top of page
1. TỪ PHAO-LÔ BẰNG TÌNH YÊU (Côl 1:1-2)
Các...
...thiên-thể có ảnh hưởng gì đến đời sống chúng ta không? Nhiều triệu người theo dõi lá số tử-vi của họ hằng ngày sẽ nói: “Có!” Tại Hoa-Kỳ, mỗi ngày có khoảng 1750 nhật báo, trong số đó có đến 1220 tờ có đăng các dữ kiện chiêm-tinh học như thế!
-Có liên-hệ gì giữa việc kiêng ăn với sinh hoạt thuộc-linh, hay không?
-Đức Chúa Trời phán dạy trực tiếp cho chúng ta, hoặc trong tâm-trí, hay chỉ qua trung gian Lời Ngài là Thánh Kinh mà thôi.
-Các tôn-giáo phương Đông có đem được điều gì đến cho Cơ-đốc nhân theo đạo Tin Lành không?
Các câu hỏi này thoạt nghe có vẻ như rất hiện đại. Thế nhưng đó lại chính là các vấn-đề của Phao-lô đã đề cập trong bức thư đẹp đẽ gởi cho người Cô-lô-se của ông. Ngày nay, chúng ta vẫn cần đến bức thư quan-trọng này cũng như người Cô-lô-sê đã cần đến nó ngay từ năm 60 SC, lúc Phao-lô viết ra nó.
Thành phố: Cô-lô-se là một trong 3 thành phố tọa lạc cách Ê-phê-sô 100 dặm trong đất liền. Hai thành phố kia là Lao-đi-xê và Hi-ê-ra-bô-li (Côl 4:13,16). Khu vực này là giao-điểm của phương Đông và phương Tây vì con đường giao thương quan-trọng đi ngang qua đó.
Đã có một thời cả 3 thành phố này đều cùng tăng-trưởng và hưng thịnh, nhưng lần lần, Cô-lô-se bị tuột xuống địa-vị thứ yếu. Nó trở thành điều mà chúng ta gọi là một thị trấn nhỏ. Thế nhưng Hội thánh tại đó là quan-trọng đủ để xứng đáng được sứ-đồ Phao-lô chú ý.
Trong khu vực quốc tế này, mọi triết-lý đã lẫn lộn vào nhau, và những tay bán rao tôn-giáo thì đầy dẫy. Tại Cô-lô-sẽ có một cộng đồng dân Do-thái định cư đông đảo, cũng luôn luôn có một phong trào về các tư tưởng và giáo-thuyết mới từ phương Đông tràn vào. Đây là một vùng đất phì nhiêu cho các suy lý tôn-giáo và tà-thuyết!
Hội Thánh: Có lẽ Tân-ước đã chẳng bao giờ đề cập Cô-lô-se nếu như tại đó không có Hội thánh. Thành phố ấy đã chẳng hề được sách Công-vụ các sứ-đồ nêu tên, vì Phao-lô không thành lập Hội thánh tại đó, cũng chẳng bao giờ đến thăm Cô-lô-se. Ông chỉ được nghe nói về đức-tin của họ mà thôi (Côl 1:4,9), chớ chưa bao giờ đích thân nhìn thấy các tín-hữu này (Côl 2:1).
Đây là một Hội thánh gồm những con người không ai biết, trong một thị trấn nhỏ, đã nhận được một bức thư được linh-cảm của vị đại sứ-đồ Phao-lô!
Hội thánh Cô-lô-se đã bắt đầu như thế nào? Nó là kết quả phụ của 3 năm chức-vụ của Phao-lô tại Ê-phê-sô (Công 19:1-41; Công 20:17-38). Hội thánh tại Ê-phê-sô đã làm chứng-đạo rất có kết quả đến độ “mọi người trong cõi A-si cả người Giu-đa lẫn người Gờ-réc đều nghe đạo Chúa” (Công 19:10). Số người này bao gồm luôn dân chúng tại Cô-lô-se, Lao-đi-xê, và Hi-ê-ra-bô-li.
Khi chúng ta khảo-xét các nhân-vật có liên-hệ trao đổi thư từ với Phao-lô lúc ông bị tù (xem các thư Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se, Phi-lê-môn và IITi-mô-thê), chúng ta có thể nhập chung cả câu chuyện lại để biết Hội thánh Cô-lô-se đã được thành lập như thế nào.
Trong thời gian Phao-lô thi hành chức-vụ tại Ê-phê-sô, ít nhất đã có 2 người từ Cô-lô-se đến đã được hướng dẫn để tin nhận đạo Chúa, đó là Ê-pháp-ra và Phi-lê-môn (Phil 1:19).
Rõ ràng Ê-pháp-ra là một trong những nhà sáng lập chủ chốt của Hội thánh tại Cô-lô-se, vì ông đã chia-sẻ Phúc-Âm với các bè bạn tại đó (Côl 1:7). Ông cũng đã có một chức-vụ tại 2 thành phố Hi-ê-ra-bô-li và Lao-đi-xê (Côl 4:12,13).
Phi-lê-môn thì có một Hội thánh nhóm lại trong nhà mình (Phil 1:2). Có lẽ Áp-bi và A-chíp được đề cập trong câu này chính là vợ và con trai của Phi-lê-môn, và A-chíp là mục-sư của Hội thánh ấy (Côl 4:17).
Ở đây có một bài học rất hay cho chúng ta: Đức Chúa Trời không luôn luôn cần đến một vị sứ-đồ hay “một cán-sự Cơ-đốc, làm việc trọn vẹn thì giờ” để thiết-lập một chức-vụ phục vụ Chúa. Ngài cũng chẳng cần những ngôi nhà đẹp đẽ, những tổ chức đồ sộ.
Ở đây, chúng ta có 2 người tín-đồ bình thường đã được Đức Chúa Trời dùng để bắt đầu các chức-vụ trong ít nhất là 3 thành phố. Chính là theo kế hoạch của Đức Chúa Trời mà các Cơ-đốc nhân trong các khu vực đô thị lớn, như Ê-phê-sô, phải đến với các thị trấn nhỏ hơn để chia-sẻ Phúc-Âm. Hội thánh của bạn có đang tiếp tay truyền-giảng Phúc-Âm cho công cuộc truyền-giáo cho các “thị trấn nhỏ” hay không?
Hội chúng tại Cô-lô-se gồm phần lớn các thành-viên là người ngoại quốc. Các tội mà Phao-lô nêu tên (Côl 3:5-9) vốn được kết hợp phổ biến với người ngoại quốc, còn câu ông nói về huyền-nhiệm thì áp dụng nhiều cho người ngoại quốc hơn là người Do-thái (Côl 1:25-29). Có lẽ Hội thánh đã được 5 tuổi khi Phao-lô viết bức thư này.
Cơn khủng hoảng: Tại sao Phao-lô lại viết bức thư này cho Hội thánh tại Cô-lô-se? Vì cơn khủng hoảng xảy ra tại đó sắp hủy diệt chức-vụ của Hội thánh. Nhờ đối chiếu với các bức thư trong tù khác (của Phao-lô), chúng ta có thể tái tạo các biến cố đã xảy ra như sau đây:
-Bấy giờ, Phao-lô đang bị cầm tù tại Rô-ma, (Công 21:17-28:31). Ông gặp một nô-lệ trốn chủ tên Ô-nê-sim, thuộc-quyền sở hữu của Phi-lê-môn, một trong các lãnh tụ của Hội thánh tại Cô-lô-se. Phao-lô đã hướng dẫn Ô-nê-sim tin Chúa. Rồi ông viết một bức thư gởi cho Phi-lê-môn, yêu cầu bạn mình tha-thứ cho Ô-nê-sim và nhận lại người này như một anh em trong Chúa.
-Cũng gần như cùng lúc ấy, Ê-pháp-ra đến Rô-ma vì cần được Phao-lô giúp đỡ. Một số tà-thuyết mới được truyền dạy tại Cô-lô-se, đang xâm nhập Hội thánh và tạo ra nhiều vấn-đề. Cho nên Phao-lô viết bức thư này cho người Cô-lô-se nhằm phản-bác các tà-thuyết ấy và xây-dựng chân-lý của Phúc-Âm.
• Ê-pháp-ra ở lại với Phao-lô tại Rô-ma (Côl 4:12,13).
Ô-nê-sim và Ti-chi-cơ đưa các thư tín đến các địa chỉ chúng cần được gởi đến: Êph 6:21; Côl 4:7-9 và cho Phi-lê-môn.
Ê-pháp-ra được gọi là “bạn đồng tù” với Phao-lô, một tước hiệu cũng đã được dành cho A-ri-tạc (Phil 1:24; Côl 4:10). Điều này gợi ý rằng Ê-pháp-ra đã tự nguyện ở lại với Phao-lô để giúp đỡ ông. Cả A-ri-tạc lẫn Ê-pháp-ra đều không phải là tù-nhân vì vi phạm luật-pháp và bị bắt giam. Họ chỉ là các bạn đồng hành tự nguyện của Phao-lô, hy sinh chính sự an nhàn tiện nghi của mình để giúp đỡ Phao-lô.
Thế tà-giáo nào đang đe dọa sự bình-an và thuần tuý của Hội thánh Cô-lô-se? Đó là một hỗn hợp triết-lý phương Đông với chủ nghĩa duy luật Do-thái, với những yếu tố mà các học-giả Thánh Kinh gọi là Trí-huệ phái.
Từ ngữ này vốn do ngữ căn Hy-lạp gnosis có nghĩa là “biết”. Người “trí-huệ” là người “hiểu biết” những điều sâu-nhiệm của Đức Chúa Trời. Họ là “giới quý tộc thuộc-linh” trong Hội thánh.
Để bắt đầu, tà-giáo này hứa hẹn giúp người ta đạt được sự hợp nhất thân cận với Đức Chúa Trời, giúp họ đạt được một trình độ “trọn-vẹn thuộc-linh”. Sự trọn vẹn thuộc-linh có thể thuộc về họ, chỉ cần họ chịu tham dự những lời giáo huấn và nghi lễ theo quy định.
Rồi còn có một “kiến-thức trọn-vẹn”, một chiều sâu thuộc-linh mà chỉ có người “nhập giáo” mới có được. “Sự khôn-ngoan” này sẽ giải thoát họ khỏi “việc đời”, khiến họ tiếp xúc được với những điều ở trên trời.
Lẽ dĩ nhiên, tất cả các giáo-huấn đó đều chỉ là triết-lý nhân tạo đặt nền trên truyền-thống chớ không phải là trên chân-lý của Đức Chúa Trời (Côl 2:8). Nó nảy sinh từ vấn-đề mà triết-học đã đặt ra là: Tại sao lại có điều ác trên thế-gian này nếu công trình sáng tạo vốn do một Đức Chúa Trời thánh-khiết mà ra?
Trong lúc suy tư, lý-luận, các triết-gia ấy đã đi đến kết luận rằng vật chất vốn là xấu, là ác.
Kết luận sai lầm tiếp theo của họ, là một Đức Chúa Trời thánh-khiết không thể tiếp xúc với vật chất xấu xa gian ác, cho nên phải có nhiều “chuỗi lưu xuất” từ Đức Chúa Trời đến công trình sáng tạo của Ngài.
Họ tin vào một thế-giới thần-linh đầy năng lực, đang sử dụng những điều thuộc về vật chất để tấn công nhân loại. Họ cũng chủ trương một hình thức chiêm-tinh học, tin rằng các thiên-sứ đang cai-trị các thiên-thể và tạo ảnh hưởng trên mọi việc xảy ra dưới đất này (Côl 1:16; Côl 2:10,15).
Thêm vào các suy luận triết-lý này là một hình thức duy luật chủ nghĩa Do-thái. Các giáo-sư ấy tin rằng nghi lễ cắt-bì giúp ích cho sự phát triển thuộc-linh (Côl 2:11). Họ dạy rằng luật-pháp Cựu-ước, nhất là các luật-lệ về ăn uống, cũng hữu ích để đạt mức trọn lành thuộc-linh (Côl 2:14-17).
Các luật-lệ và quy-tắc nhất định dạy cho họ biết đâu là ác và đâu là thiện (Côl 2:21).
Vì với họ vật chất là xấu là ác, họ phải tìm một phương cách nào đó để chế ngự những bản chất xác thịt của mình trong việc theo đuổi sự trọn-vẹn. Hậu quả là có 2 cách hành đạo khác nhau đã nảy sinh.
-Một trường phái tư tưởng chủ trương rằng phương pháp duy nhất để chinh-phục vật chất xấu xa gian ác là nhờ giữ kỹ-luật khắt khe và khổ tu (Côl 2:23).
-Quan điểm kia lại dạy rằng người ta được phép dấn thân vào đủ thứ tội-lỗi, vì dù sao thì vật chất cũng vốn là xấu, là ác rồi! Dường như ý kiến thứ nhất đã chiếm thế áp đảo tại Cô-lô-se.
Thật là dễ thấy loại lời giáo-huấn này đã xoi mòn, phá hoại ngầm chính các nền móng của Cơ-đốc giáo như thế nào. Để bắt đầu, những kẻ theo tà-giáo này công kích con người và công lao của Chúa Giê-xu Christ. Với họ, Ngài chỉ là một trong những “lưu xuất’ của Đức Chúa Trời chớ không phải là chính Con Ngài, lấy hình hài thân xác con người mà đến.
Sự nhập-thể của Đấng Christ vốn có nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta (Mat 1:23), nhưng các giáo-sư giả này lại dạy rằng Ngài vẫn giữ khoảng cách với chúng ta! Khi chúng ta tin-cậy vào Con Đức Chúa Trời thì chẳng cần có những trung-gian nào giữa chúng ta với thiên-đàng cả!
Trong công lao của Ngài trên thập-tự giá, Chúa Giê-xu Christ đã giải quyết xong vấn-đề tội-lỗi (Côl 1:20) và đánh bại hoàn toàn các lực lượng của Sa-tan (Cvl 2:15). Ngài đã chấm dứt mọi đòi hỏi hợp pháp của luật-pháp (Côl 2:14-17).
Thật vậy, chỉ có một mình Chúa Giê-xu Christ mới là Đấng ưu việt hơn tất cả! (Côl 1:18; Côl 3:11).
Tất cả mọi nhu-cầu của người tín-hữu đều có trong Chúa Giê-xu!
Vật chất không phải là xấu, và thân thể con người không phải là xấu. Mỗi người đều được sinh ra đời với một bản tính con người sa bại, muốn chế ngự thân thể và sử dụng nó cho tội-lỗi nhưng bản thân thân thể không phải là xấu là ác. Nếu quả là như thế thì Chúa Giê-xu Christ đã chẳng bao giờ đến thế-gian bằng một thân xác con người.
Nếu quả đúng như thế thì Ngài cũng không hề hưởng được các phước hạnh hằng ngày của đời sống khi phục vụ trên đất, như đi dự các tiệc cưới và nhận lời mời đi ăn cơm khách. Kiêng ăn và kỷ-luật có thể tốt cho sức khỏe con người, nhưng chẳng có năng lực gì để phát triển tính thuộc-linh đích thực (Côl 2:20-23).
Còn về chiêm-tinh học và ảnh hưởng của các thiên-sứ và các thiên-thể, thì Phao-lô đã kịch liệt tố giác. Trên thập-tự giá, Chúa Giê-xu đã toàn thắng đối với tất cả các lực lượng của ma quỷ (Côl 2:15). Cơ-đốc nhân chẳng cần chi phải nhờ-cậy vào các điều sơ học của thế-gian (Côl 2:8,20). Từ ngữ đã được dịch ra là những điều sơ học của thế-gian có nghĩa là các “hữu thể sơ đẳng” hay “nguyên lý” sơ đẳng.
Trong trường hợp ở đây, nó có nghĩa là các hữu thể (mà các nhà theo Trí-huệ phái cho là) đang cai-trị các thiên-thể, rồi đến lượt chúng, các thiên-thể chế ngự các biến cố trên đất này. Các tín-hữu còn tham khảo các lá số tử-vi, tức là đang đánh đổ lời mạc khải để lấy sự mê tín và phủ nhận Con Người cùng với công lao của Đấng Christ.
Tà-giáo này là một sự kết hợp nhiều điều lại với nhau, như duy luật chủ nghĩa Do-thái, triết-lý phương Đông, chiêm-tinh học ngoại đạo, thần-bí học, khắc-khổ chủ nghĩa và cả một ít Cơ-đốc giáo nữa, nhằm mục đích lừa dối người ta.
Nó có một chút gì đó của tất cả mọi người, mà đó chính là điều gây nguy hiểm. Các giáo-sư giả rêu rao rằng họ không phủ nhận đức-tin Cơ-đốc giáo, mà chỉ nâng lên một cấp bậc cao hơn mà thôi. Họ đề nghị cung-cấp cho người ta một đời sống đầy đủ, tự do và mãn nguyện, giải quyết được tất cả mọi vấn-đề họ gặp.
Ngày nay, chúng ta có gặp loại tà-giáo nào giống như thế không? Có và nó cũng lừa dối và nguy hiểm y như thế! Khi chúng ta biến Chúa Giê-xu Christ và lời mạc khải Cơ-đốc chỉ còn là một phần của một hệ thống tôn-giáo hay triết-lý toàn diện mà thôi, tức là chúng ta không còn dành cho Ngài địa vị độc-tôn nữa.
Khi chúng ta chiến đấu để có được “sự trọn-vẹn hay đầy đủ thuộc-linh” (hoàn thiện) nhờ các công thức, các kỹ thuật hay nghi lễ, là chúng ta đã thối lui thay vì tiến lên.
Các tín-hữu Cơ-đốc nhân cần cảnh giác đối với việc hòa đồng đức-tin của mình với những điều dễ gài bẫy người ta như yoga, đồng bóng, thần-bí học phương Đông, và những điều giống như thế.
Chúng ta cũng phải cảnh giác đối với các giáo-sư dạy về “đời sống thâm sâu hơn” đề nghị một hệ thống giúp người ta chiến thắng hay hoàn thiện mà chẳng cần phải tận hiến cho Chúa Giê-xu Christ. Trong mọi sự, Ngài phải chiếm địa-vị độc-tôn!
Tà-giáo này trực tiếp mâu-thuẫn với lời truyền dạy của Phao-lô. Nó chấp nhận một nhân-sinh quan tiêu cực: “Đức Chúa Trời ở rất xa, vật chất là xấu, mà các lực lượng ma quỷ thì luôn luôn đe dọa chúng ta”.
Cơ-đốc giáo dạy rằng Đức Chúa Trời đang ở gần chúng ta, Đức Chúa Trời đã sáng tạo nên mọi vật thật tốt lành (tuy chúng có thể bị sử dụng cho điều ác), và Đấng Christ đã giải phóng người thuộc về Ngài khỏi các quyền lực của bóng tối (Côl 1:13).
Tà giáo này đã biến thế-gian này thành ra một nhà tù đáng sợ, trong khi Chúa Giê-xu đã làm sáng tỏ rằng Đức Chúa Cha đang hành động ngay trong thế-gian để chăm-sóc cho những người thuộc về Ngài.
Cuối cùng, các giáo-sư giả này cố tìm cách làm thay đổi con người ta từ bên ngoài bằng cách kiêng ăn và tuân thủ các kỷ-luật khắt khe như ép xác, khổ tu. Nhưng sự tăng-trưởng thuộc-linh vốn đến từ bên trong.
Bức thư: Với phần bối cảnh trên đây, bây giờ chúng ta có thể đọc bức thư của Phao-lô gởi cho người Cô-lô-se này, để có một cái nhìn bao quát về những gì ông đã viết. Chúng ta biết rằng bức thư cho người Ê-phê-sô đã được viết và gởi đi hầu như đồng thời với thư Cô-lô-se này: Cần nhớ luôn là chúng ta có thể phát giác nhiều điểm tương đồng giữa 2 bức thư ấy.
Tuy nhiên, điểm nhấn mạnh trong thư Ê-phê-sô là trên Hội thánh, là thân thể Đấng Christ còn điểm nhấn mạnh trong thư Cô-lô-se là trên Đấng Christ, Đầu của thân thể.
Trong bức thư này, Phao-lô dùng ngôn ngữ của các giáo-sư giả, nhưng ông không theo cách định nghĩa của họ. Ông dùng những từ này theo ý nghĩa Cơ-đốc đích thực của chúng. Trong khi nghiên-cứu thư Cô-lô-se, chúng ta sẽ gặp những từ ngữ như đầy đủ, trọn-lành, trọn-vẹn, tất cả đều vốn được những kẻ theo tà-giáo Trí-huệ phái sử dụng.
Phao-lô đã dùng từ ngữ “tất cả” hơn 30 lần. Ông cũng viết về sự khôn-ngoan, vốn là một từ ngữ then chốt trong từ vựng Trí-huệ phái ông đã nói rất nhiều điều về các thiên-sứ và các thế lực thuộc-linh (tà-linh) nữa.
Luận-đề chính của ông là địa-vị độc-tôn của Chúa Giê-xu Christ (Côl 1:18; Côl 3:11). Thiết tưởng chúng ta chẳng cần chi phải bận tâm đến vai trò trung-gian của các thiên-sứ hay vấn-đề về những “lưu xuất” thuộc-linh.
Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến thế-gian để chịu chết thay cho chúng ta! Tất cả những người tin Chúa Giê-xu Christ đều được cứu và trở thành một phần của Thân thể Ngài, là Hội thánh, mà Ngài chính là cái Đầu (Côl 1:18). Chúng ta được hợp nhất với Đấng Christ trong một mối liên-hệ sống động diệu kỳ!
Hơn nữa, chẳng còn có thể thêm gì vào cho mối liên-hệ này nữa, vì mỗi một tín-hữu đều “nên trọn-vẹn (hoàn thiện) trong Ngài” (Côl 2:10). Tất cả mọi sự đầy đủ của Đức Chúa Trời đều ở trong Chúa Giê-xu Christ (Côl 2:9), và chúng ta được dự phần vào sự đầy đủ trọn-vẹn đó! “Vì sự đầy-dẫy của bổn tánh Đức Chúa Trời thảy đều ở trong Đấng ấy như có hình. Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy-dẫy mọi sự...” (Côl 2:9,10a)
Có lần tôi đang ở phi trường, chờ điểm danh để lên máy bay, thì một thanh niên đến gần, gạ bán cho tôi một quyển sách. Chỉ cần nhìn thoáng qua vẻ loè loẹt ngoài bìa sách đã đủ cho tôi biết quyển sách ấy chứa đầy những điều thần-bí và triết-học phương Đông.
Tôi liền bảo với chàng thanh niên ấy: “Ở đây, tôi có một quyển sách đáp ứng được mọi nhu-cầu của tôi”. Và mở va-li lấy ra quyển Thánh Kinh của mình.
Chàng thanh niên ấy trấn an tôi: “Ồ thưa ông, chúng tôi chẳng có ý muốn chống lại Thánh Kinh đâu! Chúng tôi chỉ muốn thêm vào đó một chút, để khiến cho đức-tin của chúng ta tốt hơn lên mà thôi”.
Tôi nói: “Chẳng hề có ai ban được cho tôi điều gì tốt hơn điều Chúa Giê-xu Christ đã ban-cho tôi” và tôi lật ra tìm Côl 2:1-23 nhưng lúc ấy thì chàng thanh niên nọ đã vội vàng đi nhanh ra đầu kia của dãy hành lang.
Thật đáng buồn khi phải nói rằng hiện có nhiều Cơ-đốc nhân thật sự tin vào một người nào đó, một hệ thống tôn-giáo hoặc một thứ kỷ-luật nào đó có thể thêm một chút gì đó cho từng-trải thuộc-linh của họ. Nhưng trong Chúa Giê-xu Christ, họ đã có đầy đủ mọi sự cần thiết rồi.
Nếu Phao-lô cần viết ra một bố cục cho bức thư gởi cho các Cơ-đốc nhân tại Cô-lô-se này, có lẽ nó sẽ như sau đây:
Luận-đề: Chúa Giê-xu Christ là Đấng Độc-Tôn (Côl 1:18)
I. Giáo-lý: Địa vị độc-tôn của Đấng Christ đã được công bố – chương 1
1. Trong thông-điệp Phúc-Âm (Côl 1:1-12)
2. Trong sự cứu-chuộc (Côl 1:13-14)
3. Trong công trình sáng tạo (Côl 1:15-17)
4. Trong Hội thánh (Côl 1:18-23)
5. Trong chức-vụ của Phao-lô (Côl 1:24-29)
II. Nguy cơ: Địa-vị độc-tôn của Đấng Christ cần được bảo vệ – chương 2
1. Phải cảnh giác đối với các nền triết-học rỗng tuếch (Côl 2:1-10)
2. Phải cảnh giác đối với luật-pháp chủ nghĩa của tôn-giáo (Côl 2:11-17)
3. Phải cảnh giác đối với các kỹ-luật nhân tạo (Côl 2:18-23)
III. Nhiệm-vụ: Chứng minh địa-vị độc-tôn của Chúa Giê-xu Christ – chương 3,4
1. Bằng sự thanh sạch cá nhân (Côl 3:1-11)
2. Bằng mối thông công Cơ-đốc giáo (Côl 3:12-17)
3. Tại nhà riêng (Côl 3:18-21)
4. Trong công việc hằng ngày (Côl 3:22-4:1)
5. Bằng công tác chứng-đạo (Côl 4:2-6)
6. Bằng cách phục-vụ (Côl 4:7-18)
Lẽ dĩ nhiên đây chỉ là một bố cục gợi ý nên không thể bị ép buộc để xem như được linh-cảm. Có nhiều phương pháp để Lời Đức Chúa Trời có thể được phân tích và bố cục, nhưng chẳng hề có một bố cục nào lại có thể chiếm lấy chỗ của chính Lời thành văn.
Tuy nhiên, trong khi nghiên cứu theo bố cục này, chúng ta sẽ thấy cách thức Phao-lô đã tiếp cận vấn-đề để tìm cách giải quyết nó. Ông đã không bắt đầu bằng cách công kích các giáo-sư giả và tà-thuyết của họ. Ông bắt đầu bằng việc đề-cao Chúa Giê-xu Christ, chứng-minh địa-vị độc-tôn của Ngài trong 5 lãnh vực: thông-điệp Phúc-Âm, sự cứu-chuộc, công trình sáng tạo, Hội Thánh, và chức-vụ của chính Phao-lô.
Những người được Phao-lô viết bức thư này cho đã trở thành Cơ-đốc nhân nhờ thông-điệp Phúc-Âm, Ê-pháp-ra đã đưa về cho họ. Nếu thông-điệp ấy mà sai, thì họ đã chẳng hề được cứu-rỗi!
Một khi đã xác lập địa-vị độc-tôn của Đấng Christ rồi, Phao-lô mới công kích những kẻ dạy tà-giáo ngay trên lập trường của họ. Trong chương 2, Phao-lô vạch trần nguồn gốc giả dối trong các giáo-thuyết của họ, và chứng-minh rằng những lời chỉ giáo của họ mâu-thuẫn với tất cả những gì ông đã truyền dạy về Chúa Giê-xu Christ.
Người tín-hữu nắm vững được chương sách này sẽ khó có thể bị một tổ chức Cơ-đốc giáo mang nhãn hiệu canh-tân-và-cải-tiến nào dẫn đi sai lạc bằng cách gài bẫy hay quyến rủ được.
Nhưng Phao-lô vẫn không nghĩ rằng nhiệm-vụ của mình đã hoàn tất sau khi đã bài bác những kẻ theo tà-giáo này, vì ông vẫn còn nhiều lời quan-trọng cho Hội Thánh.
Trong hai chương 3 và 4, Phao-lô đã giải thích về viên thuốc phòng ngừa hiệu-nghiệm nhất để chống lại tà-thuyết: một đời sống tin kính.
Những kẻ bảo rằng: “Tôi chẳng quan tâm bạn tin gì chỉ cần bạn sống một cuộc đời ngay lành mà thôi” thì chưa suy nghĩ thật hợp lý. Điều chúng ta tin quyết định cách chúng ta sống. Nếu chúng ta tin rằng vật chất là xấu, là ác, chúng ta sẽ sử dụng thân thể mình theo một đường, nhưng nếu chúng ta tin rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh, chúng ta sẽ sống thật phải lẽ, đứng đắn.
-Tà-thuyết luôn luôn dẫn đến nếp sống sai trái.
-Chánh giáo phải dẫn đến nếp sống ngay lành.
Trong hai chương kết thúc, Phao-lô ứng dụng địa-vị độc-tôn của Đấng Christ vào các công việc của sinh hoạt hằng ngày.
Nếu quả thật Đấng Christ chiếm địa-vị độc-tôn trong đời sống chúng ta, thì chúng ta phải tôn-vinh người bằng cách giữ mình thanh sạch, vui hưởng mối thông-công với các thánh-đồ khác, yêu thương nhau trong gia đình và trung-tín trong công việc làm, làm chứng-nhân cho Đấng Christ và phục-vụ có kết quả cho Ngài.
Nếu giáo-lý không dẫn đến nhiệm-vụ, thì nó sẽ là vô dụng cho chúng ta.
Nhiều học-giả Thánh Kinh đã kết luận rằng thư Cô-lô-se là bức thư sâu-nhiệm nhất mà Phao-lô từng viết. Chúng ta phải cẩn thận, chớ nên chỉ tiếp cận với các chương sách này trên bề mặt, một cách nông cạn mà thôi. Nếu chúng ta không nhờ cậy Đức Thánh Linh để Ngài dạy dỗ chúng ta, chúng ta sẽ bị hụt mất các chân-lý mà Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta phải học tập.
Hội thánh ngày nay đang rất cần bức thông-điệp của sách Cô-lô-se. Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà việc khoan dung tôn-giáo đã được lý giải rằng “đạo nào cũng tốt như nhau cả”.
Có một số người đang tìm cách lấy ra những điểm tốt nhất từ nhiều hệ thống tôn-giáo khác nhau để chế tạo ra một tôn-giáo riêng cho chính họ. Với một số đông người thì Chúa Giê-xu Christ chỉ là một trong số rất nhiều giáo-sư tôn-giáo vĩ đại, cũng chẳng có uy-quyền gì hơn họ. Có thể Ngài cũng thuộc hạng nổi bật, nhưng dứt khoát không phải là độc-tôn.
Đây là một thời đại của “tôn-giáo hòa đồng”. Thiên-hạ đang cố tìm cách “cào bằng” và thống nhất nhiều trường phái tư tưởng để đạt đến một siêu tôn-giáo. Các Hội thánh Tin Lành của chúng ta đang gặp cơ nguy cơ có thể hòa tan đức-tin của mình vào với nỗ lực thích tìm hiểu thông cảm với các tín-ngưỡng của tha-nhân.
Thần-bí học, luật-pháp chủ nghĩa, các triết-lý phương Đông, khắc khổ chủ nghĩa và nhiều triết-lý nhân tạo đang âm thầm len lỏi vào trong các Hội thánh. Họ không phủ nhận Đấng Christ, nhưng đang âm mưu cướp ngôi của Ngài và cướp đi địa-vị độc-tôn chính đáng của Ngài.
Trong khi nghiên-cứu bức thư đầy phấn khởi này, chúng ta cần lưu ý mấy lời cảnh cáo này của Phao-lô là: ”Tôi nói rõ điều ấy để anh em khỏi bị quyến rủ lừa dối bằng những luận chứng có vẻ hợp lý” (Côl 2:4)
“Vì vậy, chớ có ai đoán-xét anh em về của ăn uống, hoặc ngày lễ, hoặc ngày mặt trăng mới, hoặc Sa-bát.” (Côl 2:16).
2. CÁC PHÉP-LẠ TẠI CÔ-LÔ-SE (Côl 1:3-8)
Côl 1:3-4. Nhà truyền-đạo trứ danh người Tô-cách lan Alexander Whyte vốn nổi tiếng là rất hay tán thưởng, cổ vũ người khác. Ông thích viết nhiều bưu thiếp gởi cho nhiều người, cảm ơn họ về một việc tốt hay một phước hạnh nào đó họ đã đem đến cho đời sống ông. Những bức thông-điệp đó thường có một vài lời khích-lệ đối với một tấm-lòng lúc nó cần đến sự khích-lệ nhất. Tán thưởng là liều thuốc quan-trọng nhất cho linh-hồn.
Sứ-đồ Phao-lô là một người khích-lệ quan-trọng, và thư tín này là một thí-dụ rất tốt cho ân-tứ cảm-tạ tri-ân. Trong đoạn sách này (vốn là một câu rất dài trong nguyên bản Hi-văn), ông dùng lời tạ-ơn về những gì Đấng Christ đã làm trong đời sống các Cơ-đốc nhân tại Cô-lô-se.
Nhưng ông cũng đề-cập sự cảm-tạ trong 5 chỗ khác nữa trong bức thư này: (Côl 1:12; Côl 2:7; Côl 3:15-17; Côl 4:2). Khi bạn nhớ lại rằng Phao-lô đã viết bức thư này trong tù, thì thái-độ tri-ân đó của ông lại càng là kỳ diệu hơn nữa!
Cũng như Phao-lô, chúng ta phải biết ơn Đức Chúa Trời về những gì Ngài đã làm trong đời sống người khác. Là Cơ-đốc nhân chúng ta đều là chi thể của cùng một thân thể (ICôr 12:12-13).
Nếu có chi thể nào trong thân thể được tăng cường thì điều đó góp phần tăng cường cho cả thân thể.
Nếu một Hội thánh được Đức Chúa Trời ban cho một cơn phục hưng, nó sẽ giúp ích cho toàn thể các Hội thánh.
Trong việc bộc lộ lòng cảm-tạ này, Phao-lô vạch ra các giai đoạn trong từng-trải thuộc-linh của các tín-hữu người Cô-lô-se.
1. Họ đã được nghe Phúc-Âm (Côl 1:5-7)
Tin mừng của Phúc-Âm vốn không có gốc gác ngay trong thành phố của họ. Nó phải được đem đến cho họ, và trong trường hợp của họ thì vị sứ-giả đó là Ê-pháp-ra.
Bản thân ông là một công dân của thành phố Cô-lô-se (Côl 4:12-13) nhưng đã tiếp xúc với Phao-lô và đã ăn-năn tin Chúa Giê-xu Christ. Việc này có lẽ đã xảy ra trong giai đoạn Phao-lô thi hành chức-vụ quan trọng luôn ba năm tại Ê-phê-sô (Công 19:10).
Sau khi được cứu, Ê-pháp-ra đã chia-sẻ các tin tức gây rúng động này cho các bà con và bạn bè ông tại quê nhà. Có lẽ Ê-pháp-ra đã rất phấn khởi lúc ở với Phao-lô tại Ê-phê-sô, nơi nhiều điều kỳ diệu đã xảy ra. Nhưng trách-nhiệm đầu tiên của ông là phải đem Phúc-Âm về cho thành phố quê hương của mình (Mac 5:19).
Phúc-Âm là tin-lành, tin-mừng rằng Chúa Giê-xu Christ đã giải quyết xong vấn-đề tội-lỗi bằng sự chết, bị chôn và sống lại của Ngài. Từ ngữ “Phúc-Âm” có nghĩa là “tin-lành, tin-vui”. Tai hại thay, nhiều người lại làm-chứng dường như Phúc-Âm là các tin-dữ, tin-buồn về sự đoán-phạt vậy.
Tôi nhớ có một chức-viên trong Hội thánh vốn giống như một công-tố viên buộc tội, hơn là một Cơ-đốc nhân làm nhân-chứng. Tuy ông ta luôn luôn quở trách người ta về tội-lỗi họ, ông ta đã không chia-sẻ cho họ tin-mừng về sự tha-tội nhờ đức-tin đặt nơi Chúa Giê-xu Christ.
Nhưng chúng ta có thể nhờ ông ta mà học được một bài học. Trong khi làm chứng-đạo, chúng ta phải nhớ nhấn mạnh vào tin-lành của Phúc-Âm (ICôr 15:1-8). Trong đoạn này của bức thư viết cho người Cô-lô-se, Phao-lô kiểm điểm lại các đặc điểm của bức thông-điệp Phúc-Âm đầy phấn khởi này.
Nó tập trung vào một Người: Chúa Giê-xu Christ. Luận-đề của thư tín này là địa-vị độc-tôn của Chúa Giê-xu Christ, nên lẽ tất nhiên, Ngài là độc-tôn trong Phúc-Âm. Các giáo-sư giả đang len lỏi vào mối thông-công tại Cô-lô-se đã tìm cách truất Đấng Christ khỏi địa-vị độc-tôn của Ngài, nhưng làm như thế tức là hủy diệt Phúc-Âm.
Chính Đấng Christ đã chịu chết vì chúng ta và đã sống lại. Bức thông-điệp Phúc-Âm không tập trung vào một triết-lý, một giáo-thuyết, hay một hệ-thống tôn-giáo. Nó tập trung vào Chúa Giê-xu Christ, Con Đức Chúa Trời.
• Nó là (lời) đạo chân-thật (Co 1:5).
Điều đó có nghĩa là nó đến từ Đức Chúa Trời nên rất đáng tin-cậy.
“Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh lời Cha tức là lẽ thật” (Gi 17:17).
Có nhiều bức thông-điệp, nhiều ý niệm có thể gọi là thật, nhưng chỉ một mình Lời Đức Chúa Trời mới có thể gọi được là chân-lý mà thôi.
Sa-tan là kẻ nói dối tin vào lời dối trá của nó là bị dẫn đi sai lạc vào chỗ chết (Gi 8:44). Chúa Giê-xu là chân-lý (Gi 14:6). Khi chúng ta tin-cậy Ngài, thì được sống. Loài người cố tìm cách tiêu diệt chân-lý của Đức Chúa Trời, nhưng họ đều thất bại. Lời của chân-lý vẫn cứ đứng vững!
Tất cả mọi người đều đặt lòng tin vào một điều gì đó. Nhưng niềm tin chỉ tốt ngang với đối tượng mà một người đặt niềm tin của mình vào. Người ngoại đạo trong rừng già thờ lạy một vị thần là tảng đá người thành phố có học vấn lại thờ tiền bạc, của cải, hoặc địa vị. Trong cả hai trường hợp vừa kể, đức-tin chỉ là rỗng tuếch. Người tín-hữu Cơ-đốc chân-chính đặt đức-tin vào Chúa Giê-xu Christ, mà đức-tin ấy vốn có cơ sở là Lời của chân-lý. Bất kỳ một loại “đức-tin” nào khác cũng đều chỉ là mê tín – nó chẳng cứu được ai.
• Nó là bức thông-điệp của ân-điển Đức Chúa Trời (Côl 1:6b).
Có 2 từ ngữ trong ngôn ngữ Cơ-đốc giáo thường bị lẫn lộn: ân-điển (grace) và sự nhân-từ khoan dung (mercy). Với ân-điển của Ngài Đức Chúa Trời ban-cho tôi điều tôi không xứng đáng nhận được.
Còn với lòng nhân-từ khoan dung của Ngài, Đức Chúa Trời không ban-cho tôi điều tôi xứng đáng phải nhận lãnh. Ân-điển của Đức Chúa Trời là ân-huệ tỏ ra đối với các tội-nhân không xứng đáng. Lý-do để Phúc-Âm trở thành tin-lành tin-mừng, đó là nhờ ân-điển: Đức Chúa Trời sẵn sàng và có thể cứu tất cả những ai tin-cậy Chúa Giê-xu Christ.
John Selden (1584-1654), là một sử-gia và là nhân vật có thẩm-quyền về pháp-luật ở Anh quốc. Ông có một thư viện gồm 8.000 bộ sách và được thừa nhận vì sở học của mình. Lúc hấp hối, ông đã nói với Tổng giám mục Ussler: “Tôi đã nghiên-cứu phần lớn những gì là học thức giữa vòng các con trai loài người, và văn phòng của tôi đầy-dẫy các sách và bản thảo về nhiều chủ đề. Nhưng bây giờ thì tôi không thể nhớ một khúc sách nào trong số tất cả các bộ sách và các bài vở của mình để có thể đem lại sự an nghỉ cho linh-hồn tôi, ngoại trừ câu này trong Thánh Điển: “Vả, ân-điển Đức Chúa Trời hay cứu mọi người, đã được bày tỏ ra rồi” (Tit 2:11).
• Nó dành cho toàn thể thế giới (Co 1:6).
Hồi còn là một mục-sư trẻ tuổi, một trong các nhà truyền-đạo tôi thích nhất là Tiến-sĩ Walter Wilson của Kanses City. Ông vốn có một phương pháp độc nhất vô nhị để biến các chân-lý xưa cũ trở thành có vẻ mới mẻ, gây phấn khởi.
Có lần tôi nghe ông trích dẫn Gi 3:16 và hỏi: “Nếu bạn muốn tặng cho cả thế-gian một món quà thích hợp, thì bạn sẽ tặng gì?”. Rồi ông liệt kê nhiều khả năng và chứng-minh rằng các tặng phẩm ấy đều không thể thích hợp cho tất cả mọi người: sách (nhiều người không biết đọc) thực phẩm (thiên-hạ ăn nhiều thức ăn khác nhau trên nhiều phần đất khác nhau của thế giới) y phục (khí hậu vốn khác nhau) tiền bạc (không phải tất cả các nền văn hoá đều sử dụng tiền bạc).
Ông đã đi đến câu kết luận hợp lý là chỉ có Phúc-Âm, với quà tặng là sự sống đời-đời, mới thích hợp cho cả thế-gian và ông đã nói đúng.
Phao-lô nói rằng Phúc-Âm đã kết quả trên khắp thế-giới. Lời Đức Chúa Trời là hạt giống duy nhất có thể đem trồng khắp nơi trong thế-gian, và nó sẽ kết quả. Phúc-Âm có thể được truyền-giảng “giữa mọi vật dựng nên ở dưới trời” (Côl 1:23).
Phao-lô chú trọng vào “mọi người” (Côl 1:28). Các giáo-sư giả không đưa bức thông-điệp của họ đến cho cả thế-gian. Họ chỉ đến nơi nào Phúc-Âm đã đến rồi, để cố tìm cách đưa các tín-hữu đi sai lạc. Họ chẳng có tin-lành cho các tội-nhân hư-vong!
Nếu ai muốn được cứu, thì phải nghe Phúc-Âm của Chúa Giê-xu Christ. Nếu họ cần phải nghe, thì chúng ta là những người đã được cứu phải đưa thông-điệp ấy đến. Bạn có làm phần việc của bạn chưa?
2. Họ tin Chúa Giê-xu Christ (Côl 1:4)
Tuy Lời Đức Chúa Trời có quyền-năng làm nảy sinh đức-tin trong những người nghe, người ta có thể nghe mà không tin (Rô 10:17). Triệu triệu người đã được nghe Phúc-Âm cứu-rỗi, thế nhưng đã không chịu tin. Nhưng những ai tin Chúa Giê-xu Christ thì nhận được món quà tặng là sự sống đời-đời của Đức Chúa Trời (Gi 3:14-18).
• Chúng ta không được cứu nhờ tin đạo.
Ngày nay có một đạo tôn-thờ “niềm tin” (believism) đề cao việc tin đạo nhưng chỉ có liên-hệ rất ít đến Chúa Giê-xu Christ. Ngay đến một số bài ca bình dân cũng mang thông-điệp về tin đạo. Thái-độ của con người hiện đại là: “Hễ bạn tin, thì sẽ được an-toàn” Nhưng vấn-đề rõ ràng là: “Tin gì?” Câu trả lời là: “Chỉ tin mà thôi!”
Chúng ta cũng không được cứu nhờ tin vào một loạt giáo-lý. Tôi thường kể lại câu chuyện về nhà truyền-đạo lừng danh George Whitefield làm chứng-đạo cho một người nọ. Ông hỏi: “Ông tin gì?” Người kia đáp: “Tin những gì giáo hội tôi tin”.
Nhà truyền-đạo hỏi: “Thế giáo hội ông tin gì?” Người kia đáp: “Những gì tôi tin”.
Chưa nản-lòng, Whitefield tiếp tục hỏi: “Thế cả ông lẫn giáo hội của ông tin gì?”
Câu trả lời hết sức mơ hồ của người kia là: “Ồ, cả tôi lẫn giáo hội của tôi đều tin một điều giống nhau!”
Đức tin cứu được một người gồm cả tâm-trí, tình cảm và ý chí của người ấy. Chúng ta hiểu chân-lý của Phúc-Âm bằng tâm-trí, khiến tấm lòng bị cáo trách và cảm thấy mình cần phải được cứu-rỗi.
Nhưng chỉ khi nào chúng ta vận dụng ý chí để tự hiến thân cho Đấng Christ, thì tiến trình cứu-rỗi mới hoàn tất. Đức-tin không phải chỉ là nhất trí với một bộ phận giáo-lý, bất chấp các giáo-lý ấy có đúng hay sai. Đức tin không phải là một sự quan tâm bằng tình cảm. Đức tin là tận hiến cho Chúa Giê-xu Christ.
Lúc giáo-sĩ John G.Paton phiên dịch Thánh Kinh cho các quần đảo Hebrides, ông tìm một chữ thật chính xác để dịch chữ tin. Cuối cùng, ông đã tìm ra được: từ ngữ ấy có nghĩa là “nưong tựa trọn-vẹn vào”. Đó chính là đức-tin để được cứu-rỗi –đặt cả trọng lượng của bạn nương tựa trọn-vẹn vào Chúa Giê-xu Christ.
Đức tin để được cứu đặt nền trên Phúc-Âm (Côl 1:23). Chính Lời Đức Chúa Trời bảo-đảm cho chúng ta. Càng tăng-trưởng trong Chúa, đức-tin của chúng ta càng vững vàng thêm (Côl 2:5) và được lập vững (Côl 2:7).
Các giáo-sư giả đến thành phố Cô-lô-se cố tìm cách hủy hoại đức-tin của các thánh-đồ đặt vào Đấng Christ và Lời Đức Chúa Trời. Cùng một loại phá hoại ngầm như thế cũng đang diễn tiến hôm nay.
Bất cứ một giáo-huấn tôn-giáo nào nhằm truất ngôi Chúa Giê-xu Christ hay biến sự cứu-rỗi thành một điều gì khác hơn là từng trải ân-điển của Đức Chúa Trời bởi đức-tin, đều từ Sa-tan ra và chống lại Cơ-đốc giáo.
Một tư tưởng sau cùng nữa: từng trải của các tín-hữu tại Cô-lô-se thật diệu kỳ đến nỗi thiên hạ đều bàn về nó. Phao-lô đã được nghe Ê-pháp-ra kể lại các giáo-sư giả đã được nghe kể lại nên quyết định đến thăm hội chúng tại Cô-lô-se đã tận mắt chứng kiến sự thay đổi lạ lùng đó.
Sau khi bạn đã từng-trải sự cứu-rỗi nhờ Chúa Giê-xu Christ rồi, thì bạn sẽ không thể nào giữ im lặng. Cuộc đời làm Cơ-đốc nhân của bạn phải chăng là loại đời sống khích-lệ nhiều người khác và khiến họ có cơ hội dễ dàng hơn để làm chứng-đạo? Sự thông-công trong Hội thánh của bạn có gây phấn khởi đến nỗi thậm chí người không tin Chúa cũng phải chú ý?
3. Họ được đào tạo để trở thành môn-đệ Chúa (Côl 1:7)
Không phải Ê-pháp-ra chỉ dẫn người Cô-lô-se đến với Đấng Christ, rồi bỏ mặc họ. Ông còn dạy Lời Chúa cho họ và tìm cách gây-dựng đức-tin cho họ nữa. Từ ngữ đã được dịch là “dạy” trong c.7 có liên-quan với từ ngữ môn-đệ trong Hi-văn.
Nó chính là từ ngữ Chúa Giê-xu dùng trong câu: “Hãy học theo ta” (Mat 11:29) hay đúng ra, là “Hãy trở thành môn-đệ ta”.
Các tín-hữu mới này đang gặp nguy cơ là có thể xây khỏi chân-lý để đi theo các giáo-sư giả. Phao-lô nhắc nhở họ rằng chính Ê-pháp-ra đã dẫn họ đến với Đấng Christ, khiến họ trở thành môn-đệ Ngài, và dạy bảo họ về Lời Đức Chúa Trời.
Từ ngữ “sự trước kia” trong câu 5 có lẽ có nghĩa là “trước khi các giáo-sư giả xuất hiện trên sân khấu”. Cũng như người Cô-lô-se, chúng ta phải cảnh giác đối với bất cứ một lãnh tụ tôn-giáo nào không tìm cách đưa các linh-hồn hư-vong trở về với Đấng Christ, mà chỉ dành thì giờ để “ăn cắp” chiên từ bầy của những người khác.
Chúng ta đừng bao giờ nên quên rằng các tín-hữu mới cần phải được đào tạo để trở thành môn-đệ Chúa. Như các hài nhi sơ sinh cần được yêu thương chăm-sóc và bảo vệ cho đến khi chúng có thể tự lo lấy cho mình thế nào, các Cơ-đốc nhân mới cũng cần được đào tạo để trở thành môn-đệ.
Lời Ủy Thác Trọng Đại đã không dừng lại với việc cứu vớt người hư-vong, vì trong lời ủy thác ấy, Chúa Giê-xu còn truyền dạy chúng ta phải dạy Lời Đức Chúa Trời cho những người mới ăn-năn quy đạo nữa (Mat 28:19-20).
Đó là điều mà phần thông-công trong chi hội địa phương phải đảm trách. Tân-ước kinh không truyền dạy một loại “Cơ-đốc giáo cá nhân” vốn rất thịnh hành hiện nay – thiên-hạ bỏ mặc cho chi hội địa phương tự lo liệu lấy, khiến họ phải tìm lương thực thực phẩm thuộc-linh trong sách báo, đài phát thanh, các chương trình truyền hình hoặc các băng cát-xét.
• Ê-pháp-ra là một mục-sư trung-tín.
Chẳng những ông đưa nhiều người đến với Đấng Christ, mà còn dạy Lời Chúa cho họ nữa, và giúp họ tăng-trưởng. Ông cũng cầu-nguyện cho họ (Côl 14:12-13) để họ trưởng-thành trong Chúa Giê-xu Christ.
Khi có nguy hiểm đe dọa các thành-viên của Hội thánh, Ê-pháp-ra đã đến Rô-ma để xin lời khuyên bảo của Phao-lô. Ông yêu mến các tín-đồ của mình nên muốn bảo vệ họ đối với các tà-giáo có thể hủy hoại mối thông-công và ngăn trở sự phát triển thuộc-linh của họ.
Từ ngữ môn-đệ đã được tìm thấy hơn 260 lần trong các sách Phúc-Âm và Công-vụ, còn động từ được dịch ra là “học tập như người môn-đệ” thì được tìm thấy 25 lần trong Tân-ước. Vào thời đó, một môn-đệ không phải là một người chỉ biết ngồi xuống để lắng nghe một vị giáo-sư. Người ấy cùng sống chung với vị giáo-sư và học tập bằng cách lắng nghe, nhìn xem, và sống như vị giáo-sư ấy nữa.
Làm môn-đệ đòi hỏi nhiều hơn là chỉ ghi danh vào một trường học rồi đến đấy để nghe thuyết-giảng. Nó có nghĩa là học tập bằng cách sống. Có lẽ các sinh-viên ngành Y hay những người tập-sự làm thương nghiệp của chúng ta ngày nay mới gần với thí-dụ minh-họa cho ý nghĩa của thân phận người môn-đệ đời xưa.
Nhưng chúng ta là những người đào tạo các tín-hữu khác để họ trở thành môn-đệ Chúa phải cẩn thận đừng gây trở ngại trên đường đi của họ. Không phải chúng ta tự đào tạo môn-đệ cho chính mình, mà cho Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta phải đưa họ đến liên-hệ với Ngài để họ yêu mến và vâng-lời Ngài.
Ê-pháp-ra đã trung-tín dạy bảo các tín-đồ của ông và đưa họ đến với Chúa Giê-xu Christ, nhưng các giáo-sư giả chỉ đến để tìm cách “kéo các môn-đệ ra xa” (Y-sĩ Lu-ca từng cảnh cáo về vấn-đề này xem Công 20:28-30).
Bản tính con người ta thường có xu hướng muốn theo những người khác thay vì theo Đức Chúa Trời – muốn “một điều gì mới mẻ” thay vì các chân-lý căn-bản của Phúc-Âm. Bây giờ, chúng ta đến với các kết quả do nỗ lực của Ê-pháp-ra .
4. Họ đã trở thành những người trung-tín trong Đấng Christ (Côl 1:6,8)
Lời Đức Chúa Trời là hạt giống (Lu 8:11). Điều này có nghĩa là trong Lời Đức Chúa Trời có sự sống (Hêb 4:2). Khi nó được gieo-trồng trong lòng, nó sẽ kết quả. “Phúc-Âm đó ở giữa anh em cũng như ở trong cả thế-gian... đang kết quả và tăng-trưởng...” (Côl 1:6 bản NIV).
Gần nhà ga King’s Cross ở Luân-đôn, Anh quốc, có một nghĩa địa chỉ có một ngôi mộ duy nhất của Lady Ann Grimston vốn là môn-đồ phái Bất khả-tri luận (agnostic). Bà ta được an táng trong một phần mộ bằng cẩm thạch, đánh dấu bằng một tấm mộ bia cẩm thạch. Trước khi qua đời, bà ta đã cay cú nói với một bạn thân: “Tôi sẽ vẫn sống cũng chắc chắn như có một cội cây sẽ mọc lên từ thân thể tôi”.
Lady Ann Grniston là một người vô tín nên không tin là còn có sự sống sau khi chết. Tuy nghiên, đã có một cội cây mọc lên từ ngôi mộ của bà ta! Một hạt giống nhỏ bé đã đâm rễ và tăng-trưởng, làm nứt phiến cẩm thạch và thậm chí còn xé rách miếng kim khí làm hàng rào để ăn sâu xuống nên đất nữa! Trong hạt giống, có sự sống và năng lực, trong Lời Đức Chúa Trời cũng có sự sống và quyền-năng!
Khi Lời Đức Chúa Trời đã được gieo-trồng và chăm-sóc, nó sẽ kết quả. Đức-tin, hy vọng và tình yêu vốn là những trái đầu mùa trong mùa gặt thuộc-linh. Các ân-tứ thuộc-linh này thuộc về số các chứng-cứ hiển nhiên cho thấy một người đã thật sự được tái-sinh (ITês 1:3; Rô 5:1-4; Hêb 6:9-12; Êph 1:13-15; IPhi 1:3-9).
Đức-tin đến là nhờ người ta nghe Lời Đức Chúa Trời (Rô 10:17). Đời sống Cơ-đốc của chúng ta bắt đầu nhờ đức tin cứu-rỗi, nhưng đây mới chỉ là khởi điểm mà thôi.
Chúng ta học tập để bước đi bởi đức-tin (IICôr 5:7) và làm việc bởi đức-tin (ITês 1:3). Chính đức-tin ban quyền-năng cho lời cầu-nguyện (Lu 17:5-6). Đức-tin là cái thuẫn bảo vệ chúng ta khỏi các tên lửa của Sa-tan (Êph 6:16).
Tình yêu là một bằng-chứng khác nữa của sự cứu-rỗi thật, vì người không được cứu thì chủ yếu tự bọc kín trong chính mình (Êph 2:1-3). Sự kiện những người này yêu mến toàn thể các thánh-đồ minh-chứng rằng Đức Chúa Trời đã biến đổi họ và ban cho họ sự sống đời-đời.
Tình yêu của Cơ-đốc nhân không phải là một cảm xúc hời hợt mà chúng ta tạo ra, nhưng là công-tác của Đức Thánh Linh thực hiện trong lòng chúng ta (Côl 1:8; Rô 5:5).
Nên chú ý Côl 1:8 là câu duy nhất trong cả thư tín này đề cập Đức Thánh Linh, và đó là trong mối liên-hệ với tình yêu.
Tình yêu do Thánh Linh ban cho này dành cho “toàn thể các thánh-đồ” (Côl 1:4) chớ không phải chỉ cho những người thuộc phạm vi có sự thông-công với họ mà thôi. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta cũng cần nhận thấy tính cách bao la rộng lớn của tình yêu của Đức Chúa Trời để chia sẻ nó với toàn thể các thánh-đồ (Êph 3:17-19).
Các Cơ-đốc nhân phải “liên hiệp với nhau trong tình yêu” (Côl 2:2) để thật sự hợp nhất với nhau về phương diện thuộc-linh vì sự vinh-hiển của Đức Chúa Trời. Sợi dây liên kết chúng ta là tình yêu (Côl 3:14). Đồng nhất là kết quả của sự thôi thúc từ bên ngoài hợp nhất là kết quả của tình thương từ bên trong.
Hy vọng cũng là một đặc điểm của người tín-hữu. Người không được cứu sở dĩ không có hy vọng vì họ không có Đức Chúa Trời (Êph 2:11-12). Những người ở ngoài Đấng Christ thì tuyệt vô hy vọng (ITês 4:13). Trong Thánh Kinh, hy vọng không có nghĩa là “mong rằng”.
Hy vọng của chúng ta trong Đấng Christ cũng dứt khoát và chắc chắn như đức tin đặt vào Đấng Christ của chúng ta vậy. Vì Đấng Christ đang ngự ngay trong lòng chúng ta, cho nên chúng ta có “hy vọng (sự trông cậy) về vinh hiển” (Côl 1:27).
Các giáo-sư giả tìm cách gây xáo trộn trong các tín-hữu người Cô-lô-se để đưa họ xa rời niềm hy vọng của Phúc-Âm (Côl 1:23). Nhưng Phao-lô vạch rõ rằng niềm hy vọng ấy đã được “để dành” cho các tín-hữu trên thiên-đàng (Côl 1:5).
Từ ngữ được dịch ra là “để dành” hàm ý “được giữ lại, được để qua một bên dành cho một người nào đó”.
Nó được dùng chỉ số tiền bạc dành dụm hoặc cất giấu. Thì của động từ chỉ cho thấy niềm hy vọng chỉ có một lần đủ cả này được để dành, sao cho chẳng có gì cướp được nó khỏi chúng ta.
Chẳng những niềm hy vọng này (di sản quang-vinh về vinh-hiển của chúng ta) đã được “để dành” cho chúng ta, mà chúng ta còn được quyền-năng của Đức Chúa Trời gìn giữ để chắc chắn sẽ được hưởng cảnh thiên-đàng một ngày gần đây! (Phi 1:1-5).
Chúng ta đã được bảo vệ để được vinh-hiển!
Đâu là mối liên-hệ giữa đức-tin, hy vọng và tình yêu? Chắc chắn là nếu chúng ta càng yêu ai, thì sẽ càng tin-cậy người ấy nhiều thêm. Chúng ta không hề tin-cậy một người tình cờ quen biết theo cùng một mức-độ mà chúng ta tin-cậy một người bạn thân tín.
Càng nhận biết Đức Chúa Trời nhiều hơn, chúng ta sẽ càng tin-cậy và yêu mến Ngài nhiều hơn. Tình yêu và đức-tin khích-lệ lẫn nhau.
Nhưng hy vọng còn có một phần đóng góp càng có nhiêu giá trị hơn. Ơ đâu có mối liên-hệ giữa đức-tin và tình yêu, thì sẽ có hy vọng ngày càng tăng-trưởng. Khi một người nam và một người nữ phải lòng nhau và học tập để tin-cậy nhau trong tình yêu ấy, thì tương lai của họ bao giờ cũng trở nên tươi sáng hơn.
Thật vậy, Phao-lô dạy rằng hy vọng là một năng lực thúc đẩy tình yêu và đức-tin: “...đức-tin và tình yêu nảy sinh từ niềm hy-vọng đã được để dành cho anh em trên thiên-đàng” (Côl 1:5 bản NIV).
Hy vọng phước hạnh được nhìn thấy Đấng Christ và lên thiên đàng để được ở đó với Ngài là một sức mạnh diệu kỳ trong đòi sống Cơ-đốc nhân. Một khi chúng ta đã nhận thức được niềm vui là mình sẽ được lên thiên-đàng, thì nó sẽ khiến chúng ta càng yêu mến Ngài hơn. Sự kiện chúng ta biết mình sẽ được ở với Ngài trong vinh-quang khích-lệ chúng ta càng tin cậy Ngài hơn. Cả đến các vấn-đề và thử thách trên đất này cũng không thể đẩy chúng ta xa rời niềm hy vọng đó.
Tôi nhận thấy rằng viễn ảnh về một tương lai hạnh phúc có cách để khiến người ta càng yêu mến nhau hơn. Có bao giờ bạn quan sát đám trẻ con ngay trước ngày lễ Chúa Giáng Sinh hay một kỳ nghỉ hè cho cả gia đình không? Lời-hứa tươi sáng về thiên-đàng khích-lệ đức-tin chúng ta và mở rộng tình yêu của chúng ta. Rồi đức-tin và tình yêu cùng cộng tác với nhau để khiến cho hiện tại càng vui vẻ hơn và tương lai càng phấn khởi hơn.
Chia-rẽ và bất hòa giữa các Cơ-đốc nhân thật là thảm hại. Tôi không gợi ý là toàn thể chúng ta sẽ họp lại với nhau để trở thành một “siêu Hội thánh”, nhưng cảm thấy rằng giữa những người thuộc về Đức Chúa Trời, có thể có tình yêu và sự thông-cảm nhau càng nhiều hơn.
Sự kiện chúng ta sẽ cùng nhau sống chung trên thiên-đàng đáng lẽ phải khuyến khích chúng ta yêu thương nhau dưới đất này. Đây là một trong những lý-do khiến Đấng Christ đã ban-cho chúng ta sự vinh-hiển của Ngài.
“Con đã ban cho họ sự vinh-quang mà Cha đã ban cho Con, để hiệp làm một cũng như chúng ta vẫn là một” (Gi 17:22).
Như một thi-sĩ đã viết:
Được sống trên trời, cùng với các thánh-đồ chúng ta yêu, Chắc chắn sẽ rất quang-vinh.
Còn sống dưới đất này, với các thánh-đồ chúng ta biết,
Vâng, đó lại là một chuyện khác!
Niềm hy vọng được nhìn thấy Đấng Christ và lên thiên-đàng không những chỉ là một động cơ thúc đẩy đức-tin và tình yêu, mà còn là động cơ thúc đẩy cho nếp sống thánh-khiết nữa.
“Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch” IGi 3:3 “Lúc tôi hãy còn là một Cơ-đốc nhân trẻ tuổi, một bạn thân lớn tuổi hơn đã cảnh cáo tôi” Đừng làm một việc gì có thể làm cho cậu lúng túng nếu Chúa Giê-xu tái lâm”.
Đúng hơn thì đây là một quan-điểm tiêu cực của lời-hứa về thiên-đàng, tuy nó cũng có một vài điểm tốt. Thật vậy, Giăng cảnh cáo chúng ta rằng nếu chúng ta không cứ ở trong Đấng Christ (giữ mối thông-công với Ngài bằng sự vâng-lời), chúng ta có thể sẽ phải xấu hổ khi Ngài trở lại (IGi 2:28).
• Nhưng chân-lý này còn có mặt tích cực của nó.
Chúng ta phải giữ cho đời sống mình thanh-sạch để khi Chúa Giê-xu trở lại, sẽ chẳng có gì che mờ lần gặp gỡ đầu của chúng ta với Ngài. Chúng ta sẽ bước vào trong niềm vui và vinh-quang của hiện diện Ngài với lòng tin-quyết và tình yêu! Phi-e-rơ gọi đó là “việc được cho và cách rộng rãi trong nước đời-đời” (IIPhi 1:11).
Niềm hy vọng về thiên-đàng cũng là một khích-lệ trong lúc chịu-khổ (IPhi 1:4-9). Là tín-hữu, chúng ta đều có phần trong sư đau-khổ, nhưng giữa các cơn thử-thách, chúng ta có thể vui mừng “không xiết kể và đầy vinh-hiển” (IPhi 1:8).
Khi những người không tin Chúa gặp đau-khổ, họ thất vọng và muốn buông xuôi. Nhưng khi các Cơ-đốc nhân chịu-khổ, đức-tin họ có thể trở thành mạnh mẽ hơn và tình yêu của họ sâu đậm thêm vì niềm hy vọng của họ càng chói sáng hơn.
Làm thế nào để chúng ta biết mình có niềm hy vọng đó? Lời hứa đã được ban cho trong “Phúc-Âm chân thật” (Côl 1:5). Các tín-hữu chúng ta không cần phải “tự tạo lấy”một cảm thức tốt đẹp cho niềm hy vọng của mình. Lời bất biến của Đức Chúa Trời đoan quyết với chúng ta rằng niềm hy vọng của chúng ta đã được bảo-đảm trong Chúa Giê-xu Christ. Thật vậy, niềm hy vọng ấy đã được ví sánh với một chiếc neo (Hêb 6:19) chẳng bao giờ bị đứt bị vỡ hoặc trôi đi.
Cho nên chẳng có gì để lấy làm lạ khi Phao-lô cảm-tạ Đức Chúa Trời thay cho các tín-hữu Cô-lô-se! Đức Chúa Trời đã ban cho Phao-lô nhiều “phép-lạ đặc biệt” tại Ê-phê-sô (Công 19:11). Nhưng chẳng hề có phép-lạ nào lớn hơn sự cứu-rỗi người tội-lỗi hư-vong. Nhờ lời-chứng trung-tín của Ê-pháp-ra, Đức Chúa Trời đã làm nhiều phép-lạ của ân-điển Ngài tại Cô-lô-se.
Bạn đã từng-trải phép-lạ của sự cứu-rỗi chưa? Nếu đã có rồi, hãy cứ tiếp tục tăng-trưởng và kết quả cho Chúa. Cùng một Lời đã ban sự sống cho bạn lúc bạn tin-cậy Đấng Christ, cũng sẽ tiếp tục nuôi-dưỡng sự sống ấy khiến bạn trở thành một Cơ-đốc nhân trung-tín có kết quả.
Đã có “phép-lạ Phúc-Âm của Ân-điển” nào xảy ra tại nơi bạn đang sinh sống chưa?
3. LỜI CẦU-NGUYỆN CỦA MỘT TÙ-NHÂN (Co 1:9-12)
Những lời cầu-nguyện trong các bức thư trong tù của Phao-lô chắc chắn là có một không hai. Để bắt đầu, ông cầu-nguyện cho người khác, chớ không phải là cho chính ông.
Những lời cầu xin của ông chú trọng vào các phước hạnh thuộc-linh, chớ không phải là về các vấn-đề vật chất hay thuộc-thể. Lẽ dĩ nhiên, cầu xin cho các nhu-cầu vật chất hay thuộc-thể thì không phải là sai. Nhưng các nhu-cầu thuộc-linh còn quan-trọng hơn rất nhiều.
Bạn làm thế nào để cầu-nguyện cho một nhóm người mình chưa hề trông thấy? Tất cả những gì Phao-lô biết được về các tín-hữu Cô-lô-se thì ông đều biết nhờ vị mục-sư trung-tín của họ là Ê-pháp-ra. Phao-lô biết các tà-giáo đang đe dọa Hội thánh, cho nên ông tập trung cầu-nguyện cho vấn-đề ấy. Trong bài cầu-nguyện của mình, Phao-lô đã xin 3 điều.
1. Ông cầu xin cho họ được trí khôn thuộc-linh (Côl 1:9)
Các giáo-sư giả hứa với các tín-hữu người Cô-lô-se rằng họ sẽ “thông biết” nếu họ tin nhận các giáo-thuyết mới. Những từ ngữ như kiến-thức, khôn-ngoan và sự thông-hiểu thuộc-linh đều thuộc về ngôn ngữ tôn-giáo của họ cho nên Phao-lô đã dùng các từ ngữ này trong bài cầu-nguyện của ông.
Sa-tan rất giỏi lừa dối! Nó thích vay mượn từ vựng Cơ-đốc, nhưng lại không dùng từ điển Cơ-đốc! Từ rất lâu trước khi các giáo-sư giả dùng các từ ngữ này, chúng vốn thuộc về từ vựng của Cơ-đốc giáo.
Nhóm từ “cho nên” nối liền bài cầu-nguyện ở đây với những gì Phao-lô đã viết trong câu Côl 6: “... đã học cho thật biết ơn đó (của Đức Chúa Trời)”.
Bảng tường trình của Ê-pháp-ra giúp Phao-lô biết chắc rằng các tín-hữu này quả thật đã biết Đấng Christ và đã được tái-sinh. Nhưng hãy còn rất nhiều điều để học hỏi từ Ngài và về Ngài Phao-lô ngụ ý bảo rằng: “Anh em chẳng cần một từng-trải thuộc-linh mới mẻ nào nữa cả. Anh em chỉ cần tăng-trưởng trong từng-trải mà anh em đã có rồi mà thôi”.
Khi một người được sinh ra trong gia đình Đức Chúa Trời nhờ tin Chúa Giê-xu Christ, thì người ấy đã được sinh ra với tất cả những gì là cần thiết để tăng-trưởng và trưởng-thành. Luận-đề của thư Cô-lô-se là: “Anh em đã nhờ Ngài mà có được đầy-dẫy mọi sự” (Côl 2:10). Chẳng còn một từng-trải cần thiết nào khác hơn là sự tái-sinh. Phao-lô cảnh cáo Hội thánh. “Đừng trông-mong một điều gì mới mẻ. Hãy tăng-trưởng trong những gì anh em đã nhận được từ lúc bắt đầu” (do tác-giả diễn ý).
Mỗi một tín-hữu đều cần có “sự hiểu biết về ý muốn của Ngài”. Từ ngữ Hy-văn được dịch ra là sự hiểu biết trong câu này hàm ý “kiến-thức đầy đủ”. Bao giờ cũng có điều cần phải học biết thêm về Đức Chúa Trời và ý chỉ Ngài cho đời sống của chúng ta. Chẳng hề có một Cơ-đốc nhân nào lại dám nói rằng mình đã “đạt” và chẳng cần phải học hỏi thêm gì nữa cả.
Cũng như một sinh-viên năm nhất đại học nộp bản tường trình dài 10 trang giấy của mình về “Lịch-sử của vũ trụ”, người Cơ-đốc nhân ấy chỉ có thể công bố sự dốt nát của mình mà thôi.
Ý chỉ Đức Chúa Trời là một phần quan-trọng cho sự thành công của đời sống một Cơ-đốc nhân. Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết rõ ý chỉ Ngài (Công 22:14) và hiểu rõ nó (Êph 5:17). Đức Chúa Trời không phải là một nhà độc tài ở xa, chỉ ra lệnh mà chẳng cần phải giải thích, vì chúng ta là bạn hữu Ngài, nên có thể biết việc Ngài làm và tại sao Ngài lại làm như thế (Gi 15:13-15).
Trong khi học hỏi nghiên-cứu Lời Ngài và cầu nguyện, chúng ta khám phá được nhiều chân-lý mới mẻ và phấn khởi liên-hệ đến ý chỉ của Đức Chúa Trời đối với người thuộc về Ngài.
Từ ngữ đầy dẫy là chữ chìa khoá trong sách Cô-lô-se. Nó cũng là một chữ then chốt trong những lời chỉ-giáo của các giáo-sư giả đã xâm nhập Hội thánh Cô-lô-se.Phao-lô đã dùng nó nhiều lần (Côl 1:19,25; Côl 2:2,9,10; Côl 4:12,17 (toàn-vẹn: được đổ thật đầy).
Từ ngữ này hàm ý được trang bị hoàn toàn đầy đủ. Nó được dùng để mô tả một chiếc tàu đã sẵn sàng cho một chuyến đi. Trong Đấng Christ, người tín-hữu có tất cả những gì cần thiết cho chuyến đi của cuộc đời.
“Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy-dẫy mọi sự” (Côl 2:10)
“Do ân phúc đầy-dẫy của Đấng Christ, chúng tôi được hưởng hạnh phúc ngày càng dư dật” (Gi 1:16).
Theo ngôn ngữ Tân-ước, được đầy-dẫy có nghĩa là “được cai-trị kiểm soát bởi” Khi nào chúng ta đầy-dẫy giận dữ, là chúng ta bị cơn giận dữ cai-trị kiểm soát. Được “đầy-dẫy Đức Thánh Linh” (Êph 5:18) có nghĩa là “bị Đức Thánh Linh cai-trị kiểm soát”. Vậy, lời cầu-nguyện của Phao-lô là xin kiến-thức đầy đủ về ý chỉ Đức Chúa Trời cai-trị kiểm soát các tín-hữu này.
Nhưng việc ấy xảy ra như thế nào? Làm thế nào để các tín-hữu có thể tăng-trưởng trong sự hiểu biết đầy đủ ý chỉ của Đức Chúa Trời? Mấy lời kết thúc câu 9 của Phao-lô cho chúng ta biết: “nhờ mọi sự khôn-ngoan và thông-tuệ (insight) thuộc-linh” (dịch đúng nghĩa đen). Chúng ta hiểu rõ ý chỉ Đức Chúa Trời thông qua Lời Ngài. Đức Thánh Linh dạy bảo chúng ta khi chúng ta chịu đầu-phục Ngài (Gi 14:26; Gi 16:13).
Khi nào chúng ta cầu-nguyện và thành thật tìm hiểu chân-lý của Đức Chúa Trời, thì thông qua Đức Thánh Linh, Ngài ban cho ta Linh của sự khôn-ngoan và cái nhìn thông-tuệ mà chúng ta có cần (Êph 1:17).
Ý chỉ tổng quát của Đức Chúa Trời đối với toàn thể con cái Ngài đã được Thánh Kinh cho biết rõ ràng. Còn ý chỉ đặc thù (cụ thể) cho một hoàn cảnh nào đó thì bao giờ cũng phải nhất trí với điều Ngài đã mạc khải trong Lời Ngài. Càng biết rõ ý chỉ tổng quát của Đức Chúa Trời bao nhiêu, chúng ta sẽ càng dễ dàng xác định được sự chỉ dẫn đặc thù của Ngài trong sinh hoạt hằng ngày bấy nhiêu.
Phao-lô không khích-lệ người Cô-lô-se tìm cầu các khải-tượng hay chờ nghe những tiếng phán dạy. Ông cầu nguyện để họ được biết sâu-nhiệm hơn Lời Đức Chúa Trời, do đó được khôn-ngoan và có cái nhìn thông tuệ hơn vào Lời Đức Chúa Trời, liên quan đến ý chỉ Ngài. Ông muốn họ có “đủ thứ khôn-ngoan” – không phải là muốn họ biết hết mọi sự, nhưng có đủ khôn-ngoan cần thiết để đưa ra các quyết định và sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Trí-khôn thuộc-linh là khởi điểm của một đời sống Cơ-đốc thành công, có kết quả. Đức Chúa Trời không hề đặt sự dốt nát lên hàng đầu. Có lần tôi nghe một nhà truyền-đạo nói: “Tôi chưa bao giờ đến trường học. Tôi chỉ là một Cơ-đốc nhân dốt nát, và rất vui vì thế”.
Không phải người ta nhờ đến trường học mà được sự khôn-ngoan thuộc-linh nhưng cũng đừng bao giờ nên đề cao sự “dốt nát” của mình.
Các vĩ-nhân của Đức Chúa Trời như Charles Spurgeon, G.Campbell Morgan, và H.A.Ironside đều chưa được đặc ân được đào-tạo chính thức về Thánh Kinh. Nhưng các vị vốn là các học-giả tận hiến cho Lời Đức Chúa Trời, học hỏi các chân-lý sâu-nhiệm qua nhều giờ nghiên-cứu, suy gẫm, và cầu-nguyện.
Bước đầu tiên hướng tới một đời sống đầy đủ là trí-khôn thuộc-linh – tức là tăng-trưởng trong ý chỉ Đức Chúa Trời nhờ thông-biết Lời Ngài.
2. Ông cầu xin để họ thực tập vâng-lời (Côl 1:10)
Các giáo-sư giả tại Cô-lô-se hấp dẫn người ta bằng đề nghị ban “kiến-thức thuộc-linh”, nhưng họ không liên kết được kiến thức ấy với đời sống. Trong sinh hoạt Cơ-đốc, kiến-thức và sự vâng-lời đi đôi với nhau.
Không có phân cách giữa học với hành, biết và sống. Sự khôn-ngoan mà Phao-lô xin ở đây không phải chỉ đơn giản là sự khôn-ngoan của trí não về các chân-lý sâu-nhiệm (Côl 1:28; Côl 2:3; Côl 3:16; Côl 4:5). Sự khôn-ngoan thuộc-linh đích thực phải ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày. Khôn-ngoan và trí-khôn thực tiễn phải đi đôi với nhau (Xu 31:3; Phuc 4:6; ICôr 1:19).
Trong chức-vụ làm mục-sư của mình, tôi từng gặp nhiều người bị việc “nghiên-cứu các chân-lý sâu-nhiệm hơn của Thánh Kinh” đầu độc. Họ thường được cấp cho một quyển sách hay giới thiệu một cuộn băng ghi âm của một vị giáo-sư nào đó.
Chẳng bao lâu, họ bị mê hoặc đến độ trở thành một người câm! Các “chân-lý sâu-nhiệm hơn mà họ phát giác được chỉ khiến họ xây khỏi nếp sống thực tế của một Cơ-đốc nhân.
Thay vì có được những tấm-lòng như bị nung đốt để tận hiến cho Đấng Christ (Lu 24:32), họ lại có những cái “đầu thật to” và bắt đầu tạo ra nhiều vấn-đề trong gia đình và Hội thánh. Tất cả các chân-lý trong Thánh Kinh đều thực tiễn, chớ không phải chỉ là lý-thuyết. Nếu muốn tăng-trưởng về kiến-thức, chúng ta phải tăng-trưởng trong ân-điển (IIPhi 3:18).
Có 2 từ ngữ tóm tắt tính cách thực tiễn của đời sống Cơ-đốc: bước đi và làm việc. Thứ tự trước sau của hai sự việc này rất quan-trọng.
(1) Thứ nhất: khôn-ngoan rồi bước đi rồi làm việc.
Tôi không thể làm việc cho Đức Chúa Trời nếu chưa bước đi trong Ngài nhưng tôi không thể bước đi trong Ngài nếu chẳng biết gì về ý chỉ Ngài cả.
-Người tín-hữu dành thì giờ hằng ngày để đọc Lời Chúa và cầu-nguyện (Công 6:4) sẽ biết được ý chỉ Ngài, có thể bước đi với Ngài và làm việc cho Ngài.
Dù sao thì chủ đích của đời sống chúng ta không phải là làm đẹp lòng chính mình, nhưng là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta phải bước đi xứng đáng với chức-phận mà Chúa đã gọi chúng ta (Êph 4:1) và xứng đáng với Phúc-Âm (Phi 1:27) nghĩa là chúng ta phải bước đi xứng đáng cho Đức Chúa Trời (ITês 2:12). Tóm lại, chúng ta phải bước đi để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (ITês 4:1).
Không phải là chúng ta làm việc cho Đức Chúa Trời chính Đức Chúa Trời đang hành động trong và qua chúng ta để sinh ra trái của ân-điển Ngài (Phi 2:12-13). Sự phục vụ của Cơ-đốc nhân là kết quả của sự tận hiến của người ấy. Công-tác chúng ta đang sống. Chính nhờ ở trong Đấng Christ mà chúng ta có thể kết quả (Gi 15:1tt).
Đức Chúa Trời phải tạo nên người công-nhân trước khi đề ra một công-tác. Đức Chúa Trời đã dành 13 năm chuẩn bị Giô-sép cho chức-vụ của ông tại Ai-cập, và 80 năm chuẩn bị Môi-se để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.
Chúa Giê-xu đã dành 3 năm dạy dỗ các môn-đồ về phương pháp để kết quả, còn vị sứ-đồ có học vấn là Phao-lô thậm chí còn cần “một giáo trình hậu tốt nghiệp” tại A-ra-bi trước khi có thể phục-vụ có kết quả cho Đức Chúa Trời. Một hài nhi sơ sinh chỉ có thể là khóc và cho mọi người biết sự hiện diện của mình, nhưng không thể làm việc được.
Một Cơ-đốc nhân mới tin Chúa có thể làm chứng-đạo và thậm chí đưa người khác đến với Chúa nữa – nhưng cần phải được dạy dỗ để biết bước đi và học tập sự khôn-ngoan của Đức Chúa Trời trước khi được đặt vào một chức-vị có trách-nhiệm trong chức-vụ.
Sự khôn-ngoan của Đức Chúa Trời chỉ cho người ta biết ý chỉ Ngài. Khi chúng ta vâng theo ý chỉ Ngài lúc bước đi, chúng ta có thể làm việc cho Ngài và kết quả. Không phải chúng ta chỉ tình cờ phục-vụ Đức Chúa Trời mà thôi chúng ta phải “nảy ra (kết quả) đủ các việc lành” (Côl 1:10).
Nhưng còn có một phó phẩm phước hạnh của từng-trải này: “càng thêm lên (tăng-trưởng) trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời” (c.10). Trong khi chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời và làm việc cho Ngài, chúng ta sẽ càng được biết Ngài rõ ràng thêm.
Đời sống Cơ-đốc của chúng ta rất cần được thăng-bằng. Chắc chắn chúng ta sẽ biết Đức Chúa Trời càng hơn khi cầu-nguyện trong phòng riêng và suy gẫm Lời Ngài. Nhưng chúng ta càng được biết Ngài càng hơn khi cùng bước đi với Ngài trong sinh hoạt hằng ngày và làm việc để đưa nhiều người khác đến với Chúa và giúp đỡ những người thuộc về Ngài.
Thờ-phượng và phục-vụ không có tính cách tranh đua. Chúng luôn luôn đi đôi với nhau. Lúc phục-vụ tại thế, Chúa chúng ta thường rút lui vào nơi yên tĩnh để cầu-nguyện – rồi Ngài lại ra đi để phục-vụ. Chúng ta cần tránh các thái-cực của thần-bí chủ nghĩa không thực tiễn, và thái-độ hăng hái theo xác thịt.
Trong khi dành thì giờ sống riêng với Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ biết rõ Ngài và ý chỉ Ngài cho đời sống chúng ta, và khi cùng đi ra với Ngài, chúng ta sẽ càng học biết được nhiều hơn.
Vâng-lời thực tế có nghĩa là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, phục-vụ Ngài và biết Ngài ngày càng rõ ràng hơn. Bất luận một giáo-lý nào cô lập hóa người tín-hữu với các nhu-cầu của thế giới chung quanh người ấy, đều không phải là giáo-lý thuộc-linh.
Nhà truyền-đạo D.C.Moody thường nói: “Tất cả các quyển Thánh Kinh đều phải được bọc bằng da giày”.
Chắc Phao-lô cũng đồng ý như thế.
Phao-lô đã cầu-nguyện để chúng ta có được sự khôn-ngoan thuộc-linh, và trí-khôn ấy có thể tạo ra kết quả là sự vâng-lời thực tiễn. Nhưng hãy còn một điều cầu xin thứ ba nữa để hoàn tất 2 điều trên đây và nếu thiếu nó, đời sống Cơ-đốc sẽ không thể trưởng-thành.
3. Ông cầu xin để họ có đức hạnh tuyệt vời (Côl 1:11-12)
Khôn-ngoan và cách ăn ở cư xử luôn luôn liên-hệ với đức hạnh. Một trong những vấn-đề quan-trọng trong thế giới Phúc-Âm của chúng ta ngày nay là nhấn mạnh trên “sự hiểu biết thuộc-linh” và “sự phục-vụ của Cơ-đốc giáo” nhưng lại không kết hợp các vấn-đề quan-trọng đó với cá tính con người.
Thí-dụ, có một số giáo-sư và nhà truyền-đạo rêu rao rằng họ có sự khôn-ngoan của Đức Chúa Trời, thế nhưng họ lại thiếu tình yêu thương, tử tế, và nhiều đức tính cơ bản khác nữa vốn khiến cho đời sống Cơ-đốc nhân trở thành đẹp đẽ và phân biệt.
Thậm chí có một số Cơ-đốc nhân giỏi chinh-phục linh-hồn người ta “lại quá bận rộn phục-vụ Đức Chúa Trời đến nỗi không chịu dành thì giờ để kiểm điểm lại các sự kiện, khiến cho những điều họ công bố chỉ là những lời nói dối về các Cơ-đốc nhân khác.”
Mấy tháng trước đây, tôi có đọc một tờ báo tôn-giáo. Nhưng khi khám phá ra rằng họ không có mục “Thư gởi chủ bút” (ngoại trừ chỉ để đăng những bức thư ca tụng), và họ chẳng bao giờ cho in một bản đính chính hay một lời xin lỗi nào về một lỗi lầm cả, tôi đã thôi không đọc tạp chí ấy nữa.
Kiến-thức, cách ăn ở ứng xử, sự phục-vụ và cá tính phải song hành với nhau. Chúng ta biết rằng ý chỉ của Đức Chúa Trời là muốn cho chúng ta tuân thủ ý chỉ ấy và khi vâng-theo như thế, là chúng ta phục-vụ Ngài và tăng trưởng trong cá tính Cơ-đốc nhân.
Tuy chẳng hề có ai trong chúng ta đạt được thế cân-bằng trọn-vẹn trong 4 yếu tố này chúng ta cần phải phấn đấu để đạt thế cân-bằng đó.
Năng-lực của chúng ta là do Đức Chúa Trời ban cho.
Thật vậy, câu 11 chép “nhờ quyền phép vinh hiển Ngài, được có sức mạnh mọi bề”. Phao-lô đã dùng 2 từ ngữ Hy-văn khác nhau để chỉ năng-lực của Đức Chúa Trời: dunamis (từ đó chúng ta có từ ngữ dynamite: cốt mìn) nghĩa là “nội lực”, và kratos nghĩa là “quyền-năng bộc lộ”, tức là phần năng-lực được biểu hiện bằng hành động.
Ân-tứ của đời sống Cơ-đốc của chúng ta chỉ là quyền-năng của Đức Chúa Trời vận hành trong đời sống chúng ta. Sự tăng-trưởng và trưởng-thành thuộc-linh chỉ có thể có được khi chúng ta đầu-phục quyền-năng của Đức Chúa Trời và để cho Ngài hành động trong chúng ta.
Chúng ta thường nghĩ về quyền-năng quang-vinh của Đức Chúa Trời được biểu hiện trong các biến cố vĩ đại, táo bạo – việc dân Y-sơ-ra-ên vượt Hồng hải, Đa-vít lãnh đạo một đạo quân chiến thắng, hay Phao-lô khiến kẻ chết sống lại. Nhưng điểm nhấn mạnh ở đây là trên bản chất Cơ-đốc: kiên-nhẫn, nhịn-nhục, vui-mừng và cảm-tạ.
Các chiến thắng nội tâm của linh-hồn cũng vĩ đại như thế, nếu không nói là còn vĩ đại hơn các chiến thắng cũng khác đã được ghi vào các niên giám và trở thành sử-ký.
Với Đa-vít, việc kiểm soát được cơn phẫn nộ lúc bị Si-mê-i sỉ nhục, còn quan-trọng hơn chiến công của ông lúc giết được Gô-li-át (IISa 16:5-13) nữa “Người chậm nóng giận thắng hơn người dõng sĩ, và ai cai-trị lòng mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành” (Ch 16:32)
(1) Từ ngữ kiên-nhẫn có nghĩa là “chịu-đựng khi gặp hoàn-cảnh khó khăn”. Nó phản nghĩa với ngã lòng thối chí. Từ ngữ này chẳng bao giờ được dùng liên-hệ với Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời chẳng bao giờ gặp hoàn-cảnh khó khăn. Với Đức Chúa Trời thì chẳng có gì là bất khả thi (Giê 32:27).
Kiên-nhẫn là một đặc điểm quan-trọng của đời sống Cơ-đốc trưởng-thành.
Nếu chúng ta không học tập để biết kiên-nhẫn, có thể chúng ta cũng sẽ chẳng học tập được gì khác nữa cả. Là tín-hữu, chúng ta có thể vui-vẻ cả khi gặp hoạn-nạn, vì biết rằng “Nào những thế thôi, nhưng chúng ta cũng khoe mình trong hoạn-nạn nữa, vì biết rằng hoạn-nạn sanh sự nhịn-nhục, sự nhịn-nhục sanh sự rèn tập, sự rèn tập sanh sự trông-cậy” (Rô 5:3,4).
Xin đừng bao giờ nghĩ rằng kiên-nhẫn là tự mãn. Kiên-nhẫn là nhẫn-nại trong hành động. Sự việc không phải là Cơ-đốc nhân ngồi trên chiếc ghế xích đu, chờ cho Đức Chúa Trời hành động. Đó là người chiến binh ngoài mặt trận tiếp tục chiến đấu khi chiến trận trở nên cam go. Đó là người lực-sĩ điền kinh trên đường đua, không chịu dừng lại vì muốn thắng cuộc (Hêb 12:1).
Có quá nhiều Cơ-đốc nhân có khuynh hướng muốn bỏ cuộc khi tình hình trở nên khó khăn.
Tiến-sĩ V.Raymond Edman, cố hiệu trưởng Trường Đại học Wheaton (Illinois) vốn là người có đời sống thánh-thiện, thường nhắc nhở các sinh-viên: “Bây giờ cũng còn là quá sớm để bỏ cuộc”.
Tôi thường nghĩ đến câu này khi tự thấy mình đang ở giữa hoàn-cảnh chịu thử thách. Chiến thắng được bảo đảm không phải là bằng tài năng hay nhờ được đào tạo huấn luyện, mà là nhờ kiên-nhẫn.
Charles Spurgeon nói: “Nhờ kiên-nhẫn mà con ốc leo được vào tàu (của Nô-ê)”.
(2) Cũng với đức kiên-nhẫn, chúng ta cần có sự nhịn-nhục.
Từ ngữ này có nghĩa là “tự chế” và là phản nghĩa của báo thù. Kiên-nhẫn có liên-hệ trước nhất với hoàn cảnh, còn nhịn-nhục liên-hệ với con người. Đức Chúa Trời sở dĩ nhịn-nhục con người vì Ngài yêu mến, muốn ban ân-điển cho họ (IIPhi 3:9).
Nhịn-nhục là một trái của Thánh Linh (Ga 5:22). Nó thuộc loại “y phục ân-điển” mà người tín-hữu phải mặc cho linh-hồn mình (Côl 3:12).
Thật đáng ngạc nhiên khi nhiều người có thể nhịn nhục chịu đựng các hoàn-cảnh thứ thách, chỉ để mất bình tĩnh với một bạn thân hay người thân yêu.
Môi-se đã nhịn-nhục trong lúc đấu tranh với Pha-ra-ôn tại Ai-cập. Nhưng ông đã mất bình tĩnh với chính dân mình, mà hậu quả là bị mất quyền vào Đất Hứa (Dân 20:1-29) “Người nào chẳng chế trị lòng mình, khác nào một cái thành hư nát, không có vách ngăn?” (Ch 25:28).
Kiên-nhẫn và nhịn-nhục sẽ đi đôi với nhau nếu chúng ta đang tăng-trưởng thuộc-linh. Phao-lô liệt kê chúng như các dấu hiệu của người phục-vụ chân-chính của Chúa Giê-xu Christ (IICôr 6:4-6).
Có điều chắc chắn là Phao-lô đã phơi bày các ân-tứ này ra trong chính đời sống ông (IITim 3:10). Tấm gương vĩ đại về kiên-nhẫn và chịu-đựng trong Cựu-ước là Gióp (Gia 5:10-11). Còn trong Tân-ước thì lẽ dĩ nhiên, đó là Chúa Giê-xu Christ.
Đức Chúa Trời làm phép-lạ trong các lãnh vực vật chất hay vật-lý (thuộc-thể) là điều hết sức dễ dàng, vì mọi sự trong cõi thọ tạo đều vâng-theo lệnh Ngài. Chúa Giê-xu đã chữa lành tai cho Man-chu, nhưng Ngài không thể tự nhiên tự động thay đổi tấm lòng của Phi-e-rơ để cất đi sự oán thù và hung bạo trong đó (Lu 22:50-51). Đức Chúa Trời có thể khiến nước chảy ra từ tảng đá, nhưng không thể bắt buộc Môi-se phải nhịn-nhục.
Một vị mục-sư thường đến thăm một thanh niên bị phỏng lửa nặng. Anh ta đã phải nằm liệt giường và phải gặp nhiều khó khăn dù chỉ để thực hiện các chức năng cơ bản của đời sống mình.
Ngày nọ, chàng thanh niên ấy nói với vị mục-sư: “Tôi mong Đức Chúa Trời sẽ làm một phép-lạ để chữa lành cho tôi”.
Ông mục-sư đáp: “Đức Chúa Trời đang làm phép-lạ đấy, nhưng không phải loại mà cậu trông-mong. Tôi đã nhận thấy là cậu biết kiên-nhẫn và tỏ ra biết điều hơn mấy tuần gần đây. Theo tôi thì đó là một phép-lạ lớn hơn cả việc chữa lành cho thân thể cậu”.
Quyền-năng của Đức Chúa Trời đã được chứng-minh rõ ràng trong đời sống chúng ta không những bằng sự kiên-nhẫn và nhịn-nhục của chúng ta, mà còn bằng sự vui-vẻ của chúng ta nữa.
Khi gặp hoàn-cảnh khó khăn, chúng ta phải bộc lộ thái-độ vui-vẻ kiên-trì, và khi cảm thấy khó sống chung với người khác, chúng ta phải tỏ thái độ vui-vẻ chịu đúng. Có một thứ kiên-nhẫn “chịu đựng nhưng không vui” Phao-lô cầu xin cho các Cơ-đốc nhân Cô-lô-se từng trải sự vui-vẻ kiên-nhẫn và nhịn-nhục.
(3) Chúng ta thường dùng hai từ ngữ vui-vẻ và hạnh phúc như những từ có thể thay thế cho nhau, nhưng thiết tưởng cần có một điểm phân biệt.
Hạnh phúc thường tùy thuộc vào những sự việc xảy ra. Nếu hoàn-cảnh đầy khích-lệ và thiên-hạ tỏ ra tử tế, chúng ta cảm thấy hạnh phúc.
Nhưng niềm vui không lệ thuộc cả hoàn-cảnh lẫn thiên hạ. Thư tín nhiều niềm vui nhất mà Phao-lô đã viết là thư Phi-líp, và ông đã viết nó trong lúc ngồi tù, trực diện với việc ông có thể chịu tuận-đạo vì niềm tin của mình.
Chỉ có Linh của Đức Chúa Trời, vận hành trong chúng ta, mới có thể ban cho chúng ta niềm vui giữa lúc chúng ta gặp nhiều vấn-đề của hoàn-cảnh và với thiên-hạ. “Trái của Thánh Linh ấy là sự vui-mừng” (Ga 5:22). Niềm vui không phải là điều tự chúng ta có thể “tạo ra”, nó là điều mà Đức Thánh Linh “vận động từ bên trong để tạo nên” – “vui vẻ bởi (bản Anh văn dịch là trong) Đức Thánh Linh” (Rô 14:17 bản NIV).
Tôi nhớ lại nhiều lần trong đời sống mình, khi hoàn cảnh chung quanh đều cho thấy toàn là khó khăn, thất bại. Thế nhưng lòng tôi lại đầy dẫy một niềm vui thuộc linh chỉ có thể đến từ một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Thật đáng buồn mà phải nói rằng tôi cũng nhớ lại là có nhiều lúc (và quá nhiều nữa là đằng khác) khi tôi đầu hàng các hoàn-cảnh chung quanh, thì cũng đánh mất cả niềm vui lẫn chiến thắng.
(4) Chứng cứ hiển nhiên thứ tư của quyền-năng Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta là tạ-ơn.
Các Cơ-đốc nhân đầy-dẫy Đức Thánh Linh sẽ vui-vẻ và tạ-ơn (Êph 5:18-20). Khi nào chúng ta đánh mất niềm vui, chúng ta cũng bắt đầu phàn-nàn và trở thành kẻ hay chê bai chỉ trích.
Thư tín Cô-lô-se đầy dẫy lời tạ-ơn. Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời thay cho Hội thánh Cô-lô-se (Co 1:3) và ông cầu xin để họ được tăng-trưởng trong chính việc họ cảm-tạ Đức Chúa Trời (Côl 1:32). Đời sống Cơ-đốc nhân phải đầy-dẫy lời cảm-tạ (Côl 2:7). Một trong những chứng-cứ thuộc-linh về sự tăng-trưởng của chúng ta trong việc học hỏi nghiên-cứu Thánh Kinh, là cảm-tạ (Côl 3:15-17)
Lời cầu-nguyện của chúng ta cũng phải luôn luôn bao gồm lời tạ-ơn (Côl 4:2). Cơ-đốc nhân đầy-dẫy Đức Thánh Linh, đầy-dẫy Lời Đức Chúa Trời và biết thức canh cầu-nguyện, sẽ chứng-minh điều đó bằng thái-độ tán thưởng và cảm-tạ Đức Chúa Trời.
Có một số người có tánh tự nhiên biết tán thưởng, nhưng một số khác thì không chính số người sau này mới đặc biệt cần có quyền-năng của Đức Chúa Trời để bộc lộ lời cảm-tạ. Chúng ta phải nhớ rằng mọi ân-tứ tốt lành đều từ Đức Chúa Trời đến (Gia 1:17) và Ngài vốn là “Nguồn gốc, Đấng Nâng Đỡ và là Cứu cánh của mọi sự” như các nhà thần-học đã nói. Chính hơi thở trong miệng của chúng ta cũng là món quà tặng miễn phí của Đức Chúa Trời.
Ký túc xá sinh-viên của trường đại học Northwestern tại Evanston, Illinois chỉ cách nhà tôi một quãng ngắn nếu đi ô-tô. Mấy năm trước đây, nhà trường có một đội cứu hộ nhằm giúp đỡ các hành khách đi tàu trong hồ Michigan.
Ngày 8 tháng chín 1860, một tàu chở hành khách, chiếc Lady Elgin bị chìm gần Evanston, và một sinh-viên thần-học, Edward Spencer đã đích thân vớt được 17 người. Việc tận dụng sức lực ngày hôm đó đã gây tàn hại vĩnh viễn cho sức khỏe của anh ta, và anh không còn tiếp tục chịu huấn luyện để trở thành mục-sư được nữa.
Lúc anh ta qua đời mấy năm sau đó, người ta ghi nhận rằng đã chẳng hề có một người nào trong số 17 người từng được anh cứu vớt, đã đến để cảm-ơn anh.
Tạ-ơn là việc làm trái ngược với thói vị-kỷ. Kẻ ích kỷ tự nhủ: “Ta xứng đáng với điều đã xảy đến cho mình! Những người khác phải làm cho ta được hạnh phúc!” Nhưng người Cơ-đốc trưởng-thành nhận thức được rằng đời sống là một quà tặng (ân-tứ) của Đức Chúa Trời ban, còn các phước hạnh của đời sống thì chỉ nhờ bàn tay dư dật của Đức Chúa Trời mà đến.
Lẽ dĩ nhiên, phước hạnh duy nhất đáng lẽ phải luôn luôn thôi thúc chúng ta đến với sự tạ-ơn, ấy là Đức Chúa Trời đã khiến chúng ta “ (xứng đáng) để dự phần cơ-nghiệp của các thánh trong sự sáng láng” (Côl 1:12).
Từ ngữ có thể trong câu này có nghĩa là “có đầy đủ tư cách”: Đức Chúa Trời đã khiến chúng ta có đầy đủ tư cách để vào thiên-đàng! Và trong khi chờ đợi Đấng Christ trở lại, chúng ta có thể vui hưởng phước của mình trong di-sản thuộc-linh mà chúng ta có trong Ngài (Êph 1:11,18-23).
Trong Cựu-ước, dân-sự Đức Chúa Trời có một di-sản trên thế-gian này là xứ Ca-na-an.
Ngày nay, các Cơ-đốc nhân có một di-sản thuộc-linh trong Đấng Christ.
Xứ Ca-na-an không phải là một bức tranh chỉ thiên-đàng, vì trên thiên-đàng không có chiến tranh, cũng không có người bị bại trận.
Xứ Ca-na-an là một bức tranh về di-sản hiện tại của chúng ta trong Đấng Christ. Chúng ta phải lấy đức-tin để đòi hỏi phần di-sản đó khi ra đi trên các lời-hứa của Đức Chúa Trời (Gios 1:1-9). Hằng ngày, chúng ta có thể đòi hỏi các phước hạnh đang được dành cho mình, và việc này càng khiến chúng ta tạ-ơn Chúa càng hơn.
Khi kiểm điểm lại bài cầu-nguyện tuyệt diệu này, chúng ta có thể nhận thấy nó đi sâu đến mức-độ nào. Nếu muốn sống đẹp lòng Đức Chúa Trời, chúng ta cần có trí-khôn thuộc-linh.
Chúng ta cũng cần sự vâng-lời thực tiễn trong khi bước đi và làm việc. Nhưng kết quả của tất cả những việc đó phải là do quyền-năng của con người bên trong, loại quyền năng dẫn đến sự vui-vẻ nhịn-nhục và chịu-đựng, cùng với sự tạ-ơn.
Gần đây, bạn có đang cầu-nguyện như thế không?
4. HÃY TÔN NGÀI LÀM CHÚA TỂ TẤT CẢ! (Côl 1:13-20)
Các giáo-sư giả tại Cô-lô-se, cũng như các giáo-sư giả của chúng ta ngày nay đều không phủ nhận tầm quan-trọng của Chúa Giê-xu Christ. Họ chỉ muốn truất ngôi Ngài, dành cho Ngài một địa-vị nổi bật nhưng không phải là độc-tôn, mà thôi.
Trong triết-lý của họ, Chúa Giê-xu Christ chỉ là một trong nhiều “lưu xuất” từ Đức Chúa Trời để nhờ đó người ta có thể đến với Đức Chúa Trời. Trong đoạn sách này Phao-lô đã bài bác chính lời tuyên bố đó.
Có lẽ không có phân đoạn nào trong Tân-ước có giáo-lý cô đọng về Chúa Giê-xu Christ hơn là phân đoạn này. Chúng ta phải giữ mình để khỏi mãi đi quanh quẩn nếu nhớ rằng Phao-lô đã viết ra nó là để chứng-minh địa-vị độc-tôn của Đấng Christ, ông đã làm như thế bằng cách sử dụng 4 luận-cứ không bắt bẻ vào đâu được.
1. Đấng Christ là Cứu Chúa (Côl 1:13-14)
Vấn-đề quan-trọng nhất của loài người là tội – một vấn-đề mà chẳng hề có một triết-gia hay giáo-sư tôn-giáo nào giải quyết nổi. Tội-nhân cần một Cứu Chúa. Hai câu này đưa ra một bức tranh sống động về 4 hành động cứu-rỗi của Đấng Christ vì chúng ta.
(1) Ngài đã giải thoát chúng ta (Côl 1:13a).
Động từ này có nghĩa là “cứu nguy”. Chúng ta không thể tự giải thoát khỏi trách-nhiệm và sự trừng phạt dành cho tội-lỗi, nhưng Chúa Giê-xu có thể giải thoát chúng ta. Chúng ta gặp nguy cơ phải sống đời đời xa cách Đức Chúa Trời. Lưỡi gươm phán-xét của Đức Chúa Trời đang treo trên đầu chúng ta!
Nhưng sự giải thoát này còn bao hàm một việc khác nữa: chúng ta được giải thoát khỏi uy quyền của Sa-tan và các thế lực của bóng tối. Các giáo-sư giả của Trí-huệ phái tin tưởng vào một tổ chức các tà-linh đang cai-trị thế-giới (Côl 1:16; Côl 2:10,15): các thiên-sứ, các thiên-sứ trưởng, các nhà cầm quyền, các thế lực, các quyền cai-trị, các ngôi vua.
John Milton đã dùng các danh hiệu này khi mô tả các lực lượng của Sa-tan trong tác-phẩm nổi tiếng “Paradise Lost” của ông.
(2) Ngài dời chúng ta qua (Côl 1:13b).
Từ ngữ này được dùng để mô tả việc lưu đày một dân-tộc từ xứ này sang một xứ khác. Sử-ký ghi lại việc Antiochus Đại đế đã đày ít nhất là 2.000 người Do-thái từ Ba-by-lôn đến Cô-lô-se.
Chúa Giê-xu Christ đã không giải thoát chúng ta khỏi xiềng-xích chỉ để bỏ mặc chúng ta đi lang thang vô mục đích. Ngài đã chuyển chúng ta vào chính vương quốc ánh sáng của Ngài và khiến chúng ta chiến thắng vương quốc tối tăm của Sa-tan.
Các nhà cầm quyền của thế-gian bắt những dân-tộc bị bại trận đưa đi lưu đày, nhưng Chúa Giê-xu Christ thì chuyển những người chiến thắng đi.
Câu Con rất yêu dấu của Ngài có thể dịch là “con trai của tình yêu của Ngài”. Lúc Chúa Giê-xu Christ chịu phép báp-têm và hóa hình, Đức Chúa Cha đã tuyên-bố rằng Chúa Gie-xu là “Con yêu dấu” của Ngài (Mat 3:17; Mat 17:5)
Sự kiện này nhắc chúng ta về cái giá mà Đức Chúa Cha đã phải trả lúc Ngài ban Con Ngài cho chúng ta. Nó cũng nhắc nhở chúng ta rằng nước Ngài là vương quốc của tình yêu, đồng thời cũng là vương quốc của ánh sáng nữa.
Từng-trải của dân Y-sơ-ra-ên trong Cựu-ước là một thí-dụ minh họa cho từng-trải thuộc-linh này vì Đức Chúa Trời đã giải thoát họ khỏi ách nô-lệ của Ai-cập và đưa họ vào Đất Hứa, là di-sản dành cho họ. Sở dĩ Đức Chúa Trời đưa chúng ta ra, là để có thể đưa chúng ta vào.
(3) Ngài cứu chuộc chúng ta (Côl 1:14a).
Từ ngữ này có nghĩa là “tha cho một tù-nhân ra vì đã nhận một giá-chuộc”. Phao-lô không ngụ ý bảo rằng Chúa Giê-xu đã trả một giá-chuộc cho Sa-tan để cứu vớt chúng ta khỏi vương quốc tối tăm. Bởi sự chết và sống lại của Ngài, Chúa Giê-xu đã đáp ứng các đòi hỏi thánh-khiết của Luật-pháp Đức Chúa Trời.
Sa-tan tìm cách buộc tội chúng ta rồi bỏ tù chúng ta vì nó biết rằng chúng ta đã vi phạm luật-pháp Đức Chúa Trời. Nhưng giá-chuộc đã được trả trên đồi Gô-gô-tha, và bởi đức-tin vào Chúa Giê-xu Christ, chúng ta đã được trả tự-do.
(4) Ngài đã tha-tội cho chúng ta (Côl 1:14b).
-Cứu-chuộc và tha-tội đi đôi với nhau (Êph 1:7).
Từ ngữ được dịch ra là tha-tội có nghĩa là “xua đi” hay “triển hạn trả nợ”. Đấng Christ chẳng những giải thoát cho chúng ta, chuyển chúng ta sang một vương quốc mới, mà còn triển hạn mọi món nợ, để chúng ta không còn bị bắt làm nô-lệ nữa.
Sa-tan không thể tìm được điều gì trong hồ sơ của chúng ta có thể buộc tội được chúng ta!
Mấy năm gần đây, Hội thánh đã tìm lại được quyền tự-do của sự tha-tội. Đức Chúa Trời tha-thứ cho tội-nhân là một hành động của ân-điển Ngài. Chúng ta vốn không xứng đáng được tha-thứ, cũng không thể làm được gì cả để mua sự tha-thứ đó, khi biết được rằng mình đã được tha-tội, chúng ta sẽ có thể giao-thông với Đức Chúa Trời, vui hưởng ân-điển Ngài, và tìm cầu ý chỉ Ngài.
Tha-tội không phải là bỏ qua tội-lỗi, mà đúng hơn là một sự khyến khích hãy vâng-lời. Và vì chúng ta đã được tha-tội, chúng ta sẽ có thể tha-thứ cho người khác (Côl 3:13).
Ẩn-dụ về người đầy-tớ không chịu tha-thứ làm sáng tỏ việc một người không có tinh thần tha-thứ bao giờ cũng dẫn người ấy đến với xích-xiềng nô-lệ (Mat 18:21-35).
-Chúa Giê-xu Christ độc-tôn trong sự cứu-rỗi.
Chẳng hề có người nào khác cứu-chuộc cho chúng ta tha-tội được chúng ta, chuyển được chúng ta từ nước của Sa-tan vào nước Đức Chúa Trời, mà lại làm điều đó hoàn toàn bởi ân-điển. Câu “bởi huyết Ngài” (có trong bản Anh văn) nhắc nhở chúng ta về cái giá phải trả cho sự cứu-rỗi chúng ta.
Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên chỉ phải làm đổ huyết một chiên con để được giải thoát khỏi Ai-cập Nhưng Chúa Giê-xu đã phải đổ chính máu mình ra để giải thoát chúng ta khỏi tội-lỗi.
2. Đấng Christ là Đấng Tạo Hóa (Côl 1:15-17)
Các giáo-sư giả rất lẫn lộn về công cuộc sáng tạo vũ trụ. Họ chủ trương rằng vật chất là xấu kể cả thân thể con người. Họ cũng dạy rằng Chúa Giê-xu Christ đã không có một thân thể thật vì nếu như thế tức là Ngài đã phải tiếp xúc với vật chất xấu xa, gian ác.
Hậu quả của những lời sự dạy dỗ sai lạc này rất tai hại một mặt nó bao gồm chủ nghĩa khổ hạnh cực đoan và mặt khác là tội-lỗi không kìm chế. Nói cho cùng nếu thân thể chúng ta đã là tội-lỗi rồi, thì bạn có thể hoặc là cứ vui chơi hưởng thụ, hoặc là cố tìm cách bắt nó làm nô-lệ cho mình.
Trong đoạn này, Phao-lô giải thích mối liên-hệ theo 4 phương diện giữa Chúa Giê-xu Christ với công trình sáng tạo.
(1) Ngài đã hiện hữu trước công trình sáng tạo (Côl 1:15).
Từ ngữ sanh ra đầu không chỉ thời gian mà chỉ địa-vị của Đấng Christ. Đấng Christ không là tạo vật đầu tiên, vì chính Ngài vốn là Đấng Tạo Hóa muôn vật. Câu “được sanh ra đầu hết” có nghĩa là “đứng hàng đầu, có tầm quan-trọng hàng đầu”
“Lại ta cũng sẽ làm người thành con trưởng nam ta, vua cao hơn hết các vua trên đất” (Thi 89:27).
Được sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên có nghĩa là “được quyền ưu tiên trên cả tạo vật”. Chúa Giê-xu Christ không phải là một tạo vật, Ngài là Đức Chúa Trời đời-đời.
Phao-lô dùng từ ngữ “hình-ảnh” để làm sáng tỏ sự kiện này.
Nó có nghĩa “một sự tiêu biểu và bày tỏ chính xác”. Trước giả thư Hê-bơ-rơ khẳng định rằng Chúa Giê-xu Christ là “hình bóng của bổn thể Ngài” (Hêb 1:3 bản diễn ý là “hiện thân của bản thể Ngài”). Chúa Giê-xu đã có thể nói rằng: “Ai đã thấy ta, tức là đã thấy Cha” (Gi 14:9).
Trong yếu tính thì Đức Chúa Trời vốn vô hình nhưng Đấng Christ đã bày tỏ Ngài ra cho chúng ta thấy (Gi 1:18).
(2) Cõi thiên nhiên bày tỏ cho mọi người thấy sự hiện hữu, quyền-năng và sự khôn-ngoan của Đức Chúa Trời nhưng cõi thiên nhiên không thể bày tỏ cho mọi người thấy chính yếu tính của Đức Chúa Trời. Chỉ trong Chúa Giê-xu Christ, Đức Chúa Trời vô hình mới được nhìn thấy trọn-vẹn mà thôi.
Vì chẳng hề có một tạo vật nào có thể bày tỏ cho người ta thấy trọn-vẹn về Đức Chúa Trời, cho nên Chúa Giê-xu Christ phải là chính Đức Chúa Trời.
(3) Ngài đã tạo dựng mọi vật (Côl 1:16).
Vì Đấng Christ đã sáng tạo muôn vật, nên bản thân Ngài chẳng do ai sáng tạo ra cả. Chữ vì mở đầu câu này có thể được dịch là bởi vì. Chúa Giê-xu Christ đứng đầu tất cả bởi vì Ngài đã sáng tạo ra muôn vật. Cho nên chẳng có chi đáng ngạc nhiên khi cả đến sóng và gió cũng tuân-lệnh Ngài, mọi bệnh tật chết chóc đều chạy trốn trước mặt Ngài, vì Ngài là Chủ tể tất cả.
“Muôn vật bởi Ngài làm nên” (Gi 1:3).
Câu này bao gồm mọi vật trên trời và dưới đất, hữu hình và vô hình. Mọi vật đều ở dưới quyền sai khiến của Ngài.
Muôn vật đều vì Ngài mà được dựng nên (Côl 1:16b). Muôn vật đều hiện hữu trong Ngài, vì Ngài và nhờ Ngài. Chúa Giê-xu Christ là Bầu không khí trong dó chúng hiện hữu, là Chủ thể (Agent) nhờ đó mà chúng hiện hữu, là Đấng mà vì Ngài, chúng đã được tạo dựng.
Phao-lô dùng đến 3 tiền trí từ khác nhau, một phương pháp để phản bác triết-lý của các giáo-sư giả. Qua nhiều thế kỷ, các triết-gia Hy-lạp dạy rằng mọi vật đều cần đến một nguyên nhân đầu tiên, một nguyên nhân phương tiện và nguyên nhân quyết định. Nguyên nhân đầu tiên là kế hoạch, nguyên nhân phương tiện là năng lực và nguyên nhân quyết định là chủ đích. Khi nói về công trình sáng tạo vũ trụ, thì Đấng Christ là nguyên nhân đầu tiên (Ngài đã lập kế hoạch cho việc ấy) là nguyên nhân phương tiện (Ngài tạo ra nó), và là nguyên nhân quyết định (Ngài làm thế vì thích làm như thế).
Nếu mọi sự trong công trình sáng tạo sở dĩ hiện hữu là vì Ngài, thì tự chúng, chẳng có gì là xấu, là ác (ngoại trừ đối với Sa-tan và các thiên-sứ sa ngã ngay cả những thành phần này cũng được Đức Chúa Trời dùng để hoàn thành ý chỉ Ngài).
Các luật lệ quy-tắc của Trí-huệ phái về cách sử dụng công trình thọ tạo của Đức Chúa Trời đều là chuyện dại dột (Côl; 2:20-23). Điều đó cũng có nghĩa là công trình sáng tạo của Đức Chúa Trời, tuy đang nằm trong xích-xiềng của tội-lỗi (Rô 8:22) vẫn có thể được dùng để tôn-vinh Đức Chúa Trời và để cho những người thuộc về Đức Chúa Trời thừa hưởng (ITim 617).
(4) Ngài kết chặt muôn vật lại với nhau (Côl 1:17).
“Trong Ngài, muôn vật được gắn chặt vào nhau” (bản NIV). Một hướng-dẫn viên đưa một nhóm người đi xem qua một phòng thí nghiệm nguyên tử và giải thích cách mọi vật đã được cấu thành nhờ sự chuyển động thật nhanh của các phân điện tử.
Du khách theo dõi các mô hình của các phân tử và vô cùng kinh ngạc khi biết được rằng vật chất được tạo thành trước nhất là nhờ khoảng không. Trong thì giờ nêu thắc mắc, một du khách hỏi: “Nếu đó là cách thức vận hành của vật chất, thế thì điều gì giữ chặt tất cả lại với nhau?”. Hướng-dẫn viên đã không trả lời được câu hỏi này.
Nhưng Cơ-đốc nhân thì trả lời được: Chúa Giê-xu Christ! Vì “Ngài vốn hiện hữu trước muôn vật”, chính Ngài đã giữ chặt chúng lại với nhau. Một lần nữa, đây là một cách khác nữa để khẳng định Chúa Giê-xu Christ là Đức Chúa Trời.
Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới có trước cả công trình sáng tạo, và chỉ một mình Đức Chúa Trời mới khiến được cả công trình sáng tạo kết hợp vào nhau Cho rằng Chúa Giê-xu Christ kém hơn Đức Chúa Trời, là truất ngôi Ngài vậy.
Chúa Giê-xu Christ đã làm nên mọi vật. Ngài đang cai-trị kiểm soát mọi vật, và chính là nhờ Ngài mà mọi vật kết lại với nhau. Và lẽ dĩ nhiên, đó là cái thế giới của Đức Chúa Cha!
3. Đấng Christ là Đầu Hội Thánh (Côl 1:18)
Trong Cựu-ước kinh, có rất nhiều hình-ảnh về Hội thánh, và thân thể là một trong số những hình-ảnh quan-trọng nhất (Rô 12:4tt; ICôr 12:14; Êph 4:8-16). Chẳng hề có hệ-phái hay hội chúng địa phương nào có thể tự xưng là “thân thể Đấng Christ”vì thân thể ấy bao gồm toàn thể các tín-hữu chân-chính.
Khi một người tin-cậy vào Đấng Christ thì người ấy tức khắc được Đức Thánh Linh làm phép báp-têm cho để được tham gia thân thể đó (ICôr 12:12-13). Phép báp-têm của Đức Thánh Linh không phải là một từng-trải sau khi ăn-năn quy đạo – vì nó xảy ra ngay trong khoảnh khắc mà một người tin Chúa Giê-xu Christ.
Mỗi một Cơ-đốc nhân đều là một chi thể của thân thể thuộc linh này, và Chúa Giê-xu Christ là cái Đầu. Theo cách dùng của người Hy-lạp, thì từ ngữ đầu có nghĩa là “nguồn mạch”, “nguồn gốc” cũng như “lãnh tụ”, “người cầm đầu, người cai trị, vua”.
Chúa Giê-xu Christ là Nguồn mạch của Hội thánh và là Lãnh tụ của Hội thánh là thân thể Ngài. Phao-lô gọi Ngài là “ban đầu” nghĩa là Chúa Giê-xu Christ có quyền ưu tiên về phương diện thời gian trong mối liên-quan với Hội thánh Ngài. Từ ngữ “ban đầu” có thể dịch là “nguyên nhân làm phát sinh”.
Dù bạn chọn tên nào, nó đều khẳng định địa-vị độc-tôn của Chúa Giê-xu Christ trên Hội thánh. Hội thánh vốn bắt nguồn từ Ngài, và ngày nay vẫn tác động trong Ngài. Là Đầu của Hội thánh, Chúa Giê-xu Christ cung cấp cho nó sự sống qua Đức Thánh Linh.
Ngài ban ân-tứ cho nhiều người, rồi đạt những người có ân-tứ ấy vào Hội thánh của Ngài để họ phục-vụ Ngài bất cứ nơi nào họ được cần đến. Qua Lời Ngài, Chúa Giê-xu Christ nuôi-dưỡng và thanh lọc Hội thánh (Êph 5:25-30).
Chẳng hề có người tín-hữu nào trên đất này là Đầu của Hội thánh. Địa-vị ấy chỉ dành độc-quyền cho một mình Đấng Christ mà thôi. Nhiều lãnh tụ tôn-giáo đã có thể sáng lập các giáo hội hoặc hệ-phái, nhưng chỉ một mình Chúa Giê-xu Christ mới là Đấng Sáng lập Hội thánh là chính thân thể Ngài.
Hội thánh này gồm toàn thể các tín-hữu chân chính, và đã ra đời vào ngày lễ Ngũ tuần? Chính lúc đó, Đức Thánh Linh đã giáng xuống và làm phép báp-têm cho các tín-hữu để hiệp làm một thân thể thuộc-linh.
Sự kiện “chỉ có một thân thể” trong thế gian này (Êph 4:4) không loại trừ hay bó hẹp sự cần thiết phải có nhiều tổ chức các tín-hữu địa phương. Sự kiện tôi thuộc về Hội thánh phổ thông không hề “miễn trừ” tôi khỏi các trách-nhiệm đối với chi hội địa phương. Tôi không thể quản-lý toàn thể Hội thánh, nhưng có thể tăng cường và xây-dựng Hội thánh bằng cách phục-vụ những người thuộc về Đức Chúa Trời trong một hội chúng địa phương.
Chúa Giê-xu Christ là Đầu của Hội thánh và là Khởi điểm của Hội thánh Ngài cũng là Trái Đầu Mùa (con Đầu lòng) của kẻ chết nữa. Chúng ta thấy từ ngữ con đầu lòng này trong Côl 1:15 (Đấng sanh ra đầu hết thảy mọi vật dựng nên).
Phao-lô không bảo rằng Chúa Giê-xu là người đầu tiên đã khiến được người chết sống lại, vì quả thật không phải là như thế. Nhưng ông nói rằng Ngài là nhân vật quan-trọng nhất trong tất cả những người đã được khiến từ chết sống lại vì nếu không có sống lại của Ngài, sẽ chẳng có sự sống lại cho những người khác (ICôr 15:20tt).
Việc Phao-lô dùng chữ sanh ra liên-hệ với sự chết có vẻ như kỳ quặc vì 2 ý niệm ấy có vẻ như đối lập, mâu-thuẫn nhau. Nhưng mồ mả chỉ là “lòng người mẹ” mà từ đó, Đấng Christ đã ra đời để tiến tới chiến thắng, vì những cơn quặn thắt của sự chết đã không cầm giữ được Ngài (Công 2:24). Đức Chúa Con đã được sanh ra trong sự sống lại (Thi 2:7; Công 13:33).
Điều này dẫn chúng ta đến với luận-đề của cả đoạn sách này, là “trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl 1:18) Đây là chủ đích của Đức Chúa Trời nhằm khiến Con Ngài trở thành Đấng Cứu Thế, Đấng Tạo Hóa, và là Đầu của Hội thánh. Từ ngữ đã được dịch ra là “đứng đầu hàng” không thấy được dùng ở một chỗ nào khác trong Tân-ước. Nó liên quan với từ ngữ đã được dịch là được sanh ra đầu hết thảy, và đề cao địa-vị độc-nhất vô nhị của Chúa Giê-xu Christ.
“Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự” (Côl 3:11).
Năm 1893 Hội chợ triển lãm thế giới Columbia được tổ chức tại Chicago, và hơn 21 triệu người đã đến viếng những cuộc trưng bày. Trong số các nét đặc trưng của nó, có “nghị-viện Tôn-giáo thế-giới” với đại diện của các tôn-giáo trên thế giới, họp lại nhằm chia sẻ các “quan-điểm tối ưu” của họ và có lẽ nhằm tiến tới việc thành lập một tôn-giáo mới cho cả thế giới.
Nhà truyền-đạo D.L.Moody đã thấy đây là một cơ hội quan-trọng để truyền bá Phúc-Âm. Ông đã lợi dụng các nhà thờ, thuê các rạp hát, và thậm chí thuê cả một rạp xiếc (trong thời gian người ta không trình diễn các trò xiếc) để giới thiệu Phúc-Âm của Chúa Giê-xu Christ.
Các bạn thân của Moody muốn ông công kích “Nghị viện Tôn giáo” nhưng ông từ chối. Ông nói: “Tôi đang tìm cách khiến Chúa Giê-xu Christ trở thành hấp dẫn đến nỗi người ta sẽ quay sang với Ngài”. Ông Moody vốn biết rằng Chúa Giê-xu Christ là Cứu Chúa độc-tôn, chớ không phải chỉ là một trong số nhiều “lãnh tụ tôn-giáo” của lịch-sử mà thôi.
“Chiến dịch Chicago” năm 1893 có lẽ là nỗ lực truyền-bá Phúc-Âm vĩ đại nhất trong đời sống của ông Moody, và nhiều ngàn người đã đến với Đấng Christ.
Nhưng các giáo-sư giả tại Cô-lô-se thì chẳng bao giờ dành địa-vị độc-tôn cho Chúa Giê-xu Christ, vì theo triết-lý của họ, Chúa Giê-xu Christ chỉ là một trong những “lưu xuất” từ Đức Chúa Trời mà thôi. Ngài không phải là Con Đường (Đạo) duy nhất để người ta có thể đến với Đức Chúa Trời (Gi 14:6) trái lại Ngài chỉ là một nấc trong cả chiếc thang! Có người đã nói thật chí lý rằng: “Nếu Chúa Giê-xu Christ không phải là Chúa tể tất cả, thì Ngài cũng chẳng phải là Chúa chi cả!”
Bây giờ, chúng ta sẽ nghiên-cứu 3 luận-cứ về địa-vị độc-tôn của Chúa Giê-xu Christ. Ngài là Cứu Chúa Ngài là Đấng Tạo Hóa, và Ngài là Đầu của Hội Thánh. Có luận cứ này cho thấy mối liên-hệ giữa Ngài với các tội-nhân bị hư-vong, với vũ trụ, và với các tín-hữu. Nhưng mối liên-hệ giữa Ngài với Đức Chúa Cha là như thế nào.
4. Ngài là Con Yêu Dấu của Đức Chúa Cha (Côl 1:19-20)
Phao-lô đã gọi Chúa Giê-xu Christ là “Con rất yêu dấu (của) Ngài (Đức Chúa Trời)” (Côl 1:13). Những người đã tin cậy Chúa Giê-xu Christ làm Cứu Chúa mình thì được “thuộc về Con yêu dấu Ngài” (Êph 1:6 bản dịch diễn ý). Vì lý-do ấy, Đức Chúa Trời cũng có thể gọi chúng ta là Con yêu dấu Ngài (Côl 3:12).
Rồi Phao-lô tiến một bước dài trên luận-cứ của ông, vì ông tuyên-bố rằng “quyền vô hạn” vốn nằm trong tay Chúa Giê-xu Christ! Từ ngữ được dịch ra là “vô hạn” ở đây là từ ngữ Hi-văn pleroma. Đây là một thuật ngữ trong từ vựng của các giáo-sư giả theo Trí-huệ phái. Nó có nghĩa là “tổng số các năng-lực và thuộc-tính của Đức Chúa Trời”.
Chúng tôi đã lưu ý rằng Phao-lô dùng từ ngữ quan-trọng này đến 8 lần trong thư Cô-lô-se, và như thế là ông sẵn sàng chạm trán với các giáo-sư giả ngay trên vùng đất (lập trường) của chính họ.
Từ ngữ đã được dịch ra là ngồi cũng quan-trọng. Nó có nghĩa mạnh hơn là “cư trú” rất nhiều. Hình thức của động từ này có nghĩa “ở nhà thường xuyên”.
Cố Tiến-sĩ Kenneth S.Wuest, một chuyên-gia về Hi-văn nổi tiếng, đã vạch rõ trong quyển sách chú giải thư Cô-lô-se của ông rằng động từ này chỉ rõ đây không phải chỉ là “những gì không tự nhiên được thêm vào bản tính Ngài” nhưng là điều vốn thuộc về hiện hữu cốt yếu của Ngài như một phần của chính những gì đã cấu thành chính Ngài, và là vĩnh viễn” (Ephesians and Colossians in the Greek New Testement, Eerdmans, p.187).
Đức Chúa Cha đã không ban pleroma vĩnh-cửu của Ngài cho bất kỳ một tạo vật nào cả. Sự kiện Ngài vui lòng ban “quyền vô hạn” cho Đấng Christ là bằng-cớ chứng-minh rằng Chúa Giê-xu Christ là chính Đức Chúa Trời.
“Sự đầy-dẫy của Ngài (Đấng Christ) mà chúng ta đều có nhận được” (Gi 1:16).
“Đấng Christ là hiện thân của tất cả bản chất thần-linh của Đức Chúa Trời” (Côl 2:9).
Bởi vì Chúa Giê-xu Christ chính là Đức Chúa Trời, nên Ngài có thể làm điều mà người thường chẳng bao giờ làm được: hòa giải các tội-nhân hư-vong với một Đức Chúa Trời thánh-khiết. Lúc người nam và người nữ đầu tiên phạm-tội, là họ đã khai chiến với Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời thì không tuyên chiến với họ. Trái lại, Ngài đã tìm ông A-đam và bà Ê-va và cung-cấp điều để che đậy tội-lỗi họ.
Tâm trí tự nhiên của tội-nhân không được cứu chống nghịch với Đức Chúa Trời (Rô 8:7). Tội-nhân ấy có thể thành thật ngoan đạo và thậm chí sống hợp với luân-lý đạo đức nữa nhưng người ấy vẫn tranh chiến với Đức Chúa Trời.
Làm thế nào một Đức Chúa Trời thánh-khiết lại có thể làm hòa với một tội-nhân? Phải chăng Đức Chúa Trời đã hạ thấp các tiêu-chuẩn của Ngài xuống, nhắm mắt lại đối với tội-lỗi, để thỏa hiệp với loài người? Nếu Ngài làm như thế, chắc vũ trụ này đã tan ra thành mãnh vụn cả rồi! Đức Chúa Trời phải thủy chung như nhất với chính Ngài, và duy trì luật-pháp thánh-khiết của Ngài.
Có lẽ con người cũng có thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời một phần nào. Nhưng theo bản tính, con người đã bị phân cách với Đức Chúa Trời, và do các hành-vi của mình, con người đã trở thành xa lạ với Ngài (Côl 1:21).
Tội-nhân “đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình” (Êph 2:1), do đó không thể làm bất cứ một việc gì để tự cứu hoặc để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Rô 8:8).
Nếu muốn có việc giải hòa giữa loài người với Đức Chúa Trời thì bước đi và hành động đầu tiên phải do Đức Chúa Trời chủ động. Chính là trong Đấng Christ mà Đức Chúa Trời đã được giải hòa với loài người (IICôr 5:19).
Nhưng không phải là nhờ sự nhập-thể mà Đấng Christ hoàn thành được việc giải hòa này, cũng không phải nhờ tấm gương tốt lúc Ngài sống giữa loài người. Nhưng là nhờ sự chết của Ngài mà hòa bình đã được tái lập giữa Đức Chúa Trời với loài người. Ngài đã “bởi huyết trên thập-tự giá... làm nên hòa bình” (Côl 1:20)
Lẽ dĩ nhiên, các giáo-sư giả đã đề nghị một loại hòa giải giữa loài người với Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sự hòa giải mà họ đề xuất không được đầy đủ hoặc dứt khoát. Theo các giáo-sư của Trí-huệ phái các thiên-sứ và những lần “lưu xuất” có thể đưa loài người đến gần hơn với Đức Chúa Trời bằng một phương pháp, cách thức nào đó.
Nhưng sự hòa giải chúng ta có được trong Chúa Giê-xu Christ mới là trọn-vẹn, đầy đủ, và dứt khoát. Hơn thế nữa, sự hòa giải trong Đấng Christ bao gồm toàn thể vũ trụ! Ngài hòa giải “muôn vật dưới đất trên trời” với chính Ngài (c.20).
Tuy nhiên, chúng ta không nên kết luận sai lầm rằng sự hòa giải phổ quát này cũng giống như sự cứu-rỗi phổ quát. “Phổ quát chủ nghĩa” là thuyết dạy rằng mọi hữu thể, kể cả những người chối bỏ Chúa Giê-xu Christ, sẽ có ngày được cứu-rỗi cả.
Đây không phải là điều mà Phao-lô dạy. “Phục-hồi phổ quát chủ nghĩa” không phải là một thành phần của nền thần-học của Phao-lô, vì ông dứt khoát dạy rằng tội-nhân cần phải tin Chúa Giê-xu Christ thì mới được cứu (IITês 1:1-12).
Phao-lô viết rằng Đấng Christ đã giải quyết vấn-đề tội-lỗi một lần đủ cả trên thập-tự giá. Điều này có nghĩa là có một ngày, Đức Chúa Trời sẽ đưa tất cả những người ở trong Đấng Christ đến với Ngài (Êph 1:9-10). Ngài sẽ có thể tôn-vinh các tín-hữu và trừng phạt những người vô tín, và là như thế hợp với lẽ công-bằng, vì Đấng Christ đã chọn chết trên thập-tự giá. Chẳng hề có ai – kể cả Sa-tan – lại có thể tố cáo là Đức Chúa Trời làm sai, vì tội-lỗi đã bị thập-tự giá đối phó, giải quyết thật kiến-hiệu, có kết quả.
Nếu Đấng Christ chỉ là một con người hay một “lưu xuất” của Đức Chúa Trời mà thôi, thì Ngài không thể hoà giải Đức Chúa Trời và loài người. Con người trung bảo duy nhất có thể đem Đức Chúa Trời và loài người lại với nhau chính là Đấng vốn vừa là Đức Chúa Trời mà cũng vừa là con người.
Trái với những lời truyền dạy của Trí-huệ phái, Chúa Giê-xu Christ vốn là một con người thật, có một thân thể thật sự.
Ngài là Đức Chúa Trời mặc lấy hình hài thân xác con người (Gi 1:14). Lúc chịu chết trên thập-tự giá, Ngài đã đáp ứng các đòi hỏi theo lẽ công-bằng của luật-pháp, vì Ngài đã trả-giá cho sự trừng phạt dành cho tội-lỗi của loài người (IPhi 2:24). Việc giải hòa đã hoàn tất trên thập-tự giá (Rô 5:11).
Một người nọ có lần đến tìm tôi vì gặp nhiều chuyện khó xử trong gia đình. Ông ta là một người không có học vấn đầy đủ lắm, nên nhiều khi, đã dùng sai danh từ. Ông ta bảo rằng vợ chồng ông ta có vấn-đề “quân sự”, trong khi điều ông ta muốn nói là các vấn-đề giữa vợ chồng. Về sau, tôi mới biết là họ đã thật sự “có chiến tranh” với nhau, nên rút cục, có lẽ ông ta đã nói đúng chăng! “Thưa ông mục sư, tôi và vợ tôi cần được tái hủy bỏ”.
Ông ta ngụ ý muốn nói là “hòa giải” nhưng danh từ tái hủy bỏ lại không phải là sai. Những người đã có chiến tranh với nhau chỉ có thể có được hòa bình và hợp nhất với nhau sau khi tội-lỗi đã được hủy bỏ. Là tội-nhân trước mặt Đức Chúa Trời công-chính, chúng ta cần được sự tái hủy bỏ. Tại thập-tự giá, tội-lỗi của chúng ta đã được hủy bỏ.
Khi kiểm điểm lại đoạn sách sâu-nhiệm này (toàn phần nghiên cứu này chỉ là một việc làm cào sơ trên lớp mặt), chúng ta ghi nhận được nhiều chân-lý quan trọng.
-Thứ nhất, Chúa Giê-xu Christ đã đảm trách mọi sự mọi việc. Muôn vật vốn do Ngài và vì Ngài mà được tạo dựng. Ngài đã hiện hữu trước mọi sự, và hiện nay, Ngài đang giữ mọi sự để chúng được hòa hợp với nhau. Nhờ thập tự giá, Ngài đã hòa giải muôn vật lại với nhau cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Phao-lô tuyên bố rằng “trong mọi việc, Ngài đứng đầu hàng” (Côl 1:18).
-Thứ hai, tất cả những gì chúng ta có cần, là Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta có đầy đủ sự đầy dẫy của Đức Chúa Trời trong Ngài (hay nói khác đi, là Đức Chúa Trời đã giao trọn quyền cho Ngài), nên trong Ngài, chúng ta “có được đầy dẫy (đủ) mọi sự” (Côl 2:10). Chẳng cần phải thêm bất cứ điều gì vào cho con người hay công lao của Chúa Giê-xu Christ cả. Thêm một điều gì vào, tức là cất điều ấy khỏi Ngài. Dành cho Ngài địa-vị nổi bật thay vì địa-vị độc-tôn, tức là truất ngôi Ngài vậy.
-Thứ ba, Đức Chúa Trời rất đẹp lòng khi Con Ngài là Chúa Giê-xu Christ được tôn trọng và dành cho địa-vị độc-tôn. Có người bảo rằng họ là Cơ-đốc nhân, nhưng lại chẳng biết gì, hoặc chối bỏ Chúa Giê-xu Christ. Họ nói: “Chúng tôi thờ phượng Đức Chúa Cha, và đó là tất cả những gì cần thiết”.
Nhưng Chúa Giê-xu từng vạch rõ rằng phải thờ-phượng Đức Chúa Con cũng như Đức Chúa Cha vậy. “đặng ai nấy đều tôn-kính Con, cũng như tôn-kính Cha vậy.” Ai không tôn-kính Con, ấy là không tôn-kính Cha, là Đấng đã sai Con đến.
“Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta, thì được sự sống đời-đời, và không đến sự phán-xét, nhưng vượt khỏi sự chết mà đến sự sống.” (Gi 5:23,24).
Cố Tiến-sĩ M.R.Dehaan, vị giáo-sư dạy Thánh Kinh trên đài phát thanh nổi tiếng có kể lại câu chuyện về một nhà truyền-đạo gặp một người theo một giáo phái, chối bỏ thần-tánh của Chúa Giê-xu Christ.
Anh ta lý luận: “Chúa Giê-xu không thể là Con đời-đời của Đức Chúa Trời được vì cha luôn luôn lớn tuổi hơn con cho nên Ngài không thể là Đức Chúa Trời. Còn nếu Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, thì Ngài không thể là Đấng đời-đời”.
Nhà truyền-đạo rất sẵn sàng với câu trả lời: “Điều khiến cho một người làm cha, là có một đứa con. Nhưng Đức Chúa Trời là Cha đời đời, cho nên Ngài phải có một Con đời đời! Như thế có nghĩa là Chúa Giê-xu Christ là Đấng đời đời – và Ngài chính là Đức Chúa Trời”.
Chúa Giê-xu Christ là Cứu Chúa, là Đấng Tạo Hóa, là Đầu Hội thánh, và là Con Yêu Dấu của Đức Chúa Cha. Ngài là Đức Chúa Trời đời-đời... và trong đời sống chúng ta, Ngài đáng được dành cho địa-vị độc-tôn.
Chúa Giê-xu Christ có đang chiếm địa-vị độc-tôn trong cuộc đời bạn không?
5. MỘT CON NGƯỜI CỦA CHỨC-VỤ (Côl 1:21-2:3)
Nếu bạn nhận được một bức thư của một người mình chẳng hề quen biết, một người đang ngồi tù vì bị tố cáo là kẻ phản loạn, bạn sẽ phản ứng như thế nào?
Các tín-hữu người Cô-lô-se đang gặp đúng trường hợp như thế đấy. Họ biết Phao-lô là người dìu dắt vị mục-sư của họ là Ê-pháp-ra đến với Đấng Christ để được cứu-rỗi. Họ cũng biết Ê-pháp-ra hiện đi Rô-ma để hỏi ý kiến Phao-lô và vẫn chưa trở về.
Các thành viên trong Hội thánh đã nhận được bức thư này của Phao-lô, do Ti-chi-cơ và Ô-nê-sim mang về cho họ. Nhưng các giáo sư giả tại Cô-lô-se lại bài bác Phao-lô và khiến cho tâm trí họ hoang mang. Họ thắc mắc tại sao lại phải nghe lời một người đang là tù chính trị? Thế bạn có tin được ông ta không?
Chắc Phao-lô đã tiên đoán được mối nghi ngờ do tình hình đó gây ra, nên ông đã dừng lại ngang giữa phần đầu của bức thư này để có vài lời giải thích. Ông đã quá bận tâm đến việc tôn cao Chúa Giê-xu Christ, đến nỗi chẳng nghĩ gì đến việc viết về chính mình! Trong đoạn này, Phao-lô giải thích chức-vụ gồm 3 phương diện của ông.
1. Truyền-giảng Phúc-Âm (Côl 1:21-23)
Tuy Phao-lô không đích thân truyền-giảng Phúc-Âm cho người Cô-lô-se, chính chức-vụ của ông tại Ê-phê-sô dẫn đến tới việc thiết lập Hội thánh tại Cô-lô-se. Phao-lô được lập làm “người giúp việc” (Côl 1:25). Một phần lớn của chức-vụ ông là truyền-giảng Phúc-Âm cứu-rỗi bởi đức-tin đặt vào Chúa Giê-xu Christ. Chức-vụ của ông là giải hòa (IICôr 5:17-21). Phao-lô kiểm điểm lại chính từng trải thuộc-linh của các độc-giả đang đọc thư ông.
• Quá khứ xa cách Đức Chúa Trời của họ (Côl 1:21a).
Những người ngoại đạo tại Cô-lô-se vốn xa lạ với Đức Chúa Trời và bị cách ly khỏi các phước hạnh thuộc-linh của dân Y-sơ-ra-ên (Êph 2:11). Các thần mà họ thờ lạy là tà thần còn các nghi thức tôn-giáo của họ chẳng làm gì được cho các tội-lỗi của họ cả.
Nhưng sự xa lạ này không phải là vấn-đề duy nhất do vị trí ngoại đạo nó còn là một vấn đề của các tập tục và thái độ tội lỗi nữa. Người ngoại đạo là thù địch của Đức Chúa Trời, nghĩa là họ “tích cực đố kỵ đối với Đức Chúa Trời”. Tuy họ không được ban cho bộ luật của Đức Chúa Trời như Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng người ngoại đạo này vẫn biết sự thật về Ngài qua công trình sáng tạo và lương tâm (Rô 1:18tt). Họ không thể viện cớ dốt nát trước tòa án của công-lý Đức Chúa Trời.
Tâm trí thù địch của họ dẫn tới những việc làm gian ác. Họ tranh chiến với Đức Chúa Trời cả bằng thái-độ lẫn hành động “Vì sự chăm về xác thịt nghịch cùng Đức Chúa Trời, bởi nó không phục dưới luật-pháp Đức Chúa Trời, lại cũng không thể phục được.” (Rô 8:7). Điều này giải thích tại sao người vô tín cần phải ăn-năn – đổi ý – rồi mới có thể được cứu.
• Sự hòa giải hiện tại của họ (Côl 1:21b-22)
Không phải tự họ đến giảng hòa với Đức Chúa Trời chính Đức Chúa Trời đã chủ động đi bước trước bằng tình yêu và ân-điển Ngài. Đức Chúa Cha đã sai Đức Chúa Con đến thê gian chịu chết trên thập-tự giá, để các tội-nhân có thể được giải hòa với Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu đã chịu chết thay cho chúng ta trong lúc chúng ta “bất năng bất lực” (Rô 5:6), tự mình chẳng làm chi được. Ngài đã chịu chết vì chúng ta lúc chúng ta “còn là tội-nhân” và “thù địch với Ngài” (Rô 5:8,10).
Phao-lô nhấn mạnh việc thân xác của Chúa Giê-xu Christ đã bị đóng đinh vào thập-tự giá. Các giáo-sư giả phủ nhận việc nhập thể và dạy rằng Chúa Giê-xu Christ đã chẳng bao giờ có một thân thể thật sự của con người. Theo triết-lý của họ thì mọi vật chất đều xấu khiến họ phải rút ra câu kết luận sai lầm này. Nhưng Tân-ước kinh vạch rõ rằng Chúa Giê-xu đã có một thân thể trọn-vẹn của con người, và Ngài đã gánh lấy tội-lỗi của chúng ta trên thân thể đó tại thập-tự giá (IPhi 2:24).
Chủ đích của sự hòa giải này là vì sự thánh-khiết cá nhân. Đức Chúa Trời không giải hòa với chúng ta (Côl 1:20) để chúng ta cứ tiếp tục phản loạn mãi! Ngài hòa giải chúng ta với Ngài là để chúng ta được chia-sẻ sự sống và sự thánh-khiết của Ngài. Chúng ta được dâng lên cho Đức Chúa Trời “cách thánh sạch không chỗ trách được” (c.22).
Từ ngữ thánh-khiết có liên-hệ mật thiết với từ ngữ thánh-đồ. Cả hai đều diễn tả ý niệm “được biệt riêng ra, dành riêng cho Đức Chúa Trời”. Trong Tân-ước, các thánh-đồ không phải là những người đã chết rồi, nhưng lúc còn sống đã làm nhiều phép-lạ và chẳng hề phạm tội. Các thánh-đồ trong Tân-ước là những người đang còn sống, biết tin-cậy vào Chúa Giê-xu Christ. Phao-lô viết bức thư này là cho các thánh-đồ hãy còn sống (Côl 1:2).
Từ ngữ không tì vết được áp dụng cho các của lễ dâng lên trong đền thờ, vốn không có tì vết. Thật đáng kinh ngạc khi Đức Chúa Trời nhìn vào các con cái Ngài và thấy là họ chẳng có tì vết chi cả! Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta để trở thành “thánh-khiết và không tì vết” (Êph 1:4).
Không chỗ trách được có nghĩa là “được miễn tố”. Một khi chúng ta đã giải hòa với Đức Chúa Trời rồi, thì chẳng còn ai có thể tố cáo chúng ta về một tội gì nữa cả (Rô 8:31-34). Sa-tan vốn là kẻ tố cáo anh em (Kh 12:1-12) vốn thích reo hò tố cáo chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời sẽ không chấp nhận những lời tố cáo ấy (Xa 3:1-10). Thiên-hạ có thể có nhiều điều để tố cáo chúng ta, nhưng không thể thay đổi được mối liên-hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời.
Điều quan-trọng nhất trong cuộc đời làm Cơ-đốc nhân của chúng ta không phải là cách chúng ta tự nhìn thấy mình, hay cách tha-nhân nhìn thấy chúng ta ICôr 4:1-4), nhưng là cách mà Đức Chúa Trời nhìn thấy chúng ta. Tôi nhớ có khuyên giải một nữ Cơ-đốc nhân vốn có thói quen cứ tự nhắc nhở mình về các tội-lỗi và thất bại trong quá-khứ của mình.
Bà ta có vẻ thích bị người khác chê bai chỉ trích. Tôi luôn luôn nhắc nhở bà ta về địa-vị của bà ta trước mặt Đức Chúa Trời. Việc bà ta cứ nhấn mạnh trên các thất bại của mình phủ nhận công lao Đấng Christ đã làm cho bà ta trên thập-tự giá. Chúng tôi đã phải mất nhiều thì giờ, nhưng cuối cùng, bà ta đã thừa nhận địa-vị mới mẻ diệu kỳ của mình trong Đấng Christ và bắt đầu thắng hơn những lời chê bai chỉ trích khiến bà bị xuống tinh thần.
Phao-lô nhấn mạnh trên địa-vị thánh-khiết của chúng ta trước mặt Đức Chúa Trời, chắc là một lời công kích các giáo-sư giả, vì họ hứa với những người theo họ một thứ “hoàn thiện” mà chẳng có điều gì không có thể đem đến. Phao-lô viết: “Anh em đã có một chỗ đứng hoàn thiện trong Đấng Christ rồi, thế thì tại sao lại còn đi tìm ở nơi khác nữa?”
• Sự vinh hiển tương lai của họ (Côl 1:23).
“Sự trông-cậy phước hạnh của chúng ta” (Tit 2:13) có nghĩa là niềm hy vọng về Chúa tái-lâm của chúng ta. Phao-lô từng đề cập niềm hy vọng này là “sự trông-cậy (được) để dành cho anh em ở trên trời” (Côl 1:5). Ở phần sau của chương này, ông gọi đó là “sự trông-cậy về vinh hiển” (Côl 1:27).
Đã có lúc những người Cô-lô-se ngoại đạo này hoàn toàn tuyệt vọng (Êph 2:12). Tại sao thế? Vì họ không có Đức Chúa Trời. Nhưng khi đã được giải hòa với Đức Chúa Trời rồi, họ đã được ban cho một niềm hy vọng diệu kỳ về vinh hiển. Toàn thể các con cái Đức Chúa Trời đều sẽ có ngày được ở với Đấng Christ trên thiên-đàng (Gi 17:24).
Thật vậy, tương lai của chúng ta đã được bảo đảm an toàn đến độ Phao-lô nhấn mạnh rằng chúng ta đã được “làm cho vinh hiển” (Rô 8:30). Tất cả những gì chúng ta chờ đợi, là việc sự vinh-hiển lúc Chúa Giê-xu Christ tái-lâm sẽ hiển lộ (Rô 8:17-19).
Câu nói này của Phao-lô với người Cô-lô-se dường như một bóng đen rũ xuống trên lòng tin-quyết về tương lai vinh hiển của chúng ta (Côl 1:23). Một tín-hữu có thể bị mất sự cứu-rỗi không? Không, nếu câu này không gợi ý về một mối nghi ngờ hay đặt ra một điều kiện theo đó chúng ta phải “giữ lấy sự cứu-rỗi của mình”.
Trong câu này, Phao-lô đã dùng một hình ảnh trong ngành kiến trúc – một ngôi nhà được xây vững chắc trên một cái nền. Thị trấn Cô-lô-se tọa lạc trên một vùng đất nổi tiếng về các trận động đất, và từ ngữ được dịch là “dời khỏi” có thể có nghĩa là “bị một trận động đất lay động”. Phao-lô ngụ ý nói rằng: “Nếu anh em thật sự được cứu và được xây trên nền vững chắc là Chúa Giê-xu Christ, thì anh em sẽ tiếp tục ở trong đạo (sống bởi đức-tin), và sẽ chẳng có gì lay chuyển anh em được. Anh em đã nghe Phúc-Âm và tin cậy Chúa Giê-xu Christ, thì Ngài đã cứu anh em rồi”.
Nói khác đi, chúng ta được cứu không phải là nhờ cứ tiếp tục sống trong đạo. Nhưng chúng ta chỉ tiếp tục sống trong đạo, do đó, chứng minh rằng chúng ta đã được cứu. Phần của mỗi một người tự xưng là Cơ-đốc nhân là phải tự thử nghiệm đức-tin của mình và tra xét lòng mình, để chắc chắn rằng mình đã là một con cái của Đức Chúa Trời (IICôr 13:5; Phi 1:10).
2. Chịu khổ vì người ngoại quốc (Côl 1:24-27)
Các kẻ thù của Phao-lô đã phóng đại sự kiện vị đại sứ-đồ đang là một tù-nhân tại Rô-ma. Có lẽ các giáo-sư giả tại Cô-lô-se muốn chế nhạo Phao-lô và lợi dụng điều này như một vũ khí nhằm chống lại chân-lý của Phúc-Âm. Nhưng Phao-lô đã quay ngược vũ khí ấy lại để đánh bại các kẻ thù và xây dựng một mối liên-hệ càng thiết thân hơn với Hội thánh tại Cô-lô-se.
• Ông vui-mừng (c.24).
“Thay vì xấu hổ vì sự đau khổ của mình, tôi lại đang vui-mừng vì nó đây!”
Làm thế nào để có một ai đó có thể vui-mừng trong đau-khổ? Để bắt đầu, Phao-lô đang chịu-khổ là vì Chúa Giê-xu Christ. Đây là “sự thông-công với sự thương-khó của Ngài” (Phi 3:10). Cũng như các sứ-đồ đầu tiên, Phao-lô vui-mừng vì “được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh Đức Chúa Giê-xu” (Công 5:41).
Một Cơ-đốc nhân chẳng bao giờ nên chịu-khổ “như kẻ trộm cướp, như kẻ hung ác” nhưng “chịu-khổ vì làm tín-đồ Đấng Christ” là một vinh dự (IPhi 4:15,16). Có một phước hạnh và một phần thưởng đặc biệt dành cho người tín hữu tận trung chịu-khổ vì danh Đấng Christ (Mat 5:10-12).
Phao-lô còn một lý-do thứ hai nữa để vui-mừng trong khốn khổ: ông chịu-khổ vì người ngoại quốc. Phao-lô là vị sứ đồ đã được tuyển chọn cho người ngoại quốc (Êph 3:1-13). Thật vậy, sở dĩ ông bị cầm tù tại Rô-ma, là vì tình yêu đối với người ngoại quốc.
Ông đã bị bắt tại Giê-ru-sa-lem vì bị cáo gian, và người Do-thái vẫn nghe lời biện hộ của ông, cho đến khi ông dùng từ ngữ người ngoại quốc (Công 22:21tt). Chính từ ngữ ấy đã khiến họ nổi giận nên lôi ông đi và yêu cầu xử tử ông (Cả câu chuyện này đã được ghi lại trong Công 21:1-28:31 là một phần ký thuật đầy phấn khởi).
Cho nên các tín-hữu người ngoại quốc tại Cô-lô-se có đầy đủ lý-do để yêu mến Phao-lô và biết ơn chức-vụ đặc biệt của ông đối với họ. Nhưng còn một lý-do thứ ba nữa để Phao-lô vui-mừng, ông đang chịu-khổ vì thân thể Đấng Christ, tức là Hội thánh.
Đã có một thời gian, Phao-lô thường bắt bớ bách hại Hội thánh và gây đau khổ cho Hội thánh. Nhưng giờ đây, ông đã tận hiến cuộc đời mình để chăm-sóc cho Hội thánh. Phao-lô đã không hỏi như một số người là “Hội thánh ban cho tôi lợi lộc gì?” Trái lại, ông hỏi: “Đức Chúa Trời sẽ cho phép tôi cống hiến gì cho Hội thánh?” Sự kiện Phao-lô đang là một tù-nhân vẫn không ngăn được ông cứ tiếp tục phục-vụ cho Hội thánh.
Tuy nhiên, có một điều quan-trọng cần chú ý, ấy là những nỗi khổ này chẳng có liên quan gì với sự đau khổ hy sinh của Đấng Christ trên thập-tự giá cả. Chỉ có Chiên Con vô tội mới có thể chịu chết thay cho tội-lỗi của thế-gian mà thôi (Gi 1:29).
Phao-lô chỉ “đến lượt mình, nhận đủ các phần còn thừa lại của những đau khổ của Đấng Christ mà thôi” (Côl 1:24 dịch nguyên văn).
Từ ngữ thương khó ám chỉ các “áp lực” trong đời sông, tức là những bắt bớ bách hại mà Phao-lô đã phải chịu. Từ ngữ này đã chẳng bao giờ được dùng trong Tân-ước để chỉ những đau-khổ hy sinh của Đấng Christ.
Các thương-khó hy sinh của Đấng Christ đều đã qua cả rồi, nhưng thân thể Ngài, là Hội thánh, sở dĩ đang phải chịu khổ vì muốn đứng vững cho niềm tin. Cái Đầu của Hội thánh trên thiên-đàng cảm nhận những đau-khổ mà người thuộc về Ngài đang chịu (“Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ ta?” Công 9:4).
Đến lượt ông, Phao-lô đang chia sẻ những nỗi đau khổ này, và nhiều người khác nữa sẽ nối gót ông. Phao-lô đã không phàn nàn “Vì như những sự đau đớn của Đấng Christ chan chứa trong chúng tôi thể nào, thì sự yên ủi của chúng tôi ởi Đấng Christ mà chứa chan cũng thể ấy.” (IICôr 1:5).
• Trách-nhiệm của Phao-lô (Côl 1:25-27)
Giả sử Phao-lô thỏa hiệp với người Do-thái để thôi phục vụ người ngoại quốc, chắc ông đã tránh được rất nhiều điều đau khổ. Nhưng ông không thể từ bỏ tiếng gọi mình chỉ vì sự an toàn và an nhàn cá nhân. Ông đã được Đức Chúa Trời lập làm người phục-vụ, ông đã được giao cho chức-vụ “quản-lý”, nên phải tận trung với tiếng gọi mình (ICôr 4:2).
Đây không phải là một vấn-đề có thể chọn hay không ông đã được kêu gọi để làm ứng nghiệm Lời Đức Chúa Trời. Câu này có thể có nghĩa là: “Tôi phải chu toàn trách-nhiệm truyền-giảng Lời Đức Chúa Trời, không thoả hiệp để xuyên tạc một chân-lý nào cả”. Nó cũng có thể có nghĩa là: “Tôi đã được Lời Đức Chúa Trời sai phái, nên phải trung-tín chu toàn nhiệm-vụ”.
Bức thông-điệp đặc biệt của Phao-lô liên hệ đến người ngoại quốc, liên quan với điều ông gọi là sự mầu-nhiệm. Với chúng ta ngày nay, một huyền-nhiệm có thể là một điều mơ hồ, và có lẽ là đáng sợ nữa nhưng đó không phải là cách định nghĩa danh từ ấy vào thời của Phao-lô.
Các giáo-sư giả đã dùng danh từ này để mô tả các bí mật nội bộ của tôn-giáo của họ. Một sự mầu-nhiệm là một “huyền-nhiệm thiêng-liêng” bị giấu kín trong quá-khứ, nhưng giờ đây đã được Đức Thánh Linh tiết lộ (Êph 3:11-13).
Đức Chúa Trời đã kêu gọi dân-tộc Y-sơ-ra-ên để trở thành một dân-tộc thuộc riêng về Ngài. Ngài đã ban bố Luật-pháp cho họ (gồm có chức-vụ tế-lễ và các của lễ), cũng ban cho họ một xứ diệu kỳ. Ngài hứa sẽ ban-cho họ một vua người sẽ có ngày thiết lập một vương quốc vinh hiển và làm trọn nhiều lời-hứa với Áp-ra-ham và Đa-vít.
Các nhà tiên-tri Cựu-ước đã viết về một Đấng Mê-si-a, sẽ phải chịu thương-khó, và một Đấng Mê-si-a sẽ trị vì nhưng họ lại không giải thích được điều có vẻ như mâu thuẫn nhau đó (IPhi 1:9-12). Họ đã không hiểu rằng Đấng Mê-si-a trước hết phải chịu thương-khó đã, rồi sau đó mới vào được sự vinh hiển (Lu 24:13-27).
Chúa Giê-xu Christ đã đến thế-gian, bị dân Ngài chối bỏ, và bị đóng đinh vào thập-tự giá. Ngài đã sống lại và trở về trời. Phải chăng điều đó có nghĩa là lời-hứa của Đức Chúa Trời về vương quốc sẽ dành cho dân Y-sơ-ra-ên, giờ đây đã bị hủy bỏ? Không phải, vì Đức Chúa Trời đã bắt đầu một chương trình mới – sự mầu-nhiệm của Ngài – nhưng đã không được các nhà tiên-tri Cựu-ước giải thích.
Sự mầu-nhiệm đó là hiện nay, Đức Chúa Trời đã kết hợp người Do-thái và người ngoại quốc trong Hội thánh (Êph 2:11-22).
Khi Hội thánh hoàn tất, Chúa Giê-xu Christ sẽ trở lại và cất Hội thánh Ngài lên trời (ITês 4:13-18). Rồi Ngài lại sẽ đối xử với dân Y-sơ-ra-ên như một dân-tộc và thành lập vương quốc đã hứa (Công 15:12-18).
Hãy tưởng tượng bức thông-điệp này có ý nghĩa như thế nào đối với người ngoại quốc! Họ không còn bị loại trừ khỏi vinh quang và sự giàu có của ân-điển Đức Chúa Trời nữa! Suốt giai đoạn Cựu-ước, một người ngoại quốc phải trở thành người cải giáo Do-thái rồi mới được hưởng các phước hạnh của dân Y-sơ-ra-ên.
Nhưng trong thời Tân-ước, người Do-thái và ngoại quốc đều được cứu như nhau bởi đức-tin đặt vào Chúa Giê-xu Christ (Rô 10:12-13). Cho nên chẳng có gì để lấy làm lạ khi các giáo-sư giả đã chống lại Phao-lô vì ông dám nói rằng: “chẳng có phân biệt gì hết!”
Dù sao thì chúng ta cũng đã được tăng-trưởng trong một môi-trường ít nhiều có tính cách Cơ-đốc giáo, có xu hướng đinh ninh rằng mọi việc vốn đã là như thế rồi. Nhưng hãy nghĩ đến sự phấn khởi mà bức thông-điệp này chắc đã phải làm nảy sinh trong một Hội thánh gồm nhiều tín-hữu mới vốn chẳng có “liên-hệ quá-khứ” nào trong Hội thánh cả!
Trước kia, họ vốn nằm ngoài các giao-ước của Đức Chúa Trời, nhưng giờ đây, họ đã là thành-viên của gia đình Ngài. Trước kia, họ vốn sinh sống trong sự dốt nát và sự chết thuộc-linh, nhưng giờ đây, họ được sống và chia-sẻ sự giàu có của sự khôn-ngoan Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-xu Christ.
Trước kia, họ tuyệt vọ hy vọng, nhưng giờ đây, họ có niềm hy vọng quang vinh vì Đấng Christ hiện đang sống trong lòng họ! Thật là điều hay cho chúng ta ngày nay, nếu chúng ta cũng biết thu nhặt một vài trong số những điều gây phấn khởi của “tình yêu mến ban đầu” ấy.
Tôi đã được đặc ân phục-vụ 3 năm tại Phi-châu và được giới thiệu với một số Cơ-đốc nhân tốt nhất tôi từng được gặp. Tôi đã dạy Lời Đức Chúa Trời cho hơn 500 vị mục-sư bản xứ tại Kenya trong gần một tuần lễ, mà mỗi buổi làm việc đều là một thách thức và một phước hạnh cho tôi.
Nhiều vị mục-sư trong số này vẫn còn mang các dấu vết của ngoại đạo và việc thờ thần-tượng trên thân thể họ thế nhưng gương mặt họ chói ngời niềm vui của Chúa. Tôi đã đến Phi-châu để phục-vụ họ, nhưng chính họ đã phục-vụ tôi! Họ nhắc nhở tôi chớ có quá ỷ lại vì đinh ninh rằng mình đang được những sự giàu có vinh hiển trong Chúa Giê-xu Christ!
3. Chiến đấu cho các thánh-đồ (Côl 1:28-2:3)
(Côl 1:28-29) Chúng ta đã gặp Phao-lô là nhà truyền-đạo chia sẻ Phúc-Âm, và Phao-lô là tù-nhân, chịu-khổ vì người ngoại quốc. Bây giờ, chúng ta sẽ gặp Phao-lô là người chiến sĩ cầu-nguyện, chiến đấu trong sự cầu-nguyện cho cá nhân các thánh-đồ, để họ được trưởng-thành trong đạo Chúa.
Từ ngữ chiến đấu (Côl 1:29) và đối kháng (Côl 2:1) là các thuật ngữ của môn điền kinh. Chúng ám chỉ phần nỗ lực triệt để của người tham dự một cuộc chạy đua, nhằm chiếm giải. Từ ngữ agony (chịu khổ) trong Anh văn vốn từ từ ngữ Hi-văn này mà ra.
• Lời chỉ giáo của Phao-lô (Côl 1:28).
Lẽ tất nhiên, Ngài ở đây ám chỉ Chúa Giê-xu Christ. “Vả, chúng tôi chẳng rao giảng chính mình chúng tôi, nhưng rao giảng Đức Chúa Giê-xu Christ, tức là Chúa” (IICôr 4:5). Các giáo-sư giả tự đề cao và đề cao các thành tựu “thuộc-linh” vĩ đại của họ. Họ truyền dạy một hệ thống giáo thuyết, nhưng Phao-lô thì truyền-giảng một Con Người.
Các triết-gia Trí-huệ phái truyền-giảng triết-lý và truyền thống rỗng tuếch của loài người (Côl 2:8), nhưng Phao-lô truyền-giảng Chúa Giê-xu Christ. Các giáo-sư giả có nhiều bảng liệt kê các luật lệ và quy-tắc (Côl 2:16,20-21), nhưng Phao-lô thì giới thiệu Đấng Christ. Thật là những chức-vụ khác nhau biết bao!
Phao-lô không những chỉ rao giảng (từ ngữ này có nghĩa là “thông báo cách có quyền với tư cách sứ-giả”) mà ông còn răn bảo nữa. Truyền-giảng chân-lý tích cực vốn là tốt rồi nhưng phải cảnh cáo người thuộc về Đức Chúa Trời chống lại những lời dối trá của kẻ thù, cũng rất cần thiết nữa (Công 20:31).
Thật vậy, người thuộc về Đức Chúa Trời phải đề cao cảnh giác, để răn bảo nhau (trong Côl 3:6 là dạy mà khuyên). Phao-lô tự xem mình là người cha thuộc-linh của các chi hội địa phương, nên nhiệm-vụ của ông là phải cảnh cáo họ (ICôr 4:14).
Nhưng Phao-lô còn là một giáo-sư dạy chân-lý nữa. Chỉ cảnh cáo người ta mà thôi, thì chưa đủ chúng ta còn phải dạy cho họ các chân-lý tích cực của Lời Đức Chúa Trời nữa. Bạn có thể đi xa đến đâu, nếu các biển báo trên xa lộ chỉ cho chúng ta biết những nơi mà nó không dẫn đến?
Chắc chẳng được bao xa đâu! Đưa một người đến với Đấng Christ thì thật là hay, sau đó, hãy cảnh cáo người ấy về cái nguy hiểm trước mặt nhưng điều cũng hết sức quan trọng là phải dạy cho người mới ăn-năn quy đạo ấy các chân-lý căn bản của đời sống Cơ-đốc.
Phao-lô chẳng những chỉ truyền-giảng Đấng Christ, mà ông còn “dạy về Đấng Christ” nữa, vì trong Đấng Christ có “mọi sự quý báu về khôn-ngoan thông sáng” (Côl 2:3). Chẳng cần chi phải giới thiệu một lời dạy mới mẻ nào cả, vì tất cả những gì một tín-hữu cần biết đều liên quan với Chúa Giê-xu Christ.
Mối quan tâm của Phao-lô là “lấy sự khôn-ngoan răn bảo mọi người” (Côl 1:28). Khôn-ngoan là biết sử dụng đúng kiến-thức. Các giáo-sư giả hứa ban-cho người ta “một sự khôn-ngoan kín giấu” sẽ khiến họ trở thành người” ưu tú thuộc-linh”. Nhưng mọi điều khôn-ngoan thuộc-linh đều chỉ được tìm thấy trong Đấng Christ mà thôi.
• Ý định của Phao-lô (Côl 1:28b).
Ông muốn trình diện từng tín-hữu “trọn-vẹn trong Đấng Christ”. Từ ngữ trọn vẹn là chữ tâm đắc của các giáo-sư Trí-huệ phái. Nó mô tả người môn-đệ không còn là ấu trĩ nữa, nhưng đã trưởng-thành và được truyền dạy đầy đủ về các bí quyết của tôn-giáo.
Phao-lô dùng từ ngữ này để ngụ ý rằng đó là một người đã “hoàn thiện, trưởng-thành trong Đấng Christ”. Đây là mục tiêu của tất cả các công tác truyền-giảng, khuyên răn, và dạy bảo.
Đâu là chứng cứ cho sự trưởng-thành thuộc-linh này? Phao-lô đã mô tả tiếp theo đây (Côl 2:2).
• Biết khích lệ.
“hầu cho lòng những kẻ ấy được yên-ủi”. Trong Anh ngữ, khích-lệ có nghĩa là “với tấm-lòng”. Khích-lệ ai là ban cho người ấy một tấm-lòng mới cảm thông cạn cợt chỉ khiến cho người ta càng cảm thấy tệ hại hơn, nhưng lời khích-lệ thuộc-linh đích thực khiến họ cảm thấy dễ chịu hơn. Nó tạo cho người ta tinh thần lạc quan.
Biết yêu thương “lấy sự yêu thương mà liên hiệp”. Cơ-đốc nhân trưởng thành yêu mến anh em mình, tìm cách kiến tạo hòa bình chớ không làm kẻ gây rối. Người ấy là một phần của sự hiệp-nhất thuộc-linh trong Hội thánh. Người chưa trưởng-thành thì ích kỷ và gây chia-rẽ.
Biết làm giàu thuộc-linh “đặng có nhiều sự thông-biết đầy-dẫy chắc chắn”. Trước đây Phao-lô từng đề cập đến sự giàu có vinh-hiển trong Đấng Christ (Côl 1:27). Có quá nhiều Cơ-đốc nhân vẫn sống nghèo khó trong khi đáng lẽ ra họ phải sống như những ông vua vậy. Các Cơ-đốc nhân trưởng-thành chẳng bao giờ phàn-nàn về những gì họ không có. Trái lại, họ biết lợi dụng các nguồn tài nguyên bao la họ có được trong Chúa Giê-xu Christ.
Được soi sáng “đảm bảo trọn-vẹn về sự hiểu biết”. Người tín-hữu trưởng-thành có niềm tin chắc chắn trong lòng rằng mình là một con cái của Đức Chúa Trời. Sự thông-biết thuộc-linh nhờ Đấng Christ mà có, luôn luôn soi sáng và hướng dẫn người ấy hằng ngày. Tôi thường tự vấn cho nhiều tín-hữu bảo với tôi rằng họ thiếu tin quyết vào sự cứu-rỗi của mình. Việc đã xảy ra trong tất cả mọi trường hợp, là vì họ bỏ qua Lời Chúa và cứ sống trong sự dốt nát.
Đức Chúa Trời muốn cho các con cái Ngài có “sự thông-biết” và “khôn-ngoan thông sáng” (Côl 2:2-3). Từ ngữ được dịch là “thông biết” theo nghĩa đen là “xếp chung lại với nhau” . Nó là khả năng đánh giá mọi sự việc. Khôn-ngoan ẩn tàng khả năng bênh vực cho điều mình hiểu. Thông sáng (knowledge: kiến-thức) gợi ý về khả năng lãnh hội chân-lý. Tất cả các danh từ này cũng đều được những người theo Trí-huệ phái dùng.
• Lời cầu-thay của Phao-lô (Côl 1:29-2:1)
“Ấy cũng là vì đó mà tôi làm việc, nhờ sức Ngài giúp đỡ mà chiến đấu đến độ kiệt quệ, hấp hối” là cách dịch đúng nghĩa đen phần đầu Côl 1:29.
Thật là một bức tranh kỳ diệu về sự cầu-nguyện! Lời cầu-nguyện của chúng ta thường vốn thầm lặng, an-bình, nhưng Phao-lô lại vận dụng các cơ bắp thuộc-linh của ông như cách người lực-sĩ Hy-lạp chạy đua đã tự rèn luyện để tham dự các cuộc tranh tài Thế vận hội. Ông cũng dạy Ê-pháp-ra cầu-nguyện y như thế (Côl 4:12).
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng lời cầu-nguyện của chúng ta sẽ linh-nghiệm hơn nếu chúng ta vận dụng mọi thứ năng lực xác thịt. Cũng không có nghĩa là bảo rằng chúng ta phải “chiến đấu với Đức Chúa Trời”, khiến cho Ngài phải mệt nhoài trước khi Ngài đáp ứng các nhu-cầu của chúng ta.
Ở đây Phao-lô mô tả một cuộc chiến đấu thuộc-linh: chính quyền-năng của Đức Chúa Trời đang vận hành trong đời sống ông. Lời cầu-nguyện đích thực phải hướng về Đức Chúa Cha (Mat 6:9), qua trung gian Con Ngài (nhân danh Ngài, Gi 14:13-14), trong quyền-năng của Đức Thánh Linh (Giu 1:20).
Khi nào Đức Thánh Linh hành động trong đời sống chúng ta, thì chúng ta có thể cầu-nguyện cách có quyền theo ý chỉ Đức Chúa Trời.
Đức Thánh Linh giúp đỡ chúng ta trong sự cầu-nguyện như thế nào? Một mặt, là Đức Thánh Linh dạy Lời Đức Chúa Trời cho chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy đâu là ý chỉ của Đức Chúa Trời (Gi 16:13-15). Cầu-nguyện không phải là nỗ lực của chúng ta cố tìm cách khiến cho Đức Chúa Trời phải đổi ý, mà là học hỏi để biết ý chỉ của Ngài như thế nào để cầu xin cho phải lẽ (IGi 5:14-15).
Đức Thánh Linh luôn luôn cầu-thay cho chúng ta, cả khi chúng ta không nghe thấy tiếng Ngài (Rô 8:26-27). Ngài biết rõ ý chỉ Đức Chúa Trời nên giúp chúng ta cầu xin đúng vói ý chỉ ấy.
Nhiều khi chúng ta dường như không cảm thấy muốn cầu-nguyện – đó chính là những lúc chúng ta phải cầu-nguyện hơn hết! Đức Thánh Linh ban cho chúng ta năng lực của Đức Chúa Trời để cầu-nguyện, bất chấp cách cảm nghĩ của chúng ta. Quyền-năng phục-sinh của Chúa Giê-xu Christ luôn luôn có sẵn để cung ứng cho chúng ta (Êph 3:20-21).
Trong mấy câu này Phao-lô giải thích chức-vụ của ông, và khi làm như thế, ông khiến cho những kẻ thù đang tố cáo ông phải ngậm miệng. Ông cũng khơi dậy tình thương yêu trìu mến nơi các tín-hữu, khiến họ nhận thức được ông đã làm cho họ biết bao nhiêu là việc tốt.
Tất cả chúng ta không phải đều được kêu-gọi để làm sứ-đồ, nhưng mỗi người trong chúng ta đều được Đức Chúa Trời giao cho một chức-vụ. Chúng ta có thể chia-sẻ Phúc-Âm và trở thành người đưa nhiều linh-hồn đến với Chúa. Chúng ta có thể chịu khổ vì Đấng Christ và hoàn thành chức-vụ mà Đức Chúa Trời đã giao cho chúng ta.
Chúng ta có thể chiến đấu bằng cách cầu-nguyện cho những người thuộc về Đức Chúa Trời, và khích lệ họ tăng-trưởng. Phao-lô đã dành thì giờ để phục-vụ cho các cá nhân tín-hữu xin luu ý việc “mọi người” cứ được nhắc đi nhắc lại trong Côl 1:28. Nếu chúng ta chỉ phục-vụ cho một vài tín-hữu mà thôi tức là chúng ta đang giúp đỡ cho toàn thể Hội thánh vậy.
Bạn có đang hoàn tất chức-vụ mà Đức Chúa Trời đã giao phó cho bạn không?
Côl 2:1-3 Xem giải nghĩa Côl 1:28-29
6. HỠI CÁC THÁNH-ĐỒ, HÃY SỐNG VÀ CẢNH GIÁC (Côl 2:4-15)
Tôi nhớ lại câu chuyện về một vị mục-sư quan tâm đến một số dịch vụ có hại, mở cửa gần một ngôi trường học. Ông phản đối và cuối cùng dẫn đến một vụ kiện, khiến vị luật-sư biện hộ bên bị cáo phải dùng mọi lý lẽ để gây bối rối cho vị mục-sư.
Vị luật-sư nói: “Thưa Ngài, Ngài có phải là một mục-sư không? Và phải chăng chính danh từ ấy vốn có nghĩa là “người chăn chiên?”
Với định nghĩa ấy thì vị mục-sư hoàn toàn nhất trí: “Tốt lắm, nếu Ngài là một người chăn, thế tại sao Ngài lại không lo đi chăm-sóc cho chiên của mình?”. Câu trả lời ngay tức khắc của vị mục-sư là: “Tại vì hôm nay, tôi phải chiến đấu với những con sói!” và quả thật là một lời đáp rất hay.
Do biết rằng có nhiều kẻ thù tấn công Hội thánh tại Cô-lô-se, Phao-lô đã viết thư này để khích-lệ họ. Nhờ chú ý đến những lời khuyên răn của ông, người Cô-lô-se sẽ thắng hơn kẻ thù.
1. Cứ duy trì mãi sự tiến bộ thuộc-linh (Côl 4:4-7)
Trong đời sống Cơ-đốc, chúng ta chẳng bao giờ đứng yên một chỗ hoặc là chúng ta tiến tới, hoặc là từ từ thối lui. Tiếng gọi mà chúng ta phải vâng theo là “Chúng ta phải tiến tới sự trọn-lành” (Hêb 6:1).
Cơ-đốc nhân nào không tiến bộ thuộc-linh thì đang là mục tiêu cho kẻ thù tấn công để tiêu diệt.
• Sự cần thiết phải tiến bộ (Côl 2:4).
-Sa-tan là kẻ lừa dối. Nó muốn dẫn các tín-hữu đi lạc đường, mà muốn làm việc ấy, nó dùng nhiều lời dối trá. Từ ngữ Hi-văn được dùng ở đây mô tả các luận cứ đầy thuyết phục của một luật-sư.
-Sa-tan là kẻ nói dối (Gi 8:44) và bằng những lời nói dối của mình, nó dẫn các tín-hữu vào nẻo đường sai. Điều quan-trọng là chúng ta phải rèn luyện khả năng biện biệt thuộc-linh, và phải tiếp tục tăng-trưởng trong sự thông biết chân-lý thuộc-linh.
• Bản tính của sự tiến bộ (Côl 2:5-7).
Nhằm nhấn mạnh lời răn bảo của mình, Phao-lô đã dùng nhiều bức tranh sống động để minh họa sự tiến bộ thuộc-linh.
• Quân đội (c.5).
Hai từ ngữ thứ tự và vững vàng là những thuật ngữ quân sự. Chúng mô tả một đạo quân đoàn kết hợp nhất để chống lại kẻ thù. Thứ tự mô tả việc một đạo quân được sắp xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, mỗi chiến sĩ đều đứng vào đúng vị trí của mình.
Không phải người nào cũng là một đại tướng năm sao cả, nhưng vị tướng lãnh chẳng bao giờ đánh giặc một mình. Vững vàng tả vẽ các binh sĩ đang xếp thành đội hình chiến đấu, tạo ra một mặt trận vững chắc đối diện với quân thù. Cơ-đốc nhân phải luôn luôn tiến bộ về kỷ-luật và sự vâng-lời, như các chiến sĩ ngoài chiến trường vậy!
• Người hành hương (c.6).
Cuộc đời Cơ-đốc được ví sánh với một cuộc hành hương, và các tín hữu phải học tập bước đi. Phao-lô từng khích lệ những người đọc thư ông “ăn ở (bước đi) xứng đáng với Chúa” (Côl 1:10), rồi sau này, ông sẽ lại dùng hình ảnh ấy nhiều lần nữa (Côl 3:7; Côl 4:5). Trong thư Ê-phê-sô, bức thư cùng gởi đi một lượt với thư Cô-lô-se này, Phao-lô đã dùng hình ảnh ấy ít nhất là bảy lần (Êph 2:2,10; Êph 4:1,17; Êph 5:2,8,15).
Chúng ta phải bước đi trong Đấng Christ y như đã từng tin nhận Ngài từ lúc ban đầu vậy – nghĩa là bởi đức tin. Các giáo-sư Trí-huệ phái muốn giới thiệu một số “chân-lý mới” về vấn-đề trưởng-thành của Cơ-đốc nhân nhưng Phao-lô đã tố giác họ.
Ông viết: “Anh em đã bắt đầu với Đấng Christ và phải cứ tiếp tục với Đấng Christ. Anh em đã bắt đầu bằng đức-tin nên cũng phải tiếp tục bằng đức-tin. Đây là phương pháp duy nhất để tiến bộ thuộc-linh”.
• Cội cây (c.7a).
Châm rễ là một thuật ngữ nông nghiệp. Thì của động từ hi-văn ngụ ý: “đã châm rễ một lần đủ cả”. Cơ-đốc nhân không phải là loại cỏ dại không rễ, bị “day động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc” (Êph 4:14). Họ cũng không phải là loại cây bị “nhổ đi trồng lại”, luôn luôn bị chuyển từ chỗ đất này sang chỗ đất khác.
Một khi chúng ta đã châm rễ bởi đức-tin trong Đấng Christ rồi, thì chẳng cần gì phải đổi đất nữa! Các rễ hút chất dinh dưỡng lên để cây có thể sống và tăng-trưởng. Bộ rễ cũng ban sức mạnh và sự ổn định cho cây.
• Ngôi nhà (c.7b). Được xây lên (lập nền) là một thuật ngữ của ngành kiến trúc. Nó thuộc thì quá-khứ “dã được lập nền (xây lên)”. Lúc chúng ta tin cậy Đấng Christ cứu mình, là chúng ta đã được đặt trên một cái nền từ đó trở đi, chúng ta cứ tăng-trưởng (được xây lên) trong ân-điển.
Từ ngữ xây (gây) dựng thường gặp trong các bức thư của Phao-lô chỉ đơn giản có nghĩa là xây lên. Có tiến bộ thuộc linh có nghĩa là cứ thêm vào cho ngôi đền thờ vì sự vinh-hiển của Đức Chúa Trời.
• Trường học (c.7c).
Chính Lời của Đức Chúa Trời gây (xây) dựng và củng cố Cơ-đốc nhân. Ê-pháp-ra đã trung-tín dạy cho các tín-hữu người Cô-lô-se chân-lý của Lời Đức Chúa Trời (Côl 1:7). Nhưng các giáo-sư giả đang phá hoại giáo-lý ấy. Ngày nay, các Cơ-đốc nhân học hỏi nghiên-cứu Lời Chúa cũng được gây-dựng trong niềm tin. Sa-tan gặp nhiều khó khăn khi muốn lừa dối người tín-hữu đã được dạy bảo cẩn thận về Thánh Kinh.
• Dòng sông (c.7d).
Từ ngữ dư dật rất thường được Phao-lô sử dụng. Nó gợi lên hình ảnh về một dòng sông có nước tràn bờ. Từng trải đầu tiên của chúng ta trong Chúa là được uống nước sự sống bởi đức-tin, rồi Ngài đặt vào lòng chúng ta một mạch nước sự sống (Gi 4:10-14). Nhưng mạch nước đó phải trở thành một “sông nước hằng sống” (Gi 7:37-39) cứ ngày càng sâu thêm.
Hình ảnh con sông từ đền thờ tuôn trào ra (Êxe 47:1-23) cứ càng chảy lại càng sâu thêm, có lẽ là điều Phao-lô nghĩ đến. Thật đáng buồn khi phải nói rằng nhiều người trong chúng ta đã không tiến bộ – đời sống chúng ta chỉ là những vũng nước cạn thay vì là những con sông chảy mạnh.
Một lần nữa, Phao-lô đề cập “sự cảm-tạ” (Côl 1:3,12). Một tinh thần tri ân là dấu hiệu của một Cơ-đốc nhân trưởng thành. Khi nào một Cơ-đốc nhân có dư dật những lời cảm-tạ, là người ấy đang thật sự tiến bộ!
Khi kiểm điểm lại các hình ảnh về sự tiến bộ thuộc-linh này, chúng ta thấy thế nào một Cơ-đốc nhân đang tăng trưởng có thể dễ dàng đánh bại kẻ thù để khỏi bị dẫn đi sai lạc. Nếu các rễ thuộc-linh của người ấy đã châm sâu vào Đấng Christ, người ấy sẽ chẳng cần đến một mảnh đất nào khác nữa. Nếu Đấng Christ đã là cái nền chắc chắn rồi, thì người ấy chẳng cần phải dời đi đâu nữa.
Nếu người ấy vẫn đang học hỏi nghiên-cứu để cứ tăng-trưởng trong Lời Đức Chúa Trời người ấy sẽ không dễ dàng bị tà-giáo quyến rủ mê hoặc. Và nếu tấm-lòng người ấy đang tuôn trào ra lời cảm tạ, người ấy sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc xây khỏi tình trạng được đầy dẫy dư dật mình đang có được trong Đấng Christ. Một tín-hữu đã có nền tảng vững chắc, đang tiến bộ, biết tri-ân cảm-tạ, thì chẳng bao giờ bị dẫn đi sai lạc.
2. Cảnh giác đối với các nguy cơ thuộc-linh (Côl 2:8-10)
Phao-lô tiếp tục với hình ảnh về quân đội bằng lời cảnh cáo: “Hãy coi chừng kẻo có người bắt anh em làm tù binh đấy” (dịch nguyên văn). Các giáo-sư giả đã không đi ra để đưa người hư-vong về với Chúa ngày nay, những kẻ theo các nhánh đạo khác (cultists) cũng chẳng khác gì hơn.
Họ chỉ “bắt cóc” tín-đồ của các Hội thánh mà thôi! Phần đông những người thuộc các nhánh đạo chống lại Cơ-đốc giáo mà tôi có dịp trò chuyện, vốn có thời là thành viên của một chi hội Cơ-đốc giáo thuộc một hệ phái này hoặc một hệ phái khác.
Làm thế nào để các giáo-sư giả “bắt” được người ta? Lời đáp rất đơn giản: những “người bị bắt làm tù binh” ấy vốn dốt nát về chân-lý của Lời Đức Chúa Trời. Họ bị triết-lý và những điều sai lầm, giả dối rỗng tuếch của các giáo-sư giả mê hoặc (nói như thế không có nghĩa là bảo rằng tất cả các triết-lý đều sai lầm, vì vẫn còn có một triết-lý Cơ-đốc cho đời sống. Từ ngữ “triết lý” vốn chỉ có nghĩa là “yêu mến sự khôn-ngoan”). Khi một người không biết rõ các giáo-lý của Cơ-đốc giáo, thì rất dễ bị các tà-giáo bắt làm tù binh.
Triết-lý của các giáo-sư giả này vốn “rỗng tuếch và dối trá” (c.8 bản NIV) vì nhiều lý-do. Để bắt đầu, nó là truyền thống của loài người, chớ không phải là chân-lý của Lời Đức Chúa Trời. Từ ngữ truyền thống có nghĩa là “điều được truyền lại”, và cũng có một truyền thống Cơ-đốc chân chính nữa (IITês 2:15; IITês 3:6; IITim 2:2; ICôr 15:3tt).
Điều quan trọng đối với một lời giáo huấn nào, là nguồn gốc của nó: nó vốn từ Đức Chúa Trời hay từ loài người đến? Các lãnh tụ tôn-giáo vào thời của Chúa chúng ta vốn có các truyền thống của họ và rất nhiệt thành tuân thủ, bảo vệ chúng (Mat 15:1-20) Ngay đến Phao-lô trước khi gặp Chúa, vốn cũng “sốt sắng quá đỗi về cựu truyền của tổ-phụ” (Ga 1:14).
Nếu một Cơ-đốc nhân mới tin Chúa từ một khu vực truyền giáo rất xa được đến thăm nhiều Hội thánh của chúng ta, có lẽ người ấy sẽ phải vô cùng kinh ngạc về các ý niệm và tập tục của chúng ta, vốn không thể được Lời Đức Chúa Trời hậu thuẫn cho. Các truyền thống nhân tạo của chúng ta lại thường được chúng ta xem là quan trọng hơn các giáo-lý mà Đức Chúa Trời đã ban bố trong Kinh Thánh!
Nếu trong Hội thánh có các truyền thống nhắc nhở chúng ta về phần di sản tin kính của mình thì chẳng có gì sai trái cả, nhưng chúng ta phải cẩn thận, đừng biến các truyền thống ấy trở thành ngang hàng với Lời Đức Chúa Trời.
Truyền thống của các giáo-sư giả còn “rỗng tuếch và dối trá” vì một lý-do khác nữa: chúng gồm toàn là “những điều sơ học của thế gian”. Từ ngữ Hi-văn được dịch ra “những điều sơ học” căn bản có nghĩa là “một trong một hàng, một chuỗi”.
Có nhều nghĩa gắn liền với nó:
(1). Các âm hay mẫu tự đầu tiên, những A, B, C.
(2). Các nguyên tố căn bản của vũ trụ, như trong IIPhi 3:10-12.
(3). Các yếu tố cơ bản của kiến thức, những điều ABC của một hệ thống nào đó, như trong Hêb 5:12.
Nhưng trong Hi-văn cổ, từ ngữ này có nghĩa là “các yếu tố thần-linh trong vũ trụ, các thiên-sứ ảnh hưởng trên các thiên-thể”. Nó là một thuật ngữ trong từ vựng của chiêm-tinh học liên quan đến tôn-giáo thời bấy giờ.
Những người theo Trí-huệ phái tin rằng các thiên-sứ và các thiên-thể tác động trên cuộc đời người ta. Lời Phao-lô cảnh cáo người Cô-lô-se về “trăng mới” và các tập tục tôn giáo khác nữa do niên lịch xác định (Côl 2:16) có lẽ có liên-hệ với lời truyền dạy của Trí-huệ giáo, dù rằng người Do-thái cũng còn “coi lịch” (Ga 4:10). Có một điều chắc chắn: những lời truyền dạy về ma quỷ và thiên-sứ đó không phải là giáo-lý Cơ-đốc chân chính. Nếu cần nói gì, thì những lời truyền dạy như thế vốn từ Sa-tan đến.
Sự kiện lời truyền dạy này không phải của Đấng Christ cũng đã đủ để cảnh cáo chúng ta chống lại việc xem tử vi, xem sơ đồ các vì sao, cầu cơ, và các thói quen đồng bóng khác nữa. Toàn thể hệ thống hoàng đạo đều mâu thuẫn với lời truyền dạy của Thánh Kinh. Cơ-đốc nhân nào còn dính dáng với thần-bí học và cái gọi là “khoa học huyền-bí” chỉ chuốc lấy rắc rối cho mình mà thôi.
Tại sao chúng ta lại noi theo triết-lý rỗng tuếch khi đã có đầy đủ mọi sự trong Đấng Christ rồi? Làm như thế thật chẳng khác gì từ bỏ dòng sông thỏa mãn để uống nước ao tù dơ bẩn của trần-gian (Giê 2:13). Lẽ dĩ nhiên, các giáo sư giả tại Cô-lô-se đã không đòi hỏi các tín-hữu phải từ bỏ Đấng Christ. Họ chỉ yêu cầu mọi người biến Đấng Christ thành một phần trong hệ thống mới. Nhưng làm như thế tức là truất Ngài khỏi địa-vị độc-tôn phải lẽ của Ngài.
Cho nên Phao-lô đã ban cho họ liều thuốc ngừa linh nghiệm và dứt khoát cho tất cả các tà-thuyết: “Sự hoàn thiện vốn ở trong Đấng Christ, và anh em đã được làm cho hoàn thiện trong Ngài. Thế tại sao anh em lại còn cần đến điều gì khác nữa” (Côl 2:9,10).
Chúng ta đã được thấy từ ngữ “sự đầy đủ trọn-vẹn” (pleroma) trước đây rồi (Côl 1:19). Nó có nghĩa là “tổng số của tất cả những gì có trong Đức Chúa Trời, là tất cả bản thể và các thuộc tính của Ngài”, Từ ngữ này vốn được người theo Trí-huệ phái dùng, nhưng họ không hiểu nó theo cùng một ý nghĩa với Phao-lô. Với họ, pleroma là nguồn gốc của tất cả những “lưu xuất”, nhờ đó con người có thể đến với Đức Chúa Trời. Tuyệt đỉnh của từng trải tôn-giáo của Trí-huệ phái là được dự phần vào pleroma.
Lẽ dĩ nhiên là chẳng hề có sự “lưu xuất” nào từ Đức Chúa Trời cả. Vực sâu ngăn cách giữa trời và đất đã được san bằng trong sự nhập thể của Chúa Giê-xu Christ. Ngài đã được công bố là “Em-ma-nu-en, nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta” (Mat 1:23).
Chúa Giê-xu Christ là sự hoàn thiện của Đức Chúa Trời, và sự hoàn thiện này vẫn tiếp tục và vĩnh viễn thể hiện chính Ngài. Một lần nữa, Phao-lô bài bác giáo thuyết của Trí-huệ phái rằng vật chất là xấu và rằng Chúa Giê-xu không có thân thể con người.
Lúc Chúa Giê-xu Christ thăng-thiên, Ngài đã về trời bằng thân thể con người Đó là một thân thể vinh hiển nhưng có thật, đó là điều chắc chắn. Sau khi sống lại, Chúa chúng ta đã cẩn thận bảo đảm chắc chắn với các môn đệ mình rằng Ngài chính là một Người, trong cùng một thân thể như trước kia Ngài không phải là một bóng ma hay một vị thần-linh (Gi 20:19-29).
Đã có một Con người vinh-hiển trên thiên-đàng! Đức Chúa Trời làm Người, là Chúa Giê-xu Christ, đang là hiện thân của Đức Chúa Trời hoàn thiện!
Vậy điều quan-trọng cần ghi nhận là như thế này: mỗi người tín-hữu đều được dự phần vào sự hoàn thiện ấy! “Anh em lại nhờ Ngài mà có được đầy dẫy mọi sự” (Côl 2:10) và thì của động từ Hi-văn cho thấy sự hoàn thiện này là một từng trải miên viễn. Sách Expanded translation của Tiến-sĩ Kenneth Wuest đã dịch câu này rất đúng nguyên văn là “và anh em đang ở trong Ngài sau khi đã được đổ đầy hoàn tòa với kết quả hiện tại, nên anh em đang ở trong tình trạng hoàn thiện”.
Khi một người được sinh ra một lần nữa trong gia đình Đức Chúa Trời, người ấy được sinh ra hoàn-thiện trong Đấng Christ. Sự tăng-trưởng của người ấy không phải là bằng cách thêm vào nhưng là bằng việc nuôi dưỡng.
Người ấy tăng-trưởng từ bên trong ra. Đấng Christ chẳng cần được thêm gì cả, vì Ngài đã chính là sự hoàn-thiện của Đức Chúa Trời rồi. Khi người tín-hữu hấp thu sự hoàn-thiện của Đấng Christ, thì người ấy “được đổ đầy bằng toàn thể sự hoàn thiện của Đức Chúa Trời” (Êph 3:19).
Thế thì người ấy còn cần chi nữa?
Tất nhiên người tín-hữu vẫn còn phải đối diện với nhiều nguy cơ thuộc-linh. Sự thử nghiệm căn bản cho bất kỳ một sự dạy dỗ tôn-giáo nào, là “Nó đặt Đấng Christ –Con Người và công lao của Ngài – vào đâu?” Nó có cướp đi sự hoàn thiện của Ngài không?
Nó có phủ nhận, hoặc là thần-tánh, hoặc là nhân-tánh của Ngài không? Nó có khẳng định người tín hữu phải có một “từng trải mới” vào đó, để bổ túc cho từng trải của người ấy đã có được với Đấng Christ hay không? Nếu có thì lời truyền dạy ấy là sai lầm và nguy hiểm.
3. Hấp thu từ các nguồn cung-cấp thuộc-linh của bạn (Côl 2:11-15)
Nên nhớ rằng tà-giáo đã đe dọa Hội thánh Cô-lô-se gồm nhiều yếu tố: thần-bí học phương Đông, chiêm-tinh học, triết-học, và luật-pháp của nghĩa Do-thái. Trong đoạn này của bức thư, Phao-lô đề cập yếu tố cuối cùng đó. Rõ ràng là các giáo-sư giả đã nằng nặc đòi hỏi những người theo họ phải chịu phép cắt-bì và tuân thủ Luật-pháp Cựu-ước.
Luật-pháp chủ nghĩa của Trí-huệ phái không hoàn toàn có cùng một nhãn hiệu với Luật-pháp chủ nghĩa thực thi bởi những người muốn Do-thái hóa mà Phao-lô bài bác trong thư tín gởi người Ga-la-ti của ông. Các giáo-sư người Do-thái mà Phao-lô công kích tại Ga-la-ti nhấn mạnh rằng phép cắt-bì và vâng giữ Luật-pháp là cần thiết cho sự cứu-rỗi (xem Công 15:1-41 để có một phần bối cảnh về vấn-đề này).
Luật-pháp chủ nghĩa Trí-huệ phái bảo rằng Luật-pháp Do-thái có thể giúp các tín-hữu trở thành thuộc-linh hơn. Nếu họ chịu phép cắt-bì, và nếu họ kiêng ăn, giữ ngày thánh, họ sẽ trở thành một phần trong số những người “thuộc-linh ưu tú” trong Hội thánh. Tai hại thay, ngày nay vẫn còn có những người có những ý kiến tương tự trong các Hội thánh của chúng ta.
Phao-lô đã vạch rõ rằng Cơ-đốc nhân không hề bị lệ thuộc hệ thống luật-pháp Cựu-ước, bất luận về phương diện nào, mà nó cũng chẳng đem được điều gì tốt cho người ấy về mặt thuộc-linh. Chỉ một mình Chúa Giê-xu Christ mà thôi, là đã đầy đủ cho mọi nhu-cầu thuộc-linh của chúng ta rồi, vì tất cả sự đầy đủ của Đức Chúa Trời đều ở trong Ngài.
Chúng ta được đồng nhất hóa với Đấng Christ vì Ngài là Đầu của thân thể (Côl 1:18) mà chúng ta là các chi của thân thể (ICôr 12:12-13). Phao-lô giải thích việc chúng ta đồng nhất hóa với Đấng Christ theo 4 phương diện chẳng những khiến cho việc đó trở thành không cần thiết mà còn là tội-lỗi nữa, nếu chúng ta dính dáng vào bất kỳ loại luật-pháp chủ nghĩa nào.
(1) Được cắt-bì trong Ngài (Côl 2:11).
Phép cắt bì là một dấu hiệu của giao-ước Đức Chúa Trời đã lập với dân Do-thái (Sa 17:9-14). Tuy là một cuộc “giải phẫu trên thân thể, nó vốn có ý nghĩa thuộc-linh. Vấn-đề rắc rối là dân Do-thái lại trông-cậy vào điều thuộc-thể chớ không phải là điều thuộc-linh. Một cuộc giải phẫu suông trên thân thể, thì chẳng bao giờ đem ân-điển thuộc-linh đến được (Rô 2:25-29).
Trong Cựu-ước, Đức Chúa Trời thường cảnh cáo dân sự Ngài phải xây bỏ tội-lỗi để từng trải một phép cắt-bì thuộc-linh của tấm-lòng (Phuc 10:16; Phuc 30:6; Giê 4:4; Giê 6:50; Êxe 44:7). Thiên-hạ ngày nay cũng phạm vào cùng một sai lầm ấy khi họ trông-cậy vào một số nghi lễ tôn-giáo nào đó như phép báp-têm hay Tiệc Thánh chẳng hạn sẽ cứu được họ.
Người tín-hữu không cần phải chịu phép cắt-bì, vì đã từng-trải phép cắt-bì thuộc-linh nhờ đã đồng nhất hóa với Chúa Giê-xu Christ rồi. Nhưng hãy còn một sự tương phản nữa ở đây giữa phép cắt-bì của Do-thái giáo với phép cắt-bì thuộc-linh của người tín-hữu trong Đấng Christ:
- Người Do-thái | - Người tín-hữu |
Sự cắt bỏ bên ngoài | Bên trong – tức là tấm lòng |
một phần thân thể được thực hiện bằng tay không có sự trợ giúp thuộc linh để chiến thắng tội lỗi. | toàn thể “thân thể tội lỗi” được thực hiện không phải bằng tay giúp họ thắng hơn tội lỗi. |
Lúc Chúa Giê-xu Christ chịu chết rồi sống lại, Ngài đã chiến thắng hoàn toàn và dứt khoát đối với tội-lỗi. Chẳng những Ngài chỉ chịu chết vì tội-lỗi của chúng ta (cứu-rỗi), mà còn “chết đối với tội-lỗi” nữa (thánh-hóa xem Rô 6:10).
Điều luật-pháp không làm nổi thì Chúa Giê-xu Christ đã hoàn thành vì chúng ta. Bản tính cũ (“thân thể của xác thịt tội-lỗi”) đã bị lột bỏ – bị vô hiệu hóa – nên chúng ta không còn bị bắt làm nô-lệ cho các ham muốn của nó nữa.
Bản tính tội-lỗi cũ vẫn chưa bị nhổ tận gốc, vì chúng ta vẫn còn có thể phạm-tội (IGi 1:5; IGi 2:6), nhưng quyền-năng của nó đã bị đập tan khi chúng ta đầu phục Đấng Christ và bước đi nhờ quyền-năng của Đức Thánh Linh.
(2) Được sống lại trong Ngài (Côl 2:12-13).
Ở đây Phao-lô dùng thí dụ minh họa là phép báp-têm. Nên nhớ luôn rằng trong Tân-ước, từ ngữ phép báp-têm có cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa đen là “nhúng nước, nhận chìm” nghĩa bóng là “đồng nhất với”.
Thí-dụ dân Do-thái đã “chịu Môi-se làm phép báp-têm” lúc họ vượt Hồng hải (ICôr 10:1-2). Trong phép báp-têm này đã không có sự tham dự của nước, vì họ đã vượt biển như đi trên đất khô. Trong từng trải này, dân sự được đồng nhất hóa với Môi-se.
Phao-lô dùng danh từ phép báp-têm theo nghĩa bóng trong đoạn này của bức thư của ông –vì chẳng hề có một lượng nước vật chất nào lại có thể chôn một người cùng với Đấng Christ hay khiến người ấy sống lại trong Ngài. Phép báp-têm bằng cách nhận chìm trong nước là một bức tranh về từng-trải thuộc-linh này. Khi một người được cứu, người ấy đã tức khắc được Đức Thánh Linh làm phép báp-têm cho để người ấy trở thành một phần của thân thể Đấng Christ (ICôr 12:12-13) và đồng nhất hóa với cái Đầu, là Chúa Giê-xu Christ.
Sự đồng nhất hóa này, có nghĩa là bất cứ điều gì đã xảy ra cho Đấng Christ thì cũng xảy ra cho chúng ta nữa. Lúc Ngài chết, chúng ta cũng chết. Khi Ngài sống lại, chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài – và chúng ta vứt bỏ lại sau lưng các áo xống thuộc về mồ mả của cuộc đời cũ (Côl 3:1-14).
Tất cả những việc ấy đã xảy ra “bởi đức-tin trong quyền-năng Đức Chúa Trời” (c.12). Chính quyền-năng của Đức Chúa Trời đã thực hiện việc thay đổi đó, chớ không phải là quyền-năng của nước. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đồng nhất hóa chúng ta với Đấng Christ, nên chúng ta cũng được chôn cùng được sống lại và cùng được khiến sống mãi với Ngài.
(Các động từ Hi-văn ở đây hết sức có ý nghĩa: cùng bị chôn, cùng sống lại và cùng được khiến sống lại). Bởi vì Đức Chúa Trời đã khiến Con Ngài từ chết sống lại, nên chúng ta được sự sống đời-đời.
Phần ứng dụng thực tiễn thật là rõ ràng: vì chúng ta đã được đồng nhất hóa với Đấng Christ, mà Ngài vốn là sự đầy-dẫy trọn-vẹn (hoàn thiện) của Đức Chúa Trời, thế chúng ta còn cần gì thêm nữa? Chúng ta đã được từng-trải năng lực của Đức Chúa Trời nhờ đức-tin đặt vào Đấng Christ, thế thì tại sao lại còn quay trở lại với sự chết chóc của luật-pháp? Đức Chúa Trời đã tha-thứ mọi tội chúng ta (c.13b) để chúng ta có được một chỗ đứng trọn vẹn trước mặt Ngài.
(3) Được giải thoát khỏi luật-pháp (Côl 2:14).
Chúa Giê-xu chẳng những nhận lấy tội-lỗi của chúng ta đưa lên thập-tự giá (IPhi 2:24), mà Ngài còn đưa luật-pháp lên thập-tự giá nữa, để vĩnh viễn đóng đinh nó vào đó để nó không còn cản đường chúng ta được nữa.
Chắc chắn là luật-pháp đã chống lại chúng ta, vì chúng ta không thể nào thỏa mãn các đòi hỏi thánh-khiết của nó được. Tuy Đức Chúa Trời chẳng bao giờ ban bố Mười Điều Răn cho người ngoại quốc, các đòi hỏi công-chính của luật-pháp – tức là các chuẩn mực về sự thánh-khiết của Đức Chúa Trời – vẫn được “ghi trong lòng họ” (Rô 2:12-16).
Lúc Chúa Giê-xu Christ đổ huyết ra vì cớ tội-nhân, Ngài đã bãi bỏ món nợ lớn lao đang chống lại tội-nhân vì họ đã bất tuân luật-pháp thánh của Đức Chúa Trời. Trong thời Cựu-ước, các ghi chú về tài chính thường được giữ lại trên giấy da, và chữ viết trên đó có thể xóa đi. Đây chính là bức tranh mà Phao-lô đã vẽ.
Làm thế nào một Đức Chúa Trời thánh-khiết lại có thể là công-bằng khi bãi bỏ một món nợ? Bằng cách buộc Con Ngài phải trả hết món nợ đó khi Ngài chịu chết trên thập-tự giá.
Nếu một quan tòa trả tự-do cho một người đã phạm trọng tội, thì vị quan tòa ấy đã hạ giá luật-pháp và bỏ mặc phía bị thiệt hại, không được bồi thường. Đức Chúa Trời đã trả xong món nợ tội khi Ngài phó Con Ngài để chịu chết trên thập-tự giá, đồng thời, Ngài cũng đề cao sự thánh-khiết của chính luật-pháp Ngài.
Nhưng Chúa Giê-xu Christ còn làm được việc lớn hơn cả việc bãi bỏ món nợ: Ngài đã cất bộ luật-pháp đã kết án chúng ta đi, đặt nó qua một bên, để chúng ta không còn phải phục dưới quyền chủ trị của nó nữa. Chúng ta đã được “buông tha khỏi luật-pháp” (Rô 7:6), Chúng ta “chẳng thuộc dưới luật-pháp” (Rô 6:14) nữa.
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng chúng ta là vô luật-pháp, vì sự công chính mà luật-pháp đòi hỏi sẽ được chúng ta làm trọn khi chúng ta bước đi trong quyền-năng của Đức Thánh Linh (Rô 8:4). Mối liên-hệ của chúng ta với Đấng Christ giúp chúng ta có khả năng vâng-lời Đức Chúa Trời do tình yêu, chớ không phải vì sợ như một tên nô-lệ.
(4) Được chiến thắng trong Ngài (Côl 2:15)
Chúa Giê-xu không những chỉ đối phó với tội-lỗi và luật-pháp trên thập-tự giá, mà Ngài còn đối phó cả với Sa-tan nữa. Khi đề cập vấn đề đóng đinh vào thập-tự giá, Chúa Giê-xu từng nói: “Đã đến lúc thế-gian bị xét xử, và Sa-tan, kẻ thống trị thế-gian bị trục xuất” (Gi 12:31) “Thoạt nhìn thì sự chết của Đấng Christ trên thập-tự giá có vẻ như một chiến thắng lớn của Sa-tan, nhưng nó lại trở thành một trận đại bại mà Sa-tan không thể cứu vãn được.”
Chúa Giê-xu đã được 3 chiến thắng lớn trên thập-tự giá.
-Một là, Ngài đã “truất bỏ các quyền cai-trị cùng các thế lực” (Côl 2:15), tước bỏ mọi vũ khí mà Sa-tan và đạo quân của nó mang theo. Sa-tan không thể làm hại người tín-hữu nào không tự làm hại mình. Chính lúc chúng ta thôi thức canh và cầu-nguyện (như điều Phi-e-rơ đã làm), thì Sa-tan mới có thể sử dụng các vũ khí của nó để chống lại chúng ta.
-Hai là, Chúa Giê-xu đưa kẻ thù ra trình diện trước công chúng (nộp ra tỏ tường giữa thiên-hạ, c.15). vạch trần thói dối trá và quỷ quyệt của Sa-tan. Trong sự chết, sống lại, và thăng-thiên của Ngài, Đấng Christ đã “minh-chứng” cho Đức Chúa Trời và đánh bại ma quỷ.
-Chiến thắng thứ ba của Ngài được tìm thấy trong từ ngữ chiến thắng khải hoàn. Khi nào một đại tướng La-mã thắng một trận lớn ngoài biên giới, bắt được nhiều tù binh và thu được nhiều chiến lợi phẩm, chiếm thêm được nhiều đất đai cho La-mã thì vị ấy sẽ được tôn-vinh bằng một cuộc diễu hành chính thức được biết dưới tên “khải hoàn La-mã”.
Trong bức thư thứ hai gởi cho người Cô-rinh-tô, Phao-lô đã ám chỉ đến sự việc này (IICôr 2:14). Đấng Christ đã toàn thắng và trở về thật vẻ vang trong một cuộc diễu hành khải hoàn vĩ đại (Êph 4:8tt). Trong trận này, Ngài đã hạ nhục và đánh bại Sa-tan.
Bạn và tôi đều được dự phần vào chiến thắng của Ngài đối với ma quỷ. Chúng ta chẳng cần chi phải bối rối trước các yếu tố quyền lực cai-trị trên các hành tinh và tìm cách gây ảnh hưởng trên đời sống người ta. Các đạo quân gồm các thống trị và thế lực của Sa-tan đều đã bị đánh bại nhục nhã rồi.
Nếu chúng ta nêu ra chiến thắng của Đấng Christ, tự nhận đó là của mình, sử dụng các trang thiết bị Ngài đã cung-cấp cho chúng ta (Êph 6:10), và tin cậy Ngài, chúng ta được hoàn toàn tự-do đối với ảnh hưởng của ma quỷ.
Địa-vị và tiếp liệu của chúng ta trong Đấng Christ thật kỳ diệu biết bao! Chúng ta có đang dùng đức-tin để sống phù hợp với nó hay không?
7. HỠI CÁC TÍN-HỮU HÃY CẢNH GIÁC! (Côl 2:16-23)
Từ các tín hiệu đèn đỏ trên một ngã tư có tàu hỏa chạy qua, đến chiếc đầu lâu có hai khúc xương bắt chéo trên một chai rượu độc, những lời cảnh cáo vốn là một phần trong sinh hoạt hằng ngày. Trẻ con cần phải được dạy bảo để chú ý đến những lời cảnh cáo, còn những người đã trưởng-thành cũng phải được nhắc nhở là chớ có nên quá “lờn mặt” với chúng. Những lời cảnh cáo vốn là một vấn đề sinh tử đấy!
Đời sống thuộc-linh cũng có những nguy hiểm và những lời cảnh cáo của nó. Môi-se đã cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên phải coi chừng việc họ có thể quên mất Đức Giê-hô-va sau khi đã định cư trong Đất Hứa (Phuc 6:12). Chúa Giê-xu vẫn thường dùng từ ngữ: Hãy coi chừng (Mat 7:15; Mac 12:38; Lu 12:15).
Phao-lô đã cảnh cáo về các giáo-sư giả rồi (Côl 2:8). Trong đoạn này của bức thư, ông đưa ra 3 lời cảnh cáo chúng ta phải chú ý nếu muốn vui hưởng sự đầy đủ của chúng ta trong Chúa Giê-xu Christ.
1. “Chớ để ai đoán xét anh em” (Côl 2:16-17)
Lời cảnh cáo này vạch trần sự nguy hiểm của luật-pháp chủ nghĩa của các giáo-sư Trí-huệ phái tại Cô-lô-se. Các giáo-thuyết của họ là một sự pha lẫn kỳ dị thần-bí học phương Đông, luật-pháp chủ nghĩa Do-thái giáo, một triết-lý sơ sài và lời dạy dỗ của Cơ-đốc giáo. Rõ ràng là luật-pháp chủ nghĩa Do-thái có một vai trò rất quan-trọng.
Điều này thì chẳng có gì đáng lấy làm lạ cả, vì bản tính con người vốn có xu hướng thiện về “những bổn phận tôn-giáo”. Xác thịt vốn yếu đuối đối với các điều thuộc-linh (Mat 26:41) nhưng lại rất mạnh mẽ khi cần thi hành các luật-lệ và quy-tắc tôn-giáo.
Dù sao thì tham gia việc làm theo thói quen nhàm chán của tôn-giáo cũng “thổi phồng” cái “ta” lên, và khiến cho con người hài lòng với sự công-chính riêng của mình. Khi thảo luận về vấn-đề này, Phao-lô đã trình bày 3 chân-lý quan-trọng:
(1) Cơ sở cho sự tự-do của chúng ta (Côl 2:16a).
Điều này được nhận thấy trong từ ngữ “vì vậy”, nối liền phần thảo luận này với mấy câu trước đó. Nền móng cho sự tự-do của chúng ta là Con Người và công lao của Chúa Giê-xu Christ.
Mọi sự đầy-trọn của Đức Chúa Trời đều hiện hữu cụ thể trong Ngài (Côl 2:9). Trên thập-tự giá, Ngài đã bãi bỏ món nợ và sự chủ trị của luật-pháp (Côl 2:14). Là tín-hữu, chúng ta được sống dưới ân-điển, xem đó như một quy luật của sự sống, chớ không phải sống dưới luật-pháp (Rô 6:14).
Những tín-hữu ngoại quốc tại Cô-lô-se vốn chẳng bao giờ phải sống dưới luật-pháp Môi-se, vì luật-pháp ấy chỉ được ban bố cho dân Y-sơ-ra-ên mà thôi (Rô 9:4). Điều có vẻ khá lạ lùng, là giờ đây, sau khi đã trở thành Cơ-đốc nhân rồi, họ lại muốn tự đặt mình đầu phục luật pháp chủ nghĩa Do-thái!
Phao-lô từng gặp cùng một vấn-đề như thế với những người ngoại quốc trong các Hội thánh xứ Ga-la-ti, và ông đã bài bác luật-pháp chủ nghĩa Do-thái trong bức thư ông gởi cho các tín-hữu người Ga-la-ti (Ga 3:16). (xem chú giải thư Ga-la-ti).
Người nào “đoán-xét” một tín-hữu vì người tín-hữu ấy không sống dưới luật-pháp Do-thái, thật ra là đang đoán-xét chính Chúa Giê-xu Christ. Người ấy ngụ ý rằng Đấng Christ chưa hoàn thành công tác cứu-rỗi trên thập-tự giá, cho nên chúng ta còn phải thêm một điều gì đó vào đấy nữa.
Người ấy cũng ngụ ý bảo rằng Chúa Giê-xu Christ vẫn còn chưa đủ cho tất cả các nhu-cầu thuộc-linh của Cơ-đốc nhân. Các giáo-sư giả tại Cô-lô-se rêu rao rằng tất cả những ai chịu giữ luật-pháp sẽ có được “một đời sống thuộc-linh sâu-nhiệm hơn”. Cứ theo bề ngoài mà xét thì cách làm đó của họ có vẻ là thuộc-linh, nhưng sự thật là những việc làm như thế chẳng làm được điều gì thuộc-linh cả.
(2) Ách nô-lệ của luật-pháp chủ nghĩa (Côl 2:16).
Xin đừng cho phép ai nói khác hơn với bạn: nó chính là xích-xiềng nô-lệ! Phi-e-rơ đã gọi nó là “cái ách” (Công 15:10). Phao-lô cũng dùng cùng một hình ảnh ấy khi ông cảnh cáo người Ga-la-ti: “Đấng Christ đã giải phóng chúng ta, cho chúng ta được tự-do. Vậy hãy bảo vệ và triển khai tự-do, đừng tự tròng cổ vào ách nô-lệ của luật-pháp nữa” (Ga 5:1).
Các quy-tắc luật-lệ này liên quan đến các thức ăn và việc ăn uống (được phép ăn hoặc phải kiêng cữ). Dưới hệ thống Cựu-ước, một số thức ăn được xếp vào loại “sạch” hoặc “không sạch” (Lê 11:47).
Nhưng Chúa Giê-xu từng vạch rõ rằng tự nó, thức ăn là trung tính. Chính điều xuất phát tự tấm-lòng mới khiến cho một người là thuộc-linh hay không thuộc-linh (Mat 15:1-20).
Phi-e-rơ đã được nhắc nhở lại một lần nữa về bài học này lúc ông đang nằm trên mái nhà tại Giốp-bê (Công 10:9) và lúc ông bị Phao-lô quở trách trại An-ti-ốt (Ga 2:11) “Vả, ấy chẳng phải là đồ ăn làm cho chúng ta được đẹp lòng Đức Chúa Trời nếu chúng ta ăn, chẳng được ích gì, bằng không ăn, cũng chẳng tổn gì.” (ICôr 8:8).
Rất có thể những lời chỉ dạy của Đức Chúa Trời về các thức ăn do Môi-se ban bố vốn có các lý-do cả thuộc-thể lẫn thuộc-linh.
Nhưng vấn-đề mà Phao-lô đưa ra đây thì khác hẳn. Nếu một người cảm thấy mình cần kiêng cữ một vài thức ăn nào đó thì sẽ được khoẻ mạnh hơn, thì người ấy nên kiêng cữ và chăm lo cho thân thể mình.
Nhưng người ấy không nên phê phán nhiều người khác có thể ăn thức ăn ấy, cũng không nên dùng nó để trắc-nghiệm một đời sống thuộc-linh. Rô 14:1-15:32 là khúc sách then chốt về đề tài này.
Nhưng hệ thống luật-lệ không phải chỉ gồm có việc kiêng ăn mà thôi nó còn gồm cả việc giữ ngày nữa. Một lần nữa, việc này vốn cũng vay mượn của các điều luật do Môi-se ban bố. Những người Do-thái thời Cựu-ước được truyền dạy phải giữ ngày Sa-bát hằng tuần, tức là ngày thứ bảy mỗi tuần lễ (Xu 20:9-11).
Gọi Chúa nhật là “ngày Sa-bát của Cơ-đốc giáo” thì thật là sai lầm, vì Tân-ước không hề quy định như thế. Nó là “ngày của Chúa” (Kh 1:10 ngày thứ nhất trong tuần lễ (ICôr 16:2; Công 20:7), ngày để kỷ niệm sự sống lại từ kẻ chết, ngày đắc thắng của Chúa Giê-xu Christ (Gi 20:1,19,26).
Dân Do-thái cũng có các ngày lễ riêng (Lê 25:1-55) và các kỳ lễ đặc biệt mừng “trăng mới” (Ês 1:13). Tôn giáo của họ gắn liền với niên lịch. Nhưng mọi việc đó vốn có chức năng thích đáng dưới thời đại cũ, chớ không có ý định sẽ trở thành một phần vĩnh viễn của đức-tin dưới thời đại mới (Gi 1:17).
Luật-pháp giống như một giáo viên có nhiệm-vụ giúp đào tạo và sửa trị dân Y-sơ-ra-ên lúc họ hãy còn là một dân tộc ấu trĩ, chuẩn bị họ cho sự đến của Đấng Mê-si-a.
Nhưng bây giờ thì Chúa Giê-xu đã đến, người giáo-viên kia không còn cần thiết để thực hiện những chức năng như thế nữa (Ga 3:24-4:11).
Phải chăng nói như thế có nghĩa là bảo rằng luật-pháp Cựu-ước chẳng còn có giá-trị gì đối với các Cơ-đốc nhân của thời Tân-ước? Dĩ nhiên là không phải! Luật-pháp vẫn còn vạch rõ cho mọi người thấy sự thánh-khiết của Đức Chúa Trời, và người ta có thể nhìn thấy Chúa Giê-xu Christ trong luật-pháp nữa (Lu 24:27).
“Vả chúng ta biết luật-pháp vẫn tốt lành cho kẻ dùng ra cách chánh đáng.” (ITim 1:8).
Luật-pháp chỉ cho người ta thấy tội-lỗi và các hậu quả của tội-lỗi –nhưng chẳng có quyền-năng gì để ngăn ngừa tội-lỗi hay cứu-chuộc tội-nhân. Chỉ có ân-điển mới làm được việc ấy mà thôi.
(3) Phước hạnh của ân-điển (Côl 2:17).
Luật-pháp chỉ là bóng, còn trong Đấng Christ, chúng ta có hình thật, có phần thực thể
“Vả, luật-pháp chỉ là bóng của sự tốt lành ngày sau, không có hình thật của các vật, nên không bao giờ cậy tế-lễ mỗi năm hằng dâng như vậy, mà khiến kẻ đến gần Đức Chúa Trời trở nên trọn-lành được.” (Hêb 10:1).
Tại sao lại phải trở lui, đi vào trong bóng tối trong khi chúng ta đã có sự thực trong Chúa Giê-xu Christ? Làm như thế thì có khác gì thả mồi bắt bóng?
Người làm ra vẻ ta đây “có đạo” chỉ kiêng ăn giữ ngày ở mặt ngoài để chứng tỏ ta là người thuộc-linh, nhưng những cách làm ấy không thay đổi được tấm-lòng của họ. Luật-pháp chủ nghĩa là một điều phổ biến tầm thường vì bạn có thể dùng nó để “đo” đời sống thuộc-linh của mình – và thậm chí khoe khoang về nó nữa! Nhưng nó thua kém rất xa, so với việc tự đo mình bằng các chuẩn mực của Đấng Christ (Êph 4:13).
2. “Đừng để ai lừa dối anh em về phần thưởng của mình” (Côl 2:18-19).
Từ ngữ được dịch là cướp lấy phần thưởng ở đây có nghĩa là: ”tuyên bố không xứng đáng được nhận phần thưởng”. Nó là một thuật ngữ của bộ môn điền kinh: người trọng tải phủ nhận các thành tích của người tranh giải vì anh ta không tuân thủ kỷ-luật. Người tranh giải vẫn không bị truất quyền công-dân, nhưng bị tước đoạt cái vinh dự giật giải thưởng.
Một Cơ-đốc nhân không vâng-theo lời chỉ dẫn của Đức Chúa Trời không bị mất sự cứu-rỗi, nhưng bị mất lời khen ngợi của Chúa và phần thưởng Ngài chỉ hứa-ban cho những người trung-tín (ICôr 3:8).
Đức Chúa Trời hứa-ban phần thưởng cho những ai phục-vụ Ngài là một hành động ân-huệ. Có điều chắc chắn là Ngài đã chẳng mắc nợ chúng ta gì cả! Chúng ta phải tri-ân Ngài vì đã cứu mình khỏi bị phán-xét, đến mức phải phục-vụ Ngài cho dù có được phần thưởng hay không.
Có lẽ phần đông các tôi-tớ Đức Chúa Trời đều vâng-lời Ngài vì yêu mến Ngài và tận-hiến, chớ chẳng bao giờ nghĩ đến các phần thưởng. Cũng như trong hỏa-ngục có nhiều mức-độ trừng phạt (Mat 23:14) trên thiên-đàng cũng sẽ có nhiều mức-độ của sự vinh-hiển – tuy toàn thể các tín-hữu đều sẽ giống như Chúa Cứu Thế trong thân thể vinh-hiển của mình.
Ông cụ người Thanh giáo là Thomas Watson đã nói chí lý rằng: “Tuy tất cả các bình-an của sự thương-xót (trên thiên-đàng) đều được đổ đầy, thế nhưng cái này có thể chứa đựng nhiều hơn cái kia”.
Thế thì, có thể có nguy cơ là đời sống của chúng ta hiện nay sẽ cướp mất phần thưởng và sự vinh-hiển tương lai của chúng ta. Nguy cơ đặc biệt mà Phao-lô đang nghĩ đến là thần-bí chủ nghĩa tức là niềm tin rằng người ta có thể từng-trải được ngay tức khắc về thế giới thuộc-linh hoàn toàn chẳng cần gì đến Lời Đức Chúa Trời hay Đức Thánh Linh.
Các giáo-sư giả tại Cô-lô-se có khải-tượng và tiếp xúc được với các thiên-sứ. Họ bất cần Lời Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh, và tự mở đường cho mình tiến vào đủ loại hành động ma quái – vì Sa-tan vốn biết cách giả mạo các từng-trải ấy để lừa dối người ta (IICôr 11:13-15).
Từ ngữ được dịch là “giả đò” là một thuật ngữ được các tôn-giáo thần-bí thời bấy giờ sử dụng. Nó có nghĩa là “đặt chân vào phần bên trong của điện thờ để bắt đầu nhận được đầy đủ các huyền-nhiệm của tôn-giáo”. Chẳng hề có Cơ-đốc nhân nào lại phải trải qua một nghi lễ “nhập môn” rồi mới được vào trước hiện diện của Đức Chúa Trời.
Chúng ta đều có thể “nhờ huyết Đức Chúa Giê-xu được dạn dĩ vào nơi rất thánh” (Hêb 10:19). Chúng ta có thể “vững lòng đến gần ngôi ơn phước” (Hêb 4:16). Còn về vấn-đề thờ lạy các thiên-sứ thì họ chỉ là các tôi-tớ phục-vụ chúng ta mà thôi”. Các thiên-sứ “đều là thần hầu-việc Đức Chúa Trời, đã được sai xuống để giúp việc những người sẽ hưởng cơ nghiệp cứu-rỗi” (Hêb 1:14).
Lẽ dĩ nhiên tất cả những gì thuộc về phần nghi lễ thần-bí này đều được bọc trong một thái-độ khiêm-tốn giả tạo, chớ thật ra chỉ là sự biểu hiện của thói kiêu-ngạo. Người Trí-huệ phái ngụ ý nói rằng: “Tôi không thánh thiện đủ để đến gần Đức Chúa Trời, nên sẽ bắt đầu đến gần với một trong các thiên-sứ”.
Tìm cách đến với Đức Chúa Cha nhờ môi giới của một ai khác hơn Con Ngài là Chúa Giê-xu Christ, tức là thờ thần-tượng Chúa Giê-xu Christ là Đấng Trung Bảo (Người đứng trung gian) duy nhất giữa Đức Chúa Trời và con người (ITim 2:5; Gi 14:6).
Nhiều người thờ-phượng thông qua các thiên-sứ hay các thánh hiện ở thiên-đàng không chứng-tỏ là mình khiêm-tốn, vì không chịu đầu-phục uy-quyền của Lời Đức Chúa Trời. Sự thật là người ấy bộc lộ một thứ kiêu-ngạo tế nhị nhằm thay thế Lời Đức Chúa Trời bằng các truyền thuyết nhân tạo.
“Chớ để cho những kẻ kia cướp lấy phần thưởng chạy thi, là kẻ giả đò khiêm-nhượng mà muốn thờ lạy các thiên-sứ” (Côl 2:18).
Sự thờ-phượng thật bao giờ cũng khiến cho một người biết tự hạ-mình. Tâm-trí người ấy khiếp sợ trước tính cách vĩ đại của Đức Chúa Trời tấm-lòng người ấy được đổ đầy tình yêu mến đối với Đức Chúa Trời còn ý chí người ấy thì đầu-phục chủ đích của Đức Chúa Trời cho đời sống mình.
Tuy nhiên, những người theo Trí-huệ phái vốn quan tâm trước hết đến “kiến-thức thuộc-linh sâu-nhiệm” mà chẳng đếm xỉa gì đến chân-lý của Đức Chúa Trời. Các “bí mật nội tâm” của họ tạo ra cho họ một cái đầu thật to, nhưng không tạo được cho họ một tấm-lòng nhiệt thành hay một ý chí biết thuận-phục.
“Về vấn-đề của cúng thần-tượng, chúng ta đều có kiến-thức cả. Nhưng kiến-thức dễ sinh kiêu-căng còn lòng yêu thương xây dựng cho nhau” (ICôr 8:1).
Thiết tưởng cần lưu ý rằng một từng-trải thuộc-linh chân-chính với Đức Chúa Trời dẫn đến sự thuận-phục và phục-vụ.
-Lúc Gióp gặp Đức Chúa Trời, ông nói: “Trước lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ mắt tôi đã thấy Ngài: Vì vậy tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn-năn trong tro bụi.” (Giop 42:5,6).
-Phi-e-rơ đã sấp mặt xuống trước mặt Chúa và thưa rằng: “Thấy việc lạ xảy ra, Phi-e-rơ quỳ xuống trước mặt Chúa: “Lạy Chúa, xin ra khỏi tôi, vì tôi là người có tội” (Lu 5:8).
-Ê-sai đã thấy Đức Giê-hô-va và thú nhận mình là kẻ tội-lỗi như thế nào (Ês 6:1-13) còn khi nhìn thấy Đấng Christ Phục Sinh,
-Giăng đã ngã xuống chân Ngài như người chết vậy (Kh 1:17).
Thái-độ quá dễ dãi mà một số người đến gần Đức Chúa Trời khi cầu-nguyện hay nói về Ngài khi làm chứng hay trò chuyện, nhiều khi gần như là lộng ngôn. Giám-mục Westcott một bậc thánh người Anh, tác giả nhiều bộ sách chú giải Thánh Kinh đã được dùng làm sách giáo khoa, có lần viết: “Mỗi năm đều khiến tôi run rẩy trước thái-độ táo bạo mà người ta nói về những điều thuộc-linh”.
Tai hại thay, loại “tôn-giáo hư-không của tâm-trí xác thịt tự cao này chỉ là một cách thay thế quá đạm bạc cho chất dinh dưỡng thuộc-linh chân-chính từ Chúa Giê-xu Christ là cái Đầu của thân thể, cho Hội thánh Ngài. Đây là một trong nhiều khúc sách của Tân-ước tả vẽ Hội thánh là thân thể của Đấng Christ! (Rô 12:4; ICôr 12:1-14:40; Êph 4:4-16; Côl 1:18,24).
Toàn thể chúng ta, với tư cách tín-hữu, đều là các chi thể của thân thể thuộc-linh, là Hội thánh, vì đây là công việc của Đức Thánh Linh (ICôr 12:12-13). Là Cơ-đốc nhân, chúng ta phục-vụ lẫn cho nhau trong thân thể, như các chi thể khác nhau trong thân thể con người phục-vụ lẫn cho nhau vậy (ICôr 12:14tt).
Nhưng nếu tín-hữu không hấp thu được chất dinh dưỡng thuộc-linh đến từ Đấng Christ và các Cơ-đốc nhân khác, người ấy sẽ trở thành yếu đuối. Các giáo-sư giả đã không giữ mình gắn liền được với cái Đầu, cho nên họ bị suy dinh dưỡng thuộc-linh nhưng họ lại tưởng mình là các chuyên gia thuộc-linh. Bạn hãy thử tưởng tượng mình là một người khổng lồ, trong khi thật ra mình chỉ là một người tí hon, mà xem!
Các giáo-sư giả nóng lòng muốn có thêm nhiều tín-đồ mới cho “đạo” của họ nhưng thân thể thuộc-linh thì tăng-trưởng nhờ việc nuôi-dưỡng chớ không phải là nhờ việc cộng thêm vào. Mỗi một chi thể của thân thể Đấng Christ, kể cả “các lắt léo” (khớp xương và gân) đều quan-trọng cho sức khỏe và sự tăng-trưởng của thân thể.
Bất chấp ân-tứ thuộc-linh của bạn có là gì, bạn đều quan-trọng cho Hội thánh. Thật vậy, một số người có thể không có những chức-vụ công khai ngoạn mục, có lẽ cũng quan-trọng phía sau hậu trường y như những người xuất hiện trước công chúng vậy.
Chính nhờ thờ-phượng, cầu-nguyện và Lời Chúa mà chúng ta hấp thụ các tiềm-lực thuộc-linh của Đấng Christ. Tất cả chúng ta phải là một phần của Hội thánh địa phương, nơi chúng ta có thể thi thố các ân-tứ thuộc-linh riêng (Êph 4:11-17).
“Đức Thánh Linh tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được sự ích chung” (ICôr 12:7).
Tân-ước không có nói gì đến các “thánh-đồ cô lập” bên ngoài chi hội địa phương.
Nhưng người ta có thể thuộc về một chi hội địa phương mà chẳng hấp thu được gì từ cái Đầu và chất dinh dưỡng của thân thể thuộc-linh. Các giáo-sư giả tại Cô-lô-se tìm cách nhồi nhét những lời truyền dạy của họ vào trong hội chúng địa phương, và nếu họ thành công, chắc đã khiến cho phần dinh-dưỡng thuộc-linh bị kém đi thay vì tăng thêm.
Trừ phi khi các thành-viên của chi hội địa phương cứ ở trong Đấng Christ, đầu-phục Đức Thánh Linh, và vâng-giữ Lời Chúa, họ không thể kinh-nghiệm được sự sống của Đầu, tức là Chúa Giê-xu Christ.
“Thần-bí chủ nghĩa” trong tôn-giáo vốn có sự mê hoặc lôi cuốn người ta. Học tập các bí quyết làm quen với những bí mật nội tâm, và tiếp xúc với thế giới thần-linh thoạt nhìn đều có vẻ đầy phấn khởi.
Nhưng những việc làm đó đã bị Đức Chúa Trời thẳng thắn lên án. Cơ-đốc nhân chân-chính tự hào về Đấng Christ, chớ không phải vì chính kinh-nghiệm, từng-trải của riêng mình. Người ấy vâng-theo Lời Chúa, chịu sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh, và ở trong Đấng Christ mà một khi đã sống như thế, người ấy sẽ từng-trải được phước hạnh và kết quả. Người ấy không tìm cầu một từng-trải nào khác hơn là từng-trải nối liền mình vào Đầu, là Chúa Giê-xu Christ.
3. “Đừng để ai bắt anh em làm nô-lệ” (Côl 2:20-23)
Phao-lô đã kết án luật-pháp chủ nghĩa và thần-bí chủ nghĩa tiếp theo đây, ông công kích và lên án khắc khổ chủ nghĩa. Người tu khổ hạnh thực hạnh việc tự chối mình khắt khe, thậm chí tự ép xác để trở thành thuộc-linh hơn.
Các tập quán ép xác khổ tu vốn phổ biến trong thời Trung cổ: mặc áo lót bằng lông sát da, ngủ trên giường chông, tự đánh mình băng roi vọt cấm khẩu nhiều ngày (thậm chí nhiều năm) không ăn cũng chẳng ngủ v.v...
Đã có mối liên-hệ nhất định, giữa luật-pháp chủ nghĩa và khắc khổ chủ nghĩa, vì người khổ tu thường thì ép mình tuân thủ các luật-lệ và quy-tắc: “Chớ lấy, chớ nếm, chớ rờ” (Côl 2:21). Một số thức ăn hoặc tập quán bị cho là bất khiết, cần phải xa lánh. Nhiều tập quán khác là thánh-khiết và không bao giờ được phép chểnh mảng. Cả cuộc đời khổ tu khổ hạnh bị gói chặt trong một hệ thống kỷ-luật, sửa trị thân xác.
Là Cơ-đốc nhân, chúng ta thừa nhận rằng sửa mình là cần thiết trong đời sống. Nhiều người trong chúng ta ăn quá nhiều nên có trọng lượng quá mức. Một số người trong chúng ta uống quá nhiều cà-phê hoặc thức uống có chất cola nên hay nóng nảy và bồn chồn.
Chúng ta tin rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh (ICôr 6:19-20) thế nhưng nhiều khi chúng ta không quan tâm đến thân thể mình như đáng phải chú ý đến nó.
Phao-lô viết: “Sự tập tành thân thể cũng có phần lợi ích” (ITim 4:8 theo bản NIV). Ông đối đãi nghiêm khắc với thân thể mình, bắt nó phải phục (ICôr 9:27). Cho nên trong đời sống Cơ-đốc, chúng ta cũng phải biết chăm-sóc phải lẽ cho thân thể mình.
Những người khổ tu hy vọng thánh hóa được linh hồn mình nhờ khép thân thể vào kỷ-luật, và đó là tà-giáo mà Phao-lô công kích. Như việc giữ ngày và kiêng ăn chẳng hề có chút giá-trị thánh hóa nào việc ép xác khổ tu cũng thế. Trong đoạn này, Phao-lô đưa ra nhiều luận cứ nhằm chứng-minh rằng Cơ-đốc nhân không nên lao vào khắc khổ chủ nghĩa trong tôn-giáo.
• Địa-vị thuộc-linh của Cơ-đốc nhân (Côl 2:20).
Khắc khổ chủ nghĩa có liên quan với những điều sơ học của thế-gian (các nguyên tố thô sơ của vũ trụ) chớ không phải là với các tiềm-lực phong phú của Nước Trời.
Trước đây, chúng ta đã thấy các từ ngữ những điều sơ học và biết rằng chúng có nghĩa là “những điều cơ bản hay những điều ABC của một vấn-đề gì đó” (Côl 2:8). Trường hợp ở đây “những điều sơ học của thế gian” ám chỉ các luật lệ, quy-tắc liên-hệ đến các thức ăn. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta đã “chết” đối với tất cả những điều đó vì đã hợp nhất với Chúa Giê-xu Christ trong sự chết, sự chôn và sống lại của Ngài (Côl 2:12-15; Rô 6:1-23).
Tuy chúng ta đang sống trong thế giới vật lý, nhưng theo phương diện thuộc-linh mà nói thì chúng ta không thuộc về thế-gian này (Gi 7:15-16). Chúng ta đã được chuyển vào Nước Trời rồi (Côl 1:13), do đó chúng ta tự cai-trị đời sống mình theo luật của Chúa chớ không phải là theo luật của loài người.
Nói như thế không có nghĩa là gợi ý rằng các Cơ-đốc nhân sống bất chấp pháp luật. Có lần một học sinh trong một trường học Cơ-đốc giáo nói với tôi rằng nếu cậu ta tuân thủ pháp-luật thì cậu ta là người “không thuộc-linh”! Tôi đã nhắc nhở cậu ta rằng các Cơ-đốc nhân phải luôn luôn tôn trọng uy-quyền của những người có chức-vụ cao hơn họ (IPhi 2:11tt) và chắc cậu ta đã phải biết rõ các luật-lệ quy-tắc trước khi được vào ký túc xá.
Nếu cậu ta không thích chúng, thì có thể cứ ở nhà! Ở đây, không phải là Phao-lô khuyên chúng ta nổi loạn, mà cảnh cáo chúng ta rằng đừng tưởng mình là người thuộc-linh nhờ vâng giữ một số luật-lệ quy-tắc liên-hệ đến thân thể.
• Các luật lệ khổ tu đều vô bổ (Côl 2:21,22).
Để bắt đầu, các luật-lệ ấy không đến từ Đức Chúa Trời chúng chỉ do loài người bày đặt ra mà thôi. Đức Chúa Trời “ban mọi vật dư dật cho chúng ta được hưởng” (ITim 6:17). Các thức ăn đã được tạo nên “cho những kẻ có lòng tin ... tạ-ơn mà dùng lấy” (ITim 4:3).
Nhưng các “mệnh-lệnh và giáo thuyết” của các giáo-sư giả lại được đem vào để thay thế cho Lời Đức Chúa Trời (Mat 6:7-9). Các giáo thuyết là những gì các giáo-sư giả tin các mệnh-lệnh (điều răn) là những quy-tắc họ đưa ra để áp dụng các giáo thuyết của họ vào sinh hoạt thực tế hằng ngày.
Đức Chúa Trời ban các thức ăn cho người ta dùng, và “hễ dã dùng đến” thì chúng đều “hư nát” (Côl 2:22) Chúa Giê-xu từng giải thích rằng thức ăn đi vào dạ dày, chớ không phải là vào trái tim (tấm-lòng) (Mac 7:18tt). Người từ chối một vài thức ăn nào đó vì sợ chúng làm ô uế mình, thì không hiểu cả lời truyền dạy của Chúa Giê-xu lẫn của Phao-lô.
“Tôi biết và tin chắc trong Đức Chúa Giê-xu rằng: chẳng có vật gì vốn là dơ dáy chỉn có ai tưởng vật nào là dơ dáy, thì nó là dơ dáy cho người ấy thôi.” (Rô 14:14).
Nhiều người trong chúng ta hay hấp tấp chỉ trích các tu sĩ đời xưa, các nhà thần-bí học phương Đông và các tu sĩ khổ hạnh Ấn-giáo hoặc Hồi-giáo, nhưng lại không nhìn thấy cùng một sai lầm như thế ngay trong các Hội thánh của chúng ta. Trong lúc việc giữ kỷ-luật thân thể và sức khỏe có sự liên-hệ nhất định với nhau, thì chẳng hề có mối liên-hệ nào cả giữa việc giữ kỷ-luật như thế với sự thánh-khiết.
Nếu chúng ta tự nguyện kiêng cữ một số thức ăn thức uống để khỏi gây cớ vấp phạm cho một Cơ-đốc nhân khác yếu đuối hơn (Rô 14:13tt), thì đó là một chuyện. Nhưng chúng ta không nên nói rằng việc kiêng cữ đó của mình khiến mình thuộc-linh hơn một anh em khác đã dùng thức ăn ấy kèm theo lời tạ-ơn Đức Chúa Trời (Rô 14:6).
• Sự lừa dối của khắc khổ chủ nghĩa (Côl 2:23).
Người thực hành khắc khổ chủ nghĩa được “tiếng” là “thuộc-linh”, nhưng sản phẩm của nó không có giá-trị ngang hàng với những gì thiên-hạ đề cao nó. Tôi rất ngạc nhiên với cách thức mà nhiều người có học vấn trong số các tín-hữu tại Hoa-kỳ coi trọng và chịu nghe lời các gurus (sư-phụ theo Ấn-giáo) và các lãnh tụ tinh thần của phương Đông khác nữa, vốn có những lời truyền dạy chẳng làm thay đổi được tấm-lòng người ta.
Sự “thờ-phượng tự áp đặt” đó không phải là sự thờ-phượng Đức Chúa Trời với tấm-lòng chân-thành vốn phải là “đúng cách và theo Thánh Linh hướng dẫn” (Gi 4:24 bản dịch diễn ý). Sự khiêm-hạ của họ là giả dối, và việc ép xác khổ tu đó chẳng có tác dụng gì đến phần nội tâm (con người bề trong) cả.
Việc rèn luyện đức tự chủ thật tốt hơn việc nhường bước cho các ham muốn của xác thịt dầu vậy, chúng ta không nên lầm tưởng rằng một sự tự chủ như thế là cần thiết cho những thúc đẩy thuộc-linh. Những người khổ hạnh của nhiều tôn-giáo không phải là Cơ-đốc giáo đã đưa ra chứng cứ về đức tự chủ đáng khâm phục của họ.
Những người theo phái khắc kỷ với triết-lý khổ hạnh của họ rất nổi tiếng trong thời của Phao-lô. Các môn-đệ của họ có thể sao chép lại bất cứ một kỷ-luật nào mà các giáo-sư Trí-huệ phái đã quan tâm giới thiệu.
Quyền năng của Đấng Christ trong đời sống người tín-hữu làm nhiều việc hơn là chỉ kìm chế các ham muốn của xác thịt nó làm mới lại các ước muốn trong lòng chúng ta.
• Bản tính quyết định các tham muốn.
Cơ-đốc nhân có chính bản tính của Đức Chúa Trời bên trong mình (IIPhi 1:4), và điều đó có nghĩa là người ấy có các cao vọng và hoài bảo tin kính. Người ấy chẳng cần luật-pháp bên ngoài cai trị kiểm soát các ham muốn dục vọng của mình, vì người ấy đã có sự sống, ngay từ bên trong!
Các luật-lệ khắc khe của khắc khổ chủ nghĩa “chẳng có giá trị gì để kìm hãm thói khoan dung đối với nhục cảm” (Côl 2:23 theo bản NIV).
Nếu có làm được gì, thì cuối cùng, nó cũng chỉ đem tới điều tệ hại thay vì điều tốt lành. Trong phần kết thúc cho hai chương của bức thư này, Phao-lô đã giải thích thế nào sự sống mới tác động bên trong người tín-hữu để ban cho người ấy một đời sống thuần khiết và đắc thắng.
Đoạn sách này kết thúc chương thứ hai của sách Cô-lô-se, trong đó điểm nhấn mạnh là trên sự nguy hiểm. Phao-lô biện hộ cho địa-vị độc tôn của Chúa Giê-xu Christ, và bài bác các tà thuyết của luật-pháp chủ nghĩa và khắc khổ chủ nghĩa. Điều còn lại cho chúng ta bây giờ là tin vào những gì ông đã viết và thực hành các nguyên-tắc thuộc-linh đó.
Câu trả lời cho luật-pháp chủ nghĩa là thực tại thuộc-linh chúng ta có được trong Chúa Giê-xu Christ. Câu trả lời cho thần-bí chủ nghĩa là sự hợp nhất thuộc-linh với Đấng Christ, là Đầu của Hội thánh. Câu trả lời cho khắc khổ chủ nghĩa là địa-vị của chúng ta trong sự chết, sự chôn, và sống lại của Đấng Christ.
Chúng ta đưa tất cả những điều này ra thực hành hằng ngày khi thông-công với Đấng Christ qua việc thờ-phượng, Lời Chúa và cầu-nguyện. Hễ chúng ta đầu-phục Đức Thánh Linh, thì sẽ nhận được quyền-năng cần thiết cho sinh hoạt hằng ngày.
Nhờ sự thông-công với các tín-hữu khác, chúng ta có phần đóng góp thuộc-linh cho sự tăng-trưởng của thân thể, là Hội thánh, còn các chi thể khác của thân thể thì đóng góp cho chúng ta. Thật là một cách sống kỳ diệu tuyệt vời!
Đấng Christ có chiếm được địa-vị độc-tôn trong đời sống bạn không? Bạn có đang hấp thu quyền-năng thuộc-linh từ Ngài, hay đang lệ thuộc vào một “tôn-giáo” nhân tạo nào khác để thay thế?
8. THIÊN-ĐÀNG TRÊN ĐẤT (Côl 3:1-11)
Trong hai chương cuối cùng của sách Cô-lô-se, Phao-lô chuyển sang cách áp-dụng các giáo-lý ông vừa truyền dạy vào thực tế. Nói cho cùng, nếu Cơ-đốc nhân chỉ biết công-bố và bênh vực cho chân-lý, nhưng không bày tỏ nó trong cuộc sống thì chẳng được ích lợi bao nhiêu.
Có một số Cơ-đốc nhân sẵn sàng bảo vệ chân-lý ngay tức khắc, nhưng chính đời sống họ lại phủ nhận các giáo-lý mà họ tự xưng là họ yêu mến.
“Họ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng theo những việc làm thì đều từ chối Ngài, thật là đáng ghét, trái nghịch và không thể làm một việc lành nào hết.” (Tit 1:16).
Chúng ta phải nhớ luôn rằng các ngoại giáo vào thời của Phao-lô chỉ nói rất ít hay chẳng đề cập gì vấn-đề đạo đức cá nhân cả.
Nhưng đức tin của Cơ-đốc nhân đưa một ý niệm hoàn toàn mới mẻ vào trong xã hội ngoại đạo: điều chúng ta tin có liên-hệ chặt chẽ với cách ăn ở cư xử của chúng ta! Khi đức-tin đặt vào Đấng Christ có nghĩa là được hợp nhất với Đấng Christ mà nếu chúng ta đã được dự phần vào sự sống của Ngài, thì cũng phải noi gương của Ngài.
Ngài không thể sống trong chúng ta bởi Thánh Linh Ngài, mà cứ cho phép chúng ta phạm tội. Trong phần này Phao-lô đã gắn liền giáo-lý vào với nhiệm-vụ bằng cách đưa ra cho các độc-giả 3 lời chỉ giáo:
1. Hãy tìm các sự ở trên trời (Côl 3:1-4)
Phần này chứng minh mối liên hệ giữa người tín hữu với Đấng Christ.
• Chúng ta đã chết với Đấng Christ (Côl 3:3a).
Lời giải thích đầy đủ nhất cho chân-lý diệu kỳ này là trong Rô 6:1-8:39. Đấng Christ chẳng những đã chịu chết vì chúng ta thay thế mà chúng ta còn cùng chịu chết với Ngài nữa (đồng nhất hóa). Đấng Christ không những chỉ chết vì cớ tội lỗi, gánh hết sự trừng phạt dành cho nó mà còn chết đối với tội-lỗi, để đập tan quyền lực của nó nữa.
Vì nhờ công tác của Đức Thánh Linh, chúng ta đã được “ở trong Đấng Christ” (ICôr 12:13), thì cũng đã cùng chết với Đấng Christ. Điều này có nghĩa là chúng ta có thể chiến thắng bản tính tội-lỗi cũ, bản tính muốn nắm quyền chúng ta.
“Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội-lỗi, lẽ nào còn sống trong tội-lỗi nữa?” (Rô 6:2).
• Chúng ta sống trong Đấng Christ (Côl 3:4).
Đấng Christ là sự sống của chúng ta. Sự sống đời-đời không phải là một chất liệu nào đó trên thiên-đàng mà Đức Chúa Trời san sớt cho chúng ta khi chúng ta là những tội-nhân bằng lòng tin nhận Ngài làm Cứu Chúa mình.
Sự sống đời-đời là chính Đấng Christ.
“Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống” (IGi 5:12).
Chúng ta vừa chết đi vừa sống lại đồng thời –chết đi đối với tội-lỗi và sống lại trong Đấng Christ.
Có người đã nói: “Sự sống là điều mà bạn có sự hiểu biết đầu đủ”. Một đứa trẻ bừng tỉnh khi nghe bạn kể lại một trận đấu bóng tròn hay khi thấy một cây kem. Một thiếu niên có thể trở thành sống động khi bạn nói về những chiếc ô-tô hay những cuộc hẹn hò.
Phao-lô đã viết: “Vì Đấng Christ là sự sống của tôi” (Phi 1:21). Đấng Christ là sự sống của Phao-lô, và ông chỉ sống động với về những gì có liên quan với Đấng Christ. Mỗi Cơ-đốc nhân cũng cần phải như vậy.
Nhiều năm trước đây, tôi có nghe một câu chuyện kể về 2 chị em nọ thích dự các vũ hội và các đám tiệc cuồng loạn. Rồi họ ăn năn quy đạo và tìm được một đời sống mới trong Đấng Christ. Họ nhận được một thiệp mời dự một buổi, và viết thư trả lời như sau: “Chúng tôi rất tiếc là không thể đến dự vì chúng tôi vừa mới chết”.
Chúng ta được (khiến) sống lại với Đấng Christ (Côl 3:1). Có thể chúng ta đã sống lại rồi, nhưng vẫn còn sống trong mồ mả. Trong Thế chiến II, người dân tị-nạn Do-thái phải trốn trong một nghĩa-địa, và một em bé đã thật sự được sinh ra trong một hầm mộ.
Tuy nhiên lúc Chúa Giê-xu ban cho chúng ta sự sống của Ngài, Ngài đã đưa chúng ta ra khỏi phần mộ để đặt chúng ta lên ngôi Ngài trên thiên-đàng! Đấng Christ đang ngự bên hữu Đức Chúa Trời, và chúng ta được cùng ngồi đó trong Đấng Christ.
Chữ nếu không ngụ ý rằng các độc-giả và Phao-lô có thể đã không được “khiến sống lại với Đấng Christ”, vì tất cả chúng ta là tín-hữu, đều được đồng nhất hóa với Đấng Christ trong sự chết, sự chôn, sống lại và thăng-thiên. Chữ vì (c.3) đưa ra ý nghĩa đúng hơn. Địa-vị được tôn cao của chúng ta trong Đấng Christ không phải chỉ là giả thiết, hay một mục tiêu phải phấn đấu để đạt được. Nó là một sự kiện đã hoàn tất.
Chúng ta đã (được) giấu trong Đấng Christ (Côl 3:3). Chúng ta không còn thuộc về thế-gian nữa, mà đã thuộc về Đấng Christ và các nguồn sự sống mà chúng ta được hưởng chỉ từ Ngài mà đến. “(Được) giấu trong Đấng Christ” có nghĩa là được an-toàn và mãn nguyện.
Học-giả lừng danh về Hi-văn, Tiến-sĩ A.T.Robertson giải nghĩa việc này như sau: “Vậy chúng ta đang ở trong Đấng Christ, mà Đấng Christ thì ở trong Đức Chúa Trời, nên chẳng có một tên trộm nào, kể cả chính Sa-tan, lại có thể tách rời chúng ta khỏi tình yêu của Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-xu Christ” (Rô 8:31-39) (Paul and the Intellectuals, Broedman, p.98).
Đời sống của Cơ-đốc nhân là một cuộc đời “được giấu kín” đối với thế-gian, vì thế-gian, không biết Đấng Christ (IGi 4:1-6). Bầu không khí để chúng ta sống không phải là thế-gian này, nhưng là thiên-đàng và những điều thu hút, tạo phấn khởi cho chúng ta đều thuộc về trời, chớ không phải thuộc về đất.
Nói như thế không có nghĩa là bảo rằng chúng ta phải bỏ qua các trách-nhiệm trên đất này của mình. Trái lại, nó có nghĩa là các động cơ thúc đẩy và các nguồn sức lực của chúng ta phải bắt nguồn từ thiên-đàng, chớ không phải là từ đất này.
Chúng ta được vinh-hiển trong Đấng Christ (Côl 3:4). Đấng Christ hiện đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, nhưng có một ngày, Ngài sẽ trở lại để đưa những người thuộc về Ngài về nhà (ITês 4:13-18). Lúc Ngài làm việc ấy, chúng ta sẽ cùng vào sự vinh hiển đời-đời với Ngài.
Lúc Ngài được bày tỏ trong vinh-hiển thì chùng cũng được bày tỏ trong vinh-hiển. Theo Phao-lô thì chúng ta đã được “vinh-hiển” rồi (Rô 8:30). Thế nhưng sự vinh-hiển này vẫn chưa được bày tỏ Đấng Christ đã ban cho chúng ta sự vinh-hiển của Ngài, nhưng sự bày tỏ trọn-vẹn của vinh-hiển đó còn phải chờ cho đến lúc Cứu Chúa tái-lâm (Rô 8:17-25) đã.
Hiện nay, do việc chúng ta đã được đồng nhất hóa kỳ diệu với Đấng Christ, chúng ta có một trách-nhiệm quan-trọng: “Hãy tìm các sự ở trên trời” (Côl 3:1).
Qua sự chết, sự chôn, sống lại và thăng-thiên của Đấng Christ, chúng ta đã được tách rời khoỉ cuộc đời cũ của thế-gian này, và giờ đây chúng ta đã thuộc về một đời sống mới trên thiên-đàng.
Nhưng làm thế nào để chúng ta “tìm các sự ở trên trời?”. Bí quyết được tìm thấy trong câu “Hãy tập thói quen đặt tâm trí – sự chú ý của - mình vào các việc ở trên trời, chớ không phải là những điều ở dưới đất này” (dịch đúng nghĩa đen). Chân của chúng ta phải đặt trên đất, nhưng tâm-trí chúng ta phải ở trên trời.
Nói như thế không có nghĩa ngụ ý (như D.L.Moody thường nói) là chúng ta phải trở thành “người đặt tâm-trí vào thiên-đàng đến nỗi chẳng còn ích lợi gì cho thế-gian này nữa”. Nó có nghĩa là mọi công việc thực tế hằng ngày của đời sống chúng ta đều phải nhận được sự chỉ dẫn của Đấng Christ đang ở trên trời. Nó còn có nghĩa sâu-nhiệm hơn nữa, là chúng ta phải nhìn đất này theo quan-điểm của thiên-đàng.
Lúc đến dự một hội nghị tại Washington D.C., tôi có theo dõi một buổi họp Thượng nghị viện trên TV. Tôi tin rằng họ đang xem xét việc gởi một tân đại-sứ đến Liên Hiệp quốc. Cố Thượng nghị sĩ Hubert Humphrey đã đưa ra một nhận xét lúc tôi mở máy thu hình ra: “Quý vị phải nhớ rằng trong chính trị, quý vị đứng thế nào tùy thuộc vào chỗ ngồi của quý vị”.
Lẽ dĩ nhiên là ông ta muốn ám chỉ chỗ ngồi theo đảng phái đã được sắp xếp tại Thượng nghị viện, nhưng tôi đã lập tức ứng-dụng cho vị-trí của tôi trong Đấng Christ. Cách tôi đứng – và bước đi – tùy thuộc vào chỗ tôi ngồi, mà tôi thì đang cùng ngồi với Đấng Christ trong các nơi trên trời!
Lúc dân Y-sơ-ra-ên đến gần biên giới Đất Hứa họ đã từ chối không chịu vào và do lòng vô-tín ngoan cố của mình họ đã phải lưu lạc trong hoang mạc suốt 40 năm (Dan 13:1-14:45. Cả thế hệ đó, bắt đầu với những người từ 12 tuổi, đã phải chết trong hoang mạc, ngoại trừ Ca-lép và Giô-suê, hai thám tử duy nhất đã tin Đức Chúa Trời.
Làm thế nào Ca-lép và Giô-suê có thể “chiến thắng” suốt 40 năm khó khăn trong hoang mạc đó? Vì tâm-trí họ đã đặt vào xứ Ca-na-an. Họ biết mình có một phần gia tài đang chờ đợi mình, và họ sống trong ánh sáng của phần di-sản đó.
Nữ hoàng Anh quốc sở dĩ có được một số quyền lực và đặc quyền vì được ngự trên ngai vàng. Tổng thống Hoa-kỳ sở dĩ có nhiều đặc quyền và thế lực nhờ chỗ ngồi phía sau chiếc bàn hình bầu dục của Tòa Bạch ốc. Người tín-hữu đang cùng ngự ngôi với Đấng Christ. Chúng ta phải luôn luôn giữ lòng thương yêu trìu mến và nhìn chăm vào mọi sự thuộc về thiên-đàng, nhờ Lời Đức Chúa Trời và cầu-nguyện, cũng như bằng sự thờ-phượng và phục-vụ. Chúng ta có thể hưởng được “những ngày trời ở trên đất” (Phuc 11:21) nếu cứ giữ tâm trí mình chăm chú vào các nơi trên trời.
2. Làm chết những điều thuộc về đất (Côl 3:5-9)
Bây giờ thì chúng ta chuyển từ phần tích cực sang phần tiêu cực. Có một số không thích cái tiêu cực. Họ nói: “Hãy giảng cho chúng tôi nghe các chân-lý tích cực. Hãy quyên lửng những lời khuyên răn tiêu cực đi”. Nhưng những lời khuyên răn tiêu cực vốn thoát thai từ các chân-lý tích cực của Cơ-đốc giáo. Chính vì thế mà Phao-lô mới viết: “Vậy, hãy làm chết...”.
Dù bạn có nói tích cực bao nhiêu về sức khỏe, nó vẫn chẳng cứu được một người mà ruột thừa đã bị thủng. Bác sĩ sẽ phải dùng biện pháp “tiêu cực” để cắt bỏ nó đi. Cho dù bạn có diễn thuyết bao nhiêu về vẻ đẹp đi nữa, nó cũng chẳng tạo ra được một cảnh vườn. Người làm vườn cần phải nhổ hết cỏ dại đi đã! Phần tích cực và phần tiêu cực phải đi đôi với nhau, và cái này mà thiếu cái kia sẽ đưa tới chỗ bị mất thăng-bằng.
Nhờ chúng ta đã cùng chết với Đấng Christ (c.3), chúng ta mới có quyền-năng thuộc-linh để giết chết những điều thuộc về đất này, các tham dục xác thịt vẫn muốn cai-trị kiểm soát chúng ta. Phao-lô gọi việc làm đó là tự “kể” như mình đã chết đối với tội-lỗi nhưng sống lại trong Đấng Christ (Rô 6:11).
Chúa chúng ta cũng dùng một ý ấy khi phán dạy: “Nếu con mắt bên hữu xui cho ngươi phạm tội, thì hãy móc nó mà quăng cho xa ngươi đi” (Mat 5:29,30).
Rõ ràng là cả Phao-lô lẫn Chúa Giê-xu đều không nói về việc giải phẫu theo nghĩa đen. Tội-lỗi không từ con mắt hay tay, chân mà ra nó vốn từ tấm-lòng, từ các tham dục trong lòng nảy sinh. Hồi mấy thế kỷ trước đây, tại Anh quốc, hễ một tên móc túi bị bắt quả tang phạm-tội, thì bàn tay phải của hắn phải bị chặt bỏ.
Nếu hắn bị bắt quả tang một lần thứ hai nữa thì bàn tay trái của hắn sẽ phải bị chặt bỏ. Có một tên móc túi đã bị chặt cả hai bàn tay, nhưng hắn ta vẫn tiếp tục “hành nghề” bằng hàm răng của mình! Giải phẫu phần thuộc thể chẳng hề thay đổi được tấm-lòng con người ta!
Chẳng những Phao-lô chỉ tiêu cực trong phân đoạn này, mà ông còn nêu đích danh các tội-lỗi ra nữa và một số người vốn không thích việc làm ấy. Các tội-lỗi này thuộc về cuộc đời cũ nên chẳng còn có vai trò, địa-vị gì trong đời sống mới của chúng ta trong Đấng Christ nữa.
Hơn nữa, sự phán-xét của Đức Chúa Trời giáng trên những người thực thi các tội-lỗi ấy mà Đức Chúa Trời thì chẳng tây-vị ai cả. Cơn thịnh nộ của Ngài sở dĩ giáng trên thế giới người ngoại quốc là vì cớ các tội-lỗi đó (Rô 1:18tt) và cơn thịnh nộ của Ngài sẽ còn giáng xuống nữa.
Phao-lô cảnh cáo: “Bởi những sự ấy cơn giận của Đức Chúa Trời giáng trên các con không vâng phục.” (Côl 3:6).
Tà-dâm ám chỉ tội vô luân vô đạo liên-hệ đến tình dục nói chung. Ô uế có nghĩa là “tham dục bất khiết liên hệ đến xa hoa lãng phí và sống phóng túng.” “Ham muốn xấu xa” mô tả tình trạng của tâm-trí khích động chuyện tình dục bất chính. Người nuôi-dưỡng loại ham muốn đó luôn luôn tìm cơ hội để thỏa mãn nó. Rõ ràng là tham muốn dẫn đến hành động. Nếu chúng ta muốn thanh lọc được các hành động của mình, thì trước hết, phải thanh lọc tâm-trí đã.
Điều chúng ta tham muốn thường quyết định cho việc chúng ta làm. Nếu tôi tạo cho con cái tôi sự thèm khát bánh kẹo, thì tôi phải thỏa mãn sự thèm khát đó. Nếu chúng trở nên quá béo phì và mất sức khoẻ, tôi phải thay đổi sự thèm ăn của chúng đi, và phải dạy chúng cách hưởng thụ các thức ăn khác hơn là đồ ngọt.
“Đức Chúa Trời tôi ôi! Xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, và làm mới lại trong tôi một thần-linh ngay thẳng” (Thi 51:10) phải là lời cầu-nguyện của chúng ta, vì chính từ tấm-lòng mà có các tham muốn xấu xa gian ác (Mac 7:21-23).
Sau khi đã kể tên các tội của nhục cảm, Phao-lô còn nói thêm “...tham-lam, tham-lam chẳng khác gì thờ hình-tượng” (Côl 3:5b). Tham-lam là tội luôn luôn muốn có nhiều hơn, dù là tài vật hay lạc thú. Kẻ tham-lam chẳng bao giờ thỏa mãn với những gì mình có, và thường ghen-tị với những gì người khác có. Đó là tội thờ thần-tượng, vì tham lam đặt tài vật vào chỗ đáng lẽ phải dành cho Đức Chúa Trời.
“Ngươi chớ tham lam” là điều răn cuối cùng trong Mười Điều Răn (Xu 20:17). Thế nhưng tội này có thể khiến chúng ta vi phạm tất cả 9 tội-lỗi kia! Một người tham lam sẽ làm ô danh Đức Chúa Trời, lấy danh Ngài “làm-chơi”, nói dối, trộm cắp và phạm đủ thứ tội-lỗi khác nên nhằm thỏa mãn các tham muốn tội-lỗi của mình.
Các tín-hữu trong các chi hội địa phương có phạm vào những tội như thế không? Rủi thay, thỉnh thoảng họ cũng có làm như thế. Mỗi một thư tín của Tân-ước gởi cho các chi hội địa phương đều đề cập các tội ấy và cảnh cáo chống lại chúng.
Tôi nhớ có một vị mục-sư đã giảng một loạt những bài giảng chống lại tội-lỗi của các thánh-đồ. Ngày nọ, một thành-viên trong Hội thánh đã thách thức ông và bảo rằng tốt hơn thì ông mục-sư nên giảng những sứ-điệp ấy cho những kẻ bị hư-vong kia.
Ông ta nói: “Dù sao thì tội-lỗi của một Cơ-đốc nhân cũng khác hơn tội-lỗi trong đời sống của những người khác”.
Vị mục-sư đáp: “Vâng, nó còn tồi tệ hơn nhiều!”.
Sau khi cảnh cáo chúng ta chống lại các tội-lỗi của nhục cảm, Phao-lô vạch rõ nguy cơ của các tội-lỗi xã hội (Co 3:8-9). Tiến-sĩ G.Campbell Morgan đã gọi đó là “các tội đang có chỗ đứng thật tốt”. Chúng ta thường tức giận, có thái-độ chê bai chỉ trích, nói dối và “nói chuyện tiếu lâm” giữa các tín-hữu với nhau đến độ không còn cảm thấy ngỡ ngàng hay bị cáo trách về những tội ấy nữa.
Chúng ta phải cảm thấy bị shock khi có một thành-viên trong Hội thánh phạm vào một số tội-lỗi của xác thịt như thế, nhưng chúng ta lại nhìn người ấy nổi giận trong một cuộc hội họp về chuyện làm ăn buôn bán và gọi đó là “nghĩa nộ”.
Bức tranh ở đây là về một người thay đổi y phục. “lột bỏ... mặc lấy” (c.9-10). Nó liên quan với sự Phục Sinh của Chúa Giê-xu Christ (Côl 1:1), vì khi Ngài từ chết sống lại, Chúa Giê-xu Christ đã bỏ các y phục để tẩm liệm lại sau lưng (Gi 20:1-10). Ngài đã bước vào đời sống lại quang vinh nên chẳng còn cần đến số y phục của mồ mả nữa.
Cũng thế, lúc La-xa-rơ được khiến từ chết sống lại, Chúa Giê-xu đã truyền cho mọi người “Hãy mở cho người, và để người đi” (Gi 11:44).
Áo xống trong mồ mả tiêu biểu cho cuộc đời cũ với các hành vi tội-lỗi của nó. Bây giờ, chúng ta đã có sự sống mới trong Đấng Christ rồi, thì phải sống theo “đời sống mới” bằng cách lột bỏ các y phục là các hành vi và ham muốn cũ (Rô 6:4) đi. Chúng ta làm việc ấy bằng cách thực tập giữ đúng địa-vị của mình trong Đấng Christ, bằng cách tự kể mình đã chết đối với đời sống cũ rồi để sống cho cuộc đời mới.
Phao-lô đã bắt đầu với sự thạnh nộ, buồn giận và hung ác – tức là các tội do thái-độ xấu đối với người khác. Hai từ ngữ thạnh nộ và buồn giận chỉ là một (Côl 3:6), ám chỉ cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời. Từ ngữ này đề cập các thái-độ quen thuộc, trong khi thịnh nộ mô tả cơn giận bùng nổ bất thần. Đức Chúa Trời có quyền tức giận khi nhìn thấy tội-lỗi và phán-xét nó, vì Ngài vốn thánh-khiết và công-bằng.
Thật vậy, có điều đã được gọi là “sự thạnh nộ công-chính” chống lại tội-lỗi, đáng lẽ phải là đặc điểm nơi các thánh-đồ (Êph 4:26). Nhưng chẳng ai trong chúng ta có quyền “thủ vai Đức Chúa Trời” để có thái-độ phán-xét tối hậu đối với người khác. Hung ác là thái-độ ác cảm, muốn điều xấu xảy đến cho người khác. Nếu chúng ta ác cảm với tha-nhân thì thường buồn bực khi thấy người ấy thành công, nhưng lại vui-mừng khi thấy người ấy gặp rắc rối đó là tội.
• Nói hành là lời gièm pha người khác và nhằm “hạ bệ” họ.
Giữa các Cơ-đốc nhân thường có chuyện ngồi lê đôi mách ác ý được nguỵ trang thành một mối quan tâm thuộc-linh: “Tôi chẳng bao giờ nói cho bạn biết những gì tôi được biết về bà ta, ngoại trừ vì tôi biết là bạn sẽ cầu-nguyện cho vấn-đề đó”. Nguyên nhân của tội nói hành là thói hung ác (IPhi 2:1). Nếu bạn có ác cảm sâu xa đối với một người nào, bạn sẽ lợi dụng mọi cơ hội để nói một điều xấu nào đó về người ấy.
• Lời tục tỉu là nói tục, nói chuyện tiếu lâm.
Vì một lý-do nào đó, có một số Cơ-đốc nhân tưởng rằng nói như thế mới chứng-tỏ được mình là đàn ông, là thức thời. Lối khôi hài rẻ tiền thường len lỏi vào những cuộc trò chuyện. Nếu có người nói: “Nói như thế cho vui thôi mà” dù bạn có thể nhắc cho người ấy nhớ “ Côl 4:6 “Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối đáp mỗi người là thể nào”.
Muối là một biểu tượng của sự tinh-sạch, mà ân-điển và sự thanh-sạch vốn đi đôi với nhau.
• Tội cuối cùng Phao-lô đề cập là nói dối (c.9).
Ông cũng đã viết cùng một lời cảnh cáo như thế cho người Ê-phê-sô (Eph 4:25). Sa-tan là kẻ nói dối (Gi 8:44), trong khi Đức Thánh Linh là Thần lẽ thật (Gi 14:17 Gi 15:26). Khi nào một Cơ-đốc nhân nói dối, là người ấy đang cộng tác với Sa-tan khi người ấy nói sự thật do tình yêu (Êph 4:15) là người ấy đang cộng tác với Đức Thánh Linh.
Nói dối là trình bày sai sự thật cho dù lời lẽ trong đó vốn chính xác. Giọng nói, cách nhìn hay một điệu bộ của bàn tay đều có thể thay đổi ý nghĩa của một câu nói. Với động cơ thúc đẩy từ bên trong cũng thế. Nếu đồng hồ của tôi chạy sai và tôi nói giờ sai cho bạn mình, đó không phải là nói dối. Nói dối bao hàm ý định muốn lừa dối nhằm được lợi riêng. Có một câu châm ngôn xưa, rằng: “Một nửa sự kiện là một lời nói dối hoàn toàn”.
Giám-mục Warren A.Candler giảng về lời nói dối của A-na-nia và Sa-phi-ra (Công 5:1-42) và hỏi hội chúng: “Nếu Đức Chúa Trời vẫn đánh chết kẻ nào nói dối, thì tôi sẽ ở đâu?” Hội chúng cười thầm một chút, nhưng rồi những nụ cười ấy biến mất khi vị Giám-mục thét lên: “Tôi vẫn ở ngay tại đây, giảng cho một ngôi nhà thờ trống rỗng!”.
3. Giống với Đấng Christ (Côl 3:10-11)
Vì chúng ta đã được sống lại trong Đấng Christ, chúng ta phải tìm kiếm, những điều ở trên trời. Và vì chúng ta đã cùng chết với Đấng Christ, chúng ta phải lột bỏ những điều thuộc về đời sống trên đất này, tức là các tội-lỗi của quá-khứ. Nếu quả là chúng ta sẽ trở thành giống như Đấng Christ! Đức Chúa Trời muốn đổi mới chúng ta để khiến chúng ta có được hình ảnh của Con Ngài!
Hai động từ lột bỏ và mặc ấy (c.9-10) chỉ một hành động dứt khoát. Khi chúng ta tin-cậy Đấng Christ, là chúng ta lột bỏ cuộc đời cũ và mặc lấy cuộc đời mới. Con người cũ đã bị chôn, và giờ đây con người mới nắm quyền cai-trị kiểm soát.
Nhưng động từ được dịch ra là đổi mới là một phần từ thuộc thì hiện tại, hàm ý là “người thường xuyên được làm mới” cơn khủng hoảng của sự cứu-rỗi dẫn tới tiến trình thánh hóa, tức là ngày càng trở thành giống với Chúa Giê-xu Christ hơn.
Hi-văn có hai từ ngữ khác nhau chỉ “mới”. Chữ neos có nghĩa là “mới trong thời gian”chúng ta dùng từ ngữ này như một tiếp đầu ngữ Anh văn trong những danh từ như “Neo- orthodoxy” (tân chính thống) và “neoclassicism” (tân cổ điển). Chữ Kainos có nghĩa là “mới về phẩm chất, tươi mới”. Nhiều khi Tân-ước dùng hai chữ này để thay đổi cho nhau, nhưng vẫn còn có chỗ khác nhau căn bản.
Người tín-hữu mặc vào “con người mới” (neos) một lần đủ cả và kết quả là người ấy đã được làm nên mới (Kainos). Có một sự biến đổi về phẩm chất, vì người ấy đang trở thành người giống như Đấng Christ.
“Con Người mới” là Đấng Christ, là A-đam cuối cùng (ICôr 15:4,5) là Đầu của công trình sáng tạo mới IICôr 5:17).
Sự đổi mới này xảy ra như thế nào? Nhờ hiểu biết.
Sự hiểu biết của thế-gian là một trong những thuật ngữ chủ chốt của từ vựng Trí-huệ phái. Nhưng cái gọi là sự hiểu biết thuộc-linh của họ chẳng bao giờ có thể làm thay đổi được đời sống một người, để khiến người ấy trở thành giống như Chúa Giê-xu Christ được. Nhưng càng được biết Đấng Christ rõ hơn, người ấy sẽ càng trở nên giống với Ngài hơn (Phi 3:10).
Loài người vốn được tạo dựng theo hình-tượng Đức Chúa Trời (Sa 1:26-26). Điều này bao gồm nhân cách (trí-tuệ, tình-cảm, ý-chí) và phần tâm-linh của con người (con người vốn có nhiều điều hơn chỉ là một thân xác). Khi loài người phạm-tội, hình-tượng của Đức Chúa Trời bị xóa nhòa và hư hỏng.
Con cái A-đam được sinh ra theo hình-tượng của cha (tổ-phụ) mình (Sa 5:1,3). Mặc dù tội-lỗi hoành hành phá hoại, con người vẫn mang hình-tượng của Đức Chúa Trời (Sa 9:6 Gia 3:9).
Chúng ta đã được tạo dựng theo hình-tượng Đức Chúa Trời, rồi bị tội-lỗi khiến cho hình-tượng của Đức Chúa Trời bị biến đổi đi. Nhưng nhờ Chúa Giê-xu Christ, chúng ta có thể được biến đổi để trở lại có hình-tượng giống như Ngài Chúng ta phải đổi mới trong tâm-linh (của tâm-trí) mình (Êph 4:23).
Càng hiểu biết hơn lời Chúa, chúng ta sẽ được Đức Thánh Linh biến đổi để dự phần vào hình-tượng vinh-hiển của Đức Chúa Trời (IICôr 3:18) Đức Chúa Trời biến đổi chúng ta bằng cách làm mới lại tâm-trí chúng ta (Rô 12:2), và điều này bao hàm việc học hỏi nghiên-cứu Lời Chúa. Chính chân-lý đã giải phóng chúng ta khỏi cuộc đời cũ (Gi 8:31-32).
Chủ đích Đức Chúa Trời muốn cho chúng ta được “biến đổi để nên giống như hình bóng Con Ngài” (Rô 8:29). Điều này ám chỉ bản chất, là phẩm chất thuộc-linh của con người bên trong. Khi nào chúng ta được nhìn thấy Đấng Christ chúng ta sẽ trở nên giống như Ngài và có được những thân thể vinh-hiển (IGi 3:1-3) nhưng trong khi còn phải chờ đợi Ngài trở lại, chúng ta có thể trở nên giống như Ngài và được dự phần (chia sẻ) hình ảnh thánh-khiết của Ngài. Đây là một tiến trình làm mới thường xuyên khi Thánh Linh của Đức Chúa Trời sử dụng Lời Ngài.
Những điểm đặc biệt và dị biệt của con người không phải là chiếc rào cản đối với nếp sống thánh-khiết trong Hội thánh. Trong Chúa Giê-xu Christ tất cả các điểm đặc biệt của con người đều biến mất (Côl 3:11). Trong Đấng Christ, chẳng có sự phân biệt quốc tịch (“không có người Gờ-réc hoặc người Giu-đa”).
Không còn có sự phân biệt các điểm khác nhau về tôn-giáo xưa kia nữa (“kẻ chịu cắt-bì hay không chịu cắt-bì”). Người Trí-huệ phái dạy rằng phép cắt-bì là quan-trọng cho sinh hoạt thuộc-linh (Côl 2:11). Nhưng Phao-lô vạch rõ rằng hành động giải phẫu trên thân thể theo tuyền thống đó chẳng đem đến ưu thế gì cho đời sống thuộc-linh cả.
Trong Đấng Christ cũng chẳng có phân biệt văn hóa (“người dã man, người Sy-the”). Người Hy-lạp xem tất cả những người không phải Hy-lạp là dã man, mà người Sy-the là những người dã man đê tiện nhất! Thế nhưng trong Chúa Giê-xu Christ, địa-vị văn hóa của một người không phải là ưu điểm cũng chẳng phải là khuyết điểm. Địa vị kinh tế hay chính trị cũng thế (“nô-lệ hoặc tự do”).
Phao-lô vạch rõ rằng người nô lệ nên cố gắng tìm sự tự do cho mình (ICôr 7:20-23) nhưng không nên nghĩ rằng vì cớ địa vị xã hội mà mình bị trở ngại về mặt thuộc linh.
Tất cả những điểm phân biệt trên đây của loài người đều thuộc về “con người cũ” chớ không thuộc về “con người mới”. Trong bức thư gởi người Ga-la-ti của ông, Phao-lô còn viết thêm “Chẳng có đàn ông hoặc đàn bà” nữa, và như thế là cả những dị biệt về giới tính cũng đã bị xóa bỏ.
Kết luận của Phao-lô là “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoạc người Gờ-réc không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ không còn đờn ông hoặc đờn bà vì trong Đức Chúa Giê-xu Christ, anh em thảy đều làm một” (Ga 3:28).
Thật là sai lầm khi xây dựng mối thông-công của Hội thánh trên bất cứ một điều gì khác hơn là Chúa Giê-xu Christ, Con Người (Thân-vị) và công việc của Ngài. Các chức-vụ được xây dựng trên những điểm phân biệt giữa loài người với nhau, như chủng tộc, màu da hoặc địa-vị xã hội, đều không đúng với Thánh Kinh.
Một trong những chứng-cứ hiển nhiên của sự tăng-trưởng thuộc-linh và đổi mới tâm-trí, là thái-độ sẵn sàng tiếp nhận và yêu thương tất cả những ai thật lòng biết rõ Đấng Christ và tìm cách tôn-vinh Ngài. Các “siêu thánh-đồ” Trí-huệ phái đang cố tìm cách cô lập các tín-hữu Cô-lô-se với phần còn lại của Hội thánh, nhưng làm như thế là sai lầm.
Tuy về mặt thuộc-thể chúng ta không bị mất phần di-sản của quốc gia dân-tộc khi trở thành Cơ-đốc nhân nhân, chúng ta vẫn không dùng phần di-sản đó như một sự thử-nghiệm về những gì là thuộc-linh.
Điểm nhấn mạnh trong bức thư này là: “Ấy cũng chính Ngài là Đầu của thân thể, tức là đầu Hội thánh. Ngài là ban đầu, sanh trước nhất từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng” (Côl 1:18).
Vì chúng ta đã được hoàn thiện trong Đấng Christ, chúng ta có thể nhìn vượt trên những điểm khác nhau gây chia-rẽ giữa các dân-tộc, giữa người này với kẻ khác, để được hưởng sự hợp nhất thuộc-linh trong Chúa. Các giáo-sư giả theo Trí-huệ phái cũng như các giáo-sư giả ngày nay vẫn cố tìm cách cướp đi của những người thuộc về Đức Chúa Trời sự giàu có và hợp nhất của họ trong Đấng Christ. Cho nên chúng ta cần phải đề cao cảnh giác!
Chúng ta đã được sống lại trong Đấng Christ vậy phải tìm kiếm những điều thuộc về cõi trời. Chúng ta đã chết trong Đấng Christ rồi vậy phải giết chết những gì thuộc về đất đi! Chúng ta có thể trở thành người giống như Đấng Christ vậy do đó phải củng cố phần giống như Đấng Christ của mình và để cho Đức Thánh Linh làm mới lại tâm-trí mình, khiến chúng ta cứ ngày càng giống hơn với hình-tượng của Đức Chúa Trời.
bottom of page