để làm!
Giê-sa-bên hoài nghi rằng Ê-li đã bị suy nhược về thể chất lẫn cảm xúc sau một ngày đòi hỏi nhiều nỗ lực trên núi Cạt-mên, và bà đã đứng. Ông cũng là con người như chúng ta, và như những cha xứ thời xưa thường dạy các môn đồ của mình rằng “Hãy cẩn thận sự đánh trả của loài người sau những nỗ lực thánh.”
Bức thư của bà đã đạt được mục đích và Ê-li chạy trốn khỏi Giê-sa-bên. Trong khoảnh khắc sợ hãi, khi ông quên tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm cho mình ba năm trước, Ê-li đem theo đầy tớ mình, rời khỏi Y-sơ-ra-ên hướng về Bê-e-sê-ba, thành phố ở cực nam Giu-đa.
Charles Spurgeon đã nói rằng Ê-li “thối lui trước một kẻ thù đã ngã gục”. Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của ông (IVua 18:36-37) và tay Ngài đã ở với ông trong trận bão (IVua 18:46), nhưng bây giờ ông đang bước đi bằng mắt không phải bằng đức tin (Thi 16:7-8).
Trong ba năm, Ê-li đã không có một bước đi nào không nghe và tuân theo sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời (IVua 17:2-3,8-9; IVua 18:1), nhưng bây giờ ông đang đi trước Đức Chúa Trời nhằm cứu mạng sống mình. Khi đầy tớ Đức Chúa Trời bước ra khỏi ý muốn của Ngài họ có khả năng làm tất cả những điều ngu ngốc và thất bại trong điểm mạnh nhất của mình.
-Khi Áp-ra-ham chạy đến Ai-cập, ông thất bại trong đức tin, vốn là sức mạnh lớn nhất của ông (Sa 12:10).
-Sức mạnh lớn nhất của Đa-vít là sự chính trực, đó chính là nơi ông đã thất bại khi ông bắt đầu nói dối và có mưu đồ trong chuyện Bát-sê-ba (IISa 11-12).
-Môi-se là người nhu mì nhất (Dan 20:1-13), nhưng ông đã mất bình tĩnh và để mất đặc ân được vào đất hứa (Dan 20:1-13).
-Phi-e-rơ là một người can đảm, nhưng ông đã mất lòng can đảm này và đã chối Đấng Christ (Mac 14:66-72).
Giống như Phi-e-rơ, Ê-li là một người dũng cảm, nhưng sự dũng cảm này biến mất khi ông nghe thông điệp của Giê-sa-bên.
Nhưng tại sao lại chạy đến Giu-đa, đặc biệt là khi Giê-rô-bô-am, vua Giu-đa cưới con gái của A-háp là A-tha-li (IIVua 8:16-19; IISu 21:4-7). Đây là A-tha-li xấu xa, người sau này cai trị xứ và cố gắng tiêu diệt tất cả những người kế vị ngôi Đa-vít (IIVua 11:1-21). Nơi an toàn nhất cho bất kỳ con cái nào của Đức Chúa Trời là nơi được ý muốn của Ngài chỉ ra, nhưng Ê-li không thể dừng lại để tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời. Ông đi 90 đến 100 dặm tới Bê-e-sê-ba và để đầy tớ mình tại đó. Ông có nói “Ở đây cho đến khi nào ta quay lại?” hay ông chỉ trả tự do cho người đầy tớ để người này được an toàn? Nếu kẻ thù đuổi theo ông, người đầy tớ của ông có thể được an toàn hơn ở một nơi khác.Hơn nữa, nếu người đầy tớ không biết Ê-li ở đâu, anh ta không thể khai báo chống lại ông.
Bê-e-sê-ba có một ý nghĩa đặc biệt với người Do-thái vì nó có mối liên hệ đến Áp-ra-ham (Sa 21:22,33), Y-sác (Sa 26:33), và Gia-cốp (Sa 46:1). “Cây bách xù” thật ra là một loại cây bụi có hoa (“cây đậu chổi có hoa”), mọc sum suê trong đồng vắng và cho bóng mát cho các loài chim thú và khách bộ hành.Những cành của nó mảnh dẻ và dễ uốn giống như những cành cây liễu và đư ợc dùng để buộc các bó cây. (Tiếng Hê-bơ-rơ nói về loại cây bụi này là “buộc”). Rễ của cây được dùng để chụm và làm than rất tốt (Thi 120:4). Khi Ê-li ngồi dưới bóng mát của nó, ông đã làm một việc khôn ngoan_cầu nguyện_nhưng không cầu nguyện một điều khôn ngoan. Ông nói với Đức Chúa Trời, “Tôi đã đủ rồi! Hãy cất lấy mạng sống tôi.”
Sau đó ông đưa ra lý do: “Tôi không hơn gì các tổ phụ tôi.” Đức Chúa Trời không bao giờ yêu cầu ông phải hơn bất cứ người nào, nhưng chỉ cần nghe Lời Ngài và làm theo.
Sự kết hợp giữa rối loạn cảm xúc, kiệt sức, đói và cảm giác thất bại nặng nề, cộng với việc thiếu đức tin nơi Đức Chúa Trời đã làm cho Ê-li lún sâu vào sự ngã lòng. Nhưng còn có một yếu tố khác đó là sự kiêu ngạo, cả sự tự thương hại mình, vì Ê-li chắn chắn rằng chức việc can đảm của ông trên núi Cạt-mên sẽ bắt cả nước phải hạ mình. Có lẽ ông cũng hy vọng rằng A-háp và Giê-sa-bên sẽ ăn năn từ bỏ Ba-anh mà quay trở lại cùng Đức Giê-hô-va.
Sự mong đợi của ông không được thực hiện, vì thế ông cho mình là thất bại. Nhưng Đ ức Chúa Trời ít khi cho đầy tớ Ngài nhìn thấy tất cả những việc tốt mà họ đã làm, vì chúng ta bước đi bằng đức tin không phải bằng mắt, và Ê-li sẽ biết rằng có 7.000 người trong Y-sơ-ra-ên không quỳ trước Ba-anh và thờ lạy hắn. Chắc chắn chức vụ của chính ông đã ảnh hưởng trên nhiều người trong số họ.
2. Thông điệp của thiên sứ về ân điển (IVua 19:5-8)
Khi tấm lòng nặng nề, tâm trí và thân thể mệt mỏi, đôi khi phương thuốc tốt nhất là ngủ_chỉ đánh một giấc ngủ trưa! Dựa vào (Mac 6:31), Vance Havner thường nói rằng nếu chúng ta không tách ra và nghỉ ngơi, chúng ta sẽ ngã qụy và Ê-li đã rơi vào trường hợp như vậy. Dường như không có điều gì đúng khi bạn quá mệt mỏi.
Nhưng khi vị tiên tri đang ngủ, Đức Chúa Trời sai một thiên sứ đến chăm lo cho nhu cần của ông. Trong cả tiếng Hê-bơ-rơ và Hy-lạp, từ được dịch là “thiên sứ” cũng có nghĩa là “sứ giả”, vì thế một số người kết luận rằng người khách giúp đỡ này là một người kh ách bộ hành khác được Đức Chúa Trời đưa đến bên Ê-li vào đúng thời điểm thích hợp.
Tuy nhiên, trong câu 7, vị khách này được gọi là “thiên sứ của Đức Chúa Trời”, một danh hiệu trong Cựu-ước dành cho Chúa ngôi hai, Chúa Giê-xu, con trai Đức Chúa Trời. Trong những phân đoạn như (Sa 16:10 Xu 3:1-4 Cac 2:1-4), thiên sứ của Đức Chúa Trời nói và hành động như điều Đức Chúa Trời sẽ nói và hành động. Trên thực tế, thiên sứ của Đức Chúa Trời trong (Xu 3:2) được gọi là “Đức Chúa Trời” và trong phần còn lại của đoạn là “Chúa”. Chúng ta cho rằng vị khách giúp đỡ này là Chúa Giê-xu Christ của chúng ta.
Ê-li và sứ đồ Phi-e-rơ đều được thiên sứ đánh thức (Cong 12:7) Ê-li để lấy thức ăn và Phi-e-rơ để bước ra là người tự do. Thiên sứ đã chuẩn bị một bữa ăn đơn giản nhưng đầy đủ gồm bánh mì mới nướng và nước mát, vị tiên tri ăn uống rồi lại nằm xuống tiếp tục ngủ. (Chúa Giê-xu đã chuẩn bị một bữa ăn sáng gồm bánh và cá cho Phi-e-rơ và sáu môn đồ khác của Ngài (Gi 21:9,13).
Chúng ta không được biết Chúa cho Ê-li ngủ bao lâu trước khi Ngài đánh thức ông lần thứ hai và bảo ông ăn. Chúa biết rằng Ê-li dự định đi đến núi Si-na-i, một trong những nơi thiêng liêng nhất trong lịch sử Do-thái, Si-na-i cách Bê-e-sê-ba 250 dặm, và ông cần có sức khoẻ cho cuộc hành trình này. Nhưng dù cho nơi đi đến của chúng ta là đâu, chuyến hành trình là quá dài đối với chúng ta và chúng ta cần sức của Đức Chúa Trời để đến được đích. Đức Chúa Trời thật là nhân từ, Ngài đã “dọn bàn nơi đồng vắng” cho những tôi tớ ngã lòng của Ngài (Thi 78:19; Thi 23:5). Ê-li vâng lời sứ giả của Đức Chúa Trời và có thể đi 40 ngày đêm nhờ vào chất dinh dưỡng từ hai bữa ăn này.
Khi bạn nhìn lại những công việc Đức Chúa Trời làm cho Ê-li được chép trong (IVua 18:1-19:21), bạn thấy có một sự tương đương với lời hứa trong (Es 40:31. Trong ba năm, vị tiên tri đã được Đức Chúa Trời che giấu, suốt trong thời gian đó ông “trông đợi Đức Chúa Trời”. Khi Đức Chúa Trời sai ông đến núi Cạt-mên, Ngài làm cho ông có thể “cất cánh bay cao như chim ưng” và chiến thắng những tiên tri Ba-anh.
Sau khi Ê-li cầu nguyện thì trời bèn mưa, Đức Chúa Trời ban cho ông sức mạnh để “chạy mà không mệt nh ọc” (Es 18:46), và bây giờ Ngài bổ sức cho ông trong 40 ngày vì thế ông có thể “đi mà không mòn mỏi” (Es 19:8). Ê-li không hoàn toàn sống theo ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng ông đủ sáng suốt để biết rằng ông phải trông đợi Đức Chúa Trời nếu ông mong ước có được sức lực cho chức vụ và cho chuyến hành trình trước mắt.
Thiên sứ của Đức Chúa Trời là những sứ giả đặc biệt của Ngài, được sai đến để phục vụ dân sự Ngài (He 1:14; Thi 91:11). Thiên sứ cứu Đa-ni-ên khỏi bị sự tử ăn thịt (Đa 6:22), và thiên sứ phục vụ Chúa Giê-xu sau khi Ngài bị cám dỗ nơi đồng vắng (Mac 1:12-13). Thiên sứ thêm sức cho Chúa Giê-xu trong vườn Ghết-sê-ma-nê (Lu 22:43) và nâng đỡ Phao-lô trên con tàu trong cơn bão (Cong 27:23). Các thiên sứ trên trời vui mừng khi một tội nhân ăn năn (Cong 15:7,10).
Khi chúng ta về thiên đàng và Đức Chúa Trời ban đặc ân cho chúng ta nhìn lại cuộc hành trình trên đất của chúng ta, chúng ta sẽ chắc chắn khám phá ra rằng những người lạ giúp đỡ chúng ta theo những cách khác nhau thật sự là những thiên sứ của Đức Chúa Trời, được Ngài sai đến để nâng đỡ và bảo vệ chúng ta.
3. Thông điệp của Đấng tạo hoá về quyền năng (IVua 19:9-14)
Từ Bê-e-sê-ba đến Si-na-i khoảng 200 dặm, một chuyến hành trình có lẽ mất mười ngày hay một tuần. Tối đa đã hơn ba tuần kể từ khi Ê-li chạy khỏi Gít-ri-ên, nhưng chuyến đi trải dài mất 40 ngày (IVua 19:8)! Nếu Ê-li đang phải vội vã để cách xa khỏi những kẻ đao phủ của Giê-sa-bên, tại sao ông mất quá nhiều thời gian để làm việc này? Có lẽ Đức Chúa Trời hướng dẫn các bước đi của ông (Thi 37:23)_và những chặng dừng chân_vì thế ông sẽ trải qua mỗi ngày cho mỗi năm trong đồng vắng của dân Y-sơ-ra-ên sau khi họ được giải thoái khỏi Ai-cập.
Chính vì sự không tin và sợ hãi của dân Y-sơ-ra-ên tại Ca-đe Ba-nê-a đã khiến cho họ bị đoán phạt (Dan 13:1-14:45), chính sự không tin và sợ hãi của Ê-li đã khiến ông phải bước vào chuyến hành trình trong sa mạc. (Chúa Giê-xu chúng ta cũng trải qua 40 ngày trong đồng vắng khi Ngài bị cám dỗ, (Mat 4:2). Khi hướng về Si-na-i, Ê-li có thể đã dự định cho chuyến đi, hư thế ông có thể trải qua 40 ngày trong đồng vắng để noi gương Môi-se, người đã trải qua 40 ngày trên núi với Đức Chúa Trời (Xu 34:28). Ê-li phải đối phó với sự thờ lạy Ba-anh và Môi-se phải đối phó với sự thờ lạy bò vàng (Xu 32:1-35).
Ê-li lấy hang đá làm nhà và chờ đợi Đức Chúa Trời. Trong ngôn ngữ tôn giáo đương thời, ông đang “sống ẩn dật” nhằm giải quyết một số nan đề và gần gũi với Đức Chúa Trời. Ông quá tuyệt vọng đến nỗi ông sẳn sàng từ bỏ sự kêu gọi dành cho mình và cả mạng sống ông. Cuối cùng khi Đức Chúa Trời đến và phán với Ê-li, không phải để quở trách hay dạy dỗ ông, nhưng để hỏi ông một câu hỏi: “Ngươi đang làm gì ở đây?”.
Lời đáp của Ê-li không thật sự trả lời câu hỏi, iều này giải thích tại sao Đức Chúa Trời hỏi lần thứ hai (c.13). Ê-li chỉ kể cho Đức Chúa Trời (Đấng đã biết) rằng ông đã trải qua nhiều thử thách trong chức vụ, nhưng ông vẫn trung thành với Đức Chúa Trời. Nhưng nếu ông là một người đầy tớ trung thành, ông đang làm gì khi ẩn nấp trong một hang đá cách nơi chức vụ được xức dầu của ông hàng trăm dặm?
Trong lời đáp này, Ê-li biểu lộ cả sự kiêu hãnh và sự tự thương hại mình, trong cách dùng đại từ “họ”, ông thổi phồng mức độ của sự đối lập. Ông làm như thể là mỗi một người Do-thái còn lại ở vương quốc phía bắc đã quay sang chống lại ông và Đức Chúa Trời, khi thật sự chính Giê-sa-bên là người muốn giết ông.
Điệp khúc: “Tôi chỉ còn lại một mình” của Ê-li làm như thể ông là người không thể thiếu cho công việc của Đức Chúa Trời, khi thật sự không có đầy tớ nào của Đức Chúa Trời là không thể thiếu được. Sau đó Đức Chúa Trời ra lệnh cho ông đứng tại trên núi trước cửa hang động, nhưng dường như Ê-li không vâng lời Ngài cho đến khi ông nghe tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ (c.13). Một khả năng khác là ông đã ra khỏi hang đá nhưng chạy trở vào khi Đức Chúa Trời bắt đầu bày tỏ quyền năng vĩ đại của Ngài.
“Đức Giê-hô-va đi ngang qua” nhắc chúng ta nhớ đến kinh nghiệm của Môi-se trên núi (Xu 33:21-22). Tất cả điều Ê-li cần để được hồi phục lại cho sự phục vụ là một viễn cảnh rõ ràng về quyền năng và vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đầu tiên, Đức Chúa Trời khiến một trận gió mạnh thổi qua, gió mạnh đến nỗi làm bể đá và xé núi, nhưng không có một thông điệp thánh nào đến với vị tiên tri.
Sau đó Đức Chúa Trời gây ra một trận động đất làm rung chuyển núi, nhưng không có điều gì từ Đ ức Chúa Trời đến trong trận động đất. Sau đó Đức Chúa Trời đem đến một đám lửa, nhưng nó cũng không mang đến cho Ê-li một thông điệp nào từ Đức Chúa Trời. Chắc chắn vị tiên tri ắt hẳn đã nghĩ đến việc ban luật pháp khi ông chứng kiến sự phô bày quyền năng gây cảm xúc mạnh mẽ này (Xu 19:16-18).
Điều Đức Chúa Trời cố gắng làm trọn trong cuộc đời Ê-li thông qua những bài học tượng hình kinh hoàng và khiếp sợ này là gì? Một mặt, Đức Chúa Trời đang nhắc nhở ông rằng mọi vật trong thiên nhiên đều vâng theo Ngài (Thi 148:1-14)_gió, những nền móng của trái đất, lửa_và Ngài không thiếu những công cụ khác nhau để hoàn thành công việc của Ngài. Nếu Ê-li thối lui khỏi tiếng kêu gọi thánh dành cho ông, Đức Chúa Trời sẽ có một người khác thay thế chỗ ông. Nhưng hóa ra, Ê-li không thối lui nhưng được cho quyền kêu gọi người kế vị ông là Ê-li-sê và trải qua một thời gian với người này trước khi được cất lên trời.
Gió, động đất, và lửa là tất cả những phương tiện Đức Chúa Trời dùng để bày tỏ chính mình Ngài cho loài người. Các nhà thần học gọi những sự biểu hiện này là “theophanies”, xuất phát từ hai từ Hy-lạp (theos= Đức Chúa Trời; phaino= bày tỏ, hiện ra), khi đi cùng nhau có nghĩa là “sự bày tỏ của Đức Chúa Trời”).
Những đất nước thờ đa thần thấy những cảnh tượng vĩ đại này và thờ lạy những sức mạnh của thiên nhiên, nhưng khi người Do-thái thấy những điều này, họ thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo dựng nên thiên nhiên. (Cac 5:4-5; Thi 18:16-18; Ha 3:1-19).
Nhưng những sự bày tỏ tương tự về sự hiện diện và quyền năng kinh khiếp của Đức Chúa Trời sẽ được nhìn thấy trong những ngày cuối cùng khi Chúa Giê-xu trở lại thế gian để thiết lập vương quốc của Ngài.
Những tiên tri thời Cựu-ước gọi giai đoạn này là “ngày của Đức Chúa Trời”. (Gio 2:28-3:16; Es 13:9-10; Mat 24:29; Kh 6:1-16:21). Có lẽ Đức Chúa Trời đang phán với Ê-li, “Ngươi cảm thấy như mình đã không phán xét được tội lỗi của Y-sơ-ra-ên, nhưng một ngày kia ta sẽ đoán xét nó và sự đoán xét của ta là cuối cùng và trọn vẹn”.
Sau sự phô bày quyền năng gây cảm xúc mạnh mẽ này, có “một tiếng êm dịu nhỏ nhẹ”, cũng có thể dịch là “một tiếng thì thầm nhỏ nhẹ, một giọng nói nhẹ nhàng như gió thoảng”. Khi vị tiên tri nghe giọng nói này, ông bước ra khỏi hang đá và gặp Đức Chúa Trời. Quyền năng mạnh mẽ và tiếng động lớn của những sự bày tỏ vừa rồi không làm lay động Ê-li, nhưng khi ông nghe tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ, ông nhận ra tiếng nói của Đức Chúa Trời. Lần thứ hai (Gion 3:1), ông nghe câu hỏi tương tự, “Hỡi Ê-li, ngươi ở đây làm chi?” và một lần nữa, Ê-li lặp lại câu trả lời vừa lẩn tránh vừa tự coi mình là trung tâm.
Đức Chúa Trời đang phán với Ê-li, “Ngươi đã gọi lửa từ trời, ngươi đã giết những tiên tri Ba-anh, và ngươi cầu nguyện xin một trận mưa dông rất lớn, nhưng bây giờ ngươi cảm thấy như là một thất bại. Nhưng ngươi phải nhận biết rằng ta không hành động theo cách ầm ĩ, gây ấn tượng và cảm xúc mạnh mẽ. Tiếng nói êm dịu nhỏ nhẹ của ta đem Lời đến cho tấm lòng và đôi tai lắng nghe.
Đúng, có lúc và có nơi cho gió, động đất và lửa, nhưng phần lớn thời gian, ta nói với dân sự bằng một giọng đầy tình yêu dịu dàng và sự thuyết phục trầm lặng.”
Đức Chúa Trời không chê trách chức vụ dũng cảm của đầy tớ Ngài; Ngài chỉ đang nhắc Ê-li rằng Ngài sử dụng nhiều công cụ khác nhau để hoàn thành công việc của Ngài. Lời của Đức Chúa Trời đến như một cơn mưa rào nhẹ làm mát mẻ, ạch sẽ và sản sinh sự sống (Phuc 32:2; Es 55:10).
Trong thời đại của những cuộc hội họp lớn, âm nhạc ầm ĩ, và áp lực cao của sự thăng tiến ngày nay, thật khó cho một số người hiểu rằng Đức Chúa Trời ít khi hành động bằng những phương tiện khổng lồ và gây ấn tượng mạnh mẽ.
Khi Ngài muốn khởi đầu nước Do-thái, Ngài ban xuống một em bé Y-sác; khi Ngài muốn giải phóng đất nước khỏi cảnh nô lệ, Ngài ban xuống một em bé khác Môi-se. Ngài sai một thiếu niên tên Đa-vít đi giết gã khổng lồ người Phi-li-tin, cậu trai đã dùng một cái trành ném đá và một hòn đá để làm điều này. Khi Ngài muốn cứu rỗi thế gian, Ngài sai Con Ngài đến như một em bé yếu ớt và không nơi nương tựa; ngày nay, Ngài cố gắng đến với thế gian thông qua chức vụ của “những chậu bằng đất” (IICo 4:7).
Tiến sĩ J. Oswald Sanders phát biểu rằng “những tiếng thì thầm từ nơi Chúa bị đóng đinh có sức mạnh vô cùng hơn là tiếng sấm trên núi Si-nai đem con người vào chỗ ăn năn.”
4. Thông điệp của Đức Chúa Trời về sự hy vọng (IVua 19:15-21)
Ê-li không có gì mới để thưa với Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời có một thông điệp mới về sự hy vọng cho người đầy tớ đang ngã lòng của Ngài. Đức Chúa Trời có nhiều lý do để loại bỏ người đầy tớ của Ngài và để ông chết trong hang đá, nhưng Ngài không làm điều đó. “Ngài không đãi chúng tôi theo tội lỗi chúng tôi, cũng không báo trả chúng tôi tùy sự gian ác chúng tôi. . . Vì Ngài biết chúng tôi nắn nên bởi giống gì; Ngài nhớ lại rằng chúng tôi bằng bụi đất” (Thi 103:10,14).
Đầu tiên, Đức Chúa Trời bảo Ê-li trở về nơi thi hành chức vụ. Khi chúng ta ra khỏi ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta phải ra khỏi chốn đó và thực hiện một sự khởi đầu mới (Sa 13:3 Sa 35:1-3). Câu trả lời thành thật cho câu hỏi “Hỡi Ê-li, ngươi ở đây làm chi?” là “Tôi không làm gì cả! Tôi chỉ đang tự thương hại cho mình đây!” Nhưng Ê-li được kêu gọi để phục vụ, và có những nhiệm vụ ông phải thực hiện. Khi Giô-suê đau buồn vì việc Y-sơ-ra-ên thất bại trước thành A-hi, ông sấp mặt xuống đất trước Đức Chúa Trời cả ngày; nhưng câu trả lời của Đức Chúa Trời là “Hãy đứng dậy! Sao ngươi sấp mặt xuống đất như vậy?” (Gios 7:10).
Khi Sa-mu-ên than khóc vì sự thất bại của Sau-lơ, Đức Chúa Trời quở trách ông. “Ngươi buồn rầu về việc Sau-lơ cho đến chừng nào? Ta đã từ bỏ nó hầu cho nó không làm vua trên Y-sơ-ra-ên nữa. Hãy đổ dầu đầy sừng của ngươi và đi.. .” (ISa 16:1) Sa-mu-ên đi và xức dầu cho Đa-vít làm vị vua kế tiếp. Dầu cho đầy tớ của Đức Chúa Trời có quên Ngài thì Ngài cũng không quên công việc Ngài sẽ làm cho họ. Việc của chúng ta là vâng Lời Ngài và đứng lên làm điều Ngài bảo!
Trách nhiệm đầu tiên của Ê-li là xức dầu cho Ha-xa-ên làm vua Sy-ri. Đây là một nước của dân ngoại, nhưng Đức Chúa Trời vẫn là Đấng chọn lựa những người lãnh đạo. “Đấng Rất Cao cai trị trong nước loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý” (Đa 4:25). Sau đó ông sẽ xức dầu cho Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên, ì mặc dầu đất nước bị phân chia, Y-sơ-ra-ên vẫn ở dưới giao ước thánh và Đức Chúa Trời vẫn có trách nhiệm với đất nước này.
Nhiệm vụ thứ ba của ông là xức dầu cho Ê-li-sê làm người kế nhiệm ông. Ê-li than phiền vì những thế hệ trong quá khứ đã thất bại và thế hệ trong hiện tại không làm điều gì tốt hơn (c.4).
Bây giờ Đức Chúa Trời gọi ông để giúp trang bị cho thế hệ tương lai bằng việc xức dầu cho hai vị vua và một vị tiên tri. Đây là sự diễn tả của Cựu-ước về (IITi 2:2).
Những người được Đức Chúa Trời gọi tên không phải là những người đáng chú ý đặc biệt trong kết cấu xã hội thời đó. Ha-xa-ên là một đầy tớ của vua Bên-ha-đát, Giê-hu là người chỉ huy quân đội, và Ê-li-sê là một nông dân.
Nhưng vào thời điểm Ê-li-sê và Giê-hu hoàn thành công việc của họ, sự thờ lạy Ba-anh hầu như đã bị quét sạch khỏi Y-sơ-ra-ên (IIVua 10:18-31). Không một thế hệ nào có thể làm được tất cả mọi việc, nhưng mỗi thế hệ nên hiểu rằng người trong thế hệ kế tiếp được kêu gọi và huấn luyện và rằng những công cụ được bày sẵn cho họ để tiếp tục công việc của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang bảo Ê-li ngừng than khóc về quá khứ và chạy trốn khỏi hiện tại. Đã đến lúc ông bắt đầu chuẩn bị những người khác cho tương lai. Khi Đức Chúa Trời tể trị, luôn luôn có hy vọng.
Nhưng Đức Chúa Trời làm hơn việc chỉ sai đầy tớ của Ngài tuyển chọn những người làm việc mới. Ngài cũng cho ông sự bảo đảm rằng công việc của ông và công việc của những người này sẽ không vô ích. Đức Chúa Trời sẽ dùng gươm của Ha-xa-ên và Giê-hu, dùng lời nói và công việc của Ê-li-sê, để làm trọn mục đích của Ngài trong xứ.
Hơn nữa, Ngài bảo đảm cho Ê-li rằng chức vụ của ông không thất bại vì vẫn còn có 7.000 người trong xứ trung thành với Đức Giê-hô-va. Thật sự, vị tiên tri không có một mình, nhưng Đức Chúa Trời sai ông đụng chạm đến đời sống của ba cá nhân.
Đức Chúa Trời không ra lệnh cho Ê-li tập hợp tất cả 7.000 người trung thành trong một cuộc hội họp lớn và giảng đạo. Chắc chắn có nơi cho những bài giảng và những cuộc hội họp lớn, nhưng chúng ta không bao giờ được đánh giá thấp tầm quan trọng của sự làm việc với từng cá nhân. Chúa Giê-xu nói với một đám đông lớn, nhưng Ngài luôn luôn có thời gian cho từng cá nhân và cho nhu cầu của họ.
Cụm từ “Tôi còn lại” trong câu 18 có nghĩa “Chỉ mỗi mình tôi còn sót lại”. Đây là “một phần còn sót lại theo sự lựa chọn của ân điển” mà Phao-lô đã viết trong (Ro 11:1-6). Dầu cho thế gian có gian ác như thế nào, Đức Chúa Trời luôn có một số người còn lại trung thành với Ngài. Đôi khi số người còn sót lại đó nhỏ, nhưng Đức Chúa Trời luôn luôn vĩ đại và làm trọn mục đích của Ngài.
Không chần chừ, Ê-li rời khỏi chỗ mình và trở về nơi thi hành chức vụ. Si-nai cách A-bên Mê-hô-la (c.16) 150 dặm. Tại đó ông sẽ tìm thấy Ê-li-sê đang cày ruộng. Tên của Ê-li-sê nghĩa là “Đức Chúa Trời có sự cứu rỗi”. Việc Ê-li-sê đang dùng mười hai đôi bò 24 con vật đắt tiền cho thấy rằng gia đình ông có thể khấm khá về tài chính hơn phần lớn những người Y-sơ-ra-ên.
Ê-li không nói một lời nào với người trai trẻ nhưng chỉ ném áo choàng (áo ngoài) của mình cho anh ta để chỉ rằng Đức Chúa Trời kêu gọi anh phục vụ vị tiên tri và sau đó trở thành người kế nhiệm ông. Ê-li-sê và gia đình anh là “phần còn sót lại của ân điển” mà Đức Chúa Trời đã để riêng ra cho Ngài. Dẫu cho thời đó ảm đạm như thế nào, Đức Chúa Trời có dân sự của Ngài và biết thời điểm nào để kêu gọi họ.
Cách cư xử của Ê-li-sê dường như trái với những gì Chúa Giê-xu nói trong (Lu 9:57-62), nhưng không phải như vậy. Ê-li-sê toàn tâm toàn ý vâng theo sự kêu gọi đi theo Ê-li, trong khi những người trong sách Phúc-Âm lưỡng lự và hạn chế, Chúa Giê-xu biết điều đó. Ê-li-sê chứng tỏ sự sốt sắng của mình bằng việc giết hai con bò và dùng nông cụ bằng gỗ chụm củi để nấu một buổi tiệc chia tay. Theo ngôn ngữ thời đó, ông đang “đốt cây cầu đằng sau mình”.
Ông không có ý định bỏ tay khỏi cày và sau đó trở lại với nó. Lời đáp của Ê-li có nghĩa là “Ta đã làm gì? Ta không gọi ngươi, Đức Chúa Trời đã gọi. Ta đã chặn ngươi lại? Hãy làm như điều Đức Chúa Trời muốn ngươi làm.” Bản dịch mới đã ghi “Hãy trở lại tiếp tục công việc của ngươi! Nhưng hãy nghĩ về điều ta đã làm với ngươi.”
Gia đình và bạn bè Ê-li-sê nghĩ về sự thay đổi thiên hướng đột ngột này như thế nào chúng ta không được biết, nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy họ phản đối quyết định của Ê-li-sê.
Khi bạn nhìn lại phân đoạn này, bạn có thể thấy những lỗi lầm mà Ê-li mắc phải và Đức Chúa Trời đã tể trị trên chúng Ngài làm trọn ý muốn của Ngài như thế nào. Ê-li bước đi bằng mắt chứ không phải bằng đức tin, nhưng Đức Chúa Trời giữ vững ông. Ông nhìn vào chính mình và những thất bại của mình thay vì nhìn vào sự vĩ đại và quyền năng của Đức Chúa Trời.
Ông quá quan tâm đến việc làm trổi hơn những công việc các tổ phụ mình đã làm trong quá khứ thay vì kêu gọi và chuẩn bị những người đầy tớ mới cho tương lai. Ông tách biệt mình khỏi dân sự của Đức Chúa Trời do đó ông mất đi sức mạnh và sự khích lệ từ tình bằng hữu và từ những lời cầu nguyện.
Nhưng chúng ta đừng quá khắc nghiệt với Ê-li vì ông đã có một đôi tai nhạy cảm với tiếng gọi êm dịu nhỏ nhẹ của Đức Chúa Trời, ông đã làm theo những gì Đức Chúa Trời bảo ông làm. Đức Chúa Trời quở trách ông nhẹ nhàng và đem ông ra khỏi hang động và trở về với sự phục vụ tích cực. Chúng ta hãy giữ những điều này trong trí và nhớ lại chúng vào lần tiếp theo khi chúng ta đang ở dưới cây bách xù hay đang ở trong hang động!
Cuối cùng, chúng ta hãy ở giữa những người nhìn về tương lai và tìm kiếm để tuyển chọn những người phục vụ Đức Chúa Trời. Tán tụng hay phê bình quá khứ ít đạt tới điều gì; điều quan trọng là chúng ta làm công việc của mình trong hiện tại và huấn luyện cho những người khác để tiếp tục nó sau khi chúng ta đi. Đức Chúa Trời đem những tôi tớ của Ngài về nước Ngài, nhưng những công việc của Ngài cứ tiếp tục phát triển.
12. A-HÁP KẺ NÔ LỆ CHO TỘI LỖI (IVua 20:1-22:53)
Trong tác phẩm Moby-Dick, Herman Melville đã lấy tên A-háp để đặt cho vị thuyền trưởng chuyên gây rối của chiếc tàu đánh cá voi Pequod (Melville cũng xây dựng một nhân vật khác là “tiên tri” có tên là Ê-li). Nhân vật A-háp trong Kinh Thánh là một người đàn ông nhu nhược, đã phá hoại chính bản thân và gia đình mình bởi vì ông đã để cho người vợ gian ác là Giê-sa-bên biến ông thành một con người quái ác.
Cái tên Giê-sa-bên đã trở nên quen thuộc với mọi người ngày nay và nó cũng đã có trong từ điển: “Giê-sa-bên: người phụ nữ gian ác, vô liêm sĩ”. Việc gọi một người nữ là Giê-sa-bên đồng nghĩa với việc đặt người đó ở tầng lớp hạ đẳng nhất của xã hội (Kh 2:20-23). Tiên tri đã mô tả chính xác về A-háp khi ông gặp vị vua này: “Phải, tôi có gặp vua, bởi vì vua đã bán mình đặng làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va.” (IVua 21:20)
Những đoạn này mô tả bốn sự kiện trọng đại trong cuộc đời A-háp: ba trận đánh với quân Sy-ri (A-ram) việc tranh giành đất đai dẫn tới sự bắt bớ phi pháp và những vụ ám sát. Bởi vì không có mối quan hệ đúng đắn với Đức Chúa Trời và Lời của Ngài nên A-háp dễ rơi vào cạm bẫy của tội lỗi, nhưng “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Ro 6:23), và A-háp đã phải nhận lãnh thích đáng. Chúng ta sẽ đi qua bốn sự kiện này và xem xét những hành động của A-háp:
1. Tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời(IVua 20:1-30)
Đây là lần đầu tiên trong hai lần vị vua yếu đuối này bày tỏ một sự hiểu biết thuộc linh lờ mờ của mình. Đất nước Y-sơ-ra-ên chỉ vừa thoát khỏi ba năm đói kém thì Bê-ha-đát, vua Sy-ri lại lợi dụng cơ hội này để gây chiến. Vua Đa-vít đã đánh bại các vương quốc phía bắc (gọi là Sy-ti những bản dịch cũ, hoặc A-ram trong những bản dịch mới), nhưng các quốc gia này sau đó đã dần dành được độc lập.
Và một lý do khác khiến Bên-ha-đát tấn công Y-sơ-ra-ên là việc vương quốc A-sy-ri ở phía bắc đang lớn mạnh. Bên-ha-đát muốn nắm quyền điều khiển tuyến đường thương mại xuyên qua Y-sơ-ra-ên bởi ông đã để mất tuyến thương mại tới A-sy-ri, ng cũng muốn Y-sơ-ra-ên cung cấp người và vũ khí phòng trường hợp A-si-ri sẽ xâm lược nước mình.
• Sự bao vây (IVua 20:1-12).
Ba mươi hai vua liên kết với Bên-ha-đát là những người cầm quyền những thành ở phía bắc vốn là nơi thanh bình và thịnh vượng nhờ vào hiệp ước Sy-ri là quốc gia vững mạnh. Chúng ta không biết rõ cuộc bao vây thành Sa-ma-ri kéo dài bao lâu, nhưng sau cùng Sy-ri cũng đã dồn A-háp đến chỗ đầu hàng. Ban đầu Bên-ha-đát đòi của cải cùng người nhà của A-háp và ông đã đồng ý. Bên-ha-đát muốn nắm giữ gia đình A-háp như những con tin để đảm bảo rằng A-háp không rút bỏ giao kèo của mình.
Thay vì cầu hỏi sự giúp đỡ của tiên tri Ê-li hay những vị tiên tri khác, A-háp đã nhanh chóng đàu hàng. (Quyết định này hoàn toàn trái ngược với quyết định của Sau-lơ trong ISa-mu-ên 11) Bên-ha-đát không thỏa mãn với sự sắp đặt này và ông muốn hơn thế nữa, nhưng sự tham lam đã dẫn ông đến chỗ sa bại. Thêm vào việc chiếm lấy của cải và gia đình của vua Y-sơ-ra-ên, Bên-ha-đát còn muốn sai quyân lính lục soát cung điện và chiếm lấy bất cứ thứ gì họ muốn! Chấp nhận yêu cầu này thì quả là điều quá sỉ nhục đối với một A-háp đầy kiêu hãnh, như vậy vua và các cận thần từ chối yêu cầu này.
Khi nhận thông điệp này, Bên-ha-đát có thể đang say rượu, cảm thấy mình chẳng sợ ai cả và ông đã có một quyết định thiếu khôn ngoan. Ắt hẳn ông đã quên những thứ mà ông muốn chiếm lấy mà không phải hy sinh một binh sĩ nào nhưng bây giờ ông lại thề rằng sẽ nghiền Sa-ma-ri thành bụi, và ông đã phải hành động theo sự kiêu ngạo của mình. A-háp đã đáp trả lại bằng câu tục ngữ thông dụng có thể áp dụng cho chính ông cũng như Bên-ha-đát. Câu tục ngữ này tương đương với câu, “Chưa đẻ thì đừng có mà đặt tên” hoặc là “Nói trước thì bước không qua”.
• Lời hứa (IVua 20:13-21).
Trái ngược với Bên-ha-đát, A-háp không có gì để nương tựa vào, nhưng bởi ân điển Đức Chúa Trời đã ban cho ông một thông điệp của sự hi vọng: Đức Chúa Trời sẽ ban cho A-háp sự chiến thắng.Đức Chúa Trời không làm điều này bởi vì A-háp xứng đáng được như vậy nhưng bởi vì Đức Chúa Trời muốn tôn cao danh của Ngài trước mặt vị vua đang nao núng và dân Y-sơ-ra-ên. Những điều Ngài đã làm trên đỉnh Cạt-mên thì Ngài cũng sẽ làm nơi chiến trận: Ngài sẽ chứng tỏ rằng Ngài là Đức Chúa Trời duy nhất (IVua 18:36-37). Chúng ta khen ngợi A-háp vì đã tiếp nhận lời hứa của Đức Chúa Trời và cầu xin thêm nữa sự dẫn dắt của Ngài. Có lẽ Giê-sa-bên không có ở nhà ngày hôm đó để có thể khiến nhà vua có quyết định sai lầm.
• Theo gót của Sa-lô-môn (IVua 4:7), cha của A-háp là Ôm-ri đã chia vương quốc Y-sơ-ra-ên thành các tỉnh hành chính, mỗi nơi có “quan cai hàng tỉnh” đứng đầu và người này cũng là tướng lãnh của đạo binh. Đức Chúa Trời đã chọn những quan cai hàng tỉnh này để đánh trả quân Sy-ri, A-háp cầm đầu đạo quân nhỏ với số lượng khoảng 7.000 người. Họ kéo ra vào buổi nhơn lúc Bên-ha-đát, những tướng lãnh của ông ta đang say sưa ăn uống và không có chút gì chuẩn bị để sẵn sàng đánh trận.
Ngay cả khi những trinh sát của Bên-ha-đát thuật lại rằng có một đạo quân Y-sơ-ra-ên đang tiến đến trại quân Sy-ri thì vua Sy-ri vẫn không lo sợ mà còn sai bắt sống họ. Chiến thuật để bắt sống tù binh sẽ khác biệt nhiều so với tiêu diệt một đạo quân, những người của A-háp đã làm cho quân Sy-ri đầy kinh ngạc và sau đó họ tiến đến diệt sạch quân Sy-ri. Thay vì nghiền Sa-ma-ri thành bụi như họ đã đe dọa (c.10), thì Bên-ha-đát phóng lên ngựa và chạy thoát thân. Còn A-háp đã tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời và hành động theo lời hứa đó nên Đức Chúa Trời đã ban cho ông chiến thắng vĩ đại.
• Thách thức (IVua 20:22-30).
Một vị tiên tri không rõ tên đã cảnh báo A-háp phải củng cố, làm vững mạnh quân đội và chuẩn bị để đối đầu với một cuộc xâm luợc mới. Trong khi A-háp đanng lắng nghe thông điệp của Đức Chúa Trời, thì Bên-ha-đát đang lắng nghe những quần thần của mình giải thích về cuộc đại bại của Sy-ri. Họ đang cố gắng hàn gắn lại sự kiêu hãnh đã bị đổ vỡ của vua Sy-ri đồng thời cũng nhờ đó mà bảo vệ sự sống của chính mình. Họ giải thích rằng quân đội hùng mạnh của họ không có lỗi mà thất bại nằm ở chỗ họ chọn sai địa thế. Họ giải thích rằng thần của Sy-ri là “thần ở đồng bằng” còn thần của “Y-sơ-ra-ên là thần núi”. Nếu thay đổi địa thế thì Sy-ri sẽ giành chiến thắng.
Bây giờ chúng ta có một kịch bản khác, bởi vì giờ đây Sy-ri không chỉ thách thức dân sự của Đức Chúa Trời mà họ dám thách thức chính Ngài. Cuộc thi đấu tại núi Cạt-mên cứ lặp đi lặp lại, và Đức Chúa Trời sẽ không để nó trôi qua dễ dàng.Đức Giê-hô-va là chúa tể của cả trái đất! Ngài sai một người khác của Đức Chúa Trời để đảm bảo với A-háp về chiến thắng, nhưng chỉ vì Ngài muốn A-háp, quân đội Y-sơ-ra-ên, và những người Sy-ri thấy rằng chỉ Giê-hô-va là Đức Chúa Trời duy nhất. Chúa ban cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng trong trận chiến này, quân thù phải chạy trốn vào thành A-phéc, Đức Chúa Trời đã khiến một cơn động đất nổi lên và giết chết 27.000 binh lính Sy-ri. Bởi ân điển của Đức Chúa Trời, -háp giành được chiến thắng thứ hai.
2. Bất tuân mạng lệnh của Đức Chúa Trời (IVua 20:31-43)
Khi Đức Chúa Trời sai vua Sau-lơ đi đánh dân A-ma-léc, Ngài đã phán rõ ràng rằng Ngài muốn dân Y-sơ-ra-ên phải tiêu diệt hoàn toàn dân này. (ISa 15:1-35) Sau-lơ đã không vâng theo và kết quả là ông đã mất vương quốc. Ắt hẳn Đức Chúa Trời cũng đã ban cho A-háp mạng lệnh như vậy (c.42), nhưng ông cũng không vâng theo.A-háp đã giành chiến thắng trong trận đấu nhưng chung cuộc ông lại để mất chiến thắng. Khi kẻ thù không thể thực hiện mục đích của chúng bằng vũ khí, chúng sẽ sử dụng chiêu thức lừa dối. Nếu Sa-tan không thể thành công với con sư tử hay cấu xé (IPhi 5:8) thì nó sẽ đến với hình hài con rắn để lừa dối (IICo 11:3). Ngay cả Giô-suê cũng rơi vào cạm bẫy tương tự như vậy (Gios 9:1-27).
Những tướng lãnh của Bên-ha-đát là những người khôn khéo và họ biết rằng việc thử đưa ra lời thỉnh cầu nhắm đến sự kiêu hãnh của A-háp cũng đáng giá. Đức Chúa Trời đã ban chiến thắng nhưng A-háp đã hưởng công trạng về mình và sau đó chính ông đã phá hoại nó. Bằng cách thức ăn mặc cũng như thái độ của mình, những quan tướng của Bên-ha-đát bày tỏ sự quy hàng đầy khiêm nhượng với A-háp khi ông đứng đợi trong xe ngựa của mình (c.33). A-háp hẳn nhiên thích thú với “sự tôn vinh”mà ông nhận được sau chiến thắng vẻ vang nhưng ông chưa lần nào dâng vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Khi nghe Bên-ha-đát là tôi tớ của ông thì ông vui sướng trong lòng và sẳn sàng tha mạng cho hắn ta. Sau đó, Ha-xa-ên đã giết Bên-ha-đát và trở thành vua (IIVua 8:1-29).
Bên-ha-đát ngay lập tức đã thiết lập một thỏa ước với A-háp và trao trả những thành phố mà cha ông đã chiếm giữ (IVua 15:20). Ông cũng cho phép A-háp buôn bán những sản phẩm và hàng hóa của Y-sơ-ra-ên ở tại Đa-mách, nó chẳng khác gì là một thỏa thuận về thương mại. Một vị vua của Y-sơ-ra-ên mà đã có một thỏa thuận với kẻ thù của mình như vậy thì thật đáng để ý, nhưng A-háp không bị cáo trách gì cả (ngoại trừ việc ông nghe những lời trách móc của vợ mình) và luôn luôn tìm cách êm đẹp để chạy trốn khỏi hoàn cảnh. Cũng nói thêm rằng A-háp cần sự hỗ trợ của A-ram phòng khi A-sy-ri định tiến về phía nam. Giao ước giữa A-háp với Sy-ri kéo dài ba năm (IVua 22:1).
Đức Chúa Trời không thể cho phép A-háp bất tuân mạng lệnh Ngài rồi lẩn đi chỗ khác nên Ngài đã sai một người trong vòng các con trai tiên tri đến cáo trách nhà vua về tội lỗi của ông. “Các con trai của những tiên tri” là những chàng thanh niên có ân tứ đặc biệt về tiên tri và nhóm lại thành một nhóm để học với những tiên tri lớn tuổi giống như Sa-mu-ên (ISa 7:17; ISa 28:3), Ê-li và Ê-li-sê (IIVua 2:3-7,16; IIVua 4:38,40).
Hiểu rằng mình phải làm cho A-háp ngạc nhiên để thu hút sự chú ý của nhà vua, người thanh niên này đã dựng nên một “bài giảng sống động” để khơi dậy sự chú tâm của nhà vua. Chàng trai này kêu bạn tấn công mình bằng vũ khí, nhưng người bạn đã từ chối. Chúng ta có thể hiểu rằng người bạn này không muốn làm tổn thương bạn mình, nhưng cũng giống A-háp, người tiên tri trẻ này đã không vâng phục Đức Chúa Trời, và anh ta phải trả giá bằng mạng sống của mình. Điều nầy sẽ đặt sự kính sợ nơi nhưng học trò khác, bởi vì người trai trẻ tiếp theo khi được yêu cầu làm như vậy thì sẳn sàng tuân theo. Cải trang thành một binh lính bị thương, chàng trai đã sẵn sàng để rao ra sứ điệp của mình.
Vào thời đó, một người có thể ra mắt vua để giúp đỡ trong việc quyết định những vấn đề cần sự sáng tỏ của pháp luật; khi A-háp thấy “người lính bị thương này” ngồi bên vệ đường thì nó kích thích sự tò mò của nhà vua. Lúc này chúng ta nhớ lại cách thức Na-than tiếp cận với Đa-vít sau khi nhà vua đã phạm tội ngoại tình với Bát-sê-ba (ISa 12:1-25), cũng như vua Đa-vít đã nhìn nhận rõ tội lỗi của mình thì A-háp cũng được thông báo về tội lỗi của ông ta!
Nghe rằng “người lính” này đã để mất một tù binh quan trọng trong cuộc chiến và phải trả giá bằng chính mạng sống của mình hoặc phải trả một khoản tiền phạt khổng lồ (75 pao bạc, 1 pao bằng 450g). Và vua đã trả lời, “Ấy là sự đoán xét của ngươi, hính ngươi đã định lấy” (c.40). Nhà vua đã có thể ban cho người này môn ân huệ để cứu mạng sống anh ta, nhưng ông muốn người này phải chết. Nhưng khi làm như vậy, A-háp đã tuyên cáo chính tội lỗi của mình và kết án chính mình!
Làm cách nào A-háp nhận ra rằng người trai trẻ này là con trai của các tiên tri? Hẳn là A-háp không gần những học trò của Ê-li-sê đủ để biệt họ cách cá nhân.Khi dải băng được tháo ra, có phải nó để lộ một dấu hiệu đặc biệt nào đó chăng?
Hay là A-háp đã nhình thấy người này trên đỉnh Cạt-mên? Chúng ta không thể nào biết được, nhưng cảnh tượng này đã khiến nhà vua bị sốc. Người mà nhà vua buộc tội bây giời lại là người buộc tội lại nhà vua và thông báo rằng Sy-ri sẽ giết chết A-háp một cách tàn nhẫn. Nhưng thay vì ăn năn và tìm kiếm sự tha thứ của Đức Chúa Trời, A-háp trở về nhà và bĩu môi như một đứa trẻ (c.43 IVua 21:4).
3. Vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời (IVua 21:1-16)
Bên-ha-đát là người mà đáng lẽ ông phải giết đi nhưng ông lại để cho hắn sống; còn Na-bốt là người mà A-háp phải bảo vệ thì ông lại giết đi! Khi bạn bán mình cho sự gian ác, bạn gọi xấu là tốt còn tốt là xấu, sáng là tối và tối là sáng (Es 5:20). Câu chuyện đáng hổ thẹn về vườn nho của Na-bốt đã bày tỏ sự vô đạo, xem thường pháp luật của vua A-háp và vợ mình là Giê-sa-bên. Chúng ta hãy xem xét tội lỗi mà họ đã phạm và những điều răn của Đức Chúa Trời mà họ đã xem thường và không vâng theo.
• Thờ thần tượng.
Hai điều răn đầu trong mười điều răn là Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất và những kẻ thờ phượng thật không thờ phượng và hầu việc những thần khác, hoặc là những tạo vật và Đức Chúa Trời đã dựng nên hoặc là những vật do tay người làm ra (Xu 20:1-6).
A. W. Tozer đã viết rằng, “Bản chất của sự thờ hình tượng là sự ấp ủ những tư tưởng cho rằng Đức Chúa Trời là Đấng không xứng đáng.” Giê-sa-bên đã đem sự thờ phượng Ba-anh vào Y-sơ-ra-ên và A-háp cho phép nó được tràn lan trong lãnh thổ. Khi bạn quay lưng khỏi lẽ thật, điều đó chứng tỏ rằng bạn tin vào những lời dối trá, sau đó bạn bắt đầu yêu thích sự dối trá và sau đó bạn bị điều khiển, thống trị bởi sự dối trá.
• Sự tham lam (IVua 21:1-14)
A-háp và Giê-sa-bên có một cung điện mùa hè ở Giai-rơ, nhưng nhà vua không thể thỏa mãn hoàn toàn nếu thiếu một vườn rau. Những người có quyền lực chiếm giữ hết điều này đến điều khác, nhưng khi họ chiếm được, học chẳng bao giờ thật sự thỏa mãn.
Henry David Thoreau viết trong quyển Walden chương hai rằng, “một người trở nên giàu có tỷ lệ thuận với những thứ họ có thể chi trả để trở nên càng đơn độc hơn”. Và ông viết thêm, “Những của cải không cần thiết chỉ có thể mua những thứ không cần thiết mà thôi. Tiền không thể mua được ngay cả chỉ một sự thỏa mãn cho linh hồn”.
Vị vua muốn có vườn nho của Na-bốt bởi vì ông thèm muốn một mảnh vườn nằm cạnh cung điện của mình.
“Chớ tham lam” là điều răn cuối trong mười điều răn (IVua 20:17) nhưng có lẽ đó là điều răn khó nhất để vâng giữ. Thêm vào đó, một tấm lòng tham lam thường sẽ dẫn chúng ta đến chỗ vi phạm tất cả những điều răn còn lại của Đức Chúa Trời. Chín điều răn đầu nhấn mạnh đến việc cấm những hành động biểu hiện ra bên ngoài như: làm tượng chạm và thờ lạy, trộm cắp, giết người… nhưng điều răn này chú trọng đến những tham muốn bên trong lòng. Chính mười điều răn đã giúp Sau-lơ người Tạt-sơ, một người Pha-ri-si, nhận ra con người tội lỗi của mình (Ro 7:7-25) và cũng vì chính điều răn này mà người trai trẻ giàu có đã từ chối vâng theo khi ông nhìn vào tấm kính của luật pháp (Mat 19:14-30).
A-háp che đậy tham muốn của mình bằng cách ban đầu đề nghị muốn mua vườn nho ho ặc đổi một khoản tài sản khác để lấy vườn nho. Đó là đề nghị hợp lý, nhưng Na-bốt lại quan tâm nhiều hơn đến việc vâng lời Đức Chúa Trời hơn là làm vua lòng nhà vua hay kiếm tiền. Na-bốt biết rằng mảnh đất đó thuộc về Đức Chúa Trời và Ngài phân bổ nó cho dân Y-sơ-ra-ên thụ hưởng chừng nào họ còn vâng giữ giao ước Ngài. Tất cả sản nghiệp phải được giữ trong gia đình (Le 25:23-28), điều này có nghĩa rằng Na-bốt bị cấm không được bán mảnh đất cho nhà vua. Thể hiện cá tính trẻ con của mình, A-háp trở vào nhà, leo lên giường và bĩu môi.
• Làm chứng dối (IVua 21:5-10).
“Ngươi chớ làm chứng dối cho kẻ lân cận ngươi” là điều răn thứ chín và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nói thật, cho dù ở trước toà án hay là ở hàng rào sau nhà đi nữa. Lẽ thật như là xi-măng gắn kết xã hội lại với nhau, khi lẽ thật đã bị dẹp bỏ thì mọi thứ bắt đầu rơi rớt hết (Es 59:14). Giê-sa-bên là người nữ kiên quyết và không bao giờ để cho lẽ thật cản đường cho những mong muốn của mình, như vậy bà đã bịa đặt một lời dối trá chính thức, ngay trong phòng làm việc, bà đóng dấu bằng con dấu của nhà vua. Nhưng không sự che đậy nào của hoàng gia có thể thay đổi sự thật rằng A-háp và Giê-sa-bên đã vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời.
Lý lẽ mà Giê-sa-bên đưa ra cho việc Na-bốt phải chết là gì? Chồng bà là vua! Bởi vì bà đến từ Phê-ni-xi, bà có quan điểm của dân ngoại về thẩm quyền của nhà vua: nhà vua là người quan trọng, có thể giành lấy những điều mình muốn và dùng quyền lực để chăm lo cho chính mình. Sa-mu-ên đã cảnh báo về vương quyền loại này (ISa 8:14), và Chúa Giê-xu cũng cảnh báo môn đồ không được theo triết lý của sự cai trị nhưng phải phục vụ mọi người trong sự yêu thương (Mat 20:20-28).
Một người lãnh đạo chân chính dùng thẩm quyền của mình để gây dựng dân sự mình, còn kẻ độc tài thì dùng dân chúng để xây dựng thẩm quyền cho mình và dân chúng là thứ mà họ có thể hủy hoại. Giê-sa-bên cũng lồng vào kế hoạch của mình những nghi lễ tôn giáo và sai những người có thẩm quyền ở địa phương tuyên bố sự kiêng ăn. Nếu bạn có thể bọc đường cho những âm mưu của mình bằng những nghi thức tôn giáo, mọi người sẽ dễ dàng nghe theo.
Nhưng cho dù chỉ dụ của hoàng gia trông có vẻ hợp pháp và thuộc linh thế nào đi nữa thì trong sự quan sát của Đức Chúa Trời thì tất cả chỉ là sự dối trá và Đức Chúa Trời đoán phạt kẻ dối trá. Mọi điều mà Đức Chúa Trời ghét thì A-háp và Giê-sa-bên đã làm (Ch 6:16-19).
• Giết người (IVua 21:11-13).
Cách tiến hành mà Giê-sa-bên đưa ra đều dựa vào luật pháp (Phuc 17:6-7; Phuc 19:15; Dan 35:30), nhưng sự cáo buộc là dối trá, những nhân chứng là kẻ nói dối và những quan án đã bị mua chuộc bởi sự đe dọa của hoàng gia. Trong mỗi thành đều có “người của Bê-li-ên, những đồng bạn bất xứng”, những người mà có thể làm bất cứ điều gì vì tiền hoặc để trở nên người quan trọng. Không ai ngoại trừ A-háp và có thể là Giê-sa-bên nghe về việc Na-bốt từ chối bán vườn nho, hông có điều gì trong lời nói của A-háp có thể diễn giải rằng phạm thượng. Rủa sả Đức Chúa Trời là tội tử hình (Le 24:13-16) và rủ sả vua là vô cùng nguy hiểm bởi vì Đức Chúa Trời đã xức dầu cho vua (Xu 22:28; Cong 23:5). 5
• Trộm cướp (IVua 21:14-16).
Những kẻ cầm quyền nhu nhược của thành mà Na-bốt ở đã theo mệnh lệnh của Giê-sa-bên, chỉ đạo cuộc bắt bớ trái luật đem Na-bốt và các con trai của ông (IIVua 9:26) ra khỏi thành và ném đá họ. Không ai trong gia đình còn sống để thừa kế mảnh đất, như vậy A-háp được tự do để chiếm nó. Các quan chức báo cáo cho Giê-sa-bên, chứ không phải A-háp, về cuộc bắt bớ, cho nên chúng ta thấy rõ ai là người nắm uy quyền trong hoàng tộc. Nhưng mảnh đất đó không thuộc về A-háp, luật pháp nói rằng, “ngươi chớ trộm cắp” (Xu 20:15). Ngay cả mảnh đất đó cũng không thuộc về Na-bốt, nó thuộc về Đức Chúa Trời. A-háp đang trộm cướp tai sản của Đức Chúa Trời.
Nếu có hai người phạm tội phạm thượng Đức Chúa Trời và vi phạm luật pháp của Ngài thì đó là A-háp và Giê-sa-bên, sự đoán phạt đang sắp rơi xuống đầu họ.
4. Lắng nghe bản án từ Đức Chúa Trời (IVua 21:16-29)
“Chúa Giê-hô-va chẳng có làm một việc gì mà Ngài chưa tỏ sự kín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài, là các đấng tiên tri” Am 3:7).
Chúng ta đã không nghe nhắc đến Ê-li kể từ khi ông kêu Ê-li-sê làm người kế nghiệp mình, nhưng bây giờ Đức Chúa Trời đem tôi tớ Ngài vào trung tâm của sân khấu để cảnh cáo nhà vua. Như cách mà Ngài vẫn thường làm khi giao một công tác, Đức Chúa Trời cho Ê-li biết những điều sẽ phải nói với vị vua gian ác này. A-háp đã làm đổ huyết vô tội và huyết gian ác của ông ta sẽ bị chó liếm. Ôi, vua Y-sơ-ra-ên mà phải kết thúc sự cai trị của mình như vậy sao!
Trước đây A-háp gọi Ê-li là “kẻ làm rối loạn Y-sơ-ra-ên” (IVua 18:17), nhưng bây giờ ông gọi nhà tiên tri bằng một tên theo cách cá nhân hơn là “kẻ thù nghịch”. Thật ra, bằng cách chống nghịch lại với Đức Chúa Trời, A-háp là kẻ thù của chính mình và phải nhận lãnh bản án mà tiên tri Ê-li tuyên đọc. A-háp sẽ chết cách nhục nhã và chó sẽ liếm máu ông. Giê-sa-bên sẽ chết và bị chó ăn thịt. Tất cả sự thịnh vượng của họ sẽ bị tiêu diệt sạch khỏi xứ. Họ đã tận hưởng những năm tháng của dục vọng xấu xa và theo đuổi sự ích kỷ nhưng tất cả sẽ kết thúc bằng sự đoán phạt.
Thay vì trở về nhà bĩu môi, A-háp đã thật sự ăn năn! Suy nghĩ của Giê-sa-bên về cách xử sự của ông không được ghi nhận, nhưng Đức Chúa Trời là Đấng nhìn thấy trong lòng chấp nhận sự khiêm nhường của ông, Ngài nói điều đó với tôi tớ Ngài. Đức Chúa Trời hủy bỏ hình phạt đã được tuyên bố nhưng hoãn nó cho tới đời con của A-háp là Giô-ram. (IIVua 9:14-37).
A-háp bị thương trong chiến trận và con chó liếm máu ông ở ao Sa-ma-ri (IVua 22:37-38). Bởi vì sự hoãn hình phạt nên chó đã liếm máu con trai ông là Giô-ram tại chính sản nghiệp của Na-bốt y như lời phán của Ê-li (IIVua 9:14-37).
Những sự kiện sau đó chứng tỏ rằng sự ăn năn của A-háp rất ngắn ngủi nhưng ít nhất Đức Chúa Trời cũng đã cho ông một cơ hội khác để quay lưng khỏi tội lỗi và vâng lời Ngài. A-háp cần còn cần có những chứng cớ nào nữa? Tuy nhiên những ảnh hưởng của người vợ không thể bẻ gãy dễ dàng, bởi vì khi A-háp cưới bà ta, ông đã bán mình cho tội lỗi.
5. Nhận lãnh sự đoán xét của Đức Chúa Trời (IVua 22:1-53) (IISu 18:1-34)
Lúc này chúng ta được giới thiệu về một người tin kính là Giô-sa-phát, ua Giu-đa. Tóm tắt của triều đ ại vua này được chép trong đoạn (IVua 22:41-50) và ngay cả còn đầy đủ hơn trong (IISu 17:1-20:37). Ông đi theo đường lối của Đa-vít và tìm kiếm sự đẹp lòng Đức Chúa Trời (IISu 17:1-6). Ông sai những thầy tế lễ chịu trách nhiệm giảng dạy đi khắp xứ để giảng giải về luật pháp của Đức Chúa Trời cho dân sự (IISu 17:7-9) và giao nhiệm vụ cho những thầy tế lễ khác phục vụ với tư cách là những quan xét trung tín cho những tranh chấp giữa vòng dân sự. Đức Chúa Trời ban cho Giu-đa sự thanh bình và Giô-sa-phát tận dụng cơ hội này để làm cho xứ thêm vững mạnh (IISu 17:10-19).
Ông là một vị vua tốt và một nhà lãnh đạo tin kính, ông đã rơi vào ba sự thỏa hiệp đáng giá. Thứ nhất là “sự thỏa hiệp về việc cưới vợ”, ông cưới con gái của A-háp và Giê-sa-bên cho con trai mình (IISu 18:1; IISu 21:4-7; IVua 22:44; IIVua 8:16-19). Điều này dẫn đến “thỏa hiệp về chiến trận”, ông vướng vào vụ việc cha vợ của con trai mình khi Sy-ri tấn công Y-sơ-ra-ên (IVua 18:-19:3). Sự gian ác của A-háp tác động đến triều đại của cháu nội của Giô-sa-phát là A-cha-xia (IISu 22:1-9) và sự thỏa hiệp trong chiến trận này đã khiến ông phải trả bằng mạng sống của mình (IVua 22:32-33). Thỏa hiệp thứ ba là “thỏa hiệp về tàu bè”, ông đã gia nhập cách dại dột với đội tàu của con trai A-háp là A-cha-xia (IVua 22:48-49; IISu 20:31-37) và cố gắng làm giàu bằng cách nhập khẩu vàng từ nước ngoài. Đức Chúa Trời đã làm cho đội tàu của ông bị đắm và quở trách ông về sự liên minh sai trật này.
Một trong những thành tựu to lớn của Giô-sa-phát là đánh bại dân Mô-áp, A-môn, Ê-đôm, là một lực lượng mạnh tấn công Giu-đa (IISu 20:10). Nhà vua hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời, kêu gọi kỳ kiêng ăn cho cả vương quốc và khuyến khích dân sự tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời. Tại một cuộc hội họp của toàn thể dân sự tại Giê-ru-sa-lem, Giô-sa-phát đã cầu nguyện sự dẫn dắt và sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, nhắc lại giao ước của Ngài với Áp-ra-ham (c.7) và việc Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Sa-lô-môn khi ông cung hiến đề thờ (c.8-9; IISu 6:12-IISu 7:22). Nếu dân sự hướng về đền thờ và cầu nguyện, Đức Chúa Trời hứa rằng Ngài sẽ nghe và trả lời. Đức Chúa Trời có thể thấy cả đạo quân vùng dậy đang tiến đến và nhà vua xin Ngài đoán phạt chúng. (Tên “Giô-sa-phát” có nghĩa là “người được Đức Chúa Trời phân xử”, có nghĩa là “Đức Chúa Trời biện hộ cho duyên cớ của ông”.)
• Lời cầu nguyện được theo sau bởi sự giảng giải lời của Đức Chúa Trời của Gia-ha-xi-ên (IVua 20:14-17).
Ông cũng bảo đảm với nhà vua và dân sự rằng Đức Chúa Trời sẽ thật sự can thiệp và ban cho Giu-đa chiến thắng. “Vì trận giặc này chẳng phải của các ngươi đâu, bèn là của Đức Chúa Trời” (c.15). Nhà vua và dân sự tin cậy vào lời hứa của Đức Chúa Trời và ngợi khen Ngài ngay cả trước khi chiến trận bắt đầu.
Ngày hôm sau, Giô-sa-phát sai quân đội đi ra với những người ca hát đứng ở đằng đầu! Đức Chúa Trời khiến ba đạo quân của địch đánh giết và tiêu diệt lẫn nhau, để lại chiến lợi phẩm cho Giu-đa. Đạo quân Giu-đa đã ngợi khen Đức Chúa Trời trước và trong trận chiến, và giờ đây họ ngợi khen Đức Chúa Trời trong đền thờ sau trận chiến. Đức tin, sự cầu nguyện, và sự ngợi khen là thứ vũ khí sắc bén nhất!
Trong đoạn 22, trước giả của I Các-vua nhấn mạnh đến “sự thoả hiệp trong chiến trận”.
A-háp thỏa hiệp với vị vua thuộc về Đức Chúa Trời (IVua 22:1-6). Sau ba năm, Bên-ha-đát đã không giữ thỏa thuận trả lại cho Y-sơ-ra-ên những thành mà cha người đã chiếm lấy (IVua 21:34), A-háp quyết định đó là thời điểm để đánh Sy-ri và lấy lại chúng. Con trai của Giô-sa-phát đã cưới con gái A-háp, như vậy Giô-sa-phát phải thân thiện với A-háp và giúp đỡ ông ta đánh trận. Ông đã không vâng lời Đức Chúa Trời trong bước này (IISu 19:1-3), nhưng sự thỏa hiệp này dẫn đến sự thoả hiệp khác. Là con cháu của Đa-vít, đáng lẽ Giô-sa-phát phải tránh xa A-háp và không bao giờ cho phép dòng giống của Đa-vít pha trộn với dòng giống của A-háp. Tất cả những tiên tri giả đã đồng ý với nhà vua, đảm bảo rằng A-háp sẽ thắng trận, nhưng Giô-sa-phát đủ khôn ngoan để yêu cầu A-háp cầu vấn Đức Chúa Trời.
Vâng, có một tiên tri của Đức Chúa Trời ở Y-sơ-ra-ên, và ông ta đã ở nơi mà những tiên tri thật thường được tìm thấy đó là trong tù! A-háp sai mời kẻ thù mình là Mi-chê, trong khi hai vị vua đang ngồi chờ các tiên tri đã dùng những cách để thể hiện lời tiên tri của mình. Xê-đê-kia, dường như cầm đầu bọn họ, làm những sừng bằng sắt để minh họa cáchY-sơ-ra-ên sẽ đẩy lùi và húc dân Sy-ri và sẽ giành thắng lợi. Tất cả những tiên tri khác đều đồng ý và la lên lời tán đồng của mình. Nhưng để thắng trận thì đòi hỏi không chỉ nhiệt huyết, đặc biệt là khi Đức Chúa Trời đã bày tỏ mạng lệnh của Ngài theo hướng khác.
A-háp khước từ lời cảnh báo của Đức Chúa Trời (IVua 22:7-28). Mi-chê đang ở dưới áp lực vô cùng to lớn để đồng ý với các tiên tri giả rằng vua A-háp sẽ đánh bại Sy-ri. Mi-chê không chỉ bị áp lực bởi một mình chống chọi với lượng bốn trăm tiên tri giả mà những quan quân đem ông vào ra mắt hai vua cũng cảnh báo ông phải đồng ý số đông.
Thông thường trong Kinh Thánh, ý muốn của Đức Chúa Trời thường được thể hiện bởi thiểu số, Mi-chê xác định rằng mình phải trung tín chứ không phải làm vừa lòng người. Cảnh hai vua ngồi trên ngai, mặc triều phục, ắt hẳn rất ấn tượng, nhưng nó không lung lạc được Mi-chê.
Lời nói của ông trong câu 13 được nói cách châm biếm và A-háp hiểu nó, nhưng lời đáp lại của A-háp không trung thực. Ông chỉ muốn gây ấn tượng với Giô-sa-phát rằng ông thật sự muốn biết ý muốn của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời ban cho Mi-chê hai khải tượng, cả hai đều thông báo sự đoán phạt cho vua A-háp. Trong khải tượng đầu, ông thấy dân Y-sơ-ra-ên lang thang một cách vô vọng, giống như chiên không có kẻ chăn; đây rõ ràng là sự mô tả một nước không bậc cầm quyền (Dan 27:12-25). Chúa Giê-xu dùng hình ảnh này để mô tả dân Do-thái không có sự dẫn dắt thuộc linh (Mat 9:36). A-háp nhận được thông điệp rằng ông sẽ bị chết trong chiến trận.
Khải tượng thứ hai giải thích cách sự việc này sẽ được ứng nghiệm: một thần lừa dối sẽ đem đến cho A-háp sự tự tin giả tạo để ông ta sẽ thực hiện cuộc chiến. Việc Đức Chúa Trời của lẽ thật lại cho phép thần lừa dối làm tròn công việc của Ngài là một vấn đề khó hiểu đối với nhiều người, nhưng nó không khác biệt gì nhiều so với việc Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan tấn công Gióp (Giop 1:1-2:13) hoặc xui giục Giu-đa phản Chúa Giê-xu (Gi 13:21-30). Đức Chúa Trời đối xử với con người dựa trên căn bản về đặc tính của họ.
“Đối cùng kẻ thanh sạch, Chúa sẽ tỏ mình thanh sạch lại; Còn đối cùng kẻ trái nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt nhiệm lại.” (Thi 18:26)
A-háp đang chống nghịch lại với Đức Chúa Trời, giống như bất cứ võ sĩ quyền anh hay đô vật giỏi nào, Đức Chúa Trời nhìn thấy trước được chuyển động của họ và đáp trả chính xác. A-háp là một kẻ dối trá điêu luyện và Đức Chúa Trời đã đáp trả với ông ta theo đặc tính của chính ông.
Đức Chúa Trời không nói dối A-háp; trái ngược lại, qua môi miệng của Mi-chê, Ngài phán lẽ thật và cho A-háp lời cảnh báo đúng đắn về những gì sẽ xảy đến. Sự kiện Đức Chúa Trời cảnh báo A-háp trước trận chiến cho thấy rằng Đức Chúa Trời buộc tội A-háp về cái chết của ông. Phản ứng của Xê-đê-kia và bốn trăm tiên tri giả cũng không tin Mi-chê. Một điều bí ẩn lớn hơn là tại sao một người tin kính như vua Giô-sa-phát lại tham gia vào trận chiến để tính mạng mình bị nguy hiểm tại đó. A-háp ra lệnh bắt giam vị tiên tri chân chính vào tù và cho bánh và nước nuôi ông như thể là cách trừng phạt này có thể làm thay đổi sứ điệp của vị tiên tri này. Sự thử nghiệm tiên tri là thật hay không nhờ vào việc lời tiên tri được ứng nghiệm hoàn toàn (Phuc 18:17-22; Dan 16:29) và Mi-chê biết điều nầy. Vì vậy ông đã nói với A-háp rằng, “Nếu vua trở về bình-an thì Đức Giê-hô-va không cậy tôi phán.” (c.28)
• A-háp đối diện với sự chết (IVua 22:29-40,51-53).
Làm sao nào mà vua Giô-sa-phát lại không nhận ra những gì A-háp đang làm với mình? Nếu A-háp đặt mục tiêu vào lưng Giô-sa-phát, hẳn ông đã không để cho kẻ thù giết mình dễ dàng như vậy! Nếu Giô-sa-phát chết thì con trai của ông sẽ kế vị, con gái của A-háp sẽ trở thành Giê-sa-bên của Giu-đa!
Nếu A-háp có thể hiệp nhất hai ngai vàng và trộn lẫn dòng giống của Đa-vít với dòng giống của mình thì điều gì sẽ xảy ra với giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Đa-vít và dòng dõi của Đấng Mê-si-a?
Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng cầm quyền điều khiển tất cả và gìn giữ Giô-sa-phát, đồng thời cho phép một mũi tên ngẫu nhiên bắn trúng chỗ A-háp không mặt giáp và giết chết ông ta. A-háp đã cải trang và cuối cùng ông bị giết chết trong khi Giô-sa-phát trong bộ triều phục của mình lại không bị đụng đến. A-háp đã tha cho vua Sy-ri trong khi ông phải giết hắn thì nay Sy-ri lại giết A-háp.
Lời tiên tri của Mi-chê được ứng nghiệm và lời tiên tri của Ê-li cũng vậy (IVua 20:42; IVua 21:10-21).
Con trai của A-háp là A-cha-xia nối ngôi và tiếp tục con đường gian ác của cha mẹ mình (C.51-53). Triều đại của ông chỉ kéo dài hai năm và em trai ông là Giô-ram nối ngôi. Lời tiên tri về việc chó sẽ liếm máu trong sản nghiệp của Na-bố được ứng nghiệm trong cái chết của Giô-ram (IVua 21:29; IIVua 9:25-26).
XEM LẠI CÁC VUA – SỰ PHẢN ÁNH CỦA TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
Người phụ trách chuyên mục của một tờ báo Abigail Van Buren viết: “Nếu bạn muốn con mình đứng vững trên đôi chân của chúng thì hãy giao cho chúng một trách nhiệm nào đó.” Trách nhiệm không phải là một sự rủa sả; nó là một phước hạnh. Ađam và Ê-va cũng đã có trách nhiệm trong vườn Ê-đen trước khi tội lỗi đến với thế gian, và Con trai hoàn hảo của Đức Chúa Trời đã làm việc như một thợ mộc trước khi Ngài bắt đầu chức vụ cộng đồng của mình. Booker T. Washington đã nói rằng: “Có ít điều có thể giúp đỡ một người hơn là giao cho người đó một trách nhiệm, và để cho anh ta biết rằng bạn tin tưởng anh ta.”
Sau khi giết em trai mình là A-bên và nói dối về việc đó, Ca-in hỏi: “Bộ tôi là người giữ em trai tôi sao?” Anh ta đang lẩn tránh trách nhiệm cũng che giấu việc mình đã làm, một thực tế trở nên rất phổ biến ngày nay. Một người nghiện rượu nói rằng: “Chính ma quỷ đã xui khiến tôi làm như vậy” và mọi người đều cười khi đọc đến điều đó.
Khi tổ phụ của chúng ta phạm tội, họ chạy trốn khỏi Đức Chúa Trời, và khi đối diện với tội lỗi của mình, họ lại đổ thừa cho nhau. Sau cùng, họ đã phải gánh lấy trách nhiệm của việc mình làm, trách nhiệm đó cũng đem đến hy vọng và lời hứa. Những người thiếu trách nhiệm có thể chạy trốn, viện cớ, che đậy, hay đổ lỗi cho nhau, nhưng nếu họ làm như vậy thì họ sẽ không bao giờ biết được ý nghĩa của một đặc tính lành mạnh, sự chính trực, một lương tâm trong sạch, và niềm vui khi bước đi cùng Đức Chúa Trời.
Sách I Các-vua mở đầu với cái chết của vua Đa-vít và kết thúc với cái chết của vua A-háp, giữa hai sự kiện đó, đã có những người thành công hay thất bại, sống hay chết bởi những quyết định có trách nhiệm hay vô trách nhiệm. Thế giới của Đa-vít và A-háp không hề giống với thế giới của chúng ta ngày hôm nay, hưng bản chất của con người thì không hề thay đổi và những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống thì khá vững chắc. Chúng ta nên đối chiếu những gì học được từ sách ICác vua và đưa ra một vài kết luận thực tế phù hợp với cuộc sống ngày hôm nay.
1. Đa-vít: Người có thể tạo nên sự khác biệt.
Càng suy gẫm về cuộc đời vua Đa-vít, ngay cả những lỗi lầm, bạn càng thấy được sự vĩ đại của ông. Ông được sinh ra cùng với khả năng lãnh đạo, sự gan dạ, nhìn biết lẽ phải, Đức Thánh Linh đã ban cho ông sự nhạy cảm đối với ý muốn của Đức Chúa Trời và một năng quyền đặc biệt khiến ông biệt riêng ra như người của Đức Chúa Trời.
Người tiền nhiệm của ông, vua Sau-lơ, đã hầu như hủy phá cả đất nước, nhưng Đa-vít đã nhận lấy trách nhiệm khó khăn của việc tái thiết lại đất nước khiến nó trở nên một quốc gia hùng mạnh. Vua Đa-vít đã đánh bại kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên; thu thập châu báu để xây dựng đền thờ; tổ chức quân đội, chính quyền, và các chức vụ trong đền thánh; viết những bài hát để cho chi phái Lê-vi ca ngợi Chúa; thậm chí sáng tạo nên những nhạc cụ. Quả là một con người vĩ đại!
Giao ước của Đức Chúa Trời đối với vua Đa-vít là nước Y-sơ-ra-ên sẽ tồn tại đời đời và cuối cùng đã được làm trọn khi Chúa Giê-xu đến với thế gian.Chính bởi lời hứa của Ngài với Đa-vít mà Chúa đã giữ lại ngôi vua cho một trong những người kế nhiệm của ông trong suốt những năm suy tàn của vương quốc Giu-đa. Trong suốt lịch sử của chế độ quân chủ, Đức Ch úa Trời đã đánh giá từng vị vua, và mặc dù có một vài ngoại lệ nhưng không ai trong họ có thể sánh được với vua Đa-vít.
Một người có thể tạo nên sự thay đổi, nếu người đó sẵn sàng nhận lấy trách nhiệm và bước đi cùng với Đức Chúa Trời. Ai cũng có thể xoay sở được khi ở cùng với mọi người, nhưng khi Đức Chúa Trời tìm kiếm những cá nhân sẵn sàng đứng ra đơn độc nếu cần thiết, Ngài sẽ hành động và hình thành nên những người lãnh đạo. Lời của Tiến sĩ Lee Roberson đã vang lên trong tâm trí tôi nhiều năm nay: “Mọi thứ đều có thể dấy lên hay ngã xuống bởi sự lãnh đạo.”
2. Sa-lô-môn: Thành công đôi khi dẫn đến thất bại.
Thật tốt là có những thứ có thể mua được bằng tiền, miễn là bạn đừng đánh mất những thứ mà tiền không mua được. Sa-lô-môn là một người vô cùng tài giỏi có thể bàn luận mọi thứ từ việc gây dựng công chúng cho đến việc xây nên các pháo đài, tuy nhiên ông đã làm hỏng cuộc đời của mình và mở đường cho sự chia cắt của đất nước.
Trong suốt thời kỳ vàng son của Sa-lô-môn, các quốc gia đã phải kinh ngạc trước sự khôn ngoan và phải ghen tỵ trước tài sản ông có được (có thể cả việc ông có nhiều vợ nữa), nhưng chính Sa-lô-môn đã tự khiến mình trở thành một con người rỗng tuếch khi xoay khỏi Đức Giê-hô-va là Đấng đã ban phước cho ông cách dư dật. Ông có lẽ là người khôn ngoan mà khờ dại nhất trong lịch sử Kinh Thánh.
Khi bạn đọc những dòng này, bạn hiểu ra được rằng chính cuộc sống xa hoa, bao phủ bởi vẻ đẹp quyến rũ và khoái lạc, đã đưa vào đất nước Y-sơ-ra-ên những con vi-rút mà cuối cùng chúng đã ăn mất trái tim thuộc linh của một quốc gia. Phải, chúng ta cần có học vấn, nhưng chúng ta cũng cần xin Chúa sự khôn ngoan để sử dụng nó theo đúng cách chúng ta nên sử dụng. Chúng ta cũng cần có tiền để mua thức ăn, quần áo, chỗ ở “Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi,” Chúa Giê-xu phán (Mat 6:32) nhưng nếu kiếm tiền chỉ vì lợi ích mà tiền đem lại thì chúng ta đã đầu hàng với lòng ham muốn của mình và trở nên quá quan tâm đến vật chất đến nỗi bỏ qua các giá trị.
Sa-lô-môn là một người thiếu trách nhiệm đối với nhiều lãnh vực trong cuộc sống, con trai của ông Rô-bô-am cũng thừa hưởng phần nào lối suy nghĩ đó, và sau cùng là chia cắt đất nước. Đức Chúa Trời khiến Đa-vít trở nên một lãnh đạo bằng cách sai ông đi chăn chiên; thử thách ông với sư tử, gấu, người khổng lồ; buộc ông phải trốn chạy để giữ lấy mạng sống trong suốt 10 năm; khiến ông phải chờ đợi ngôi vua đã được hứa cho ông. Sa-lô-môn được lớn lên trong sự chiều chuộng và bảo bọc; có thể ông có một vài năm phục vụ trong hoang mạc.
Bằng việc thâu góp những cô vợ, ngựa, của cải, ông đã đem đến sự thanh bình cho đất nước, nhưng đó là sự thanh bình được mua bằng cái giá của sự vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời.
Chẳng có điều tốt đẹp nào trong của cải và sự xoay bỏ Chúa, cũng như chẳng có điều kỳ diệu nào trong của cải và kiến thức. Các lãnh đạo chính quyền bảo chúng ta rằng: “Nếu mọi người tài giỏi hơn và giàu có hơn thì chúng ta sẽ giải quyết được những nan đề của xã hội.” Con người đã tài giỏi hơn và giàu có hơn đấy chứ, và họ tạo ra một đống những rắc rối mới.
Billy Sunday đã từng nói: “Khi tôi còn nhỏ, chúng tôi đi xuống sân ga và ăn cắp những thứ trong các toa chở hàng. Bây giờ lại có hẳn một gã đi học đại học và học cách ăn cắp luôn cả chiếc xe lửa.” Con người thông minh đến nỗi họ có thể ngồi ngay bàn phím vi tính mà ăn cướp một nhà băng cách đó hàng ngàn dặm. Bản chất con người không hề thay đổi.
3. Sức mạnh và đặc tính của một dân tộc bắt nguồn từ trong gia đình.
Nếu như vua Đa-vít thể hiện sự kỷ luật và sức mạnh ông có nơi chiến trường thì lịch sử Do-thái có lẽ đã khác. Một phần của vấn đề là ông có quá nhiều vợ, cộng với thực tế là không phải lúc nào cũng dễ dàng cho một đứa trẻ có danh tiếng được lớn lên bình thường. Nhưng cho dù lý lo gì đi nữa, một vài người con của Đa-vít đã thật sự hư hỏng, những gì họ làm đã ảnh hưởng đến đất nước.
Dựa theo Sáng-thế ký đoạn 3, ma quỷ đã trở nên một kẻ nói dối và mục tiêu đầu tiên của nó là cuộc hôn nhân của con người. Từ lúc đó nó đã và đang tấn công điều này. Theo Sáng 4, nó trở nên một kẻ giết người và mục tiêu thứ hai của nó là gia đình. Nó khiến Ca-in đố kỵ và giận dữ để rồi giết A-bên. Có lời nói rằng trong gia đình hiện đại, máy thu âm và Ti-vi được thích nghi tốt hơn là các thành viên trong gia đình. Người ta phàn nàn việc con nít không thể cầu nguyện ở trường, nhưng lại có rất ít phụ huynh khuyến khích con mình cầu nguyện ở nhà.
Gia đình là một trường học dạy về tính cách, nơi chúng ta học cách yêu thương, lắng nghe, vâng phục, và giúp đỡ lẫn nhau. Nói tóm lại, nó là nơi chúng ta học lấy tinh thần trách nhiệm.
4. Rô-bô-am: Các thế hệ phải hiệp tác với nhau.
Cho dù ở nhà, hay ở văn phòng của chính phủ, hay trong Hội thánh địa phương, các thế hệ phải làm việc cùng nhau và học hỏi lẫn nhau. Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn, đã khờ dại không chịu lắng nghe kinh nghiệm của người trưởng thành mà lại chọn nghe những lời tán thưởng nịnh bợ từ phía những người đồng trang lứa, và kết quả là ông đánh mất hầu hết vương quốc của mình. Bằng việc gán cho các thế hệ những danh hiệu khác nhau và để cho họ tự do làm việc riêng của mình, “Ồ, họ là như vậy đấy!”, chúng ta đã làm yếu đi tình đoàn kết trong xã hội, chia cắt gia đình, ngăn cản các thế hệ thừa hưởng những tinh hoa trong quá khứ, và thuyết phục giới trẻ rằng họ thực sự có thể tự mình làm nên chuyện.
Đức Chúa Trời đã quy định rằng cha mẹ phải trưởng thành hơn con cái của mình. Ngài cũng ra lệnh cho bậc cha mẹ phải yêu thương con cái, dạy cho chúng biết cách lắng nghe và vâng lời, bảo vệ chúng khỏi điều ác, phải làm gương tốt cho chúng. Nhưng cha mẹ cũng có thể học hỏi từ con cái của mình.
Ở đây có một mối liên hệ hai chiều. Tôi vun đắp tình bạn với giới trẻ, bởi vì tôi cần họ và họ cần tôi. Tôi giúp họ bắt nhịp với quá khứ còn họ giúp tôi bắt nhịp với hiện tại. Tôi không phải lúc nào cũng đúng và họ không phải lúc nào cũng sai. Thế hệ đi trước trao cho thế hệ đi sau một di sản quý giá từ quá khứ, nhưng nếu chúng ta không hiểu thế giới mà họ đang sống và cảm nhận của họ về thế giới đó thì chúng ta không thể giúp họ sử dụng di sản đó vì lợi ích của họ cũng như lợi ích của xã hội.
Phao-lô xem Hội thánh địa phương như một gia đình của Đức Chúa Trời (Tit 2:1-8), trong đó các thế hệ chăm sóc lẫn nhau. Người trẻ cư xử với người lớn hơn như chính cha mẹ, ông bà của mình, và người lớn cư xử với người trẻ hơn như với con cái của mình. Khi một gia đình ngồi lại cùng nhau, không phải lúc nào họ cũng đồng ý với nhau về mọi thứ, nhưng họ cố gắng để giúp đỡ nhau trong suốt các giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Đó là điều nên được nhìn thấy trong gia đình, Hội thánh cũng như đất nước.
5. Giê-rô-bô-am: Sự lãng phí cơ hội
Đức Chúa Trời đã trao cho Giê-rô-bô-am một cơ hội vô giá để xây dựng đất nước Y-sơ-ra-ên vì sự vinh hiển của Ngài, nhưng ông đã lãng phí nó. Thay vì nhìn lại vua Đa-vít, noi theo gương lãnh đạo của ông, và tìm sự giúp đỡ từ Chúa, iê-rô-bô-am lại để cho bản ngã của mình chiến thắng và làm mọi thứ theo cách của mình. Ông tự tạo cho mình một thứ tôn giáo và khiến cho dân sự cảm thấy dễ dàng hơn đối với việc không vâng lời Đức Chúa Trời. Ông đã bỏ qua thẩm quyền thiêng thượng của Lời Đức Chúa Trời và lập nên các thầy tế lễ không thánh khiết và thiếu phẩm chất. Đức Chúa Trời đã gởi đến cho ông những dấu hiệu và sứ điệp, hưng ông từ chối tuân theo. “Tội lỗi của Giê-rô-bô-am” được nhắc đến hơn 20 lần trong Kinh Thánh.
Sự chia cắt của đất nước Do-thái là một chương trình của Chúa, nhưng nếu cả Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am biết lắng nghe tiếng Chúa thì họ đã có thể cứu đất nước mình ra khỏi cảnh đổ nát. Một khi cơ hội đã qua đi, nó sẽ không trở lại. Mỗi cơ hội đều là một cuộc thử nghiệm về cách nhìn cũng như giá trị của những người có liên quan. Chúa đã ban cho Giê-rô-bô-am một lời hứa chắc chắn (IVua 11:29-40) nhưng vị vua đã không xem trọng nó và tin cậy nơi Đức Chúa Trời để làm thực hiện nó. Cơ hội không đến một cách ầm ĩ, nó đến thầm lặng, và tai chúng ta phải thật chú ý. Cơ hội đến gõ cữa chứ không đá ầm ầm vào cánh cửa, và chúng ta tốt hơn là nên cảnh giác để mở cửa.
Nhà thơ người Mĩ John Greenleaf Whittier có viết:
Trong tất cả những lời đáng buồn được nói ra hay viết ra, Lời đáng buồn nhất đó là: “Lẽ ra sự việc phải như thế!”
Phớt lờ cơ hội Đức Chúa Trời ban cho là một sự lãng phí quá khứ, hủy hoại tương lai và làm hỏng hiện tại.
6. Ba-anh: khối ung thư âm thầm của sự thờ hình tượng
Giê-rô-bô-am thì đúc lên những con bò vàng còn Giê-sa-bên đem vào sự thờ thần Ba-anh, trước đó rất lâu, cư dân ở vương quốc phía Bắc đã từ bỏ Đức Giê-hô-va để thờ những hình tượng vô tri vô giác. Một hình tượng không chỉ là một sự sỉ nhục với Đức Chúa Trời mà còn sỉ nhục đối với loài người, bởi vì con người đã được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chúa Trời để phản chiếu sự vinh hiển của Đức Chúa Trời có thật và hằng sống. Việc tạo nên một thần trong trí của chúng ta và thời phượng nó là một điều hết sức tai hại, bởi vì chúng ta sẽ trở nên giống như những thần mà chúng ta thờ lạy (Thi 115:8).
Nếu bạn muốn sùng bái thần tượng và vẫn thỏa lòng với những khoái lạc của tội lỗi thì khi đó sự thờ hình tượng là con đường dẫn tới việc đó. Thế nhưng cái sự tự do của nó sẽ dẫn tới sự nô lệ và những khoái lạc của nó dẫn tới nỗi đau và sự chết. Cho dù thần tượng chúng ta đang thờ phượng l à tiền bạc, hanh thế, quyền lực, tình dục, giải trí, hay sự thỏa mãn thói tự cao tự đại, ó cũng không bao giờ có thể sánh được với những gì chúng ta nhận được khi chúng ta thờ phượng Đức Chúa Trời có thật và hằng sống thông qua Con một của Ngài là Đức Chúa Giê-xu Christ.
7. Ê-li: Sự cải tạo và đổi mới
Một quốc gia, một Hội thánh hay một cá nhân không bao giờ lầm lạc quá xa đến nỗi Đức Chúa Trời không thể ban cho một sự khởi đầu mới. Ê-li là kẻ thù của A-háp bởi vì A-háp đã làm theo ý riêng của ông chứ không phải của Đức Chúa Trời. Ê-li là tôi tớ của Đức Chúa Trời và ông đã liều phó sự sống mình để đem đất nước trở lại với Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Sự cải tạo thật sự nên dẫn đến sự đổi mới về mặt tâm linh. Việc phá bỏ bàn thờ ngoại đạo và phế truất thầy tế lễ của Ba-anh là chưa đủ. Chúng ta phải xây lại bàn thờ của Đức Giê-hô-va và cầu xin một ngọn lửa mới từ trời để thiêu đốt của lễ thiêu.
Sự cải tạo có nghĩa là giũ bỏ những phát sinh của cái mới để trở lại với nền t ảng của cái cũ. Khi dân bỏ mặc giao ước của mình với Đức Giê-hô-va, họ không còn là con cái của Đức Chúa Trời nữa và trở nên giống như những dân tộc khác. Đền thờ đẹp đẽ từng là nơi đầy dẫy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời nay trở thành một đống đổ nát như là nhân chứng cho một dân tộc vô ơn và vô tín. Những người được chọn của Đức Chúa Trời đã quên đi quá khứ lừng lẫy của mình và cố tình tạo ra một tương lai đầy sự xấu hổ và đổ vỡ.
Nan đề chủ yếu trong đức tin của bất kỳ một quốc gia nào cũng luôn là cuộc đấu giữa những tiên tri thật và tiên tri giả. Cả hai đều phát biểu dựa trên danh của Chúa. Các tiên tri giả sẽ nói với chúng ta điều chúng ta muốn nghe trong khi tiên tri thật lại nói những điều chúng ta nên nghe. Các tiên tri giả không đưa ra những chẩn đoán sâu sắc và thấu đáo về bệnh tật của đất nước;họ chỉ gãi nhẹ lên bề mặt mà thôi. Còn tiên tri thật, họ cắt sâu và phơi bày ra những khối ung nhọt ẩn sâu bên trong; giống như Giăng Báp-tít, họ dùng rìu đốn tận gốc rễ của cái cây (Mat 3:10) và không phí thời gian để bứt từng chiếc lá từ những cành cây chết.