top of page
Nhã-Ca 1--BÀI CA CỦA MỌI BÀI CA
“Sách Nhã-Ca của Sa-lô-môn.
Hãy để chàng hôn tôi bằng những nụ hôn của miệng chàng! Vì tình yêu chàng ngon hơn rượu. Dầu xức của chàng có hương thơm dễ chịu; danh chàng giống như dầu đổ ra; vì vậy các trinh nữ yêu chàng. Hãy lôi cuốn tôi, chúng tôi sẽ chạy theo chàng - vua đã đem tôi vào trong các căn phòng của chàng - chúng tôi sẽ vui-mừng và hoan hỉ trong chàng; chúng tôi sẽ ca tụng tình yêu chàng hơn cả rượu. Họ yêu chàng cách chính đáng.” (Nhã-Ca 1:1-4)
LỜI GIỚI THIỆU
Trong...
...sứ-điệp này, chúng ta sẽ xem xét vấn-đề kinh nghiệm Cơ-đốc của chúng ta như được mô-tả trong sách Nhã-Ca. Mỗi câu trong sách Nhã-Ca đều mô-tả một kinh-nghiệm thuộc-linh. Nếu chúng ta đồng cảm với lời chia-sẻ thì điều này chỉ tỏ rằng chúng ta đã có kinh-nghiệm đó.
Tuy nhiên, nếu chúng ta bị bối rối bởi lời chia-sẻ thì có lẽ điều này chỉ tỏ rằng chúng ta chưa bước vào trong kinh-nghiệm đó. Nhưng tất cả chúng ta đều có thể học tập từ sách này. Nếu là những người ao ước có một kinh nghiệm sâu xa hơn về Chúa thì chúng ta cần bước vào trong sách Nhã-Ca.
SÁCH NÀY DÀNH CHO TOÀN BỘ ĐỜI SỐNG CHÚNG TA
Nhã-Ca là một sách dành cho toàn bộ đời sống chúng ta. Sách này khải-thị mọi kinh-nghiệm mà chúng ta sẽ phải trải qua. Chúng ta không thể tránh né các kinh-nghiệm được khải-thị trong 8 chương này. Bất kể các kinh-nghiệm của chúng ta sâu sắc, tuyệt hảo hoặc phong phú đến đâu thì cũng phải được tìm thấy trong 8 chương này.
Hơn nữa, bất kể gánh nặng thuộc-linh của chúng ta lớn đến đâu, hoặc công tác thuộc-linh của chúng ta có phạm vi rộng đến đâu, mọi nguyên-tắc thuộc-linh liên quan đều có thể được tìm thấy trong sách này. Tám chương này quá phong phú đến nỗi mỗi câu, mỗi tiết đều có thể được áp dụng cho tình trạng của chúng ta và có thể trở nên sự giúp đỡ cho chúng ta.
Khi chúng ta bước theo Chúa, sách này là một sự hướng dẫn tuyệt vời. Sách này cho thấy chúng ta hiện đang ở đâu, chúng ta cần có những kinh-nghiệm nào, và nên tiến lên như thế nào. Sách này có thể giúp đỡ chúng ta rất nhiều để có một kinh-nghiệm mạnh mẽ và tích cực về việc theo đuổi Đấng Christ.
Sách Nhã-Ca cũng nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta chưa trưởng-thành - chúng ta phải tiếp tục dâng mình cho Chúa và làm mới lại sự hiến dâng của mình cho Chúa cách liên tục để Chúa có thể đem chúng ta tiến lên từng giai đoạn một.
• Chúng ta rất dễ thỏa mãn.
Chỉ cần nhận được một ít phước hạnh hoặc sự vui hưởng hay kinh-nghiệm là chúng ta đã thỏa mãn, và chỉ cần sự phục-vụ của chúng ta có một ít tác động hay hiệu quả là chúng ta đã thỏa mãn. Chúng ta không thể chứa đựng nhiều phước hạnh từ Chúa.
Đôi khi Chúa hiện ra với chúng ta nhưng chúng ta không nhận ra Ngài. Đôi khi Đức Chúa Trời kỷ luật chúng ta nhưng chúng ta không nhận thức được điều đó.
Đôi khi chúng ta không biết tại sao mình ở trong sự tối tăm và mất sự hiện diện của Chúa.
Và đôi khi chúng ta không hiểu tại sao mình lại đang ở trong cõi thiên-thượng kinh-nghiệm sự phong phú của Chúa.
Mọi tình trạng này chỉ ra rằng chúng ta vẫn còn một chặng đường dài phải đi. Chúng ta cần trả giá thêm nữa để tiến lên. Đây là lý-do tại sao Chúa nói: “Hỡi các con gái Giê-ru-sa-lem, ta nài khuyên các ngươi bởi những con linh dương hoặc những con nai cái trong các cánh đồng, đừng làm kinh động hoặc đánh thức người yêu của ta, cho đến khi nàng vui thỏa” (3:5).
Chúa phải chờ đợi cho đến khi chúng ta vui thỏa.
Một Cơ-đốc nhân tìm kiếm bình thường cần phải lao tác trong sách này. Chúng ta cần phải quen thuộc với sách này và trả giá để kinh-nghiệm mọi sự phong phú được khải-thị trong đó. Nếu được trang bị theo cách này thì chúng ta sẽ dễ dàng công tác với Chúa trong môi trường của mình. Chúng ta sẽ hiểu khi nào “bình minh ló dạng” và “bóng tối trốn đi”, rồi chúng ta sẽ có thể cảm-tạ và ngợi-khen Chúa thay vì bị hoang mang và vấp ngã.
Chúng ta sẽ có thể nói với Chúa: “Ô Chúa, cảm tạ Ngài về thời gian này và tình trạng này. Điều đó không vô ích, và nước mắt của tôi không vô ích”.
TIÊU ĐIỂM TRUNG TÂM CỦA SÁCH NHÃ-CA: ĐẤNG CHRIST
Cũng thật ý nghĩa khi sách này không bị ảnh hưởng bởi thời gian. Sách này luôn luôn tươi mới. Sau khi hoàn tất chương đầu tiên, chúng ta có thể nghĩ rằng mình đã sở hữu kinh-nghiệm được khải-thị trong đó rồi.
Tuy nhiên, mỗi lần đọc lại, chúng ta cần phải cảm thấy được làm mới lại và được thu hút hơn nữa. Sách này đem chúng ta đến với Đấng Christ như trung tâm chủ đích đời-đời của Đức Chúa Trời.
Mọi sự vận hành của Đức Chúa Trời đều tập trung vào Đấng Christ. Đức Chúa Trời muốn chúng ta chỉ có được Đấng Christ, chỉ kinh-nghiệm Đấng Christ, và chỉ vui hưởng Đấng Christ. Đây là một sách nói về “chỉ một mình Đấng Christ”. Sách này bày-tỏ cho chúng ta làm thế nào Đấng Christ có thể trở nên kinh-nghiệm chủ quan của chúng ta. Đó là lý-do tại sao sách này quá quý báu như vậy.
ĐỜI SỐNG CỦA CHÚNG TA CẦN PHẢI LÀ SÁCH NHÃ CA
Sách Nhã-Ca là câu chuyện về đời người. Sách này bắt đầu bằng: “Sách Nhã-Ca của Sa-lô-môn.” “Các bài ca” của sách này là những cuộc đời. Mỗi người có cuộc đời của riêng mình, và mỗi cuộc đời là một bài ca. Cuộc đời của mỗi người được cứu là một bài ca trước mặt Chúa. Thật không thể có một mối liên-hệ với Chúa mà không có chút “âm nhạc” thuộc-linh nào.
Kinh-nghiệm của một Cơ-đốc nhân bình thường trước mặt Chúa là một bài nhã-ca. Có vô số bài ca trong thế giới, mỗi người đều đang theo đuổi và viết nên một trong những bài ca này, Chúa chúng ta dẫn chúng ta đến bài ca giá-trị nhất. Đó là bài ca về việc kinh-nghiệm Đức Chúa Trời.
Một số người đang theo đuổi tiền bạc trên đất, vì vậy tiền tài trở nên bài ca của cuộc đời họ. Một số người đang theo đuổi quyền lực, do đó quyền lực trở nên bài ca của họ, Cơ-đốc nhân chúng ta cần vui hưởng bài ca vượt trên mọi bài ca khác, bài ca của mọi bài ca.
Mỗi người đều có sự theo đuổi riêng, kế hoạch riêng và niềm ao ước riêng. Tuy nhiên, trong sách này Chúa cho chúng ta biết rằng chúng ta cần đánh giá đời sống của mình theo mối liên-hệ của chúng ta với Chúa. Chỉ có đời sống yêu Chúa mới là đời sống có giá-trị. Chỉ có đời sống yêu Chúa mới là bài nhã-ca.
Chỉ có đời sống yêu Chúa mới có giá-trị đời-đời suốt cõi đời-đời. Chỉ có đời sống yêu Chúa mới là một đời sống đầy sự vui hưởng. Trong khi những người khác đang theo đuổi sự vui-mừng và các bài ca của cuộc đời họ, Chúa nói với chúng ta: “Nếu không có Ta, nếu không có bài ca của Ta, nếu không có âm nhạc của Ta, thì cuộc đời ngươi trống rỗng, vô dụng và không có giá trị gì trước mặt Đức Chúa Trời. Một cuộc đời như vậy cuối cùng không có ý nghĩa gì trên đất này”.
KINH NGHIỆM CỦA CHÚNG TA VỀ SÁCH NHÃ-CA THÌ QUÝ BÁU VÀ GIÁ-TRỊ
Có nhiều thánh-đồ yêu Chúa và dâng mọi sự cho Ngài. Khi gặp họ, anh em biết họ có bài nhã-ca của họ, và anh em, là một người yêu Chúa Jesus, cũng nhận thức anh em có bài nhã-ca của mình. Nếu không có một mối liên-hệ tốt lành với Chúa hay với hội thánh thì anh em có thể cảm thấy rằng đối với những người khác, Chúa đáng yêu hơn.
Anh em có thể cảm thấy rằng Chúa của họ dịu ngọt hơn và bài ca của họ thú vị hơn. Tuy nhiên, nếu có một mối liên-hệ lành mạnh với Chúa, anh em sẽ nhận thức: “Chúa không chỉ thuộc về các anh em; Ngài cũng là của tôi. Giá-trị Chúa của tôi không kém hơn Chúa của các anh em. Chúa là người yêu của anh em và Ngài cũng là người yêu của tôi. Tôi đang kinh-nghiệm bài ca của chính mình, và đó cũng là một bài nhã-ca.”
• Ngợi khen Chúa vì Ngài không vị nể con người.
Anh em không nên khinh thường chính mình. Anh em không nên hối tiếc vì dường như anh em không sở hữu các ân-tứ hay tài năng của những người khác. Anh em chỉ nên quan tâm đến mối liên-hệ của mình với Chúa. Nếu có tình yêu giữa anh em và Chúa, anh em sẽ cảm thấy mình có bài ca hay nhất.
Bài ca này là đặc biệt đối với anh em. Chỉ cần mối liên hệ này tồn tại thì bất kể thích điều gì hoặc theo đuổi điều gì, anh em cũng sẽ khám phá ra Chúa là bài Nhã-Ca, vì Ngài là Đấng quý báu nhất đối với anh em.
CHÍNH CHÚA LÀ BÀI NHÃ-CA CỦA CHÚNG TA
Kinh-nghiệm của người nữ Su-la-mít trong chương 1 là bài Nhã-Ca. Kinh-nghiệm của nàng trong chương 8 vẫn là bài Nhã-Ca. Bất kể chúng ta ở đâu, bất kể chúng ta có bao nhiêu năm ở trước mặt Chúa, bất kể chúng ta còn non trẻ hay trưởng-thành bao nhiêu về mặt thuộc-linh, hễ là một Cơ-đốc nhân bình thường, chúng ta phải có Chúa như bài Nhã-Ca của mình. Sống một nếp sống như người yêu của Chúa là theo đuổi bài ca vượt trên mọi bài ca.
Thật đáng lưu ý là sách này nhấn mạnh đến thập tự giá và công tác của thập-tự giá. Tuy nhiên, khởi đầu kinh-nghiệm Cơ-đốc của chúng ta không tập trung vào thập-tự giá nhưng vào một bài ca tuyệt vời. Khi gặp một người vô-tín, chúng ta cần có cảm nhận: “Chúa ôi, cảm tạ Ngài. Bài ca bên trong tôi thú vị hơn. Bài ca bên trong tôi dịu ngọt hơn. Bài ca bên trong tôi là một bài nhã ca.” Đây là tình trạng bình thường của một Cơ-đốc nhân. Nếu một người không biết mình có một bài ca bên trong thì mối liên-hệ của người ấy với Chúa không lành mạnh.
Anh chị em ơi, anh chị em cần phải để cho Đấng Christ trở nên sự thỏa mãn tuyệt đối trong suốt cuộc đời Cơ-đốc của mình. Tình trạng của anh chị em có thể thay đổi. Các giai đoạn trong nếp sống loài người của anh chị em có thể tiến tới. Cách anh chị em phục-vụ và công tác có thể thay đổi. Tuy nhiên, anh chị em phải nhớ rằng Chúa luôn luôn là trung tâm và thực tại của mọi sự. Khi anh chị em đi theo Chúa và dâng mọi sự cho Ngài, Ngài không ban cho anh chị em điều gì khác hơn chính Ngài. Cuối cùng, anh chị em sẽ không nhận được gì từ Ngài ngoại trừ chính Ngài.
Ban đầu, Ngài là mọi sự. Cuối cùng, Ngài sẽ vẫn là mọi sự.
• Đời sống không có Ngài thì hoàn toàn vô nghĩa.
Trong 1:1, chúng ta có thể thấy rằng bài ca của Sa-lô-môn là bài Nhã-Ca. sách này là của Sa-lô-môn. Mọi giai đoạn, mọi kinh-nghiệm và mọi sự phục-vụ đều có liên-hệ đến Sa-lô-môn. Điều này chỉ tỏ rằng mỗi giai đoạn của chúng ta là Chúa, mỗi kinh-nghiệm của chúng ta là Chúa, và mỗi sự phục-vụ của chúng ta là Chúa.
ĐÁNH MẤT CHÚA NHƯ TÌNH YÊU ĐẦU NHẤT CỦA CHÚNG TA LÀ ĐÁNH MẤT BÀI NHÃ-CA
Hễ khi nào anh em đánh mất sự dịu ngọt trong mối liên-hệ của mình với Chúa thì anh em đã sa ngã. Nếu đánh mất tình yêu đầu nhất của mình đối với Chúa thì anh em không thể nói với người khác rằng anh em có bài nhã ca. hễ khi nào trọng tâm của anh em là nếp sống phục-vụ hoặc nhu-cầu của anh em về việc được trang bị bằng lẽ thật chứ không phải là chính Chúa thì khi ấy anh em đã đánh mất bài nhã-ca của mình. Những điều khác, thậm chí là những điều tốt lành và cần thiết, đã chiếm chỗ của Chúa. Chỉ người nào sống trước mặt Chúa mới có thể nói với người khác rằng mình có bài nhã-ca.
Chúa muốn chúng ta có loại nếp sống nào? Ngài ao ước chúng ta có một nếp sống với bài nhã-ca. Mặc dù trong tám chương này, nàng Su-la-mít kinh-nghiệm sự thất bại và yếu đuối, nh ưng tất cả những kinh-nghiệm đó đều xảy ra dưới sự tể-trị của Ngài như một phần của bài nhã-ca này. Chúa ao ước chúng ta sẽ luôn luôn có thể nói với mọi người: “Tôi có một bài nhã-ca. Chúa của tôi là tốt nhất. Chúa của tôi đẹp đẽ nhất. Ngài là mọi sự và trong mọi sự. Sự phục-vụ của tôi là theo Chúa mà tôi yêu. Sự cầu-nguyện và lao tác của tôi là theo Chúa mà tôi yêu. Cuộc đời và hơi thở của tôi là theo Chúa mà tôi yêu. Ngày nay mọi sự tôi có là theo Chúa mà tôi yêu.” Một người như vậy là người sống trong thực tại của sách Nhã-Ca.
Anh em có thể nói với người khác rằng anh em đang sống trong sách Nhã-Ca không? Nếu không thể thì anh em không đang ở trong một tình trạng bình thường và lành mạnh. Có lẽ trong quá-khứ, theo sách này, anh em đã tiến bộ được vài chương trong kinh-nghiệm của mình. Tuy nhiên, nếu ngay bây giờ anh em không thể nói rằng Chúa là bài nhã-ca của mình thì anh em không còn có thể nói mình có một chỗ trong sách này.
“HÃY ĐỂ CHÀNG HÔN TÔI”
Câu 2 nói: “Hãy để chàng hôn tôi bằng những nụ hôn của miệng chàng!” Kinh-nghiệm Cơ-đốc của chúng ta bắt đầu với: “Hãy để chàng hôn tôi.” Điều đó bắt đầu với tình yêu. Đây thật là một sự khởi đầu dịu ngọt! Điều đó không phải từ chúng ta nhưng từ Chúa. Một người có thể được cứu nhưng lại sống một nếp sống tôn-giáo, có lẽ chỉ tham dự các buổi nhóm Chúa Nhật.
Một ngày kia, không bởi một lý-do cụ thể nào, có một Đấng hiện ra đem người ấy vượt khỏi mọi điều này. Ồ, bây giờ người này la lên: “Hãy để Ngài! Hãy để Ngài!” vì người ấy đang chạm đến chính Đấng của vũ trụ. Bây giờ người ấy đột nhiên cảm thấy nếp sống của mình đầy dẫy Ngài. Thậm chí người ấy không cần phải nói: “Chúa tôi.” Người ấy cảm thấy không cần bất cứ sự giải thích nào. Khi có Ngài, cuộc đời chúng ta khác. Chúng ta ở trong tình yêu. Chúng ta có tình yêu của Ngài. Bây giờ chúng ta yêu Ngài, và dường như giải thích là thừa.
Một người không yêu Chúa thì rất cẩu thả và tùy tiện. Trái lại, một người yêu Chúa thì nhạy cảm với niềm khao khát. Khi nói về Chúa, người ấy có đầy cảm nhận: “Ngài quá quý báu. Ngài đã làm say đắm lòng tôi. Tôi nhớ Ngài.” Anh em không cần phải bảo người ấy nên cầu-nguyện bao nhiêu lần và trong bao lâu.
Người ấy luôn luôn cảm nhận: “Ô Chúa, tôi yêu Ngài”. Khi đi học, người ấy sẽ nói: “Chúa ôi, tôi yêu Ngài.” Khi đi làm, người ấy sẽ nói: “Chúa ôi, tôi yêu Ngài. Tôi ao ước Ngài sẽ hôn tôi bằng những nụ hôn của miệng Ngài. Tôi trông mong gặp Ngài mặt đối mặt. Chúng ta được ràng buộc với nhau. Ô Chúa, tôi muốn hiến dâng mọi sự cho Ngài.”
Đây phải là kinh-nghiệm của anh em trọn cả đời sống anh em. Anh em cần phải sống trong cảm nhận này trọn đời. “Hãy để Ngài.” Anh em không cần phải giải thích Ngài là ai. Ngài là Đấng đã làm cho lòng anh em say đắm. Anh em và Ngài có một mối liên-hệ vượt trội, dịu ngọt và không tả xiết.
“VÌ TÌNH YÊU CHÀNG NGON HƠN RƯỢU”
Người yêu nói tiếp trong câu 2: “Vì tình yêu chàng ngon hơn rượu”. Người này mới nói “chàng” (ngôi thứ ba), bây giờ lại nói “chàng” (ngôi thứ hai). Trong thế giới của người yêu này chỉ có “Chàng” (ngôi thứ ba), “Chàng” (ngôi thứ hai), và “tôi” “Chàng” (ngôi thứ ba) là Chúa. “Chàng” (ngôi thứ hai) cũng là Chúa. Điều mà người yêu dấu muốn là “Chàng” (ngôi thứ hai) - Chúa. Điều nàng muốn là “Chàng” (ngôi thứ ba) - Chúa.
Ý tưởng này tương tự như một câu từ sách Thi-thiên: “Trên trời tôi có ai khác hơn Ngài? Và trên đất tôi không ao ước ai ngoài Ngài” (Thi 73:25).
Sách Nhã-Ca bắt dầu với “hãy để chàng” và tiếp tục với “vì... của chàng.” Ban đầu người tìm kiếm đang cầu nguyện. Bây giờ nàng đang làm chứng: “Tôi chỉ có một thế giới. Dù trong lời chứng hay trong lời cầu-nguyện của tôi, tôi chỉ tập trung vào Chúa. Ngoài Ngài ra tôi không có gì trong cuộc đời tôi, vì tình yêu của Ngài ngon hơn rượu”.
“RƯỢU” ĐẠI DIỆN CHO NHỮNG ĐIỀU TỪNG LÀM THỎA MÃN CHÚNG TA
Rượu đại diện cho một điều gì đó từng làm thỏa mãn chúng ta và làm cho chúng ta có sự vui hưởng. Tất cả chúng ta đều đã từng có một loại rượu nào đó mà chúng ta nghĩ rằng đó là điều tốt nhất trong cuộc đời mình. Tuy nhiên, bây giờ chúng ta cảm nhận: “Chúa ôi, tình yêu của Ngài ngon hơn bất cứ loại rượu nào tôi đã từng có. Khi tôi c ó tình yêu của Ngài thì mọi điều tôi đã nếm trải trước đây nhạt dần”.
Làm thế nào để chúng ta sống nếp sống này của sách Nhã Ca? Chúng ta phải tự hỏi: “Tôi còn có bất cứ loại rượu nào ngon hơn tình yêu của Ngài không?” Nếu có một nếp sống theo đuổi bình thường, chúng ta sẽ có một cảm nhận sâu xa bằng không có gì ngon hơn tình yêu phong phú của Chúa. Bất kể một điều gì đó trong thế giới có vẻ hấp dẫn và vinh hiển đến đâu, tình yêu của Chúa vẫn ngon hơn nhiều. Mỗi khi chạm đến Chúa, chúng ta đều có thể làm-chứng: “Chúa ôi, tình yêu của Ngài ngon hơn bất cứ loại rượu nào khác trên đất này”.
BAN ĐẦU CHÚA HIỆN RA VỚI CHÚNG TA TRONG TÌNH YÊU CỦA NGÀI
Chúa chúng ta không thể khải-thị chính Ngài cho chúng ta một lần đủ cả, vì như thế chúng ta sẽ không thể đứng nổi trước mặt Ngài. Ngài quá hoàn hảo. Ngài quá thánh-khiết và công-nghĩa. Cuối cùng, khi nhận biết Ngài thêm nữa, chúng ta sẽ kinh-nghiệm việc thẩm phán của Ngài. Nhưng nếu phải kinh-nghiệm mọi sự thẩm phán của Ngài ngay từ lúc bắt đầu theo đuổi Ngài thì chúng ta sẽ chết, không chỉ về mặt thuộc linh mà còn về mặt thuộc thể.
Nếu Ngài khải-thị mọi sự vinh-hiển của Ngài cho chúng ta thì không ai có thể sống sót. Khi Chúa hiện ra với Ê-sai, ông đã nói: “Khốn thay cho tôi, vì tôi bị kết thúc!” (Ês. 6:5). Chúa không thể khải-thị chính Ngài cách đầy đủ cho một người nào đó chỉ mới bắt đầu yêu Ngài. Vì vậy, trước hết Ngài hiện ra trong tình yêu để nâng đỡ người tìm kiếm của Ngài. Do đó, vào lúc khởi đầu nếp sống Cơ-đốc của chúng ta, kinh-nghiệm đầu tiên của chúng ta là về tình yêu của Ngài.
Trong tình yêu của Ngài, Ngài thu hút chúng ta. Theo cách này, Ngài khích-lệ lòng chúng ta theo đuổi Ngài. Khi chúng ta cầu nguyện với Ngài chỉ một chút: “Hãy để Ngài hôn tôi bằng những nụ hôn của miệng chàng!” Nhưng điều đó không được tiếp nối bằng: “vì chính chàng ngon hơn rượu”. Thay vì vậy, câu này được tiếp tục bằng: “vì tình yêu chàng ngon hơn rượu”. Ở giai đoạn này, chúng ta không đang chạm đến chính Chúa cách sâu xa. Chúng ta chỉ đang chạm đến tình yêu của Ngài. Khi chúng ta yếu đuối và cầu-xin sự tha-thứ, Chúa nói với chúng ta: “Ta yêu ngươi. Ta tha-thứ cho ngươi”. Vì chúng ta có một khả năng rất giới hạn ở điểm này, nên Chúa chỉ có thể để chúng ta chạm đến tình y êu của Ngài. Chúng ta vẫn không biết Ngài phong phú như thế nào. Ở giai đoạn này, chúng ta chưa khám phá ra sự phong phú của thân-vị Ngài.
Nếu muốn vui hưởng chính Chúa, chúng ta cần trả một giá để dành thời gian ở trước mặt Chúa. Chúng ta nhìn thấy Ngài bao nhiêu tùy thuộc vào khả năng của chúng ta.
Khải-tượng và kinh-nghiệm mà chúng ta có thể tiếp nhận tùy thuộc vào mức lượng sự sống của chúng ta. Chúng ta càng tăng-trưởng, Ngài sẽ càng bày-tỏ cho chúng ta Ngài là ai. Ngài thì vô hạn. Chúng ta cần phải khao khát tăng-trưởng trong sự sống thêm nữa. Cuối cùng, chúng ta sẽ thấy mình có thể kinh-nghiệm chính Chúa.
“DẦU XỨC CỦA CHÀNG CÓ HƯƠNG THƠM DỄ CHỊU”
Câu 3 tiếp tục nói: “Dầu xức của chàng có hương thơm dễ chịu”. Dầu xức chỉ về chính Chúa như Đấng đã trải qua mọi diễn trình. Khi anh em còn non trẻ trong Chúa, Ngài rất dịu dàng với anh em. Ngài ban cho anh em tình yêu của Ngài và anh em vui hưởng Ngài như Đức Chúa Trời đã diễn tiến. Khi ấy Ngài trở nên dầu để xức anh em và hòa lẫn với anh em. Dường như Ngài quên đi sự thánh-khiết, vinh-hiển, tôn-trọng và sức mạnh c ủa Ngài và trở nên một Đấng khiêm nhường, bước vào trong linh anh em để anh em vui hưởng, để hòa lẫn với anh em. Trong diễn trình này, anh em sẽ vui hưởng và kinh-nghiệm Ngài như dầu xức, và Ngài sẽ truyền chính Ngài vào trong anh em.
“DANH CHÀNG GIỐNG NHƯ DẦU XỨC ĐỔ RA”
Câu 3 tiếp tục: “Danh chàng giống như dầu xức đổ ra”. Danh này thật ra là công tác của Chúa. Như kết quả của công-tác Ngài, Ngài có danh vượt trên hết mọi danh. Theo sách Phi-líp, Chúa “đã tự hạ mình, trở nên vâng phục thậm chí cho đến chết, và là cái chết trên thập-tự giá. Vì vậy Đức Chúa Trời cũng đã tôn-cao Ngài và ban cho Ngài danh vượt trên hết mọi danh” (Phil. 2:9).
Danh của Chúa đã được sản sinh như một kết quả của mọi công tác Ngài. Do đó, danh Ngài chỉ về công-tác của Ngài.
Ban đầu, khi bắt đầu yêu Chúa, chúng ta chỉ tìm kiếm tình yêu của Ngài. Dần dần, chính Chúa được cấu thành trong chúng ta, đem chính Ngài vào trong chúng ta như dầu xức. Ngài quá dịu dàng, không hề thẩm phán chúng ta, mặc dù chúng ta biết sự yếu đuối và tội của mình đối nghịch với Ngài. Chúng ta cũng biết về công-tác, các thành tựu, và đặc biệt là sự cứu-rỗi của Ngài.
Chúng ta biết Chúa là Đấng đã yêu chúng ta, đi đến thập-tự giá vì chúng ta, chết cho chúng ta, phục sinh vì chúng ta, và hiện đang sống trong chúng ta để trở nên sự sống của chúng ta. Bây giờ Ngài là sự vui-mừng, thỏa mãn, vui hưởng, nguồn cung ứng và sức lực của chúng ta. Điều chúng ta hiện đang kinh-nghiệm là công-tác của Chúa như một danh giống như dầu xức đổ ra. Tuy nhiên, ở điểm này kinh-nghiệm của chúng ta vẫn chưa đạt đến các chiều sâu.
“CÁC TRINH NỮ YÊU NGÀI”
Câu 3 tiếp tục: “Vì vậy các trinh nữ yêu Ngài”. Khi anh em không có một tấm-lòng vì Chúa, anh em không có các trinh nữ để đồng hành; anh em chỉ có những người bạn. Anh em có thể chuyện trò với các bạn của mình về mọi thứ, như là phim ảnh, thể thao, hay thậm chí các kế hoạch cho tương lai của anh em. Tuy nhiên, khi bắt đầu yêu Chúa, anh em khám phá ra rằng có rất nhiều người yêu Chúa giống như anh em. Đây là các trinh nữ. Họ trinh bạch và thuần-khiết. Họ không quan tâm đến ai ngoài Chúa. Những người chưa từng chạm đến. Chúa thì chỉ có thể lao vào sự tán gẫu và tranh luận với nhau, còn những người đã chạm đến Chúa cũng có khả năng chạm đến tình yêu của người khác đối với Chúa.
KHI BẮT ĐẦU YÊU CHÚA, ANH EM KHÁM PHÁ RA MỘT MỐI DÂY RÀNG BUỘC VỚI NHỮNG NGƯỜI YÊU NGÀI
Anh chị em ơi, nếu phục vụ mà không chạm đến Chúa thì sự phục vụ của anh chị em có thể làm cho anh chị em bận rộn, nhưng anh chị em sẽ không biết nhiều về sự đồng hành đích thực. Tuy nhiên, một khi chạm đến Chúa, anh chị em sẽ khám phá ra rằng có rất nhiều anh chị em tốt lành trong hội thánh, và anh chị em sẽ đánh giá cao các trinh nữ này.
Trước đây, mặc dù anh chị em có những người bạn, nhưng không có sự xây dựng, và anh chị em đơn độc. Nếu chỉ có những người bạn thì anh chị em thường tụ tập khi có một điều gì đó cùng sở thích, và khi mối quan tâm chung biến mất thì anh chị em đi theo các con đường riêng của mình. Tuy nhiên, khi tìm thấy các trinh nữ, anh chị em đã tìm thấy sự tương-giao thật. Anh chị em khám phá ra xung quanh mình có rất nhiều người đi theo Chúa và yêu Chúa. Anh chị em không nên vui hưởng rượu của tình yêu Chúa một mình, nhưng phải cùng với các trinh nữ khác.
CÁC TRINH NỮ LÀ THỰC TẠI CỦA HỘI THÁNH
Các trinh nữ này là thực tại của hội thánh. Không ai có thể nhìn thấy hội thánh ngoài kinh-nghiệm của 1:3. Dân chúng có thể nói về hội thánh, nhưng điều đó sẽ không thực tế nếu không có các trinh nữ.
Hội thánh là thật đối với những người được thu hút không chỉ bởi Chúa mà còn bởi các anh chị em. Hội thánh được cấu tạo bởi những người không chỉ tương giao với Chúa mà còn với các anh chị em. Một người như vậy không còn sống nếp sống cá nhân nữa, vì người ấy đang theo đuổi Chúa cùng với các thánh-đồ. Một người như vậy có thể làm-chứng: “Chúa ôi, các trinh nữ yêu Ngài”.
Một người yêu Chúa không bao giờ có thể bỏ lại phía sau năm yếu tố được tìm thấy trong các câu 2 và 3.
-Thứ nhất, một người như vậy luôn luôn ở dưới sự thu hút của Chúa.
-Thứ hai, một người như vậy luôn luôn tìm kiếm để biết được tình yêu của Chúa.
-Thứ ba, người tìm kiếm của Chúa tìm kiếm chính Chúa như Đấng đã diễn tiến, như dầu xức có hương thơm dễ chịu.
-Thứ tư, người này sẽ luôn luôn đánh giá cao công tác của Chúa. Như được khải thị trong việc danh Chúa là dầu xức đổ ra.
-Thứ năm, người yêu của Chúa cũng sẽ luôn luôn yêu hội thánh và đánh giá cao các thánh đồ. Ở điểm này, hội thánh được biểu-lộ. Bất kể anh em đang ở đâu trong sự tăng trưởng trong sự sống của mình, anh em cũng phải kinh-nghiệm 5 chi-tiết này lặp đi lặp lại ở các mức-độ ngày càng sâu hơn.
“HÃY LÔI CUỐN TÔI; CHÚNG TÔI SẼ CHẠY THEO CHÀNG”
Câu 4 nói: “Hãy lôi cuốn tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng”. Điều này chỉ tỏ rằng khi Chúa lôi cuốn anh em, mọi người khác cũng sẽ đi theo Ngài. Anh chị em ơi, khi ở với các trinh nữ, anh chị em phải tôn-trọng ảnh hưởng của mình đối với việc tiến lên của người khác. Anh chị em trọng yếu đến nỗi khi anh chị em sống thì mọi người đều sống, và khi anh chị em chết thì mọi người đều chết.
Một người thật sự yêu Chúa thì bị ràng buộc với người khác. Người ấy biết rằng việc “hãy lôi cuốn tôi” sẽ dẫn đến kết quả là “chúng tôi sẽ chạy theo chàng”. Kinh-nghiệm của người ấy trước mặt Chúa trở nên phước hạnh của các thánh-đồ, và kinh-nghiệm của các thánh đồ trở nên phước hạnh của người ấy. Người tìm kiếm cầu-nguyện: “Xin hãy lôi cuốn tôi. Nếu Ngài muốn chúng tôi đi theo Ngài thì Ngài phải lôi cuốn tôi, vì nếu Ngài lôi cuốn tôi, tất cả chúng tôi sẽ chạy theo Ngài”.
Anh chị em ơi, nguyên tắc cũng y như vậy cho đến phần kết thúc của sách này. Trong tám chương này, nguyên tắc luôn luôn là “tôi” và “chúng tôi”. Không ai có thể kinh nghiệm tám chương này một mình. Chúng ta cần kinh nghiệm mọi điều này cùng với các trinh nữ khác. Đó là nguyên-tắc “Hãy lôi cuốn tôi; chúng tôi sẽ chạy theo chàng”.
“VUA”
Câu 4 nói: “Vua đã đem tôi vào trong các căn phòng của chàng - chúng tôi sẽ vui mừng và hoan hỉ trong chành; chúng tôi sẽ ca tụng tình yêu chàng hơn cả rượu. Họ yêu chàng cách chính đáng”. “Vua”, “các căn phòng của chàng”, và “tình yêu” được đề cập ở đây. Sự cai-trị trong đời sống của một người thay đổi khi người ấy biết Christ. Nhờ tình yêu, bây giờ người ấy có một vị Vua trong lòng mình. Vua có quyền-bính trên người này bởi tình yêu của Ngài.
QUYỀN BÍNH CỦA VUA ĐƯỢC LẬP NỀN TRÊN TÌNH YÊU
Ban đầu chúng ta xem mình là trung tâm cách thoải mái. Chúng ta đi đâu tùy thích. Rồi một ngày kia chúng ta bắt đầu yêu Chúa, và chúng ta đã dâng mình cho Ngài. Từ đó trở đi chúng ta bắt đầu kính sợ Đức Chúa Trời. Không ai có thể được dạy dỗ để kính sợ Đức Chúa Trời, vì sự kính sợ Đức Chúa Trời đến từ tình yêu của một người đối với Đức Chúa Trời.
Càng yêu Ngài, chúng ta càng sợ làm tổn thương Ngài hoặc làm điều có lỗi với Ngài. Quyền-bính đến từ tình yêu. Người chúng ta yêu là vua của chúng ta. Khi chúng ta yêu Chúa cách tuyệt đối, Chúa là Vua của chúng ta cách tuyệt đối. Khả năng để Chúa cai-trị trong đời sống chúng ta tùy thuộc vào việc chúng ta yêu Ngài bao nhiêu. Nếu chúng ta dâng chính mình cho Ngài mà không hề giữ lại thì Ngài sẽ là Vua của chúng ta cách trọn-vẹn.
Bất cứ điều gì anh em yêu đều là vua của anh em. Nếu phim ảnh chiếm hữu tấm-lòng của một người thì nó là vua của người ấy. Nếu tiểu thuyết chiếm hữu tấm-lòng của một người thì người ấy trao cho tiểu thuyết quyền để cai-trị trên mình. Nếu Chúa đã chiếm hữu tấm-lòng của anh em thì Ngài là Vua của anh em. Sự chuyển giao quyền-bính từ mọi điều khác cho Christ không ra từ “một cảm thức về quyền lợi và nghĩa vụ, nhưng ra từ việc nhìn thấy giá-trị vô song” (Hymns, #437). Nếu tình yêu của Chúa chạm đến anh em, anh em sẽ nói với Ngài: “Chúa ôi, Ngài là Vua tôi”.
Theo một ý nghĩa tích cực, đi theo Chúa thì rất dễ, anh em không cần phải nghiến răng và dâng mình. Anh em chỉ cần chạm đến tình yêu của Ngài. Khi ấy tự phát anh em sẽ nói: “Ô Chúa, tôi phải có Ngài như Vua tôi. Cả tấm lòng tôi thuộc về Ngài”.
Khi lìa bỏ Chúa như tình yêu đầu nhất của mình, anh em rơi vào trong lĩnh vực của “cảm thức về nghĩa vụ”. Tuy nhiên, khi tình yêu của Chúa dư dật trong anh em thì tình yêu dư dật của Ngài sẽ khiến cho anh em tăng-trưởng trong sự sống theo cách tự nhiên nhất, và anh em sẽ sống một nếp sống nhận lấy Ngài làm Vua của mình trong mọi sự.
“... ĐÃ ĐEM TÔI VÀO TRONG CÁC CĂN PHÒNG CỦA CHÀNG”
Kế đến, người yêu của Chúa nói: “Vua đã đem tôi vào trong các căn phòng của chàng” (c. 4). Vua đã đem nàng vào trong một nơi mà nàng có thể tương-giao với chàng và có một mối liên-hệ vượt quá ngôn từ.
VUI HƯỞNG SỰ TƯƠNG GIAO BÍ MẬT BÊN TRONG CÁC CĂN PHÒNG CỦA VUA
Khi có loại tương-giao này với Chúa, anh em không thể mô-tả điều đó với ai khác ngoại trừ Ngài. Đây là kinh-nghiệm về “những căn phòng”. Càng có kinh nghiệm này, anh em càng có thể đi con đường của Chúa. Mỗi người yêu Chúa đều có kinh-nghiệm của riêng mình về các căn phòng của Vua.
Kinh-nghiệm của anh em về phương diện này thì không dành cho bất cứ người nào khác. Trong chỗ này, Chúa khải-thị những điều chỉ dành cho anh em và Ngài. Nếu cứ ở trong kinh-nghiệm này, trong căn phòng bên trong của linh anh em, thì anh em sẽ tăng-trưởng trong mối liên-hệ của anh em với Chúa.
Chúng ta sẽ không tăng-trưởng nếu chúng ta luôn luôn bận rộn trong sân ngoài. Tất cả chúng ta phải ở trong các căn phòng và có mối liên-hệ đặc biệt này với Chúa. Chỉ những người như vậy mới có thể thật sự đi theo Chúa. Vì vậy, chúng ta không nên tập trung quá nhiều vào các công-tác của mình. Thay vì vậy, chúng ta nên dành thêm thời gian ở trong các căn phòng của Vua.
Kinh-nghiệm về các căn phòng này có tính tăng tiến. Càng có kinh-nghiệm này, anh em càng được chúc phước. Các căn phòng là nơi anh em chạm đến Chúa và Chúa chạm đến anh em, là nơi anh em vui hưởng Chúa và Chúa vui hưởng anh em, và là nơi anh em ở với Chúa và Chúa ở với anh em. sự thân mật này vượt quá ngôn từ. Điều đó là vô hạn lượng.
Chúng ta phải luôn luôn có một nếp sống yêu-thương bí mật với Chúa. Chúng ta cần phải có một điều gì đó giữa Chúa và chúng ta mà chỉ thuộc riêng chúng ta; điều đó không dành cho bất cứ người nào khác. Chúng ta cần phải có những kinh-nghiệm và mối tương giao với Chúa mà không thể mở ra với người khác, vì điều đó là đặc biệt giữa Chúa và chúng ta, không phải để tiết lộ cho người khác. Tình yêu giữa Chúa và chúng ta không phải để chúng ta phô trương hay khoe khoang.
Không có nhiều người gìn giữ những bí mật với Chúa như vậy. Điều này có thể có ba nguyên nhân.
-Thứ nhất, có thể họ không có một mối liên-hệ gần gũi với Chúa.
-Thứ hai, có thể họ thân mật với Chúa nhưng không có bí mật nào với Ngài.
-Thứ ba, có thể họ có một bí mật nhưng lại tiết lộ thay vì giữ kín điều đó.
Là những Cơ-đốc nhân bình thường, chúng ta cần phải có một bí mật với Chúa. Tình yêu giữa chúng ta và Chúa vượt quá sự theo đuổi hoặc sự biểu lộ bên ngoài. Bí mật này chỉ dành cho Chúa và chúng ta.
Tình yêu mà chúng ta có và những lời chúng ta nói với Ngài không phải để cho người khác biết. Tuy nhiên, chúng ta thường có hứng thú với các công-tác hơn là quan tâm đến Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta và đem chúng ta vào trong các căn phòng của Ngài hơn nữa.
“CHÚNG TÔI SẼ VUI MỪNG VÀ HOAN HỈ TRONG CHÀNG, CHÚNG TÔI SẼ CA TỤNG TÌNH YÊU CHÀNG HƠN CẢ RƯỢU”
Khi vua lôi cuốn “tôi” vào trong các căn phòng của chàng, kết quả là “chúng tôi” “sẽ vui-mừng và hoan hỉ trong chàng”; “chúng tôi” sẽ ca tụng tình yêu chàng hơn cả rượu” (c. 4). Vì anh em đã có kinh-nghiệm nên những người khác vui-mừng và hoan hỉ trong Chúa. Điều này chỉ tỏ rằng kinh-nghiệm cá nhân, kín giấu của anh em trong các căn phòng của Vua ảnh hưởng đến người khác. Anh em không ở một mình nhưng được gắn kết với người khác. Như kết quả từ kinh-nghiệm của anh em về các căn phòng, anh em có một sự biểu hiện và biểu-lộ khiến cho các trinh nữ khác vui-mừng và hoan hỉ trong Chúa.
Một người có kinh-nghiệm về các căn phòng của Chúa không cần phải hô la hoặc nói quá nhiều; người ấy sẽ làm cho người khác có cảm nhận rằng mình giống như một tân lang trong thời kỳ trăng mật. Người ấy sẽ vui-mừng, sôi nổi và đầy sự sống. Loại người này có thể đem người khác đến với Chúa, và thậm chí có thể khiến cho người khác ca tụng tình yêu của Chúa.
Ai có thể giúp đỡ người khác yêu Chúa?
Những người ở trong kinh-nghiệm về tình yêu của Chúa. Nếu anh em được thẩm thấu trong tình yêu của Ngài và đang vui hưởng một mối liên-hệ dịu ngọt với Ngài trong linh mình thì thật dễ để anh em giúp người khác yêu Chúa.
Những người gặp gỡ anh em sẽ nhận thức rằng tình yêu của Chúa ngon hơn rượu. Sự vui hưởng tươi mới của anh em trong tình yêu khiến cho người khác lại khám phá ra tình yêu của Chúa. Chính việc anh em ở trong sự sống ch ứ không phải việc anh em nói nhiều đem sự giúp đỡ thật đến cho người khác.
Một người ở trong sự sống thật sự có thể ảnh hưởng đến dân chúng. Nhờ anh em, những người khác sẽ nói với Chúa: “Chúng tôi sẽ vui-mừng và hoan hỉ trong Ngài; chúng tôi sẽ ca tụng tình yêu của Ngài hơn cã rượu”.
“HỌ YÊU CHÀNG CÁCH CHÍNH ĐÁNG”
Cuối cùng, câu 4 nói: “Họ yêu chàng cách chính đáng”. Bằng chứng của một trinh nữ là người ấy yêu Chúa cách chính đáng, nghĩa là tình yêu của người ấy không có bất cứ niềm ao ước, sự trông-mong hay điều kiện nào khác. Do đó, một trinh nữ chân thật đi theo Chúa vô điều kiện, phục-vụ vô điều kiện, và sống trong sự tương-giao với Chúa cách vô điều kiện. Đối với một người như vậy, sự vui-mừng không thể thay thế chính Chúa - thậm chí sự hiện diện của Chúa cũng không thể thay thế chính Chúa. Một người như vậy rất vâng phục để yêu Chúa đến nỗi người ấy không đòi hỏi bất cứ điều gì. Ngoài Chúa ra, người ấy không ao ước bất cứ điều gì và không yêu bất cứ điều gì.
Nếu các th ánh-đồ trong một hội thánh chỉ quan tâm đến Chúa và sự vui hưởng Chúa thì điều đó bày-tỏ rằng họ yêu Chúa cách chính đáng. Một số người không yêu Chúa cách chính đáng. Trong tình yêu của họ có nhiều điều kiện. Khi một hội thánh thiếu các trinh nữ thì sẽ có nhiều điều kiện trước khi các thánh-đồ thuận-phục Ngài hoặc dâng mình. Chúng ta cần có nhiều người yêu Chúa cách chính đáng. Càng có nhiều người yêu Chúa theo cách này thì trong hội thánh sẽ càng có sự sống và sự tươi mới.
Sự xây dựng hội thánh không tùy thuộc vào các công nhân nhưng tùy thuộc vào những người yêu Chúa. Khi những người yêu này đến với nhau thì hội thánh có thể được xây dựng. “Sự tranh đấu” không phải là cách để xây dựng. Thí-dụ, nếu anh em cảm thấy mình phải chiến đấu để trở nên công chúa thì kết cuộc có thể là anh em sẽ giết chết rất nhiều trinh nữ mà anh em cảm thấy đang cạnh tranh với mình.
Đức Chúa Trời ao ước có được một nhóm người như các trinh nữ yêu Ngài cách chính đáng. Các trinh nữ như vậy không có bất cứ kế hoạch nào cho chính họ. Nếu có nhiều trinh nữ yêu Chúa cách chính đáng, Ngài sẽ có một hội thánh yêu Ngài cách chính đáng, khi ấy sẽ rất dễ để hội thánh này được xây dựng.
Vấn-đề là có bao nhiêu người trong chúng ta yêu Ngài cách chính đáng? Có bao nhiêu người yêu Ngài mà không có bất cứ sự đòi hỏi, cầm giữ hay điều kiện nào? Bao nhiêu người trong chúng ta có một tình yêu thuần-khiết như vậy đối với Ngài? Chúng ta có quá nhiều công nhân và quá ít người yêu trong hội thánh. Chúng ta thích so sánh mình với người khác: “Ai trong số chúng tôi được biểu lộ nhiều hơn? Ai là người dẫn dắt?” Khi chúng ta chỉ là các công nhân thì đó là một tình trạng sa ngã.
Chúng ta quá quen với công-tác đến nỗi chúng ta huấn luyện dân chúng công-tác thay vì yêu Chúa. Dường như chúng ta có thể khoan dung cho việc dân chúng xa cách sự hiện diện của Chúa, nhưng chúng ta không thể chịu nổi việc công-tác của chúng ta sụp đổ. Chúng ta chú trọng vào công tác nhiều hơn là mối liên-hệ yêu thương của các thánh-đồ với Chúa.
Sách Nhã-Ca khải-thị cho chúng ta rằng bất cứ điều gì ngoài việc yêu Chúa đều không cần thiết. Sự phục-vụ đích thực ra từ tình yêu của chúng ta đối với Chúa. Nguyện Chúa dấy lên trong hội thánh nhiều người yêu hơn nữa, là những người chỉ quan tâm đến Ngài!
NHU-CẦU NGÀY NAY: CÁC TRINH NỮ YÊU CHÚA CÁCH CHÍNH ĐÁNG
Anh chị em ơi, tôi có một gánh nặng lớn. Nguyện Đức Chúa Trời thương-xót chúng ta để mở mắt chúng ta! Nguyện chúng ta nhìn thấy hội thánh cần các trinh nữ yêu Chúa cách chính đáng biết bao! Các thánh-đồ như vậy không có kế hoạch cho tương lai của họ và không quan tâm đến bất cứ địa-vị nào trong hội thánh.
Họ không muốn bất cứ điều gì cho chính mình; họ chỉ tập trung vào Chúa. Nếu Ngài nói: “Hãy dừng lại” thì họ dừng lại. Nếu Ngài nói: “Hãy đi” thì họ đi. Nếu Ngài nói: “Hãy trả giá” thì họ trả giá. Nếu Ngài nói: “Hãy lìa bỏ tất cả” thì họ lìa bỏ tất cả. Vì họ yêu Chúa cách chính đáng nên mọi sự suy xét và mong đợi khác đều bị đặt qua một bên.
Nguyện Chúa xức dầu các lời này để chúng ta có thể yêu Ngài cách chính đáng! Nguyện Chúa có được một nhóm người yêu Ngài cách chính đáng trong các hội thánh ngày nay! Chỉ khi ấy các hội thánh mới có thể được xây dựng.
Nhã-Ca 2--VƯỜN NHO
“Hỡi các con gái Giê-ru-sa-lem, tôi đen nhưng đáng yêu, như các lều trại Kedar, như những bức màn của Sa-lô-môn. Đừng nhìn vào tôi, bởi tôi đen, vì mặt trời đã làm cháy sém tôi. Các con trai của mẹ tôi đã nổi giận với tôi; họ bắt tôi làm người giữ các vườn nho, còn vườn nho của riêng tôi, tôi không giữ. Hỡi người mà hồn tôi yêu mến, hãy cho tôi biết chàng chăn thả bầy của chàng ở đâu? Ban trưa chàng cho chúng nằm nghỉ nơi nào? Vì sao tôi phải như một người che mạng bên cạnh các bầy của các bạn đồng hành chàng? Hỡi người xinh đẹp nhất trong các người nữ, nếu chính nàng không biết thì hãy đi ra theo các dấu chân bầy, và chăn thả các dê con của nàng bên các lều trại của những người chăn. Người yêu của ta ơi, ta sánh nàng với một con ngựa cái trong các cỗ xe của Pha-ra-ôn. Đôi má nàng đáng yêu với những bím tóc có các đồ trang sức, cổ nàng đáng yêu với những chuỗi ngọc châu. Chúng tôi sẽ làm cho nàng các bím tóc bằng vàng với đôi hoa tai bằng bạc”. (Nhã-Ca 1:5-11)
“TÔI ĐEN NHƯNG ĐÁNG YÊU”
Người tìm kiếm của Chúa nói trong chương 1 câu 5: “Hỡi các con gái Giê-ru-sa-lem, tôi đen nhưng đáng yêu, như các lều trại Kedar, như những bức màn của Sa-lô-môn”. Sau khi nhìn thấy các trinh nữ, người tìm kiếm nhận thức rằng các con gái Giê-ru-sa-lem đã không chỉ được cứu mà còn đang sống trong nếp sống hội thánh. Khi ấy, sau khi có sự tương-giao thân mật với Chúa, nàng bắt đầu nhận biết Chúa là ai, chính nàng là ai, và các anh chị em ở đâu.
Lúc ban đầu, khi ở với các trinh nữ, nàng chỉ thấy những người khác đen chứ không thấy chính mình cũng đen. Bây giờ, sau khi Chúa đem nàng vào trong các căn phòng của Ngài, nàng nhận thức chính mình cũng đen. Ban đầu nàng không có nhiều cảm nhận mình là một tội-nhân, nhưng bây giờ nàng nhận thức rằng nàng thật sự là một tội-nhân sa ngã. Bây giờ nàng có sự nhận thức: “Chúa ôi, tôi đen. Tôi không thể làm bất cứ điều gì, cũng không thể tác nhiệm trong nếp sống hội thánh”.
Nếu là một người chưa từng chạm đến Chúa, anh em sẽ cảm th ấy mình thích hợp để phục-vụ Chúa. Tuy nhiên, khi nhìn thấy chính mình trong ánh sáng của Chúa, anh em nhận thức sự đen đúa của mình và kết án chính mình. Nếu không đến với Chúa, anh em không nhìn thấy tình trạng thật của mình.
Vì anh em phục-vụ nên anh em nghĩ rằng đôi tay của mình không đen, và vì anh em đi theo Chúa nên anh em nghĩ rằng chân mình không đen. Anh em có thể cảm thấy trong một vài lĩnh vực của đời sống mình, anh em che giấu một ít sự đen tối, nhưng anh em không cảm thấy chính mình đen đúa như vậy.
Khi nào thì chúng ta nhận thức được mình thật sự đen đúa? Chỉ khi Chúa chiếu sáng trên chúng ta. Khi Chúa chiếu sáng trên chúng ta trong một phương diện nào đó, chúng ta thấy một phần nào đó của chính chúng ta đen đúa. Vì vậy, Chúa phải chiếu sáng trên chúng ta hết lần này đến lần khác cho đến khi chúng ta nhận thức rằng mọi điều trước đây chúng ta cho là chấp nhận được và đáng khen ngợi đều không là gì khác hơn sự đen tối cực điểm. Ngày cả tình yêu của chúng ta đối với Chúa cũng ra từ một tấm-lòng đen tối.
Khi Chúa chiếu sáng trên anh em, anh em nhận thức mình đen giống như các lều trại Kedar cả bên trong lẫn bên ngoài. Tuy nhiên, càng nhìn thấy sự đen đúa của mình, anh em cũng càng nhìn thấy vẻ đẹp bên trong của mình trong Chúa, và anh em nhận thức: “Tôi đen nhưng đáng yêu”.
Sự đáng yêu bên trong của anh em tương ứng với mức-độ anh em nhận thức sự đen đúa của mình. Càng nhận thức rằng mình đen, anh em sẽ càng đáng yêu. Điều mà anh em xem là yếu đuối, thất bại và xấu xí thật ra được Đức Chúa Trời xem là đáng yêu. Khi bị phơi bày, anh em cảm thấy yếu đuối và mỏng manh, nhưng trong một tình trạng yếu đuối và mỏng manh như vậy, anh em trở nên đáng yêu và được Đức Chúa Trời đánh giá cao.
Về một mặt, anh em giống như các lều trại Kedar, đen đúa cả bên trong lẫn bên ngoài, không có chút vẻ đẹp nào. Mặt khác, anh em giống như những bức màn của Sa-lô-môn; anh em là vải lanh mịn. Anh em đáng yêu ở bên trong vì sự công-nghĩa của Đấng Christ là sự che phủ của anh em.
Về một mặt, anh em xem chính mình là quá nghèo nàn. Mặt khác, khi nhìn thấy sự cứu-rỗi trong Đấng Christ, anh em cảm thấy mình quá phong phú và đẹp đẽ. Tình trạng này là kết quả của việc ở với Vua trong các căn phòng của Ngài.
“ĐỪNG NHÌN VÀO TÔI”
Câu 6 nói: “Đừng nhìn vào tôi”. Khi Su-la-mít trở nên ý thức về sự đen đúa của nàng, nàng không muốn người khác nhìn vào. Khi Chúa bắt đầu thu hút chúng ta, vì một lý-do nào đó, thật dễ để chúng ta tìm kiếm sự chú ý của người khác. Khi một người nào đó nhiệt thành cho Chúa, người ấy thường ao ước nổi bật lên và được người khác đánh giá cao. Tuy nhiên, cuối cùng những người yêu Chúa và đi theo Ngài tránh xa sự chú ý của người khác.
Sau sự tương-giao của nàng trong phòng của vua, Su-la-mít nổi bật giữa vòng các con gái Giê-ru-sa-lem. Điều này xảy ra trong kinh-nghiệm của anh em khi các anh chị em bắt đầu nhận thấy một điều gì đó đã thay đổi và anh em khác biệt nhờ khoảng thời gian anh em ở với Chúa. Tuy nhiên, cảm nhận của người tìm kiếm là: “Đừng nhìn vào tôi”. Nàng Su-la-mít cảm thấy mình xấu xí đến nỗi không muốn người khác nhìn xem. Nàng có thể nói với người khác về vẻ đẹp của Chúa, và nàng cũng có thể nói với họ về sự xấu hổ của nàng trước mặt Chúa, nhưng ở mức-độ này nàng biết rằng mình sa ngã, đen đúa và mỏng manh, vì vậy nàng tìm cách để cứ được giấu kín.
Trong Bản King James, câu này tiếp tục: “Vì mặt trời đã chiếu trên tôi”, có nghĩa là sự xấu hổ của nàng là do sự phơi-bày của Chúa. Ánh sáng của Chúa chiếu soi giống như mặt trời, và anh em cảm thấy mềm yếu và bị phơi bày sau khi Ngài đã thực hiện công-tác của Ngài. Một người như vậy không dám kiêu-ngạo.
Mọi người sống trong sự tương-giao như vậy với Chúa đều khuyến nghị người khác đừng chú ý đến mình. Khi Chúa thật sự nhìn đến anh em, anh em sẽ không còn quan tâm đến những tiếng “a-men” của người khác nữa. Anh em sẽ chỉ sống trước mặt Chúa và cảm thấy phải chịu trách-nhiệm với Chúa.
“HỌ BẮT TÔI LÀM NGƯỜI GIỮ CÁC VƯỜN NHO”
Trong câu 6, người tìm kiếm tường thuật: “Các con trai của mẹ tôi đã nổi giận với tôi; họ bắt tôi làm người giữ các vườn nho”. Là một người yêu Chúa và có gánh nặng thực hiện một điều gì đó trước mặt Chúa, người tìm kiếm có vườn nho của riêng mình. Nếu anh em có một mối liên-hệ thân mật với Chúa thì chắc chắn anh em sẽ có “vườn nho” của riêng mình - một điều gì đó mà anh em cảm thấy Đức Chúa Trời đã ủy thác cho mình.
Nhưng câu này chỉ ra rằng khi anh em trỗi dậy để chăm sóc vườn nho của mình, anh em sẽ bước vào trong sự tiếp xúc với “các con trai của mẹ” mình. “Các con trai của mẹ” này là ai? Họ là các anh em dẫn dắt đứng cho Chúa như những người mang trách-nhiệm trong nếp sống hội thánh.
Họ nhận lấy trách-nhiệm trong hội thánh, vì vậy họ có liên quan đến bất cứ điều gì anh em cảm thấy mình được ủy thác. Họ cũng sắp xếp những điều khác cho anh em, vì anh em là một người yêu Chúa. Các anh em mang trách-nhiệm tin-cậy các anh chị em nhận biết Chúa và đã nhận được một điều gì đó từ Ngài để thực hiện gánh nặng của họ, vì vậy họ thường cứng rắn với những người yêu Chúa.
Khi anh em có một mối liên-hệ thân mật với Chúa và Chúa chiếu sáng trên anh em, anh em sẽ thấy mình có gánh nặng về vườn nho. Ở điểm này, Chúa nhìn đến anh em và làm cho anh em nhận thức mình đen đúa, và các anh chị em khác sẽ nhìn anh em và nghĩ rằng anh em không sẵn lòng hợp tác hoặc chính anh em không biết phải tác nhiệm ở đâu.
Nếu không có một mối liên-hệ đặc biệt với Chúa thì anh em sẽ không có sự tranh cãi với các thánh-đồ, và họ sẽ không chú ý đến anh em nhiều. Tuy nhiên, khi có một mối liên-hệ đặc biệt với Chúa, anh em thấy mình không có sự yên nghỉ. Khi người tìm kiếm nói: “Còn vườn nho của riêng tôi, tôi không giữ”, nàng chỉ ra rằng trong một tình trạng như vậy, nàng hoàn toàn không biết làm thế nào để thực hiện điều Chúa đã ủy thác cho nàng.
“CHÀNG CHĂN THẢ BẦY CỦA CHÀNG Ở ĐÂU?”
Câu 7 nói: “Hỡi người mà hồn tôi yêu mến, hãy cho tôi biết chàng chăn thả bầy của chàng ở đâu?” Ở đây nàng có một lời cầu-nguyện: “Chúa ôi, xin cho tôi biết Ngài để bầy của Ngài ăn ở nơi nào. Các anh em đã yêu cầu tôi phục-vụ trong một vấn đề nào đó, nhưng tôi cảm thấy không ổn về điều đó. Tôi muốn lao tác theo gánh nặng của tôi, nhưng các anh em không đồng ý. Ô Chúa, Ngài cho bầy của Ngài ăn ở nơi nào?”
• Về một mặt, nàng có sự ủy thác từ Chúa.
Mặt khác, nàng vẫn tập trung vào mối liên-hệ của nàng với Chúa. Vườn nho của chúng ta đại diện cho điều Chúa đã ủy thác cho chúng ta. Chúng ta sẽ khám phá ra rằng mặc dù chúng ta có thể lao tác nhiều trong việc chăm sóc vườn nho của mình, nhưng sự lao tác của chúng ta sẽ không làm thỏa mãn chúng ta và sẽ không sản sinh điều Đức Chúa Trời ao ước, vì sự lao tác của chúng ta sẽ là một điều gì đó ra từ chính chúng ta chứ không phải ra từ Đức Chúa Trời.
Sự nhận thức này sẽ khiến chúng ta thốt lên một lời cầu-nguyện như vậy để xin Chúa bày tỏ cho chúng ta công tác của Ngài. Nếu không có một mối liên-hệ như vậy với Chúa, chúng ta sẽ không đạt đến điểm này, vì chúng ta sẽ không có cảm thức về bất cứ nan-đề nào đang khi nỗ lực thực hiện điều làm cho chúng ta bận tâm trong nếp sống Cơ-đốc. Nhưng nếu thật sự yêu Chúa, chúng ta sẽ hỏi: “Hỡi Đấng mà hồn tôi yêu mến, hãy cho tôi biết Ngài để bầy của Ngài ăn ở nơi nào?”
“BAN TRƯA CHÀNG CHO CHÚNG NẰM NGHỈ NƠI NÀO”
Người tìm kiếm nói tiếp: “Ban trưa chàng cho chúng (bầy) nằm nghỉ nơi nào?” Ban trưa là thời gian “chính giữa” của một ngày, như Châm-ngôn 4:18 nói: “Nhưng lối đi của người công-nghĩa giống như ánh bình minh, chiếu sáng càng hơn cho đến giữa ban ngày”.
“Nằm” chắc chắn có nghĩa là nghỉ ngơi. Vì vậy câu này chỉ ra rằng người tìm kiếm ao ước bước vào trong một điều gì đó hơn nữa với Chúa, vì nàng không đang tím kiếm sự thỏa mãn trong nỗ lực phục-vụ Ngài của mình. Bây giờ nàng không còn tập trung vào việc thực hiện một công-tác nữa, nhưng tập trung vào nguồn cung-ứng và sự yên nghỉ đầy đủ trong Đấng Christ.
Nàng đói khát nguồn cung ứng của Chúa và đang tìm cách để có được sự thỏa mãn đầy đủ trong Ngài. Trước điều này, nàng đã cố thực hiện một điều gì đó trước mặt Chúa, và nàng đã bị cản phá. Nàng đã nói với Chúa: “Chúa ôi, họ đã bắt tôi làm người giữ các vườn nho, và họ đã nổi giận với tôi. Tôi đã không thể đi bất cứ đâu, vì vậy tôi đã đến với Ngài. Hỡi Đấng mà hồn tôi yêu mến, hãy cho tôi biết Ngài chăn thả bầy của Ngài ở đâu? Ban trưa Ngài cho chúng nằm nghỉ nơi nào?”
Nếu anh em thật sự yêu Chúa thì công-tác mà anh em được giao phó là gì cũng không quan-trọng. Khi các anh em có cảm nhận và ý kiến của riêng họ về điều anh em nên làm, và anh em cũng có cảm nhận cũng như ý kiến của riêng mình, điều đó sẽ làm cho anh em cảm thấy bối rối về việc phải tác nhiệm như thế nào, và anh em sẽ c ó vẻ như có nan-đề về quyền-bính. Tuy nhiên, vấn-đề thật sự không phải là anh em nên làm gì mà là anh em có Chúa như nguồn cung ứng và sự yên nghỉ của mình hay không.
Vì vậy sẽ có một sự kêu la bên trong với Chúa: “Hỡi Đấng mà hồn tôi yêu mến, hãy cho tôi biết Ngài chăn thả bầy của Ngài ở đâu? Ban trưa Ngài cho chúng nằm nghỉ nơi nào? Nan-đề của tôi không phải là tìm ra cách để lao tác mà là làm thế nào để có được nguồn cung ứng. Giải pháp cho nan-đề của tôi không phải là xác định tôi cần lao tác trong vườn nho nào mà là tôi có thể tìm thấy sự yên nghỉ đầy đủ ở đâu. Nguồn cung-ứng và sự yên nghỉ ở đâu? Đó là điều tôi thật sự cần phải tìm ra”.
ĐI LANG THANG LẠC LÕNG BÊN CẠNH “CÁC BẦY CỦA CÁC BẠN ĐỒNG HÀNH CHÀNG”
Câu này tiếp tục nói: “Vì sao tôi phải như một người che mạng bên cạnh các bầy của các bạn đồng hành chàng?” “Che mạng” cũng có thể được dịch là “đi lang thang lạc lõng”. Ban đầu, nếp sống hội thánh rất thỏa mãn đối với người này, nhưng bây giờ nàng không biết đặt chính mình ở đâu. Nàng cảm thấy bất cứ điều gì nàng làm đều sai trật và không có chỗ cho nàng.
“Các con trai của mẹ nàng” quan tâm đến gánh nặng của mọi người khác, nhưng họ phớt lờ gánh nặng của nàng. Đây là lý-do tại sao một người như vậy cuối cùng trở nên lang thang bên cạnh các bầy của các bạn đồng hành nàng.
Anh chị em ơi, nếu không theo đuổi Chúa thì anh chị em sẽ không bao giờ kinh nghiệm điều này. Anh chị em sẽ chỉ là một người con gái Giê-ru-sa-lem trong nếp sống hội thánh, đi đến các buổi nhóm. Tuy nhiên, một khi phát triển mối liên-hệ với Chúa, anh chị em khám phá ra rằng các bạn đồng hành của mình trong Chúa, tức là các đồng công của Ngài, có sự vận dụng của họ trong bầy, là điều bao hàm cả anh chị em.
Nhưng anh chị em cảm thấy thế nào?
Nếu họ yêu cầu anh chị em hãy đơn giản đồng đi với một điều gì đó, anh chị em cảm thấy mình không thể đồng đi, vì anh chị em quá đặc biệt. Mặt khác, anh chị em không thể chăm sóc bất cứ điều gì của chính mình. Cuối cùng, tất cả những gì một người như vậy còn có thể làm là đi lang thang bên cạnh các bầy của các bạn đồng hành nàng.
Khi bắt đầu yêu Chúa, tất cả chúng ta đều có cảm nhận này, vì chúng ta chưa biết hợp tác với người khác và tương giao trong Thân Thể là gì. Việc chúng ta đi lang thang bên cạnh bầy là do chúng ta quá chủ quan. Chúng ta chạm đến tình yêu của Chúa cách chủ quan, và chúng ta nghĩ rằng mình biết cách để đi theo Chúa. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có một sự thiếu hụt lớn. Chúng ta đã kinh-nghiệm sự phơi-bày của Chúa, nhưng vẫn chưa kinh-nghiệm sự vận hành của thập-tự giá. Do đó chúng ta cảm thấy: “Đâu là chỗ đúng đắn cho tôi? Tôi có thể tác nhiệm ở đâu?”
Mãi cho đến khi kinh-nghiệm sự phá vỡ của Linh chúng ta mới nhận thức rằng những người khác cũng đang kinh-nghiệm chính điều mà chúng ta đang kinh-nghiệm, và người khác cũng cảm nhận y như chúng ta. Tuy nhiên, vì quá chủ quan nên chúng ta không nhìn thấy điều này; chúng ta chỉ nhìn thấy tình trạng của riêng mình. Vì vậy chúng ta không thể hợp tác với người khác hay nhận được sự chỉ dẫn trong Thân Thể.
ĐI LANG THANG LẠC LÕNG NHƯNG VẪN CÓ ĐƯỢC SỰ NUÔI DƯỠNG VÀ SỰ YÊN NGHỈ TỪ CHÚA
Mặc dù nàng cảm thấy mình đang đi lang thang lạc lõng vì có sự bối rối của mình trong nếp sống hội thánh, nhưng nàng không đánh mất cái nhìn về nguyên-t ắc quan-trọng nhất.
Nguyên-tắc này là chúng ta phải tập trung vào mối liên-hệ của chúng ta với Chúa nhiều hơn vào công tác của chúng ta, và chúng ta cũng phải quan tâm đến sự nuôi dưỡng và yên nghỉ hơn là quan tâm đến công tác. Người tìm kiếm vẫn được điều chỉnh bởi kinh-nghiệm của nàng trong các câu 2 và 3.
Chúa đã hấp dẫn nàng và bắt lấy nàng bởi vẻ đẹp của Ngài. Ngoài Ngài ra, nàng nhận thức rằng mình không thể có sự nuôi dưỡng và yên nghỉ. Dù thái-độ của nàng về việc phục-vụ đã khiến cho nàng đi lang thang lạc lõng, nhưng nàng vẫn có thể tiến lên vì nàng ao ước Chúa. Nếu không vì điều này, nếp sống Cơ-đốc của nàng hẳn đã kết thúc tại đây.
Nếu có một tình-trạng thuộc-linh bình thường trước mặt Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không dễ dàng bị chiếm hữu và mắc bẫy bởi công-tác. Thay vì vậy, chúng ta sẽ dành thời gian để tìm kiếm Chúa. Nếu ở điểm này chúng ta bị công-tác bắt lấy thì chúng ta sẽ không thể tiến lên trong sự tăng-trưởng của mình. Chỉ khi nào hoàn toàn tập trung vào Chúa thì chúng ta mới có thể tiến lên về mặt thuộc-linh.
Trong nếp sống hội thánh, chúng ta cần nhớ đừng bao giờ cố gắng giữ một người bằng cách đem người ấy vào trong sự phục-vụ. Mặc dù có thể giữ một người ở trong nếp sống hội thánh bằng cách đem người ấy vào trong sự phục-vụ trong một lĩnh vực nào đó, nhưng đây không phải là cách tốt nhất để giúp đỡ người ấy. Nói cụ thể, nếu anh em muốn làm vững lập một người trong nếp sống hội thánh bằng cách trao cho người ấy một loại trách-nhiệm nào đó trước khi người ấy thật sự đụng chạm Chúa, thì thật ra anh em đang đặt trước mặt người ấy một tảng đá vấp chân.
Có một nan-đề trong việc yêu cầu một người mới bắt đầu yêu Chúa phục-vụ trong nếp sống hội thánh như một phương cách dễ dàng để giúp đỡ người ấy.
Thí-dụ, nếu một học sinh trung học được yêu cầu phục vụ trong buổi nhóm thiếu nhi, chắc chắn người ấy sẽ đến với Chúa và cầu-nguyện nghiêm túc. Vì nhận thức mình thiếu kinh-nghiệm, người ấy sẽ ngưỡng trông Đức Chúa Trời ban cho mình khả năng. Về một mặt, sự phục-vụ này có thể sẽ củng cố sự gắn bó của người ấy với nếp sống hội thánh. Mặt khác, khi người ấy tăng-trưởng và có được một số kinh-nghiệm, sự phục vụ này sẽ không còn làm cho người ấy thỏa mãn. Vào lúc đó người ấy có thể biến mất khỏi nếp sống hội thánh.
Khi đang tìm cách giúp đỡ dân chúng, chúng ta cần đem họ đến với sự hi ện diện của Chúa để họ có thể có một mối liên-hệ trực tiếp với Chúa, hơn là chỉ đem họ đến với một công-tác bên ngoài. Chúng ta cần giúp đỡ dân chúng sống trước mặt Chúa, vì điều quan-trọng không phải là công-tác của chúng ta mà là mối liên-hệ của chúng ta với Chúa. Mặc dù công tác có thể làm thỏa mãn một nhu-cầu nào đó trong một thời gian, nhưng không điều gì có thể thay thế chính Chúa.
Ở đây lời cầu nguyện của nàng rất tốt. Mặc dù nàng đang lang thang lạc lõng như một người che mạng bên cạnh các bầy thuộc các bạn đồng hành của Chúa, không biết phần chia của mình là gì, nhưng nàng vẫn đang tìm kiếm Chúa bằng cả tấm-lòng. Thỉnh thoảng chúng ta cần cầu-nguyện: “Chúa ôi, hãy cho tôi biết sự yên nghỉ đầy đủ nhất và sự nuôi dưỡng phong phú nhất ở đâu? Tôi không thỏa mãn, cũng không yên nghỉ. Làm thế nào tôi có thể vui hưởng Ngài thêm nữa? Làm thế nào tôi có thể nhận biết Ngài hơn nữa?”
“ĐI RA THEO CÁC DẤU CHÂN BẦY”
Khi nàng đang tranh đấu theo cách này, Chúa đã thương-xót nàng. Nàng biết rằng sự nuôi dưỡng và hi vọng của nàng chỉ có thể được tìm thấy trong chính Chúa. Nàng nhận thức rằng sự nuôi dưỡng của sự sống và sự yên nghỉ chỉ đến từ Ngài.
Vì vậy, bất kể bên ngoài mọi sự khó khăn và bất định đến đâu, nàng vẫn có thể tiến lên bởi việc nương dựa vào Chúa.
Rồi Chúa đáp lời cầu-nguyện của nàng: “Hỡi người xinh đẹp nhất trong các người nữ, nếu chính nàng không biết thì hãy đi ra theo các dấu chân bầy, và chăn thả các dê con của nàng bên các lều trại của những người chăn” (1:8). Chúa chăm sóc nàng theo mối quan tâm của nàng trong tình-trạng của nàng.
Mỗi lần chúng ta đến với Chúa theo cách này, dường như Ngài được khích lệ và cảm động bởi tình thế khó khăn của chúng ta và xem chúng ta là “người xinh đẹp nhất trong các người nữ”. Chúa biết chúng ta ở đâu, và Ngài hiểu sự phàn nàn của chúng ta. (*Nhưng vườn nho của riêng tôi, tôi không giữ. Tôi không biết chăn thả các dê con của mình ở đâu”).
Ngài biết rằng việc chúng ta không biết làm gì là do tình yêu của chúng ta đối với Ngài. Ngài cũng biết rằng dù bên ngoài chúng ta yếu đuối và tự cho mình là trung tâm, nhưng bên trong chúng ta vẫn đáng yêu. Vì vậy Ngài nói: “Hỡi người xinh đẹp nhất trong các người nữ, mọi sự đều ổn. Nếu nàng không biết, hãy đi ra theo các dấu chân bầy”.
Chúa không đề-cập đến công tác trong lời đáp của Ngài. Khi yêu Chúa, chúng ta dễ bị công-tác chiếm hữu, và chúng ta muốn làm một điều gì đó cho Ngài. Tuy nhiên, niềm ao ước của Ngài là cứu những người yêu Ngài khỏi công-tác.
“Các dấu chân bầy” ở số nhiều, biểu-thị cho bước đi thuộc linh của tất cả các tín-đồ. Từ sự đổ ra của Linh vào ngày Lễ Ngũ Tuần trải suốt toàn bộ lịch-sử hội thánh, những người thật sự đi theo Chúa đã biểu minh tình yêu của họ giữa sự bắt bớ, hy-sinh và thậm chí là tuận-đạo. Ngày nay nhiều người vẫn đang đi theo con đường này để yêu Chúa. Chúng ta cần dò theo các dấu chân này và đi tiếp con đường mà các thánh-đồ trước chúng ta đã bước đi.
• Các nguyên-tắc của sự tăng-trưởng thuộc-linh sẽ không bao giờ thay đổi.
Giống như Chúa đã giúp Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng, Phao-lô và nhiều thánh-đồ khác tăng-trưởng trong sự s ống vào thời xưa, ngày nay Ngài cũng sẽ dẫn dắt anh em như vậy. Nếu anh em đang lang thang bên cạnh các bầy của các bạn đồng hành của mình và cảm thấy tuyệt vọng thì việc đọc tiểu sử của một số người yêu Chúa trước chúng ta sẽ rất tốt.
Câu chuyện về các kinh-nghiệm của họ với Chúa sẽ cung ứng cho anh em và giúp anh em vượt qua các khó khăn của mình.
Chúng ta cần nhận thức rằng sự nuôi dưỡng và yên nghỉ có thể được tìm thấy không chỉ qua sự theo đuổi Chúa của chúng ta cách trực tiếp mà còn từ các kinh nghiệm thuộc linh của các anh chị em khác. Ngày nay bầy đã tiến khá xa, để lại nhiều dấu chân cho chúng ta bước theo. Điều chúng ta cần phải làm là đi ra theo các dấu chân này của bầy.
Thật sai lần khi nghĩ rằng ngày nay chúng ta là sự kết thúc của sự khôi phục của Chúa và những gì các thánh-đồ trước đây đã thực hiện không quan-trọng lắm. Có thể chúng ta đang lao tác ở một giai đoạn khác trong công-tác của Chúa, nhưng các nguyên-tắc của sự sống không thay đổi.
Để đi theo Chúa chúng ta cần phải có khả năng học tập từ các kinh-nghiệm sự sống của những người ở phía trước chúng ta và những người đã đi trước chúng ta. Nếu không trung tín thì cuối cùng chúng ta cũng sẽ phải đương đầu với những gì mà các thánh-đồ khác đã đương đầu trước đây.
Do đó, chúng ta phải tiếp nhận điều mà những người khác đã học. Chúa muốn cứu chúng ta khỏi công tác vào trong sự sống. Giống như Ngài đã chăn dắt những người yêu của Ngài trong quá-khứ, Ngài cũng sẽ chăn dắt chúng ta theo cùng một cách như vậy.
Khi bắt đầu đi theo Chúa, vì một lý-do nào đó chúng ta pha trộn những điều khác với việc yêu Chúa của chúng ta, và chúng ta dễ dàng đi lạc. Ngay cả sự theo đuổi của chúng ta cũng có thể bị pha trộn với một loại công tác nào đó. Vì vậy chúng ta phải đi ra theo các dấu chân bầy, đó là con đường sự sống. Trong việc đi theo Chúa, cuối cùng chúng ta sẽ không rơi vào trong một tình trạng mà chưa từng có ai kinh nghiệm trước đây. Thường thì chúng ta có thể kinh nghiệm một bước ngoặt bằng cách nhận lấy sự phong phú từ những người đã đi trên con đường này trước chúng ta.
“CHĂN THẢ CÁC DÊ CON CỦA NÀNG BÊN CÁC LỀU TRẠI CỦA NHỮNG NGƯỜI CHĂN”
Chúa nói tiếp: “Và chăn thả các dê con của nàng bên các lều trại của những người chăn”.