“Tội lỗi tệ hại nhất đối với các đồng loại của chúng ta không phải là ghét họ mà là thờ ơ với họ đó là bản chất vô nhân đạo”.
George...
...Bernard Show đã đặt những lời này nơi miệng của mục sư Anthony Aderson trong vai thứ 2 của vở kịch của ông: Môn Đồ Của Quỷ. Câu nói chắc chắn tóm tắt điều Chúa Giê-xu đã dạy trong câu chuyện về người Sa-ma-ri nhơn lành (Lu 10:25-37), nó quở trách tất cả những ai khoanh tay thỏa mãn, mĩm cười nhẹ nhàng, và nói cách mỉa mai: “Hãy thử hỏi xem tôi có quan tâm hay không cái đã!”
• Nê-hê-mi là loại người biết sống quan tâm.
-Ông quan tâm về những truyền thống của quá khứ và những nhu cầu của hiện tại.
-Ông quan tâm về những hy vọng cho tương lai.
-Ông quan tâm về di sản, thành phố của tổ tiên ông, và vinh hiển của Đức Chúa Trời ông.
Ông bày tỏ thái độ quan tâm này qua 4 cách khác nhau:
1. Ông Hỏi Thăm Vì Có Lòng Quan Tâm (Ne 1:1-3)
Nê-hê-mi là một thường dân, làm quan tửu chánh cho Đại đế Ạt-ta-xét-xe Longinamus, vua cai trị xứ Ba-tư năm 464-423 TC. Ông được biết đến là con của Ha-ca-lia để phân biệt ông với những người Giu-đa khác có cùng tên (Ne 3:16; Exo 2:2). Nê-hê-mi nghĩa là “Chúa đã yên ủi”.
Quan tửu chánh có địa vị cao hơn nhiều so với chức “quản gia” của chúng ta ngày nay (Sa 40:1-23). Đó là một địa vị có trách nhiệm và đặc quyền lớn. Ở mỗi bữa ăn, quan ấy kiểm tra rượu của vua để chắc chắn rượu không bị tẩm độc. Người đứng sát cạnh vua trước mọi người phải tuấn tú, có học thức, hiểu biết những nghi thức triều chính, và có thể tiếp chuyện với vua, cố vấn cho vua nếu được yêu cầu (Sa 41:1-13). Do tới lui trước mặt vua, quan tửu chánh là một người có ảnh hưởng lớn mà người ấy có thể sử dụng cho việc tốt hoặc xấu.
Việc Nê-hê-mi, một người Do-thái, giữ một chức vị quan trọng như thế trong cung điện nói lên tính cách tốt đẹp và khả năng tài giỏi của ông (Đa 1:1-4). Gần một thế kỷ, một số người Do-thái sót lại đã trở về trên đất họ, và Nê-hê-mi lẽ ra có thể hiệp với họ, nhưng ông quyết định cứ ở trong cung điện. Đức Chúa Trời có một công việc cho ông làm tại đó nên ông không thể thực hiện nơi nào khác. Đức Chúa Trời đặt Nê-hê-mi ở Su-sơ như Ngài đã đặt Ê-xơ-tê nơi ấy vào một thế hệ trước đó, cũng như Ngài đã đặt Giô-sép ở Ai-cập và Đa-ni-ên ở Ba-by-lôn. Khi Đức Chúa Trời muốn thực hiện một công việc nào đó, Ngài luôn chuẩn bị những người sẽ làm việc ấy cho Ngài và đặt họ đúng nơi đúng lúc.
Tháng Kít-lơ của nguời Hê-bơ-rơ kéo dài từ trung tuần tháng 11 đến trung tuần tháng 12 theo lịch chúng ta, nhằm năm thứ 20 của vua Ạt-ta-xét-xe (năm 444 TC). Su-sơ là thủ phủ của Hoàng đế Ba-tư và là nơi có cung điện mùa Đông của vua. Chắc chắn đó là một ngày thường khác khi Nê-hê-mi gặp em trai của ông là Ha-na-ni (Ne 7:2), người vừa viếng thăm Giê-ru-sa-lem trở về, nhưng đó cũng chính là bước ngoặc trong đời sống Nê-hê-mi.
Như những cánh cửa lớn, những sự kiện lớn thay đổi đời sống có thể đu đưa trên những bản lề rất nhỏ. Đó chỉ là một ngày khác khi Môi-se bước ra chăn bầy chiên của ông, vào ngày đó ông nghe tiếng Chúa gọi và trở thành một tiên tri (Xu 3:1-22)
Ấy là một ngày bình thường khi Đa-vít được gọi về nhà lúc đang trông bầy chiên mình ; nhưng lại chính là ngày ông được xức dầu làm vua (ISa 16:1-23). Đó là một ngày bình thường khi Phi-e-rơ, Anh-rê, Gia-cơ và Giăng đang vá lưới sau một đêm thất bại. Nhưng đó cũng là ngày Chúa Giê-xu gọi họ để trở thành những tay đánh lưới người (Lu 5:1-11).
Bạn chẳng bao giờ biết Đức Chúa Trời chuẩn bị sẵn điều gì cho bạn, thậm chí trong một cuộc nói chuyện ở nơi bình thường với một người bạn hay người bà con, vì vậy hãy để lòng bạn rộng mở cho sự dẫn dắt theo ý Đức Chúa Trời. Tôi đã dự một bữa tiệc sinh nhật vào một tối nọ khi tôi 19 tuổi, và sau một câu nói của một người bạn tại đó đã giúp tôi hướng đời sống mình vào những kế hoạch Đức Chúa Trời dành cho tôi, và tôi mãi mãi biết ơn người bạn ấy.
Tại sao Nê-hê-mi hỏi thăm về một số người còn sót lại là những người sống cách xa hằng trăm dặm? Xét cho cùng, ông là quan tửu chánh của vua và ông hoàn toàn thoả mãn trong đời sống của riêng mình. Chắc chắn đó không phải là lỗi của ông khi những tổ tiên ông đã phạm tội nghịch cùng Chúa, khiến đem đến sự đoán phạt cho thành phố Giê-ru-sa-lem và vua Giu-đa. Một thế kỷ rưỡi trước đó, tiên tri Giê-rê-mi đã rao lời này của Chúa: “Hỡi Giê-ru-sa-lem ai sẽ thương xót ngươi được sao? Ai sẽ than tiếc ngươi? Ai sẽ xây lại mà hỏi thăm ngươi?” (Gi 15:5). Nê-hê-mi là người Đức Chúa Trời đã chọn để làm những việc đó!
Một số người muốn rằng họ đừng biết điều gì đang xảy ra, vì các thông tin có thể đem đến bổn phận cho họ. “Điều bạn không biết, không thể làm tổn thương bạn được”, châm-ngôn xưa nói vậy, nhưng có thật không? Trong một bức thư gởi cho bà Foste nào đó, Mark Twain đã viết: “Mọi điều bà cần trong đời này là sự không biết và sự tin chắc, khi đó thành công là chắc chắn”. Nhưng điều chúng ta không biết đã có thể làm tổn thương chúng ta nặng nề! Những người trong nghĩa trang là những người quyết định không biết sự thật. Khẩu hiệu cho chiến dịch công khai về bệnh AIDS năm 1987 là: “Đừng chết vì thiếu hiểu biết” và khẩu hiệu đó có thể được áp dụng cho nhiều lĩnh vực của đời sống ngoài sự chết.
Nê-hê-mi hỏi thăm về Giê-ru-sa-lem và những người Do-thái sống ở đó, vì ông có lòng quan tâm đến họ. Khi chúng ta thật sự quan tâm đến mọi người, chúng ta sẽ muốn biết những sự thật, dù chúng có thể gây đau đớn ra sao. Sử gia người Mỹ Henry Adams đã nói: “Chính trị trong thực tế bao gồm những sự thật bị lờ đi”. Nhưng Aldous Huxley nói: “Những sự thật không ngừng tồn tại dù chúng bị lờ đi”. Nhắm mắt và bịt tai với sự thật có thể là bước đầu tiên hướng đến bi kịch cho chính chúng ta cũng như cho người khác.
Nê-hê-mi đã biết gì về Giê-ru-sa-lem và những người Do-thái? Các tin dữ được tóm tắt bằng các từ sau: Những người sót lại, sự đổ nát và sự sỉ nhục. Thay cho một xứ vốn được một dân tộc lớn định cư, bây giờ chỉ còn một số ít người sống ở đó và họ lâm vào tai họa, vật lộn để sống còn. Thay cho một thành phố tráng lệ, Giê-ru-sa-lem ở trong cảnh hỗn độn, đó là nơi từng là sự vinh hiển lớn, giờ đây chẳng còn gì ngoài sự sỉ nhục.
Dĩ nhiên, suốt cuộc đời mình, Nê-hê-mi biết rằng thành phố của tổ tiên ông ở trong sự đổ nát là do người Ba-by-lôn đã tàn phá vách thành, cổng vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem năm 586 TC (IIVua 25:1-21).
Năm mươi năm sau đó, một nhóm 50.000 người Do-thái đã trở về Giê-ru-sa-lem để xây lại Đền Thờ và thành phố. Tuy nhiên, vì dân ngoại đã ngăn trở công việc của họ, Đền Thờ đã không được hoàn thành trong 20 năm (Exo 1:1-6:22) và các cổng cùng vách thành chưa bao giờ được gia cố.
Có lẽ Nê-hê-mi hy vọng rằng công việc trên vách thành đã bắt đầu lại và thành phố giờ đây đã được phục hồi. Không có vách thành và cổng thành phố rộng mở cho sự nhạo báng và công kích. Hãy xem Thi 48:1-14; Thi 79:1-13; Thi 84:1-12; Thi 87:1-7 để thấy những người Do-thái trung thành yêu thành phố họ mức độ nào.
Chúng ta có giống Nê-hê-mi, lo lắng muốn biết sự thật thậm chí về những hoàn cảnh tệ hơn nhất. Nhưng, có phải sự chú ý của chúng ta xuất phát từ mối quan tâm vì tò mò, nhàn rỗi chăng? Khi chúng ta đọc những bức thư về sự cầu nguyện cho công việc truyền giáo, tin tức ở những tạp chí tôn giáo, hay thậm chí những báo cáo công tác của Hội thánh chúng ta, chúng ta có muốn biết những sự thật và sự thật có làm nặng lòng chúng ta không? Chúng ta có phải là loại người hỏi thăm các sự việc vì có lòng quan tâm không?
2. Ông Đã Khóc Vì Có Lòng Quan Tâm (Ne 1:4)
Điều khiến người ta cười hoặc khóc thường là sự bày tỏ về tính cách. Những người cười trên sự sai lầm hay bất hạnh của kẻ khác, hoặc khóc về những thất vọng bình thường của cá nhân, là người thiếu văn hóa hoặc tính cách, có thể là cả hai.
Đôi khi, khóc là một dấu hiệu của sự yếu đuối, nhưng với Nê-hê-mi, đó là một dấu hiệu của sức mạnh, như đối với Giê-rê-mi (Gie 9:1), Phao-lô (Công 20:19), và Chúa Giê-xu (Lu 19:41). Thật ra, Nê-hê-mi giống Chúa Giê-xu trong việc ông chia sẻ gánh nặng đang dày vò người khác. “Sự sỉ nhục của kẻ sỉ nhục Chúa đã đổ trên tôi” (Thi 69:9; Rô 15:3).
Khi Đức Chúa Trời đặt một gánh nặng nơi lòng bạn, thì đừng cố gắng thoát ra khỏi gánh nặng ấy, vì nếu bạn làm vậy, bạn có thể bỏ lỡ phước hạnh mà Ngài đã hoạch định cho bạn. Sách Nê-hê-mi bắt đầu bằng “tai họa lớn” (Ne 1:3), nhưng trước khi sách kết thúc thì có một sự vui mừng lớn (Ne 8:12,17).
“Sự khóc lóc có thể kéo dài một đêm, nhưng sự vui mừng đến vào buổi sáng” (Thi 30:5).
Nước mắt chúng ta tưới “những hạt giống của sự chu cấp” mà Đức Chúa Trời đã trồng trên lối đi của chúng ta; nếu không có nước mắt, những hạt giống ấy chẳng bao giờ có thể tăng trưởng và ra trái.
Người Do-thái có phong tục ngồi khi họ than khóc (Exo 9:1-4; Exo 2:13). Một cách vô thức, Nê-hê-mi đã bắt chước những phu tù Do-thái khốn khổ vốn là những người bị lưu đày ở Ba-by-lôn những năm về trước (Thi 136:1).
Giống như Đa-ni-ên, Nê-hê-mi có lẽ có một căn phòng riêng nơi ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời để ông có thể hướng mặt về Giê-ru-sa-lem trong khi cầu nguyện (Đa 6:10; IVua 8:28-30). Kiêng ăn được yêu cầu đối với dân Do-thái chỉ một lần trong năm, vào ngày Đại Lễ Chuộc Tội hằng năm (Le 16:29). Nhưng riêng Nê-hê-mi đã trải qua nhiều ngày kiêng ăn, khóc lóc và cầu nguyện. Ông biết rằng cần có ai đó phải làm gì để cứu Giê-ru-sa-lem và ông bằng lòng ra đi
3. Ông Cầu Nguyện Vì Có Lòng Quan Tâm (Ne 1:5-10)
Đây là lời cầu nguyện thứ nhất trong 12 trường hợp cầu nguyện được ghi lại trong sách này (Ne 2:4; Ne 4:4,9; Ne 5:19,6,9,14; Ne 9:5; Ne 13:14,22,29,31). Sách Nê-hê-mi đã mở đầu và kết thúc bằng lời cầu nguyện. Rõ ràng Nê-hê-mi là người có đức tin, tin cậy hoàn toàn rằng Chúa sẽ giúp ông hoàn thành công việc mà Ngài kêu gọi ông làm.
Nhà tiểu thuyết người Ê-cốt, George Macdonald đã nói: “Trong bất cứ việc gì con người làm mà không có Đức Chúa Trời, thì người ấy sẽ phải thất bại thảm hại, hoặc thành công một cách khốn khổ hơn”. Nê-hê-mi đã thành công vì ông nhờ cậy Đức Chúa Trời. Nói về chức vụ Hội thánh ngày nay, Alan Redpath quá cố bảo rằng: “Có rất nhiều công việc trước mặt con người và có quá ít sự chờ đợi trước mặt Đức Chúa Trời”.
Lời cầu nguyện này bắt đầu bằng sự ca tụng Đức Chúa Trời (Ne 1:5). “Đức Chúa Trời của các từng trời” là danh vua Si-ru đã dùng nói về Chúa khi ông tuyên bố rằng dân Do-thái có thể trở về xứ họ (IISu 36:22-23; Exo 1:1-2). Các thần ngoại bang chỉ là những hình tượng trên đất, nhưng Đức Chúa Trời của dân Do-thái là Chúa của các từng trời. E-xơ-ra đã thường sử dụng danh hiệu thiêng liêng này (Ne 5:11-12; Ne 6:9; Ne 7:12,21,23) và danh này được tìm thấy 4 lần trong sách Nê-hê-mi (Ne 1:4-5; Ne 2:4,20), 3 lần trong sách Đa-ni-ên (Ne 2:18-19,44). Nê-hê-mi mở đầu lời cầu nguyện của ông như chúng ta thường mở đầu lời cầu nguyện của mình “Lạy Cha chúng con ở trên trời, danh Cha được tôn thánh” (Mat 6:9).
Khi chúng ta dâng lời cầu nguyện mình lên “Đức Chúa Trời của các từng trời” là Đức Chúa Trời như thế nào? Chúng ta phải cầu nguyện với một “Đức Chúa Trời cực đại và đáng kinh” (Ne 1:5; Ne 4:14; Ne 8:6; Ne 9:32), Đấng đáng được sự tôn vinh và thờ phượng của chúng ta. Nếu bạn đang trải qua hoạn nạn lớn (c.3) sắp gánh vác một công việc lớn (Ne 4:19; Ne 6:3) thì bạn cần có quyền năng lớn lao (Ne 1:10) sự nhơn từ lớn lao (Ne 9:25,35) và lòng thương xót lớn lao (c.31) của một Đức Chúa Trời vĩ đại. Có phải Đức Chúa Trời – Đấng bạn thờ phượng luôn có dư sức đối phó với những thử thách mà bạn đối diện không?
• Ngài còn là Đức Chúa Trời luôn giữ Lời Ngài (Ne 1:5)
Chúa đã lập một giao ước với dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, hứa ban phước dồi dào cho họ nếu họ vâng theo Lời Ngài, Ngài cũng cảnh cáo rằng Ngài sẽ trừng phạt họ nếu họ bất tuân (Le 26:1-46; Phuc 27:1-30:20). Thành phố Giê-ru-sa-lem ở trong cảnh đổ nát, quốc gia suy yếu vì dân sự đã phạm tội nghịch cùng Chúa (xem lời cầu nguyện xưng tội của E-xơ-ra trong sách Exo 9:1-15 và lời cầu nguyện của dân tộc trong Ne 9:1-38).
Phần quan trọng hơn trong lời cầu nguyện của Nê-hê-mi được dành cho sự xưng tội (Ne 1:6-9). Đức Chúa Trời Đấng hứa ban phước hạnh và giáng sự trừng phạt, cũng hứa ban sự tha thứ nếu dân sự Ngài ăn năn và trở lại cùng Ngài (Phuc 30:1-20; IVua 8:31-53).
Chính lời hứa này được Nê-hê-mi tuyên bố khi ông cầu nguyện cho chính mình và dân tộc. Đôi mắt Đức Chúa Trời chăm xem dân sự Ngài và đôi tai Ngài mở ra để nghe lời cầu nguyện của họ (IVua 8:29; IISu 7:14). Từ “nhớ lại”là từ chính trong sách này (Ne 1:8; Ne 4:14; Ne 5:19; Ne 6:14; Ne 13:14,22,29,31).
Hãy chú ý rằng Nê-hê-mi đã sử dụng “chúng tôi” chớ không phải “họ”, nghĩa là ông đã tự xem chính mình như thể cùng phải chịu trách nhiệm về tội lỗi của một thế hệ mà ông thậm chí không biết. Lẽ ra, thật dễ nhìn lại và oán trách tổ tiên về sự sỉ nhục của Giê-ru-sa-lem, nhưng Nê-hê-mi chỉ nhìn vào và oán trách bản thân mà thôi! “Chúng tôi đã phạm tội. Chúng tôi đã xử sự rất ác tệ!”
Cách đây vài năm, khi “những vụ tai tiếng qua truyền thông đại chúng đã đem đến sự sỉ nhục lớn cho Hội thánh,” tôi đã viết trong cuốn sách “The Intergrety Crisis” (Cuộc Khủng Hoảng Đạo Đức Liêm Chính) như sau:
“Trước hết, cuộc khủng hoảng đạo đức liêm chính có liên quan nhiều hơn đến một số người bị tố cáo có đời sống bất chính về đạo đức và tài chính. Cuộc khủng hoảng đạo đức liêm chính có liên quan đến toàn bộ Hội thánh.” Ở đây, cho dù như thế nào đi chăng nữa thì tôi không nói rằng dân sự không phạm tội, và tôi cũng không giảng giải về “sự phạm tội tập thể”.
Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, trong thân của Đấng Christ, chúng ta thuộc về nhau và có ảnh hưởng đến nhau, cho nên chúng ta không thể tách rời nhau. Trong lúc báo chí đời thường lúc bấy giờ đã không tạo ra cuộc khủng hoảng đạo đức liêm chính này nhưng Hội thánh lại tạo ra, và Hội thánh sẽ phải giải quyết nó (Nashville: Oliver Nelson).
Khi A-can, một binh lính Do-thái đã phạm tội tại Giê-ri-cô, Đức Chúa Trời phán: “Con cái Y-sơ-ra-ên đã phạm tội” và “Y-sơ-ra-ên” đã phạm tội cùng bội nghịch giao ước (Gios 7:1,11). Vì tội lỗi của một người là tội lỗi của toàn dân tộc, nên tội lỗi đã đem đến sự xấu hổ và thất bại cho cả dân tộc. Một khi tội lỗi đó đã được giải quyết. Đức Chúa Trời có thể chúc phước trở lại cho dân sự Ngài bằng cách Ngài ban cho họ sự chiến thắng.
Làm sao chúng ta biết Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi chúng ta sau khi chúng ta đã ăn năn, xưng tội với Ngài? Ngài đã hứa như vậy trong Lời Ngài. Lời cầu nguyện của Nê-hê-mi được bão hòa bằng những lời trích dẫn và những ám chỉ về các giao-ước của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong sách Lê-vi và Phục-truyền. Chắc chắn ông là người rất rành Luật Pháp Cựu-ước!
Trong (Ne 1:8-9) ông nhắc Đức Chúa Trời nhớ lại Lời Ngài được tìm thấy ở (Phuc 28:63-67; Phuc 30:1-10) giống như chúng ta nhắc Chúa nhớ lại lời hứa Ngài trong (IGi 1:9). Nê-hê-mi cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi cho dân sự, xin ngài nhóm họ lại trong xứ họ, và phục hồi họ bằng ân huệ và sự chúc phước của Ngài.
• Lời cầu nguyện khiêm cung này kết thúc bằng sự bày tỏ lòng tin quyết (Ne 1:10-11).
Trước hết, ông có lòng tin quyết nơi quyền năng Đức Chúa Trời. Khi Kinh Thánh nói đến mắt, tai và tay của Chúa, Kinh Thánh chỉ sử dụng ngôn ngữ loài người để mô tả hành động thánh của Ngài. Đức Chúa Trời là thần, vì vậy Ngài không có một thân thể như loài người, nhưng Ngài có thể thấy những nhu cầu của dân sự Ngài, nghe lời cầu nguyện của họ, hành động thay cho họ bằng bàn tay quyền năng của Ngài. Nê-hê-mi biết rằng ông quá yếu đuối không đủ sức xây dựng lại Giê-ru-sa-lem, nhưng ông có niềm tin rằng Đức Chúa Trời sẽ hành động thay cho ông.
Ông cũng có lòng tin quyết nơi sự thành tín của Đức Chúa Trời. “Giờ đây chúng là các tôi tớ và dân sự của Chúa” (c.10). Bằng cách khiến Ba-by-lôn hủy phá Giê-ru-sa-lem và bắt dân sự làm phu tù, Đức Chúa Trời đã trừng phạt họ thật nặng nề, nhưng Ngài không từ bỏ họ! Họ vẫn là dân sự và tôi tớ Ngài. Ngài đã cứu họ khỏi Ai-cập bằng đại quyền của Ngài (Xu 14:13-31) và Ngài cũng đã giải phóng họ khỏi ách nô lệ ở Ba-by-lôn. Vậy, lẽ nào Ngài sẽ lại không giúp họ xây lại thành Giê-ru-sa-lem bằng sự thành tín của Ngài sao?
Không giống như Ê-li đã nghĩ mình là người Do-thái trung tín duy nhất còn sót lại (IVua 19:10), Nê-hê-mi có lòng tin quyết rằng Đức Chúa Trời sẽ dấy người khác lên để giúp ông trong công việc của ông. Ông tin chắc những người Do-thái khác cũng đang cầu nguyện và họ sẽ tập họp lại vì mục đích này một khi họ biết Đức Chúa Trời đang hành động. Những vị lãnh đạo vĩ đại không chỉ tin dân sự là những người vâng theo Chúa và can đảm tiến tới, mà họ còn thách thức người đồng đi với họ. Bạn không thể làm tốt vai trò của một lãnh đạo thực sự nếu bạn không có những người đồng hành với mình, và Nê-hê-mi đã có thể khiến người khác giúp ông thực hiện công việc.
Sau cùng, Nê-hê-mi tin quyết Đức Chúa Trời sẽ hành động trong lòng của Ạt-ta-xét-xe và bảo đảm cho dự án được sự ủng hộ công khai cần thiết (Ne 1:11). Nê-hê-mi không thể đơn giản từ bỏ công việc và đến Giê-ru-sa-lem. Ông là người được chọn của vua, và ông cần phải có sự cho phép của vua đối với mọi việc ông làm. Hơn nữa, ông cần có sự dự phòng và bảo vệ của vua để có thể đến Giê-ru-sa-lem và hoãn chức vụ của ông cho đến khi công việc được hoàn tất.
Nếu không có quyền công khai để lãnh đạo, sự bảo vệ công khai cho chuyến đi, và quyền sử dụng vật liệu từ rừng của vua, thì chắc chắn toàn bộ dự án tái thiết thành Giê-ru-sa-lem chắc chắn sẽ thất bại. Các vua Đông phương là những bạo chúa chuyên chế, không ai dễ gì tiếp cận họ hay thuyết phục được họ. Nhưng “lòng của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va, Ngài điều khiển nó như dòng nước chảy nơi nào Ngài muốn” (Ch 21:1).
Chúng ta rất thường vạch ra những dự án của mình trước rồi sau đó mới xin Đức Chúa Trời chúc phước cho, nhưng Nê-hê-mi đã không phạm sai lầm đó. Ông ngồi xuống và khóc (Ne 1:4), quỳ xuống và cầu nguyện, rồi đứng lên và làm việc vì ông biết mình có sự chúc phước của Chúa nơi việc ông sắp làm.
4. Ông Làm Người Tình Nguyện Vì Có Lòng Quan Tâm (Ne 1:11)
Người ta hay nói rằng cầu nguyện không phải là làm cho ý muốn của con người được thực hiện trên trời nhưng là để ý muốn Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất. Tuy nhiên, để ý muốn Đức Chúa Trời được thực hiện trên đất, Ngài cần con người sẵn sàng để Ngài sử dụng. Đức Chúa Trời thật sự “làm trổi” hơn vô cùng mọi việc chúng ta cầu xin hoặc suy tưởng, theo như quyền năng hành động “trong chúng ta” (Eph 3:20 NKJV).
Nếu Đức Chúa Trời sắp đáp lời cầu nguyện cho ai đó, thì Ngài phải bắt đầu bằng cách hành động trong người cầu nguyện ấy! Ngài hành động trong chúng ta và qua chúng ta để giúp chúng ta thấy lời cầu nguyện của mình được trả lời.
Trong khi Nê-hê-mi cầu nguyện, gánh nặng của ông về Giê-ru-sa-lem trở nên lớn hơn và khải tượng của ông về điều cần được thực hiện trở nên rõ ràng hơn. Sự cầu nguyện dốc đổ khiến tấm lòng và tâm trí bạn thấm đẫm trong sự quân bình hầu cho gánh nặng của bạn không khiến bạn mất kiên nhẫn mà chạy trước Chúa và làm hỏng mọi sự. Khi chúng ta cầu nguyện, Đức Chúa Trời cho chúng ta biết việc phải làm, khi nào làm, và cách để làm, tất cả đều quan trọng đối với việc hoàn thành ý muốn Ngài. Có một số cộng sự Cơ-đốc giống như vua Ronald trong những câu chuyện ngắn của Stephen Leacock, người “lao mình nhảy lên lưng ngựa của mình và phóng như điên đi mọi hướng”.
Nê-hê-mi dự định tình nguyện đi đến Giê-ru-sa-lem để giám sát việc xây lại vách thành.Ông đã không cầu xin Đức Chúa Trời sai ai khác, cũng không lý luận rằng ông được trang bị không đầy đủ cho một nhiệm vụ khó khăn như thế. Ông chỉ nói: “Tôi đây, xin hãy sai tôi!” Ông biết rằng ông sẽ phải tiếp cận với vua và thỉnh cầu sự cho phép vắng mặt. Lời của các vua Đông phương ban ra luôn có liên quan đến sự sống hoặc sự chết. Điều gì sẽ xảy đến cho những kế hoạch của Nê-hê-mi nếu ông đến gần Ạt-ta-xét-xe vào ngày không thích hợp, khi vua bị bệnh, hay không hài lòng với điều gì đó hoặc với người nào đó trong cung? Dù bạn nhìn điều đó ở góc độ nào đi chăng nữa, thì Nê-hê-mi cũng vẫn là người đang phải đối diện với sự thử nghiệm của đức tin. Nhưng ông biết rằng Đức Chúa Trời của ông là một Đức Chúa Trời vĩ đại sẽ giúp đỡ ông.
Quan tửu chánh của vua sẽ phải hy sinh tiện nghi và sự an ninh trong cung điện để đổi lấy những khắc khổ và nguy hiểm của đời sống trong một thành phố đổ nát. Sự xa hoa sẽ bị thay thế bằng sự điêu tàn, còn thanh thế thì bị thay bằng sự nhạo báng và vu cáo. Thay vì hưởng bổng lộc của vua, Nê-hê-mi sẽ phải đích thân trả phí tổn cho số người sẽ ăn tại bàn của ông. Ông sẽ bỏ lại đằng sau sự nhàn hạ nơi cung điện và gánh vác những công việc khó nhọc, đi khuyến khích kêu gọi những người dân nản chí, hoàn tất một nhiệm vụ gần như không thể thực hiện được.
Và với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, ông đã tiến hành thực hiện công việc ấy! Trong 52 ngày, vách thành đã được xây lại, các cổng được phục hồi, và dân sự vui mừng quá đỗi! Tất cả đã được khởi đầu từ một con người có lòng quan tâm.
Áp-ra-ham quan tâm và cứu Lót khỏi Sô-đôm. Môi-se quan tâm và giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập. Đa-vít quan tâm và đã đưa dân tộc cùng vương quốc trở lại với Chúa. Ê-xơ-tê quan tâm và liều mình để cứu dân tộc bà khỏi hoạ diệt chủng. Phao-lô quan tâm và đã đem Phúc-Âm đến khắp Đế quốc Rô-ma. Chúa Giê-xu quan tâm và chịu chết trên thập tự giá vì thế gian hư mất.
Đức Chúa Trời vẫn đang tìm những người quan tâm, những người giống như Nê-hê-mi, có lòng cưu mang để hỏi về những sự thật, khóc về những nhu cầu, cầu xin sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời và tình nguyện hoàn thành công việc.
“Tôi đây! xin Chúa hãy sai tôi!”
2. NÚI BẮT ĐẦU CHUYỂN ĐỘNG (Ne 2:1-20)
Nê-hê-mi không hay biết rằng ông sắp sửa gia nhập vào hàng ngũ những nhà vô địch đức tin; trong những thế kỷ tiếp nối, tên ông sẽ được kể đến cùng với những anh hùng như Áp-ra-ham, Giô-sép, Môi-se, Giô-suê, Ê-xơ-tê, Đê-bô-ra và Đa-vít. Một người nào đó sẽ có thể thực hiện một thay đổi lớn trên thế giới nếu người ấy nhận biết Đức Chúa Trời và thật sự tin cậy Ngài. Vì đức tin tạo nên sự thay đổi, nên chúng ta có thể thực hiện sự thay đổi nào đó trong thế giới của chúng ta để quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
Martin Luther nói: “Đức tin là sự tin quyết sống động, tác tạo trong ân điển Đức Chúa Trời. Nó thật chắc chắn và đích xác đến nỗi người ta có thể đặt cược cuộc đời mình vào nó cả ngàn lần”. Có lời của Chúa hứa rằng: “kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả” (Mac 9:23). Chúa Giê-xu phán đức tin sống động có thể chuyển dời được núi! (Mat 17:20).
Sách Nê-hê-mi chương 2 mô tả 3 chứng cớ đức tin của Nê-hê-mi. Khi nghiên cứu những chứng cớ đức tin này, chúng ta phải tra xét lòng mình để thấy mình có thật sự đang bước đi và hành động bằng đức tin hay không.
1. Ông Có Đức Tin Để Chờ Đợi (Ne 2:1-3)
Vì tháng Ni-san của người Do-thái là vào giữa tháng 3 đến giữa tháng 4 của chúng ta, nên nó cho thấy rằng 4 tháng đã trôi qua kể từ khi Nê-hê-mi nhận hung tin về thảm trạng ở Giê-ru-sa-lem. Như nhiều tín hữu khác, Nê-hê-mi đã kiên nhẫn chờ đợi Chúa để biết những phương hướng, vì “bởi đức tin và lòng nhịn nhục” mà chúng ta được hưởng lời hứa (He 6:12). “Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Es 28:16).
Đức tin thật nơi Đức Chúa Trời đem đến sự bình tịnh cho tâm hồn nhằm ngăn cản chúng ta không vội vã tìm cách dùng sức riêng của mình để làm điều mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm được. Chúng ta không chỉ phải biết cách khóc và cầu nguyện, mà còn phải biết cách chờ đợi và cầu nguyện.
Có 3 lời tuyên bố trong Kinh Thánh mang hiệu quả trấn tĩnh tôi mỗi khi tôi căng thẳng và muốn lao đi trước Chúa: “Hãy đứng yên, và xem sự cứu rỗi của Chúa” (Xu 14:13) “Hãy ngồi yên… cho đến khi con biết công việc xoay thế nào” (Ru 3:18 NKJV) “Hãy yên lặng và biết rằng ta là Đức Chúa Trời” (Thi 46:10).
Khi bạn chờ đợi Chúa trong sự cầu nguyện, bạn không hề lãng phí thời gian nhưng là bạn đang đầu tư nó. Đức Chúa Trời đang chuẩn bị bạn và cả những hoàn cảnh của bạn để những mục đích của Ngài sẽ được hoàn thành qua bạn. Tuy nhiên, khi thời điểm thích hợp đến để chúng ta hành động bằng đức tin, thì chúng ta chớ nên chậm trễ.
Các vua Đông phương được bảo vệ khỏi bất cứ điều gì có thể đem đến bất hạnh cho họ (Et 4:1-2), nhưng vào ngày đặc biệt ấy, Nê-hê-mi không thể che giấu sự buồn rầu của ông. “Tại trong buồn bã, trí bèn bị nao sờn” (Ch 15:13; Thi 102:1-28) chắc chắn mô tả cảm xúc của Nê-hê-mi về Giê-ru-sa-lem. Có lẽ mỗi buổi sáng, Nê-hê-mi đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, nếu hôm nay là ngày tôi nói với vua về những kế hoạch của chúng tôi, vậy xin hãy mở đường cho tôi”.
Vua để ý thấy quan tửu chánh của mình đang mang một gánh nặng. Nếu Ạt-ta-xét-xe ở trong một tâm trạng xấu, ông có thể trục xuất hoặc thậm chí ra lệnh giết Nê-hê-mi; nhưng trái lại, vua tra hỏi vì sao tôi tớ ông quá buồn. “Lòng của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va, khác nào dòng nước chảy Ngài làm nghiêng lệch nó bề nào tuỳ ý Ngài muốn” (Ch 21:1).
Các lãnh đạo thế giới cũng chỉ là những tôi tớ của Đức Chúa Trời, dù họ có biết hay không. “Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi! Ngài há chẳng phải là Chúa ở trên các từng trời sao? Há chẳng phải Đấng quản trị muôn dân muôn nước sao? Ở nơi tay Chúa có quyền thế năng lực, chẳng ai chống trả Chúa cho nổi” (IISu 20:6).
2. Ông Có Đức Tin Để Cầu Xin (Ne 2:4-8)
Vua hỏi ông: “Ngươi muốn điều gì?”.
Đây thật là một cơ hội cho Nê-hê-mi! Mọi quyền lực và sự giàu có của vương quốc đều được bọc trong câu hỏi đó!
Như đã quen làm, Nê-hê-mi gởi đến Chúa một trong những “lời cầu nguyện điện tín” của ông (Ne 4:4; Ne 5:9; Ne 6:9,14; Ne 13:14,22,29,31). Nhưng hãy nhớ rằng những “lời cầu nguyện khẩn cấp” này đã được hỗ trợ bằng 4 tháng cầu nguyện và kiêng ăn. Nếu Nê-hê-mi không chuyên tâm cầu nguyện riêng tư, những “lời cầu nguyện điện tín” của ông có thể đã không được trả lời. George Morrison đã viết: “Ông chỉ có một chốc lát cho sự cầu nguyện đó. Sự yên lặng sẽ bị hiểu sai. Nếu ông nhắm mắt và trì hoãn sự tận tâm, vua sẽ lập tức nghi ngờ ông có lòng mưu phản”.
Điều đó khích lệ đời sống cầu nguyện của tôi khi tôi so sánh ngôi của Ạt-ta-xét-xe trên đất với ngôi ân phước trên trời. Nê-hê-mi phải chờ một lời mời trước khi ông có thể chia sẻ gánh nặng mình với vua, nhưng chúng ta có thể đến ngôi ơn phước bất cứ lúc nào với bất cứ nhu cầu nào (He 4:14-16).
Ạt-ta-xét-xe nhìn thấy sự buồn rầu trên gương mặt của Nê-hê-mi, nhưng Chúa của chúng ta nhìn thấy tấm lòng chúng ta, Ngài không chỉ biết sự buồn rầu của chúng ta mà Ngài còn cảm nhận với chúng ta nữa.Người đến gần ngôi vua Ba-tư phải cẩn thận về điều mình nói, để không làm vua nổi giận, nhưng dân của Đức Chúa Trời có thể cho Ngài biết bất cứ điều gì đè nặng họ. (Từ “dạn dĩ” trong He 4:16 nghĩa là “sự tự do để nói”). Bạn không bao giờ biết chắc tâm trạng của một lãnh đạo loài người, nhưng bạn có thể luôn biết chắc về sự tiếp đón yêu thương của Đức Chúa Trời.
Những Ra-bi Do-thái thường dùng câu hỏi để trả lời cho câu hỏi, và Nê-hê-mi đã theo gương đó. Thay vì cho vua biết ông định làm gì, ông đã gợi sự cảm thông và quan tâm của vua bằng một câu hỏi kể đến việc ông có cảm xúc thế nào về thảm trạng của thành phố tổ tiên và về mồ mã cha ông của mình. Đó là tâm lý tốt, và Đức Chúa Trời đã sử dụng sự trả lời của Nê-hê-mi để lôi cuốn sự chú ý đầy cảm thông của vua (Lu 21:14-15). Một vị vua ngoại đạo có thể không buồn rầu về sự đổ nát của Giê-ru-sa-lem, nhưng chắc chắn ông sẽ bày tỏ lòng kính trọng đối với những người đã chết.
Nê-hê-mi là người ái quốc thật sự, ông có những ước mơ cho tương lai thôi thúc bởi những giá trị của quá khứ. Ông không tìm cách sao lục quá khứ, vì điều đó không thể được. Đúng hơn ông muốn xây dựng lại quá khứ để Y-sơ-ra-ên sẽ có một tương lai.Đối với Nê-hê-mi, quá khứ là bánh lái hướng dẫn ông chứ không phải là một cái neo giữ ông lại. Khi Samuel Johnson gọi chủ nghĩa yêu nước là “nơi ẩn mình cuối cùng của một tên vô lại”, ông đề cập đến sự nhiệt tình tạm thời sử dụng “tình yêu tổ quốc” như một sự tuyên truyền cho những mục đích vị kỷ. Đại sứ Mỹ của liên hiệp quốc đã nói rằng chủ nghĩa ái quốc không phải là “một sự bùng nổ tình cảm ngắn hạn và điên cuồng, nhưng là sự cống hiến lặng lẽ và đều đặn của một đời người”. Điều đó chắc chắn mô tả loại chủ nghĩa ái quốc của Nê-hê-mi.
Nê-hê-mi không chỉ cầu nguyện cho cơ hội này, mà ông còn vạch kế hoạch cho nó và sẵn sàng đưa ra câu trả lời của mình.
Suốt 4 tháng chờ đợi, ông đã suy nghĩ thông suốt vấn đề này và biết đích xác cách s ẽ tiến hành dự án như thế nào. Câu trả lời của ông trước vua có thể tóm tắt thành hai thỉnh cầu: “Hãy sai tôi!” (Ne 2:4-6) và “Hãy cho tôi!” (c.7-10).
Nê-hê-mi không thể rời bỏ chức vụ mà không có sự cho phép của vua, ông cũng không thể làm việc ở Giê-ru-sa-lem mà không có quyền của vua. Áp-lực từ những quan chức địa phương đã làm ngưng công việc trước đó (Exo 4:1-24) và Nê-hê-mi không muốn lịch sử lặp lại. Ông cầu xin Ạt-ta-xét-xe bổ nhiệm ông làm quan tổng trấn xứ Giu-đa và ban cho ông quyền hạn ông cần để xây lại vách thành. Ông đã cho vua biết khi nào ông định trở về, nhưng chúng ta không rõ đó là ngày nào. Theo Ne 5:14 Nê-hê-mi đã trải qua 12 năm làm quan tổng trấn. Ông trở lại Ba-tư một thời gian ngắn để báo cáo với vua, nhưng sau đó trở lại Giê-ru-sa-lem để chấn chỉnh lại những sự lộn xộn xảy ra suốt thời gian ông vắng mặt (Ne 13:6-7).
Nhưng Nê-hê-mi đã cầu xin nhiều hơn nữa. Ông cần những bức thư giới thiệu, bảo đảm chuyến đi an toàn và lòng mến khách giữa Su-sơ và Giê-ru-sa-lem. Ông cũng yêu cầu những bức thư về quyền hạn để cung cấp vật liệu cần thiết cho việc xây dựng các toà nhà và vách thành. (Nê-hê-mi đã thực hiện tốt sự nghiên cứu của ông.Thậm chí ông còn biết cả tên (của) người giữ rừng cho vua nữa!). Ạt-ta-xét-xe ban cho ông điều ông cầu xin, nhưng chính bàn tay nhơn từ của Đức Chúa Trời đã khiến vua sẵn sàng cộng tác (Ne 2:18; Exo 7:6,9,28).
Khi Chúa Giê-xu sai các môn đồ Ngài ra đi vì chức vụ, trước hết Ngài ban cho họ quyền cần thiết để làm công việc vì Ngài hứa đáp ứng mọi nhu cầu của họ (Mat 10:1-15). Khi chúng ta ra đi hầu việc Chúa, chúng ta có đằng sau mình mọi quyền trên trời và dưới đất (Mat 28:18), vì vậy chúng ta không phải sợ hãi. Điều quan trọng là chúng ta cứ đi đến bất cứ nơi nào Chúa sai chúng ta đi và làm mọi công việc Ngài kêu gọi chúng ta làm.
Nê-hê-mi là tấm gương tốt về cách những tín đồ phải liên hệ ra sao với những quan chức chưa được cứu khi muốn làm công việc của Đức Chúa Trời. Nê-hê-mi tôn trọng vua và tìm cách làm việc trong hệ thống quyền hạn tồn tại thuộc đế chế này. Ông đã không nói thế này: “Tôi có một sứ mạng từ Chúa để đi đến Giê-ru-sa-lem và tôi sẽ đi dù vua có thích hay không!”. Khi xảy ra những vấn đề về lương tâm, chúng ta phải luôn vâng theo Đức Chúa Trời hơn là vâng theo con người (Công 5:29), nhưng thậm chí lúc ấy, chúng ta phải tỏ sự kính trọng đối với các nhà cầm quyền (Ro 13:1-14) và (IPhi 2:11-25). Đa-ni-ên và các bạn ông đã sử dụng cùng một cách tiếp cận giống như Nê-hê-mi đã làm, và Đức Chúa Trời cũng đã tôn cao họ (Đa 1:1-21).
Sự đáp ứng của vua là chứng cứ về quyền tối cao của Đức Chúa Trời trong những công việc của các quốc gia. Chúng ta mong Đức Chúa Trời có thể hành động qua một tín đồ tận tuỵ như Nê-hê-mi, nhưng chúng ta quên rằng Đức Chúa Trời cũng có thể làm việc qua những người không tin để hoàn thành ý muốn Ngài.
Ngài sử dụng Pha-ra-ôn bày tỏ quyền năng Ngài tại Ai-cập (Xu 9:16; Ro 9:17) và sử dụng Si-rút giải phóng dân sự Ngài khỏi Ba-by-lôn (Es 44:28; Es 45:1; Exo 1:1-2). Sê-sa đã ban chiếu chỉ khiến Ma-ri và Giô-sép đến Bết-lê-hem (Lu 2:1-7) và hai thầy đội La-mã là Cơ-lốt Ly-via và Giu-lơ đã cứu mạng Phao-lô (Công 21:26-40; Công 23:25-30; Công 27:1,42-44). Mặc dù có thể hữu ích khi có những quan chức tin kính như Giô-sép, Đa-ni-ên và Nê-hê-mi, nhưng chúng ta phải nhớ rằng Đức Chúa Trời không nhất thiết chỉ sử dụng những tín hữu mà thôi.
Môi-se và Nê-hê-mi đã thực hiện những quyết định giống nhau về đức tin và những hy sinh giống nhau (He 11:24-26). Là đại diện cho những người giải phóng dân Do-thái, ông sẽ được những quan chức người ngoại tiếp đón chăng? Nê-hê-mi không thực hiện dấu kỳ hay phép lạ nào, ông cũng không rao ra lời tiên tri nào. Nhưng ông trung tín làm công việc của mình và chuẩn bị một thành phố cho Đấng Mê-si-a hầu đến (Đa 9:24-27).
3. Ông Có Đức Tin Để Thách Thức Người Khác (Ne 2:9-20)
• Ra đi (Ne 2:9-10): Không có sự mô tả nào nói về chuyến đi của Nê-hê-mi từ Su-sơ đến Giê-ru-sa-lem, một cuộc hành trình mất thời gian ít nhất là 2 tháng. Như một bằng chứng về sự thành tín của Đức Chúa Trời, E-xơ-ra đã từ chối sự bảo vệ quân sự cho chuyến đi của ông (Exo 8:21-23);
Nhưng vì Nê-hê-mi là một quan tổng trấn đương nhiệm công khai, cho nên dĩ nhiên, ông có một đội quân hộ tống mình. Nê-hê-mi cũng có đức tin như E-xơ-ra; nhưng là quan chức của vua, ông không thể ra đi mà không có đoàn tùy tùng. Mặt khác, ông không chống lại ý của vua, và ông không thể áp đặt đức tin mình trên người khác.
Khi đoàn bộ hành của quan chức đến, chắn chắn họ thu hút sự chú ý đặc biệt giữa vòng những người ghét dân Do Thái và muốn ngăn trở họ củng cố thành phố mình.Ba kẻ thù đặc biệt tên là: San-ba-lát đến từ Hô-rôn cách Giê-ru-sa-lem khoảng 12 dặm, Tô-bi-gia, người Am-môn, và Ghê-sem, người A-rập (Ne 2:19) cũng được gọi là “Gát-mu” (Ne 6:6). San-ba-lát là kẻ thù chính của Nê-hê-mi và việc ông ta có một chức vị nào đó ở Sa-ma-ri càng khiến ông nguy hiểm hơn nữa (Ne 4:1-3).
Là người Am-môn, Tô-bi-gia là kẻ thù công khai của dân Do-thái (Phuc 23:3-4). Bởi hôn nhân, ông ta có quan hệ bà con với một số người đồng công của Nê-hê-mi và có nhiều bạn giữa vòng dân Do-thái (Ne 6:17-19). Thật ra, ông ta có “bà con gần” (sui gia) với thầy tế lễ Ê-li-a-síp (Ne 13:4-7). Nếu San-ba-lát phụ trách về quân đội, thì Tô-bi-gia là viên chỉ huy của đội quân tình báo trong hoạt động của họ. Chính ông ta đã thu thập “tin tức nội bộ” từ những người bạn Do-thái rồi chuyển tin cho San-ba-lát và Ghê-sem. Nê-hê-mi sẽ sớm phát hiện rằng vấn đề lớn nhất của ông không phải là kẻ thù bên ngoài mà là những kẻ thỏa hiệp bên trong, một vấn đề mà Hội thánh ngày nay vẫn thường hay đối diện.
• Xem xét (Ne 2:11-16)
Sau hành trình dài khó khăn, Nê-hê-mi dành thời gian để nghỉ ngơi, vì các lãnh đạo phải chăm sóc bản thân nếu họ sắp sửa có thể hầu việc Chúa (Mac 6:31). Ông cũng dành thời gian để nắm bắt “vị trí của vùng đất” mà không khơi dậy sự chú ý của kẻ thù. Một lãnh đạo tốt không lao ào vào công việc của mình ngay nhưng kiên nhẫn thu thập những sự thật trực tiếp và sau đó vạch ra chiến lược (Ch 18:13). Chúng ta phải biết “khôn như rắn” vì kẻ thù luôn theo dõi và chực chờ tấn công chúng ta.
Lãnh đạo thường tỉnh thức khi người khác ngủ, làm việc khi người khác nghỉ ngơi.Nê-hê-mi không muốn kẻ thù biết ông đang làm gì, vì vậy ông xem xét sự đổ nát vào ban đêm. Bằng cách giữ bí mật cho mình, Nê-hê-mi đã ngăn trở những người bạn của Tô-bi-gia nắm tin tức mà họ có thể chuyển cho San-ba-lát. Một lãnh đạo khôn ngoan biết khi nào thì cần vạch kế hoạch, khi nào cần nói và khi nào cần hành động.
Khi ông xem xét tình hình, ông đi từ hướng Tây đến hướng Nam rồi đến hướng Đông, tập trung vào vùng phía Nam của thành phố. Đúng như em trai ông đã báo cáo: vách thành bị sập xuống và các cửa bị đốt cháy (Ne 2:13; Ne 1:3).
Các lãnh đạo không nên sống trong một thế giới giấc mơ. Họ phải thành thật đối diện với sự thật và chấp nhận tin dữ cũng như tin tốt lành. Nê-hê-mi nhìn thấy vào ban đêm nhiều hơn những người cư ngụ nhìn thấy vào ban ngày, vì ông thấy tiềm năng cũng như những vấn đề. Đó là những gì cần có ở một lãnh đạo!
• Thách thức (Ne 2:17-20)
Sự kêu gọi của Nê-hê-mi có tính tích cực, ông tập trung vào vinh hiển và sự vĩ đại của Chúa. Ông chỉ ở trong thành phố vài ngày, nhưng ông nói đến “chúng ta”, “cho chúng ta” chớ không phải “các ngươi” và “họ”. Như trong lời cầu nguyện của mình (Ne 1:6-7), ông đồng nhất hóa với dân sự và những nhu cầu của họ. Thành phố là một sự sỉ nhục đối với Chúa (Ne 1:3; Ne 4:4; Ne 5:9), nhưng tay Đức Chúa Trời ở cùng họ, và Ngài sẽ giúp họ thực hiện công việc.
Đức Chúa Trời đã chứng minh quyền năng Ngài bằng cách hành động trong lòng vua và khiến vua hứa đáp ứng những nhu cầu. Chính gánh nặng riêng tư của Nê-hê-mi đối với Giê-ru-sa-lem và kinh nghiệm của ông với Chúa đã thuyết phục dân Do-thái tin rằng đã đến để xây dựng.
Chính uy tín của những người Do-thái đáng quý mà họ đã chấp nhận ngay thách thức và nói: “Chúng ta hãy chỗi dậy và xây dựng!”. Họ không quen với hoàn cảnh mà họ cho là dĩ nhiên, và nhất định rằng không gì có thể thay đổi. Họ cũng không nhắc Nê-hê-mi rằng dân Do-thái đã một lần tìm cách sửa lại vách thành và bị ngưng công (Exo 4:1-23). “Chúng tôi đã thử một lần và nó có hiệu quả. Tại sao nay lại phải thử lần nữa?”
Các lãnh đạo Cơ-đốc ngày nay đối diện với hai trở ngại tương tự này khi họ tìm cách dẫn dân sự Đức Chúa Trời vào những chinh phục mới cho Chúa. Chúng ta rất thường nghe “Chúng tôi hài lòng với những điều hiện tại, đừng lắc chiếc thuyền bằng cách cố gắng thay đổi những sự việc” hoặc “chúng tôi đã thử nó trước đó và nó không có hiệu quả!”
Đáng chú ý là Đức Chúa Trời đã sai đến dân Do-thái một lãnh đạo từ bên ngoài.Nê-hê-mi bước vào cộng đồng với một triển vọng mới về những vấn đề và một quan điểm mới cho công việc. Rất thường trong một Hội thánh địa phương, những thuộc viên mới trải qua một thời gian khó khăn để “xâm nhập vào hệ thống” vì những người kỳ cựu sợ những ý tưởng mới có thể dẫn đến sự thay đổi.
Vì hầu như chức lãnh đạo của họ đạt được qua các thứ bậc, nên những chức vụ ngoài nhà thờ cũng hãy coi chừng thái độ của “hội bảo thủ”. Những cộng sự mới từ bên ngoài tổ chức có thể mở các cửa sổ và để không khí tươi mát lọt vào.
Bàn tay nhơn lành của Đức Chúa Trời đặt trên người lãnh đạo, và những người nghe theo “làm mạnh mẽ tay họ” vì công việc (Ne 2:8,18). Cần phải có tay của lãnh đạo phối hợp với tay của cộng sự để hoàn thành công việc của Chúa. Lãnh đạo không thể tự mình làm công việc và cộng sự không thể hoàn thành công việc đáng kể nếu không có lãnh đạo.
Vincent de Paul đã nói: “Nếu để thành công trong một tổ chức kinh doanh, tôi buộc phải chọn lựa giữa 50 con nai do một con sư tử chỉ huy và 50 con sư tử do một con nai chỉ huy, tôi phải xem như mình chắc chắn thành công với nhóm thứ nhất hơn nhóm thứ hai”.
Có người đã định nghĩa chức lãnh đạo là “nghệ thuật khiến người khác làm điều họ phải làm vì họ muốn làm”. Nếu định nghĩa đó đúng, thì Nê-hê-mi chắc chắn là một lãnh đạo! Rất nhiều người đã hiệp lại phía sau ông và liều mình để công việc được thực hiện.
Nê-hê-mi không chỉ có thể thách thức dân sự của ông, mà ông còn có thể đương đầu với kẻ thù và đối phó với chúng một cách hiệu quả trước sự chống đối của chúng. Ngay khi dân sự Đức Chúa Trời bước ra bằng đức tin để làm theo ý muốn Ngài, kẻ thù liền xuất hiện và tìm cách làm họ nản chí. San-ba-lát và Tô-bi-gia nghe về công trình này (c.10) thì gọi Ghê-sem tham gia với chúng trong việc chống đối người Do-thái. Trong chương 4-7, Nê-hê-mi sẽ mô tả những vũ khí khác nhau do kẻ thù sử dụng và cách Chúa giúp ông đánh bại chúng.
Chúng bắt đầu bằng sự nhạo báng, một phương kế được người ta gọi là “vũ khí của những kẻ không có gì khác”. Chúng cười chế giễu dân Do-thái và xem thường tiềm lực cùng những kế hoạch của những người ấy. Thậm chí chúng còn khích động rằng dân Do-thái đang chống lại vua. Vũ khí đó đã có tác động một lần trước đây (Exo 4:1-23).
Dù trong lĩnh vực khoa học, thám hiểm, phát minh, kinh doanh, chính thể hay chức vụ Cơ-đốc, tất cả những ai từng hoàn thành bất cứ điều gì đều thường có đối diện với sự nhạo báng. Chúa của chúng ta đã bị nhạo báng suốt đời sống của Ngài và bị chế nhạo khi Ngài bị treo trên thập tự giá.Ngài đã bị “khinh dể và chán bỏ” (Es 53:3).
Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, một số người Do-thái trong đoàn dân đã bảo các Cơ-đốc nhân say rượu (Cong 2:13). Các triết gia Hy-lạp gọi Phao-lô là “người già mép” (Công 17:18), và Phê-tu nói rằng Phao-lô bị lãng trí (Công 26:24).
Nê-hê-mi lẽ ra có thể đối phó với sự nhạo báng của chúng bằng nhiều cách. Ông có thể phớt lờ, và đôi khi đó là việc làm khôn ngoan nhất (Ch 25:4). Nhưng lúc bắt đầu một sự nghiệp, thật quan trọng để người lãnh đạo khích lệ dân sự mình và cho họ biết rằng Đức Chúa Trời điều khiển mọi sự. Nếu Nê-hê-mi phớt lờ 3 người này là những người quan trọng trong cộng đồng, ông sẽ có thể làm suy yếu chức vụ mình giữa vòng dân Do-thái. Xét cho cùng, ông là quan tổng trấn chính thức và ông đang làm công việc chính thức.
Hoặc Nê-hê-mi có thể tranh luận với 3 lãnh đạo thù địch và tìm cách thuyết phục họ tin rằng vị trí của họ là sai lầm. Nhưng cách đó chỉ có thể đem đến “sự đề bạt chính thức” cho 3 người cùng với cơ hội để họ nói nhiều hơn. Tại sao Nê-hê-mi phải cho kẻ thù cơ hội để nói nghịch với Đức Chúa Trời là Đấng ông hầu việc?
Dĩ nhiên, Nê-hê-mi sẽ không yêu cầu họ tham gia dự án và làm việc với dân Do-thái, dù San-ba-lát và các bạn ông ta hoan nghênh lời mời gọi (Ne 6:1-4). Trong sự trả lời, Nê-hê-mi đã làm rõ 3 điều: việc xây lại vách thành là công việc của Đức Chúa Trời, dân Do-thái là tôi tớ Đức Chúa Trời, và San-ba-lát, Tô-bi-gia cùng Ghê-sem không có phần gì trong việc này. Đôi khi, người lãnh đạo phải thương lượng, nhưng có những lúc người lãnh đạo phải phân chia ranh giới rạch ròi và phải biết phòng thủ. Đáng tiếc không phải mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều nhất trí với lãnh đạo của họ, vì một số người đã hợp tác với San-ba-lát, Tô-bi-gia và Ghê-sem để chất thêm những gánh nặng cho Nê-hê-mi.
Sân khấu giờ đây được dựng lên và vở kịch sắp bắt đầu công diễn.
Nhưng trước khi gia nhập với những cộng sự trên vách thành, chúng ta hãy tự hỏi mình xem chúng ta có phải là loại lãnh đạo và là những người làm theo ý Đức Chúa Trời muốn hay không. Chúng ta có giống như Nê-hê-mi đang cưu mang gánh nặng trong lòng về công việc Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta làm hay không? (Ne 2:12).
Chúng ta có sẵn sàng hy sinh để thấy ý muốn Ngài được hoàn thành không? Chúng ta có kiên nhẫn thu thập những sự thật và vạch kế hoạch cho công việc mình không? Chúng ta có trưng dụng sự giúp đỡ của người khác hay tìm cách tự mình làm mọi việc? Chúng ta có thúc đẩy người khác trên cơ sở của những điều thuộc linh – những điều Đức Chúa Trời đang làm hay chỉ trên cơ sở của những điều thuộc thể cá nhân? Họ đang theo chúng ta hay theo Chúa khi Ngài dẫn dắt chúng ta?
Là người làm theo, chúng ta có lắng nghe những điều các nhà lãnh đạo mình nói khi họ chia sẻ gánh nặng của họ không? Chúng ta sẽ níu lấy quá khứ hay khao khát nhìn thấy Đức Chúa Trời làm điều gì đó mới mẻ? Chúng ta có đặt tay và cổ mình vào việc không? (c.18 Ne 3:5). Chúng ta có đang hợp tác với kẻ thù trên phương diện nào đó và vì vậy làm suy yếu công việc? Chúng ta có tìm thấy công việc Đức Chúa Trời muốn chúng ta hoàn tất không?
Bất cứ ai cũng có thể trải qua đời sống như một kẻ phá hoại, Đức Chúa Trời đã kêu gọi dân Ngài hãy làm những người xây dựng. Nê-hê-mi quả là một tấm gương cho chúng ta noi theo! Hãy lưu ý những từ “vậy” của ông và xem cách Đức Chúa Trời sử dụng ông: “vậy tôi cầu nguyện” (Ne 2:4). “vậy tôi đến Giê-ru-sa-lem” (c.11) “Vậy chúng tôi xây cất vách thành” (Ne 4:6), “chúng tôi làm công việc là như vậy” (c.21), “Vậy vách thành sửa xong” (Ne 6:15).
Nếu không vì sự tận tụy và cương quyết xuất phát từ đức tin nơi một Đức Chúa Trời vĩ đại, Nê-hê-mi sẽ không bao giờ chấp nhận sự thách thức hay hoàn thành công việc. Ông chưa từng xem câu Kinh Thánh sau, nhưng điều Phao-lô viết trong (ICo 15:58) là điều giúp ông tiếp tục công việc: “Vậy hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu”.
Dù nhiệm vụ khó khăn thế nào, hay sự chống đối mạnh mẽra sao, HÃY KIÊN QUYẾT! Như V.Raymond Edman từng nói: “Đừng nên bỏ cuộc quá sớm!”.
3. NHỮNG NGƯỜI XÂY SỬA LẠI CÁC VÁCH THÀNH (Ne 3:1-32)
Nê-hê-mi đã đối diện với một thách thức lớn và ông có đức tin lớn nơi một Đức Chúa Trời vĩ đại, nhưng ông sẽ không hoàn tất được gì nếu không có sự tận tụy hết lòng của những người giúp ông xây lại vách thành. Với tính khiêm nhường có lợi cho một lãnh đạo tin kính, Nê-hê-mi đã tin tưởng vào dân sự khi ông viết “vậy chúng tôi xây cất vách thành lại… vì dân sự chuyên thành làm công việc” (Ne 4:6).
Nhà văn hài hước người Anh Jerome đã nói: “Tôi thích công việc, nó quyến rũ tôi, tôi có thể ngồi và ngắm nó hằng giờ”. Khi có công việc của Đức Chúa Trời, không có chỗ cho khán giả hay người cố vấn tự bổ nhiệm và những kẻ chỉ trích, nhưng luôn có chỗ cho những cộng sự. Khi nghiên cứu chương này, bạn sẽ khám phá những nguyên tắc áp dụng cho mọi người lao động, đặc biệt là cho công việc xây dựng Hội thánh.
1. Mục Đích Công Việc (Ne 3:1-32)
Nê-hê-mi chỉ quan tâm đến điều duy nhất là sự vinh hiển của Đức Chúa Trời: “Chúng ta h ãy xây cất các vách thành Giê-ru-sa-lem, hầu cho chúng ta chẳng còn bị sỉ nhục nữa” (Ne 2:17; Ne 1:3; Ne 4:4; Ne 5:9).
Dân ngoại vui mừng trong việc nhạo báng những láng giềng Do-thái của họ bằng cách chỉ ra tình trạng đổ nát của Giê-ru-sa-lem. Xét cho cùng, dân Do-thái đã tuyên bố rằng kinh đô của họ “đẹp đẽ, là sự vui vẻ của cả thế gian” (Thi 48:2). Họ nói rằng Đức Chúa Trời “chuộng các cửa Si-ôn hơn mọi nơi ở của Gia-cốp” (Thi 87:2). Nếu Đức Chúa Trời rất yêu Giê-ru-sa-lem tại sao Ngài lại để cho các vách thành bị đổ nát và các cửa bị thiêu cháy? Tại sao Ngài để “thành thánh” trở thành sự sỉ nhục? Tại sao dân Do-thái không làm điều gì đó?
• Đa số thế giới ngày nay thờ ơ với Hội thánh.
Còn nếu họ chú ý đến Hội thánh, thì họ thường nhạo báng hoặc lên án. Những kẻ vô tín hỏi: “Nếu bạn là con dân Đức Chúa Trời, tại sao lại để xảy ra quá nhiều vụ tai tiếng trong Hội thánh? Nếu Đức Chúa Trời quyền năng như vậy, tại sao Ngài để Hội thánh suy yếu như thế?” Dù có muốn hay không, thì Cơ-đốc nhân chúng ta đang sống trong một thời đại của sự sỉ nhục, khi “sự vinh hiển đã lìa khỏi” (ISa 4:21).
Mục đích của mọi chức vụ là vinh hiển của Đức Chúa Trời chớ không phải sự khuếch trương của các lãnh đạo hay của tổ chức tôn giáo (ICo 10:31; IICo 4:5). Những lời Chúa Giê-xu cầu nguyện với tư cách thầy tế lễ cả phải là động lực thôi thúc trong mọi chức vụ Cơ Đốc: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4). Đức Chúa Trời thường giao nhiệm vụ đặc biệt nào đó cho những con cái Ngài, và trong sự khiêm nhường, trung tín, chúng ta hãy làm vinh hiển danh Ngài.
Dĩ nhiên, việc xây lại các vách thành và dựng các cửa cũng có ý nghĩa là sự bảo vệ an ninh cho dân sự. Giê-ru-sa-lem bị kẻ thù vây hãm, và dường như thật dại dột cho dân cư ngụ nếu họ chỉ mãi lo thâu trữ tài sản cho mình nhưng lại không có gì bảo đảm an toàn cho họ khỏi sự xâm lược và cướp bóc. Qua nhiều năm, người dân đã quen với tình cảnh của họ như vậy. Giống như rất nhiều Cơ-đốc nhân trong Hội thánh ngày nay, họ bằng lòng sống với hiện trạngcũ. Khi ấy Giê-rê-mi đến hiện trường và thách thức họ xây lại thành cho vinh hiển của Đức Chúa Trời.
2. Mô Hình Công Việc (Ne 3:1-32)
Nê-hê-mi là một lãnh đạo biết vạch kế hoạch và thực hiện kế hoạch, cách ông làm là một gương cho chúng ta noi theo.
Ba mươi tám thợ xây sửa được kể tên trong chương này, và 42 nhóm khác nhau được biết đến. Cũng có nhiều thợ xây mà Nê-hê-mi không kể tên, công lao họ là quan trọng, và mỗi người thợ được kể tên là vô danh đều được phân công ở một nơi với một nhiệm vụ nào đó.
Nhà truyền giáo D.L.Moody đã nói: “Rất nhiều người có ý nghĩ sai lầm về Hội thánh. Họ có tư tưởng rằng Hội thánh là một nơi để yên nghỉ, để họ ngồi vào một ghế nệm êm ái, đóng góp vào quỹ từ thiện, nghe diễn giả giảng, và làm tròn bổn phận của họ để giữ cho Hội thánh khỏi bị phá sản, đó là tất cả những gì họ ưa thích. Ý niệm về công việc dành cho họ là công việc thật sự trong Hội thánh chẳng bao giờ đi vào tâm trí họ”.
• Trong (ICo 12:1-31 ICo 14:1-40), Phao-lô ví sánh các cá nhân Cơ-đốc như những chi (thể)trong thân thể con người. Mỗi chi thể là quan trọng, mỗi chi thể có một chức năng đặc biệt để thực hiện. Tôi nhớ lại có lần tôi thấy mình thật thỏa lòng khi tôi nhận ra rằng Đức Chúa Trời không mong tôi làm mọi việc trong Hội thánh, nhưng đúng hơn Ngài mong tôi sử dụng những khả năng Ngài ban cho tôi trong những nhiệm vụ Ngài giao. Khi tôi bắt đầu làm điều đó, tôi khám phá mình đang giúp người khác khám phá và phát triển những sự ban cho của họ, và tất cả chúng tôi đã hoàn thành nhiều hơn cho Chúa.
Dân sự đã hoàn tất nhiệm vụ khó khăn vì họ vâng theo một lãnh đạo, để mắt vào một mục đích và cùng làm việc vì vinh hiển của Đức Chúa Trời. Kẻ thù bên ngoài thành hay những khó khăn bên trong thành cũng không khiến họ phân tâm khỏi nhiệm vụ Đức Chúa Trời ban cho. Như Phao-lô, họ nói: “Tôi cứ làm một điều” (Phi 3:13).
Từ “xây sửa” được sử dụng 6 lần trong (Ne 3:1-32) và ở đây nó có nghĩa là “tái thiết”. George Morrison nhắc chúng ta “rằng đối với sự khôi phục này, chẳng có vật liệu mới nào cần thiết. Trong đống gạch của công trình đổ nát có mọi vật liệu cần thiết…. và đối với tôi, nó dường như luôn là vậy khi những vách thành Si-ôn được xây lại”. Không phải bằng cách phát minh ra những điều mới mẻ, khôn ngoan mà chúng ta cất được sự sỉ nhục khỏi Hội thánh, nhưng bằng cách trở lại với những lẽ thật trước đây đã làm Hội thánh trở nên tuyệt vời trong những thời đại quá khứ. Chúng như những hòn đá nằm trong bụi đất, chờ đợi Nê-hê-mi nào đó đang cưu mang gánh nặng đến khôi phục và sử dụng chúng.
Từ “tu bổ” được sử dụng 35 lần, có nghĩa là “làm mạnh và chắc”. Nê-hê-mi không quan tâm đến “sự sữa chữa nhanh chóng”, một bức tường quét vôi trắng chẳng bao lâu sẽ sụp đổ (Exe 13:1-16; Exe 22:28). Họ đang xây dựng cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và vì vậy họ l àm hết sức mình.
Các cửa Giê-ru-sa-lem đã bị lửa thiêu hủy (Ne 1:3; Gie 17:27; Ca 1:4), vì vậy Nê-hê-mi trưng dụng gỗ từ rừng của vua và cho những cửa mới được xây dựng (Ne 2:18) rồi đặt chúng vào vị trí của chúng (Ne 6:1; Ne 7:1). Các cánh cửa quan trọng đối với sự an toàn của dân sự và sự kiểm soát những ai ra vào thành (Ne 7:3; Ne 13:15-22). Nếu Chúa yêu các cửa của Si-ôn (Thi 87:2), vậy dân sự Ngài cũng phải yêu chúng.
• “Chốt và then” được đề cập 5 lần (Thi 3:3,6,13-15).
Chốt chỉ về những cái lỗ mà các then ăn khớp vào, vì vậy làm cho bất cứ ai bên ngoài khó mở cửa được. Chúng ta chỉ làm công việc của Đức Chúa Trời thì chưa đủ, chúng ta cũng phải chắc chắn rằng việc chúng ta làm được bảo vệ khỏi kẻ thù “Chính các ngươi hãy giữ, hầu cho khỏi mất kết quả của công việc mình, nhưng cho được phần thưởng đầy đủ” (IIGi 1:8).
3. Những Người Tham Gia Công Việc (Ne 3:1-32)
Khi bạn làm quen với những người thuộc nhiều thành phần khác nhau được đề cập trong (Ne 3:1-32), chắc bạn sẽ thốt lên: “Đây thật giống Hội thánh ngày nay!”. Hoàn cảnh thay đổi nhưng bản chất con người vẫn y nguyên.
• Đức Chúa Trời sử dụng mọi hạng người.
Chương này đề cập những quản lý và thầy tế lễ (c.1,12-19), đàn ông, đàn bà (c.12), thợ chuyên nghiệp (c.8,32), và thậm chí những người từ bên ngoài thành (c.2,5,7). Có một nơi dành cho mọi người, và một công việc nào đó cho từng người làm.
• Các lãnh đạo phải làm gương (Ne 3:1).
Nếu có bất cứ ai trong thành phải bận rộn với công việc, thì đó chính là các thầy tế lễ, vì vinh hiển của Chúa có liên quan trong dự án. Việc thầy tế lễ thượng phẩm sử dụng những bàn tay được phong thánh để làm công việc bằng tay chứng tỏ ông xem công việc trên vách thành là một chức vụ trước Chúa.
“Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà làm” (ICo 10:31).
Ê-li-a-síp vận động các thầy tế lễ khác làm việc tại cửa chiên phía Đông Bắc của thành. Vì các của lễ đi vào thành lối đó, nên các thầy tế lễ sẽ đặc biệt quan tâm đến phần dự án đó.
Nhưng đáng buồn thay, Ê-li-a-síp đã không giữ tính chân chính trong sự kêu gọi của mình: vì sau đó ông đã liên kết với kẻ thù tạo ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho Nê-hê-mi (Ne 13:4-9). Một số người khởi đầu công việc của họ một cách nhiệt tình, nhưng sau đó họ có thể bỏ cuộc hoặc quay lại chống nghịch vì lý do này hay lý do khác. Cháu của Ê-li-a-síp đã cưới một đứa con gái của San-ba-lát (c.28) và quan hệ họ hàng này chắc chắn ảnh hưởng đến thầy tế lễ thượng phẩm.
• Một số người sẽ không làm việc (Ne 3:5).
Tê-cô-a là một thị trấn cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 dặm, và có một số người tại đó đã đi đến Giê-ru-sa-lem để giúp vào công việc xây sửa thành. Thật là một sự tương phản giữa những người này với các nhà quý tộc của họ! Những người Tê-cô-a xây dựng trong hai nơi trên vách thành (c.5,27), còn các quý tộc của họ từ chối ghé vai làm việc thậm chí chỉ trong một nơi. Phải chăng những “nhà quý tộc” này quá quan trọng dưới mắt họ đến nỗi họ không thể thực hành lao động chân tay? Phao-lô từng làm thợ may trại (Công 18:3) và Chúa Giê-xu là thợ mộc (Mac 6:3).
Những người Tê-cô-a không phải là “những người ở ngoài” duy nhất đi đến Giê-ru-sa-lem để làm việc trên vách thành, vì người ta cũng đến từ Giê-ri-cô (Ne 3:2), Ga-ba-ôn và Mích-ba cũng vậy (c.7). Sự trung thành của họ đối với dân tộc và Chúa của họ lớn hơn những quan tâm cục bộ của họ. Họ chắc chắn sẽ được an toàn hơn khi trở lại với cộng đồng mình, nhưng họ liều mạng sống để làm công việc của Chúa (Công 15:25-26).
• Một số người làm việc nhiều hơn người khác (Ne 3:11,19,21,24,27,30).
Đa số những người làm việc vui mừng đặt dụng cụ của họ xuống khi công việc hoàn thành, những người này xin thêm việc. Chúng ta nói rằng mình đã làm nhiều như người khác thì chưa đủ, chúng ta phải làm hết khả năng mình ở chừng mực Chúa giúp chúng ta. Chúa Giê-xu phán: “Ngươi làm điều gì hơn kẻ khác?” (Mat 5:47 NKJV).
• Một số người làm việc ở nhà (Ne 3:10,23,28,30).
Có ít nhất 6 người làm việc khác nhau, cộng với một số thầy tế lễ không được biết đến, họ tu bổ những phần của vách thành gần với nhà họ nhất. Nếu tất cả chúng ta noi theo gương này, những láng giềng và thành phố của chúng ta sẽ ở tình trạng tốt hơn biết bao! Dĩ nhiên, có một bài học thuộc linh ở đây: sự hầu việc Cơ-đốc hãy bắt đầu tại tư gia. Một châm ngôn Trung quốc nói rằng: “Thà tử tế ở nhà hơn là đốt nhang ở nơi xa”. Còn Phao-lô đã viết: “Hãy để con cháu trước hết học cách bày tỏ lòng hiếu thảo ở nhà” (ITi 5:4).
• Một số người làm việc siêng năng hơn người khác (Ne 3:20).
Ba-rúc là người duy nhất được đánh giá đã làm việc rất “sốt sắng”. Từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “cháy hoặc nóng rực” và gợi ý rằng Ba-rúc đã đốt nhiều năng lượng! “Mọi việc tay ngươi làm, hãy làm hết sức mình” (Tr 9:10).
Phao-lô khuyên các tôi tớ làm việc siêng năng cho chủ họ vì họ thật sự đang làm việc cho Đấng Christ (Eph 6:5-8). Những người làm việc lười biếng không chỉ ăn trộm chính mình và ăn trộm Chúa, mà còn ăn trộm những cộng sự của mình nữa. “kẻ lười biếng trong công việc mình cũng là anh em của kẻ rất hoang phí” (Ch 18:9).
4. Những Nơi Làm Việc (Ne 3:1-32)
Nê-hê-mi mở đầu danh sách “những nơi làm việc” bằng Cửa Chiên ở phía Đông Bắc của thành phố (Ne 3:1). Sau đó ông vòng lại các vách thành cho đến Cửa Hammiphkad (“cửa tập hợp”) gần sát ngay Cửa Chiên và ở ngay phía trên Cửa Đông (c.29).
Theo sự ghi chép của ông, ông kể tên 10 cửa và nhiều tháp cùng những giới hạn khác. Ông mô tả công việc trên vách thành phía Bắc trước tiên (c.1-7), kế đến là vách thành phía Tây (c.8-13) rồi đến mũi đất phía Nam của thành phố (c.14) và cuối cùng là vách thành phía Đông (c.15-32).
Mục đích chủ yếu của ông là cung cấp cho hậu thế những ghi chép chính thức tên và những việc hoàn thành của những người làm việc trên vách thành. Tuy nhiên, không cần gắng sức ở chương kế tiếp chúng ta vẫn có thể thu nhặt từ chương này những minh hoạ thuộc linh, khích lệ chúng ta trong đời sống cá nhân và chức vụ của chúng ta.
• Cửa Chiên (Ne 3:1,32).
Đây là cửa mà các thú vật được đem vào thành qua cửa đó, kể cả những sinh tế đền thờ. Cửa Chiên gần khu vực đền thờ, vì vậy thật hợp lý khi các thầy tế lễ thực hiện dự án đặc biệt của họ. Đây là cửa duy nhất được ghi chép rằng nó được “biệt ra thánh”, nghĩa là được dâng cho Đức Chúa Trời cách đặc biệt.
Cửa này nhắc chúng ta nhớ về Chúa Giê-xu Christ, Chiên Con của Đức Chúa Trời đã chết thay tội lỗi của thế gian (Gi 1:29; Gi 5:2). Nê-hê-mi có thể bắt đầu ghi chép của ông với bất cứ cửa nào, nhưng ông quyết định khởi đầu và kết thúc sự tường thuật của mình với Cửa Chiên. Chúa Giê-xu là “An-pha và Ô-mê-ga, khởi đầu và kết thúc” (Kh 1:8). Không kể đến Ngài và sự hy sinh của Ngài, chúng ta sẽ chẳng có gì đời đời và thoả lòng, không có gì được nói đến “chốt và then” của cửa, vì lối này không bao giờ bị đóng lại cho tội nhân hư mất nào muốn đến với Cứu Chúa.
• Cửa Cá (Ne 3:3).
Cửa này nằm ở phía Đông của Cửa Chiên, giữa 2 cửa này là tháp Mê-a (“một trăm”) với tháp Ha-na-nê-ên (c.1). Hai tháp này là một phần của hệ thống phòng thủ của thành và chỗ đóng lại của đồn lũy, nơi các quân lính canh giữ đền thờ và bảo vệ lối vào thành ở hướng Bắc mà đặc biệt có thể bị công kích. Các lái buôn sử dụng cửa này khi họ đem cá từ biển Địa Trung Hải đến, và có thể có một chợ cá nằm gần cửa.Trong bất cứ trường hợp nào, thì đó cũng là lối cửa chính dẫn vào thành phố.
• Cửa Cũ (Ne 3:6) có thể là Cửa Góc (IIVua 14:13; Gie 31:38), nằm ở góc Đông Bắc cửa thành. Một số sinh viên đồng nhất hóa cửa này với “Cửa Michneh”, từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “phố thứ hai” hay “phố mới” (So 1:10). Trong thời Nê-hê-mi, khu vực Đông Bắc của thành là “phố mới” và cửa này dẫn vào phố ấy.
Thật là một nghịch lý: cửa cũ dẫn vào phố mới! Nhưng chính từ những cái cũ mà chúng ta vạch ra những cái mới, và nếu chúng ta bỏ những cái cũ, thì sẽ không thể có gì mới (Gie 6:16; Mat 13:52).
• Cửa Trũng (Ne 3:13) là nơi Nê-hê-mi bắt đầu cuộc nghiên cứu về sự đổ nát của thành (Ne 2:13). Nó nằm ở góc Tây Nam của vách thành, cách Cửa Phân khoảng 500 yard (457m) và thông với trũng Hi-nôm. Các cộng sự không chỉ phục hồi cửa này, mà còn tu bổ phần vách thành giữa 2 cửa. Dường như phần vách thành dài này trên 1700 feet – không bị thiệt hại nghiêm trọng như các phần khác.
Mọi Cơ-đốc nhân cần có một “cửa Trũng”, vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho người khiêm nhường (IPhi 5:5-6). Chỉ khi chúng ta đầu phục Đấng Christ và phục vụ người khác, chúng ta mới có thể thật sự bước vào sự trọn vẹn của đời sống Ngài dành cho chúng ta (Phi 2:1-11).