top of page
1. GIAI ĐOẠN TĂNG TRƯỞNG (Gia 1:1)
Mở...
...đầu bài học trong một sách của Kinh Thánh cũng giống như chuẩn bị cho một chuyến đi: bạn muốn biết nơi mình sẽ đến và những điều mình có thể thấy. Khi tôi và nhà tôi sửa soạn chuyến đi đầu tiên đến Anh quốc, chúng tôi phải mất nhiều giờ đọc sách hướng dẫn du lịch và nghiên cứu bản đồ. Lúc đến nơi, chúng tôi được tham quan nhiều nơi vì đã biết những điều mình cần tìm và cách tìm ra.
Trước khi nghiên cứu thư Gia-cơ, chúng ta nên giải đáp 4 câu hỏi quan trọng sau:
1. Gia-cơ là ai?
Gia-cơ tự giới thiệu ông là “tôi tớ Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu Christ” (Gia 1:1a). Đây là tên rất phổ thông, giống như tên Gia-cốp thời Cựu-ước vậy. Trong lịch sử Tân-ước, có nhiều người cùng mang tên Gia-cơ.
-Người thứ nhất mang tên Gia-cơ là con trai Xê-bê-đê, tức anh của Giăng. Với tên này, ông là người bổi bật nhất: vốn làm nghề đánh cá, được Chúa Giê-xu Christ kêu gọi làm môn-đệ Ngài (Mat 4:17-22).
Do tính bốc đồng, ông và em trai là Giăng được Chúa đặt cho biệt danh “con trai của sấm sét” (Mac 3:17; Lu 9:51-56). Gia-cơ này là môn-đệ đầu tiên tử đạo vì Đấng Christ. Ông bị vua Hê-rốt giết vào năm 44 SC (Công 12:1-2).
-Gia-cơ thứ hai là con A-phê, cũng là một môn-đệ Chúa (Mat 10:3; Công 1:13) nhưng rất ít người biết ông. Ma-thi-ơ (Lê-vi) cũng được gọi là “con A-phê” (Mac 2:14) nên một số học viên Kinh Thánh phỏng đoán hai người này là anh em. Không có chi tiết nào cho thấy Gia-cơ này là tác giả thư tín chúng ta sắp nghiên cứu.
-Gia-cơ thứ 3 là cha của môn-đệ Giu-đe (Lu 6:16). Hầu như ít ai biết ông.
-Gia-cơ thứ 4 là anh em của Chúa Giê-xu Christ. Dường như ông mới là người được xem là tác giả thư tín này. Không xưng mình là anh em của Chúa, nhưng ông khiêm cung nhận mình là “tôi tớ Đức Chúa Trời và Đức Chúa Giê-xu Christ”. Ông là người được kể tên trong số anh em của Chúa (Mat 13:55-56; Mac 6:3). Dĩ nhiên, Gia-cơ là anh em cùng mẹ khác cha với Chúa Giê-xu Christ, vì Giô-sép không phải là cha của Chúa (bởi Ngài được hoài thai do Đức Thánh Linh).
Gia-cơ và các anh em Chúa không tin Ngài trong thời gian Ngài thi hành chức vụ trên đất (Gi 7:1-5; Mac 3:31-35). Nhưng tại Phòng Cao (sau khi Chúa thăng thiên), họ đã cùng với các môn-đệ cầu nguyện cách bền lòng (Công 1:14). Điều gì đã khiến họ thay đổi từ chỗ vô tín đến vững tin như vậy? ICôr 15:7 cho biết Chúa đã hiện ra với Gia-cơ sau khi Ngài phục sinh. Sự kiện này khiến Gia-cơ tin chắc Chúa Giê-xu Christ thật sự là Đấng Christ nên ông rao báo cho các anh em khác về sự nhận biết này.
Sau đó Gia-cơ trở thành người lãnh đạo Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Ông được sứ-đồ Phao-lô gọi là “cột trụ” (Ga 2:9). Chính Gia-cơ là người chủ trì buổi bàn luận của Hội thánh được chép trong sách Công 15:1-41, Phi-e-rơ sau khi được tha khỏi ngục, đã cho người nhắn tin đến Gia-cơ (Công 12:17), và khi Phao-lô đến thành Giê-ru-sa-lem đã chào mừng Gia-cơ và thuật lại những ơn đặc biệt của Đức Chúa Trời dành cho dân ngoại (Công 21:18-19).
Theo lời truyền khẩu, Gia-cơ đã tử đạo vào năm 62 SC (chi tiết này không được chép trong Kinh Thánh). Chuyện kể rằng: người Pha-ri-si ở Giê-ru-sa-lem rất ghen ghét lời chứng của Gia-cơ về Đấng Christ, nên đã đuổi ông ra khỏi đền thờ và cho người dùng dùi cui đánh ông đến chết.
Giống như Đấng Christ, trước khi chết Gia-cơ cũng cầu nguyện cho những kẻ giết mình: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ không biết điều mình làm”.
Ở Công 15:1-41, chúng ta có thể thấy “tầm cỡ” của ông khi ông cho phép các bên tranh chấp nêu ý kiến họ và dàn xếp cuộc bàn luận cách ổn thỏa bằng một kế luận dựa trên nền tảng lời Đức Chúa Trời.
Ở ICôr 9:5, Phao-lô cho rằng Gia-cơ đã lập gia đình. Người ta cũng nói rằng Gia-cơ là người chuyên tâm cầu nguyện, và đó là lý do ông nhấn mạnh vấn đề cầu nguyện trong thư tín này. Có lời thuật rằng ông cầu nguyện nhiều đến nỗi đầu gối chai cứng như đầu gối lạc đà!
Gia-cơ là người Do-thái, được dưỡng dục trong luật pháp Môi-se nên tư tưởng luật pháp Do-thái thể hiện rất rõ trong thư tín của ông (Công 21:18 đây là lúc Gia-cơ nhờ Phao-lô giúp ông làm yên lòng những tín-hữu sống theo luật pháp ở Hội thánh Giê-ru-sa-lem. Có hơn 50 câu ở thể mệnh lệnh trong thư tín của Gia-cơ. Ông không đề nghị nhưng ra lệnh! Trong thư tín, ông chỉ trích dẫn Kinh Thánh Cựu-ước 5 lần, nhưng có nhiều câu ám chỉ các đoạn Kinh Thánh trong Cựu-ước.
Khi còn là kẻ vô tín, Gia-cơ chắc hẳn đã chú ý đến những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu Christ. Qua thư tín, ông bày tỏ rất nhiều ý có liên quan đến những lời phán dạy của Chúa, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi. Bạn hãy so sánh những đoạn Kinh Thánh sau:
Gia-cơ 1:2 | Ma-thi-ơ 5:10-12 |
Gia-cơ 1:4 | Ma-thi-ơ 6:48 |
Gia-cơ 1:5 | Ma-thi-ơ 7:7-12 |
Gia-cơ 1:22 | Ma-thi-ơ 7:21-27 |
Gia-cơ 4:11-12 | Ma-thi-ơ 7:1-5 |
Gia-cơ 5:1-3 | Ma-thi-ơ 6:19-21 |
Hãy nhớ rằng Gia-cơ đã lãnh đạo Hội thánh Giê-ru-sa-lem suốt thời kỳ gay go. Đó là thời kỳ quá độ, đòi hỏi nhiều nỗ lực. Có nhiều tín hữu Do-thái ở Giê-ru-sa-lem vẫn giữ luật pháp Cựu-ước (Công 21:20).
Đền thờ vẫn hoạt động, các lễ nghi vẫn tiến hành và ánh sáng rực rỡ của Phúc-Âm về ân-điển Đức Chúa Trời chưa chiếu rạng. Có nhiều mức độ hiểu biết và từng trải thuộc linh khác nhau, nhưng không có sự ganh đua giữa Phao-lô với những người lãnh đạo Hội thánh Giê-ru-sa-lem (Ga 2:1-10).
2. Gia-cơ viết thư cho đối tượng nào?
“...cho 12 chi phái ở tan lạc, chúc bình an” (Gia 1:1b). Gia-cơ viết thư này cho các tín-đồ Do-thái sống tản lạc ngoài địa phận Palestine. Thuật ngữ “12 chi phái” được dùng để chỉ về dân Y-sơ-ra-ên (Công 26:7).
Việc nhiều người Do-thái sống ngoài vùng đất hứa là bằng chứng về tình trạng sa sút thuộc linh của dân tộc này. Đức Chúa Trời đã làm cho họ tản lạc khắp nơi (Phuc 4:27). Vào ngày lễ Ngũ Tuần khi Phi-e-rơ nói trước đám đông, ông cũng nói với người từ các xứ khác đến (Công 2:9-11).
Khi viết thư cho tín-đồ Do-thái, Gia-cơ nhiều lần gọi họ là “anh em”, không chỉ với ý nghĩa như anh em về phần xác (người Do-thái) nhưng còn là “anh em trong Chúa”. Ông giải thích rõ về giáo lý tái sinh (Gia 1:18). Đôi lúc, ông cũng nói đến những kẻ ác không dự phần trong mối thông công này (ví dụ như những người giàu ở Gia 5:1-6). Ông làm vậy để khuyên nhủ và khích lệ những tín-đồ Do-thái, là đối tượng ông gởi thư đến.
Từ “tan lạc” ở Gia 1:1 là một từ đáng chú ý. “Tan lạc” có nghĩa như “sống lưu vong”. Theo tiếng Hy-lạp, từ này mang ý nghĩa về hình ảnh “hạt giống bị vương vãi”. Khi các tín-đồ Do-thái bị tan lạc trong “làn sóng” bắt bớ đầu tiên (Công 8:1,4), hoàn cảnh ấy thật như một cuộc gieo giống ra khắp nơi, và những hạt giống được kết quả (Công 11:19).
Các tín-đồ Do-thái bị tản lạc trong thời hoàng đế La-mã trị vì phải đối diện với những nhu cầu và nan đề riêng: là người xứ Do-thái, họ bị dân ngoại xua đuổi. Là tín-đồ Do-thái, họ bị người đồng hương hất hủi! Thư tín này cho thấy đa số các tín-đồ Do-thái rất nghèo khổ, có người còn bị kẻ giàu có hà hiếp.
3. Lý do Gia-cơ viết thư này?
Mỗi thư tín trong Kinh Thánh đều mang một chủ đề, mục đích và dự định đặc biệt.
-Phao-lô viết thư Rô-ma để chuẩn bị tinh thần cho tín-hữu Rô-ma về sự định viếng thăm của ông.
-Thư Cô-rinh-tô thứ nhất được gởi cho Hội thánh tại thành Cô-rinh-tô nhằm giải quyết các nan đề của Hội thánh họ.
-Thư Ga-la-ti được viết cho nhóm tín-hữu ở các Hội thánh, khuyên họ cẩn thận về việc sống cậy luật pháp và nghe những lời dạy giả dối.
-Đọc thư Gia-cơ bạn sẽ khám phá rằng các tín-hữu Do-thái đã gặp những nan đề trong đời sống riêng và trong mối thông công với Hội thánh. Họ phải vượt qua những thử nghiệm gay go, còn phải đương đầu với những cám dỗ tội lỗi. Một số tín-đồ phải hầu hạ kẻ giàu có, một số khác bị kẻ giàu bóc lột tàn nhẫn. Trong khi đó, các thuộc viên ở Hội thánh chỉ lo ganh đua về chức vụ hầu việc Chúa, đặc biệt là chức vụ giảng dạy.
Một trong những nan đề chính của Hội thánh là sự sa sút của nhiều đời sống tín-đồ. Đã vậy tật nói hành nổi lên như một căn bệnh trầm kha, dẫn đến việc cãi lẫy và chia rẽ nội bộ. Sự khôn ngoan lọc lõi của đời này cũng là một nan đề của họ. Một số người không vâng lời Đức Chúa Trời nên bị bệnh về thể xác, còn số khác ngày càng xa cách Chúa và Hội thánh.
Khi điểm lại chuỗi nan đề trên, bạn thấy chúng có khác biệt gì với những nan đề đe dọa Hội thánh chúng ta hôm nay không? Chẳng lẽ trong Hội thánh chúng ta, không có những con người đang khổ sở vì một trong các nan đề trên? Không có ai vấp phạm trong lời nói và việc làm sao ư? Và không tín-đồ nào phạm vào tật nói hành chăng? Dường như Gia-cơ cũng muốn đề cập đến những vấn đề rất thời đại!
Tuy vậy, Gia-cơ không bàn luận một mớ nan đề pha tạp. Nguyên nhân tựu trung của mọi nan đề là do: sự non nớt về thuộc linh. Đây là những Cơ-đốc nhân không trưởng thành. Nguyên nhân này có liên quan với chủ đề chính của thư Gia-cơ, đặc điểm của sự trưởng thành trong đời sống Cơ-đốc nhân.
Nhiều lần Gia-cơ sử dụng từ “trọn vẹn” (toàn vẹn) với ý nghĩa như “trưởng thành, hoàn thiện” (Gia 1:4,17,25; Gia 2:22; Gia 3:2). Khi nói đến “người trọn vẹn” (Gia 3:2), Gia-cơ không cho rằng người ấy vô tội, nhưng muốn chỉ về con người “trưởng hành, tiết độ, phát triển toàn diện”.
Sự trưởng thành thuộc linh là một trong những nhu cầu cấp thiết nhất ở các Hội thánh ngày nay. Nhiều Hội thánh chẳng khác gì những “nhà giữ trẻ” chớ không giống công trường lao động của người lớn.
Các thuộc viên Hội thánh không đạt đến mức tăng trưởng để có thể ăn được thức ăn thuộc linh cứng đến đỗi cứ phải sống nhờ “sữa” (Hêb 5:11-14). Chỉ cần theo dõi những nan đề Gia-cơ nêu ra, chúng ta sẽ thấy mỗi nan đề giống như tính cách của trẻ con:
-Thiếu kiên nhẫn trong những việc khó (Gia 1:1-4)
-Tin nhưng không làm theo chân lý (Gia 2:14)
-Không kiểm soát lời nói (Gia 3:1)
-Tranh cạnh và tham lam (Gia 4:1)
-Chọn những món đồ chơi vật chất (Gia 5:1)
Trải hơn một phần tư thế kỷ trong chức vụ, tôi cho rằng sự tăng trưởng thuộc linh chính là nan đề và nhu cầu hàng đầu của Hội thánh chúng ta. Đức Chúa Trời đang trông đợi những thanh niên nam nữ “trưởng thành” để gánh vác công việc Ngài. Vậy mà Ngài chỉ nhìn thấy những “đứa trẻ” yếu đuối và bất hoà với nhau.
Năm đoạn thư tín Gia-cơ trình bày 5 đặc điểm của Cơ-đốc nhân trưởng thành. Dựa trên chủ đề về sự trưởng thành, thư Gia-cơ có thể được chia theo bố cục sau:
Chủ đề: Sự trưởng thành về thuộc linh
Câu gốc: Gia 1:4b
Những đặc điểm của Cơ-đốc nhân trưởng thành
(1). Nhịn nhục trong thử thách (đoạn 1)
a. Những thử thách bên ngoài (Gia 1:1-12)
b. Những cám dỗ bên trong (Gia 1:13-27)
(2). Sống theo chân lý (đoạn 2)
a. Đức tin và tình yêu thương (Gia 2:1-13)
b. Đức tin và việc làm (Gia 2:14-26)
(3). Kiểm soát được lời nói (đoạn 3)
a. Lời khuyên dạy (Gia 3:1-2)
b. Ví dụ (Gia 3:3-12) (sáu hình ảnh về cái lưỡi)
c. Ứng dụng (Gia 3:13-18)
(4). Làm sứ giả hòa bình (đoạn 4)
a. Ba trận chiến (Gia 4:1-3)
b. Ba kẻ thù (Gia 4:4-7)
c. Ba lời khuyên (Gia 4:8-17)
Trên đây dĩ nhiên chỉ là một cách tiếp cận với thư Gia-cơ. Cũng có những phương pháp suy ngẫm khác. Khi tìm hiểu về 5 đoạn của thư Gia-cơ, chúng ta sẽ thấy mục đích thư nhằm trình bày sự trưởng thành thuộc linh và phương cách để đạt đến mức trưởng thành ấy.
Thật hữu lý khi thư Gia-cơ được tiếp nối sau thư Hê-bơ-rơ, vì một trong những chủ đề chính của thư Hê-bơ-rơ là sự trọn lành về thuộc linh.
Câu gốc cho thư Hê-bơ-rơ là He 6:1 “... tấn tới sự trọn lành”, nghĩa là “sự trưởng thành thuộc linh”.
Tác giả thư Hê-bơ-rơ giải thích về sự cứu rỗi trọn vẹn trong Đấng Christ. Còn Gia-cơ lại kêu gọi người đọc hãy lập nền trên sự cứu rỗi trọn vẹn ấy hầu đạt đến mức trưởng thành. Nếu không bởi công tác trọn vẹn của Đấng Christ, có lẽ cũng sẽ không có những Cơ-đốc nhân trọn lành.
4. Làm sao chúng ta có thể kinh nghiệm bài học một cách tối đa?
Chủ đề thư tín Gia-cơ nói về sự trưởng thành thuộc linh, nên chúng ta phải xét lòng mình trước hết để thấy thực trạng của nếp sống Cơ-đốc nhân trong chúng ta.
Chúng ta cần phải được tái sinh. Đây là điều kiện tiên quyết vì nếu không có sự sinh ra thuộc linh sẽ không thể có sự tăng trưởng thuộc linh. Ở đoạn đầu của thư, Gia-cơ đã đề cập đến sự tái sinh: “Ấy chính Ngài theo ý muốn mình, đã dùng lời chân thật sinh chúng ta” (Gia 1:18). Câu Kinh Thánh tương tự được chép trong IPhi 1:23 “Anh em đã được lại sinh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời”.
Giống như một trẻ sơ sinh có cha mẹ, vậy đứa con thuộc linh cũng có cha mẹ là lời Đức Chúa Trời và Thánh Linh Đức Chúa Trời. Hai câu Kinh Thánh được trích dẫn ở trên đề cập đến Lời Đức Chúa Trời. Gi 3:5-6 nói về Thánh Linh Đức Chúa Trời (Tôi cho rằng sinh “nhờ nước” chỉ về sự sinh của thể xác. Mọi trẻ sơ sinh đều ra đời từ nước. Ở Gi 3:5, Ni-cô-đem chỉ hiểu lời Chúa theo nghĩa của sự sinh về thể xác).
Vậy, thế nào là người được tái sinh?
-Chính Thánh Linh Đức Chúa Trời dùng lời Ngài để tạo sự sống mới trong lòng tội nhân ăn năn tin nhận Chúa Giê-xu Christ. Đây thật sự là một phép lạ! Thánh Linh dùng Lời Đức Chúa Trời để cáo trách lương tâm tội nhân và bày tỏ Đấng Christ cho họ. Chúng ta được cứu bởi đức tin (Eph 2:8-9) đến từ Lời Đức Chúa Trời (Rô 10:17).
Nếu đã được tái sinh rồi, bước quan trọng kế tiếp là chúng ta phải kinh nghiệm mọi điều Gia-cơ đã viết: “phải thành thật tra xét đời sống mình trong ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời. Gia-cơ ví Kinh Thánh như một chiếc gương soi” (Gia 1:23). Khi học Lời Đức Chúa Trời là lúc chúng ta ngắm nhìn vào chiếc gương thiêng liêng và thấy hình ảnh thật của mình trong đó. Gia-cơ khuyên chúng ta không nên chỉ liếc sơ vào gương rồi bỏ đi, nhưng phải nhìn chính mình một cách thành thật.
Có lẽ bạn từng nghe kể về người nguyên thủy man dã đã nhìn vào một chiếc gương lần đầu tiên. Thấy hình ảnh trong gương, anh ta nổi giận và điên tiết đập vỡ gương! Có nhiều Cơ-đốc nhân cũng phạm sai lầm tương tự: họ chỉ trích diễn giả hoặc phê bình bài học chớ không muốn xét lại bản thân.
Bước thứ 3: chúng ta phải vâng theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời dành cho mình, dù phải trả bất cứ giá nào. Chúng ta “hãy làm theo lời, chớ lấy nghe làm đủ mà lừa dối mình” (Gia 1:22). Dự một buổi học Kinh Thánh, chia sẻ và thảo luận câu hỏi là công việc dễ dàng, nhưng áp dụng điều đã học vào đời sống thường nhật mới thấy khó khăn biết bao! Ân phước không đến từ việc học lời Chúa nhưng qua sự vâng lời Ngài. Nếu chúng ta không muốn sống vâng lời, Chúa cũng sẽ không dạy dỗ chúng ta (Gi 7:17).
Bước thứ 4, bạn phải sẵn sàng đối diện những khó khăn thử thách bất ngờ. Khi bạn khao khát được tăng trưởng về thuộc linh, là lúc ma quỷ cũng ráo riết đối địch với bạn. Có lẽ bạn cần kiên nhẫn hơn, vậy hãy sẵn sàng đối diện những thử thách vì “hoạn nạn sinh sự nhịn nhục” (Rô 5:3). Những cuộc sát hạch nghiêm túc trong bài học Kinh Thánh sẽ xảy ra ở trường đời chớ không ở lớp học.
Gần đây, tôi có đọc qua câu chuyện một người nặng gánh về vấn đề kiên nhẫn. Anh ta biết mình chưa trưởng thành về mặt này nên muốn được tăng trưởng. Anh tha thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài giúp con có thêm lòng kiên nhẫn. Con muốn mình tự chủ trong lãnh vực này”. Sáng hôm ấy, anh trễ chuyến xe lửa đi làm nên đã rảo bước tới lui suốt 50 phút trong sân ga và than thở cho cảnh ngộ mình, khi xe lửa kế tiếp vừa tới, anh chợt nhận ra sự dại dột của mình và thầm nhủ: “Chúa đã cho mình gần một giờ đồng hồ để tôi luyện lòng kiên nhẫn, vậy mà mình chỉ hành động theo tính hấp tấp!”
Khi học bài này, sẽ có lúc bạn dường như muốn bỏ cuộc và Sa-tan sẽ “vặn nút” để khơi dậy sự nóng nảy bốc đồng của bạn. Nó sẽ khiến mọi sự rối tung lên để bạn nản lòng muốn rút lui. Đừng hành động như thế! Đó là thời điểm bạn đứng trước ngưỡng cửa của phước hạnh tươi mới kỳ diệu trong đời sống mình như một bước trưởng thành mới đầy lý thú. Dù Sa-tan có thể vặn lớn “lò nhiệt” trong bạn, Cha trên trời sẽ điều chỉnh “bộ ổn nhiệt” bằng đôi tay toàn năng của Ngài!
Sự tăng trưởng về tâm sinh lý không phải lúc nào cũng là một tiến trình thuận lợi và thú vị. Người thanh niên khi bước qua chiếc cầu đời gập ghềnh từ thuở thơ ấu đến tuổi trưởng hành, chắc hẳn đã từng trải nhiều thất bại nản lòng.
Nhưng nếu người ấy cứ tiếp tục bước đi và tăng trưởng, người ấy sẽ bước vào một đời sống trưởng thành cách kỳ diệu. Sự trưởng thành của Cơ-đốc nhân không phải tự nhiên mà có, nhưng cũng xảy ra giống như sự tăng trưởng về tâm sinh lý của con người vậy. Đó là điều mà chúng ta phải rèn luyện không ngừng. Đừng bỏ cuộc! Vì nếu có cơn đau đớn trong sự sinh nở, cũng có nỗi khó nhọc trong sự trưởng thành (Ga 4:19).
Sau hết, chúng ta phải đánh giá sự tăng trưởng thuộc linh của mình dựa trên Lời Đức Chúa Trời. Không nên so mình với những Cơ-đốc nhân khác, nhưng hãy xem xét bản thân qua Lời Đức Chúa Trời và Con Đức Chúa Trời (Eph 4:13). Ở cuối tài liệu này có 12 câu hỏi được liệt kê ra dựa trên thư Gia-cơ giúp cá nhân tự đánh giá mình. Bạn hãy thư thả xem bất cứ lúc nào, vì những cuộc kiểm tra thường xuyên rất ích lợi cho sự tăng trưởng thuộc linh.
Không phải ai lớn lên đều là người trưởng thành. Tuổi tác và sự trưởng thành là hai lãnh vực hoàn toàn khác nhau. Một Cơ-đốc nhân tin Chúa được 10 hay 20 năm cũng chưa chắc là người trưởng thành trong Chúa. Cơ-đốc nhân trưởng thành là những con người sống vui thỏa, có ích cho một người và luôn khích lệ kẻ khác, góp phần gây dựng Hội thánh nhà. Càng nghiên cứu sách Gia-cơ trong sự hướng dẫn của Chúa, chúng ta sẽ cùng nhau trưởng thành.
2. BIẾN THỬ THÁCH THÀNH ĐẮC THẮNG (Gia 1:2-12)
Một “đề can” dán trên bộ phận giảm sốc có ghi hàng chữ: “Nếu đời trao cho bạn một quả chanh, vậy hãy pha nước chanh!” Có thể khi đọc câu này, người ta chỉ mỉm cười chớ không muốn thực hành. Đây là một triết lý cơ bản và lành mạnh, cũng là tư tưởng có trong Kinh Thánh. Nhiều nhân vật trong Kinh Thánh đã từng trải từ thất bại đến thành công, biết đổi thử thách thành đắc thắng. Không cam tâm chiến bại, họ đã trở nên những con người sống đắc thắng.
Gia-cơ cho biết rằng chúng ta hôm nay có thể kinh nghiệm từng trải tương tự như thế. Dù những thử thách đến từ bên ngoài (Gia 1:1-12) hay cám dỗ xuất phát từ bên trong (Gia 1:13-17) chúng ta vẫn có thể kinh nghiệm được sự đắc thắng bởi đức tin trong Đấng Christ. Sự đắc thắng này là kết quả của sự trưởng thành thuộc linh.
Nếu muốn biến thử thách thành đắc thắng, chúng ta phải tuân theo 4 mệnh lệnh: hãy xem như (Gia 1:2), hãy biết (Gia 1:3) hãy để cho (Gia 1:4,9-11) và hãy cầu xin (Gia 1:5-8). Hay nói cách khác, có 4 yếu tố cần thiết cho sự đắc thắng trong thử thách: thái độ vui mừng, trí thông hiểu, ý muốn đầu phục và tấm lòng tin kính.
1. Hãy xem như - Thái độ vui mừng (Gia 1:2)
Nhân sinh quan quyết định hoàn cảnh sống và thái độ quyết định hành động. Đức Chúa Trời bảo chúng ta mong đợi sự thử thách không phải anh em lâm vào những thử thách mà là khi anh em lâm vào sự thử thách. Những Cơ-đốc nhân nào chỉ mong đời sống mình được “dễ chịu”, sẽ rơi vào tình trạng bị sốc. Chúa Giê-xu Christ từng báo trước cho các môn-đệ “Các ngươi sẽ có hoạn nạn trong thế gian” (Gi 16:33). Phao-lô cũng khuyên những người tin Chúa rằng “phải trải qua nhiều nỗi khó khăn mới vào được Nước Đức Chúa Trời” (Công 14:22)
Chúng ta là dân “tản lạc” của Đức Chúa Trời chớ không phải là dân trú ngụ trong vương quốc Ngài, nên chúng ta phải trải qua những thử thách. Không phải mọi sự đều xảy đến theo ý muốn riêng của chúng ta. Có những thử thách xảy đến chỉ vì chúng ta là con người: bệnh hoạn, tai nạn, thất bại và những điều đó dường như là bi kịch.
Những thử thách khác xảy ra do chúng ta là Cơ-đốc nhân. Phi-e-rơ đề cập điều này ở thư đầu tiên của ông: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường” (IPhi 4:12) Sa-tan luôn chống lại chúng ta, còn thế gian cũng đối địch với chúng ta, khiến đời sống chúng ta có sự tranh chiến.
Lẽ tự nhiên, Cơ-đốc nhân không nên “tạo ra” những khó khăn thử thách cho mình. Ở IPhi 1:6 Phi-e-rơ nói rằng: “... dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu”. Những thử thách trong cuộc sống rất muôn màu chớ không giống nhau.
Chúng như những sợi chỉ được pha đủ màu sắc để người thợ dệt làm ra tấm thảm rực rỡ. Đức Chúa Trời là Đấng chọn màu sắc và pha chúng vào những từng trải của đời sống con người. Sản phẩm sau cùng là một sản phẩm tốt đẹp quy vinh hiển Đức Chúa Trời.
Có lần, tôi và nhà tôi đến thăm một thợ dệt nổi tiếng thế giới để xem cách những công nhân của ông ta làm việc trên khung cửi. Tôi để ý thấy mặt sau của những tấm thảm không đẹp cho lắm: những mẫu hoa văn mờ nhạt, còn để lộ những mối chỉ rời rạc! Người hướng dẫn bảo chúng tôi. “Xin đừng đánh giá thợ dệt và sản phẩm nếu chỉ nhìn vào bề trái”.
Cũng một thể ấy, chúng ta đều đang nhìn vào mặt trái cuộc đời, nhưng chỉ có Chúa mới thấy “mẫu hoa văn” hoàn chỉnh. Chúng ta đừng phàn nàn Chúa hoặc công việc Ngài qua những gì mình thấy hôm nay. Công việc Ngài vẫn chưa kết thúc!
Chữ chìa khóa là: “hãy xem như đó là thuật ngữ tài chánh có nghĩa là‘đánh giá”. Phao-lô đề cập ý tưởng này nhiều lần trong thư tín Phi 3:1-21 Khi trở thành một Cơ-đốc nhân, Phao-lô đánh giá đời sống ông, đồng thời đặt ra những mục tiêu mới và những ưu tiên hàng đầu cho đời sống mình.
Trong ánh sáng của kinh nghiệm nhận biết Chúa, Phao-lô “xem” những lợi lộc trước đây như “rơm rác”. Khi chúng ta đối diện với những thử thách trong cuộc sống, cũng hãy đánh giá chúng trong ánh sáng của những gì Đức Chúa Trời muốn làm cho chúng ta. Đây là lý do Cơ-đốc nhân tin kính có thể vui mừng giữa cơn thử thách khi sống cho những ưu tiên hàng đầu. Chúa chúng ta đã có thể chịu đau đớn trên thập tự gá vì “sự vui mừng đã đặt trước mặt mình” (Hêb 12:2), đó là niềm hân hoan trở về Trời để bày tỏ vinh hiển Ngài cho Hội thánh.
Những giá trị của chúng ta sẽ quyết định cách đánh giá của chúng ta. Nếu xem tiện nghi trọng hơn tính cách, vậy thử thách sẽ khuấy động và khiến ta lo lắng. Nếu xem những điều thuộc thể và vật chất trọng hơn thuộc linh chúng ta sẽ không thể nào coi mọi sự là “điều vui mừng tron vẹn”.
Nếu chúng ta chỉ sống cho hiện tại và phó mặc cho tương lai, vậy những thử thách sẽ khiến chúng ta khổ sở nhiều và chẳng làm cho thực trạng chúng ta khá hơn chút nào. Gióp có quan điểm đúng đắn khi nói rằng: “Nhưng Chúa biết con đường tôi đi Khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng” (Giop 23:10).
Vậy khi thử thách xảy đến, bạn hãy mau tạ ơn Chúa và sống bằng thái độ vui mừng. Đừng giả vờ, cũng đừng tự lừa dối mình, nhưng hãy thật lòng nhìn thử thách bằng đôi mắt của đức tin. Quan điểm quyết định hoàn cảnh sống vậy hãy khởi sự vui mừng để có một kết cuộc vui mừng.
2. Hãy biết - Một tâm trí hiểu biết (Gia 1:3)
Điều gì có thể giúp Cơ-đốc nhân đối diện với những thử thách để qua đó được dạy dỗ nhiều hơn?
(1). Đức tin luôn được trắc nghiệm:
Khi dạy Áp-ra-ham sống bởi đức tin, Đức Chúa Trời đã trắc nghiệm ông để nâng đỡ đức tin ông. Đức Chúa Trời luôn trắc nghiệm chúng ta để đem đến một kết quả tốt nhất, còn Sa-tan cám dỗ chúng ta hòng khiến chúng ta trở nên tệ hại nhất. Cuộc trắc nghiệm đức tin chứng tỏ chúng ta thật đã được tái sinh.
(2). Thử thách giúp ích: chớ không gây bất lợi cho chúng ta.
Phi-e-rơ cũng nói về điều này để chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa của sự thử thách: “Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát...” (IPhi 1:7). Người đào vàng đem mẫu quặng của mình vào phòng xét nghiệm để phân tích thành phần kim loại. Mẫu quặng chỉ đáng giá vài mỹ-kim, nhưng sự xác nhận của chuyên viên phân tích về quặng kim loại ấy phải kể đến hằng triệu mỹ-kim! Sự xác nhận đó giúp người đào quặng biết chắc rằng anh ra đã có trong tay một mỏ vàng! Sự xác nhận của Đức Chúa Trời về đức tin chúng ta thật quý báu, vì nhờ đó chúng ta biết chắc đức tin mình là thật.
Thử thách giúp ích cho người tin Chúa chớ không gây bất lợi cho họ. Phao-lô nói: “Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời” (Rô 8:28) và “Sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sinh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên” (IICôr 4:17).
(3). Thử thách thật sự giúp chúng ta trưởng thành:
Đức Chúa Trời muốn đặt để vào đời sống chúng ta sự chịu đựng, nhịn nhục và khả năng duy trì khi mọi sự trở nên khắc nghiệt. “Chúng ta cũng khoe mình trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn sinh sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sinh sự rèn tập, sự rèn tập sinh sự trông cậy” (Rô 5:3-4). Theo tinh thần Kinh Thánh, sự nhịn nhục không phải là thái độ chấp nhận hoàn cảnh một cách tiêu cực Đó là tính kiên trì đầy lòng can đảm khi đối đầu với khó khăn hoạn nạn.
Những người chưa trưởng thành luôn thiếu kiên nhẫn, nhưng người trưởng thành có tính chịu đựng một cách bền bỉ. Sự thiếu kiên nhẫn và lòng vô tín đồng hành với nhau, còn đức tin và lòng nhịn nhục đồng công nhau.
“Cứ học đòi những kẻ bởi đức tin và lòng nhịn nhục mà được hưởng lời hứa” (Hêb 6:12).
“Vì anh em cần phải nhịn nhục, hầu cho khi đã làm theo ý muốn Đức Chúa Trời rồi, thì được như lời đã hứa cho mình” (Hêb 10:36).
“Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Es 28:16).
Đức Chúa Trời muốn chúng ta có lòng nhịn nhục vì đó là chìa khoá mở mọi cánh cửa phước hạnh. Đứa trẻ nào không muốn học tập sự nhịn nhục sẽ không thể biết được nhiều điều khác. Cơ-đốc nhân nào học biết cách trông đợi Chúa. Ngài sẽ làm những việc lớn cho người ấy. Áp-ra-ham không chờ đợi Đức Chúa Trời, đã cưới A-ga và đem sự sầu khổ ê chề vào gia đình mình (Sa 16:1-16). Môi-se “chạy trước” Đức Chúa Trời, đã giết người và phải trải qua 40 năm chăn bầy chiên để học cách nhịn nhục (Xu 2:11-12) Phi-e-rơ cũng suýt giết người trong cơn nóng nảy (Gi 18:10-11).
Những thử thách xảy đến là phương cách duy nhất Đức Chúa Trời dùng để nâng cao nghị lực và lòng nhịn nhục của chúng ta. Sự nhịn nhục không thể có được chỉ do đọc sách, nghe giảng luận hay cầu nguyện đi nữa. Chúng ta phải bước đi trong những khó khăn của đời sống, tin cậy Đức Chúa Trời và vâng phục Ngài, để qua đó rèn luyện được sự nhịn nhục và nghị lực bền bỉ. Nhận biết điều này, chúng ta có thể đối diện với thử thách cách vui mừng! Trong tinh thần ấy, chúng ta sẵn sàng bước đi giữa thử thách vì hiểu rằng kết quả cuối cùng sẽ quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh dạy dỗ chúng ta về sự nhịn nhục (Rô 15:4). Khi học về các nhân vật như Áp-ra-am, Giô-sép, Môi-se, Đa-vít và Chúa Giê-xu Christ, chúng ta nhận biết Đức Chúa Trời có mục đích của Ngài qua những thử thách. Ngài sẽ làm trọn chương trình Ngài khi chúng ta tin cậy Ngài. Không điều gì có thể thay thế cho trí thông hiểu. Sa-tan có thể đánh bại Cơ-đốc nhân thiếu hiểu biết, nhưng không thể thắng hơn Cơ-đốc nhân thông suốt Kinh Thánh và hiểu rõ ý muốn Đức Chúa Trời.
3. Hãy để cho - Ý chí đầu phục (Gia 1:4,9-11)
Đức Chúa Trời không thể gây dựng con người chúng ta nếu không có sự đồng công của chúng ta. Nếu chúng ta đối nghịch cùng Ngài, Ngài sẽ uốn nắn và đưa chúng ta vào khuôn khổ của sự vâng phục. Nếu chúng ta sẵn sàng đầu phục Ngài, Ngài sẽ hoàn thành chương trình Ngài trên đời sống chúng ta. Chúa không hài lòng với công việc dở dang. Ngài muốn nhìn thấy công việc được hoàn tất. “Sản phẩm” sau cùng phải trọn vẹn và hoàn mỹ theo ý Ngài.
Sự trưởng thành là mục tiêu Đức Chúa Trời đặt để trong đời sống chúng ta. Thật bất hạnh nếu con cái chúng ta cứ mãi như những đứa trẻ! Chúng ta vui mừng nhìn thấy chúng trưởng thành, dù sự trưởng thành ấy có đem đến đau buồn hay hạnh phúc chăng nữa. Có nhiều Cơ-đốc nhân khi gặp thử thách của đời sống đã rút mình vào chiếc “vỏ” để chẳng bao giờ tăng trưởng. Đức Chúa Trời muốn “con cái bé mọn”của Ngài trở thành những “kẻ trẻ tuổi” và Ngài cũng muốn “kẻ trẻ tuổi” trở nên những “phụ lão” (IGi 2:12-14).
Phao-lô kể ra 3 công việc có liên quan đến đời sống của Cơ-đốc nhân trọn lành (Eph 2:8-10).
-Công việc đầu tiên là sự cứu rỗi Đức Chúa Trời dành cho chúng ta Chúa Giê-xu Christ đã làm trọn công tác này trên thập tự giá. Nếu chúng ta tin nhận Ngài, sẽ được Ngài cứu rỗi.
-Công việc thứ hai là sự thánh hóa Đức Chúa Trời thực hiện trong chúng ta, vì “chúng ta là việc Ngài làm ra” (Eph 2:10a). Đức Chúa Trời gây dựng tính cách chúng ta hầu cho chúng ta trở nên giống Chúa Giê-xu Christ hơn, vì “đã được định sẵn để nên giống như hình bóng con Ngài” (Rô 8:29).
-Công việc thứ ba là sự hầu việc Đức Chúa Trời hành động qua chúng ta. Chúng ta là những kẻ “được dựng nên trong Đức Chúa Giê-xu Christ để làm việc lành” (Eph 2:10b).
Đức Chúa Trời gây dựng nhân cách trước khi Ngài kêu gọi con người hầu việc. Ngài phải hành động “trong” chúng ta trước khi có thể hành động “qua” chúng ta. Đức Chúa Trời đã dùng 25 năm để hành động trong Áp-ra-ham trước khi ban cho ông đứa con như lời hứa.
Ngài hành động 13 năm trong cuộc đời Giô-sép để đưa ông vào những “thử thách trăm bề” trước khi Ngài có thể đặt ông trên chiếc ngai ở Ai-cập Ngài phải chuẩn bị cho Môi-se suốt 80 năm để ông hầu việc trong 40 năm. Chúa Giê-xu Christ cũng mất 3 năm để giáo huấn các môn-đệ Ngài và xây dựng tính cách họ.
Dầu vậy, Đức Chúa Trời không thể hành động trong chúng ta nếu không có sự bằng lòng của chúng ta. Phải có một ý muốn đầu phục về phía con người. Người trưởng thành sẽ không tranh cãi với ý muốn Đức Chúa Trời, nhưng tiếp nhận và sẵn sàng vâng theo ý Ngài cách vui mừng, “lấy lòng tốt làm theo ý muốn Đức Chúa Trời” (Eph 6:6). Nếu chỉ cố gắng vượt qua thử thách cách miễn cưỡng mà không có ý muốn đầu phục, chúng ta sẽ trở nên giống như đứa trẻ không biết suy nghĩ hơn là người trưởng thành.
Giô-na là một điển hình. Đức Chúa Trời sai ông đi làm chứng cho dân ngoại thành Ni-ni-ve nhưng ông từ chối. Đức Chúa Trời đã quở phạt Giô-na trước khi ông chịu nhận nhiệm vụ. Trong thâm tâm, Giô-na không muốn vâng lời Đức Chúa Trời. Ông chưa trưởng thành trong từng trải này. Làm sao chúng ta biết? Bởi vì ở đoạn cuối sách Giô-na, vị tiên tri này giống như đứa trẻ hư hỏng! Ông ngồi bên ngoài thành Ni-ni-ve giận dỗi, mong Đức Chúa Trời thi hành sự xét đoán. Ông không có tính kiên nhẫn đối với nắng, gió, dây dưa và cả với Đức Chúa Trời.
Giai đoạn khó khăn trong sự tăng trưởng của trẻ con là giai đoạn “cai sữa”. Đứa trẻ được cai sữa (ăn thức ăn đặc) nghĩ rằng mẹ không yêu nó nữa và mọi thứ dường như bất lợi đối với nó! “Cai sữa” thật ra là một bước khởi đầu sự trưởng thành và tự do, có ích cho con cái Đức Chúa Trời. Đôi khi, Đức Chúa Trời phải quăng xa khỏi chúng ta những món “đồ chơi trẻ con” cùng những thái độ thiếu khôn ngoan chín chắn. Đa-vít cũng phác hoạ hình ảnh trên trong Thi 131:2) “Tôi đã làm cho linh hồn ở trong mình tôi cũng như con trẻ dứt sữa vậy”. Đức Chúa Trời dùng thử thách để cất khỏi chúng ta những điều thuộc về con trẻ, nhưng nếu chúng ta không đầu phục Ngài, chúng ta chắc sẽ càng dại dột hơn!
Ở câu 9-11 Gia-cơ áp dụng nguyên tắc trên đối với hai tầng lớp Cơ-đốc nhân: người nghèo và kẻ giàu. Rõ ràng, tiền tài và địa vị xã hội là những nan đề giữa vòng các tín hữu này (Gia 2:1-7,15-16; Gia 4:1-3,13-17; Gia 5:1-8).
Những cuộc trắc nghiệm của Đức Chúa Trời làm san bằng những khác biệt trong chúng ta. Khi thử thách xảy đến với người nghèo, người ấy nhờ cậy Chúa và vui mừng biết rằng mình có một tài sản thuộc linh không ai cướp mất được. Khi thử thách đến với người giàu, người ấy nhờ cậy Chúa và vui mừng nhận lãnh của cải mình có trong Đấng Christ không bao giờ bị thâm thụt. Nói cách khác, ngoài nguồn của cải thuộc linh, không một phương tiện vật chất nào có thể giúp bạn vượt qua những thử thách của cuộc sống.
4. Hãy cầu xin - Tấm lòng tin (Gia 1:5-8)
Gia-cơ viết thư cho đối tượng có nan đề về sự cầu nguyện (Gia 4:1-3; Gia 5:13-18). Khi phải vượt qua những khó khăn Đức Chúa Trời đã định, chúng ta cần cầu nguyện về điều gì? Gia-cơ đưa ra lời giải đáp, hãy cầu xin sự khôn ngoan.
Gia-cơ đề cập rất nhiều về sự khôn ngoan (Gia 1:5; Gia 3:13-18). Dân Do-thái vốn rất khao khát sự khôn ngoan như chứng cớ được bày tỏ trong sách Châm-ngôn. Có người cho rằng tri thức là khả năng tách rời mọi sự việc, còn sự khôn ngoan là tài năng kết hợp mọi sự lại với nhau. Sự khôn ngoan chính là cái quyền sử dụng tri thức.
Chúng ta đều biết con người như những kẻ dại dột có trí thức: đạt nhiều thành tích xuất sắc trong học vấn, nhưng lại không thể quyết định được những vấn đề đơn giản nhất trong cuộc sống. Có lần tôi gặp một giáo sư nổi tiếng của một chủng viện đang đội trên đầu hai chiếc mũ!
Vì sao chúng ta cần có khôn ngoan khi đối đầu với thử thách? Vì sao chúng ta không cầu xin được mạnh mẽ, đầy ơn hay được giải cứu? Chúng ta cần có sự khôn ngoan để không lãng phí những cơ hội Đức Chúa Trời ban cho hầu giúp ta được trưởng thành. Sự khôn ngoan giúp chúng ta biết lợi dụng mọi hoàn cảnh để rèn luyện bản thân và quy vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
Trước đây, một thư ký rất giỏi là cộng sự của tôi đã gặp những thử thách nặng nề. Bà bị lâm vào một cơn đột quỵ còn chồng bà bị mù dần dần, phải vào bệnh viện nơi mà mọi người biết chắc ông sẽ chết. Một Chúa nhật nọ, tôi gặp bà trong nhà thờ và cho bà biết rằng tôi đã cầu nguyện cho bà.
Bà hỏi tôi một câu làm tôi thật giật mình: “Thế ông muốn cầu xin Chúa làm điều gì?”
Tôi đáp: “Tôi xin Chúa giúp đỡ và ban thêm sức cho bà”.
Bà nói: “Cảm ơn ông, nhưng xin ông hãy cầu nguyện một vấn đề nữa: xin Chúa cho tôi được khôn ngoan để không lãng phí mọi cơ hội mình có”. Quả thật, bà đã hiểu ý nghĩa của Gia 1:5).
Gia-cơ không chỉ giải thích điều cần cầu xin (sự khôn ngoan), nhưng cũng chia sẻ cách cầu xin nữa. Chúng ta phải cầu nguyện bằng đức tin. Đừng sợ hãi chi, vì chính Đức Chúa Trời rất mong đáp lời chúng ta và chẳng bao giờ khó chịu khi chúng ta cầu xin Ngài “Ngài lại ban cho ta ơn lớn hơn nữa” (Gia 4:6). Ngài còn ban cho chúng ta khôn ngoan nhiều hơn. Lòng vô tín là kẻ thù nguy hiểm nhất cản trở lời cầu nguyện được nhậm.
Gia-cơ ví kẻ hay nghi ngờ như sóng biển dồi dập bất thường. Khi nghỉ mát ở Hawaii, tôi mới biết rằng không thể ngờ nổi về sóng biển. Ngồi trên một phiến đá cạnh bờ biển, tôi theo dõi những đợt sóng và tắm nắng. Chợt có âm thanh nào đó ở phía sau khiến tôi quay lại để xem ai đi tới. Chỉ trong nháy mắt, một đợt sóng lớn tạt vào người tôi ướt sũng! Bạn đừng bao giờ xoay lưng về phía sóng biển. Chúng dồi dập thật bất thường.
• Đây là từng trải của người hay dao động.
Đức tin nói “vâng” nhưng sự vô tín nói “không”. Kẻ nghi ngờ có thể mau mắn nói “Vâng” nhưng chỉ trong giây lát sẽ nói “Không”. Chính sự nghi ngờ đã nhận chìm Phi-e-rơ giữa những đợt sóng biển khi ông đi đến với Chúa (Mat 14:22-33).
Chúa hỏi Phi-e-rơ: “Hỡi người ít đức tin, sao ngươi hồ nghi làm vậy?” Khi Phi-e-rơ khởi sự bước đi bằng đức tin, đôi mắt ông không rời Chúa. Nhưng khi bận tâm đến sóng gió, Phi-e-rơ không tiếp tục bước đi bằng đức tin nên bắt đầu chìm. Ông là người đã bị dao động nên suýt chết đuối.
Có nhiều Cơ-đốc nhân sống như những chiếc nút chai lượn lờ trên sóng biển: trồi lên, sụt xuống, chao đảo tới lui. Kiểu sống này là bằng chứng của một tư tưởng thiếu khôn ngoan chín chắn. Phao-lô đã luận về điều này ở Eph 4:14 rằng: “Ngài muốn chúng ta không như trẻ con nữa, bị người ta lừa đảo, bị mưu chước dỗ dành làm cho lầm lạc, mà dao động và dời đổi theo chiều gió của đạo lạc”. Nếu chúng ta có lòng tin kiên định, cầu nguyện bởi đức tin, Chúa sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan cần thiết. Thật vậy, tinh thần bất định và tư tưởng thiếu khôn ngoan luôn đồng hành với nhau.
Gia-cơ đưa ra lời kết luận bằng một phước hạnh: “Phước cho người bị cám dỗ” (c.12). Ông bắt đầu (c.2) và kết thúc vấn đề bằng sự vui mừng. Quan điểm quyết định kết quả. Phước lành này là lời khích lệ mạnh mẽ cho người theo Chúa, vì mão triều thiên được hứa ban cho những ai kiên nhẫn chịu đựng thử thách. Trong các thư tín, Phao-lô thường sử dụng những hình ảnh minh họa về vận động viên điền kinh. Gia-cơ cũng vậy, ở đây ông không nói rằng tội nhân được cứu do chịu đựng thử thách, nhưng nói rằng người tin Chúa sẽ được phần thưởng về sự chịu đựng đó.
Người tin Chúa được ban thưởng ra sao?
-Trước hết, người ấy được tăng trưởng về đạo đức Cơ-đốc, và cũng được ban thưởng qua việc làm sáng danh Đức Chúa Trời.
-Khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm, người ấy sẽ được lãnh mão triều thiên của sự sống. Thập tự giá phải đến trước mão triều thiên, thử thách hoạn nạn đi trước vinh hiển.
Đức Chúa Trời không giúp chúng ta bằng cách bỏ qua những thử thách, nhưng Ngài thực hiện những cuộc trắc nghiệm ấy vì ích lợi của chúng ta. Sa-tan muốn lợi dụng thử thách cốt để đánh gục chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời dùng thử thách để vực chúng ta dậy.
Ở c.12, Gia-cơ dùng một từ rất ý nghĩa “Kính mến”. Có lẽ chúng ta nghĩ ông sẽ viết: “... Mão triều thiên của sự sống mà Đức Chúa Trời đã hứa cho kẻ tin nhận Ngài (hay vâng lời Ngài)”. Vì sao Gia-cơ dùng từ “kính mến”? Vì yêu mến chính là động cơ thuộc linh ẩn sau những mệnh lệnh trong phân đoạn này.
Vì sao chúng ta phải có thái độ vui mừng khi đối diện với thử thách? Vì chúng ta kính yêu Đức Chúa Trời và cũng vì Ngài yêu thương chúng ta, không muốn chúng ta bị tổn hại.
Vì sao chúng ta phải có trí thông hiểu? Vì Chúa yêu chúng ta và bày tỏ chân lý của Ngài cho chúng ta nên chúng ta phải đáp lại tình yêu ấy.
Vì sao chúng ta phải có một ý muốn đầu phục Ngài? Vì chúng ta yêu Ngài. Ở đâu có tình yêu hiện diện, ở đó có sự đầu phục và vâng lời. Vì sao chúng ta phải có lòng tin kính? Vì tình yêu và đức tin phải đi đôi với nhau. Khi yêu mến ai, bạn tin cậy người ấy và không ngần ngại nhờ người ấy giúp đỡ mình.
Tình yêu là sức mạnh thuộc linh hiện diện đằng sau những mệnh lệnh Gia-cơ dành cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng cho việc nhìn xem, nhận biết, chờ đợi và cầu xin. Còn có một yếu tố khác dự phần: tình yêu giúp chúng ta trung tín với Chúa. Người phân tâm (Gia 1:8) khác nào là kẻ thiếu chung thuỷ với bạn tình, người ấy muốn yêu Đức Chúa Trời và cũng yêu thế gian. Gia-cơ khuyên “Có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi” (Gia 4:8). Theo tiếng Hy-lạp “làm sạch” được hiểu như “làm cho trong trắng, trinh bạch”. Đây là hình ảnh của một người tình thiếu chung thủy.
Trở lại với vấn đề “cai sữa”, đứa trẻ nào yêu mẹ và biết mẹ yêu mình, sẽ vượt qua được giai đoạn dứt sữa và khởi đầu tăng trưởng. Cơ-đốc nhân nào yêu mến Đức Chúa Trời và nhận biết tình yêu Chúa dành cho mình, sẽ không bị vấp ngã khi Đức Chúa Trời khiến thử thách xảy đến. Người ấy sẽ sống bình an trong tình yêu của Đức Chúa Trời.
Người ấy không hề phân tâm hay ‘gắng gượng” yêu Đức Chúa Trời lại cũng yêu đời này. Lót là loại người phân tâm nên khi thử thách xảy đến ông đã thất bại thảm hại. Áp-ra-ham là bạn hữu Đức Chúa Trời vì ông yêu mến và vâng phục Ngài. Khi thử thách xảy đến, Áp-ra-ham đã chiến thắng nghịch cảnh và trưởng thành trong đức tin.
Mục đích của Đức Chúa Trời trong những thử thách là để con người được trưởng thành về thuộc linh. Câu Kinh Thánh “sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào” (Gia 1:4) được Charles Williams diễn giải cách sinh động: “Hãy để sự nhịn nhục đạt đến kết quả hoàn thiện của nó, hầu cho chính mình anh em cũng được phát triển toàn diện và được trang bị đầy đủ”.
Nếu đó là những gì bạn muốn đạt được, vậy để bày tỏ lòng yêu mến bạn dành cho Đấng Christ hãy xem thử hãy biết, hãy để cho và hãy cầu xin!
3. ĐỐI PHÓ VỚI SỰ CÁM DỖ (Gia 1:13-18)
Người trưởng thành là người kiên nhẫn nhịn nhục trong mọi thử thách. Đôi khi thử thách là cuộc trắc nghiệm bên ngoài và lắm lúc đó là sự cám dỗ bên trong. Thử thách có thể là cuộc trắc nghiệm được Đức Chúa Trời cho phép xảy ra, hoặc có thể là cám dỗ Sa-tan đưa đến để khơi dậy bản ngã sa đoạ trong chúng ta. Khía cạnh thứ hai của sự thử thách Gia-cơ muốn đề cập trong phân đoạn này là sự cám dỗ từ bên trong.
Có thể chúng ta thắc mắc “tại sao Gia-cơ nối tiếp vấn đề với khía cạnh thứ hai này? Có mối liên hệ gì giữa trắc nghiệm bên ngoài và cám dỗ bên trong?” Thật đơn giản, nếu chúng ta không giữ mình thì những cuộc trắc nghiệm bên ngoài có thể trở thành những cám dỗ bên trong. Khi rơi vào hoàn cảnh nan giải, chúng ta thường oán trách Đức Chúa Trời, nghi ngờ tình yêu Ngài và nghịch lại ý muốn Ngài. Đúng thời điểm này, Sa-tan sẽ “phe phẩy” trước mặt chúng ta một cơ hội để thoát ra khỏi nan đề. Cơ hội này là một cám dỗ!
Chân lý này được minh hoạ nhiều chỗ trong Kinh Thánh. Áp-ra-ham đến xứ Ca-na-an và phát hiện nạn đói xảy ra ở đó. Ông không thể giữ được bầy gia súc và sản vật mình. Thử thách này là một cơ hội để bày tỏ danh Chúa, nhưng Áp-ra-ham lại biến hoàn cảnh này thành một cám dỗ và đi xuống xứ Ai-cập. Đức Chúa Trời phải quở phạt Áp-ra-ham để đưa ông trở lại vị trí của sự vâng phục và hưởng phước lành.
Khi dân Y-sơ-ra-ên đi trong đồng vắng, họ luôn làm cho những thử thách trở thành sự cám dỗ và chọc giận Đức Chúa Trời. Ngay khi ra khỏi Ai-cập, họ phải đi trọn 3 ngày trong đồng vắng nhưng chẳng có nước uống. Khi tìm thấy nước, nước lại quá đắng khiến họ không dùng được. Dân sự trở mặt lằm bằm và oán trách Đức Chúa Trời. Họ đã làm cho thử thách trở nên cám dỗ và sa ngã.
Đức Chúa Trời thật sự không muốn chúng ta đầu hàng sự cám dỗ, nhưng cũng không thể miễn cho chúng ta từng trải về sự cám dỗ. Chúng ta không phải là dân đang ở trong nhà Chúa nhưng là dân “tản lạc” của Ngài. Nếu muốn được trưởng thành, chúng ta phải đối diện với thử thách và cám dỗ. Có 3 vấn đề chúng ta cần xem xét để đắc thắng sự cám dỗ.
1. Nhìn xem sự đoán phạt của Đức Chúa Trời (Gia 1:13-16)
Đây là cách nhìn tiêu cực nhưng rất ý nghĩa. Gia-cơ muốn chúng ta ngẩng lên để thấy “tội ác đã trọn, sinh ra sự chết”. Đừng oán trách Đức Chúa Trời vì sự cám dỗ. Ngài vốn là Đấng thánh khiết nên không thể bị cám dỗ. Ngài cũng là Đấng đầy lòng yêu thương nên không thể cám dỗ ai. Đức Chúa Trời trắc nghiệm chúng ta như Ngài từng thực hiện đối với Áp-ra-ham (Sa 22:1-25), nhưng Chúa không “cám dỗ” chúng ta. Chính chúng ta đã biến những dịp trắc nghiệm thành cơn cám dỗ.
Sự cám dỗ là cơ hội thực hiện điều tốt lành theo hướng sa đọa, trái ngược với ý muốn Đức Chúa Trời. Vượt qua một kỳ thi trắc nghiệm có gì là sai trái? Dĩ nhiên không, nhưng nếu bạn “thi đậu” một cách gian lận, vậy bạn đã phạm tội. Bị cám dỗ trong sự gian lận là cơ hội thuận tiện để thực hiện một điều tốt lành (thi đậu) bằng con đường xấu xa. Ăn uống là hành động không có gì sai trái nhưng nếu bạn nghĩ đến việc đánh cắp thực phẩm, vậy bạn đang tự cám dỗ mình.
Chúng ta nghĩ về tội lỗi như một hành động đơn giản, nhưng Đức Chúa Trời xem đó là một quá trình sa đoạ. Chỉ một hành động phạm tội, A-đam đã đem tội lỗi, sự chết và đoán phạt đến cho cả dòng dõi loài người. Gia-cơ mô tả tiến trình tội lỗi theo 4 giai đoạn.
a. Ham muốn (Gia 1:14)
Chữ “tư dục” có nghĩa như bất cứ điều ham muốn nào chớ không nhất thiết là những đam mê nhục dục. Những ước muốn thông thường trong đời sống được Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, tự chúng không có gì tội lỗi. Nếu không có những ước muốn, chúng ta không thể làm được gì. Nếu không cảm thấy đói khát, chúng ta sẽ chẳng bao giờ ăn uống và sẽ chết. Nếu không mệt nhọc, cơ thể chúng ta sẽ chẳng nghỉ ngơi, để rồi đi đến chỗ kiệt quệ. Tình dục cũng là một ước muốn bình thường, vì nếu không có nó dòng dõi loài người không thể tồn tại.
Khi chúng ta muốn thoả mãn những mong muốn trong tinh thần nghịch lại ý muốn Đức Chúa Trời, vậy chúng ta sẽ gặp “rắc rối”. Ăn uống là hành động bình thường, nhưng thói phàm ăn là tội lỗi. Ngủ là trạng thái bình thường, nhưng biếng nhác là tội lỗi. “Mọi người phải kính trọng sự hôn nhân, chốn khuê phòng chớ có ô uế, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ dâm dục cùng kẻ phạm tội ngoại tình” (He 13:4).
Một số người cố gắng trở nên “thuộc linh” bằng cách chối bỏ những ước muốn bình thường này hoặc cố tình đè nén chúng, nhưng điều này chỉ càng khiến họ như những con người bất thường. Những mong muốn chính đáng của cuộc sống như hơi nước trong nồi đun làm máy hoạt động. Nếu tắt van hơi, bạn sẽ không có năng lượng.Nếu để hơi nước toả ra tự do, bạn sẽ gặp nguy hiểm. Bí quyết an toàn chính là ở “cần điều khiển”. Những ước muốn này phải ở dưới sự kiểm soát của bạn, chúng không thể làm chủ bạn được. Chúng ta có thể làm được điều này nhờ Chúa Giê-xu Christ.
b. Sự lừa gạt (Hêb 1:14)
Không có sự cám dỗ nào lộ ra chân tướng thật của nó để người ta nhận biết, nhưng nó luôn có sức hấp dẫn đến kỳ lạ. Chữ “xui giục” theo ngôn ngữ Hy-lạp có nghĩa như “bẫy mồi”. Thợ săn và người câu cá phải sử dụng mồi để nhử bắt con mồi của họ. Không con thú nào cố tình nhảy vào cái bẫy chực sẵn, cũng không con cá nào muốn cắn vào lưỡi câu trần. Cái bẫy và cần câu đều được nguỵ trang kín đáo!
Sự cám dỗ luôn mang bên mình có miếng mồi lôi cuốn mạnh mẽ những ước muốn tự nhiên của chúng ta. Bẫy này không chỉ hấp dẫn ta, nhưng còn tô điểm và che dấu sự thật rằng nếu chìu theo ước muốn đó chúng ta sẽ chịu phiền muộn và bị đoán phạt. Chính miếng mồi đó là mục tiêu gây chú ý cho chúng ta.
Có lẽ Lót đã không hướng lòng về Sô-đôm nếu ông không nhìn thấy những cánh đồng phì nhiêu màu mỡ bên sông Giô-đanh (Sa 13:10). Khi nhìn vợ của người lân cận, có lẽ Đa-vít đã không phạm tội tà dâm nếu ông nhìn thấy hậu quả bi thảm: cái chết của con trai Bát-sê-ba, dũng sĩ U-ri bị giết, con gái là Ta-ma bị gian hiếp. Miếng mồi khiến chúng ta bị che mắt không nhìn thấy hậu quả tội lỗi.
Khi bị Sa-tan cám dỗ, Chúa Giê-xu Christ luôn đối phó nó dựa trên nền tảng của Lời Đức Chúa Trời. Ba lần Ngài phán: “Có lời chép rằng...” Theo quan điểm con người, việc hóa đá thành bánh để thỏa mãn cơn đói là việc làm thực tế có vẻ hợp lý, nhưng điều đó không thuộc quan điểm của Đức Chúa Trời. Khi bạn biết rõ Kinh Thánh, bạn có thể nhận ra ngay ra miếng mồi và cương quyết đối phó lại. Đây là ý nghĩa của hành động bước đi bằng đức tin chớ không bởi ngoại cảnh.
c. Bất tuân (Gia 1:15)
Từ chỗ cảm xúc (ham muốn) và trí tuệ (bị lừa gạt) chúng ta tiến đến ý chí. Từ hình ảnh về sự săn bắt, Gia-cơ chuyển sang hình ảnh sinh con. Tư dục cưu mang một chiến thuật nhử mồi. Ý tán đồng và hành động. Kết quả chính là tội lỗi. Dù có cảm nhận hay không, chúng ta vẫn bị dính câu và mắc bẫy. “Đứa con” đã ra đời và chỉ việc chờ đến lúc nó lớn lên!
Sự sống của Cơ-đốc nhân là một vấn đề của ý chí chớ không phải của cảm xúc. Tôi thường nghe các tín-đồ nói rằng: “Tôi cảm thấy không thích đọc Kinh Thánh” hoặc “Tôi cảm thấy không thích tham dự buổi “cầu nguyện”. Trẻ con hành động theo cảm xúc, nhưng người lớn cư xử theo ý chí. Họ hành động vì biết đâu là điều chính đáng dù họ cảm xúc ra sao đi nữa. Lý do Cơ-đốc nhân chưa trưởng thành dễ bị cám dỗ chính ở chỗ họ đã để cảm xúc quyết định mọi sự. Bạn càng hành động theo ý chí bằng cách nói chữ “không” mạnh mẽ trước sự cám dỗ, bạn sẽ càng được Đức Chúa Trời điều khiển đời sống mình. “Chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi 2:13).
d. Sự chết (Gia 1:15)
Hành động bất tuân sinh ra sự chết. Tội lỗi có thể lớn dần trong vài năm, nhưng khi đã hiện rõ chân tướng, kết quả sẽ là sự chết. Nếu chúng ta tin nơi Lời Đức Chúa Trời và lường trước thảm hoạ sau cùng của tội lỗi, sự nhận biết này sẽ giúp chúng ta không chìu theo sự cám dỗ. Đức Chúa Trời đã dựng lên một rào cản vì Ngài yêu chúng ta. “Ta ... há chẳng thà vui về sự nó xây bỏ đường lối mình và nó sống sao?” (Exe 18:2b).
Bốn giai đoạn trong sự cám dỗ và phạm tôị được mô tả đầy đủ ở tội lỗi đầu tiên của loài người chép trong Sáng thế ký đoạn 3. Con rắn lợi dụng tư dục để cám dỗ bà Ê-va: “Nhưng Đức Chúa Trời biết rằng hễ ngày nào hai ngươi ăn trái cây đó, mắt mình mở ra, sẽ như Đức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác” (Sa 3:5). Đạt được tri thức có gì sai trái? Ăn uống có gì là trái lẽ? Ê-va thấy “trái của cây đó bộ ăn ngon” (Sa 3:6) và tư dục bà trổi dậy.
Phao-lô luận về việc Ê-va bị cám dỗ ở IICôr 11:3 rằng “Tôi ngại rằng khi xưa Ê-va bị cám dỗ bởi mưu chước con rắn kia, thì ý tưởng anh em cũng hư đi, mà dời đổi lòng thật thà tinh sạch đối với Đấng Christ chăng...” Sa-tan là kẻ lừa dối, muốn tìm kế dụ dỗ lòng người. Mưu chước nó dùng nhử Ê-va là tư tưởng cho rằng trái cấm kia vừa ngon lại đẹp mắt, ăn vào sẽ mở mang trí khôn. Ê-va hiểu mưu chước con rắn, nhưng lại quên mất lời dặn dò của Chúa: “Vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sa 2:17).
Ê-va bất tuân Đức Chúa Trời khi giơ tay hái trái và ăn. Bà cũng cho A-đam ăn trái cây ấy, vậy ông đã phạm tội bất tuân với Đức Chúa Trời. A-đam không bị con rắn trực tiếp cám dỗ, nhưng đã phạm tội khi nhận thức rõ ràng mọi điều Chúa từng căn dặn. Chính tội lỗi của A-đam đã đẩy dòng dõi loài người xuống vực sâu của thảm trạng này (ITi 2:12-16; Rô 5:12-21).
Cả A-đam và Ê-va đã kinh nghiệm sự chết thuộc linh trước mắt (bị phân cách với Đức Chúa Trời) và sự chết sau cùng của thể xác. Bởi A-đam, mọi người đều chết (ICôr 15:21-22). Người nào không tin nhận Chúa Giê-xu Christ, khi qua đời sẽ phải nếm trải sự chết đời đời nơi hồ lửa (Kh 20:11-15)
Những khi phải đương đầu với sự cám dỗ, bạn hãy ngoảnh mặt khỏi miếng mồi và nhìn về phía trước để thấy hậu quả của tội lỗi là: sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô 6:23).
2. Quan tâm đến sự nhân từ của Đức Chúa Trời (Gia 1:17)
Một trong những thủ thuật cám dỗ của Sa-tan là xui chúng ta nghĩ rằng Đức Chúa Trời đã bỏ mặc, không yêu thương và không quan tâm chúng ta. Đến với Ê-va. Sa-tan lý luận rằng nếu Đức Chúa Trời yêu thương bà, vậy Ngài sẽ cho phép bà được ăn trái cấm. Khi cám dỗ Chúa Giê-xu Christ, nó cũng đưa ra câu hỏi về sự ăn uống: Nếu Cha trên trời yêu ngươi, thế thì tại sao ngươi phải chịu đói khát thế kia?
Sự nhân từ của Đức Chúa Trời chính là một rào cản lớn để con người thắng hơn sự cám dỗ. Vì Đức Chúa Trời là Đấng tốt lành nên chúng ta chẳng cần một ai khác (kể cả Sa-tan) thoả đáp những nhu cầu của mình. Thà chịu đói khát theo ý muốn Đức Chúa Trời còn hơn no nê mà nghịch lại ý Chúa.
Một khi bắt đầu nghi ngờ sự nhân từ của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ bị lôi cuốn theo những mời gọi của Sa-tan, và tư dục tự nhiên trong ta sẽ tiến gần đến miếng mồi chực sẵn của nó. Môi-se đã khuyên dân Y-sơ-ra-ên chớ quên ơn Đức Chúa Trời khi họ bắt đầu hưởng phước nơi vùng Đất Hứa (Phuc 6:10-15). Hôm nay, chúng ta cũng cần ghi nhớ lời khuyên này.
Gia-cơ trình bày 4 đặc điểm về sự nhân từ của Đức Chúa Trời.
a. Đức Chúa Trời chỉ ban những ơn lành:
Mọi sự tốt lành trên thế gian đều từ Đức Chúa Trời đến. Nếu điều gì từ Đức Chúa Trời đến, điều đó chắc chắn là tốt lành dù chúng ta không thể nhìn thấy sự tốt lành ấy tức thời. “cái giằm” xóc vào thịt Phao-lô cũng do Đức Chúa Trời ban xuống, dù nó dường như một sự ban cho “kỳ dị” nhưng đã trở nên một ơn phước kỳ diệu đối với Phao-lô (IICôr 12:1-10).
b. Cách ban cho của Đức Chúa Trời là tốt lành:
Ai đó có thể tặng chúng ta một món quà vì lịch sự chớ không xuất phát từ lòng yêu mến. Món quà có thể bị giảm giá trị do cách người khác trao tặng chúng ta. Nhưng khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một ơn phước, Ngài làm điều đó trong tinh thần yêu thương, nhân từ. Sự ban cho và cách ban cho của Ngài đều tốt lành.
c. Đức Chúa Trời ban phước không thôi:
Chữ “xuống” (ban xuống) c.17 được viết ở dạng hiện tại, hoàn thành tiếp diễn, nên có thể hiểu là “vẫn đang ban xuống”. Đức Chúa Trời không ban phước theo “dịp tiện”, nhưng Ngài ban phước không thôi. Dù khi chúng ta không nhận biết những ơn phước của Ngài, Ngài vẫn tiếp tục ban phước. Làm sao chúng ta biết được điều này? Bởi Ngài đã cho chúng ta biết như vậy, chúng ta phải tin Lời Ngài.
d. Đức Chúa Trời không thay đổi:
Đức Chúa Trời không thể thay đổi vì trong sự sáng Ngài chẳng có “bóng của sự biến cải nào”. Trong Ngài không có sự sai trái nào cần thay đổi vì Ngài vốn là Đấng Thánh khiết Ngài cũng chẳng cần thay đổi điều gì cho tốt hơn vì Ngài là Đấng Toàn Mỹ.
Ánh sáng của mặt trời biến đổi từng lúc theo sự đổi thay của trái đất, nhưng chính mặt trời vẫn luôn toả sáng. Nếu có những chiếc bóng xuất hiện giữa chúng ta và Đức Chúa Trời không hề thay đổi, chúng ta đừng chất vấn tình yêu của Đức Chúa Trời hay ngờ vực lòng nhân từ Ngài, dù khi thử thách cám dỗ xảy đến.
Nếu vua Đa-vít nhớ lại những ơn lành của Chúa, có lẽ ông đã không cướp đoạt Bát-sê-ba và phạm trọng tội. Ít ra cũng con có người nhắc nhở Đa-vít như tiên tri Na-than: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán như vầy: Ta đã xức dầu lập ngươi làm vua Y-sơ-ra-ên, ta đã giải cứu ngươi khỏi tay Sau-lơ. Ta cũng ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, lập ngươi làm vua của nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, và nếu điều đó không đủ ắt ta sẽ thêm cho ơn khác nữa” (IISa 12:7-8). Đức Chúa Trời thật nhân từ với Đa-vít, vậy mà ông lại quên ơn Ngài để bị sa đoạ.
Rào cản thứ nhất chống lại sự cám dỗ là rào cản có tính tiêu cực: Sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. Rào cản thứ hai mang tính tích cực sự nhân từ của Đức Chúa Trời.Lòng kính sợ Đức Chúa Trời là tư tưởng lành mạnh nhưng phải đi đôi với lòng yêu mến Ngài. Chúng ta thường vâng lời Ngài vì sợ bị Ngài quở phạt, hoặc vì Ngài quá rộng rời với chúng ta, hay vì Ngài rất nhân từ nên chúng ta yêu Ngài?
Chính thái độ tích cực đã giúp Giô-sép không phạm tội khi bị vợ của chủ cám dỗ (Sa 39:7). Ông từ chối rằng: “Chủ đã giao nơi tay tôi mọi vật của người, và này, chủ chẳng lo biết đến việc chi trong nhà nữa trong nhà này chẳng ai lớn hơn tôi, và chủ cũng không cấm chi tôi, trừ ra một mình ngươi, vì là vợ của chủ tôi. Thế nào tôi dám phạm điều đại ác dường ấy, mà phạm tội cùng Đức Chúa Trời sao?” (Sa 38:8-9). Giô-sép nhận biết mọi ơn phước từ Đức Chúa Trời. Bởi sự nhân từ, Đức Chúa Trời đã dùng cánh tay của chủ Giô-sép để giữ ông trong thời điểm của sự cám dỗ ấy.
Những món quà Đức Chúa Trời ban cho luôn tốt lành hơn “của hời” Sa-tan đem đến.Sa-tan chưa bao giờ cho ai món quà nào, vì người ta luôn trả lại một giá quá đắt cho nó. “Phước lành của Đức Giê-hô-va làm cho giàu có Ngài chẳng thêm sự đau lòng gì lẫn vào” (Ch 10:22). A-can quên lời dạy dỗ và ơn phước Đức Chúa Trời nên khi nhìn thấy “của đáng diệt” đã tham muốn và cất giữ. A-can giàu có nhưng kết cuộc chỉ là sự sầu não, của cải cũng tiêu tan (Gios 7:1-26)
Khi vị cám dỗ, bạn hãy nghĩ đến mọi ơn lành Đức Chúa Trời đã đãi ngộ mình trong những ngày tháng đã qua. Nếu thấy mình cần điều gì, hãy chờ đợi sự ban cho của Chúa. Đừng bao giờ đùa giỡn với mưu chước của ma quỉ. Đa-vít bị cám dỗ với hai cơ hội thuận lợi để giết Sau-lơ hầu nhanh chóng đăng quang, nhưng ông đã chống lại sự cám dỗ và chờ đợi giờ hành động của Đức Chúa Trời.
3. Quan tâm đến bản chất thánh khiết của Đức Chúa Trời (Gia 1:18)
Ở rào cản thứ nhất, Đức Chúa Trời phán “Hãy nhìn phía trước để nhận biết sự đoán phạt!” Ở rào cản thứ 2, Ngài phán “Hãy nhìn quanh để biết ta rất nhân từ với con.” Ở rào cản thứ 3, Ngài kêu gọi “Hãy nhìn lại chính mình để biết con đã được tái sinh từ trên cao và có bản tính thánh khiết.”
Gia-cơ sử dụng sự sinh ra làm hình ảnh về tư dục sinh ra tội lỗi và sự chết (Gia 1:15). Ông cũng dùng sự sinh ra để giải thích cách chúng ta vui hưởng sự đắc thắng trên cám dỗ và tội lỗi. Sứ đồ Giăng dùng hình ảnh tương tự về sự sinh ra ở IGi 3:9, nơi “hạt giống” ông muốn nói chỉ về sự sống thiên thượng và bản chất thánh khiết trong lòng người tin nhận. Bạn hãy chú ý đến những đặc điểm sau đây của sự sinh ra này.
a. Sự sinh từ trên cao:
Ni-cô-đem nghĩ mình phải trở vào lòng mẹ một lần nữa mới gọi là “tái sinh”, nhưng ông đã sai lầm. Sự sinh ra này không liên quan đến thể xác, vì là sự sinh “từ trên cao” (Gi 3:1-7). Đây là công việc của Đức Chúa trời. Như chúng ta không thể tạo ra được sự sinh của con người thuộc thể, thì chúng ta cũng không thể tạo ra sự sinh thuộc linh. Khi chúng ta đặt niềm tin nơi Chúa Giê-xu Christ, chính Đức Chúa Trời sẽ thực hiện phép lạ này.
b. Sự sinh ra này là một ơn phước:
Chúng ta không tự tạo ra sự tái sinh cũng không xứng đáng nhận được. Đức Chúa Trời ban sự sinh ra thuộc linh cho chúng ta bởi ân điển và ý muốn tốt lành của Ngài. Chúng ta được tái sinh chẳng phải “bởi khí huyết (dòng dõi loài người), hoặc bởi tình dục (nỗ lực của loài người), hoặc bởi ý người (sự giúp đỡ của loài người) nhưng sinh bởi Đức Chúa Trời vậy” (Gi 1:13). Không ai có thể được. Tái sinh vì người thân mình, hay do quyết tâm hoặc vì cái mác tôn giáo tái sinh là công việc của Đức Chúa Trời.
c. Sự sinh này bởi Lời Đức Chúa Trời:
khi sự sinh ra thể xác đòi hỏi có cha mẹ thì sự sinh thuộc linh cũng có cha mẹ:đó là lời Đức Chúa Trời và Thánh Linh Đức Chúa Trời. “Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sinh bởi Thánh Linh là Thần” (Gi 3:6). “Anh em đã được lại sinh, chẳng phải bởi giống hay hư nát, nhưng bởi giống chẳng hư nát, là bởi lời hằng sống và bền vững của Đức Chúa Trời” (IPhi 1:23). Thánh Linh Đức Chúa Trời là “lời sống và linh nghiệm” (Hêb 4:12). Lời Ngài có thể tái tạo và đặt vào lòng tội nhân tin nhận Đấng Christ sự sống của Đức Chúa Trời.
d. Sự sinh này là sự sinh tốt lành nhất:
Gia-cơ viết cho các tín hữu Do-thái và gọi họ là “trái đầu mùa của những vật Ngài dựng nên”. Từ “trái đầu mùa” rất ý nghĩa đối với họ. Trong thời Cựu-ước, dân Do-thái đã dâng cho Đức Chúa Trời trái đầu mùa để tỏ lòng thành tâm của họ trước Ngài. “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con, mà tôn vinh Đức Giê-hô-va” (Ch 3:9).
Trong mọi vật Đức Chúa Trời dựng nên giữa cõi vũ trụ này, Cơ-đốc nhân chính là tạo vật cao trọng và tốt đẹp nhất! Chúng ta được hưởng bản tính của Đức Chúa Trời. Vì vậy, nếu mắc vào mưu chước của Sa-tan hay chìu theo những ham muốn tội lỗi là chúng ta đã hạ thấp sự cao trọng của mình. Được sinh ra ở địa vị cao trọng hơn nghĩa là phải có một đời sống cao trọng hơn!
Khi đã ban cho chúng ta sự tái sinh, Đức Chúa Trời cũng tuyên bố rằng Ngài không thể chấp nhận sự sống cũ. Qua Kinh Thánh, Ngài chối từ sự sinh đầu tiên và hài lòng với sự sinh ra thứ hai. Ngài chấp nhận A-bên chớ không phải Ca-in, I-sác chớ không phải Ích-ma-ên, Gia-cốp chớ không phải Ê-sau. Ngài không chấp nhận sự sinh đầu tiên cho dù dưới mắt loài người nó dường như cao quí. Ngài cho biết bạn cần phải được tái sinh.
Kinh nghiệm về sự tái sinh sẽ giúp chúng ta đắc thắng cám dỗ. Nếu chúng ta để bản chất của sự sống cũ ngự trị, chúng ta sẽ thất bại. Chúng ta vốn mang bản chất cũ (tư dục) từ A-đam là người đã phạm tội. Nếu chúng ta sống cho bản chất mới (của sự tái sinh) chúng ta sẽ đắc thắng, vì bản chất mới ấy đến từ Đấng Christ là Đấng đắc thắng.
Một thiếu nhi của Trường Chúa Nhật đã giải thích kinh nghiệm về sự tái sinh bằng lời lẽ đơn giản: “Có hai người ở trong lòng con: đó là A-đam khi xưa và Chúa Giê-xu Christ. Khi sự cám dỗ đến gõ cửa ai đó sẽ phải ra mở cửa. Nếu con để A-đam mở cửa con sẽ phạm tội. Vì vậy con đã nhờ Chúa Giê-xu Christ mở cửa. Ngài luôn đắc thắng!”
Dĩ nhiên, bản tính mới này phải được Đức Chúa Trời nuôi dưỡng hằng ngày để nó đủ sức đương đầu với trận chiến thuộc linh. Khi Đức Thánh Linh dùng Lời Đức Chúa Trời để tái sinh bạn, Ngài sẽ dùng những lời ban cho bạn sức mạnh thuộc linh.
“Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi, nhưng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời” (Mat 4:4).
Ngoài chính bản thân mình, chúng ta không có cớ gì để “đổ thừa” cho tội lỗi. Tư dục sẽ đưa chúng ta đến chỗ bị cám dỗ và phạm tội. Đức Chúa Trời đã dựng lên 3 rào cản để giữ chúng ta cách xa tội lỗi. Nếu chúng ta lưu ý đến những rào cản ấy, chúng ta sẽ đắc thắng và được nhận lãnh mão triều thiên (Gia 1:12). Nếu chúng ta phá vỡ những rào cản ấy, chúng ta sẽ nhìn thấy “sự chết” (Gia 1:15). Bạn sẽ hành động theo cách nào?
4 CHỚ LỪA DỐI MÌNH (Gia 1:19-27)
Trọng tâm của phân đoạn này nói về những hiểm hoạ của việc tự lừa dối bản thân (c.22, c.26). Cơ-đốc nhân có thể bị Sa-tan lừa dối để phạm tội, nhưng nếu người ấy tự lừa dối mình thì vấn đề lại càng nghiêm trọng hơn.
Nhiều người nghĩ mình được cứu nhưng sự thật không phải vậy. Lời Chúa phán rằng “Ngày đó sẽ có nhiều người thưa cùng ta rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao?’ Khi ấy ta sẽ phán rõ ràng cùng họ rằng: ‘Hỡi kẻ làm gian ác, ta chẳng biết các ngươi bao giờ, hãy lui ra khỏi ta! ’” (Mat 7:22-23).
Cũng có nhiều Cơ-đốc nhân thật tự lừa dối mình khi cho rằng họ là người “thuộc linh” nhưng sự thật không phải vậy. Một trong những đặc điểm của người trưởng thành được thể hiện qua cách họ đối diện với bản thân cách thành thật, biết rõ mình cũng như thừa nhận những nhu cầu của mình. Người chưa trưởng thành vờ nói rằng: “Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa” (Kh 3:17).
Bản chất thuộc linh là kết quả của mối liên hệ đúng đắn với Đức Chúa Trời qua Lời Ngài. Lời Đức Chúa Trời chính là chân lý (Gi 17:17), nên khi chúng ta có mối liên hệ sâu sắc với chân lý của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ không thể lừa dối mình hay giả hình. Qua phân đoạn này, Gia-cơ đưa ra ba trách nhiệm đối với Lời Đức Chúa Trời. Nếu thực hiện những trách nhiệm ấy, chúng ta sẽ có lòng thành thật với Đức Chúa Trời và con người.
1. Tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời (Gia 1:19-21)
Gia-cơ gọi Lời Đức Chúa Trời là “lời đã được trồng” (c.21), nghĩa là “lời đã được khắc vào tâm trí”. Ông mượn ẩn dụ của Chúa về người gieo giống (Mat 13:1-9) để ví lời Đức Chúa Trời như hạt giống và lòng người như mảnh đất.
Qua ví dụ này, Chúa Giê-xu Christ mô tả 4 tấm lòng con người:
-Lòng cứng cỏi: không hiểu hoặc tiếp nhận lời Đức Chúa Trời nên không kết quả.
-Lòng hời hợt: mau cảm xúc nhưng không có chiều sâu nên không kết quả,
-Lòng nghẹt ngòi: không ăn năn và để tội lỗi lấn át lời Đức Chúa Trời nên cũng không kết quả,
-Lòng mềm mại: chịu tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và để lời ấy đâm rễ nên kết quả dồi dào.
Trắc nghiệm cuối cùng của sự cứu rỗi là sự kết quả, đó là đời sống đổi mới, tính cách và đạo đức của Cơ-đốc nhân, trách nhiệm đối với người khác để quy vinh hiển Đức Chúa Trời. Kết quả đạt được có thể là việc đưa những linh hồn đến với Đấng Christ (Ro 1:16), sống một đời sống thánh khiết (Rô 6:22), san sẻ những gì mình có cho kẻ khác (Rô 15:28), có đạo đức thuộc linh (Ga 5:22-23), làm việc lành (Côl 1:10) và ngợi khen Chúa (Hêb 13:15).
Người ta có thể làm nhiều “công quả” cho một giáo hội, nhưng trong những công việc ấy không chứa đựng một sự sống, cũng không quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Bông trái thật mới hiện hữu trong chính hạt giống tốt để mùa thu hoạch luôn được nhiều huê lợi hơn nữa (Gi 15:1-5).
Lời Đức Chúa Trời không thể linh nghiệm trong đời sống chúng ta nếu lời ấy bị hiểu một cách lệch lạc. Chúa Giê-xu Christ không chỉ phán “Hãy cẩn thận về điều mình nghe” (Mac 4:24), Ngài còn khuyên “Hãy coi chừng về cách các ngươi nghe” (Mac 8:18). Rất nhiều người rơi vào cảnh trớ trêu ấy vì “Xem mà không thấy, lắng tai mà không nghe, và không hiểu chi hết” (Mat 13:13). Họ theo học các lớp Kinh Thánh cũng như phục vụ nhiều trong Hội thánh nhưng dường như chưa bao giờ tăng trưởng. Phải chăng đó là do lỗi của giáo viên Trường Chúa Nhật hay các diễn giả? Có thể như thế, nhưng cũng có thể do lỗi của người nghe. Họ trở nên “chậm hiểu” (Hêb 5:11) vì đời sống thuộc linh đã sa ngã.
Nếu hạt giống của lời Đức Chúa Trời đã được gieo vào lòng, vậy chúng ta phải làm theo những chỉ dẫn của Gia-cơ.
a. Hãy mau nghe (Gia 1:19).
“Ai có tai, hãy nghe” (Mat 13:9). “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô 10:17). Như người đầy tớ mau mắn nghe tiếng chủ, người mẹ nhạy bén với tiếng khóc nhỏ nhẹ nhất của con trẻ, vậy người tin Chúa cũng phải mau nghe lời phán của Đức Chúa Trời.
Một minh họa tuyệt vời về chân lý này được thể hiện trong câu chuyện về vua Đa-vít (IISa 23:14-17). Đa-vít đang lúc trốn khỏi quân Phi-li-tin khi chúng vây thành Bết-lê-hem. Ông ao ước được uống nước giếng bên cửa thành Bết-lê-hem nơi ông thường đến trong thời thơ ấu và lúc trưởng thành. Đa-vít không ra lệnh cho thuộc hạ nhưng chỉ lẩm bẩm một mình: “Chớ chi ta được uống nước bởi giếng ở bên cửa thành Bết-lê-hem!” (IISa 23:15). Ba quan tướng của Đa-vít nghe được lời than thở của vua họ nên đã liều mình đem nước về cho ông. Họ là những con người “mau nghe”.
b. Hãy chậm nói (Gia 1:19).
Chúng ta có hai tai nhưng chỉ có một cái miệng, nên cần phải nghe nhiều hơn nói. Đã bao lần chúng ta lý luận với Lời Đức Chúa Trời, dù không bằng lời nói nhưng ít nhất chúng ta đã làm vậy trong tấm lòng và tâm trí mình.
“Nhưng ai cầm giữ miệng mình là khôn ngoan” (Ch 10:19b). “Người nào kiêng lời nói mình có tri thức” (Ch 17:27a). Thay vì chậm nói, thầy dạy luật ở (Lu 10:29) lại lý luận với Chúa Giê-xu Christ bằng câu hỏi. “Ai là người lân cận tôi?” Trong Hội thánh ban đầu, các lễ thờ phượng diễn ra trong không khí thân mật (không nặng hình thức) nên người nghe có thể tranh luận với diễn giả. Thậm chí trong vòng tín hữu được Gia-cơ gửi thư đến, đã xảy ra tình trạng tranh cạnh, ghen ghét nhau (Gia 4:1).
c. Hãy chậm giận (Gia 1:19).
Bạn đừng nổi giận với Đức Chúa Trời hay Lời Ngài. “Kẻ nào chậm nóng giận có thông sáng lớn, nhưng ai nóng nảy tôn lên sự điên cuồng” (Ch 14:29). Khi tiên tri Na-than kể cho Đa-vít nghe câu chuyện “con chiên bị cướp đoạt”, vua nổi giận không đúng đối tượng. Na-than cho biết: “Vua là người đó!”, Đa-vít mới thú nhận “Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va” (IISa 12:1-25).
Trong vườn Ghết-sê-ma-nê, Phi-e-rơ tỏ ra chậm nghe nhưng mau nói và mau giận nên suýt dùng gươm sát nhân. Nhiều xung đột trong Hội thánh là hậu quả của tánh khí nóng nảy và lời nói thiếu suy nghĩ.
Có một cơn giận thánh thiện chống lại tội lỗi. Nếu chúng ta yêu mến Chúa, chúng ta phải “ghét” tội lỗi (Thi 97:10). Nhưng “cơn giận của con người không làm nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (Gia 1:20). Thật vậy, cơn giận chỉ càng làm phản tác dụng của lòng nhịn nhục Đức Chúa Trời muốn có trong đời sống chúng ta khi chúng ta trưởng thành trong Đấng Christ (Gia 1:3-4).
Người nào không biết ghét tội lỗi thì không có sức mạnh chống trả lại nó. Gia-cơ khuyên chúng ta không nên ghét lời Đức Chúa Trời hay nổi giận với Ngài. Khác nào người sơ khai đập vỡ chiếc gương vì không thích hình ảnh trong đó, con người cũng từng chống nghịch lại lời Đức Chúa Trời vì lời ấy cho họ biết thực trạng tội lỗi của họ.
d. Hãy có lòng nhu mì (Gia 1:21).
Gia-cơ ví lòng người như một mảnh vườn, nếu không chăm sóc đất sẽ sinh cỏ dại. Ông giục chúng ta phải nhổ hết cỏ dại để đất có thể tiếp nhận “Lời Đức Chúa Trời” được trồng xuống. Hình ảnh khu vườn mọc lên đầy cỏ dại không kiểm soát được giống như lòng người chứa đầy những ô uế và gian ác chưa được trừ diệt. Thật dại dột nếu tiếp nhận Lời Đức Chúa Trời với một tấm lòng như thế!
Vậy chúng ta phải chuẩn bị “đất” của lòng mình ra sao để tiếp nhận lời Đức Chúa Trời?
-Trước hết, chúng ta phải xưng tội mình và xin Chúa tha thứ (IGi 1:9). Kế đến, hãy nhớ lại tình yêu và ơn phước Chúa dành cho mình, cầu xin Ngài “đánh tơi” phần đất cứng trong lòng chúng ta “Hãy cày mở ruộng mới các ngươi, chớ gieo trong gai gốc” (Giê 4:3).
-Cuối cùng, chúng ta phải có thái độ nhu mì (Gia 1:21). C.19,20 cho biết lòng nhu mì sẽ chống lại cơn giận dữ. Tiếp nhận lời Chúa với lòng nhu mì sẽ chống lại cơn giận dữ. Tiếp nhận lời Chúa với lòng nhu mì nghĩa là bạn tin lời Ngài, không lý luận nhưng trân trọng lời ấy. Đừng cố tình bóp méo lời Chúa theo ý riêng mình!
Nếu không tiếp nhận “lời đã trồng” là chúng ta đang tự lừa dối mình. Càng tranh luận về những quan điểm, Cơ-đốc nhân sẽ càng lừa dối mình nhiều hơn. Nhiều người nghĩ rằng những “lý luận” cuả họ sẽ “nâng” mức tăng trưởng thuộc linh của họ lên, nhưng kỳ thật chỉ càng làm cỏ dại rộ ra nhanh hơn.
2. Làm theo Lời Đức Chúa Trời (Gia 1:22-25)
Nghe lời Đức Chúa Trời vẫn chưa đủ, chúng ta phải làm theo. Nhiều người sai lầm khi cho rằng nghe một bài giảng hay hoặc học một bài Kinh Thánh là đã có thể khiến họ tăng trưởng và có thể có ơn Chúa. Nghe mà không làm theo, sẽ chẳng nhận được ơn phước nào. Nhiều Cơ-đốc nhân “ôm” Kinh Thánh bên mình nhưng đời sống chẳng thể hiện tinh thần Kinh Thánh chút nào! Nếu bạn nghĩ mình “thuộc linh” do nghe lời Đức Chúa Trời, vậy bạn đang tự lừa dối mình.
a. Xem xét (Gia 1:23-25)
Mục đích chính của việc “soi mặt mình trong gương” là để xem xét kỹ càng (Gia 1:23-25), hầu có thể thấy chính mình và làm cho mình trở nên tươm tất hơn. Khi nhìn vào chiếc gương của lời Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ thấy thực trạng của mình. Gia-cơ đề cập đến những sai lầm con người phạm phải khi nhìn vào chiếc gương soi của Đức Chúa Trời:
-Thứ nhất, họ chỉ liếc sơ qua: Khi đọc lời Chúa, họ không xét kỹ bản thân. Nhiều Cơ-đốc nhân có thiện ý đọc một đoạn Kinh Thánh mỗi ngày, nhưng chỉ theo một hình thức tôn giáo chớ không rút ra được bài học cho cá nhân mình. Nếu không đọc Kinh Thánh hằng ngày, họ bị lương tâm “cắn rứt”. Thật ra, họ không hề bận tâm đến việc đọc Kinh Thánh sơ sài hay kỹ càng, kiểu đọc Kinh Thánh “chớp nhoáng”sẽ chẳng bao giờ bày tỏ được những nhu cầu sâu xa nhất của họ. Dĩ nhiên, giữa một bức ảnh thật và một tấm phim quang tuyến X khác nhau hoàn toàn.
-Thứ hai, con người phạm sai lầm khi quên mất điều đã thấy: Nếu chịu xét kỹ lòng mình, họ sẽ chẳng quên được những điều mình thấy. Chúng ta thường “mỉm cười”trước “những thái cực” của người xưa khi họ được phục hưng mạnh mẽ nhưng có lẽ chúng ta cũng cần học tinh thần ấy.
John Wesley viết về một buổi truyền giảng rằng: “Trước mặt tôi là một người gục đầu xuống bất động, rồi người thứ 2, người thứ 3, họ đều tỏ ra đau khổ”. Trước khi cho rằng họ ở trạng thái “bồng bềnh” về tâm lý, chúng ta hãy nhớ lại các thách đố trong Kinh Thánh đã đáp ứng với sự nhận biết thật trong lòng họ ra sao. Ê-sai kêu lên: “Khốn nạn cho tôi! Xong đời tôi rồi!” (Es 6:5), còn Phi-e-rơ lộ vẻ thất kinh. “Lạy Chúa, xin ra khỏi tôi, vì tôi là người có tội” (Lu 5:8). Gióp là người công bình nhất trên đất thời bấy giờ nhưng cũng xưng nhận “Tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn năn trong tro bụi” (Giop 42:6).
-Sai lầm thứ 3 của con người là họ không vâng theo lời đã học: Họ cho rằng “nghe” là đồng nghĩa với “vâng theo”, nhưng không phải vậy. Chúng ta lắm lúc thích “đọc” thay thế cho “làm theo” hoặc “nói” thay vì “làm”. Có thể chúng ta từng tham dự những cuộc họp ban ngành kéo dài lê thê, bàn bạc với nhau về những chủ đề như truyền giảng, phát triển Hội thánh và nghĩ rằng mình đã “tiến bộ”nhiều. Dự họp ban ngành hoặc bàn bạc nội bộ là công việc không có gì sai trái, nhưng chúng ta vẫn là tội nhân nếu tưởng rằng sự hầu việc, phục vụ trong Hội thánh là một “giải pháp” cho thực trạng cá nhân.
Nếu muốn sử dụng chiếc gương soi của Đức Chúa Trời một cách hữu ích, chúng ta phải ngắm xem chăm chú cẩn thận (Gia 1:25), không thể liếc qua chớp nhoáng. Chúng ta phải xét lòng mình và sống trong ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời. Để làm được điều này cần có thời gian và nhiệt huyết. Đôi ba phút đến với Đức Chúa Trời mỗi ngày sẽ chẳng bao giờ đủ thời gian cho việc suy ngẫm thuộc linh có chiều sâu.
Tôi được may mắn ở cạnh các bác sĩ chăm sóc cho tôi suốt những năm qua nên tôi nợ họ thật nhiều. Họ đều có hai đức tính đáng quý: mất thời gian ở cạnh tôi mà không tỏ ra vội vã, họ còn luôn nói cho tôi biết sự thật. Là Lương Y vĩ đại (Mat 9:12), Chúa Giê-xu Christ dùng lời Ngài để khám bệnh cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta cho Ngài đủ thời gian để việc khám bệnh được hiệu quả. Có lẽ chúng ta từng liếc sơ qua Lời Ngài chớ không chịu chăm chú suy ngẫm vì sợ những gì mình sẽ thấy chăng?
Sau khi nhìn xem bản thân, chúng ta phải nhớ thực trạng mình và lời Đức Chúa Trời đã phán, cũng hãy làm theo lời Ngài. “...hết lòng giữ theo phép tắc, thì kẻ đó sẽ tìm được phước trong sự mình vâng lời” (Gia 1:25). Gia-cơ muốn nhấn mạnh về vấn đề làm theo lời Chúa. Chúng ta phải hành động sau khi đọc lời Chúa (Gia 1:25; Công 1:14; Công 2:42,46; Công 13:43. Đây là việc làm của Hội thánh ban đầu).
Gia-cơ gọi lời Đức Chúa Trời là “luật pháp trọn vẹn”, “luật pháp về sự tự do” (c.25), vì Ngài cho chúng ta được tự do khi chúng ta vâng lời Ngài. “Tôi cũng sẽ bước đi thong dong, vì đã tìm kiếm các giềng mối Chúa” (Thi 119:45) “Ai phạm tội lỗi là tôi mọi của tội lỗi” (Gi 8:34). “Nếu các ngươi hằng ở trong đạo ta, thì thật là môn đệ ta, các ngươi sẽ biết chân lý và chân lý sẽ buông tha các ngươi” (Gi 8:31-32).
Tuy nhiên, việc soi chiếc gương của lời Đức Chúa Trời chỉ là bước đầu tiên. Nhiệm vụ kế tiếp là phục hồi.
b. Phục hồi (Exe 38:8).
Khi xây bàn thờ, Môi-se dùng những gương soi bằng đồng để làm thùng rửa tay. Đó là một cái chậu lớn được đặt khoảng giữa hội mạc và bàn thờ (Xu 30:17-21). Nước được đổ đầy vào thùng để các thầy tế lễ rửa tay chân trước khi bước vào hầu việc nơi chí thánh.
Nước để rửa tay là hình bóng về Lời Đức Chúa Trời có quyền năng tẩy sạch ô uế trong con người. “Các ngươi đã được trong sạch, vì lời ta đã bảo cho” (Gi 15:8). “Hội thánh Chúa cũng được tinh sạch nhờ sự tẩy rửa bằng nước của Lời Đức Chúa Trời” (Eph 5:26). Khi tội nhân tin nhận Đấng Christ, người ấy được tẩy uế một lần đủ cả (ICôr 6:9-11; Tit 3:3-6). Nhưng khi người ấy bước đi giữa thế gian, chân tay lại bị lấm bẩn nên cần phải được làm tinh sạch (Gi 13:1-11).
Chiếc gương của lời Chúa không chỉ soi sáng và bày tỏ tội lỗi chúng ta, mà còn giúp chúng ta làm cho bản thân mình tinh sạch (IGi 1:9). Lời Chúa ban cho chúng ta lời hứa về sự tha tội, nên khi suy ngẫm lời ấy, lòng và trí chúng ta sẽ được tẩy sạch khỏi sự ô uế thuộc linh. Huyết của Đấng Christ có quyền năng bôi xoá những vi phạm, còn nước của lời Đức Chúa Trời làm tinh sạch khỏi những ô uế.
Ở IISa 12:1-31, từng trải của Na-than khi ở cùng Đa-vít minh hoạ cho chân lý trên.Khi Na-than kể cho Đa-vít nghe câu chuyện con chiên bị cướp đoạt, Đa-vít liền nổi giận đối với tội lỗi ấy. Tiên tri Na-than đáp: “Vua là người đó!” và cầm chiếc gương của Lời Đức Chúa Trời để Đa-vít soi mình. Cuối cùng, Đa-vít ăn năn và xưng nhận “Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va!” Chiếc gương của lời Đức Chúa Trời đã làm công việc soi rọi thực trạng con người.
Na-than không dừng lại ở việc cho vua biết tội lỗi, nhưng cũng dùng lời Đức Chúa Trời để phục hồi vua: “Đức Giê-hô-va cũng đã xoá tội vua vua không chết đâu” (IISa 12:13). Bởi lời Chúa Na-than biết chắc chắn về sự tha tội và làm sạch tội của Ngài. Sau đó, Đa-vít đi đến đền thờ và rửa tay chân ở đó.
Nếu chỉ đứng tại chỗ ở tình trạng xem xét và phục hồi, chúng ta sẽ không biết trọn vẹn công dụng của chiếc gương “Lời Đức Chúa Trời”.
c. Biến đổi (IICôr 3:18)
Sau khi phục hồi chúng ta, Chúa muốn biến đổi con người trong chúng ta hầu chúng ta được tăng trưởng trong ân điển và không phạm tội nữa. Nhiều Cơ Đốc nhân xưng nhận tội lỗi, cầu xin sự tha tội, nhưng chẳng bao giờ tăng trưởng thuộc linh để chế ngự bản ngã và tội lỗi.
IICôr 3:1-18, là đoạn Kinh Thánh luận về sự khác biệt giữa vai trò của giao ước cũ trong luật pháp với vai trò giao ước trong ân điển. Luật pháp là hình thức bên ngoài được viết trên những bảng đá, nhưng sự cứu rỗi có nghĩa là lời Đức Chúa Trời được viết trong lòng người. Giao-ước cũ của luật pháp có nhiệm vụ kết án con người, nhưng giao ước mới của ân điển đem lại sự tha tội và sự sống. Vinh hiển của luật pháp dần dần biến đi nhường chỗ cho vinh hiển của ân điển Đức Chúa Trời ngày càng rạng rỡ. Luật pháp có tính tạm thời, nhưng giao ước mới của ân điển là bất biến.
Để minh họa cho chân lý này, Phao-lô nêu điển hình về Môi-se với chiếc lúp che mặt. Khi xuống núi nơi đã gặp Đức Chúa Trời, mặt Môi-se trở nên sáng rực (Xu 34:29-35). Ông không muốn dân sự nhìn thấy sự vinh hiển này nên lấy lúp che mặt. Khi Chúa Giê-xu Christ tắt hơi trên thập tự, Ngài đã cất khỏi đền thánh bức màn ngăn cách giữa con người với Đức Chúa Trời. Môi-se của thời Cựu-ước đã dùng lúp để che đậy sự “vinh hiển tạm”, nhưng trong thời Tân-ước người tin Chúa “để mặt trần” nên sự vinh hiển của người ấy càng rực rỡ hơn!
Bạn có thể hiểu IICôr 13:18 rằng “khi con cái Đức Chúa Trời suy ngẫm lời Đức Chúa Trời (soi gương) sẽ thấy Con Đức Chúa Trời, người ấy được Thánh Linh Đức Chúa Trời biến đổi để dự phần trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời!” Chữ “hóa nên (biến hóa) theo ngôn ngữ Hy-lạp có nghĩa là “sự thay đổi bên ngoài xuất phát từ bên trong”.
Khi con sâu xấu xí biến thành một con bướm xinh đẹp, đó là sự biến hoá. Khi người tin Chúa để thời gian suy ngẫm lời Đức Chúa Trời và nhìn thấy Đấng Christ trong đó, người ấy sẽ được biến đổi: vinh hiển bên trong được bày tỏ ra bên ngoài.
Ở Mat 17:2 cũng sử dụng từ “biến hóa”. Vinh hiển của Chúa Giê-xu Christ trên núi không phải đã được phản chiếu, nhưng vinh hiển ấy phát ra từ bên trong. Từ “biến hóa” cũng được dùng ở Rô 12:2 “hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình”. Khi suy ngẫm lời Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh sẽ đổi mới tâm trí chúng ta và bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đây là tiến trình hành động của Thánh Linh Đức Chúa Trời qua chiếc gương của Lời Ngài.
Điều quan trọng là chúng ta đừng che đậy gì cả. Hãy cởi bỏ chiếc lúp che mặt ra! “Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi và biết lòng tôi hãy thử thách tôi và biết tư tưởng tôi. Xin xem thử tôi có lối ác nào chăng xin dắt tôi vào con đường đời đời” (Thi 139:23-24) “Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và chân lý không ở trong chúng ta” (IGi 1:8).
Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là tiếp nhận lời Đức Chúa Trời. Kế đến, phải làm theo lời Ngài, chớ đừng lừa dối mình. Từ đây, hãy thực hiện nhiệm vụ thứ 3.
3. Chia sẻ Lời Đức Chúa Trời (Gia 1:26-27)
“Sự tin đạo” được hiểu như “hành động hầu việc một thần”. Từ này cũng được đề cập trong các thư tín khác (Gia 1:26-27; Công 26:5; Côl 2:18 ở Cô-lô-se, từ được dùng là “thờ lạy”) “sự tin đạo thanh sạch” không liên quan đến những lễ nghi thờ phượng hay những kỳ lễ trọng thể. Sự tin đạo thanh sạch là hành động làm theo lời Đức Chúa Trời và chia sẻ lời Ngài cho người khác qua lời nói, sự phục vụ và cách sống thánh khiết giữa thế gian.
a. Lời nói (Gia 1:26).
Có nhiều chi tiết đề cập đến lời nói trong thư tín này, cho thấy lời nói là vấn đề quan trọng trong chuỗi hành động của con người (Gia 1:19; Gia 2:12; Gia 3:1-3,14-18; Gia 4:11-12). Lời nói bày tỏ tấm lòng (Mat 12:34-35). Lòng tốt sẽ nói ra lời lành. Làm chủ được lời nói là làm chủ cả con người (Gia 3:1).
b. Tinh thần phục vụ (Gia 1:27a).
Sau khi nhìn thấy chính mình và Đấng Christ trong chiếc gương của Lời Đức Chúa Trời, chúng ta cũng phải thấy kẻ khác cùng nhu cầu của họ. Tiên tri Ê-sai trước tiên nhìn thấy Đức Chúa Trời, sau đó ông thấy chính mình và cũng thấy những con người ông cần giúp đỡ (Es 6:1-8). Lời nói không thể thay thế được hành động của tình yêu (Gia 2:14-18; IGi 4:11-18). Đức Chúa Trời cũng không muốn chúng ta “bố thí” cho kẻ khác như một sự thay thế cho hành động giúp đỡ của mình!
c. Sống thánh khiết giữa thế gian (Gia 1:27).
“Thế gian” là một cộng đồng không có Đức Chúa Trời. Sa-tan là vua chúa thế gian này (Gi 14:30) nên những kẻ hư mất là “con đời này” (Lu 16:8). Là con cái Đức Chúa Trời nhưng chúng ta đang sống ở một thế giới thuộc thể chớ không phải thế giới thuộc linh (Gi 14:11-16). Chúng ta được sai đi giữa thế gian để tìm kẻ lạc mất cho Đấng Christ (Gi 17:18). Chúng ta có thể giúp đỡ kẻ khác chỉ khi bản thân chúng ta giữ được mình khỏi sự ô uế của thế gian!
Thế gian muốn Cơ-đốc nhân bị đồng hóa với nó nên tìm cách làm ô uế họ. “Làm bạn với thế gian” (Gi 4:4) là bước khởi đầu dẫn đến lòng “yêu thế gian” (IGi 2:15-17). Nếu không cẩn thận giữ mình, chúng ta sẽ rập khuôn theo đời này (Rô 12:1-2) và cuối cùng bị kết án chung với kẻ thế gian (IGi 11:32).
Không phải những hành động đó có nghĩa là chúng ta đánh mất sự cứu rỗi, nhưng là đánh mất mục đích sống của mình. Lót là một điển hình cho nguyên tắc này. Trước tiên, Lót xu hướng về Sô-đôm và dời trại đến Sô-đôm. Sô-đôm đã chiếm vị trong lòng Lót nhiều hơn bất cứ điều gì! Khi sự đoán phạt giáng xuống Sô-đôm, Lót trở thành kẻ trắng tay.
Áp-ra-ham là người tin kính Chúa, biết giữ mình, được gọi là bạn Đức Chúa Trời. Ông có trọng trách với dân sự nhiều hơn Lót, vì Lót chỉ là bạn của thế gian. Cơ-đốc nhân không cần thiết phải “rập khuôn” với thế gian mới có thể thi hành trọng trách mình giữa thế gian.
Chúa Giê-xu Christ là Đấng “không lỗi không vít” (IPhi 1:19) nhưng Ngài vẫn có thể làm bạn được với những người thâu thuế và kẻ có tội. Phương cách hữu hiệu nhất để hầu việc Chúa và đáp ứng những nhu cầu của người thế gian, đó là chúng ta phải “thanh sạch” và “giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian”.
5. NGƯỜI GIÀU SANG VÀ KẺ NGHÈO KHÓ (Gia 2:1-13)
Cơ-đốc nhân trưởng thành không chỉ là người nhịn nhục trong thử thách mà còn là người làm theo chân lý. Đây là chủ đề của thư Gia-cơ đoạn 2. Người chưa trưởng thành chỉ khoe khoang về đức tin nhưng người trưởng thành sống cho đức tin mình. Nghe và nói về Lời Đức Chúa Trời (Gi 1:22-25) chẳng bao giờ có thể thay thế được việc làm theo lời Ngài.
Mỗi Cơ-đốc nhân ít nhiều cũng từng nói về đức tin mình hoặc chia sẻ những điều mình tin tưởng. Đa số các Hội thánh đều nghe những lời xác quyết ấy mọi thuộc viên Hội thánh đều tán đồng. Các Hội thánh cũng có thông lệ đọc Kinh Thánh trước hội chúng khi cử hành Tiệc Thánh.
Những lời xác quyết niềm tin hay các thông lệ của Hội thánh rất đáng khích lệ nhưng không thay thế được việc thực hành ý muốn Đức Chúa Trời. Tôi từng chứng kiến các tín hữu đọc chương trình của Hội thánh, tổ chức hội họp bàn thảo công việc nhưng rồi hành động hoàn toàn trái ngược, chẳng đem lại kết quả gì.
Gia-cơ muốn chúng ta làm theo lời Đức Chúa Trời nên cho chúng ta biết một trắc nghiệm đơn giản. Ông cử hai người đến nhóm thờ phượng một người giàu có một người nghèo để theo dõi cách họ được cư xử ra sao. Cách chúng ta cư xử với con người sẽ bày tỏ điều chúng ta thật sự tin nơi Đức Chúa Trời! Chúng ta không thể tách rời mối liên hệ với con người ra khỏi mối tương giao với Đức Chúa Trời. “Ví có ai nói rằng, ta yêu Đức Chúa Trời mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Vì kẻ nào không yêu anh em mình thấy thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình chẳng thấy được” (IGi 4:20).
Ở phân đoạn này, Gia-cơ xét đến 4 giáo lý Cơ-đốc căn bản trong ánh sáng của cách chúng ta cư xử với kẻ khác.
1. Thần tính của Đấng Christ (Gia 2:1-4)
“Hỡi anh em, anh em đã tin đến Đức Chúa Giê-xu Christ, là Chúa vinh hiển chúng ta, thì chớ cớ tây vị người nào”. Người Do-thái thời đó rất muốn được người ta trọng vọng và cũng tranh giành ảnh hưởng với kẻ khác. Những ví dụ của Chúa Giê-xu Christ ở sách Lu 14:7-14 nói về vấn đề này. Ngài cũng tố cáo người Pha-ri-si ở Mat 23:1-39
Tình trạng này cũng tồn tại trong thời đại chúng ta hôm nay. Những kẻ muốn leo lên đỉnh ”kim tự tháp” vẫn hiện diện giữa vòng chúng ta, không chỉ trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội mà còn trong Hội thánh Chúa nữa. Trong mỗi Hội thánh dường như đều có những phe nhóm mà người mới tin Chúa khó lòng gia nhập.
Một số thuộc viên lợi dụng chức vụ để đề cao hình ảnh của mình. Trong Hội thánh Gia-cơ gửi thư đến, có nhiều tín đồ tranh thủ để đạt được chức vụ thuộc linh, nên Gia-cơ đã khuyến cáo họ về tư tưởng này (Gia 3:1).
Chúa Giê-xu Christ là Đấng chẳng tây vị ai. Cả những kẻ ghen ghét Ngài cũng thừa nhận: “Chúng tôi biết thầy là thật... không tư vị ai vì thầy không xem bề ngoài của người ta” (Mat 22:16). Chúa không xem bề ngoài nhưng Ngài xét tấm lòng con người.
Ngài không để tâm đến của cải đời này hay địa vị xã hội. Dưới mắt Ngài, bà góa nghèo khổ dâng khoản tiền khiêm tốn còn cao trọng hơn mấy người Pha-ri-si giàu có đầy kiêu ngạo khi dâng của lễ đắt giá. Hơn thế, Ngài còn nhìn thấy những tư chất trong đời sống của các tội nhân.
Ở Si-môn Ngài nhìn thấy “một viên đá cứng”. Ở người thu thuế tên Ma-thi-ơ, Ngài thấy một môn-đệ trung tín ngày nào đó sẽ viết ra một trong 4 sách Phúc-Âm! Các môn-đệ ngạc nhiên khi Chúa nói chuyện với một phụ nữ bên giếng Si-kha, nhưng Chúa đã nhìn thấy nơi người phụ nữ này công cụ thu hoạch một mùa gặt lớn.
Chúng ta có khuynh hướng xét đoán người khác dựa vào quá khứ mà không nhìn thấy tương lai họ. Sau khi Sau-lơ ở Tạt-sơ đã hối cải, Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem không dám tiếp nhận ông.
Chính Ba-na-ba là người tin sự hối cải của Sau-lơ, đã phá vỡ bức tường ngăn cách này (Công 9:26-28). Chúng ta cũng dễ xét đoán kẻ khác khi nhìn vào bề ngoài hơn là xét thái độ trong lòng họ. Chúng ta không thích ngồi chung với một số người nào đó trong Hội thánh vì họ không cùng “địa vị” với chúng ta. Chúa Giê-xu Christ là Bạn của tội nhân dù Ngài không hài lòng với tội lỗi họ. Đây không phải là thái độ thoả hiệp, nhưng là lòng thương xót đã khiến Ngài quan tâm họ để khi họ tin nhận sẽ được Ngài tha thứ.
Chúa Giê-xu Christ là Con người từng bị “người ta khinh dể và chán bỏ”. Đây là điều được tiên tri Ê-sai nói từ trước (Es 53:1-3). Ngài là Con người khốn khổ bị chính dân mình chối bỏ. Không giống như con cá và chim trời, Ngài không có nơi trú thân. Ngài đã lớn lên tại thành Na-xa-rét bé nhỏ trong một gia đình nghèo khó. Nếu bạn và tôi gặp Ngài lúc Ngài thi hành chức vụ trên đất, có lẽ dung mạo và hoàn cảnh sống của Ngài chẳng có vẻ gì hấp dẫn chúng ta!
Thế nhưng, Ngài chính là sự vinh hiển của Đức Chúa Trời! Vào thời Cựu-ước, vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự trong đền tạm (Xu 40:34-38) và đền thánh (IVua 8:10-11). Khi Chúa Giê-xu Christ đến thế gian, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ở trong chính Ngài (Gi 1:14). Hôm nay, sự vinh hiển của Đức Chúa Trời cũng ở trong mỗi Cơ-đốc nhân (ICôr 6:19-20) và Hội thánh Ngài (Eph 2:21-22).
Các giáo sư thời Chúa Giê-xu Christ xét đoán Ngài dựa trên những tiêu chuẩn của con người nên đã chối bỏ Ngài. Họ cho rằng: Ngài chỉ là người xuất thân từ thành Na-xa-rét thấp hèn ở xứ Ga-li-lê, không tốt nghiệp ở một trong những thần học viện chính thống của họ. Quyền năng Ngài không được mọi người nhìn nhận. Ngài không có của cải vật chất quý giá còn kẻ theo Ngài chỉ là đám người tầm thường, có cả những người thu thuế cùng kẻ có tội. Thế nhưng, Ngài chính là sự vinh hiển của Đức Chúa Trời! Bởi lẽ ấy, Chúa khuyến cáo các chức sắc tôn giáo rằng: “Đừng cứ bề ngoài mà xét đoán, nhưng phải xét đoán theo lẽ công bình” (Gi 7:24).
Đáng buồn thay, chúng ta thường phạm những sai lầm tương tự. Khi có những vị khách viếng thăm Hội thánh chúng ta, chúng ta có xu hướng xét đoán họ dựa vào bề ngoài hơn là bề trong. Mốt quần áo, màu da, phong cách và những đặc điểm bên ngoài khác đã trở nên “nặng ký” hơn so với những bông trái thuộc linh có thể được bày tỏ trong đời sống họ!. Chúng ta phục vụ người giàu vì mong được “lợi lộc” nào đó từ họ cũng như né tránh kẻ nghèo khó vì e ngại họ? Chúa Giê-xu Christ không hành động như thế và Ngài cũng không hài lòng với cách cư xử đó.
Chúng ta bày tỏ thần tính Đấng Christ trong mối liên hệ với con người ra sao? Đơn giản là: Hãy nhìn mọi người bằng đôi mắt của Đấng Christ. Nếu khách viếng thăm là Cơ-đốc nhân, chúng ta tiếp đón họ vì Đấng Christ sống trong họ. Nếu khách không phải là người tin Chúa, chúng ta tiếp họ vì Đấng Christ đã chết thay họ.
Chính Đấng Christ là sợi dây liên kết chúng ta với kẻ khác vì Ngài là dây liên lạc của tình yêu. Thân vị của Chúa Giê-xu Christ và công việc của Ngài là nền tảng cho mối liên hệ giữa người với người. Hơn thế, Đức Chúa Trời có thể dùng kẻ xấu tính nhất để quy vinh danh Ngài. Ngài đã dùng Phi-e-rơ, Xa-chê, Giăng, Mác...và Ngài còn có thể dùng những kẻ thấp hèn từng bị chúng ta khinh thường!
2. Ân-điển Đức Chúa Trời (Gia 2:5-7)
Trọng tâm ở phân đoạn này là sự lựa chọn của Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài. Nếu sự cứu rỗi dựa trên công lao của con người, đó không còn là ân điển. Ân điển của Đức Chúa Trời là quyền chọn lựa của Ngài dành cho những kẻ không tạo được sự cứu rỗi và cũng không xứng đáng được cứu rỗi. (Eph 1:4-7; Eph 2:8-10). Đức Chúa Trời cứu chúng ta hoàn toàn trên cơ sở của công tác Đấng Christ thực hiện nơi thập tự giá, chớ không do bất cứ “thành tích” nào của bản thân chúng ta.
Đức Chúa Trời không phận biệt chủng tộc (Công 10:34). Các tín đồ Do-thái rất ngạc nhiên khi Phi-e-rơ đến với gia đình Cọt-nây (người ngoại) để giảng đạo và ăn chung với họ. Chủ đề bàn luận trong Giáo hội nghị của Hội thánh đầu tiên nhằm vào vấn đề “Phải chăng người ngoại phải trở thành người Do-thái (chịu phép cắt bì) mới được gọi là Cơ-đốc nhân?” (Công 15:1-41 Câu trả lời mà Đức Thánh Linh ban cho họ là “Không!” Trong ánh sáng của Đức Chúa Trời, không có sự phân biệt giữa người Do-thái hay người ngoại về sự xét đoán hoặc cứu rỗi (Rô 2:6-16; Rô 10:1-13).
Đức Chúa Trời cũng không phân biệt địa vị xã hội của con người. Đối với Ngài, chủ hay tớ (Eph 6:9), kẻ giàu hay người nghèo đều như nhau. Gia-cơ cho chúng ta biết rằng ân điển Đức Chúa Trời khiến kẻ giàu nhận biết sự nghiệp khó của họ vì họ không thể cậy nơi của cải mình, và ân điển Ngài làm cho kẻ nghèo khó trở nên giàu có vì họ được hưởng của cải về ân điển trong Đấng Christ (Gia 1:9-11).
“Đức Giê-hô-va làm cho nghèo nàn và làm cho giàu có, Ngài hạ người xuống lại nhắc người lên, đem kẻ khốn cùng ra khỏi bụi đất và rút người nghèo khổ ra ngoài đống phân, đặng họ ngồi bên các quan trưởng, cùng ban cho một ngôi vinh hiển làm cơ nghiệp” (ISa 2:7).
Theo quan điểm của con người, Đức Chúa Trời chọn người nghèo chớ không phải người giàu vì họ là “kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng. Nhưng Đức Chúa Trời đã chọn những sự dại ở thế gian để làm hổ thẹn những kẻ khôn, Đức Chúa Trời đã chọn những sự yếu ở thế gian để làm hổ thẹn những sự mạnh” (ICôr 1:26-27) kẻ nghèo ở thế gian đã trở nên giàu có trong đức tin là con cái Đức Chúa Trời, họ được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước Trời.
Con người có thể ở những tình trạng: hoặc nghèo trong đời này nhưng giàu có trong đời sau, hoặc có trong đời này nhưng khốn khổ trong đời sau (ITim 6:17-18). Chúng ta cũng có thể nghèo khó ở đời này lẫn đời sau, hoặc giàu có ở đời này lẫn đời sau. Kết quả này phụ thuộc vào những điều chúng ta làm cho Đấng Christ và của cải vật chất Ngài ban cho ta. Đức Chúa Trời hứa ban Nước Ngài cho những ai kính mến Ngài (Gia 2:5), chớ không phải những kẻ yêu đời này cùng vật chất phù du của nó.
Ở câu 6, 7 Gia-cơ quở trách các tín hữu một cách nghiêm túc: “Nếu anh em khinh dể người nghèo, anh em đang cư xử như kẻ giàu có vô tín! ” Vào thời bấy giờ, kẻ giàu dễ dàng hà hiếp người nghèo khó, gây ảnh hưởng lớn trên những phán quyết của toà án và ngày càng giàu có hơn. Tiếc thay, hôm nay chúng ta cũng phạm những lầm lỗi của người xưa. Những tội lỗi này làm xúc phạm đến danh Đấng Christ. Chúa chúng ta là con người từng trải khốn khố, bị xử bất công dưới tay những quan trưởng quyền thế đương thời.
Nếu chúng ta thật sự tin nơi chân lý về ân điển Đức Chúa Trời, chân lý ấy sẽ bắt phục và khiến chúng ta cư xử với mọi người trên nền tảng của ý muốn Đức Chúa Trời chớ không tuỳ thuộc nơi công đức hay địa vị xã hội của con người. Hội thánh có phân biệt giai cấp sẽ không thể bày tỏ ân điển Đức Chúa Trời.
Khi chịu chết trên thập tự. Chúa Giê-xu Christ đã phá bỏ bức tường ngăn cách dân Do-thái với dân ngoại (Eph 2:11-12). Qua sự giáng sinh và đời sống của Chúa, Ngài đã phá vỡ rào chắn giữa người giàu và kẻ nghèo, giữa người cao niên với kẻ trẻ tuổi, giữa người trí thức với kẻ thất học. Thật sai lầm nếu hôm nay chúng ta xây lại những bức tường ấy. Chúng ta không thể làm vậy nếu tin nơi ân điển của Đức Chúa Trời.
3. Lời Đức Chúa Trời (Gia 2:8-11)
Những năm gần đây, các tín-hữu trong Hội thánh có những cuộc thảo luận về quyền phép của Lời Đức Chúa Trời. Bảo vệ chân lý của lời Chúa là tinh thần lành mạnh, nhưng chúng ta đừng quên rằng đời sống và chức vụ của chúng ta là sự bảo vệ hữu hiệu nhất. Moody nói: “Mọi quyển Kinh Thánh phải được đóng bìa bằng da giày!”
Gia-cơ nhắc lại một điều răn trong luật pháp Chúa thời Cựu-ước “Hãy yêu người lân cận như mình” (Le 19:18). Trong câu chuyện Chúa Giê-xu Christ kể về người Sa-ma-ri nhân lành, Ngài cho biết người lân cận là bất cứ những ai cần sự giúp đỡ của chúng ta (Lu 10:25-37). Đây là một vấn đề về cơ hội, chớ không liên quan đến nơi chốn. Câu hỏi cần đặt ra không phải là “Ai là người lân cận tôi?”, nhưng phải là “Tôi sẽ là người lân cận của ai?”
Vì sao điều răn “Hãy yêu người lân cận như mình” được gọi là “luật hoàng gia”? Trên một phương diện điều răn này được Vua muôn vua là Đức Chúa Trời định trong luật pháp Ngài và được Con Ngài là Chúa Giê-xu Christ truyền lại cho các môn-đệ (Gi 13:34).
Thánh Linh Đức Chúa Trời cảm động sâu xa trong lòng chúng ta tình yêu Ngài để chia sẻ tình yêu ấy cho người khác (Rô 5:5). Người tin Chúa thật là người “đã học nơi Đức Chúa Trời, phải yêu thương nhau” (ITês 4:9). Lý do thứ hai, điều răn này được gọi là “luật hoàng gia” vì là điều răn lớn nhất trong luật pháp. “Yêu thương là sự làm trọn luật pháp” (Rô 13:10). Nếu mọi công dân thật sự yêu thương nhau: có lẽ sẽ chẳng cần phải lập ra hằng ngàn điều khoản phức tạp trong luật pháp!
Tuy nhiên, lý do chính tại sao luật này được gọi là “luật hoàng gia” vì ai vâng phục nó, nó sẽ khiến bạn thành một vị vua. Lòng thù hận biến con người thành kẻ nô lệ, nhưng tình yêu thương buông tha chúng ta khỏi những toan tính ích kỷ, giúp ta cai trị như một vị vua. Tình yêu thương giúp chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời và cư xử với tha nhân theo ý muốn Ngài. Chúng ta vâng theo luật pháp Chúa không phải vì sợ hãi nhưng vì tình yêu.
Lòng thiên vị sẽ khiến con người bất tuân mọi điều răn trong luật pháp Đức Chúa Trời. Bạn có thể phạm bất cứ điều răn nào trong 10 điều răn Chúa ban nếu bạn coi trọng địa vị xã hội hoặc tiền tài vật chất của kẻ khác. Lòng thiên vị con người sẽ biến bạn thành kẻ giả dối, lâu dần trở nên kẻ thờ thần tượng (muốn có nhiều tiền để được giàu sang) hoặc là kẻ bất hiếu với cha mẹ.
Một khi đã bắt đầu hành động theo lòng tư kỷ và chối bỏ lời Đức Chúa Trời, chúng ta đang đối diện với nan đề. Không nhất thiết phạm mọi điều răn của Chúa mới gọi là phạm tội. Chỉ có một Đấng ban luật pháp nên mọi điều răn đều từ tâm trí và lòng Ngài được ban ra. Nếu bạn phạm một điều răn nào, nghĩa là bạn có khả năng phạm mọi điều răn và với tư tưởng bất tuân, bạn sẽ sẵn sàng phạm lỗi như vậy!
Tình yêu thương của Cơ-đốc nhân không có nghĩa là bạn phải cảm mến một người nào đó và chìu theo mọi ý muốn người ấy. Có thể bạn không thích lời lẽ và cá tính người ấy nên không xem người ấy như người bạn gương mẫu. Tình yêu thương của Cơ-đốc nhân được thể hiện qua cách chúng ta đối xử với người khác giống như Đức Chúa Trời đã đối xử với chúng ta.
Đây là hành động của lý trí chớ không phải của cảm xúc tự tạo.
Mục đích của hành động yêu thương nhằm quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Phương tiện của lòng yêu thương là quyền năng Đức Thánh Linh hành động trong con người (“Vì trái của Thánh Linh là lòng yêu thương”), khi cư xử với ai bằng tình yêu, có thể bạn sẽ bị “lôi cuốn” khi quan tâm đến người ấy và nhìn thấy nơi người ấy (qua Đấng Christ) những phẩm chất bạn chưa từng biết.
Tương tự như trên, tình yêu thương của Cơ-đốc nhân không để con người ở hiện trạng của họ. Lòng yêu thương khiến người nghèo khó được an ủi nhiều, dạy người giàu có biết sử dụng đúng những nguồn lợi Đức Chúa Trời ban cho. Tình yêu thương luôn làm gương tốt (ICôr 8:1), còn lòng ghen ghét luôn gây ra những vi phạm.
Chúng ta phải sống theo lời Kinh Thánh đã học. Nếu không làm theo điều răn quan trọng nhất “hãy yêu người lân cận như mình”, vậy chúng ta sẽ không làm được những lời dạy khác trong lời Chúa. Đây là vi phạm công khai của người Pha-ri-si khi họ quá chú trọng những vấn đề chi tiết mà bỏ qua những điều hệ trọng của luật pháp (Mat 23:23). Họ là kẻ vi phạm luật pháp nhưng cứ nghĩ mình đang bảo vệ cho luật pháp!
4. Sự đoán xét của Đức Chúa Trời (Gia 2:12-13)
Mọi người thuộc Cơ-đốc giáo chính thống đều tin sự trở lại của Chúa Giê-xu Christ và sự đoán xét cuối cùng, không phải mọi Cơ-đốc nhân đều tán đồng nhau về những chi tiết của các sự kiện ấy. Không ai chối cãi sự quan trọng của ngày đoán xét cuối cùng. Chúa Giê-xu Christ (Gi 5:24) và Phao-lô (Rô 8:1) đều đoan chắc với chúng ta rằng Cơ-đốc nhân sẽ không bị đoán xét tội lỗi nhưng mọi công việc họ sẽ được khai trình ra và được trả công xứng đáng (Rô 14:10-13; IICôr 5:9-10).
-Lời nói của chúng ta sẽ bị đoán xét: Hãy để ý những lời nói dành cho hai vị khách ở Gia 2:3 Lời lẽ cùng thái độ chúng ta đối với kẻ khác sẽ bày tỏ ra trước mặt Đức Chúa Trời. Cả những lời thầm kín cũng bị đoán xét (Mat 12:36) vì đó là những lời nói xuất phát từ trong lòng. Vì vậy, khi Đức Chúa Trời đoán xét lời nói, là lúc Ngài đoán xét lòng người (Mat 12:34-37). Chúa Giê-xu Christ đã lưu ý vấn đề này trong Bài Giảng Trên Núi của Ngài (Mat 5:21-26,33-37; Mat 7:1-5,21-23).
-Hành động chúng ta sẽ bị đoán xét: Mời bạn đọc Côl 3:22-25 để hiểu rõ hơn. Chúa thật sự không “nhớ đến tội lỗi” của chúng ta nữa (Giê 31:34; Hêb 10:17), nhưng tội lỗi ảnh hưởng đến đạo đức và hành động của chúng ta. Chúng ta không thể tự do phạm tội mà vẫn hầu việc Chúa trung tín được. Đức Chúa Trời tha thứ tội khi chúng ta xưng nhận trước mặt Ngài, nhưng Chúa không thể thay đổi được hậu quả của tội lỗi.
-Thái độ của chúng ta sẽ bị xét đoán: (Gia 2:13)
Gia-cơ so sánh hai thái độ: bày tỏ lòng thương xót kẻ khác và không có lòng thương xót. Nếu chúng ta thương xót kẻ khác, sẽ được Đức Chúa Trời thương xót. Tuy vậy, chúng ta không nên bóp méo chân lý này. Không phải bằng cách bày tỏ lòng thương xót là chúng ta đã “mua”được lòng thương xót. Vì nếu lòng thương xót có thể mua được, đó không phải là lòng thương xót thật! Cũng không có nghĩa rằng chúng ta phải “nhẹ tay” với tội lỗi và chẳng bao giờ xét đến tội lỗi trọn đời sống kẻ khác. Có một người nói với tôi: “Tôi không lên án ai, vậy Đức Chúa Trời sẽ không xét đoán tôi”. Nhưng người ấy đã suy nghĩ sai lầm biết bao!
Sự thương xót và sự công bình đều đến từ Đức Chúa Trời nên không hề mâu thuẫn nhau. Nơi đâu Đức Chúa Trời nhìn thấy sự ăn năn và lòng tin cậy, Ngài sẽ bày tỏ sự thương xót. Nơi đâu Ngài nhìn thấy sự chống nghịch và lòng vô tín, Ngài sẽ thi hành sự đoán xét công bình. Chính tấm lòng tội nhân sẽ quyết định cho cách Đức Chúa Trời đối xử với họ. Câu chuyện Chúa kể trong Mat 18:21-25 minh họa cho chân lý trên. Câu chuyện không nói về sự cứu rỗi, nhưng đề cập sự tha thứ giữa các đầy tớ. Nếu chúng ta tha thứ anh em mình, vậy tấm lòng chúng ta đang rộng mở để có thể đón nhận sự tha thứ của Đức Chúa Trời.
Chúng ta sẽ bị xét đoán bởi “luật của sự tự do”. Khi làm theo luật pháp Chúa, chúng ta được buông tha khỏi tội lỗi và bước đi cách thong dong (Thi 119:45). Luật pháp Chúa cũng trang bị cho chúng ta sự tự do. Một đứa trẻ phải ở dưới những luật lệ và quy tắc vì nó chưa đủ trưởng thành để có thể quyết định hoặc đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống. Nó được dạy cho kỷ luật bên ngoài để có thể phát triển kỷ luật bên trong và sẽ được tự do trong tương lai khi nó trưởng thành.
Sự tự do không phải là một “giấy phép” để hành động theo ý riêng, nếu vậy đó sẽ là một xiềng xích nô lệ khủng khiếp nhất. Sự tự do là quyền chúng ta có thể trở nên tất cả những gì chúng ta có thể trong Chúa Giê-xu Christ. “Giấy phép” chỉ là sự hạn chế, còn tự do là sự hoàn thành.
Cuối cùng lời Đức Chúa Trời được gọi là “luật pháp của sự tự do” vì Đức Chúa Trời nhìn thấy tấm lòng chúng ta và biết những điều chúng ta sẽ làm trong sự tự do.Sinh viên Cơ-đốc nào làm điều tốt chỉ vì nhà trường đã định ra kỷ luật hẳn hoi, sinh viên ấy chưa thật sự trưởng thành. Cậu ta sẽ làm gì khi rời ghế nhà trường? Lời Đức Chúa Trời có thể thay đổi lòng chúng ta và ban cho chúng ta ước muốn làm theo ý Đức Chúa Trời, để chung ta vâng lời Ngài do sự thôi thúc trong lòng, chớ không do áp lực bên ngoài.
Có một sứ điệp hiển hiện trong phân đoạn này: đó là niềm tin của chúng ta phải điều khiển hành vi chúng ta. Nếu chúng ta thật sự tin rằng Chúa Giê-xu Christ là Con Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời là Đấng nhân từ, lời Ngài là chân lý và ngày kia Ngài sẽ xét đoán chúng ta, vậy hành vi của chúng ta sẽ phản ánh sự tin quyết của chúng ta. Trước khi cãi lẽ với những người không nhận biết giáo lý này, chúng ta cần biết chắc rằng mình có đang hành động theo những chân lý được biện hộ chăng. Giô-na hiểu biết một thần học kỳ diệu, nhưng lại thù ghét kẻ khác và nổi giận với Đức Chúa Trời (Gion 4:1-11)
Một trong những cuộc trắc nghiệm đức tin chúng ta là cách chúng ta cư xử với người khác. Liệu bạn có thể vượt qua cuộc trắc nghiệm này không?
6. ĐỨC TIN GIẢ (Gia 2:14-26)
Đức tin là chìa khóa của đời sống Cơ-đốc. Tội nhân được cứu bởi đức tin (Eph 2:8-9), còn người tin Chúa phải bước đi bằng đức tin (IICôr 5:7). Không có đức tin, con người không thể làm đẹp lòng Đức Chúa Trời (Hêb 11:6). Bất cứ điều gì chúng ta hành động không bởi đức tin, đó là tội lỗi (Rô 14:23).
Có người nói rằng “Đức tin không phải là tin dù không thấy chứng cớ, nhưng đức tin là sự vâng lời dù hệ quả có ra sao”. Đọc Hêb 11:1-40 bạn sẽ gặp những gương người xưa làm theo Lời Đức Chúa Trời dù phải trả giá nào. Đức tin không phải như loại cảm xúc mơ hồ trong chúng ta. Đức tin là sự biết chắc về chân lý của lời Đức Chúa Trời cùng những phước hạnh Ngài ban khi chúng ta vâng lời Ngài.
Ở đoạn này, Gia-cơ luận về mối liên hệ giữa đức tin và việc làm. Đây là chủ đề bàn luận có ý nghĩa bởi nếu chúng ta xem xét vấn đề này cách lệch lạc, chúng ta sẽ tạo nguy hiểm cho sự cứu rỗi đời đời của mình. Đức tin thế nào mới thật sự cứu được con người? Có cần thiết phải làm việc thiện để được cứu rỗi không? Làm sao một người có thể nhận biết rằng mình có thực hành một đức tin cứu rỗi thật không? Để giải đáp những thắc mắc này Gia-cơ cho chúng ta biết: có 3 loại đức tin và một trong số ấy là đức tin cứu rỗi thật.
1. Đức tin chết (Gia 2:14-17)
Ở Hội thánh ban đầu cũng có những con người tự xưng mình là kẻ có đức tin thật, nhưng họ vẫn chưa được cứu. Bất cứ nơi đâu có cái thật, bạn tìm thấy cái giả ở đó. Chúa Giê-xu cảnh cáo rằng “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào Nước thiên đàng đâu, nhưng chỉ kẻ làm theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi.” (Mat 7:21)
Những người có “đức tin chết” sẽ thay thế việc làm bằng lời nói. Họ biết sử dụng đúng ngôn từ khi cầu nguyện hoặc lúc làm chứng thậm chí có thể trích dẫn chính xác những câu Kinh Thánh. Thế nhưng cách sống của họ chẳng giống như lời họ nói. Họ sai lầm khi nghĩ rằng lời nói cũng giá trị như việc làm!
Gia-cơ trình bày một minh họa đơn giản. Có một tín-đồ nghèo khó đến nhóm với bạn hữu mình nhưng không có quần áo tốt và thiếu ăn uống hằng ngày. Kẻ có đức tin chết chú ý người nghèo và biết nhu cầu người ấy, nhưng chẳng làm gì để giúp đỡ người ấy cả! Anh ta chỉ nói những lời đạo đức giả. “Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no” (Gia 2:16). Người nghèo phải ra đi trong cơn đói khát trần trụi trước sự có mặt của kẻ đạo đức giả kia!
Áo quần và thực phẩm là nhu cầu cơ bản của mọi người trên đời (dù là người tin Chúa hay kẻ vô tín). “Có đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng” (ITim 6:8). “Các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? Uống gì? Mặc gì? Vì mọi điều đó các dân ngoại vẫn thường tìm và Cha các ngươi trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi” (Mat 6:31-32). Khi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, Gia-cốp cũng trình dâng nhu cầu này: “Nếu Đức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc...” (Sa 28:20)
Là Cơ-đốc nhân, chúng ta có nhiệm vụ phải đáp ứng nhu cầu kẻ khác, dù họ là ai. “Vậy, đương lúc có dịp tiện, hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho anh em chúng ta trong đức tin” (Ga 6:10). “Hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn này của anh em ta, ấy là đã làm cho chính mình ta vậy” (Mat 25:40).
Giúp đỡ một người gặp khó khăn là cách bày tỏ tình yêu thương và đức tin được hành động bởi sự yêu thương (Ga 5:6). Sứ đồ Giăng nêu rõ khía cạnh về những việc thiện. “Nếu ai có của cải đời này, thấy anh em mình đương cùng túng mà chặt dạ, thì lòng yêu mến Đức Chúa Trời thể nào ở trong người ấy được! Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân lý.” (IGi 3:17-18)
Trong câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân lành (Lu 10:25-37), thầy tế lễ và người Lê-vi đều được học biết nhiều về lẽ đạo, nhưng tỏ ra thờ ơ với kẻ hấp hối bên vệ đường. Họ đều muốn bảo vệ đức tin mình, vậy mà lại không bày tỏ đức tin ấy qua những việc thiện cần làm!
Ở câu 14, câu hỏi được nêu ra “đức tin đó cứu người ấy được chăng?” Đó là loại đức tin nào? Đó là loại đức tin chẳng bao giờ được bày tỏ bằng việc làm thiết thực. Câu trả lời là “Không! ” Lời tuyên xưng đức tin nào không đem đến một đời sống đổi mới và thể hiện qua những việc lành, đó là lời tuyên bố giả dối. Đó là một đức tin chết. “Đức tin không sanh ra việc làm thì tự nó chết” (Gia 2:17).
Nhà thần học nổi tiếng John Calvin nói rằng: “Chỉ một mình đức tin có thể xưng công nghĩa, nhưng đức tin xưng công nghĩa thì không bao giờ chỉ một mình”. Từ “chỉ một mình” có nghĩa là “tự chính nó” (c17) Đức tin cứu rỗi thật chẳng bao giờ tự cô lập mình, nhưng nó sẽ đem đến sự sống và sự sống sinh ra việc lành.
Người có đức tin chết chỉ sống với một “tri thức” chớ không phải thực tiễn. Trong đầu người ấy chỉ chứa những giáo lý cứu rỗi, nhưng chẳng bao giờ chịu đầu phục Đức Chúa Trời và tin Đấng Christ để được cứu rỗi. Người ấy biết sử dụng ngôn từ thần học chính xác, nhưng không bao giờ chứng thực lời nói mình bằng việc làm.
Đức tin trong Đấng Christ đem lại sự sống (Gi 3:16) và nơi nào có sự sống hẳn phải có sự tăng trưởng cũng như kết quả. Trong đoạn này có 3 lần Gia-cơ lưu ý rằng “đức tin không sinh ra việc làm thì tự mình nó chết” (Gia 2:17,20,26).
Hãy đề phòng dạng đức tin thuần tri thức! Không ai đến với Đấng Christ bằng đức tin mà vẫn không có gì thay đổi, khác nào người ta chạm vào dòng điện 220 volt mà vẫn trơ trơ! “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống, ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống” (IGi 5:12). Đức tin chết không phải là đức tin cứu được con người. Đức tin chết là đức tin giả hiệu ru ngủ con người trong quan niệm sai lạc về sự sống đời đời.
2. Đức tin của ma quỷ (Gia 2:18-19)
Gia-cơ muốn gây sửng sốt cho người đọc đầy tự mãn, nên ông dùng ma quỷ làm ví dụ minh họa. Những năm gần đây, Hội thánh Chúa khắp nơi đã nhận biết sự thực hữu và hoạt động của ma quỷ. Khi thi hành chức vụ trên đất, Chúa chúng ta thường đuổi tà ma và ban quyền năng đuổi quỷ cho các môn-đệ.
Phao-lô cũng từng đối diện với sự tấn công của ma quỷ trong chức vụ ông nên qua thư tín Eph 6:10-20 ông khuyên các tín-hữu ban đầu cậy sức toàn năng của Đức Chúa Trời để được đứng vững mà địch lại sự tấn công của ma quỷ về mặt thuộc linh.
Thật đáng sửng sốt đối với con người khi biết rằng ma quỷ cũng có đức tin! Ma quỷ tin điều gì? Trước hết, chúng tin nơi sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Chúng không phải là kẻ vô thần, cũng không là kẻ theo thuyết bất khả tri. Chúng cũng tin nơi thần tính của Đấng Christ. Mỗi khi gặp Chúa Giê-xu Christ (lúc Ngài thi hành chức vụ trên đất), ma quỷ đều làm chứng về danh của Con Đức Chúa Trời (Mac 3:11-12). Chúng tin có một nơi đoán phạt (Lu 8:31) cũng như nhận biết quyền đoán phạt của Chúa Giê-xu Christ (Mac 5:1-13) và đầu phục trước quyền của Lời Ngài.
“Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai” (Phuc 6:4). Đây là lời xác quyết đức tin thường nhật của dân Do-thái mộ đạo. “Ngươi tin rằng chỉ có một Đức Chúa Trời mà thôi, ngươi tin phải, ma quỷ cũng tin như vậy và run sợ” (Gi 2:19). Người có đức tin chết chỉ nhận biết chân lý bằng lý trí, còn ma quỷ nhận biết bằng cảm xúc của chúng nên tin và rất run sợ.
Nhưng “tin và run sợ” không phải là một kinh nghiệm về sự cứu rỗi. Con người có thể được soi sáng để nhận biết chân lý, thậm chí run sợ trong lòng nhưng vẫn có thể hư mất đời đời. Đức tin cứu rỗi thật mới là điều người ta có thể nhìn thấy và nhận biết: đó là một đời sống được đổi mới. “Hãy chỉ cho ta đức tin của ngươi không có việc làm, rồi ta sẽ chỉ cho ngươi đức tin bởi việc làm của ta” (Gia 2:18). Đó là lời thách thức của Gia-cơ.
Làm sao con người có thể khoe khoang đức tin mình nếu không có việc làm? Tội nhân hư mất có thể làm được việc lành chăng? Không thể được! Khi tin nhận Đấng Christ, bạn là người “được dựng nên trong Đức Chúa Giê-xu Christ để làm việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Eph 2:10).
Là Cơ-đốc nhân bạn cần tin nhận Đấng Christ và sống cho Ngài, cũng hãy nhận lấy sự sống và bày tỏ sự sống ra. Đức tin không đem lại kết quả thì không phải là đức tin cứu rỗi. Ở câu 20, chữ “chết” trong ngôn ngữ “Hy-lạp” mang ý nghĩa “cằn cỗi, vô ích”, giống như vốn đầu tư không đem lại lợi nhuận nào.
Gia-cơ đã giới thiệu với chúng ta hai dạng đức tin không bao giờ cứu được tội nhân đức tin chết (chỉ dựa trên tri thức) và đức tin của ma quỷ (dựa tiên tri thức lẫn cảm xúc). Để kết thúc phân đoạn này, ông trình bày một đức tin cứu rỗi tội nhân, đó là đức tin năng động.
3. Đức tin năng động (Gia 2:20-26)
Đức tin năng động là một đức tin thực hữu, có quyền năng và khiến đời sống được đổi mới. Gia-cơ cho biết đây là đức tin thật cứu rỗi con người. Trước tiên, đức tin năng động này dựa trên nền tảng của Lời Đức Chúa Trời. Chúng ta được tái sinh thuộc linh bởi Lời Đức Chúa Trời (Gia 1:18). Khi tiếp nhận lời Chúa, chúng ta được cứu (Gia 1:21). “Đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô 10:17).
Gia-cơ nêu gương Áp-ra-ham và Ra-háp để minh họa cho đức tin năng động vì họ đều nghe và tiếp nhận sứ điệp của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài.
Đức tin chỉ tốt như đối tượng của nó. Một người trong rừng núi quỳ lạy trước tượng đá mong được cứu giúp nhưng chẳng thấy kết quả gì. Cho dù con người có niềm tin mạnh mẽ đến đâu nhưng nếu niềm tin ấy không hướng đến một đối tượng đúng đắn, sẽ không thành tựu được điều gì. Vấn đề “tôi tin” có thể là sự xác quyết của nhiều người thành tâm, nhưng câu hỏi quan trọng đặt ra ở đây là “Bạn tin ai? Bạn tin điều gì?” Chúng ta không được cứu bởi niềm tin đặt trong niềm tin, nhưng chúng ta được cứu bởi đức tin nơi Đấng Christ như được bày tỏ trong Lời Ngài.
Đức tin năng động được đặt nền tảng trên lời Đức Chúa Trời và tác động đến cả con người. Đức tin chết chỉ “chạm” đến trí tuệ, đức tin của ma quỷ chạm đến lý trí và cảm xúc, nhưng đức tin năng động ảnh hưởng đến ý chí. Cả con người đều đóng vai trò quan trọng trong đức tin thật.
Tâm trí hiểu được chân lý tấm lòng ước muốn chân lý và ý chí hành động trên chân lý. Những con người được nêu tên trong Hêb 11:1-40 là những con người hành động: Đức Chúa Trời phán ra lời Ngài và họ vâng theo. Một lần nữa “đức tin không phải là hành động tin dù không thấy chứng cớ, nhưng đức tin là sự vâng lời dù hệ quả có ra sao.”
• Đức tin cứu rỗi thật sẽ dẫn đến hành động.
Đức tin năng động không phải là tư duy của của trí tuệ hay những cảm xúc kinh sợ, nhưng đó là đức tin đưa đến sự vâng phục của ý chí. Sự vâng phục này cũng không phải là một sự kiện biệt lập: nó là kết quả tiếp nối trong suốt đời sống con người. Sự vâng phục đưa đến việc làm.
Có nhiều việc làm được đề cập trong Kinh Thánh Tân-ước. “Việc của luật pháp” (Ga 2:16) có liên hệ đến nỗ lực của tội nhân nhằm làm hài lòng Đức Chúa Trời bằng cách vâng theo luật Môi-se. Dĩ nhiên tội nhân không thể được cứu bởi việc làm của luật pháp “Việc làm của xác thịt” (Ga 5:19) được thể hiện qua những người chưa được cứu, chỉ sống cho những điều thuộc về sự tạo dựng cũ. Ngoài ra, còn có “việc ác” (Côl 1:21) và “công việc chết” (Hêb 9:14). Nơi đâu có đức tin năng động (đức tin cứu rỗi), nơi đó bạn sẽ nhìn thấy việc lành.
Gia-cơ minh họa cho chân lý trên qua đời sống của hai nhân vật nổi tiếng trong Kinh Thánh: Áp-ra-ham và Ra-háp, Bạn không thể tìm thấy hai nhân vật khác biệt nhau hơn! Áp-ra-ham là người Do-thái Ra-háp là người dân ngoại. Áp-ra-ham là người tin kính, nhưng Ra-háp là người tội lỗi, một con điếm.
Áp-ra-ham là bạn của Đức Chúa Trời trong lúc Ra-háp nằm trong số những kẻ thù nghịch của Ngài. Nhưng họ có điểm chung nào? Cả hai đều thực hiện đức tin cứu rỗi nơi Đức Chúa Trời. Để biết thêm chi tiết, mời bạn đọc Sa 15:1-21 và Sa 22:1-24.
Đức Chúa Trời đã gọi Áp-ra-ham ra khỏi U-rơ thuộc xứ Canh-đê để dẫn ông vào xứ Ca-na-an và làm cho ông trở nên một dân tộc lớn. Chính qua dân tộc Y-sơ-ra-ên Đức Chúa Trời đã ban Đấng Christ của thế gian. Kinh nghiệm của Áp-ra-ham về sự cứu rỗi được chép trong Sa 15:1-21. Trong ban đêm, Đức Chúa Trời cho Áp-ra-ham thấy muôn vàn ngôi sao trên trời và ban cho ông lời hứa “... nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đến đi... Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy” Áp-ra-ham đã phản ứng ra sao? Kinh Thánh chép: “Áp-ra-ham tin Đức Giê-hô-va, thì Ngài kể sự đó là công bình cho người” (Sa 15:5-6).
Chữ “kể” là một thuật ngữ tài chính có nghĩa là “đưa vào tài khoản của ai”. Là tội nhân, “tài khoản” thuộc linh của Áp-ra-ham chỉ là con số không. Ông bị phá sản! Nhưng do tin cậy Đức Chúa Trời, Áp-ra-ham được Đức Chúa Trời đưa “sự công bình” vào “tài khoản” của mình. Áp-ra-ham không làm ra sự công bình nhưng ông được nó như sự ban cho của Đức Chúa Trời. Bởi đức tin, Đức Chúa Trời kể Áp-ra-ham là công bình. Ông là người “được xưng công bình bởi đức tin” (Rô 4:1-11)
Sự xưng công bình là một giáo lý quan trọng trong Kinh Thánh. Đó là hành động của Đức Chúa Trời khi Ngài kể tội nhân ăn năn tin nhận như người công trình dựa trên nền tảng công tác cứu chuộc trọn vẹn của Đấng Christ trên thập tự giá. Đây không phải là một tiến trình, nhưng là một hành động. Đây không phải là một điều gì đó con người làm, nhưng là điều Đức Chúa Trời làm cho tội nhân nào tin nhận Đấng Christ. Sự xưng công bình được thực hiện một lần đủ cả và bất di dịch.
Nếu mối tương giao giữa tội nhân và Đức Chúa Trời xảy ra cách kín nhiệm, làm sao biết được một người được xưng công bình hay không? Gương Áp-ra-ham là lời giải đáp cho câu hỏi trên người được xưng công bình có một đời sống đổi mới và luôn vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời. Đức tin của người ấy được thể hiện qua việc làm.
Gia-cơ nêu sự kiện xảy ra trong cuộc đời Áp-ra-ham cách nhiều năm sau khi Áp-ra-ham được đổi mới. Đó là sự kiện ông phải dâng con là Y-sác làm của lễ (Sa 22:1-24). Áp-ra-ham được cứu không phải vì đã vâng theo mệnh lệnh khó khăn của Đức Chúa Trời. Sự vâng lời chứng tỏ rằng ông đã được cứu rỗi. Kinh Thánh chép: “Người thấy đức tin đồng công với việc làm, và nhờ việc làm mà đức tin được trọn vẹn” (Sa 2:22). Giữa đức tin với việc làm có một mối liên hệ trọn vẹn. Có người đã nói:“Áp-ra-ham được cứu không phải bởi đức tin và việc làm, nhưng bởi đức tin hành động”.
Làm thế nào “Áp-ra-ham được được xưng công bình bởi việc làm” (Sa 2:21) trong khi ông đã “được xưng công bình bởi đức tin” (Rô 4:1-11)? Bởi đức tin, Áp-ra-ham được xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời nên sự công bình của ông được công bố. Bởi việc làm Áp-ra-ham được xưng công bình trước mặt con người nên sự công bình của ông được bày tỏ. Dù không ai thật sự chứng kiến hành động Áp-ra-ham dâng con làm của lễ, nhưng câu chuyện được Đức Chúa Trời bày tỏ trong Sa 22:1-24 cho chúng ta thấy chứng cớ đức tin Áp-ra-ham được thể hiện qua việc làm của ông.
D.L. Moody nói rằng “Mọi Kinh Thánh phải được đóng bìa bằng da giầy”. Ông nói vậy không phải vì ông là người bán giầy phát đạt, nhưng vì ông là Cơ-đốc nhân tận tuỵ. Đức tin năng động làm theo ý muốn Đức Chúa Trời và bày tỏ chính nó qua đời sống thường nhật, cũng như qua việc làm. Than ôi, Hội thánh chúng ta hôm nay vẫn có những con người thích hiệp với lời mô tả trong thơ Tít, “họ xưng mình biết Đức Chúa Trời, nhưng theo những việc làm thì đều từ chối Ngài” (Tit 1:16). Phao-lô cũng cho chúng ta biết “lời này là chắc chắn, ta muốn con nói quyết sự đó, hầu cho những kẻ đã tin Đức Chúa Trời lo chăm chỉ làm việc lành” (Tit 3:8).
• Gia-cơ nêu điển hình thứ hai là kỵ nữ Ra-háp.
Câu chuyện về Ra-háp được chép trong sách Gios 2:1-24 và Gios 6:1-27. Khi dân Y-sơ-ra-ên sắp đến vùng đất hứa và chiếm thành Giê-ri-cô, Giô-suê cho người đi do thám xứ này. Các thám tử gặp kỵ nữ Ra-háp và được nàng bảo vệ. Ra-háp khẳng định niềm tin mình nơi Đức Chúa Trời và biết việc Đức Chúa Trời sẽ hành động. Trước khi ra đi, các thám tử hứa sẽ cứu nàng cùng cả gia đình khi họ chiếm thành, và họ đã giữa lời hứa.
• Đây là câu chuyện hay.
Câu chuyện chứa đựng trong nó một trong những gương chứng vĩ đại nhất của đức tin cứu rỗi trong Kinh Thánh (Hêb 11:31). Ra-háp nghe lời Đức Chúa Trời và biết rằng thành phố nơi nàng ở đã bị định tội. Chân lý này đã ảnh hưởng đến nàng và những người đồng hương đến nỗi lòng họ tan chảy ra (Gios 2:11). Ra-háp đáp ứng bằng lý trí, cảm xúc nhưng nàng cũng đáp ứng bằng ý chí.
Nàng đã thực hiện một điều gì đó. Nàng đã liều mình bảo vệ các thám tử Do-thái. Hơn thế, nàng còn liều mình chia sẻ tin mừng về sự giải cứu cho những ngươi trong gia đình. Ở Gios 2:1-18.
Từ “kỵ nữ” theo ngôn ngữ Hê-bơ-rơ cũng có một nghĩa khác “người coi nhà trọ”. Ra-háp mở nhà trọ nên đương nhiên các thám tử phải đến đó. Theo tiếng Hy-lạp từ kỵ nữ trong Gia 2:25 rõ ràng nói đến một người đồi bại đạo đức. Trong Hêb 21:31 cũng có cùng nghĩa đó.
Mat 1:5 cho thấy Ra-háp đã lập gia đình trong Y-sơ-ra-ên và trở thành một tổ mẫu của Chúa Giê-xu Christ. Thật phước hạnh biết bao! Ra-háp đã trở thành một trong những anh hùng đức tin đầu tiên trong Kinh Thánh. Có lẽ bạn sẽ không khỏi so sánh Ra-háp với người đàn bà Sa-ma-ri tội lỗi được chép ở Gi 4:1-54
Ra-háp có lẽ đã từng trải qua “đức tin chết”, chỉ kinh nghiệm bằng lý trí. Hoặc có thể nàng có “đức tin của ma quỉ” vì tâm trí nàng được khai sáng và cảm xúc nàng khơi dậy. Nhưng nàng đã hành động với một đức tin năng động: tâm trí hiểu chân lý, tấm lòng bị tan chảy bởi chân lý và ý chí hành động theo chân lý. Ra-háp đã chứng minh đức tin nàng qua việc làm.
Nếu biết rằng Ra-háp chỉ nghe được rất ít thông tin, bạn mới thấy đức tin nàng thật sự kỳ diệu dường nào. Hôm nay, chúng ta đều được mạc khải đầy đủ về Đức Chúa Trời qua Lời Ngài và Con Ngài. Chúng ta được sống ở phía bên kia của Gô-gô-tha nên có Đức Thánh Linh cáo trách và dạy dỗ lời Ngài. “Vì ai đã được ban cho nhiều, thì sẽ bị đòi lại nhiều” (Lu 12:48). Đức tin của Ra-háp là bản cáo trạng buộc tội những kẻ vô tín hôm nay.
Gia 2:1-26 nhấn mạnh vấn đề Cơ-đốc nhân trưởng thành phải thực hành chân lý. Cơ-đốc nhân không chỉ hiểu biết những giáo lý mà còn phải áp dụng vào đời sống hằng ngày. Đức tin của Cơ-đốc nhân không phải là đức tin chết của những kẻ tri thức, hay đức tin ma quỉ của các thiên sứ sa ngã. Đó phải là đức tin năng động như đức tin của Áp-ra-ham và Ra-háp – một đức tin làm thay đổi đời sống dẫn đến việc làm cho Đức Chúa Trời.
Mỗi Cơ-đốc nhân đã tin nhận Chúa cần phải xét lại lòng mình và đời sống mình để biết chắc mình có một đức tin năng động đem đến sự cứu rỗi hay không. “Chính anh em hãy tự xét để xem mình có đức tin chăng” (IICôr 13:5a). Sa-tan là kẻ đại lừa dối, một trong nhưng mưu kế của nó là “tài bắt chước”.
Nếu Sa-tan khiến được người nào tin rằng đức tin giả hiệu là đức tin thật, vậy nó đã giữ được người ấy trong quyền lực của nó.
Bạn hãy thử xét lòng mình bằng cách tự hỏi rằng:
1. Có một lúc nào đó tôi thật lòng biết mình là tội nhân, thừa nhận với bản thân và với Đức Chúa Trời?
2. Có một lúc nào đó lòng tôi giục giã chạy trốn khỏi cơn thạnh nộ sắp xảy ra? Tôi có bao giờ lo âu về tội lỗi của mình cách thật nghiêm túc chưa?
3. Tôi có thật sự hiểu biết về Phúc-Âm rằng Đấng Christ đã chết thay tội lỗi tôi và đã sống lại? Tôi có hiểu và thừa nhận rằng tôi không thể tự cứu mình?
4. Tôi có thành tâm ăn năn và từ bỏ tội lỗi mình? Hay tôi vẫn âm thầm “yêu” tội lỗi và muốn vui hưởng nó? Hoặc tôi ghét tội lỗi và kính sợ Đức Chúa Trời?
5. Tôi có tin nơi Đấng Christ và chỉ một mình Đấng Christ để được cứu rỗi? Tôi có muốn vui hưởng mối tương giao sống động với Ngài qua Lời Ngài và Đức Thánh Linh?
6. Đã có một thay đổi nào trong cuộc sống của tôi chưa? Tôi vẫn tiếp tục làm việc lành, hay thỉnh thoảng và làm cách yếu ớt? Tôi có muốn tăng trưởng về những điều về Chúa? Người khác có thể biết rằng tôi đang sống với Chúa Giê-xu Christ?
7. Tôi có khao khát nói về Đấng Christ cho người khác không? Hay tôi hổ thẹn về Ngài?
8. Tôi có thích liên hệ với con cái Đức Chúa Trời? Sự thờ phượng có phải là niềm vui mừng đối với tôi?
9. Tôi có sẵn sàng cho ngày Chúa tái lâm? Hay tôi sẽ hổ thẹn khi Ngài đến tiếp rước tôi?
Hẳn không phải mọi Cơ-đốc nhân đều có cùng kinh nghiệm bản thân, vì có nhiều mức độ thánh hoá khác nhau. Nhưng việc xem xét những vấn đề thuộc linh trên giúp chúng ta biết thực trạng mình trước mặt Đức Chúa Trời.
“Đức Chúa Trời ơi, xin hãy tra xét tôi, và biết lòng tôi, hãy thử thách tôi và biết tư tưởng tôi. Xin xem thử tôi có lối ác nào chăng, xin dắt tôi vào con đường đời đời” (Thi 139:23-24)
7. KẺ GÂY RỐI BÉ NHẤT NHƯNG ẢNH HƯỞNG RỘNG NHẤT TRÊN ĐỜI (Gi 3:1-12)
Gia-cơ đã trình bày cho chúng ta hai đặc điểm của Cơ-đốc nhân trưởng thành: nhịn nhục trong hoạn nạn và thực hành chân lý. Ở phân đoạn này, ông chia sẻ đặc điểm thứ 3 của Cơ-đốc nhân trưởng thành. Làm chủ được lời nói.
Một mục sư đồng nghiệp kể tôi nghe về một người nổi tiếng là “ngồi lê đôi mách” trong Hội thánh ông. Bà cứ lẩn quẩn quanh điện thoại gần như cả ngày, kể lể những “mẫu tin vặt” cho bất cứ ai thích nghe bà nói. Ngày kia, bà đến gặp mục sư và nói: “Thưa mục sư, Chúa đã cáo trách tôi về tội lắm lời của tôi. Cái lưỡi tôi đã kéo tôi và những người khác vào tình trạng rắc rối?”
Bạn tôi biết bà nói không thật tâm vì bà vẫn từng hành động như vậy. Ông hỏi dò xét “Vậy bà định sẽ làm gì?”
-“Tôi muốn đặt cái lưỡi tôi trên bàn thờ!” Bà trả lời với vẻ nhiệt tình thành kính.
Bạn tôi ồn tồn đáp “Chẳng có bàn thờ nào đủ lớn như vậy đâu!” rồi bỏ đi để bà có thời gian suy nghĩ.
Những tín-đồ mà Gia-cơ gởi thư đến hiển nhiên cũng có những vấn đề nghiêm trọng về “cái lưỡi” của họ. Gia-cơ khuyên họ “Phải mau nghe mà chậm nói, chậm giận” (Gia 1:19). Người tin Chúa không cầm giữ được lưỡi mình thì không phải là người thật lòng tin đạo (Gia 1:26).
Chúng ta phải nói và hành động như thể đang đối diện với sự đoán xét của Đấng Christ vậy (Gia 2:12). Khi đọc đoạn Kinh Thánh Gia 4:1,11-12 bạn sẽ có cảm giác nhóm người này hẳn đã tham dự vào những cuộc họp thích thú!
Làm chủ lời nói là một trong những quyền lớn nhất Đức Chúa Trời ban cho chúng ta. Nhờ có cái lưỡi con người có thể tôn vinh Đức Chúa Trời, cầu nguyện làm chứng và dẫn dắt kẻ hư mất đến với Đấng Christ. Đây quả là một đặc quyền! Thế nhưng cũng một cái lưỡi ấy, con người lại có thể nói dối để làm hại thanh danh kẻ khác hoặc làm đau lòng họ. Khả năng phát ngôn là khả năng gây ảnh hưởng trên người khác và làm trọn được những nhiệm vụ lớn lao, vậy mà chúng ta đôi lúc không chú ý đến khả năng này.
Để chúng ta có ấn tượng về tầm quan trọng của việc làm chủ lời nói và những hậu quả nghiêm trọng của lời nói, Gia-cơ trình bày 6 hình ảnh về cái lưỡi: hàm thiếc, bánh lái, lửa, những con vật độc, mạch nước và cây vả. Bạn có thể xếp 6 hình ảnh này vào 3 phân loại có ý nghĩa để thấy những sức mạnh của cái lưỡi:
1. Sức điều khiển... hàm thiếc và bánh lái (Gia 3:1-4)
Rõ ràng, mọi người trong cộng đồng này đều muốn dạy dỗ kẻ khác hoặc muốn làm người lãnh đạo thuộc linh, nên Gia-cơ phải khuyên họ “Trong vòng anh em chớ có nhiều người tự lập làm thầy” (Gia 3:1).
Có lẽ họ đều chú trọng quá mức đến thẩm quyền về uy tín của chức vụ mà quên đi những trọng trách nặng nề. Những ai dạy dỗ lời Chúa phải chịu sự đoán xét khe khắt hơn. Các thầy giáo phải dùng “cái lưỡi” mình để chia sẻ chân lý của Đức Chúa Trời nên dễ bị vướng phải tội của lưỡi.
Hơn thế, người dạy đạo phải thực hành những điều mình dạy kẻ khác. Thế nhưng, lời dạy dỗ của các tín-hữu đương thời là giả dối. Bạn hãy nghĩ đến những hiểm họa có thể xảy ra nếu người dạy đạo không được trang bị sự hiểu biết hoặc đời sống thuộc linh không nêu gương tốt!
Nhưng không riêng gì những người dạy đạo bị cám dỗ và phạm tội mà mọi tín đồ phải thừa nhận rằng “chúng ta thảy đều vấp phạm nhiều cách lắm” (Gia 3:2a). Và tội của lưỡi dường như là tội hàng đầu của họ. Người nào biết kiềm chế cái lưỡi, chứng tỏ người ấy điều khiển được cả thân thể mình. Người ấy đúng là một con người trưởng thành.
Phải chăng Gia-cơ lầm lẫn khi gắn liền tội của lưỡi với tội của cả thân thể? Không, bởi vì lời nói thường dẫn đến hành động. Trong thế chiến II, tôi thường thấy những áp phích ghi dòng chữ: “Môi hở đắm tàu”. “Môi hở” còn hủy hoại đời người nữa.
Người nào lở “sẩy miệng” sẽ lập tức thấy mình rơi vào một trận chiến”. Cái lưỡi người ấy đã ép mọi quan thể còn lại trong thân phải bảo vệ nó.
Khi dùng hình ảnh về hàm thiếc và bánh lái, Gia-cơ muốn trình bày hai vật thể có hình dáng nhỏ bé nhưng có sức mạnh vĩ đại cũng như cái lưỡi: Hàm thiếc nhỏ bé giúp người cỡi ngựa điều khiển được con ngựa to lớn, còn cái bánh lái nhỏ giúp hoa tiêu điều khiển cả một con tàu khổng lồ. Cái lưỡi là quan thể nhỏ trong thân, nhưng vẫn có sức mạnh để làm những việc vĩ đại!
Cả hàm thiếc và bánh lái đều chế ngự được những đối lực. Hàm thiếc phải hãm được thú tính của con ngựa, bánh lái phải chống chọi gió và những dòng nước có thể làm con tàu đi lệch hướng. Cái lưỡi của con người cũng phải chế ngự được những đối lực. Bản chất cũ trong chúng ta luôn muốn điều khiển và xui chúng ta phạm tội. Có những hoàn cảnh xảy ra quanh chúng ta, khiến chúng ta thốt ra những lời không phải lẽ. Tội lỗi bên trong và áp lực bên ngoài cứ tìm thế điều khiển cái lưỡi chúng ta.
Minh họa trên cho thấy hàm thiếc và bánh lái phải ở dưới quyền điều khiển của một bàn tay mạnh mẽ. Người nài ngựa thuần thục hãm sức mạnh của con ngựa dưới sự điều kiển của mình. Vị hoa tiêu đầy kinh nghiệm can đảm lái con tàu vượt cơn sóng gió. Khi Chúa Giê-xu Christ nắm quyền điều khiển cái lưỡi, chúng ta sẽ không còn sợ nói ra những điều không hay, thậm chí nói ra những điều đúng đắn nhưng không đúng lúc.
Vua Sa-lô-môn khuyên rằng: “Sống chết ở nơi quyền của lưỡi” (Ch 18:21). Đa-vít cũng cầu nguyện. “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy giữ miệng tôi, và canh cửa môi tôi. Xin chớ để lòng tôi hướng về điều gì xấu xa” (Thi 141:3-4a). Đa-vít biết rằng tấm lòng là chìa khoá mở ra những lời nói thích hợp. “Bởi vì do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” (Mat 12:34b). Khi Chúa Giê-xu Christ là chủ trong lòng con người, Ngài cũng làm chủ cả môi miệng nữa.
Hàm thiếc và bánh lái có sức mạnh điều khiển, nghĩa là chúng ảnh hưởng đến sự sống của nhiều người khác. Con ngựa lồng lên sẽ làm tổn hại khách bộ hành, còn con tàu bị trôi dạt sẽ gây tử vong cho hành khách. Lời chúng ta nói ra cũng ảnh hưởng đến cuộc đời kẻ khác.
Lời quan tòa phán quyết “có tội” hay “trắng án” sẽ ảnh hưởng đến số phận của tù nhân, gia đình và bạn hữu họ. Khi vị tổng thống Hoa-kỳ phát biểu đôi lời, ký vào vài tờ giấy, thì quốc gia này đối mặt ngay với chiến tranh. Ngay cả một từ “vâng” hoặc “không” thật đơn giản từ cửa miệng của cha mẹ nhưng cũng ảnh hưởng đến cuộc đời của đứa con họ.
Bạn đừng bao giờ coi thường những lời đã nói ra. Chúa Giê-xu Christ phán với một người phụ nữ bên giếng nước khiến cuộc đời bà và những người lân cận kinh nghiệm một đổi thay kỳ diệu (Gi 4:1-54). Phi-e-rơ giảng đạo trong ngày lễ Ngũ Tuần đã khiến 3.000 linh hồn được cứu bởi đức tin trong Đấng Christ (Công 2:1-26).
Vào ngày 21/4/1855, Edward Kimball đi vào tiệm giày ở Boston và đã dẫn dắt thiếu niên Dwight L. Moody đến với Đấng Christ. Sau này, Moody đã trở thành một trong những truyền giáo lừng danh. Cái lưỡi có quyền hướng dẫn kẻ khác bước vào những lựa chọn đúng đắn.
Đọc sách Châm-ngôn rất có ích cho chúng ta, đặc biệt bạn hãy chú ý những chi tiết về lời nói “Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận. Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm” (Ch 15:1) “Môi miệng nói dối giả lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va” (Ch 12:22) “Hễ lắm lời, vi phạm nào có thiếu nhưng ai cầm giữ miệng mình là khôn ngoan” (Ch 10:19) Thật vậy, cái lưỡi giống như hàm thiếc và bánh lái có sức mạnh điều khiển. Thật ý nghĩa thay, khi cái lưỡi của chúng ta có thể hướng dẫn kẻ khác đi trong con đường chính đáng!
2. Sức huỷ hoại: lửa và vật dữ (Gia 3:5-8)
Có lần tôi đi qua những tiệm sách cũ dọc đường Charning Cross ở Luân-đôn. Tôi đưa ra nhận xét với người trông quầy sách rằng ở đây không có nhiều tiệm sách như tôi tưởng. Người ấy đáp: “Bởi vì trong một đêm vào thế chiến II, những quả bom lửa đã rơi xuống đốt cháy ít nhất một triệu cuốn sách”.
Một dịp khác, tôi và nhà tôi cùng một người bạn đi tham quan những khu rừng xinh đẹp ở California. Chúng tôi đến một khu vực đổ nát hoang tàn vì lửa cháy. Không chỉ có cảnh quan thiên nhiên mang vết hoang tàn, mà những cây gỗ quý trị giá hằng triệu mỹ-kim cũng bị cháy sạch. Khi chúng tôi đi qua khu vực cháy đen này, bạn tôi nhận xét: “Chắc có ai đó đã bật lửa để hút thuốc”.
Ngọn lửa có thể phát sinh từ một tia lửa nhỏ, nhưng sau đó có thể bùng lên và thiêu hủy cả một thành phố. Một nguồn tin cho biết có một ngọn lửa xuất phát từ kho thóc O Leary ở Chicago lúc Gia 8:30 tối ngày 8/10/1871. Do ngọn lửa lan nhanh, 100.000 người rơi vào cảnh màn trời chiếu đất 17.500 tòa nhà bị phá hủy 300 người thiệt mạng. Thành phố này bị tổn thất trên 400 triệu Mỹ kim.
Lời nói chúng ta có thể khởi phát như những ngọn lửa! “Lửa tắt tại thiếu củi cũng vậy khi chẳng có ai thèo lẻo cuộc tranh cạnh bèn nguôi. Than chụm cho than đỏ, và củi để chụm lửa, người hay tranh cạnh xui nóng cãi cọ cũng vậy” (Ch 26:20-21). Trong một số Hội thánh, có những thuộc viên hoặc những người hữu sự không làm chủ được lời nói mình, gây ra những cuộc bất hòa. Hãy đặt cái lưỡi vào đúng chỗ đứng của nó, thì tinh thần hòa thuận và tình yêu thương sẽ điều khiển được nó.
Giống như ngọn lửa, cái lưỡi “có thể đốt cháy lên” mọi thứ. Đa-vít nói: “Tôi nói rằng tôi sẽ giữ các đường lối tôi, để tôi không dùng lưỡi mình mà phạm tội... lòng tôi nóng nảy trong mình tôi đương khi tôi suy ngẫm, lửa cháy lên, bấy giờ lưỡi tôi nói...” (Thi 39:1,3).
Bạn trải qua kinh nghiệm này chưa? Chắc là vậy. Cái đầu nóng nảy cùng với tấm lòng nóng nảy sẽ dẫn đến những lời nói nóng nảy để sau đó chúng ta phải hối tiếc. Đa-vít cũng nóng tính nên ông phải cầu xin Chúa giúp đỡ mình kiềm chế tính khí. Thật không có gì lạ khi Sa-lô-môn nói rằng: “Người nào kiêng lời nói mình có tri thức” (Ch 17:27) “Kẻ nào chậm nóng giận có thông sáng lớn nhưng ai hay nóng nảy tôn lên sự điên cuồng” (Ch 14:29)
Tầng hầm trong nhà bạn tôi bị phát hỏa. Khói lửa làm hư hại căn nhà khiến cả gia đình họ phải dọn ra ngoài để sửa sang lại căn nhà. Lời nói nóng nảy của chúng ta có thể huỷ hoại một gia đình, một lớp Trường Chúa Nhật hoặc một Hội thánh. Phương cách duy nhất để phục hồi lại đổ vỡ chỉ bởi huyết của Đấng Christ.
Lửa cháy lên hủy hoại tất cả, còn lời nói chúng ta thốt ra có thể gây nhiều tai hại. Một trong những sự buồn bực Chúa chúng ta phải gánh chịu khi Ngài hiện diện trên đất là thái độ kẻ thù nói về Ngài. Họ gọi Ngài là “người ham mê ăn uống” (Mat 11:19) vì Ngài đã ân cần nhận lời mời dùng bữa với những con người bị các người Pha-ri-si khinh ghét. Khi Chúa làm phép lạ, họ cho rằng Ngài là Chúa quỷ. Thậm chí lúc chịu chết trên thập tự, Chúa cũng bị kẻ thù khuấy rối và ném vào mặt Ngài những lời mắng nhiếc cay nghiệt.
Lửa vốn hay lan nhanh, nếu bạn thêm vào nhiên liệu nó sẽ càng lan xa. Cái lưỡi “đốt cháy cả đời người” (Gia 3:6) Gia-cơ muốn nói rằng cả đời người như được gắn với một bánh xe, nên ta không thể giữ mọi điều đứng tại chỗ. Cả đời người có thể bị hủy hoại bởi cái lưỡi. Thời gian cũng không sửa lại được lỗi lầm do cái lưỡi gây nên. Chúng ta có thể xưng ra tội lỗi mình trong lời nói, nhưng ngọn lửa đã cháy vẫn cứ tiếp tục lan ra!
Khi lửa lan ra, nó sẽ thiêu hủy mọi thứ quanh nó. Lời nói chúng ta cũng có sức hủy hoại như vậy. Cứ một chữ được viết trong cuốn sách của Hitler (Mein Kampf) là có 125 sinh mạng bị cướp đi trong thế chiến II. Có thể lời nói chúng ta không gây ra chiến tranh hay làm hủy hoại một thành phố, nhưng có thể làm tan nát lòng người khác và hủy hoại thanh danh họ. Lời nói cũng có thể hủy hoại linh hồn con người nếu khiến họ đi vào cõi vĩnh hằng không có Đấng Christ. Chúng ta cần phải để lời nói mình “có ân hậu theo luôn, và nêm thêm muối” (Côl 4:6).
Cái lưỡi không chỉ như ngọn lửa, mà còn như một con thú nguy hiểm. Con thú ấy chẳng chịu ở yên và không dễ gì thuần phục được nó. Nó luôn tìm kiếm con mồi để vồ lấy cắn xé. Tôi và nhà tôi có lần lái xe đến công viên có thú hoang được thả ngoài trời, để xem chúng đi tới lui quanh môi trường tự nhiên này. Nhưng trên cửa công viên gắn những biển báo ghi dòng chữ “Đừng rời khỏi xe hơi của bạn! Đừng mở cửa kính!” Những “con thú hiền hòa” này có khả năng gây tai họa, thậm chí giết người.
Có một số thú vật mang nọc độc và lưỡi chúng phun ra nọc độc. Nó sẽ ngấm vào từ từ và giết chết con người. Có bao lần kẻ độc ác nào đó đã đưa “nọc độc” vào cuộc nói chuyện, hòng làm cho ‘chất độc” ấy lan nhanh để cuối cùng gây tổn thương cho đối tượng người ấy muốn hại?
Là mục sư, tôi từng chứng kiến những cái lưỡi độc địa gây tai hại lớn cho những cá nhân, gia đình, các lớp học và cả Hội thánh. Bạn có muốn thả lỏng những con sư tử đói hay những con rắn độc trong buổi thờ phượng sáng Chúa nhật? Dĩ nhiên là không! Nhưng những cái lưỡi ương bướng có thể gây những tai hại như vậy.
Gia-cơ nhắc chúng ta rằng thú vật có thể được thuần hoá và lửa có thể được chế ngự. Khi thuần hóa một con vật, bạn có trong tay một “kẻ giúp việc” chớ không phải là kẻ hủy diệt. Khi chế ngự được lửa, bạn tạo ra được năng lượng. Con người không thể kiềm hãm được cái lưỡi, mà chỉ Đức Chúa Trời mới làm được điều ấy. Cái lưỡi của bạn không cần phải “bị lửa địa ngục đốt cháy” (Gia 3:6).
Giống như những sứ-đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần, cái lưỡi có thể “bị lửa thiên đàng đốt cháy”! Nếu Đức Chúa Trời thắp lên ngọn lửa và điều khiển được lửa ấy, thì cái lưỡi có thể làm một công cụ mạnh mẽ để đưa tội nhân hư mất đến sự cứu rỗi và gây dựng Hội thánh Chúa. Dĩ nhiên, yếu tố quan trọng chính là tấm lòng, vì “do sự đầy dẫy trong lòng mà miệng mới nói ra” (Mat 12:34). Nếu tấm lòng chất chứa những thù hận, Sa-tan sẽ thắp lên ngọn lửa. Nhưng nếu tấm lòng tràn ngập tình yêu thương, Đức Chúa Trời sẽ thắp lên ngọn lửa!
3. Quyền đem đến sự vui mừng: Mạch nước và cây ra quả (Gia 3:9-12)
Mạch nước cung cấp cho con người dòng nước mát để duy trì sự sống. Ở các quốc gia Đông phương, sự hiện diện của mạch nước trong là một ơn phước lớn cho cả làng. Con người cần nước không chỉ để uống mà còn để giặt giũ, nấu ăn, làm vườn và những công việc cần thiết khác: “Lời nói của miệng loài người giống như nước sâu. Nguồn sự khôn ngoan khác nào cái khe nước chảy” (Ch 18:4)
“Miệng người công bình là một nguồn sự sống” (Ch 10:11)
“Sự dạy dỗ của người khôn ngoan vốn một nguồn sự sống, đặng khiến người ta tránh khỏi bẫy sự chết” (Ch 13:14) Những câu Kinh Thánh trên có cùng ý nghĩa với những điều Gia-cơ viết và nhấn mạnh tầm quan trọng của lời nói.
Nước là nguồn sự sống, và lời nói chúng ta có thể ban sự sống. Dầu vậy, nếu nước không được quản lý tốt sẽ đem đến sự chết và huỷ diệt. Cơn lũ lụt ở thành phố Johnstown bang Pennsylvania vào năm 1889 đã cướp đi 2.200 mạng người và gây tổn thất tài sản trị giá 10 triệu Mỹ kim. “Sống chết ở nơi quyền của lưỡi” (Ch 18:21).
Tuy nhiên khi chúng ta cúi xuống một nguồn nước để tìm kiếm dòng nước mát, ít khi chúng ta nghĩ đến những cơn lụt. Chúng ta chỉ nghĩ đến sự cung cấp quý báu của dòng nước mát ngọt ngào. Chúng ta không thể sống khoẻ mạnh nếu thiếu nước: “Lời vô độ đâm xoi khác nào gươm: nhưng lưỡi người khôn ngoan vốn là thuốc hay” (Ch 12:18) Khi đến với các tín-đồ ở thành Rô-ma, lời cầu nguyện của Phao-lô đã làm “tươi mới” họ (Rô 15:32-33). Ông cũng thường kể tên những tín-đồ đã làm ông vui mừng (ICôr 16:18; Phil 1:7,20).
Nước còn có tính chất làm sạch. Trong đền thờ thời Cựu-ước có chuẩn bị sẵn thùng nước để các thầy tế lễ rửa sạch tay chân trước khi hầu việc Đức Chúa Trời. Lời Đức Chúa Trời chính là nguồn nước thuộc linh khiến chúng ta được tinh sạch (Gi 15:3; Eph 5:26-27). Lời nói của chúng ta dành cho người khác cũng có thể làm họ được tinh sạch và thánh hóa. Lời nói chúng ta phải giống như dòng sông được mô tả trong sách Exe 47:1-23 đem đến sự sống cho mọi vật xung quanh.
Cái lưỡi cũng là một quan thể đem đến sự vui mừng, vì nó giống như một cây. Ở những vùng đất được nói đến trong Kinh Thánh, cây có ý nghĩa quyết định cho sự phát triển kinh tế: làm cho đất tốt, tạo vẻ mỹ quan, toả bóng mát và ra quả. Lời nói chúng ta có thể là nơi nương náu và yên ủi kẻ lữ hành mệt mỏi, làm no lòng những linh hồn đói khát. “Môi miệng người công bình nuôi dạy nhiều người” (Ch 10:21). Chúa Giê-xu Christ phán “Những lời ta phán cùng ngươi đều là thần linh và sự sống” (Gi 6:63b). Khi chia sẻ lời Chúa cho kẻ khác, là chúng ta đã dạy dỗ và khích lệ họ bằng lời Ngài.
Phần quan trọng nhất trong cây là phần rễ. Nếu các nhánh rễ của nó bám sâu, cây sẽ tăng trưởng mạnh mẽ. Nếu chúng ta đâm rễ trong mọi điều Chúa dạy, lời nói chúng ta sẽ là “trái” của mối tương giao với Chúa. Chúng ta sẽ như “người công bình” trong Thi 1:1-6 và kết quả đúng mùa.
Lý do Chúa chúng ta có thể nói những lời “phải lẽ phải lúc”, vì Ngài luôn giữ mối giao thông với Cha trên trời và lắng nghe lời Cha mỗi ngày. Bạn hãy nghe Ngài làm chứng: “Chúa Giê-hô-va đã ban cho ta cái lưỡi của người được dạy dỗ, hầu cho ta biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ mệt mỏi. Ngài đánh thức ta mỗi buổi sớm mai, đánh thức tai ta để nghe lời Ngài dạy, như học trò vậy” (Es 50:4). “Sáng hôm sau, trời còn mờ mờ, Ngài chờ dậy, bước ra, đi vào nơi vắng vẻ, và cầu nguyện tại đó” (Mac 1:35).
Nếu bạn và tôi muốn có cái lưỡi nói ra những sự vui mừng, chúng ta phải gặp Chúa mỗi ngày để học hỏi nơi Ngài. Chúng ta phải đâm rễ thuộc linh thật sâu trong Lời Ngài, cầu nguyện, suy ngẫm, để Thánh Linh Đức Chúa Trời đầy dẫy trong lòng chúng ta tình yêu và chân lý của Ngài.
Gia-cơ cũng đưa ra một lời khuyên: một mạch nước không thể cùng lúc lại cho ra hai loại nước và cây cũng không thể sanh hai loại quả. Chúng ta đều biết rằng mạch nước ngọt luôn chảy ra nước ngọt, cây vả cho trái vả, cây ô-li-ve cho trái ô-li-ve. Bản chất nào tái sản sinh ra loại nấy.
Nếu cái lưỡi luôn nói ra lời mâu thuẫn, vậy do tấm lòng đã có điều gì đó bất ổn. Tôi nghe nói có một tín-đồ nổi cáu về việc làm của mình và buông ra những lời chửi rủa. Sau đó anh ngượng ngùng nói với đối tác của mình: “Tôi không biết tại sao tôi nói vậy. Thật sự tôi không nghĩ vậy”. Nhưng đối tác của anh khôn khéo đáp: “Anh đã nghĩ như vậy, nếu không miệng anh chẳng thể nào thốt ra như vậy được”. Khi Phi-e-rơ phá vỡ mối liên hệ với Chúa, ông cũng thốt ra những lời rủa sả thề thốt, nhưng sau đó ông ra ngoài khóc lóc đắng cay và xưng ra tội lỗi mình.
Cái lưỡi nào vừa nói ra lời lành từ Đức Chúa Trời lại có thể rủa sả con người là vật thọ tạo theo hình ảnh Đức Chúa Trời, vậy cái lưỡi đó rất cần được điều trị bằng phương thuốc thuộc linh! Con người rất dễ dàng có thể hát thánh ca tôn vinh Chúa suốt buổi thờ phượng lại có thể trở về nhà cãi vã với gia đình. Chúng ta không nên hành động như vậy.
Dĩ nhiên, vấn đề không ở tại cái lưỡi, nhưng ở tại tấm lòng. Con người rất dễ chất chứa “sự ghen tương cay đắng và sự tranh cạnh trong lòng mình” (Gia 3:14) “Song những điều bởi miệng mà ra là từ trong lòng, thì những điều đó làm dơ dáy người” (Mat 15:18). “Khá giữ tấm lòng của con hơn hết, vì các nguồn sự sống do nơi nó mà ra” (Ch 4:23). Khi lòng chúng ta đầy dẫy lời Đức Chúa Trời và chúng ta đầu phục Thánh Linh Ngài, Ngài sẽ dùng chúng ta để đem đến sự vui mừng cho kẻ khác. Lúc ấy, chúng ta sẽ như những mạch nước mát ngọt ngào và cây ra quả xum xuê.
Để kết thúc chương này, tôi xin đề nghị các bạn hãy bắt đầu sử dụng những câu nói sau đây để giúp đời sống bạn được đổi mới. Nếu bạn dùng những câu này và nói ra từ chính tấm lòng thành thật của mình, bạn sẽ thấy Đức Chúa Trời sử dụng bạn để làm nguồn phước an ủi khích lệ nhiều người. Chỉ có vài câu nói nhưng sẽ đem đến cho đời sống bạn kết quả.
-“Xin mời” và “Cảm ơn (bạn)”: Bạn dùng những lời này khi cư xử với người khác để bày tỏ sự tôn trọng của mình.
-“Tôi xin lỗi”: Là phương cách để bạn phá bỏ những bức tường ngăn cách chia rẽ và xây lên những chiếc cầu nối.
-”Tôi mến bạn”: Bạn cần yêu mến anh em mình và yêu cả kẻ thù nữa. Câu nói này truyền tải một sức mạnh kỳ diệu!
-“Tôi sẽ cầu nguyện cho bạn”: Bạn phải chắc chắn mình sẽ làm được. Nếu bạn có thể nói với Đức Chúa Trời về kẻ khác, vậy cũng có thể nói với kẻ khác về Đức Chúa Trời. Lời cầu thay của chúng ta dành cho người khác sẽ giúp chúng ta giữ mối liên hệ với họ. Đừng bao giờ nói câu “Tôi sẽ cầu nguyện cho bạn” bằng thái độ kiêu ngạo như thể mình “thuộc linh” hơn kẻ khác. Chúng ta cần nói lời ấy bằng thái độ khích lệ để người khác biết rằng họ được chúng ta quan tâm và họ có thể gặp chúng ta tại ngôi ơn phước.
Thật vậy, “kẻ gây rối” bé nhất nhưng ảnh hưởng rộng nhất trên đời chính là cái lưỡi. Nhưng nó không nên là kẻ gây rối! Đức Chúa Trời có thể dùng cái lưỡi chúng ta để đưa dắt kẻ khác vào con đường sự sống và giúp họ vui mừng trong những thử thách của cuộc đời. Cái lưỡi là quan thể bé nhỏ nhưng có sức mạnh tuyệt vời!
Bạn hãy dâng cho Đức Chúa Trời cái lưỡi và tấm lòng bạn mỗi ngày cũng như cầu xin Ngài sử dụng bạn làm nguồn phước cho tha nhân.
bottom of page