top of page

I CÔ-RINH-TÔ (2)

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Thư Phao-lô



7. HÃY KHÔN NGOAN VỀ SỰ TỰ DO CỦA CƠ-ĐỐC NHÂN (ICôr 8:1-13; ICôr 10:1-33)


Sau...

...khi giải đáp các câu hỏi về hôn nhân, Phao-lô quay lại một trong những vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong bức thư ông nhận được từ Hội thánh Cô-rinh-tô: ”Cơ-đốc nhân có được ăn thịt đã cúng cho thần tượng không?” Câu hỏi trực tiếp không gây cho tín hữu ngày nay quan tâm vì chúng ta không đối diện với vấn đề này. Nhưng khi vấn đề “tự do của Cơ-đốc” được bàn rộng sẽ có ảnh hưởng đến chúng ta, vì chúng ta đối diện với những nan đề Phao-lô không từng trải. Cơ-đốc nhân có quyền đến rạp hát không? Tín hữu nên có máy thu hình tại nhà không? Ở một mức độ nào đó Cơ-đốc nhân có nên tham gia chính trị không?


Trong các chương 8-10, Phao-lô trình bày bốn nguyên tắc cơ bản hướng dẫn tín hữu trong các quyết định cá nhân về những lãnh vực “đáng nghi ngờ” trong đời sống Cơ-đốc. Bốn nguyên tắc đó là:


(1). Kiến thức hiểu biết phải được quân bình bằng tình yêu thương (ICôr 8:1-13)

(2). Quyền hạn phải được quân bình bằng kỷ luật (ICôr 9:1-27)

(3). Kinh nghiệm phải được quân bình bằng tính cẩn trọng (ICôr 10:1-22)

(4). Sự tự do phải được quân bình bằng trách nhiệm (ICôr 10:23-33)


Như bạn thấy, Phao-lô chú tâm trước hết vào các Cơ-đốc nhân mạnh mẽ trong Hội thánh, những tín hữu có hiểu biết và từng trải thuộc linh trong Đấng Christ. Chính những người mạnh mẽ phải quan tâm chăm sóc người yếu đuối (Rô 14:1-15:13).


Vấn đề thịt cúng cho thần tượng được giải thích trong ICôr 8:1-13 và ICôr 10:1-33, vì vậy chúng ta sẽ xem xét vấn đề ấy trong chương này. Trong ICôr 9:1-27, Phao-lô giải thích về chủ trương của riêng ông về vấn đề tài chánh để minh hoạ cho nguyên tắc sử dụng đúng đắn quyền hạn này; chúng ta sẽ nghiên cứu phần này trong bài học kế tiếp.


1. Kiến thức hiểu biết phải được quân bình bằng tình yêu thương (ICôr 8:1-13)

Trong thế giới thời xưa có hai nguồn cung cấp thịt: chợ búa (nơi giá cả đắt đỏ hơn)và tại các đền thờ địa phương (nơi thịt luôn luôn có sẵn từ các của tế lễ). Những tín hữu mạnh mẽ trong Hội thánh nhận thấy rằng thần tượng không thể làm ô uế thức ăn, do vậy họ tiết kiệm tiền bằng cách mua thịt rẻ có sẵn tại các đền thờ. Hơn nữa, nếu những người bạn ngoại đạo mời họ đến dự tiệc được dọn bằng thịt cúng tế, thì họ cũng tham dự dù ở tại đền thờ hay tại nhà riêng.


Tất cả điều này gây khó chịu cho các tín hữu yếu đuối. Nhiều người trong số họ đã được cưú khỏi việc thờ lạy thần tượng và họ không thể hiểu tại sao anh em cùng đức tin của họ muốn liên can đến thịt đã cúng cho thần tượng. (Trong Rô 14:1-15:13, các tín hữu yếu đuối đã nêu thắc mắc về việc kiêng ăn và ngày thánh, nhưng vấn đề cơ bản lại giống nhau). Có sự phân rẽ ngấm ngầm xảy ra trong Hội thánh, vì vậy những người hướng dẫn Hội thánh cầu xin sự khuyên bảo của Phao-lô.


Phao-lô khiến họ lưu ý đến ba yếu tố quan trọng.


(1) Kiến thức hiểu biết (ICôr 8:1-6).

Người Cô-rinh-tô được dư dật về hiểu biết thuộc linh (ICôr 1:5) và thực ra họ khá hãnh diện về những thành quả đạt được. Họ biết rằng thần tượng là hư không, hình ảnh của tà thần chỉ tồn tại trong những tâm trí tối tăm thờ lạy nó mà thôi. Sự hiện diện của thần tượng trong đền miếu không là bằng chứng chắc chắn thần đó có thật. (Sau đó, Phao-lô vạch rõ rằng thờ lạy thần tượng là thờ lạy ma quỷ). Kết luận cũng thật hợp lý: Một thần không có thật không thể làm cho thức ăn ô uế khi được dâng lên bàn thờ thần ấy.


Cho đến giờ, chính các Cơ-đốc nhân mạnh mẽ là người dẫn đầu làm gương. Thế tại sao những tín hữu yếu đuối lại thấy bối rối khi địa vị của họ lại hợp lý như vậy?Bởi vì họ không luôn giải quyết mọi vấn đề theo lô-gic. Một đứa bé sợ bóng đêm sẽ không an tâm khi chỉ nghe những lập luận, nhất là nếu người lớn (hoặc anh em lớn tuổi hơn) bày tỏ thái độ kẻ cả. Kiến thức có thể là vũ khí để chiến đấu hoặc một công cụ để xây dựng, tuỳ thuộc cách người ta sử dụng nó. Nếu sự hiểu biết “trở nên cao ngạo” thì nó không thể “xây dựng (mở mang trí tuệ) gì được”.


Một thái độ biết-tất-cả chỉ là bằng chứng của dốt nát. Người thật sự biết chân lý chỉ ý thức đến những điều anh ta không biết. Hơn nữa, đó là việc học biết giáo lý và hoàn toàn khác với việc hiểu biết Đức Chúa Trời. Có thể lớn lên trong sự hiểu biết Thánh Kinh nhưng không trưởng thành trong ân điển hoặc trong mối tương giao riêng tư với Đức Chúa Trời. Sự thử nghiệm đó là Tình yêu, yếu tố thứ hai Phao-lô muốn bàn đến.


 Tình yêu thương (ICôr 8:1-3).

Yêu thương và hiểu biết phải đi đôi với nhau; “lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” (Eph 4:15). Người ta nói rằng, “Sự hiểu biết không có tình yêu là độc ác, nhưng tình yêu mà không hiểu biết là đạo đức giả”.

Hiểu biết là sức mạnh và nó phải được sử dụng trong sự yêu thương. Nhưng tình yêu phải luôn luôn được chi phối bằng sự hiểu biết (xem lời cầu nguyện của Phao-lô trong Phi 1:9-11). Những tín hữu mạnh mẽ trong Hội thánh có sự hiểu biết, nhưng họ không sử dụng sự hiểu biết bằng lòng yêu thương. Thay vì xây dựng các anh em yếu đuối, con cái Chúa mạnh mẽ chỉ tự đề cao chính mình.


Điều Phao-lô quan tâm nhiều đó là các thánh đồ mạnh mẽ giúp đỡ những anh em yếu đuối lớn lên và thôi không còn ở trong tình trạng non trẻ nữa. Một đôi người có quan niệm sai lầm, họ cho rằng các tín hữu mạnh mẽ là những người sống theo luật lệ và phép tắc và là những người cảm thấy khó chịu khi những người khác thực hành sự tự do trong Đấng Christ; nhưng đó không phải vấn đề.

Chính Cơ-đốc nhân yếu đuối mới phải cần có sự bảo vệ của luật pháp và là những người lo ngại sử dụng tự do họ có được trong Đấng Christ. Chính những tín hữu yếu đuối dễ xét đoán và phê phán tín hữu mạnh mẽ và làm xáo trộn những gì họ làm. Dĩ nhiên, điều này gây khó khăn cho tín hữu mạnh mẽ trong việc chăm sóc anh em chị em yếu đuối hơn.


Ở đây chính lòng yêu thương ấy trở thành tấm gương, vì “tình yêu gây dựng” và đặt người khác lên trên. Khi sự hiểu biết thuộc linh được đem ra sử dụng trong tình yêu, tín hữu mạnh mẽ có thể nắm tay tín hữu yếu đuối và giúp người ấy đứng dậy bước đi để tận hưởng sự tự do trong Đấng Christ.

Bạn không thể nhồi nhét thức ăn thuộc linh cho các tín hữu non yếu và biến họ trở thành những chàng khổng lồ. Sự hiểu biết phải được pha lẫn bằng tình yêu; nếu không kết cuộc anh em tín hữu chỉ là những “cái đầu đầy kiến thức” thay vì phải là những tấm lòng rộng mở. Một nhà truyền đạo nổi tiếng đã từng nói, ” Một số Cơ-đốc nhân lớn lên; một số khác chỉ phình to lên”.


Hiểu biết và yêu thương là hai yếu tố quan trọng, vì sự yêu thương bù đắp cho hiểu biết nếu chúng ta dùng tự do trong Đấng Christ cách đúng đắn. Nhưng còn có yếu tố thứ ba.


Lương tâm (ICôr 8:7-13). Chữ lương tâm chỉ có nghĩa là “cảm biết với” và nó được dùng 32 lần trong Tân-ước. Lương tâm là toà án trong lòng phán xét hành động của chúng ta và cũng chấp nhận hoặc cáo giác chúng ta (Rô 2:14-15). Lương tâm không phải là pháp luật; nó làm chứng cho luật đạo đức của Đức Chúa Trời. Nhưng điều quan trọng là: lương tâm tuỳ thuộc vào sự hiểu biết.Chúng ta càng hiểu biết thuộc linh và hành động phù hợp, lương tâm càng trở nên mạnh mẽ.


Một số tín hữu có lương tâm yếu ớt vì họ chỉ được cứu một thời gian ngắn và không có cơ hội phát triển. Giống như trẻ sơ sinh trong gia đình, chúng ta phải bảo vệ chúng cẩn thận. Số khác có lương tâm yếu mềm vì họ không trưởng thành.

Họ không để ý đến Kinh Thánh cùng mối tương giao Cơ-đốc và cứ ở nguyên tình trạng con đỏ (ICôr 3:1-4; Hêb 5:11-14). Nhưng có một số tín hữu ở nguyên tình trạng yếu đuối vì họ sợ tự do. Họ giống như một đứa bé đủ tuổi đến trường, sợ hãi khi rời khỏi nhà và muốn được mẹ dẫn đi học mỗi ngày.


Lương tâm của Cơ-đốc nhân yếu ớt dễ bị ô uế (c.7), bị thương tích (c.12), và dễ vấp phạm (c.13). Vì lý do này, các tín hữu mạnh mẽ phải nâng đỡ tín hữu yếu ớt và không được làm điều gì hại đức tin của họ. Có thể không làm hại tín hữu trưởng thành khi ngồi ăn trong miếu thần tượng nhưng lại làm hại anh em non nớt. (ICo 8:10) cảnh báo rằng tín hữu non trẻ có thể quyết định bắt chước người mạnh mẽ hơn và do đó họ sa vào tội lỗi.


Điều quan trọng cần biết là việc tín hữu mạnh mẽ chìu chuộng anh em yếu đuối bằng tình yêu cốt để giúp đỡ người đó trưởng thành. Không “nuông chiều” nhưng tìm cách mở mang sự hiểu biết cho người đó để giúp anh ta lớn lên. Nếu không, cả hai sẽ trở nên yếu đuối.


Chúng ta được tự do trong Đấng Christ, nhưng chúng ta phải thận trọng sự hiểu biết thuộc linh của chúng ta phải được tôi luyện bằng lòng yêu thương, và không lôi kéo tín hữu yếu đuối chạy trước lương tâm của anh ta. Nơi nào sự hiểu biết được cân bằng bởi tình yêu, tại đó tín hữu mạnh mẽ sẽ chăm sóc người yếu đuối và anh em yếu đuối sẽ lớn lên và trở nên mạnh mẽ.


2. Kinh nghiệm phải được quân bình bằng tính cẩn trọng (ICôr 10:1-22)

Phao-lô nhắc cho các tín hữu từng trải dày dạn trong đức tin nhớ rằng tốt hơn hết họ không nên quá tự tin về khả năng có thể vượt qua cám dỗ. “Vậy thì, ai tưởng mình đứng hãy giữ kẻo ngã” (ICôr 10:12). Phao-lô dùng gương của dân Y-sơ-ra-ên để cảnh báo những tín hữu trưởng thành rằng từng trải của họ cần phải bù đắp bằng sự thận trọng. Ông đưa ra ba lời cảnh cáo.


-Trước hết, Phao-lô nhắc nhở rằng các đặc quyền không bảo đảm sự thành công (ICôr 10:1-4). Dân Y-sơ-ra-ên đã được giải cứu ra khỏi Ai-cập bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, giống như Cơ-đốc nhân được cứu chuộc khỏi tội lỗi. (Trong ICôr 5:7-8, Phao- lô đã liên hệ lễ Vượt Qua với sự cứu rỗi.)

Dân Y-sơ-ra-ên cùng chịu “phép báp-têm” với Môi-se trong khi qua Biển Đỏ, giống như tín hữu Cô-rinh-tô đồng chết với Đấng Christ qua phép báp-têm bằng nước. Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na từ Trời và uống Nước Đức Chúa Trời cung cấp, giống như Cơ-đốc nhân tự nuôi mình bằng nguồn dinh dưỡng thiêng liêng từ Đức Chúa Trời (Gi 6:63,68; Gi 7:37-39). Tuy nhiên, những đặc quyền thiêng liêng này không làm cho dân Do-thái khỏi sa vào tội lỗi.


Có những nỗi nguy hiểm đối với người trưởng thành cũng như người non trẻ, và một trong số đó là lòng quá tự tin. Lúc chúng ta nghĩ mìmh mạnh mẽ, chúng ta khám phá ra rằng chúng ta yếu đuối. Tín hữu mạnh mẽ ngồi ăn trong đền miếu có thể tự thấy mình đang chiến đấu với kẻ thù quá mạnh đối với mình.


Trong (ICôr 10:4) Phao-lô không nói rằng hòn đá thật sự đồng hành với dân Do-thái trong suốt chuyến hành trình trong sa mạc của họ, mặc dầu một vài ra-bi Do-thái đã dạy ý tưởng này. Đó là hòn đá thiêng liêng cung ứng mọi điều họ cần, và hòn đá đó là Đấng Christ. Đôi khi nước lấy từ hòn đá (Xu 17:1-7; Dan 20:7-11) và những lần khác múc từ giếng lên (Dan 21:16-18). Đức Chúa Trời cung cấp nguồn nước.


Phao-lô đưa ra lời nhắc nhở thứ hai: những bắt đầu tốt không bảo đảm cho những kết thúc tốt (ICôr 10:5-12). Dân Do Thái từng trải phép lạ của Đức Chúa Trời, nhưng họ thất bại lúc bị thử luyện trong đồng vắng. Kinh nghiệm phải luôn được cân bằng bởi sự thận trọng, vì trong bước đường theo Chúa chúng ta chẳng bao giờ thoát khỏi cám dỗ và thất bại không thấy được. Tất cả những người Do-thái 20 tuổi trở lên đã được cứu khỏi Ai-cập, ngoại trừ Giô-suê và Ca-lép, đều ngã chết suốt những năm tháng đi trong đồng vắng (Dan 14:26).


Chúng ta có thể nghe một vài tín hữu “mạnh mẽ” hỏi, “Nhưng điều đó có can hệ gì đến chúng tôi?” Phao-lô cho biết tín hữu Cô-rinh-tô phạm cùng một tội dân Giu- đa đã phạm. Vì lòng tham muốn điều xấu xa, tín hữu Cô-rinh-tô phạm tội loạn luân (ICôr 6:9-20), thờ thần tượng (ICôr 8:1-10:33), và oán trách Đức Chúa Trời (IICôr 12:20-21). Giống như dân Y-sơ-ra-ên, họ thử thách Đức Chúa Trời và “thách đố Ngài” ra tay.


Hẳn nhiên Phao-lô biết Kinh Thánh Cựu-ước và người đọc thư tín của ông sẽ nhận ra các sự kiện được ông nói đến. Chữ “thèm thuồng” được tìm thấy trong Dan 11:4, chữ thờ thần tượng trong Xu 32:1-35, và sự thông dâm trong Dan 25:1-18. Dân Y-sơ-ra-ên thường thử thách Đức Chúa Trời, nhưng có lẽ điều Phao-lô muốn nói đến được ghi lại trong Dan 21:4-6. Để biết đều họ than phiền, (Dan 14:1-45; Dan 16:1-50).


Loại tội lỗi này quả thật nghiêm trọng và Đức Chúa Trời phải đoán phạt. Những kẻ nổi loạn này không những bị chết ngay lập tức (ICôr 11:29-31), nhưng những người sót lại cũng không được phép vào Đất Hứa. Họ được cứu khỏi Ai-cập nhưng không được vinh dự thừa hưởng của báu. Phao-lô không nói rằng người đọc thư của ông có thể bị mất sự cứu rỗi nhưng ông sợ rằng số ít trong họ sẽ bị “bỏ lại” (ICôr 9:27), không được Đức Chúa Trời thừa nhận và không thể nhận được phần thưởng nào.


Tôi nghe nói một mục sư giảng loạt bài về “Tội Lỗi Của Thánh Đồ”. Một con cái Chúa trong Hội thánh, hình như đang bị cáo trách, không thừa nhận loạt bài giảng ấy và nói với vị mục sư như vậy. Bà ấy nói, “Dầu sao tội lỗi trong cuộc đời của một tín đồ khác với tội lỗi của một người chưa được cứu.”


Vị mục sư đáp, “Vâng, đúng vậy, nhưng nó tồi tệ hơn!”

Chúng ta không nên nghĩ rằng bởi vì người Do-thái thuộc dưới Luật pháp cho nên tội lỗi của họ xấu xa hơn chúng ta và vì vậy phải bị đối xử nghiêm khắc hơn. Tội lỗi trong Hội thánh ngày nay nghiêm trọng hơn nhiều, vì chúng ta học theo gương của dân Y-sơ-ra-ên, và chúng ta đang sống “trong thời kỳ cuối cùng”. Phạm tội nghịch lại với luật pháp là một chuyện; phạm tội chống lại ân điển là một chuyện hoàn toàn khác.


Điều Phao-lô nhắc nhở thứ ba đó là Đức Chúa Trời có thể làm chúng ta thắng được cám dỗ nếu chúng ta vâng theo lời dạy của Ngài (ICôr 10:13-22). Đức Chúa Trời cho phép chúng ta bị cám dỗ vì Ngài biết chúng ta có thể chịu đựng được; và Ngài luôn mở đường cho ra khỏi nếu chúng ta tin cậy nơi Ngài và tận dụng điều đó.Người tin Chúa nghĩ rằng mình đứng được, có thể bị sa ngã; nhưng người nào lánh xa sẽ đứng được.


Phao-lô đã nói với độc giả của mình phải “lánh xa sự dâm dục” (ICôr 6:18); và bây giờ ông khuyên, “hãy tránh khỏi sự thờ lạy hình tượng” (ICôr 10:14). Ông giảng giải lý do tại sao phải làm điều ấy: Bản thân hình tượng là sự hư không, nhưng nó được Sa-tan dùng để đưa chúng ta vào tội lỗi. Hình tượng thuộc về ma quỷ (Phuc 32:17; Thi 106:37). Ngồi nơi bàn của hình tượng có nghĩa thông đồng ("cùng hội, cùng ăn uống") với các quỉ. Phao-lô một lần nữa nhấn mạnh giáo lý quan trọng về sự phân rẽ ra khỏi tội (IICôr 6:14-7:1).


Phao-lô dùng lễ Tiệc Thánh làm hình ảnh minh họa. Khi tín hữu ăn bánh uống chén nơi bàn tiệc của Chúa, theo cách thiêng liêng, người đó có sự giao thông trong thân và huyết của Đấng Christ. Bởi việc nhớ lại sự chết của Đấng Christ, con cái Chúa bắt đầu hiệp làm một với Chúa sống. Trong (ICôr 10:18), Phao-lô đưa ra bàn thờ của đền thờ và con sinh tế làm minh họa khác cho chân lý này. Điều dạy dỗ thật rõ ràng: Con cái Chúa không thể dùng bữa của Chúa (của tế lễ trong Cựu-ước, Tiệc Thánh trong Tân-ước) và dùng bữa của ma quỷ (trên bàn thờ hình tượng) mà không tự đưa mình vào nguy hiểm và chọc giận Đức Chúa Trời.


“Chúng ta há mạnh hơn Ngài sao?” (ICôr 10:22) nhằm vào tín hữu mạnh mẽ bảo đảm rằng anh ta có thể tận hưởng tự do trong miếu thần và không bị hại gì. Phao- lô cho biết, “Có thể anh em mạnh hơn anh em khác, nhưng anh em không mạnh hơn Đức Chúa Trời!” Thật nguy hiểm khi đùa giỡn với tội lỗi và thử thách Đức Chúa Trời.


3. Sự tự do phải được quân bình bằng trách nhiệm (ICôr 10:23-33)

Không có lần nào Phao-lô phủ nhận rằng Cơ-đốc nhân trưởng thành được tự do hưởng các đặc quyền trong Đấng Christ. “Mọi sự có phép làm” - NHƯNG không phải mọi sự đều có ích, và một số điều dẫn chúng ta đến nô lệ (ICôr 6:12). “Mọi sự đều có ích” -NHƯNG một số hoạt động có thể gây cho anh em yếu đuối bị sa ngã (ICôr 8:11-13). Nói cách khác, chính lúc chúng ta có trách nhiệm trong tự do của chúng ta, đó là dấu hiệu của sự trưởng thành; nếu không, nó không còn là sự tự do nữa và trở nên lộn xộn, không phép tắc.


-Trước hết, chúng ta có trách nhiệm với anh em tín hữu trong Hội thánh (c.23-30). Chúng ta có bổn phận gây dựng người khác lớn lên trong đức tin và tìm điều lợi cho họ. Phi 2:1-4 cho cùng một lời khuyên. Trong khi được tự do trong Đấng Christ, chúng ta không được tự do làm hại đến anh em tín hữu khác.


Phao-lô áp dụng chân lý này vào câu hỏi đang đặt ra về thịt đã cúng cho hình tượng. Ông đã nói nghịch lại với tín hữu công khai tham dự vào bữa tiệc trong miếu thần tượng (Phi 8:9-13), vì vậy bây giờ ông bàn đến những bữa ăn tại nhà riêng. Trong những (ICôr 10:25-26),

Phao-lô dạy con cái Chúa đừng thắc mắc về thịt mua ngoài chợ về dùng tại nhà riêng. Dầu sao, mọi vật ra từ Đức Chúa Trời (người trích dẫn Thi 24:1) và tín hữu đều được dùng mọi thức ăn (Mac 7:14-23; Công 10:9-16,28; ITi 4:3-5). Tín hữu trưởng thành có thể thưởng thức tại nhà riêng của mình ngay cả thịt đã dâng cho hình tượng. Nếu như thịt mua ngoài chợ có xuất xứ từ miếu thần (thường là như vậy), thì người đó sẽ không bị hại gì.


Nhưng còn những lần tín hữu được mời dùng bữa tại nhà người không tin Chúa thì sao?Phao-lô giải quyết vấn đề đó trong các (ICôr 10:27-30). Nếu Cơ Đốc nhân thấy muốn đi (Phao-lô không làm cho quyết định này thành vấn đề quan trọng), người ấy nên ăn tất cả những gì có trước mặt và không nên thắc mắc điều gì (Lu 10:8; ITi 6:17). Tuy nhiên, hiện diện trong bữa ăn có một trong những anh em chị em yếu đuối là người muốn tránh thịt đã cúng cho hình tượng và người ấy đã thực hiện vài dò hỏi. Nếu tín hữu yếu đuối này báo cho người mạnh mẽ biết thịt thật sự đã cúng cho thần tượng, lúc ấy người tín hữu mạnh mẽ không nên ăn thịt ấy. Nếu người cứ ăn, sẽ gây cho tín hữu yếu đuối sa ngã và có thể phạm tội.


Phao-lô dự đoán có những ý kiến phản đối. “Tại sao tôi không nên dùng thức ăn tôi đã tạ ơn? Tại sao tôi phải giảm bớt tự do vì lương tâm yếu đuối của người khác?” Lời giải đáp của Phao-lô đưa ra bổn phận thứ hai chúng ta phải có: Chúng ta có trách nhiệm làm vinh hiển Đức Chúa Trời trong mọi sự (ICôr 10:31).

Chúng ta không thể làm sáng danh Đức Chúa Trời khi gây cho anh em khác sa ngã. Phải thừa nhận là, có thể lương tâm của chúng ta đủ mạnh để tham dự vào một hoạt động nào đó và không bị hại gì. Nhưng chúng ta không dám dùng tự do trong Đấng Christ bất cứ cách nào có thể làm phương hại đến một anh em tín hữu.


Nhưng có bổn phận thứ ba phù hợp với hai bổn phận trước: Chúng ta có trách nhiệm tìm cách chinh phục linh hồn người hư mất (ICôr 10:32-33). Chúng ta không nên gây khó khăn cho người Do-thái hay người Hy-lạp trong việc tin nhận Chúa, hoặc ngăn trở các tín hữu khác trong Hội thánh làm chứng nhân cho Chúa. Chúng ta không nên sống tìm lợi riêng cho mình, nhưng tìm lợi cho kẻ khác, để họ được cứu.


Khi Phao-lô viết, “Tôi làm đẹp lòng mọi người trong mọi việc” (ICôr 10:33), không có ý nói ông là người thoả hiệp hoặc chuyên làm hài lòng người khác (Ga 1:10). Phao-lô xác nhận rằng cuộc sống và chức vụ của ông tập trung vào việc giúp đỡ người khác hơn là tự tìm vinh dự cho mình và thoả mãn những đòi hỏi của bản thân.


-Trước khi kết thúc phần quan trọng này, chúng ta nên biết rằng có lẽ Phao-lô có vẻ mâu thuẫn với những người không hiểu những nguyên tắc sống đạo ông đưa ra.Thỉnh thoảng, ông ăn những gì người ngoại bang ăn. Có những lúc ông chỉ ăn thức ăn “thích hợp” với người Do-thái. Nhưng thay vì mâu thuẫn, Phao-lô thực sự sống cách thích hợp theo những nguyên tắc ông nêu lên trong các chương này.

Cái chong chóng thời tiết có vẻ như không nhất quán, lúc quay ở hướng này rồi lại quay ở hướng khác. Nhưng cái chong chóng thời tiết luôn luôn kiên định: nó luôn quay theo hướng có gió thổi. Và điều đó khiến nó có ích lợi.


Có những việc nào mà Cơ-đốc nhân trưởng thành có thể làm cách riêng tư tại nhà nhưng không làm ở nơi đông người không? Vâng, miễn là những việc ấy không làm hại cá nhân người ấy và không thử thách Chúa. Tôi biết một cặp vợ chồng khi con cái của họ còn nhỏ, họ đã dẹp tất cả các trò chơi dùng đến các lá bài hoặc súc sắc ra khỏi nhà. Khi con cái lớn lên đủ hiểu biết, lúc ấy họ cho phép chúng chơi các trò chơi ấy.


Là Cơ-đốc nhân, chúng ta có sự tự do.

Sự tự do này được Chúa Giê-xu Christ mua lấy cho chúng ta, vì vậy nó rất có gía trị. Tự do đến từ sự hiểu biết: “các ngươi sẽ biết chân lý, và chân lý sẽ buông tha các ngươi” (Gi 8:32). Chẳng hạn, càng hiểu biết về nguyên tử, chúng ta càng tự do dùng nó cách khôn ngoan. Tuy nhiên, sự hiểu biết phải được cân đối bằng tình yêu; nếu không nó sẽ phá đổ thay vì xây dựng.


Cơ-đốc nhân mạnh mẽ không những có hiểu biết, nhưng còn có kinh nghiệm. Người có thể nhìn lại để thấy cách nào Chúa đã đối đãi mình trong những năm qua. Nhưng người phải cẩn thận, vì sự từng trải phải được cân đối bằng sự thận trọng. Hãy làm theo lời, kẻo anh em bị sa ngã!


Cơ-đốc nhân mạnh mẽ biết rằng anh ta có sự tự do này, nhưng cũng phải biết rằng tự do đó liên quan đến trách nhiệm. Ví dụ, tôi có tự do lấy xe hơi ra khỏi nhà xe và lái ngoài xa lộ; nhưng tôi phải có trách nhiệm điều khiển xe an toàn. Tôi không được tự do lái xe vượt tốc độ trên đường; cũng không được tự do bỏ qua các tấm biển chỉ đường dọc theo đường đi.

Ngoài các chương này có vài “trắc nghiệm” chúng ta có thể áp dụng đối với các quyết định và hành động riêng của chúng ta.

“Mọi sự có phép làm, ” NHƯNG -

1. Chúng sẽ dẫn đến tự do hay nô lệ? (ICôr 6:12)

2. Chúng sẽ khiến tôi thành hòn đá vấp chân hay phiến đá lót đường? (ICôr 8:13)

3. Chúng gây dựng tôi hay phá đổ? (ICôr 10:23)

4. Chúng chỉ làm đẹp lòng tôi, hay làm sáng danh Đấng Christ? (ICôr 10:31)

5. Chúng giúp chinh phục tội nhân hư mất cho Đấng Christ hay từ chối họ? (ICôr 10:33)


Cách chúng ta dùng tự do và liên hệ với người khác cho thấy chúng ta có trưởng thành trong Đấng Christ hay không. Con cái Chúa mạnh hay yếu đều cần phải làm việc chung với nhau trong tình yêu thương để hiểu biết lẫn nhau và làm sáng danh Chúa Giê-xu Christ.



 


8. HÃY KHÔN NGOAN VỀ NHỮNG QUYỀN LỢI CÁ NHÂN (ICôr 9:1-27)


Chương này đề cập đến chủ trương giúp đỡ tài chính của Phao-lô, dường như là chương cắt ngang vấn đề Phao-lô đang bàn về “thịt cúng cho hình tượng”. Thực ra, đây không phải là phần chen ngang; nhưng là phần minh hoạ cho chính những nguyên tắc Phao-lô giới thiệu trong chương 8 và 10. Phao-lô lấy chính bản thân làm hình ảnh minh hoạ về việc người trưởng thành sử dụng tự do: Phao-lô có quyền nhận sự ủng hộ tài chánh từ Hội Thánh Cô-rinh-tô, nhưng ông sẵn sàng bỏ qua quyền tự do đó để đạt được mục đích lớn lao hơn.


Hãy nhớ rằng hầu hết người Hy Lạp đều coi thường lao động chân tay. Họ có nhiều nô lệ phục vụ để có thể thưởng thức thú vui thể thao, triết học, và sự nhàn hạ. Dĩ nhiên, người Do Thái đề cao lao động chân chính. Ngay cả các ra-bi có học cao mỗi người cũng thực hành một nghề, và họ dạy dân chúng rằng, “Ai không dạy con mình làm việc, tất sẽ dạy nó thành kẻ cắp”. Phao-lô được dạy dỗ trở thành người may trại, một công nhân làm nghề da.


Để minh hoạ cho việc dùng các quyền riêng tư của Cơ Đốc nhân, Phao-lô đưa ra lời biện hộ gồm hai khía cạnh về chủ trương tiền bạc của ông khi làm tôi tớ cho Đấng Christ.


1. Phao-lô bảo vệ quyền nhận sự chu cấp (ICo 9:1-14)

Trong phần đầu của chương này, Phao-lô chứng minh rằng ông có quyền nhận chu cấp về tài chánh từ Hội Thánh Cô-rinh-tô. Ông đưa ra năm lập luận để bảo vệ cho quyền hạn này.


Chức vụ Sứ Đồ (ICo 9:1-6). Chữ sứ đồ có nghĩa “người được sai phái với sự uỷ nhiệm”, và ám chỉ trước tiên đến 12 sứ đồ và Phao-lô. Những người này có sự uỷ nhiệm đặc biệt, cùng vơí các tiên tri trong Tân Ước, lập nền Hội Thánh (Eph 2:20). Một trong những tiêu chuẩn để làm sứ đồ đó là kinh nghiệm thấy Đấng Christ sống lại (Cong 1:21-22). Phao-lô thấy Chúa trên đường đến Đa-mách bắt bớ đạo Chúa (Cong 9:1-9). Các sứ đồ phải là các nhân chứng về sự sống lại của Đấng Christ (Cong 2:32 Cong 3:15 Cong 5:32 Cong 10:39-43).


Các sứ đồ cũng được ban cho quyền làm các dấu kỳ phép lạ để chứng thực sứ điệp họ rao giảng (IICo 12:12). Thực ra, Phao-lô xem Hội Thánh Cô-rinh-tô là “ấn tín”rất đặc biệt trong chức vụ sứ đồ của ông. Cô-rinh-tô là thành phố khó truyền giảng đạo Chúa, nhưng Phao-lô đã hoàn thành một công tác vĩ đại vì sự cho phép của Chúa (Cong 18:1-17).


Do đó, là sứ đồ, Phao-lô có quyền được nhận sự chu cấp từ người ông đã chăm sóc. (Chữ quyền được dùng sáu lần trong chương này có nghĩa “quyền hạn, quyền được hưởng"). Sứ đồ là người đại diện của Đấng Christ; người xứng đáng được mọi người đón tiếp và quan tâm săn sóc. Phao-lô không lập gia đình; nhưng nếu ông có vợ, chắc chắn vợ người cũng có quyền hạn được Hội Thánh chu cấp vật dùng hằng ngày. Phi-e-rơ lập gia đình (Mac 1:30), và vợ ông đi theo ông trong các chuyến lưu hành hầu việc Ngài. Phao-lô có quyền như vậy, nhưng ông không dùng quyền đó.


Phao-lô cũng có quyền dùng hết thời gian cho chức vụ rao truyền lời Đức Chúa Trời. Ông không phải may trại. Các sứ đồ khác không làm việc để chu cấp sự cần dùng cho họ vì họ dành trọn thời gian cho công việc của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, cả Phao-lô và Ba-na-ba đều lấy chính tay họ làm việc không những chu cấp cho chính mình nhưng còn chu cấp cho người cùng làm việc với họ nữa.


Kinh nghiệm của con người (ICo 9:7). Kinh nghiệm hằng ngày dạy chúng ta rằng một người lao động xứng đáng nhận công giá của mình. Nếu một người được gọi nhập ngũ, chính phủ phải trả lương và cung cấp một lượng nhu cầu nào đó cho anh ta. Người trồng nho sẽ ăn trái nho, giống như người chăn chiên hoặc chăn đàn gia súc có quyền dùng sữa từ bầy của mình.


Có lẽ “trong thâm tâm của mình”, Phao-lô có ý so sánh Hội Thánh với quân đội, vườn nho, và đàn gia súc. Là sứ đồ, Phao-lô đang ở vị trí tiền tiêu của trận chiến.Người đã so sánh Hội Thánh tại Cô-rinh-tô như một cánh đồng được cày xới (ICo 3:6-9), chính Chúa đã dùng hình ảnh cây nho và nhánh (Gi 15:1-5) cũng như đàn chiên (Gi 10:1-17). Bài học thật rõ ràng: Người làm công cho Chúa có quyền mong đợi lợi ích do sức lao động của mình. Nếu điều này đúng trong lãnh vực “đời này”, nó cũng đúng trong lãnh vực thiêng liêng nữa.


Luật Pháp Cựu Ước (ICo 9:8-12). Cựu Ước là “Kinh Thánh”của Hội Thánh đầu tiên, vì Tân Ước thực hiện những gì đã viết trong Cựu Ước.Các tín hữu đầu tiên tìm thấy sự hướng dẫn về các nguyên tắc thuộc linh của luật pháp, mặc dầu họ đã được giải phóng khỏi việc tuân giữ các mệnh lệnh của luật pháp. Thánh Agustine nói, “Tân Ước được che giấu trong Cựu Ước; Cựu Ước được bày tỏ bởi Tân Ước”.


Phao-lô trích dẫn Phu 25:4 để chứng minh cho quan điểm của ông. (Ông cũng trích dẫn cùng câu Kinh Thánh này trong thư gởi cho Ti-mô-thê và khích lệ Hội Thánh chu cấp cho chức vụ của người hầu việc Chúa cách đầy đủ, ITi 5:17-18). Bởi vì bò không thể đọc được, cho nên câu Kinh Thánh không viết cho chúng. Cũng không chỉ viết cho nông dân đang sử dụng sức kéo của bò. Người nông dân quả là độc ác khi khớp miệng bò và ngăn không cho nó ăn ngũ cốc có sẵn. Dù sao con bò cũng đang làm việc.


Phao-lô nhìn thấy một nguyên tắc thiêng liêng trong mệnh lệnh này: Người làm công có quyền hưởng phần thưởng. Con bò đã cày xới cánh đồng để chuẩn bị cho việc trồng tỉa, và bây giờ nó đang dẫm đạp thóc lúa đã được gặt hái. Phao-lô đã cày xới đất tại Cô-rinh-tô và làm việc suốt ngày đêm. Ông nhìn thấy mùa gặt từ hạt giống đã gieo. Ông hưởng một số kết quả của mùa gặt cũng là điều chính đáng.


Nguyên tắc cơ bản cho đời sống Cơ Đốc nhân (ICo 9:11) Nếu chúng ta nhận các ơn phước thuộc linh, đến lượt chúng ta phải chia sẻ những ơn phước thuộc thể. Ví dụ, người Do Thái đem những ơn phước thuộc linh đến cho người ngoại bang; do đó dân ngoại có nghĩa vụ chia sớt vật chất cho người Do Thái (Ro 15:25-27). Người dạy đạo cho chúng ta có quyền mong đợi chúng ta chu cấp cho họ sự cần dùng (Ga 6:6-10).


Chúng ta có lý do tin rằng Phao-lô chấp nhận các Hội Thánh khác ủng hộ tài chánh cho ông. Tín hữu Hội Thánh Phi-líp gởi chu cấp cho Phao-lô hai lần khi ông đến Tê-sa-lô-ni-sa (Phi 4:15-16). Phao-lô nhắc nhở Hội Thánh Cô-rinh-tô, “Tôi đã nhận lương hướng, vét lấy của Hội Thánh khác đặng giúp việc anh em” (IICo 11:8). Hình như những người hầu việc Chúa khác đã nhận sự cung cấp tại Cô-rinh- tô (ICôr 9:12), nhưng Phao-lô muốn được độc lập “cho khỏi làm ngăn trở Tin lành của Đấng Christ”. Ông muốn nêu gương tốt nhất có thể được cho các tín hữu khác. (IITes 3:6-9).


Thực hành lời dạy trong Cựu Ước (ICôr 9:13). Thầy tế lễ và người Lê-vi sống bởi của tế lễ và của dâng do dân chúng mang đến đền thờ. Những qui định về phần họ được hưởng trong các của dâng, và phần mười dành cho họ được ghi chép trong Dan 18:8-32; Le 6:14-7:36; 27:6-33. Bài học ứng dụng thật rõ ràng: Nếu những người hầu việc nơi thánh dưới thời Luật pháp được dân chúng chu cấp, thì các tôi tớ của Đức Chúa Trời hầu việc dưới thời ân điển lại không được chu cấp sao?


Lời Dạy của Chúa Giê-xu (ICôr 9:14).

Rất có thể Phao-lô đang nói đến lời dạy của Chúa chép trong Lu 10:7-8 và Mat 10:10. Tín hữu Cô-rinh-tô không có bản sao chép nào của lời Phúc Âm nói đến ở đây, nhưng chắc chắn lời dạy của Chúa được các sứ đồ truyền miệng lại cho họ. “Người làm công xứng đáng với công giá của mình” là nguyên tắc cơ bản Hội thánh không được làm ngơ.


Chắc chắn Phao-lô đã chứng minh cho quan điểm của mình. Năm lập luận của ông xác quyết rằng ông có quyền mong đợi tín hữu Cô-rinh-tô cung cấp sự cần dùng trong chức vụ khi ông ở với họ. Tuy nhiên ông cương quyết từ chối sự chu cấp của họ.Tại sao vậy? Ông giải thích điều này trong phần hai.


2. Phao-lô biện hộ quyền từ chối sự chu cấp (ICôr 9:15-27)

Phao-lô có quyền hạn nhận sự cung cấp vật chất, nhưng là Cơ Đốc nhân trưởng thành, ông cân đối quyền hạn của mình bằng kỷ luật. Phao-lô không có quyền từ bỏ sự tự do trong Đấng Christ, nhưng ông có tự do để từ bỏ quyền lợi của mình. Bây giờ chúng ta hiểu lý do ông viết như ông đã làm: ông nêu cho người Cô-rinh-tô một gương sống động theo các nguyên tắc ông viết cho họ. Há những tín hữu mạnh mẽ trong Hội Thánh không nên bỏ qua quyền hạn của họ vì lợi ích của những anh em yếu đuôí sao? Việc ăn thịt có quan trọng hơn việc gây dựng Hội thánh không?


Phao-lô đang nói về những điều ưu tiên, những điều thật sự quan trọng đối với chúng ta trong cuộc sống. Thật đáng tiếc một số Cơ Đốc nhân để cho các điều ưu tiên trong đời sống cá nhân làm rối trí và kết quả họ làm ngăn trở công việc của Đấng Christ. Nếu mỗi tín hữu thực hiện lời dạy trong Mat 6:33, sẽ có nhiều tiền cho công cuộc truyền giáo, nhiều nhân sự ra đi hầu việc, và công việc của Đức Chúa Trời sẽ phong phú. Nhưng không phải mọi người đều thực hành lời Chúa dạy trong Mat 6:33.


Một phụ nữ gởi món quà đến cho công cuộc truyền giáo và giải thích rằng đó là tiền bà dành dụm vì đã khoá bồn nước nóng trong nhà. Bà cũng không mua báo hằng ngày để có thêm tiền dâng cho công việc Chúa. Khi tắm, bà hâm nóng nước trên bếp lò, “như cách làm khi chúng ta còn bé”. Chúa có thể không kêu gọi tất cả chúng ta hy sinh theo cách này, nhưng gương của bà ấy thật đáng trân trọng.


Phao-lô đưa ra ba thí dụ giải thích tại sao ông đã từ chối Hội Thánh Cô-rinh- tô chu cấp cho ông.


Vì ích lợi của đạo Tin Lành (ICôr 9:15-18).

Phao-lô không muốn “ngăn trở Phúc-Âm của Đấng Christ” (ICôr 9:12). Trong thời đó, các thành phố Hy-lạp đầy dẫy các giáo sư và thầy giảng lưu hành, hầu hết trong số họ ra đi để kiếm tiền. Phao-lô không những từ chối không dùng cách hùng biện và lý lẽ như các giáo sư này đã làm (ICôr 2:1-5), nhưng ông cũng không nhận từ của những người ông phục vụ. Phao-lô muốn sứ điệp của Phúc-Âm được tự do khỏi mọi trở lực và chướng ngại trong tâm trí của tội nhân hư mất.


Đối với vấn đề đó, khi Phao-lô thêm “và tôi cũng không viết những điều này” (ICôr 9:15), ông chắc chắn rằng người đọc thư ông không có ý tưởng cho rằng ông “nói bóng gió” họ nên chu cấp cho ông!


Phao-lô không đòi hỏi bất cứ một lợi lộc nào vì cớ rao giảng Phúc-Âm, vì Đức Chúa Trời đã gọi ông rao giảng sự cứu rỗi của Ngài. “Vì có lẽ cần buộc tôi; còn không rao truyền Phúc Âm, thì khốn khó cho tôi thay! ” (ICôr 9:16). Đức Chúa Trời đã ban cho Phao-lô chức vụ quản trị thiêng liêng ("sứ mệnh từ Trời"), và “điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành” (ICo 4:2). Đức Chúa Trời đảm bảo chắc chắn Phao-lô sẽ nhận công giá của mình (phần thưởng - giống như chữ đã dịch “tiền công” trong Lu 10:7).


Phần thưởng của Phao-lô là gì? Đó là niềm vui giảng Phúc Âm không bị ngăn trở! Điều này có nghĩa là không ai có thể lên án ông vì những động cơ hoặc phương pháp dối trá khi ông chia sẻ Tin Mừng của Chúa Giê-xu Christ.


Thật đáng tiếc thỉnh thoảng sứ mạng của Phúc Âm bị ngăn trở do quá đặt nặng về tiền bạc. Thế gian chưa đươc cứu tin rằng hầu hết các nhà giảng đạo và giáo sĩ chỉ dính líu đến “nghề nghiệp tôn giáo” để thâu tóm tiền bạc từ những người dân vô tội. Rất có thể có “Những kẻ tống tiền” dưới lớp vỏ tôn giáo trong thế giới ngày nay (ITi 6:3-16), những hạng người “dùng” tôn giáo để bóc lột người khác và cai trị họ. Chắc chắn chúng ta không đồng ý với mục đích và việc thực hiện của họ. Chúng ta phải bảo đảm rằng trong chức vụ chúng ta không làm điều gì gây cho người khác nghĩ rằng chúng ta thuộc trong số họ.


Thái độ sai hướng về tiền bạc đã ngăn trở Phúc-Âm từ những ngày đầu của Hội thánh đầu tiên. A-na-nia và Sa-phi-ra yêu mến tiền bạc hơn chân lý, và Đức Chúa Trời đã giết chết họ (Công 5:1-11). Thuật sĩ Si-môn nghĩ rằng ông ta có thể mua ân tứ Đức Thánh Linh bằng tiền (Cong 8:18-24). Tên của ông ta bây giờ nằm trong tự điển. Simony có nghĩa là việc mua bán chức sắc và đặc quyền đặc lợi trong tôn giáo.


Tiến sĩ H.A.Ironside làm mục sư cho Hội thánh Moody tại Chicago 18 năm kết quả cho Chúa. Tôi nhớ lại lần đầu tiên nghe ông thông báo về việc dâng hiến. Ông nói, “Chúng tôi kêu gọi các con cái Chúa dâng hiến cách rộng rãi. Nếu bạn không phải là con cái Chúa, chúng tôi không kêu gọi bạn dâng. Chúng tôi có món quà dành cho bạn - đó là sự sống đời bởi tin nơi Chúa Giê-xu Christ!” Ông nói rõ ràng việc dâng hiến dành cho người tin Chúa, kẻo người chưa tin Chúa trong hội chúng vấp phạm vì tiền bạc và chối bỏ Phúc-Âm.


Vì ích lợi cho tội nhân hư mất (ICôr 9:19-23). Thật là ngược đời: được tự do với tất cả mọi người, nhưng lại làm tôi tớ cho mọi người! “Vì tình yêu mến Chúa Giê-xu Christ mà chúng tôi xưng mình là tôi tớ của anh em vậy.” (ICôr 4:5). Vì Phao-lô được tự do, nên ông có thể phục vụ người khác và bỏ qua quyền lợi của riêng mình vì kẻ khác.


Thật đáng tiếc thế gian đã lạm dụng nhóm từ “mọi cách cho mọi người” và tạo ra ý nghĩa Phao-lô không muốn nói đến. Phao-lô không phải là người bất nhất thay đổi sứ điệp và phương pháp theo từng hoàn cảnh mới. Ông cũng không phải là người thuận tình điều chỉnh sứ điệp để làm vui lòng thính giả của ông. Phao-lô là đại sứ, chớ không phải chính khách!


Là người Do-thái, Phao-lô rất nặng lòng về dân tộc của mình (Rô 9:1-3; Rô 10:1). Nhưng ông được Chúa kêu gọi đặc biệt rao giảng Phúc-Âm cho người ngoại bang (Eph 3:8). Bất cứ khi nào ông đến một thành phố mới (ông luôn luôn đến nơi Phúc-Âm chưa được rao giảng (Rô 15:20), Phao-lô đi thẳng tới nhà hội, dù chỉ có một người Do-thái ông cũng dạn dĩ chia sẻ Phúc-Âm. Nếu người Giu-đa từ chối, ông quay sang chia sẻ Phúc-Âm cho dân ngoại.


Điều gì phân rẽ người Do-thái với dân ngoại trong thời đó? Chính luật pháp và lời giao-ước (Eph 2:11-15). Trong đời sống riêng tư, Phao-lô cũng sống thế nào để không gây vấp phạm cho người Do-thái lẫn dân ngoại. Ông không khoe khoang tự do trước mặt dân Do-thái, cũng không áp đặt luật pháp trên người ngoại bang.


Phao-lô có cư xử một cách bất nhất không? Dĩ nhiên là không. Phao-lô chỉ điều chỉnh cách giải thích cho phù hợp với các nhóm người khác nhau. Khi bạn đọc các bài giảng của Phao-lô trong sách Công-vụ, bạn sẽ thấy sự điều chỉnh khôn ngoan này.Khi ông giảng đạo cho người Do-thái, ông bắt đầu bằng cách nhắc đến các chi phái trong Cựu-ước; nhưng khi giảng cho dân ngoại, ông bắt đầu bằng Đấng Sáng Tạo. Phao-lô không có “bài giảng lưu trữ” cho mọi dịp tiện.


Thật đáng lưu ý rằng Chúa chúng ta đã theo cùng cách thức như vậy. Đối với người Do-thái thuộc dòng dõi quí phái, như Ni-cô-đem, Ngài giảng về sự tái sanh (Gi 3:1-16); nhưng với người đàn bà Sa-ma-ri, Ngài dạy về nước hằng sống (Gi 4:1-42). Chúa Giê-xu linh động và có thể thích ứng và Phao-lô noi theo gương của Ngài. Cả Chúa Giê-xu lẫn Phao-lô đều không có “công thức truyền giảng Phúc-Âm” cứng ngắt dành cho mọi trường hợp.


Cần phải khéo léo trong việc tiếp xúc. Khi những người tôi làm chứng kể cho tôi nghe về kinh nghiệm được trở nên mới, tôi nói với họ tôi cũng như vậy. Tôi bày tỏ lòng cảm kích đối với vị mục sư dạy dỗ cầu nguyện cho tôi. Lúc ấy tôi nói với họ rằng, “Một năm sau khi tôi được công nhận là tín hữu chính thức, tôi đã gặp Chúa Giê-xu cách riêng tư và đã được tái sanh.” Một chứng nhân tốt cố tìm cách bắt những nhịp cầu chớ không xây tường thành.


Đối với những người non nớt, cách sống của Phao-lô có lẽ dường như bất nhất. Trên thực tế, ông rất khuôn mẫu, vì mục đích quan trọng nhất của ông là chinh phục người khác cho Chúa Giê-xu Christ. Sự kiên định có thể trở thành một luật lệ, và một người có thể bị các luật lệ và tiêu chuẩn do con người đặt ra bó buộc quá đến nỗi không còn tự do hầu việc Chúa nữa. Người ấy giống như Đa-vít trẻ tuổi ra sức chiến đấu dưới bộ giáp của Sau-lơ.


Phao-lô có quyền ăn bất kỳ vật gì ông thích, nhưng ông từ bỏ quyền đó để có thể chinh phục người Do-thái. Phao-lô đã tôn sùng luật pháp (Rô 7:12), nhưng ông đặt luật pháp qua một bên để có thể đến với dân ngoại bang chưa được cứu. Thậm chí ông cũng hoà mình như những Cơ-đốc nhân yếu đuối để giúp họ trưởng thành. Đó không phải là thoả hiệp, nhưng là sự từ bỏ trọn vẹn đối với luật yêu thương cao quý hơn. Phao-lô theo gương của Đấng Cứu Thế tự hạ mình xuống để trở nên đầy tớ của hết thảy mọi người.


Vì ích lợi cho riêng ông (Rô 9:24-27).

Phao-lô thích hình ảnh vận động viên điền kinh và ông thường dùng những hình ảnh này trong các bức thư của mình. Chắc chắn người Cô-rinh-tô quen thuộc với Đại Hội Thể Thao Olympic Hy-lạp cũng như Thể Thao ở địa phương Isthmian của họ. Biết điều này, Phao-lô dùng phép ẩn dụ rất gần gũi với kinh nghiệm của họ.


Một vận động viên phải tuân thủ kỷ luật nếu anh ta muốn thắng giải. Kỷ luật có nghĩa từ bỏ điều tốt và điều tốt hơn để dành lấy điều tốt nhất. Vận động viên phải ý thức việc kiêng cử trong ăn uống và giờ giấc. Anh ta phải mĩm cười và nói “Không, cám ơn” khi người ta mang đến cho mình các món ăn tráng miệng gây mập hoặc mời anh ta đến các buổi tiệc kéo dài thâu đêm. Ăn uống và vui chơi không có gì sai cả, nhưng nếu chúng can thiệp vào những mục tiêu cao quí nhất của bạn, lúc ấy chúng sẽ là những rào cản không ích lợi gì cho bạn cả.


Cơ-đốc nhân không chạy đua để vào Nước Trời. Người đang ở trong cuộc đua vì đã được cứu bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ. Chỉ những công dân Hy-lạp mới được tham dự vào đại hội thể thao, và họ phải tuân theo các luật lệ cả trong huấn luyện lẫn thi đấu. Bất kỳ đấu thủ nào vi phạm các luật lệ trong huấn luyện sẽ tự động bị loại. Vận động viên nổi tiếng người Ấn-độ, Jim Thorpe, phải trả lại huy chương vàng Olympic vì uỷ ban trao giải thưởng khám phá ra trước đây anh đã chơi trong một đội chuyên nghiệp nhà nghề.


Để từ bỏ các quyền lợi của mình và tìm niềm vui trong việc chinh phục linh hồn hư mất, Phao-lô phải nghiêm khắc với chính mình. Đó là điểm nhấn mạnh trong toàn bộ chương này: Kỷ luật phải cân đối với quyền hạn. Nếu chúng ta muốn hầu việc Chúa và nhận được ban thưởng và thừa nhận của Ngài, chúng ta phải trả giá.


Chữ bị bỏ (ICôr 9:27) là một từ ngữ chuyên môn quen thuộc với những người am hiểu các bộ môn thể thao Hy-lạp. Nó có nghĩa “không được chấp thuận, bị loại”. Tại các cuộc thi đấu thể thao Hy-lạp, có một người đưa tin thông báo các qui luật của cuộc thi, tên người thi đấu, và tên cùng thành phố của các người thắng giải. Người ấy cũng thông báo tên của bất kỳ đấu thủ nào bị loại.


Phao-lô tự thấy mình vừa là “người đưa tin” vừa là “người chạy đua”. Ông lo lắng e vì quá bận rộn tìm cách giúp dỡ người khác trong cuộc chạy đua mà bỏ bê chính mình và thấy mình bị loại. Hơn nữa, đó không phải là vấn đề đánh mất sự cứu rỗi của cá nhân. (Vận động viên Hy-lạp bị loại không mất đi quyền công dân của mình, chỉ mất cơ hội đoạt giải thôi.) Điểm quan trọng hơn hết là ở chỗ phần thưởng, Phao-lô không muốn đánh mất phần thưởng.


Chỉ có một vận động viên chạy đua đoạt được vòng nguyệt quế trong Đại hội thể thao Hy-lạp, nhưng mọi Cơ-đốc nhân đều có thể đạt được mão miện không thể hư cũ khi đứng trước Toà Phán Xét của Chúa Giê-xu Christ. Mão miện này được ban cho những ai tự giữ mình vì ích lợi trong phục vụ Đấng Christ và đưa dắt linh hồn hư mất về cùng Chúa. Họ cầm giữ thân thể mình và cứ hướng mắt vào mục tiêu phía trước.


Trong những năm gần đây, các Cơ-đốc nhân truyền bá Phúc-Âm đã lại khám phá ra tầm quan trọng của việc kỷ luật bản thân và mối tương quan giữa một thân thể khép mình vào kỷ luật và một cuộc sống đầy dẫy Đức Thánh Linh.

Dĩ nhiên chúng ta phải tránh cực đoan. Một mặt, sự khổ tu có hại đến sức khoẻ và không có giá trị thuộc linh (Côl 2:18-23). Nhưng mặt khác có điều người ta nói đến đó là việc kiêng cử trong ăn uống, tập luyện, nghỉ ngơi và một đời sống quân bình được Thánh Linh trực tiếp điều hướng.

Chúng ta tự khen tặng mình không hút thuốc uống rượu, nhưng thế còn việc mê ăn và quá cân thì sao? Nhiều Cơ-đốc nhân không thể kỷ luật trong thì giờ của họ để có đời sống mẫu mực tận tuỵ hoặc theo học một chương trình nghiên cứu Kinh Thánh.


Phao-lô có một mục tiêu lớn trong cuộc đời: Làm sáng danh Chúa qua việc chinh phục tội nhân hư mất và gây dựng các thánh đồ. Để đạt được mục tiêu này, ông sẵn lòng trả bất cứ giá nào. Thậm chí ông sẵn lòng từ bỏ các quyền lợi riêng của mình! Ông hy sinh những cái có được trước mắt để được phần thưởng đời đời, những thú vui chóng qua để được sự vui thoả không phai tàn.


Nhà tuận đạo Jim Elliot nhận định thật đúng: “Ông ta không điên khi cho những gì ông không thể giữ để dành lấy những gì ông không thể đánh mất.”



 


9. HÃY KHÔN NGOAN VỀ THỨ TỰ TRONG HỘI THÁNH (ICôr 11:1-34)


Trong đoạn cuối phần này của lá thư Phao-lô đã phần nào gay gắt với Hội thánh ở một số điểm, nên ông mở đầu chương bằng lời khen tặng Hội thánh. Nói riêng có hai vấn đề đáng khen ngợi: Hội thánh nhớ đến Phao-lô và bày tỏ lòng cảm kích đối với ông, điểm thứ hai Hội thánh trung tín giữ các lời ông đã dạy họ.

Chữ lễ nghi có nghĩa “tập tục”, những lời dạy được truyền từ người này đến người khác (IITi 2:2). Chúng ta nên tránh những tập tục của con người (Mat 15:2-3; Côl 2:8), nhưng các giáo lý được truyền dạy trong Lời Đức Chúa Trời chúng ta phải tuân giữ lấy.


Một trong các nan đề lớn nhất của Hội thánh Cô-rinh-tô là tình trạng mất trật tự trong các buổi nhóm họp đông người. Một số phụ nữ cho rằng họ phải có tự do hơn; lộn xộn xảy ra trong lễ Tiệc Thánh; và lầm lẫn trong việc sử dụng các ân tứ thuộc linh. Hội thánh được dư dật ơn tứ thiêng liêng nhưng thiếu hụt trầm trọng các cử chỉ thiêng liêng.


Có thể Phao-lô tìm cách giải quyết những nan đề này bằng cách đưa ra các qui định thuộc quyền hạn chức vụ sứ đồ của mình, nhưng thay vào đó ông kiên nhẫn giải thích các nguyên tắc thuộc linh hỗ trợ cho những lời dạy dỗ ông đã gởi đến cho Hội thánh. Phao-lô xây dựng lập luận của mình trên Lời của Đức Chúa Trời.


Phao-lô giải quyết ba điều lầm lẫn trong sự nhóm họp thờ phượng của họ.

1. Việc cầu nguyện và nói tiên tri của phụ nữ (ICôr 11:3-16)

Đức tin Cơ-đốc mang lại tự do, hy vọng cho phụ nữ, trẻ em và người nô lệ. Đức tin ấy dạy rằng tất cả mọi người không kể chủng tộc hay giới tính đều bình đẳng trước Đấng Tạo Hóa, và hết thảy kẻ tin đến danh Chúa đều hiệp làm một trong Chúa Giê-xu Christ (Ga 3:28). Như chúng ta đã biết từ trước, có thể Hội thánh địa phương là nơi thông công duy nhất trong Đế quốc La-mã tiếp đón tất cả mọi người, không phân biệt quốc tịch, tầng lớp xã hội, giới tính, hoặc hoàn cảnh kinh tế.


Người ta có thể thấy sẽ có một số người lợi dụng sự tự do mới có tính cách thái quá. Một phong trào mới dấy lên lúc nào cũng chịu nhiều nghiệt ngã từ phiá người ủng hộ hơn là chống đối, và điều này đúng với người Cô-rinh-tô. Một số phụ nữ không chịu trùm đầu vì muốn phô trương “tự do” của họ trong các buổi nhóm thờ phượng.


Phao-lô không cấm phụ nữ cầu nguyện hay nói tiên tri. (Nói tiên tri không hoàn toàn giống như “giảng dạy” hoặc “giải nghĩa Kinh Thánh” của chúng ta. Một người có ơn nói tiên tri trình bày sứ điệp của Đức Chúa Trời khi Đức Thánh Linh trực tiếp bày tỏ cho người ấy. Người truyền đạo hiện nay nghiên cứu Lời Chúa và chuẩn bị sứ điệp của mình.)

Trong khi dường như Tân-ước không cho phép có trưởng lão nữ (ITi 3:2), thì các phụ nữ trong Hội thánh đầu tiên có ơn nói tiên tri đã được phép thực hiện điều đó. Họ cũng được phép cầu nguyện trong các buổi nhóm chung. Tuy nhiên, họ không được phép lấn lướt đàn ông (ITi 2:11-15) hoặc phê phán sứ điệp của các tiên tri khác (ICôr 14:27-35). Nếu có thắc mắc nào, họ phải hỏi chồng của mình (hoặc những người đàn ông khác) ngoài giờ nhóm của Hội thánh.


Xã hội phương đông vào thời đó rất ganh ghét phụ nữ. Ngoại trừ những gái điếm trong miếu thần, tất cả phụ nữ để tóc dài và trùm đầu lại giữa nơi đông người. (Phao-lô không dùng chữ cái lúp, nghĩa là mạng che mặt. Người phụ nữ mang một khăn choàng thường xuyên phủ trên đầu, và việc trùm đầu này tượng trưng cho sự thuận phục và đoan chính). Đừng nói gì đến cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, phụ nữ Cơ-đốc có mặt nơi buổi nhóm vừa táo tợn vưà bất kính nếu không trùm đầu.


Phao-lô tìm cách lập tại trật tự bằng việc nhắc nhở tín hữu Cô-rinh-tô nhớ rằng Đức Chúa Trời đã làm sự khác nhau giữa đờn ông và đờn bà, mỗi người đều có địa vị riêng trong quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Cũng có các phong tục phù hợp tượng trưng cho những quan hệ này và nhắc cho cả phái nam lẫn phái nữ nhớ đến vị trí đúng của mình trong chương trình của Thiên Chúa.

Phao-lô không nói, thậm chí không có một gợi ý nào cho thấy sự khác nhau có nghĩa là không bình đẳng hoặc thấp kém hơn. Nếu phải có sự bình an trong Hội thánh, ắt hẳn phải có trật tự;trật tự cần thiết liên quan đến thứ bậc. Tuy nhiên, thứ bậc và phẩm cách là hai điều khác nhau. Viên đại uý có cấp bậc cao hơn anh binh nhì, nhưng anh binh nhì có thể là người tốt hơn.

Thứ bậc trong Hội thánh được Đức Chúa Trời đặt nền tảng trên ba nguyên tắc cơ bản mà Phao-lô xem là hiển nhiên.


 Sự Cứu Chuộc (ICôr 11:3-7).

Có thứ bậc cố định của “vị trí làm đầu” trong Hội thánh: Đức Chúa Cha là đầu của Đấng Christ, Đấng Christ là đầu của đờn ông, và đờn ông là đầu của đờn bà. Một số người giải thích đầu có nghĩa là “nguyên gốc”, nghĩa là Đức Chúa Cha tạo dựng nên Đấng Christ - một điều chúng ta không thể chấp nhận được. Trong chức vụ cứu rỗi của Ngài, Đức Chúa Con phải tuân theo Đức Chúa Cha mặc dầu Ngài đồng đẳng với Đức Chúa Cha (Gi 10:30; Gi 14:28). Cũng một lẽ đó, phụ nữ phải phục tùng đàn ông cho dù trong Đấng Christ nàng bình đẳng với đàn ông (ICôr 3:21-23; Ga 3:28; Eph 5:21-33).


Hãy nhớ rằng Phao-lô đang viết về mối quan hệ trong phạm vi hội chúng địa phương, chớ không cho toàn thế giới rộng lớn. Đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời mà tại nhà riêng và nơi Hội thánh địa phương người đàn ông thực hành quyền làm đầu dưới uy quyền của Chúa Giê-xu Christ.


Sự kiện quan trọng ở chỗ: cả phụ nữ lẫn nam giới phải tôn kính Chúa bằng cách tôn trọng những biểu tượng của quyền hạn đứng đầu này - tóc và khăn trùm đầu. Bất cứ khi nào người phụ nữ cầu nguyện hoặc nói tiên tri trong hội chúng, người phải có đầu tóc dài và trùm đầu lại. Người đàn ông nên để tóc ngắn và không được trùm đầu bằng bất cứ vật gì. (Điều này sẽ là sự thay đổi đối với Phao-lô vì những người nam Do-thái sùng đạo luôn đội nón khi họ cầu nguyện.) Đàn ông tôn quý, Đầu của người (là Đấng Christ) bằng cách để đầu trần, trong lúc đó đàn bà tôn trọng người làm đầu của mình (đàn ông) bằng cách trùm đầu lại. Người nữ bày tỏ sự thuận phục đối với cả Đức Chúa Trời và người đàn ông.


Phụ nữ Cô-rinh-tô không trùm đầu trong buổi nhóm thực sự đã tự đặt mình vào địa vị thấp hèn của các kỵ nữ miếu thần. Kỵ nữ cắt tóc rất ngắn và không dùng khăn trùm đầu giữa hội chúng. Kiểu tóc và cung cách của họ thông báo cho người khác biết họ là gì và đang dâng những gì. Phao-lô viết, “Nếu chị em không trùm đầu, thì tại sao không cắt tóc đi?”


Trong luật pháp Do-thái, một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị người ta cho cắt ngắn tóc nàng (Dan 5:11-31). Phao-lô dùng hai chữ khác nhau trong (ICôr 11:5-6): cạo có nghĩa tất cả tóc trên đầu được cạo sạch; hớt có nghĩa “cắt ngắn”. Một trong hai điều cũng là nỗi nhục nhã đối với phụ nữ.


Cả đàn ông lẫn đàn bà đều được dựng nên theo ảnh tượng của Đức Chuá Trời để làm vinh hiển Đức Chúa Trời; nhưng vì người nữ được dựng nên từ người nam (Sa 2:18-25), nàng cũng là “sự vinh hiển của người nam”. Người nữ làm vinh hiển Đức Chúa Trời và đem sự vinh hiển đến cho người nam qua việc thuận phục thứ bậc của Đức Chúa Trời và trùm kín đầu nàng trong giờ thờ phượng của hội chúng. Do đó, Phao-lô kết hợp cả phong tục địa phương lẫn chân lý Kinh Thánh lại với nhau, điều này chỉ rõ điều kia.


Sự tạo dựng (Sa 11:8-12).

Chúng ta đã đề cập cách tóm tắt chân lý này. Thứ tự của Đức Chúa Trời dựa trên việc ngưòi nam được tạo dựng trước tiên (ITi 2:13), và nguời nữ được dựng nên vì người nam. Hơn nữa, ưu tiên không hàm chứa sự thấp kém hơn; vì Phao-lô viết rõ trong (ICôr 11:11-12) rằng có sự chung phần cũng như sự đứng đầu trong công cuộc sáng tạo của Đức Chúa Trời.

Người nam và người nữ là một thể thiêng liêng trong Chúa (Ga 3:28) và một người không thể không cần đến người khác. Ngoài ra, có thể người nữ ra từ người nam trong buổi sáng thế nhưng hiện nay chính người nam được sanh ra bởi người nữ. Người nam và người nữ thuộc về nhau và cần đến nhau.


Tại sao Phao-lô lưu ý đến các thiên sứ trong c.10?

Ông đang lập luận từ những sự kiện về công cuộc sáng tạo, và các thiên sứ là một phần trong công cuộc sáng tạo đó. Các thiên sứ cũng biết địa vị của họ và bày tỏ lòng suy tôn Đức Chúa Trời khi thờ lạy Ngài, vì họ che mặt (Es 6:2). Sau hết, ở mức độ đặc biệt nào đó, các thiên sứ cùng dự phần trong sự thờ phượng chung của Hội Thánh và học biết qua Hội thánh (Eph 3:10; IPhi 1:12). Sự thờ phượng chung là việc nghiêm túc, vì các thiên sứ đang hiện diện; và chúng ta phải cư xử như thể đang có mặt tại thiên đàng.


Lẽ tự nhiên (ICôr 11:13-15).

Nhìn chung, theo lẽ tự nhiên người nữ để tóc dài và người nam cắt tóc ngắn. Người La-mã, người Hy-lạp và người Do-thái (ngoại trừ người Na-xi-rê) thích làm theo phong tục này hơn. Trong Thánh Kinh không có nơi nào dạy chúng ta nên để tóc dài bao nhiêu.

Kinh Thánh chỉ nói rằng phải có sự khác biệt đáng kể giữa độ dài của tóc người nam và nữ để không xảy ra sự lầm lẫn về giới tính. (Nguyên tắc này phá bỏ cái gọi là những kiểu tóc “cả nam lẫn nữ"). Thật đáng xấu hổ cho một người đàn ông trông giống như phụ nữ hoặc phụ nữ giống như đàn ông.


Đầu tóc dài của phụ nữ là vinh hiển của người, vì nó được ban cho người “dường như khăn trùm đầu vậy” (dịch theo nghĩa đen). Nói cách khác, nếu tập quán địa phương không bắt buộc trùm đầu, đầu tóc dài của phụ nữ là vật che phủ đầu nàng.

Tôi không nghĩ Phao-lô có ý muốn tất cả phụ nữ ở mọi nền văn hoá phải mang khăn trùm đầu; nhưng ông mong mỏi họ dùng tóc dài của mình để che phủ đầu mình và biểu thị cho lòng thuận phục trật tự của Đức Chúa Trời. Đây là điều mọi phụ nữ có thể thực hiện.


Trong chức vụ tại nhiều nơi trên thế giới, tôi đã thấy nguyên tắc căn bản của quyền đứng đầu áp dụng cho mọi nền văn hoá; nhưng cách thể hiện từ nơi này đến nơi kia có khác nhau. Điều quan trọng đó là lòng thuận phục Chúa và hành động công khai vâng theo thứ bậc của Đức Chúa Trời.


2. Sự ích kỷ tại “Các Bữa Tiệc Thân Ái (ICôr 11:17-22)

Từ lúc buổi ban đầu của Hội thánh, các tín hữu có thói quen ăn chung bữa với nhau (Công 2:42,46). Đó là cơ hội thông công và chia sẻ với những người ít có đặc ân hơn. Điều rõ ràng là cao điểm của bữa ăn này là lễ Tiệc Thánh của Chúa. Họ gọi bữa ăn này là “Tiệc Thân Ái” vì điểm nhấn mạnh chính yếu là bày tỏ lòng yêu thương của các thánh đồ qua việc chia sớt bữa ăn cho nhau.


“Tiệc A-ga-pê” (Trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là “yêu thương") là một phần trong sự thờ phuợng tại Cô-rinh-tô, nhưng sự lạm dụng đã len lỏi vào. Kết quả các bữa tiệc thân ái đem lại sự nguy hại hơn là tốt đẹp cho Hội thánh. Trước hết có nhiều nhóm khác nhau trong Hội thánh và người ta ngồi ăn với “nhóm” của họ thay vì thông công với toàn thể Hội thánh. Trong lúc lên án thói vị kỷ này, Phao-lô có cái nhìn thật tích cực về những hậu quả: Ít ra Đức Chúa Trời cũng dùng điều này để cho thấy ai là Cơ-đốc nhân thật.


Một điểm sai trái khác là thói vị kỷ: Người giàu mang nhiều thức ăn cho riêng mình trong lúc các thành viên nghèo bị bỏ đói. Ý nghĩa ban đầu của “bữa tiệc A-ga-pê” là chia sẻ cho người khác trong tình yêu thương, nhưng người ta đã đánh mất ý tưởng tốt đẹp đó.

Thậm chí một số con cái Chúa còn say sưa nữa. Có khả năng “bữa tiệc thân ái” hằng tuần là bữa ăn tươm tất duy nhất mà các tín hữu nghèo khó đều đặn có được vì bị khinh miệt bởi các thành viên giàu có họ không những bị đói bụng nhưng lòng tự trọng còn bị thương tổn.


Dĩ nhiên, sự phân rẽ trong bữa ăn chỉ là bằng chứng của những nan đề sâu xa hơn trong Hội thánh. Tín hữu Cô-rinh-tô nghĩ rằng họ là những con cái Chúa trưởng thành, trong khi thực tế họ chỉ là những trẻ con non nớt. Phao-lô không gợi ý họ bỏ bữa tiệc nhưng tốt hơn họ giữ lại ý nghĩa đúng đắn của nó. “Hãy để người giàu ăn uống tại nhà riêng nếu họ đói. Khi bạn đối xử tệ với những người kém may mắn hơn, bạn đang xem thường Hội thánh!” Đáng lẽ ra “bữa tiệc thân ái” là dịp tiện để gây dựng, nhưng họ đã dùng bữa tiệc ấy làm cớ gây xấu hổ.


Tôi nhớ một biến cố tại buổi pic-nic của Trường Chúa Nhật lúc tôi còn thiếu niên. Người quản trò đưa ra trò chơi tiếp sức bao gồm nhiều người đấu lưng ném trứng cho nhau trong khi đi ngược chiều nhau càng lúc càng xa dần. Dĩ nhiên, đội hình càng đi xa nhau, người tham gia cuộc chơi càng phải ném trứng khó khăn hơn, kết quả rất vui nhộn.


Tuy nhiên, số ít chúng tôi để ý đến hai học sinh lớp Trường Chúa Nhật nhìn các quả trứng đầy thèm thuồng. Chúng xuất thân từ gia đình nghèo có thể hiếm khi được ăn trứng vì không có đủ tiền để mua.

Một bé gái chạy đến với người phụ nữ hướng dẫn trò chơi và hỏi, “Nếu có quả trứng nào còn lại, anh cháu và cháu có thể đem về nhà được không?” Một cách khôn ngoan, người phụ nữ ấy dừng trò chơi trước khi kết thúc, thưởng cho người thắng giải và trao tất cả số trứng cho hai em nhỏ. Bà ta biết rằng thật sai sót cho các thánh-đồ vui chơi đem lại tốn kém cho người khác.


Một bữa tiệc rượu không phải là cách tốt nhất để chuẩn bị cho bữa Tiệc Yêu Thương Của Chúa. Khinh miệt người khác chắc chắn không phải là cách nhớ đến Đấng Cứu chuộc đã chết thay cho tất cả tội nhân, cả giàu lẫn nghèo. Thật quan trọng làm sao khi chúng ta sửa soạn lòng mình lúc đến dự Tiệc Yêu Thương của Chúa!


3. Những lạm dụng tại bữa Tiệc Thánh (ICôr 11:23-34)

Các Hội thánh Tin Lành nhận ra hai mệnh lệnh Chúa Giê-xu Christ truyền cho con dân của Ngài noi theo: đó là phép báp-têm và lễ Tiệc Thánh. (lễ Tiệc Thánh cũng còn được gọi là lễ Hiệp Thông chép trong ICôr 10:16, và lễ Bẻ Bánh có nghĩa “sự tạ ơn").

Chúa Giê-xu Christ cầm chén và bánh - thành phần của một bữa ăn thông thường thời ấy - và biến nó thành một từng trải thuộc linh đầy đủ ý nghĩa cho các môn-đệ. Tuy nhiên, giá trị của kinh nghiệm tuỳ thuộc vào thái độ của tấm lòng người dự; và đây là nan đề tại Hội thánh Cô-rinh-tô.


Thật hết sức nghiêm trọng khi đến dự Tiệc Hiệp Thông với tấm lòng không chuẩn bị. Cũng là việc nguy hiểm khi nhận Tiệc Thánh cách không kỉnh kiềng. Vì tín hữu Cô-rinh-tô đang phạm tội trong việc cử hành lễ Tiệc Thánh, nên Đức Chúa Trời đã kỷ luật họ. “Ấy vì cớ đó mà trong anh em có nhiều kẻ tật nguyền, đau ốm và có lắm kẻ ngủ (đã chết)” (ICôr 11:30).


Lễ Tiệc Thánh cho chúng ta dịp tiện lớn lên trong đời sống tâm linh và nhận được ơn phước thuộc linh nếu chúng ta tham dự với thái độ đúng đắn. Thế thì chúng ta phải làm gì để lễ Tiệc Thánh mang lại phước hạnh chớ không phải quở phạt?


-Trước tiên, chúng ta nên nhìn lại (ICôr 11:23-26a).

Bánh bẻ ra nhắc chúng ta nhớ lại thân của Đấng Christ bị tan nát vì chúng ta; chén nhắc chúng ta nhớ đến huyết Ngài đã đổ ra. Đó là điểm nổi bật Chúa Giê-xu muốn kẻ theo Ngài nhớ đến sự chết của Ngài. Hầu hết chúng ta cố gắng quên cái chết của những người chúng ta yêu thương, nhưng Chúa Giê-xu muốn chúng ta nhớ sự chết của Ngài. Tại sao như vậy? Bởi vì mọi điều chúng ta có trong danh phận Cơ-đốc nhân đều nằm trong cái chết ấy.


Chúng ta phải nhớ rằng Ngài đã chết, vì đây là một phần trong sứ điệp của Phúc-Âm: “Đấng Christ đã chết..và đã bị chôn” (ICôr 15:3-4). Không phải cuộc sống của Chúa, hay lời giảng dạy cứu được tội nhân hư mất - bèn là sự chết của Ngài. Vì vậy, chúng ta cũng nhớ tại sao Ngài chịu chết: Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta; Ngài là Đấng gánh thay tội lỗi chúng ta (Es 53:6; IPhi 2:24), Ngài đã trả món nợ chúng ta không thể trả.


Chúng ta cũng nên nhớ cách Ngài chịu chết: khiêm nhường, phó mình, bày tỏ tình yêu của Ngài cho chúng ta (Rô 5:8). Ngài giao thân thể Ngài vào tay kẻ độc ác và mang trên thân thể Ngài mọi tội lỗi của thế gian.


Tuy nhiên, điều “ghi nhớ” này không chỉ là sự gợi nhớ về những biến cố trong lịch sử. Đó là một phần trong những thực tế thuộc linh. Tại bữa Tiệc Yêu Thương của Chúa chúng ta không đi quanh và chiêm ngưỡng một tượng đài. Chúng ta có sự tương giao với một Đấng Christ sống khi tấm lòng chúng ta mở ra bằng đức tin.


-Thứ hai, chúng ta nên nhìn về phía trước (Rô 11:26a). Chúng ta làm theo lễ Tiệc Thánh “cho đến lúc Ngài đến”. Sự trở lại của Chúa Giê-xu Christ là hy vọng phước hạnh của Hội thánh và cá nhân con cái Ngài. Chúa Giê-xu không chỉ chết vì tội chúng ta, Ngài còn sống lại và thăng thiên về Trời; và một ngày kia Ngài sẽ tái lâm để đưa chúng ta về trong nước vinh quang của Ngài trong thiên đàng. Ngày nay, chúng ta chưa biết hết tương lai; nhưng khi thấy Ngài, “chúng ta sẽ giống như Ngài” (IGi 3:2).


-Thứ ba, chúng ta nên nhìn lại lòng mình (IGi 11:27-28,31-32). Phao-lô không nói rằng chúng ta phải xứng đáng mới dự lễ Tiệc Thánh, nhưng ông chỉ nói rằng chúng ta phải tham dự một cách xứng đáng. Tại một lễ Hiệp Thông ở Tô Cách Lan Anh quốc, vị mục sư để ý có một phụ nữ trong hội chúng không chịu nhận bánh và chén từ tay các trưỡng lão, nhưng thay vào đó bà ngồi xuống và khóc.

Vị mục sư rời bàn Tiệc Thánh tiến đến bên bà và nói, “Hỡi bạn thân mến, hãy nhận lấy bánh và chén, điều này được làm ra cho kẻ có tội!”. Quả thật, đúng như vậy; nhưng tội nhân được cứu bởi ân điển của Đức Chúa Trời không được dự lễ Tiệc Thánh cách không xứng đáng.


Nếu chúng ta tham dự lễ Tiệc Thánh một cách xứng đáng, chúng ta phải xem xét lòng mình, lên án tội lỗi mình và xưng ra trước mặt Đức Chúa Trời. Dự lễ Tiệc Thánh với lòng còn mang đầy tội lỗi chưa được xưng ra là mắc tội với thân và huyết của Đấng Christ, vì đó là tội đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Nếu chúng ta không xét đoán tội lỗi của mình, thì Đức Chúa Trời sẽ xét đoán chúng ta và quở phạt chúng ta cho đến khi chúng ta chịu xưng ra và từ bỏ tội lỗi của mình.


Tín hữu Cô-rinh-tô lờ đi việc xét lòng của họ, nhưng họ là những chuyên gia xét đoán người khác. Khi Hội thánh nhóm họp chung với nhau, chúng ta nên cẩn thận đừng trở nên “Những thám tử tôn giáo” xem xét người khác, nhưng không biết được tội của mình. Nếu chúng ta ăn uống cách không xứng đáng, chúng ta ăn uống sự xét đoán (quở phạt) cho chính chúng ta, và đó không phải là điều nhẹ nhàng.


Quở phạt là cách đối xử yêu thương của Đức Chúa Trời đối với con trai con gái Ngài để khích lệ họ lớn lên (Hêb 12:1-11). Không phải là quan tòa tuyên án tội phạm, nhưng là người Cha yêu thương trách phạt những con cái bất tuân (và có thể cứng lòng nữa). Quở phạt chứng minh lòng yêu thương của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta, và nếu chúng ta cọng tác với Ngài, quở phạt có thể hoàn thiện sự sống của Đức Chúa Trời trong chúng ta.


Sau cùng, chúng ta nên nhìn chung quanh (Hêb 11:33-34). Chúng ta không nên nhìn quanh để phê phán anh em khác, nhưng để phân biệt thân Chúa (c. 29). Có thể điều này mang ý nghĩa song đôi: chúng ta nên phân biệt thân Chúa không những qua bánh, nhưng còn qua Hội thánh chung quanh chúng ta - vì Hội thánh là thân thể của Đấng Christ. “Vì chỉ có một cái bánh, chúng ta dầu nhiều cũng chỉ một thân thể” (ICôr 10:17). Lễ Tiệc Thánh phải là một minh chứng cho sự hiệp một của Hội thánh - nhưng tại Hội thánh Cô-rinh-tô có ít sự hiệp một. Thực ra, việc họ kỷ niệm Bữa Tiệc Yêu Thương của Chúa chỉ nói lên sự chia rẽ của họ.


Tiệc Thánh là bữa ăn gia đình, và Chủ của gia đình ao ước các con cái yêu thương lẫn nhau và chăm sóc cho nhau. Một con cái thật của Chúa không thể gần gũi với Chúa đồng thời lại chia rẽ với anh em của mình. Làm sao chúng ta có thể nhớ sự chết của Chúa mà không yêu thương lẫn nhau được? “Hỡi kẻ rất yêu dấu, nếu Đức Chúa Trời đã yêu chúng ta dường ấy, thì chúng ta cũng phải yêu nhau” (IGi 4:11).


Mọi người dự Tiệc Thánh đều phải là Cơ-đốc nhân thật. Một Cơ-đốc nhân thật cũng không nên dự tiệc thánh nếu lòng người ấy có điều sai phạm với Đức Chúa Trời và với anh em mình. Đây là lý do tại sao nhiều Hội thánh dành thời gian chuẩn bị tấm lòng trước khi dự tiệc thánh, kẻo e ai trong số người dự tiệc tự chuốc lấy sự quở phạt. Tôi nhớ lại một con cái Chúa trong Hội thánh nọ đến gặp tôi và tâm sự về nỗi thất bại cá nhân không những làm cho tinh thần anh ta đau đớn, nhưng còn bị người khác “bêu riếu” và trách mắng anh ta cùng Hội thánh.


Anh ta hỏi, “Tôi có thể làm gì để sửa chữa chữa sai phạm này?”, tôi tin rằng anh ta thật đã lên án tội lỗi và xưng ra. Tôi nhắc anh ta rằng tuần đến chúng tôi sẽ dự Tiệc Thánh, và gợi ý với anh ta hãy cầu xin Chúa hướng dẫn. Vào buổi tối lễ Tiệc Thánh, Tôi bắt đầu giờ nhóm như cách tôi đã làm trước đó.

Tôi hỏi, “Trong quý vị ở đây có ai có vấn đề gì muốn chia sẻ với Hội thánh?”, và người bạn đã ăn năn của tôi đứng dậy tiến về phía trước gặp tôi tại bàn Tiệc Thánh. Một cách yên lặng và ngắn gọn, anh ta thừa nhận rằng mình đã phạm tội và xin Hội thánh tha thứ. Chúng tôi cảm nhận một làn sóng yêu thương của Thánh Linh tuôn tràn trong hội chúng và mọi người bắt đầu khóc lớn. Tại buổi lễ Tiệc Thánh ấy, chúng tôi thật sự nhận biết thân của Chúa.


Lễ Hiệp thông không nên là thời giờ “mổ xẻ thuộc linh” và buồn bã, mặc dù sự xưng nhận tội lỗi là quan trọng. Nên là thời giờ cảm tạ và vui mừng mong được nhìn thấy Chúa! Chúa Giê-xu tạ ơn, mặc dù Ngài sắp chịu đau đớn và chết. Chúng ta cũng hãy dâng lời tạ ơn.



 


10. HÃY KHÔN NGOAN VỀ THÂN THỂ ĐẤNG CHRIST (ICôr 12:1-13:13)


Một trong những dấu hiệu của một đời sống trưởng thành đó là sự hiểu biết và đánh giá cao thân thể của mình. Có sự song song trong đời sống thuộc linh: Khi trưởng thành trong Đấng Christ, chúng ta có được hiểu biết tốt hơn về Hội thánh, thân thể của Đấng Christ. Trong những năm gần đây người ta coi trọng “sự sống thân thể” là điều tốt. Nó giúp chống lại tư tưởng sai lầm coi trọng “cách sống Cơ-đốc riêng tư” có thể dẫn đến sự cách ly khỏi Hội thánh.


Dĩ nhiên, hình ảnh “thân thể” không phải là hình ảnh duy nhất Phao-lô dùng trong việc tranh luận với Hội thánh, và chúng ta nên thận trọng đừng đưa nó đi quá xa. Hội thánh còn là một gia đình, một đội quân, môt đền thờ, và là cô dâu nữa;mỗi hình ảnh đều có những bài học dạy dỗ chúng ta.

Tuy nhiên, trong ba bức thư của Phao-lô, ông nhấn mạnh đến Hội thánh như là một thân thể; và trong mỗi phân đoạn này, ông đưa ra ba chân lý quan trọng giống nhau: sự hiệp một, sự ban cho khác nhau và sự trưởng thành.

-Sự hiệp một: ICôr 12:1-13; Rô 12:1-5; Eph 4:1-6.

-Sự ban cho khác nhau: ICôr 12:14-31; Rô 12:6-8; Eph 4:7-12.

-Sự trưởng thành: ICôr 13:1-13; Rô 12:9-21; Eph 4:13-16.


Không thể nào bàn luận về thân thể mà không bàn về chức vụ của Đức Thánh Linh. Chính Đức Thánh Linh sanh ra thân thể trong ngày lễ Ngũ Tuần và là Đấng thi hành chức vụ trong và qua thân thể. Thật đáng tiếc, con cái Chúa trong Hội thánh Cô-rinh-tô làm buồn lòng Đức Thánh Linh trong việc sử dụng các ơn tứ thuộc linh theo cách trần tục. Họ giống như trẻ con nghịch đồ chơi thay vì trở thành người lớn nắm giữ những dụng cụ có giá trị, họ cần phải trưởng thành.


1. Sự hiệp một: Ơn tứ của Thánh Linh (ICôr 12:1-13)

Vì có sự phân rẽ trong Hội thánh Cô-rinh-tô, Phao-lô bắt đầu bằng lời nhấn mạnh về sự hiệp một của Hội thánh. Người đưa ra bốn mối ràng buộc kỳ diệu trong sự hiệp một thiêng liêng.


Chúng ta xưng tội cùng một Chúa (ICôr 12:1-3).

Phao-lô đối chiếu nét tương phản giữa từng trải của họ trong khi còn cách xa không biết chân lý với kinh nghiệm hiện tại là Cơ-đốc nhân. Họ đã thờ lạy thần tượng hư không, nhưng bây giờ họ thuộc về Đức Chúa Trời hằng sống.

Hình tượng không bao giờ nói chuyện với họ, nhưng Đức Chúa Trời trò chuyện với họ qua Đức Thánh Linh, và Ngài cũng trò chuyện qua họ trong ơn tứ nói tiên tri. Khi còn ở tình trạng hư mất, họ thuộc dưới quyền sai khiến của ma quỷ (ICôr 10:20) và bị dẫn di lạc đường (“lầm lạc”, c.2). Nhưng bây giờ Thánh Linh của Đức Chúa Trời sống trong họ và điều hướng họ.


Chỉ bởi sự cảm động của Đức Thánh Linh con người mới có thể thật lòng thưa rằng, “Chúa Giê-xu là Chúa.” Một tội nhân nhạo báng có thể nói bằng lời nhưng không thật sự xưng nhận. (Có lẽ Phao-lô đang ám chỉ đến những điều họ đã nói khi bị ma quỉ ảnh hưởng trước khi trở lại đạo).

Thật là quan trọng khi biết rằng người tin Chúa luôn luôn tự chế khi Đức Thánh Linh đang hành động (ICôr 14:32) bởi vì Chúa Giê-xu Christ là Chúa đang tể trị. Bất cứ điều gì gọi là “hành động bày tỏ của Thánh Linh” mà cướp đi sự tự chủ khỏi con người đều chẳng thuộc về Đức Chúa Trời; vì “trái của Thánh Linh là...sự tiết độ” (Ga 5:22-23).


Nếu Chúa Giê-xu Christ thực sự là Chúa trong đời sống chúng ta, thì phải có sự hiệp một trong Hội thánh. Sự chia rẽ và bất hoà giữa vòng con dân Đức Chúa Trời chỉ làm suy yếu lời chứng về sự hiệp một của họ đối với thế gian hư mất (Gi 17:20-21).


Chúng ta tùy thuộc vào cùng một Đức Chúa Trời (ICôr 12:4-6).

Có một ý niệm chính về Ba Ngôi ở đây: “Một Thánh Linh...Một Chúa...Một Đức Chúa Trời”. Có thể cá nhân chúng ta có những ơn tứ khác nhau, chức vụ khác nhau, và cách làm việc khác nhau nhưng “vì chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài” (Phi 2:13). Nguồn của ơn tứ là Đức Chúa Trời; phạm vi điều hành ơn tứ đến từ Đức Chúa Trời. Vậy thì tại sao lại tôn vinh con người? Tại sao tranh cạnh nhau?


Chúng ta hầu việc cho cùng một thân thể (ICôr 12:7-11).

Ơn tứ được ban cho để làm ích lợi toàn Hội thánh. Chúng không dành cho niềm vui cá nhân, nhưng dành cho mọi người. Tín hữu Cô-rinh-tô đặc biệt cần đến lời nhắc nhở này, vì họ đang dùng các ân tứ thuộc linh cách vị kỷ nhằm tự tôn vinh mình và không làm phát triển Hội thánh. Khi nhận lãnh ân tứ với lòng khiêm nhường, chúng ta sẽ sử dụng những ân tứ ấy để thúc đẩy sự hòa thuận, và điều này gây dựng toàn Hội thánh.


Các ân tứ khác nhau được nêu ra trong chương ICôr 12:8-10 và (ICôr 12:28) và cũng được nhắc đến trong thư Rô 12:6-8 và Eph 4:11. Khi nối kết các bản liệt kê này lại với nhau, bạn sẽ có được 19 ân tứ và chức vụ khác nhau.

Vì bản liệt kê trong thư Rô-ma không nhất quán với bản liệt kê trong thư Cô-rinh-tô , cho nên chúng ta có thể cho rằng Phao-lô không giải thích tường tận chủ đề trong từng phân đoạn. Trong khi các ân tứ ghi lại trong Thánh Kinh phù hợp cho chức vụ của Hội thánh, thì Đức Chúa Trời không bị giới hạn đối với những ân tứ này. Ngài có thể ban cho những ân tứ khác khi Ngài đẹp lòng.


Chúng ta đã luận về chức vụ làm sứ-đồ (ICôr 9:1-6).

Tiên tri là người phát ngôn của Đức Chúa Trời nhận sứ điệp trực tiếp nơi Đức Chúa Trời thông qua Đức Thánh Linh. Chức vụ của họ là khuyên bảo, khích lệ, và yên ủi (ICôr 14:3). Những người nghe sẽ dò xét sứ điệp của họ để biết các sứ điệp ấy có thật sự đến từ Đức Chúa Trời không (ICôr 14:29; ITês 5:19-21).

Eph 4:11-12 cho thấy rõ rằng chức vụ sứ-đồ và tiên tri làm việc cùng nhau để lập nền Hội thánh, và có thể chúng ta cho rằng họ không còn cần đến nhau nữa một khi nền móng của Hội thánh đã hoàn tất.


Giáo sư (cũng gọi là thầy dạy đạo) hướng dẫn những người tin đạo hiểu biết lẽ đạo về nếp sống Cơ-đốc. Họ dùng lời Thánh Kinh và những lời dạy của sứ đồ để dạy dỗ. Không giống người nói tiên tri, họ không nhận sứ điệp trực tiếp nơi Đức Thánh Linh, mặc dầu Đức Thánh Linh vùa giúp họ trong việc giảng dạy. Gia 3:1 cho biết rằng đây là sự kêu gọi quan trọng.

Người giảng Phúc-Âm tập trung chia sẻ tin mừng cứu rỗi cho tội nhân hư mất. Mọi người hầu việc Chúa nên làm việc như người giảng Phúc-Âm (IITi 4:5) và chinh phục linh hồn tội nhân, nhưng có một số người được ơn kêu gọi đặc biệt cho công tác rao giảng.


Trong Hội thánh đầu tiên, phép lạ là một phần trong những phẩm chất của người hầu việc Đức Chúa Trời (Hêb 2:1-4). Thực ra, phép lạ, ơn chữa bệnh, và nói tiếng lạ tất cả thuộc về những điều mà các nhà giải kinh gọi là “Những ân tứ dấu lạ” và ở khía cạnh nào đó chúng thuộc về thời non trẻ của Hội thánh. Sách Công-vụ, cũng như lịch sử Hội thánh, cho thấy rằng các ân tứ mầu nhiệm đã hoàn tất.


Ơn giúp đỡ và lãnh đạo có liên quan đến sự phục vụ người khác và hướng dẫn Hội thánh. Không có lãnh đạo thuộc linh Hội thánh sẽ không vững vàng. Ơn tứ chức vụ (Rô 12:7) và cai trị thuộc về cùng một loại này. Trong ba nơi hầu việc Chúa của tôi, tôi biết ơn những người có ân tứ giúp đỡ và lãnh đạo.


Có một vài “ân tứ về lời nói”: nói tiếng lạ và thông giải tiếng lạ (chúng ta sẽ bàn thêm về vấn đề này ở chương sau), lời nói khôn ngoan và lời nói tri thức (khả năng hiểu và áp dụng chân lý của Đức Chúa Trời cho từng hoàn cảnh cụ thể), sự thúc giục (khích lệ, quở trách nếu cần thiết)


Ban cho và bày tỏ lòng thương xót liên quan đến việc chia sớt vật chất cho người có nhu cầu, cũng như giùm giúp các tôi tớ của Đức Chúa Trời trong chức vụ. Ân tứ đức tin có liên quan đến việc tin cậy Đức Chúa Trời về mọi điều Ngài muốn hoàn thành trong sứ mạng của Hội thánh mà Ngài dẫn dắt và chu cấp.

Ân tứ phân biệt các thần thật là quan trọng trong Hội thánh đầu tiên vì quỷ Sa-tan ra sức giả mạo công việc và lời của Đức Chúa Trời. Ngày nay, Đức Thánh Linh dùng lời Thánh Kinh đã được viết ra để chúng ta phân biệt (IGi 2:18-24; IGi 4:1-6). Vì không có tiên tri nào trong Hội thánh ngày nay, chúng ta không cần băn khoăn những tiên tri giả; nhưng chúng ta phải coi chừng các giáo sư giả (IIPhi 2:1).


Một số nhà nghiên cứu đã phân loại các ân tứ khác nhau như ân tứ nói, ân tứ dấu lạ, ân tứ phục vụ. Tuy nhiên, chúng ta không nên quá say sưa bởi các ân tứ cá nhân đến nỗi quên mất lý do chính yếu tại sao Phao-lô liệt kê chúng nhằm nhắc nhở chúng ta rằng các ân tứ hiệp một chúng ta lại trong các chức vụ đối với một thân.

Đức Thánh Linh ban tặng những ân tứ này “theo ý Ngài muốn” (ICôr 12:11), không như chúng ta muốn. Chẳng có Cơ-đốc nhân nào có quyền phàn nàn về những ân tứ của họ nhận được, cũng không tín hữu nào được kiêu ngạo về các ân tứ của họ.Chúng ta là nhiều chi thể trong một thân, phải chăm sóc lẫn nhau.


Chúng ta đã từng trải cùng một Phép Báp-têm (ICôr 12:12-13). Thật đáng tiếc thuật ngữ “báp-têm của Thánh Linh” đã bị tách rời ra khỏi nguyên nghĩa trong Tân-ước. Đức Chúa Trời đã phán với chúng ta bằng lời Thánh Linh ban cho mà chúng ta không được nhầm lẫn (ICôr 2:12-13).

Phép báp-têm của Thánh Linh xảy ra lúc trở lại đạo khi Đức Thánh Linh ngự vào lòng tội nhân tiếp nhận Chúa, ban cho người ấy đời sống mới, và khiến thân thể người ấy thành đền thờ của Đức Chúa Trời. Mọi tín hữu đều kinh nghiệm phép báp-tem này một-lần-đủ-cả (ICôr 12:13). Không có nơi nào trong Thánh Kinh đòi hỏi chúng ta tìm kiếm phép báp-têm này, vì chúng ta đã kinh nghiệm và không cần phải làm lại.


Sự “đầy dẫy Thánh Linh” (Eph 5:18) có liên quan đến quyền tể trị của Thánh Linh trong đời sống chúng ta. (Trong Kinh Thánh, được điều gì đầy dẫy có nghĩa “được điều đó điều khiển chi phối”). Chúa truyền lệnh chúng ta phải được đầy dẫy Thánh Linh, và chúng ta có thể nhận được nếu thành tâm tuân phục Đấng Christ và cầu xin Ngài đổ đầy Đức Thánh Linh.

Đây là một từng trải được lặp lại, vì chúng ta thường xuyên cần phải đầy dẫy năng quyền Thánh Linh nếu phải làm sáng danh Đấng Christ. Được báp-têm bởi Thánh Linh có nghĩa chúng ta thuộc về thân thể Đấng Christ. Được đầy dẫy Thánh Linh có nghĩa thân thể chúng ta thuộc về Đấng Christ.


Bằng chứng báp-tem của Thánh Linh lúc trở lại đạo là lời chứng có Thánh Linh ngự bên trong (Rô 8:14-16). Đó không phải là “nói tiếng lạ”. Tất cả tín hữu tại Hội Thánh Cô-rinh-tô đã được báp-tem bởi Thánh Linh, nhưng không phải tất cả họ đều nói tiếng lạ (ICôr 12:30).

Các bằng chứng của sự đầy dẫy Thánh Linh là: quyền năng làm chứng (Công 1:8), sự vui mừng và thuận phục (Eph 5:19), giống như Đấng Christ (Ga 5:22-26), và lớn lên trong sự thông biết lời Chúa (Gi 16:12-15).


Vì chúng ta nhận được ân tứ Thánh Linh lúc tin nhận Chúa, cho nên tất cả chúng ta là chi thể trong thân Đấng Christ. Chủng tộc, giai cấp xã hội, giàu sang, hoặc ngay cả giới tính (Ga 3:28) không phải là những thuận lợi cũng chẳng phải bất lợi khi chúng ta thờ phượng và hầu việc Chúa.


2. Các sự ban cho khác nhau: Các ân tứ Thánh Linh (ICôr 12:14-31)

Sự hiệp một không có các sự ban cho khác nhau sẽ sinh ra sự đồng nhất đơn điệu, và đồng nhất có khuynh hướng sinh ra sự chết. Sự sống là sự cân bằng giữa hiệp một và phong phú đa dạng. Khi thân thể con người chết đi, các ”hệ thống” của nó dừng lại và mọi bộ phận trở thành giống nhau. Dĩ nhiên, cuối cùng chính thân thể ấy trở thành tro bụi.


Điều này giúp lý giải tại sao một số Hội thánh (và các tổ chức Cơ-đốc khác) đã suy yếu và tàn lụi: không có đầy đủ sự phong phú đa dạng để khỏi làm cho sự hiệp một trở thành đơn điệu. Tiến sĩ Vance Havner đã diễn đạt điều đó, “Trước tiên có một con người, kế đến một phong trào, rồi máy móc và một đài kỷ niệm”. Nhiều chức vụ bắt đầu như sự phản kháng chống lại “chính thống chết” tự nó sẽ chết, vì trong nỗi khát khao gìn giữ sự trong sạch và sâu sắc của giáo lý, chúng dập tắt sức sáng tạo và những ý tưởng mới.


Tuy nhiên, nếu không kiểm soát các sự ban cho khác nhau, nó có thể hủy hoại sự hiệp một; và lúc đó bạn sẽ lâm vào cảnh rối loạn. Chúng ta sẽ tìm thấy trong chương 13 chính sự trưởng thành sẽ tạo thế cân bằng giữa sự thuần nhất và đa dạng. Mối căng thẳng trong thân thể Đấng Christ giữa các chi thể với toàn thân chỉ có thể giải quyết được bằng sự trưởng thành.


Dùng thân thể con người làm hình ảnh minh hoạ, Phao-lô giải thích ba sự kiện quan trọng về sự ban cho khác nhau trong thân thể Đấng Christ. Tại sao có nhiều chi thể khác nhau?


Thân thể cần nhiều chức năng khác nhau nếu nó sống động, phát triển và phục vụ (ICôr 12:14-20). Không nên có chi thể nào tự so sánh hoặc đối chiếu mình với bất kỳ chi thể nào khác, vì mỗi chi thể đều khác nhau và chi thể nào cũng quan trọng cả. Giả sử có thể tập đi bằng đôi tay, nhưng tôi thích dùng chân hơn, cho dù tôi chưa biết đánh máy hoặc ăn bằng chân. Lỗ tai không thể nhìn thâý và mắt không nghe được, tuy vậy mỗi cơ phận đều có nhiệm vụ quan trọng. Bạn có bao giờ cố tìm cách ngửi bằng lỗ tai chưa?


Ngày nay đối với một số người, họ có xu hướng thổi phồng các ân tứ “gây xúc động”. Một số tín hữu cảm thấy quá tội lỗi vì họ sở hữu các ân tứ mà không được mọi người chú ý. Phao-lô đã phản đối và bác bỏ thái độ ấy trong phân đoạn này. Các sự ban cho khác nhau không nói lên sự thấp kém hơn. Có phải chúng ta tin rằng Đấng Toàn Năng sai lầm khi Ngài ban cho các ân tứ?


Các bộ phận thúc đẩy sự liên kết khi thấy rằng chúng cần đến nhau (ICôr 12:21-26). Tính đa dạng trong thân thể là bằng chứng về sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Mỗi bộ phận đều cần đến các bộ phận khác, và không có bộ phận nào có thể sống độc lập được. Khi nào có bộ phận sống độc lập, lúc ấy bạn có nguy cơ dẫn đến bệnh tật và thậm chí tử vong nữa. Trong thân thể mạnh lành, các bộ phận khác nhau kết hợp và bù đắp cho nhau khi có vấn đề xảy ra. Ngay lúc một bộ phận nào đó nói với bộ phận khác, “Tôi không cần đến anh!” thì nó bắt đầu suy yếu và chết và gây rắc rối cho toàn thân thể.


Một truyền đạo nổi tiếng giảng dạy tại một hội đồng bồi linh mục sư truyền đạo, ông ta để thì giờ trước và sau giờ nhóm để bắt tay các vị mục sư và chuyện trò với họ.

Một người bạn hỏi ông ta, “Tại sao lại dành thời gian cho một nhóm người có thể ông chẳng bao giờ gặp lại?” Nhà truyền đạo nổi tiếng thế giới mỉm cười nói, “Ồ, tôi có thể ở chỗ tôi đang ở vì cớ họ! Dầu vậy, nếu tôi không cần họ lúc đi lên, có thể tôi cần họ trên đường đi xuống!” Chẳng có người hầu việc Chúa nào có thể nói với người khác rằng, "Chức vụ của tôi hanh thông mà không cần đến bạn! ”


Có thể Phao-lô muốn nói đến những bộ phận riêng biệt trong (ICôr 12:23-24). Nếu vậy, “tôn trọng hơn” ám chỉ đến việc sử dụng y phục đẹp mắt. Các bộ phận càng đẹp thì không cần phải săn sóc đặc biệt.


Lòng mong mỏi của Đức Chúa Trời là không có sự chia rẽ (“bất đồng”) trong Hội thánh. Tính đa dạng dẫn đến sự phân rẽ khi các chi thể tranh cạnh nhau; nhưng sự phong phú đa dạng dẫn đến hiệp một khi các chi thể lo tưởng đến nhau. Các chi thể lo tưởng đến nhau bằng cách nào? Bằng cách mỗi chi thể hoạt động theo ý chỉ của Đức Chúa Trời để giúp đỡ các chi thể khác cùng hoạt động. Nếu một chi thể đau, nó ảnh hưởng đến mọi chi thể. Nếu một chi thể khoẻ mạnh, nó giúp các chi thể khác mạnh theo.


Tính đa dạng của các chi thể làm ứng nghiệm ý muốn của Đức Chúa Trời trong thân thể (ICôr 12:27-31). Chính Đức Chúa Trời Đấng ban cho các ân tứ và giao chức vụ. Ngài có kế hoạch hoàn hảo, không những dành cho Hội thánh nói chung, nhưng còn dành cho từng Hội thánh địa phương. Chúng ta không có lý do nào tin rằng mỗi Hội thánh trong thời Tân-ước sở hữu tất cả mọi ân tứ. Hội thánh tại Cô-rinh-tô là Hội thánh được ban cho trổi hơn mọi việc (ICôr 1:4-7; IICôr 8:7). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời chỉ ban cho mỗi Hội thánh những ân tứ cần cho họ.


Trong đoạn này, Phao-lô cho biết có một “bản liệt kê ưu tiên” đối với các ân tứ, một số ân tứ có tầm quan trọng hơn các ân tứ khác. Nhưng điều này không mâu thuẫn với bài học đã nêu - đó là mỗi ân tứ đều quan trọng và từng cá nhân tín hữu đều quan trọng. Ngay cả trong cơ thể con người, có vài bộ phận có thể chúng ta không cần đến, cho dù nếu thiếu vắng chúng có thể đem lại bất lợi cho chúng ta không ít.


Dĩ nhiên các sứ-đồ và tiên-tri xuất hiện trước tiên trong bối cảnh này vì họ có nhiệm vụ thành lập Hội thánh (Eph 2:20). Thầy dạy đạo cần để giúp đỡ xây dựng đức tin cho tín hữu. Các ân tứ khác thỉnh thoảng cần để giúp đỡ cá nhân tín hữu và xây dựng Hội thánh.


Cách hỏi của người Hy-lạp trong (ICôr 12:29-30) đòi hỏi câu trả lời “Không” cho mỗi câu hỏi đặt ra. Không có cá nhân tín hữu nào sở hữu tất cả các ân tứ thuộc linh. Mỗi tín-hữu được Chúa giao ân tứ (hoặc nhiều ân tứ) lúc Ngài cần dùng đến.


Chữ đã dịch tốt nhất trong (ICôr 12:31) có nghĩa là “lớn hơn”. Một số ân tứ thuộc linh quan trọng hơn các ân tứ khác về ý nghĩa, Tín hữu khao khát các ân tứ này là điều chính đáng (ICôr 14:1). Phao-lô coi trọng giá trị của ân tứ nói tiên tri, nhưng người Cô-rinh-tô đề cao ân tứ tiếng lạ. Phao-lô đặt ân tứ nói tiếng lạ ở cuối bản liệt kê.


Sự hiệp một và các ân tứ của Thánh Linh phải được quân bình bởi sự trưởng thành, và sự trưởng thành đến bởi tình yêu thương. Có ân tứ của Thánh Linh và những ân tứ đến từ Thánh Linh chưa đủ. Chúng ta cũng phải có ân điển của Thánh Linh khi dùng các ân tứ phục vụ người khác.


3. Sự trưởng thành: Ân điển của Thánh Linh (ICôr 13:1-13)

Chính Jonathan Swift, nhà văn trào phúng viết nên tiểu thuyết Cuộc Du Hành của Gulliver nói, “Chúng ta chỉ có đủ tín ngưỡng khiến chúng ta ghen ghét nhưng chưa có đủ để khiến chúng ta yêu thương nhau” 

Các ân tứ thuộc linh cho dù có có hấp dẫn và lạ lùng như thế nào đi nữa cũng vô ích và còn nguy hại nếu chúng không được thực hiện bởi tình yêu thương. Trong cả ba phần “cốt lõi” của các bức thư Phao-lô viết, đều có nhấn mạnh đến tình yêu thương. Bằng chứng trưởng thành chính yếu trong đời sống Cơ-đốc là lớn lên trong tình yêu vì Đức Chúa Trời và vì con dân của Ngài, và lòng yêu thương linh hồn hư mất cũng vậy. Người ta nói rằng tình yêu thương là “hệ thống tuần hoàn” trong thân thể Đấng Christ.


Trong Kinh Thánh ít có chương nào bị hiểu sai lệch và áp dụng không đúng cho bằng ICôr 13:1-13. Tách chương này ra khỏi văn mạch của sách, nó trở thành một “thánh ca yêu thương” hoặc một bài giảng uỷ mị về tình anh em Cơ-đốc. Nhiều người không thấy rằng Phao-lô vẫn đang giải quyết những rắc rối của tín hữu Cô- rinh-tô khi viết những lời này: lạm dụng ân tứ tiếng lạ, phân rẽ Hội thánh, tranh cạnh ân tứ với người khác, ích kỷ, thiếu nhẫn nhục với nhau trong các giờ thờ phượng chung, và cách cư xử tối danh Chúa.


Phương pháp duy nhất chúng ta có thể sử dụng các ân tứ cách ích lợi đó là lúc các Cơ-đốc nhân dùng tình yêu thương khích lệ nhau. Phao-lô giải thích ba đặc tính của tình yêu thương Cơ-đốc cho thấy lý do tại sao tình yêu thương lại quan trọng trong đời sống chức vụ.


Tình yêu thương làm cho giàu có (ICôr 13:1-3).

Phao-lô kể ra năm ân tứ thuộc linh: tiếng lạ, tiên tri, thông biết, đức tin và ân tứ ban cho (hy sinh).

Ông khẳng định rằng nếu không có tình yêu thương thì việc thực hiện các ân tứ này cũng ra vô ích. Ân tứ tiếng lạ tách ra khỏi tình yêu thương chỉ là những tiếng động ồn ào! Chính tình yêu thương làm phong phú ân tứ và làm cho ân tứ có giá trị. Chức vụ không có tình yêu thương làm giảm giá trị cả người hầu việc lẫn người được tiếp xúc; nhưng chức vụ mặc lấy tình yêu thương làm cho toàn Hội thánh được phong phú. “Lấy lòng yêu thương nói ra lẽ chân thật” (Eph 4:15).


Cơ-đốc nhân được “Đức Chúa Trời dạy dỗ phải yêu thương nhau” (ITês 4:9). Đức Chúa Cha dạy chúng ta yêu thương bằng cách sai Con Ngài (IGi 4: 19), và Đức Chúa Con dạy chúng ta yêu thương bằng cách phó mạng sống Ngài và đòi hỏi chúng ta yêu thương lẫn nhau (Gi 13:34-35). Đức Thánh Linh dạy chúng ta yêu thương bằng cách tuôn đổ tình yêu thương của Đức Chúa Trời vào lòng chúng ta (Rô 5:5). Bài học quan trọng nhất trong trường đức tin là phải yêu thương nhau. Tình yêu thương làm giàu có mọi điều chạm đến nó.


Tình yêu thương gây dựng (ICôr 13:4-7).

“Sự hay biết sanh kiêu căng, còn sự yêu thương làm gương tốt” (gây dựng) (ICôr 8:1).

Mục đích của các ân tứ là gây dựng Hội thánh (ICôr 12:7; ICôr 14:3,5,12,17,26). Điều này có nghĩa chúng ta không được nghĩ về chính mình, nhưng nghĩ đến người khác; và vì vậy đòi hỏi phải có tình yêu thương.


Tín hữu Cô-rinh-tô không kiên nhẫn trong các giờ nhóm thờ phượng chung (ICôr 14:29-32), nhưng tình yêu thương sẽ làm họ nhẫn nhục. Họ đang tranh cạnh ân tứ của nhau, nhưng tình yêu thương cất đi sự ghen tỵ đó. Họ lên mình kiêu ngạo (ICôr 4:6,18-19; ICôr 5:2), nhưng tình yêu thương loại bỏ sự kiêu ngạo khoe khoang và thay vào bằng lòng khao khát làm ích lợi cho người khác. “Hãy lấy lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em, hãy lấy lẽ kính nhường nhau” (Rô 12:10).


Tại “bữa tiệc yêu thương” và lễ Tiệc Thánh, tín hữu Cô-rinh-tô cư xử một cách bất lịch sự. Nếu biết ý nghĩa của tình yêu thương thật, họ sẽ làm đẹp lòng Chúa. Họ còn kiện tụng nhau nữa! Nhưng tình yêu “chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ” (ICôr 13:5).

Nhóm từ “nghi ngờ sự dữ” có nghĩa “không giữ lại bất kỳ điều gì sai trái”.

Một trong những người đau khổ nhất tôi từng gặp là một tín hữu Cơ-đốc, ông ta cứ giữ trong cuốn sổ tay một danh sách những điều sai trái ông ta cảm nhận người khác đã phạm nghịch lại với mình. Tha thứ có nghĩa chúng ta làm sạch những điều người ta nghịch lại với mình và không bao giờ cầm giữ điều gì nghịch lại người khác (Eph 4:26,32).


Tình yêu thương không vui về điều ác, nhưng tín hữu Cô-rinh-tô đang khoe khoang về tội lỗi trong Hội thánh của họ (chương 5). Tình yêu thương “che đậy mọi tội lỗi” (IPhi 4:8). Giống như các con trai Nô-ê, chúng ta nên tìm cách che đậy tội lỗi người khác, và giúp họ làm điều đúng (Sa 9:20-23).


Hãy đọc (ICôr 13:4-7) thật cẩn thận và so sánh chúng với bông trái của Thánh Linh được liệt kê trong Ga 5:22-23. Bạn sẽ thấy rằng tất cả các đặc tính của tình yêu thương hiển hiện trong bông trái ấy. Đây là lý do tại sao tình yêu thương gây dựng: Tình yêu thương đem lại năng quyền Thánh Linh trong đời sống và Hội thánh chúng ta.


Tình yêu chịu đựng (ICôr 13:8-13).

Nói tiên tri, sự hiểu biết, và nói tiếng lạ không phải là những ân tứ lâu dài. (Hiểu biết không có nghĩa “giáo dục”, nhưng là sự truyền đạt tức thời chân lý thuộc linh đến cho tâm trí).

Ba ân tứ này đi chung với nhau: Đức Chúa Trời truyền đạt sự hiểu biết cho tiên tri, và người nói ra sứ điệp bằng tiếng lạ. Sau đó một người thông giải (đôi khi do chính người nói tiên tri) sẽ giải nghĩa sứ điệp âý. Đây là những ân tứ một số tín hữu Cô-rinh-tô quý trọng, nhất là ân tứ tiếng lạ.


Các ân tứ này sẽ yếu dần (bị hủy bỏ) và chấm dứt, nhưng tình yêu thương còn lại đời đời; vì “Đức Chúa Trời là tình yêu thương” (IGi 4:8,16). Tín hữu Cô-rinh-tô giống như con trẻ chơi đồ chơi một ngày nào đó sẽ biến mất. Người ta mong ước một đứa trẻ suy nghĩ, hiểu biết và nói như một đứa trẻ; nhưng cũng mong mỏi đứa bé lớn khôn và bắt đầu suy nghĩ nói năng như người lớn. Rồi có ngày nó phải “bỏ những sự thuộc về con trẻ” (ICôr 13:11).


Trong Kinh Thánh Tân-ước (lúc ấy chưa được trọn vẹn) chúng ta có sự mạc khải đầy trọn, nhưng sự hiểu biết của chúng ta về sự mạc khải ấy chưa trọn vẹn. (Ôn lại ICôr 8:1-3 nếu bạn nghĩ khác).

Có một quá trình tăng trưởng cho toàn Hội thánh chung (Eph 4:11-16) và cũng dành cho cá nhân tín hữu (ICôr 14:20; IIPhi 3:18). Chúng ta sẽ không trọn vẹn cho đến khi Chúa Giê-xu Christ trở lại, nhưng ngay bây giờ chúng ta phải lớn lên và trưởng thành.

Cuộc sống trẻ con thích những điều tạm bợ; nhưng cuộc sống người lớn thích những điều lâu bền. Tình yêu thương chịu đựng, và những gì nó sản sinh ra sẽ tồn tại mãi.


Hãy lưu ý cả ba ân huệ Cơ-đốc đều sẽ kéo dài, mặc dầu “đức tin sẽ thấy được và sự hy vọng sẽ được trọn”. Nhưng điều quan trọng nhất trong ba điều đó là tình yêu thương; vì khi bạn yêu người nào, bạn sẽ tin cậy người ấy và luôn luôn thấy rõ niềm vui mới. Đức tin, sự hi vọng và tình yêu thương đi chung với nhau, nhưng chính tình yêu thương truyền sinh lực cho đức tin và sự hy vọng.


Thật đáng tiếc, ngày nay một số ít điều nhấn mạnh về Đức Thánh Linh không phải là thánh (vì nó bỏ qua chân lý của Kinh Thánh) và không thuộc về thiêng liêng (vì nó kêu gọi bản tính xác thịt). Chúng ta không nên bảo các tín hữu khác phải có các ân tứ đáng có hoặc cách nào dể có được. Điều này nằm trong quyền tể trị của Đức Chúa Trời. Chúng ta không nên đánh gía thấp các ân tứ, nhưng cũng không nên làm ngơ các sự ban cho của Đức Thánh Linh. Trong chức vụ lưu hành của tôi, tôi tình cờ thấy các Hội thánh địa phương gặp phải quá nhiều rắc rối do những con người có lòng ghen tỵ về ân tứ gây ra, nhưng họ lại coi thường ân huệ của Đức Chúa Trời.


Hiệp một - sự ban cho khác nhau - sự trưởng thành; và sự trưởng thành có được bởi tình yêu thương.



 


11. HÃY KHÔN NGOAN VỀ CÁCH SỬ DỤNG ÂN TỨ THUỘC LINH (ICôr 14:1-40)


Phao-lô đã bàn luận về ân tứ Thánh Linh, các sự ban cho của Thánh Linh, và các chức vụ của Thánh Linh; bây giờ ông kết thúc phần này bằng cách giải thích sự tể trị của Đức Thánh Linh trong các giờ nhóm thờ phượng của Hội thánh. Đối với một ít tín hữu Hội thánh Cô-rinh-tô, có thể họ có xu hướng không làm chủ bản thân khi thực hành các ân tứ của mình, và Phao-lô phải nhắc nhở họ nhớ các nguyên tắc cơ bản chi phối các giờ thờ phượng của Hội thánh. Có ba nguyên tắc: Gây dựng, Hiểu biết, và Thứ tự.


1. Gây dựng (ICôr 14:1-5,26)

Đây là một trong những từ ngữ Phao-lô thích dùng, dĩ nhiên từ này được mượn từ lãnh vực kiến trúc. Gây dựng có nghĩa “xây lên”. Khái niệm này không xa lạ với hình ảnh “thân thể” của Hội thánh; ngay cả ngày nay, chúng ta cũng nói về “Những bài tập thể hình”. Có sự trùng lặp về hình ảnh ở đây, vì thân thể Đấng Christ cũng là đền thờ của Đức Chúa Trời hằng sống. Phao-lô chọn từ gây dựng là một việc làm khôn ngoan.


Tín hữu Cô-rinh-tô đang mắc phải sai lầm là coi trọng việc gây dựng cá nhân và bỏ bê Hội thánh. Họ muốn xây dựng cho chính mình, nhưng không muốn xây dựng cho anh em mình. Dĩ nhiên thái độ này không những làm đau lòng anh em tín hữu khác nhưng còn làm tổn thương các tín hữu đang thực hành việc gây dựng.

Dẫu sao, nếu chúng ta là các chi thể của cùng một thân, thì cách quan hệ với các chi thể khác cuối cùng cũng có ảnh hưởng đến cá nhân chúng ta. “Mắt không thể nói với tay rằng ta chẳng cần đến mầy” (ICôr 12:21). Nếu một chi thể trong thân suy yếu hoặc bị viêm nhiễm, nó sẽ ảnh hưởng đến các chi thể khác.


Phao-lô khám phá ra rằng Hội thánh đang bỏ qua lời tiên tri và đưa ra sự coi trọng sai lầm về tiếng lạ. Chúng ta không nên nghĩ về một tiên tri trong Tân-ước như là người tiên đoán tương lai, vì ngay cả các tiên tri trong Cựu-ước đã làm hơn thế. Tiên tri trực tiếp nhận sứ điệp của Đức Chúa Trời thông qua Đức Thánh Linh và truyền đạt sứ điệp ấy cho Hội thánh thường thường bằng tiếng lạ nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Nói tiên tri không giống như việc “rao giảng” trong thế giới ngày nay của chúng ta, vì các nhà truyền đạo ngày nay nghiên cứu Kinh Thánh và chuẩn bị sứ điệp của họ. Ngày nay không có nhà truyền đạo nào tuyên bố rằng ông ta vừa mới nhận được thần cảm của Đức Chúa Trời.


Phao-lô giải thích giá trị cao siêu của lời tiên tri truyền ra bằng tiếng lạ qua việc đối chiếu hai ân tứ.


Nói tiên tri với con người, tiếng lạ nói với Đức Chúa Trời (ICôr 14:1-3). Phao-lô khuyên, “Nếu bạn sốt sắng cho được ân tứ thuộc linh, ít nhất hãy khát khao các ân tứ tốt nhất”. Nói tiên tri là ân tứ tốt nhất vì nó gây dựng Hội thánh. Nó đem lại sự khích lệ và yên ủi cho người nghe - điều mà mọi người đều cần đến.


Thật đáng tiếc các dịch giả của chúng ta đã lồng chữ không biết vào trong (ICôr 14:2), vì Kinh Thánh Tân-ước không nói gì về một “ân tứ tiếng lạ không ai biết”. Từ buổi đầu thành lập Hội thánh, mọi người đều biết tiếng lạ là ngôn ngữ hiện hữu mà người nghe nhận ra (Công 2:4,6,8,11). Tiếng lạ không được người nói và kẻ nghe biết đến, nhưng nó không phải là ngôn ngữ không được biết đến trong thế gian (ICôr 14:10-11,21).


Cũng đáng tiếc nhiều người nghĩ rằng tiếng lạ được dùng để rao giảng Phúc-Âm cho người hư mất. Sự thật hoàn toàn ngược lại: Phao-lô e ngại việc tiếng lạ trong Hội thánh quá nhiều sẽ làm cho người chưa tin Chúa nghĩ rằng các Cơ-đốc nhân điên dại! (ICôr 14:23). Tại lễ Ngũ Tuần, các tín hữu ca tụng “Những công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời”, nhưng Phi-e-rơ rao giảng Phúc-Âm bằng tiếng A-ram và mọi người có thể hiểu được.


Con cái Chúa nói tiếng lạ là nói với Đức Chúa Trời, trong việc ngợi khen và thờ phượng Ngài; nhưng người nói tiên tri chia sẻ lời Kinh Thánh với Hội thánh và giúp ích những người nghe đến. Điều này dẫn đến đối chiếu thứ hai.


Nói tiên tri gây dựng Hội thánh, nói tiếng lạ chỉ gây dựng cho người nói (ICôr 14:4-5). Phao-lô không phủ nhận giá trị của tiếng lạ đối với người nói, nhưng ông đặt giá trị gây dựng Hội thánh cao hơn. “Người nói tiên tri là trọng hơn kẻ nói tiếng lạ” (ICôr 14:5).

Nếu tiếng lạ không được thông giải (ICôr 12:10,30), thì sứ điệp có thể làm hại Hội thánh. Phao-lô nói rõ người thông giải phải có mặt trước khi người ta có thể thực hiện ơn nói tiếng lạ (ICôr 14:28).


Hãy nhớ rằng các tín hữu Cô-rinh-tô không ngồi thờ phượng với Kinh Thánh trên tay. Kinh Thánh Tân-ước đang được viết và Các cuộn da Kinh Thánh Cựu-ước thì quá đắt và không có sẵn cho hầu hết tín hữu. Đức Chúa Trời phán trực tiếp với con dân của Ngài qua các tiên tri, và thỉnh thoảng sứ điệp được truyền đạt bằng tiếng lạ. Ba ân tứ thông biết, nói tiên tri và nói tiếng lạ làm việc chung với nhau để truyền chân lý đến cho người nghe. (ICôr 13:1-2,8-11).


Phao-lô nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giảng dạy giáo lý trong Hội thánh. Sự thờ phượng của chúng ta phải dựa trên chân lý, nếu không nó chỉ trở thành cảm xúc cuồng tín. Cơ-đốc nhân cần nên biết điều mình tin và tại sao tin. Tiên tri chia sẻ lời Chúa cho Hội thánh, và bằng cách đó gây dựng Hội thánh. Người nói tiếng lạ (nếu không có người thông giải) thì vui hưởng sự thờ phượng Đức Chúa Trời của mình, nhưng người không gây dựng Hội thánh.


Trong chức vụ của tôi, tôi đã chia sẻ tại nhiều buổi thờ phượng của Hội thánh địa phương và các hội nghị, lúc nào tôi cũng cố gắng truyền đạt chân lý Kinh Thánh đến với người nghe. Đôi khi âm nhạc không gây dựng, và lúc khác thì âm nhạc lại truyền đạt lời của Đức Chúa Trời cách quyền năng.

Là người hầu việc Chúa bất cứ lúc nào tất cả chúng ta cũng nhắm mục đích gây dựng Hội thánh và không trình diễn phô trương, thì Đức Chúa Trời ban ơn và mọi người đều được ích lợi. Một chức vụ không gây dựng sẽ phá đổ, cho dù có vẻ “thiêng liêng” như thế nào đi chăng nữa. Khi giải thích và áp dụng lời của Đức Chúa Trời cho đời sống cá nhân, chúng ta đang làm chức vụ gây dựng.


2. Hiểu biết (ICôr 14:6-25)

Người hầu việc Chúa chỉ truyền đạt thông tin đến người nghe thì chưa đủ; người nghe nhận nó và làm theo mới có ích. Hột giống gieo vào nơi đất tốt là hột giống ra trái, nhưng điều này có nghĩa phải có sự hiểu biết lời Đức Chúa Trời (Mat 13:23). Nếu người tin Chúa muốn được gây dựng, người ấy phải sửa soạn lòng mình để nhận lấy Lời Hằng sống (ITês 2:13). Không phải ai lắng nghe đều thực sự hiểu cả.


Một mục sư nổi tiếng của Hội thánh hội chúng, Tiến sĩ Joseph Parker, giảng dạy tại một buổi nhóm quan trọng và sau đó một người đàn ông đến gặp chỉ trích ông một lỗi nhỏ trong bài giảng.

Ông Parker kiên nhẫn lắng nghe lời chỉ trích, và trả lời, ”Và ông nhận được điều gì khác qua sứ điệp?”.

Lời nhận xét này làm nhụt chí người ấy và rồi anh ta biến mất trong đám đông. Chúng ta thường quá vội vã phê phán lời bài giảng thay vì để cho lời Đức Chúa Trời phê phán chúng ta.


Hình ảnh minh họa (ICôr 14:6-11).

Phao-lô dùng ba hình ảnh minh hoạ đơn giản để minh chứng cho quan điểm của ông nên có sự hiểu biết nếu phải làm chức vụ gây dựng thuộc linh: nhạc cụ, tiếng kèn xung trận, và việc đối thoại hằng ngày.


Nếu một nhạc cụ không phát tiếng rõ ràng và khác biệt, thì chẳng ai nhận ra bản nhạc đang chơi. Mọi người biết người ta cảm thấy khó chịu thế nào khi người biểu diễn hầu như chơi một nốt nhạc gần đúng vì nhạc cụ bị hỏng hoặc lạc dây.

Đàn đại phong cầm ống phải thường xuyên được lau chùi nếu không các lưỡi gà của đàn sẽ không phát ra tiếng chuẩn xác được. Một tối nọ tôi tham dự chương trình thờ phượng của Hội thánh, trong suốt chương trình cao độ của chiếc đàn dần dần thay đổi vì điều kiện không khí, và đến cuối giờ thờ phượng, chiếc đàn ống không thể hòa với đàn piano vì âm thanh nó hoàn toàn thay đổi.


Nếu người thổi kèn thúc quân không chắc anh ta thổi kèn “Lui binh!” hay “Xung trận”, thì bạn có thể chắc chắn không người lính nào biết phải làm điều gì. Một nửa họ sẽ tiến tới, trong khi một nửa còn lại sẽ rút lui! Lệnh gọi phải rõ ràng nếu muốn mọi người đều hiểu.


Nhưng điều này cũng đúng trong câu chuyện hằng ngày. Tôi nhớ lần đầu tiên vợ tôi và tôi viếng thăm Anh Quốc và đụng phải sự khác nhau của các tiếng địa phương tại đó. Chúng tôi hỏi một người đàn ông tốt bụng ở Luân đôn nhờ ông ta chỉ đường và quả tình chúng tôi hiểu được rất ít những điều ông ta nói. (Có lẽ ông ta cũng thấy khó khăn để hiểu chúng tôi! )


(ICôr 14:10) cho chúng ta lý do chắc chắn để tin rằng lúc Phao-lô viết về ân tứ tiếng lạ, ông muốn nói đến những ngôn ngữ mọi người đã biết và không đề cập đến ngôn ngữ “thiên đàng” nào đó.

Mỗi ngôn ngữ đều khác nhau nhưng mỗi ngôn ngữ đều có ý nghĩa riêng. Cho dù người phát ngôn có thành thật như thế nào chăng nữa, nếu tôi không hiểu tiếng nói của anh ta, anh ta không thể giao tiếp với tôi được.

Đối với người Hy-lạp, người dã man là người thấp kém nhất trong bậc thang xã hội hoặc dân tộc. Thực ra, bất kỳ ai không phải là người Hy-lạp đều bị xem là người dã man.


Người ta không thể hiểu được nhạc công, người thổi kèn thúc quân, và người nói chuyện hằng ngày nếu như sứ điệp của họ không được truyền đạt một cách đầy đủ ý nghĩa đến với người nghe. Đã dẫn chứng nguyên tắc hiểu biết, bây giờ Phao-lô ứng dụng nguyên tắc ấy cho ba người khác nhau.


Ứng dụng (ICôr 14:12-25).

Đầu tiên Phao-lô ứng dụng nguyên tắc hiểu biết cho chính người nói (ICôr 14:12-15). Một lần nữa ông nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ rằng trở thành một ơn phước cho Hội thánh tốt hơn kinh nghiệm “niềm vui thuộc linh” riêng tư nào đó.

Nếu con cái Chúa nói tiếng lạ, tâm thần của người ấy (con người bên trong) có thể dự phần trong kinh nghiệm, nhưng trí khôn của anh ta không thuộc về kinh nghiệm ấy. Không có gì sai khi cầu nguyện hoặc hát bằng “tâm thần”, nhưng tốt hơn nên bao gồm cả tâm trí và sự hiểu biết những điều bạn đang cầu nguyện và ngợi khen. (Lưu ý chữ tâm thần trong (ICôr 14:14-15) không liên quan đến Đức Thánh Linh, nhưng liên quan đến người bên trong như ở ICôr 2:11).

Nếu người nói được gây dựng, anh ta phải hiểu những gì mình đang nói.


Vậy người nói phải làm gì? Người ấy phải cầu xin Đức Chúa Trời để thông giải sứ điệp. Phao-lô cho rằng người thông giải nên có mặt (ICôr 14:27-28) hoặc chính người nói có ơn thông giải. Dĩ nhiên, tất cả sự bàn luận này nhằm nhấn mạnh một lần nữa sự cao trọng của ơn nói tiên tri hơn tiếng lạ: nói tiên tri không cần lời thông giải và do đó có thể làm một ơn phước cho mọi người.


Phao-lô ứng dụng nguyên tắc này cho các tín hữu khác trong Hội thánh (ICôr 14:16-20). Ông cho rằng họ lắng nghe sứ điệp và đáp lại sứ điệp ấy. Nhưng nếu không hiểu sứ điệp, làm thế nào họ có thể hưởng ứng? (Trong thời ấy nói A-men! trong Hội thánh không gây khó chịu cho người khác). Người “tầm thường” có thể là người mới tin Chúa, hoặc có thể là một thân hữu. Người ấy không thể được gây dựng nếu không hiểu những gì người khác nói.


Hơn nữa, đó là vấn đề thuộc về ưu tiên. Phao-lô không phản đối chức vụ nói tiếng lạ, nhưng ông cố gắng đặt nó vào một viễn cảnh đúng đắn. Vấn đề không phải là số lượng từ ngữ nhưng là chất lượng thông tin. Tín hữu Cô-rinh-tô hành động giống như trẻ con chơi đồ chơi. Khi đụng đến tội lỗi Phao-lô muốn họ nên như “trẻ thơ”; nhưng khi đụng đến sự hiểu biết thiêng liêng, ông muốn họ là người trưởng thành (ICôr 3:1-4; ICôr 13:11-13).


Một số người suy nghĩ rằng nói tiếng lạ là bằng chứng trưởng thành thuộc linh, nhưng Phao-lô dạy rằng có thể thực hành ân tứ cách không thiêng liêng và trẻ con.


Điều ứng dụng sau cùng nhằm đến người chưa được cứu tình cờ đi vào Hội thánh trong suốt giờ thờ phượng (ICôr 14:21-25). Ở đây Phao-lô đưa ra quan điểm khác nữa về ơn nói tiên tri cao trọng hơn tiếng lạ: sứ điệp nói bằng tiếng lạ (nếu không thông giải) chẳng bao giờ thuyết phục được tấm lòng tội nhân hư mất.

Thực ra, người chưa được cứu có khả năng rời khỏi giờ thờ phượng trước khi có lời thông giải nên họ nghĩ rằng toàn thể hội chúng điên khùng. Tiếng lạ không được dùng để rao truyền Phúc-Âm, hoặc tại lễ Ngũ Tuần hoặc tại các buổi nhóm lại của Hội thánh đầu tiên.


Tuy nhiên, nói tiếng lạ có “sứ điệp” cho người Do-thái chưa tin nói riêng: chúng là dấu hiệu phán xét của Đức Chúa Trời. Phao-lô trích dẫn Es 28:11-12, ám chỉ đến quân đội A-si-ri có tiếng nói “man rợ” dân Do-thái không hiểu.

Sự hiện diện của “tiếng lạ” này là bằng chứng đoán phạt của Đức Chúa Trời trên dân sự. Đức Chúa Trời thích nói với dân sự Ngài bằng ngôn ngữ rõ ràng họ có thể hiểu được, nhưng họ cứ phạm tội nên điều này không thể thực hiện được. Ngài đã phán với họ qua các sứ giả dùng tiếng nói của họ, và dân sự không chịu ăn năn. Bây giờ Ngài phải phán với họ bằng tiếng nước ngoài, và đây là sự đoán phạt.


Là một dân tộc, dân Do-thái luôn luôn tìm kiếm dấu lạ (Mat 12:38; ICôr 1:22). Tại lễ Ngũ Tuần, sự kiện các sứ đồ nói tiếng lạ là dấu lạ cho những người Do-thái vô tín đang dự lễ Vượt Qua tại đó. Phép lạ tiếng mới khơi dậy lòng ham thích của họ, nhưng nó không chạm đến lòng của họ. Chính bài giảng của Phi-e-rơ (bằng tiếng A-ram, thứ tiếng tất cả mọi người đều hiểu được) đem đến cho họ lòng tin và sự trở lại đạo.


Nguyên tắc gây dựng khích lệ chúng ta tập trung vào sự chia sẻ Lời Đức Chúa Trời để Hội thánh được mạnh mẽ và lớn lên. Nguyên tắc hiểu biết nhắc chúng ta nhớ rằng những gì chúng ta chia sẻ phải được mọi người hiểu nếu điều đó đem lại ích lợi. Sử dụng các ân tứ thuộc linh riêng tư có thể gây dựng cho cá nhân nhưng không gây dựng Hội thánh; và Phao-lô khuyên chúng ta “hãy quan tâm hơn đến việc gây dựng Hội thánh” (ICôr 14:12).

Nhưng chúng ta phải ứng dụng nguyên tắc thứ ba: nguyên tắc thứ tự.


3. Thứ tự (ICôr 14:26-40)

Hai mạch văn trong phần này phải đi đôi với nhau: “Hãy làm hết thảy cho được gây dựng” (c.26), và “Mọi sự đều nên làm cho phải phép và theo thứ tự” (c.40).

Khi người ta xây dựng một tòa nhà, ắt hẳn phải có kế hoạch, nếu không mọi thứ sẽ hổn độn. Tôi biết một Hội thánh gặp phải những rắc rối nghiêm trọng trong việc xây cất tư thất cho mục sư của họ, cho đến lúc một người phát hiện ra xưởng gỗ đã có một đồ án nhà khác với đồ án của nhà thầu. Vì vậy chẳng có gì kỳ lạ số vật tư chở đến công trường đều không vừa cho ngôi nhà!


Hội thánh Cô-rinh-tô đang mắc phải những nan đề đặc biệt về tình trạng mất trật tự trong các buổi nhóm họp (ICôr 11:17-23). Chẳng khó khăn gì để xác định lý do: họ đang dùng các ân tứ thuộc linh để làm vui lòng chính mình và không giúp đỡ anh em trong Chúa.

Chữ quan trọng không phải là gây dựng, nhưng là phô trương. Nếu bạn nghĩ rằng sự đóng góp của bạn vào chương trình thờ phượng là quan trọng hơn anh em khác, lúc ấy bạn sẽ không đủ kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi anh em ấy kết thúc hoặc bạn sẽ cắt ngang câu nói của anh ta. Thêm vào nan đề này là các rắc rối do “Những phụ nữ được tự do” trong Hội thánh gây ra, và bạn có thể hiểu tại sao Hội thánh trải qua sự lộn xộn cãi vả.


Câu 26 cho chúng ta bức tranh đẹp về sự thờ phượng trong Hội thánh đầu tiên. Mỗi người được mời tham gia vào buổi nhóm theo sự hướng dẫn của Chúa. Một người muốn hát Thơ thánh (Eph 5:19; Côl 3:16). Người khác được soi dẫn muốn chia sẻ một điều dạy dỗ. Có người nhận được mạc khải ban cho nói tiếng lạ và được thông giải. Cất bỏ thứ tự Đức Chúa Trời đã phán dạy, chẳng bao giờ có được sự gây dựng.


Bạn hãy chú ý những người nói tiếng lạ là người gây ra rắc rối nhiều nhất, vì vậy Phao-lô tập trung vào họ và đưa ra vài chỉ dẫn để Hội thánh tuân theo trong các giờ thờ phượng chung của họ.


-Trước tiên, nói tiếng lạ và thông giải cùng với việc suy xét (lượng giá sứ điệp) phải được thực hiện cách thứ tự (c.27-33). Không nên có trên ba người nói tiếng lạ tại bất cứ buổi thờ phượng nào, và mỗi sứ điệp phải được thông giải và định giá trong trật tự. Nếu không có người thông giải, người nói tiếng lạ phải giữ im lặng. Lời khuyến cáo của Phao-lô cho người Tê-sa-lô-ni-ca phù hợp cho sự dạy dỗ ở đây: “Chớ dập tắt Thánh Linh. Chớ khinh dể các lời tiên tri. Hãy xem xét mọi việc; điều chi lành thì giữ lấy” (ITês 5:19-21).


Tại sao phải suy xét sứ điệp? Để xác nhận xem người nói có thật sự nói ra lời Đức Chúa Trời bởi Thánh Linh hay không. Dưới sự chi phối của xúc cảm người nói có thể tưởng tượng rằng Đức Chúa Trời đang nói với mình và qua mình để truyền sứ điệp của Chúa đến cho người khác. Thậm chí quỷ Sa-tan cũng có thể giả mạo lời tiên tri (IICôr 11:13-14). Lúc ấy người nghe sẽ dùng Kinh Thánh Cựu-ước, những lời dạy của sứ-đồ, và sự hướng dẫn riêng tư của Đức Thánh Linh để kiểm tra ("phân biệt các thần”, ICôr 12:10).


Nếu trong khi một người đang nói tiếng lạ, thì Đức Chúa Trời mạc khải cho một người khác, người nói tiếng lạ phải yên lặng trong khi điều mạc khải mới mẻ được tỏ bày. Nếu Đức Chúa Trời làm chủ, không thể có tranh đua hoặc mâu thuẫn trong các sứ diệp. Tuy nhiên, nếu nhiều người khác nhau “nói” ra sứ điệp của mình, tất sẽ có lộn xộn và mâu thuẫn.


Khi Đức Thánh Linh là chủ, mọi người dầu khác nhau cũng có sự tiết độ; vì tiết độ là một bông trái Thánh Linh (Ga 5:23). Một lần nọ tôi chia sẻ tại một hội nghị với một diễn giả “quá tùy tiện”. Ông ta thường đi quá hạn định của mình từ 15 đến 20 phút, đương nhiên tôi phải rút ngắn nội dung chia sẻ của tôi vào phút cuối.

Ông ta xin lỗi tôi bằng câu nói: “Ông biết không, khi Đức Thánh Linh làm chủ, ông không lo lắng về thời gian!”

 Tôi trích dẫn ICôr 14:32 để trả lời: ”Tâm thần các đấng tiên tri suy phục các đấng tiên tri.”


Sự tiết độ của chúng ta là một trong những bằng chứng cho biết Đức Thánh Linh quả thật đang hành động trong giờ thờ phượng. Một trong các chức vụ của Đức Thánh Linh là sắp xếp sự hổn độn trở nên trật tự (Sa 1:1-31). Sự lộn xộn đến từ Sa-tan, chớ không từ Đức Chúa Trời (Gia 3:13-18). Khi Đức Thánh Linh hướng dẫn, những người tham dự có thể nói ra sứ điệp “hết người này đến người khác” để Hội thánh có thể nhận lãnh sự tác động trọn vẹn qua sứ điệp của Đức Chúa Trời.


Chúng ta áp dụng lời chỉ dẫn này như thế nào đối với Hội thánh ngày nay vì chúng ta không có các tiên tri trong Tân-ước nhưng có trọn bộ Thánh Kinh?


-Điều trước tiên, chúng ta phải dùng Lời của Đức Chúa Trời để kiểm tra mọi sứ điệp nghe đến, cầu xin Thánh Linh hướng dẫn chúng ta.

Trong thế gian có nhiều giáo sư giả và chúng ta phải coi chừng (IGi 4:1-6; IIPhi 2:1-22). Nhưng ngay cả những giáo sư và thầy giảng đạo chân thật cũng không biết hết mọi điều và thỉnh thoảng cũng phạm sai sót (ICôr 13:9,12; Gia 3:1). Mỗi người nghe phải đánh giá sứ điệp và ứng dụng bài học cho riêng lòng mình.


Các buổi thờ phượng chung của chúng ta trang trọng hơn các giờ thờ phượng của Hội thánh đầu tiên, vì vậy chúng ta không phải lo lắng về thứ tự trong giờ thờ phượng. Nhưng trong những giờ nhóm thân mật, chúng ta cần phải nhắc nhở nhau và giữ trật tự. Tôi nhớ đã dự một buổi nhóm làm chứng khi một phụ nũ đã dùng 40 phút nói về một kinh nghiệm chán ngấy và kết quả là bà ấy đã phá hỏng tinh thần của buổi nhóm.


Nhà truyền đạo D.L.Moody hướng dẫn một giờ thờ phượng, ông mời một người cầu nguyện. Tận dụng cơ hội, người đàn ông này cầu nguyện dài thật dài. Linh cảm rằng người cầu nguyện đang làm chết đi buổi nhóm thay vì cầu xin Chúa ban ơn cho giờ nhóm, Moody nói lớn, “Trong khi anh em chúng ta kết thúc lời cầu nguyện, xin Hội thánh cùng tôn vinh Chúa một thánh ca!” những người có trách nhiệm trong giờ thờ phượng cần phải sáng suốt - và can đảm.


-Thứ hai, trong giờ nhóm phụ nữ không có phép nói (ICôr 14:34-35). Phao-lô đã cho phép phụ nữ cầu nguyện và nói tiên tri (ICôr 11:5), vì vậy lời chỉ dẫn này phải áp dụng cho văn mạch gần nhất về việc đánh giá các sứ điệp tiên tri. Chúng ta thấy rõ trách nhiệm chính yếu để gìn giữ sự trong sáng của giáo lý trong Hội thánh đầu tiên đè nặng trên vai người đàn ông, các trưởng lão nói riêng (ITi 2:11- 12).


Bối cảnh của sự cấm đoán này cho thấy một số phụ nữ trong Hội thánh đang tạo ra nan đề bằng cách hạch hỏi và thậm chí có thể còn cãi cọ. Phao-lô nhắc đến những phụ nữ có gia đình phải thuận phục chồng của mình và nên nêu thắc mắc với chồng tại nhà riêng. (Chúng ta nghĩ rằng phụ nữ không có gia đình có thể hỏi thăm các trưởng lão hay những người nam khác trong gia đình). Buồn thay, ngày nay trong nhiều gia đình Cơ-đốc, chính người vợ phải giải đáp thắc mắc cho chồng vì người được dạy dỗ tốt hơn về lời của Chúa.


“Luật pháp” Phao-lô muốn nói đến trong câu 34 là gì? Có lẽ là trong Sa 3:16. (Chữ luật pháp là từ đồng nghĩa với Kinh Thánh Cựu-ước, nhất là năm sách đầu tiên). Trong chương 11, Phao-lô đã bàn về mối quan hệ giữa người nam và nữ trong Hội thánh, vì vậy không cần phải nói chi tiết ở đây.


-Thứ ba, những người tham dự phải coi chừng “Những mạc khải mới lạ” vượt xa khỏi Lời Đức Chúa Trời (ICôr 14:36-40). “Hãy theo Luật pháp và lời chứng! Nếu dân chẳng nói như vậy, chắc sẽ chẳng có rạng đông cho nó” (Es 8:20).

Hội thánh có Kinh Thánh Cựu-ước cũng như các lời dạy của sứ-đồ (IITi 2:2), và đây là tiêu chuẩn để đánh giá tất cả những mạc khải mới lạ. Ngày nay chúng ta có trọn bộ Kinh Thánh cũng như những lời giảng dạy tích luỹ hằng bao thế kỷ của lịch sử Hội thánh để giúp chúng ta phân biệt chân lý. Bài tín điều các sứ-đồ, tuy không được Chúa hà hơi nhưng nó cũng thể hiện thần học chính thống có thể hướng dẫn chúng ta.


Trong những câu này, Phao-lô trả lời cho các tín hữu trong Hội thánh nói rằng: “Chúng tôi không cần Phao-lô giúp đỡ! Đức Thánh Linh phán với chúng tôi. Chúng tôi nhận những mạc khải lạ lùng và mới mẻ từ Đức Chúa Trời!” Đây là thái độ nguy hiểm, vì đó là bước đầu tiên chối bỏ lời Đức Chúa Trời và chấp nhận những mạc khải giả dối, bao gồm những giáo lý của ma quỷ (ITi 4:1). Phao-lô đáp, “Lời Đức Chúa Trời không bắt nguồn từ Hội thánh của anh em! Vâng theo lời dạy của sứ đồ là một trong những dấu hiệu của một tiên tri thật”. Trong câu nói này, Phao-lô tuyên bố rằng những điều ông viết thực sự là Kinh Thánh đã được hà hơi, “mệnh lệnh của Chúa” (c.37).


Câu 38 không nói rằng Phao-lô muốn người ta cứ ở trong sự dốt nát, nếu vậy ông đã không viết thư này và trả lởi những câu hỏi của họ. Bản Kinh Thánh mới dịch là, “Nếu ai làm ngơ điều này (quyền sứ-đồ của Phao-lô), chính người ấy sẽ bị bỏ mặc (bởi Phao-lô và Hội thánh)”.

Sự thông công dựa trên Lời Kinh Thánh, những ai cố tình khước từ Lời Chúa sẽ tự động phá bỏ mối thông công (IGi 2:18-19).


Phao-lô tóm tắt những dạy dỗ chính yếu trong ICôr 14:39-40. Nói tiên tri quan trọng hơn nói tiếng lạ, nhưng Hội thánh không cấm đoán việc thực hành ân tứ tiếng lạ cách đúng đắn. Mục đích các ân tứ thuộc linh là gây dựng toàn thể Hội thánh, và do đó các ân tứ phải được thực hiện cách trật tự. Sự thờ phượng chung phải được tiến hành “cách đàng hoàng lịch sự”, tức là bằng vẻ đẹp, thứ tự, và nội dung cùng sự khích lệ thuộc linh.


Trước khi kết thúc chương này, có thể giúp ích cho chúng ta khi tóm tắt lại những điều Phao-lô viết về ân tứ tiếng lạ. Đó là khả năng Đức Chúa Trời ban cho nói một ngôn ngữ đã hiện hữu mà người nói trước đó chưa quen biết. Mục đích của tiếng lạ không chinh phục linh hồn người hư mất nhưng để gây dựng người đã được cứu. Không phải mọi tín hữu đều có ân tứ này, cũng không phải ân tứ này là bằng chứng thuộc linh hoặc kết quả của “báp-têm Thánh Linh”.


Bất cứ giờ thờ phượng nào cũng nên có tối đa là 3 người được phép nói tiếng lạ và họ phải nói trong trật tự và có thông giải. Nếu không có người thông giải, họ phải giữ yên lặng. Nói tiên tri là một ân tứ cao trọng, chúng ta không được coi thường những người nói tiếng lạ nếu họ nói theo lời dạy của Thánh Kinh.


Khi công việc đặt nền móng Hội thánh của các sứ-đồ và tiên tri kết thúc, dường như các ân tứ hiểu biết, nói tiên tri và tiếng lạ không còn cần thiết nữa. “Sự ban cho nói tiếng lạ sẽ thôi” (ICôr 13:8). Chắc chắn Đức Chúa Trời có thể ban cho ân tứ này trong ngày hôm nay nếu Ngài đẹp lòng, nhưng tôi không muốn tin rằng mọi trường hợp nói tiếng lạ đều được mặc lấy quyền năng từ trên cao. Tôi cũng không dám nói rằng tất cả các trường hợp nói tiếng lạ là thuộc về ma quỷ hay tự thai nghén.


Thật đáng tiếc khi tín hữu dùng tiếng lạ để kiểm nghiệm tình thông công anh em và sự tể trị của Thánh Linh. Tự nó cho tôi biết rằng Đức Thánh Linh không có hành động. Chúng ta hãy giữ đúng những điều ưu tiên và tập trung vào việc chinh phục linh hồn người hư mất và xây dựng Hội thánh.



 


12. HÃY KHÔN NGOAN VỀ SỰ SỐNG LẠI (ICo 15:1-58)


Cô-rinh-tô là thành phố của người Hy-lạp, và người Hy-lạp không tin vào sự sống lại của người chết. Lúc Phao-lô giảng đạo tại A-thên và công bố sự kiện Đấng Christ sống lại, một số thính giả thực sự chế nhạo ông (Công 17:32). Hầu hết các triết gia Hy-lạp đều xem thân thể con người là nhà tù, và họ đón chào cái chết như là sự giải thoát khỏi gông cùm của tù ngục.


Thái độ hoài nghi này đã xâm chiếm vào Hội thánh và Phao-lô phải trực tiếp đối mặt.Chân lý về sự sống lại có những ngụ ý thực tế và dạy dỗ đối với cuộc sống quan trọng đến nỗi chúng ta không thể bỏ qua. Phao-lô đưa ra bốn câu hỏi căn bản để giải quyết vấn đề này.


1. Người chết có sống lại không? (ICôr 15:1-19)

Đáng chú ý rằng tín hữu Cô-rinh-tô đã tin vào sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ; vì vậy Phao-lô bắt đầu lập luận của ông bằng chân lý cơ bản ấy. Ông đưa ra ba bằng chứng để bảo đảm cho độc giả của ông biết rằng Chúa Giê-xu Christ thật đã sống lại từ kẻ chết.


Bằng Chứng 1 - Sự Cứu Rỗi (ICôr 15:1-2).

Phao-lô đã đến giảng đạo Tin lành tại Cô- rinh-tô, và đức tin của họ đã biến đổi cuộc đời của họ. Phần không thể thiếu của Phúc-Âm chính là sự kiện Chúa Giê-xu Christ sống lại. Xét cho cùng thì một Đấng Cứu Thế chết thì không thể cứu rỗi được ai.

Độc giả của Phao-lô đã nhận lãnh lời Kinh Thánh, tin nhận Đấng Christ, được sự cứu rỗi, và bây giờ đang đứng trên lời Kinh Thánh làm bảo đảm cho sự cứu chuộc của mình.Việc họ đứng vững là bằng chứng cho thấy đức tin của họ là thật và không trống rỗng.


Bằng Chứng 2 - Kinh Thánh Cựu-ước (ICôr 15:3-4).

“Trước hết” có nghĩa là “điều quan trọng đầu tiên”. Phúc-Âm là sứ điệp quan trọng nhất Hội thánh từng rao giảng. Trong lúc thật là một điều tốt khi có liên quan đến các hoạt động xã hội và những việc làm cho nhân loại tốt đẹp hơn, thì không có lý do nào các chức vụ này phải giành ảnh hưởng trước Phúc-Âm.

“Đấng Christ chịu chết...Ngài bị chôn... Ngài sống lại...Ngài hiện ra” là những sự kiện lịch sử minh chứng cho sự trường tồn của Phúc-Âm (c.3-5). “Đấng Christ chịu chết vì tội lỗi chúng ta” là lời giải thích thuộc về thần học cho các sự kiện lịch sử. Nhiều người đã bị người La-mã đóng đinh, nhưng chỉ có một “nạn nhân” chết thay tội lỗi của thế gian.


Khi Phao-lô viết “theo lời Kinh Thánh” (c. 3), ông muốn ám chỉ đến Kinh Thánh Cựu-ước. Cách thức dâng con sinh tế nhiều lần trong Cựu-ước chỉ về sự hy sinh của Chúa Giê-xu Christ là con sinh tế chuộc tội lỗi chúng ta. Lễ Chuộc Tội hằng năm (Lê 16:1-34) và lời tiên tri như Es 53:1-12 cũng nhắc nhở về ý nghĩa này.


Nhưng Kinh Thánh Cựu-ước tuyên bố Ngài sống lại vào ngày thứ ba được chép ở đâu? Chúa Giê-xu đưa ra từng trải của Giô-na (Mat 12:38-41). Phao-lô cũng so sánh sự sống lại của Đấng Christ với “trái đầu mùa”, và trái đầu mùa được dâng cho Đức Chúa Trời vào ngày hôm sau ngày Sa-bát sau lễ Vượt Qua (Le 23:9-14 ICôr 15:23).

Vì ngày Sa-bát luôn luôn phải là ngày thứ bảy, cho nên ngày sau ngày Sa-bát là ngày thứ nhất trong tuần lễ, hoặc ngày Chúa nhật, ngày Chúa sống lại. Điều này bao gồm cả ba ngày trong lịch của Do-thái. Ngoài ngày lễ Đầu Mùa, còn có các lời tiên tri khác nói về sự sống lại của Đấng Mê-si-a trong Cựu-ước: Thi 16:8-11 (Công 2:25-28), Thi 22:22 (He 2:12), Es 53:10-12 Thi 2:7 (Công 13:32-33).


Bằng Chứng 3 - Đấng Christ Được Nhiều Chứng Nhân Xem Thấy (ICôr 15:5-11). Trên thập tự giá, Chúa Giê-xu được mọi mắt của những người không tin xem thấy; nhưng sau khi sống lại, Ngài hiện ra cho những người tin Ngài để có thể làm nhân chứng về sự sống lại của Ngài (Công 1:22; Công 2:32; Công 3:15; Công 5:32).

Phi-e-rơ thấy Ngài và nhiều môn-đệ cũng đồng loạt thấy Ngài sống lại. Gia-cơ là anh em cùng mẹ với Chúa Giê-xu trở thành môn-đệ Ngài sau khi Chúa hiện ra cho ông (Gi 7:5 Cong 1:14).

Cùng một lúc có trên 500 anh em xem thấy Ngài (ICôr 15:6), vì vậy việc Chúa Giê-xu sống lại không thể là ảo tưởng hoặc bịa đặt được. Sự kiện này có thể xảy ra trước lúc Ngài thăng thiên về Trời (Mat 28:16).


Nhưng một trong những nhân chứng quan trọng nhất là chính Phao-lô, vì lúc chưa tin ông chắc chắn Chúa Giê-xu đã chết. Sự biến dổi trọn vẹn trong cuộc đời ông - sự thay đổi đã mang đến cho ông sự bắt bớ và đau đớn - là bằng chứng chắc chắn Chúa Giê-xu quả thật đã từ kẻ chết sống lại.

Phao-lô tuyên bố rõ sự cứu rỗi của ông hoàn toàn bởi ân điển ban cho của Đức Chúa Trời; nhưng ân điển ấy hành động trong ông và qua ông khi ông phục vụ Chúa. “Sinh non” có thể ám chỉ đến sự cứu rỗi của dân Y-sơ-ra-ên trong tương lai khi họ nhìn thấy Đấng Mê-si-a trong vinh quang, giống như Phao-lô (Xa 12:10-13:6; ITi 1:16).


Ở điểm này, độc giả của Phao-lô sẽ nói, ”Vâng, chúng tôi đồng ý rằng Chúa Giê-xu đã sống lại từ kẻ chết”. Lúc ấy Phao-lô sẽ đáp, “Nếu anh em tin điều đó, vậy thì anh em phải tin vào sự sống lại của người chết!” 

Đấng Christ đến thế gian làm người, một con người thật sự, Ngài nếm trải tất cả mọi điều như chúng ta, ngoại trừ Ngài không hề phạm tội. Nếu không có sự sống lại, Đấng Christ đã không sống lại. Nếu Ngài không sống lại, không có Phúc-Âm để rao giảng. Nếu không có Phúc-Âm, thì niềm tin anh em ra vô ích và anh em vẫn còn trong tội lỗi! Nếu không có sự sống lại, những người tin đã chết không có hy vọng gì. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp lại họ!


Lời kết luận thật rõ ràng: Tại sao phải làm Cơ-đốc nhân nếu chúng ta chỉ có đau khổ trong đời này và không có sự vinh hiển trong tương lai để mong đợi? (Trong (ICôr 15:29-34), Phao-lô khai triển thêm ý tưởng này). Sự sống lại không chỉ quan trọng; nó là “sự quan trọng hàng đầu”, vì mọi điều chúng ta tin đều nằm trong điều ấy.


2. Khi nào người chết sống lại? (ICôr 15:20-28)

Phao-lô dùng ba hình ảnh để trả lời cho câu hỏi này.

Trái đầu mùa (ICôr 15:20,23).

Chúng ta đã biết điều này ám chỉ đến lễ Đầu Mùa trong Cựu-ước (Le 23:9-14).

-Là chiên Con của Đức Chúa Trời, Chúa Giê-xu chịu chết vào ngày lễ Vượt Qua.

-Là Trái Đầu Mùa, Ngài sống lại từ kẻ chết ba ngày sau đó vào ngày thứ nhất trong tuần lễ. Lúc thầy tế lễ dâng của lễ đầu mùa đưa qua đưa lại trước mặt Đức Chúa Trời, đó là dấu hiệu cho biết toàn mùa gặt thuộc về Ngài.

Khi Chúa Giê-xu từ kẻ chết sống lại, Đức Chúa Trời bảo đảm cho chúng ta biết rằng một ngày kia chúng ta sẽ được sống lại như là một phần trong mùa gặt tương lai. Đối với người tin Chúa, sự chết là một “giấc ngủ”. Thân thể ngủ nghỉ, nhưng linh hồn ở trong nhà đời đời với Chúa (Phi 1:21-23; IICôr 5:1-8). Lúc sống lại, thân thể sẽ được “đánh thức dậy” và được biến hoá.


A-đam (ICôr 15:21-23).

Phao-lô nhìn thấy trong A-đam một mẫu người của Chúa Giê-xu Christ qua cách đối chiếu. (Rô 5:12-21). A-đam đầu tiên được dựng nên từ bụi đất, nhưng A-đam sau cùng (Đấng Christ, ICôr 15:45-47) đến từ trời. A-đam đầu tiên không vâng lời Đức Chúa Trời và mang tội lỗi cùng sự chết vào trong thế gian, nhưng A-đam sau cùng vâng phục Cha Ngài đem lại sự công bình và sự sống đời đời.


Chữ thứ tự trong ICôr 15:23 nguyên nghĩa ám chỉ đến cấp bậc trong quân đội. Đức Chúa Trời có một trật tự, một chước phối hợp trong sự sống lại. Các phân đoạn như Gi 5:25-29 và Kh 20:1-15 cho thấy rằng không có điều nào như là “sự sống lại chung chung” được dạy dỗ trong Kinh Thánh.

Khi Chúa Giê-xu tái lâm tại nơi không trung, Ngài sẽ cất Hội thánh Ngài lên trời và lúc ấy Ngài sẽ khiến sống lại tất cả những người đã tin nhận Ngài và chết trong đức tin (ITês 4:13-18). Chúa Giê-xu gọi đây là “sự sống lại của sự sống” (Gi 5:29).

Khi Chúa Giê-xu trở lại trần gian để phán xét, lúc ấy những người hư mất sẽ “sống lại để chịu hình phạt” (Gi 5:29; Kh 20:11-15). Không ai trong sự sống lại thứ nhất bị hư mất, nhưng chẳng có ai trong sự sống lại thứ hai được cứu cả.


Nước Trời (ICôr 15:24-28).

Lúc Chúa Giê-xu Christ đến thế gian để phán xét, Ngài sẽ khai trừ tội lỗi trong một ngàn năm và thiết lập vương quốc của Ngài (Kh 20:1-6). Người tin Ngài sẽ trị vì với Ngài và đồng hưởng sự vinh hiển và oai quyền của Ngài. Như đã được lời tiên tri đề cập trong Cựu-ước, vương quốc này được gọi là “Thiên hy niên (the millennium)”. Từ ngữ này xuất xứ từ tiếng La-tinh: Thiên (mille) - nghĩa là ngàn, niên (annum) - nghĩa là năm.


Nhưng sau thiên hy niên, sẽ có sự nổi loạn sau chót chống lại Đức Chúa Trời (Kh 20:7-10) và Chúa Giê-xu Christ sẽ dùng quyền của Ngài để phá diệt. Những kẻ không tin lúc ấy sẽ sống lại, chịu phán xét và bị quăng vào trong hồ lửa. Lúc ấy chính sự chết cũng bị quăng vào trong hoả ngục, và kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giê-xu Christ sẽ đặt mọi vật dưới chân Ngài! Ngài sẽ giao Nước Ngài vào tay Cha Ngài và Nước đời đời - Trời mới và đất mới - sẽ được mở ra (Kh 21:1-22:21).


Những nhà nghiên cứu Kinh Thánh giỏi và yêu mến Chúa luôn luôn không đồng ý về các chi tiết trong kế hoạch được báo trước của Đức Chúa Trời, nhưng các chân lý chính yếu dường như rõ ràng. Ngày nay Chúa Giê-xu Christ đang trị vì trên Trời, và mọi quyền thế đều “ở dưới chân Ngài” (Thi 110:1-7; Eph 1:15-23).

Quỷ Sa-tan và loài người vẫn có thể chọn lựa, nhưng Đức Chúa Trời đang cầm quyền tể trị. Hiện nay Chúa Giê-xu Christ ngự trên ngôi Ngài tại trên Trời (Thi 2:1-12). Sự sống lại của người đã được cứu chưa xảy ra, sự sống lại của người hư mất cũng vậy (IITi 2:17-18).


Khi nào Chúa Giê-xu Christ sẽ trở lại để tiếp rước Hội thánh Ngài? Chẳng có người nào biết được; nhưng khi điều ấy xảy đến, sẽ “trong giây lát, trong nháy mắt” (ICôr 15:52). Chúng ta phải có phận sự chuẩn bị sẵn sàng (IGi 2:28-3:3).


3. Tại sao người chết được sống lại? (ICôr 15:29-34,49-58)

Sự sống lại của thân thể con người là một sự kiện trong tương lai có ngụ ý quan trọng đối với cuộc sống cá nhân của chúng ta. Nếu sự sống lại không có thật, chúng ta có thể quên ngày mai và cứ sống như chúng ta muốn! Nhưng sự sống lại là thật! Chúa Giê-xu sắp trở lại! Cho dù chúng ta chết trước lúc Ngài đến, chúng ta sẽ sống lại lúc Ngài hiện ra và đứng trước mặt Ngài trong thân thể vinh hiển.


Phao-lô dẫn chứng bốn khía cạnh trong kinh nghiệm Cơ-đốc nhân mà sự kiện sống lại tác dụng đến.


 Rao giảng Phúc-Âm (ICôr 15:29).

“báp-têm cho người chết” có nghĩa là gì? Một số người cho rằng điều này có nghĩa “báp-têm thay thế”, ở đó người tin Chúa được báp-têm nhân danh người bà con đã chết; nhưng trong Kinh Thánh Tân-ước chúng ta không tìm thấy có lời dạy dỗ nào như vậy. Vào thế kỷ thứ hai, có vài nhóm theo phái dị giáo đã thực hành “báp-têm thay cho người khác”, nhưng Hội thánh chung không bao giờ công nhận cách thực hiện ấy. Trước tiên, sự cứu rỗi là vấn đề riêng tư mà mỗi người phải quyết định cho riêng mình; và thứ hai, không người nào cần phải nhận báp-têm để được cứu.


Nhóm từ này có thể mang nghĩa “Được báp-têm để thay thế cho những người đã chết”. Nói cách khác, nếu không có sự sống lại, tại sao lại chịu khó làm chứng và chinh phục người khác về cho Đấng Christ? Tại sao lại đến với tội nhân để làm báp-tem cho họ và thay vào chỗ những người đã chết? Nếu sự sống Cơ-đốc là một “ngõ cụt”, hãy vứt bỏ đi!


Mỗi con người có trách nhiệm trên thế gian sẽ có phần hoặc trong sự sống lại của sự sống và đi vào thiên đàng - hoặc sống lại đoán phạt và đi vào địa ngục (Gi 5:28-29). Chúng ta khóc thương cho những tín hữu đã chết, nhưng chúng ta cũng phải khóc thương cho những người chưa tin nhận Chúa có cơ hội được cứu! Sự sống lại có thật là điều khích lệ cho việc rao giảng Phúc-Âm.


Đau khổ (ICôr 15:30-32).

Tôi chết hằng ngày không có ý nói đến “chết bản ngã” như trong Rô 6:1-14, nhưng nói đến nỗi hiểm nguy thể xác Phao-lô đối diện trong chức vụ hầu việc Đấng Christ (IICôr 4:8-5:10; 11:23-28). Ông thường xuyên ở trong cảnh nguy hiểm từ phía kẻ thù và hơn một lần suýt chết. Tại sao phải chịu đau khổ và hiểm nguy nếu cái chết chấm dứt tất cả? ”Hãy ăn uống đi vì ngày mai chúng ta sẽ chết” (Es 22:13).


Những gì chúng ta làm ra trong thân thể đời này sẽ lộ ra trong ngày phán xét của Chúa Giê-xu Christ (IICôr 5:10). Đức Chúa Trời chăm lo đến toàn vẹn con người không chỉ riêng “linh hồn”.


Thân thể có phần trong sự cứu rỗi (Rô 8:18-23).

Thân thể chịu đau đớn sẽ mang lại kết quả vinh hiển lúc sống lại (IICôr 4:7-18). Nếu không có tương lai cho thân thể, vì cớ gì lại chịu khổ và chết vì công việc của Đấng Christ?


Phân rẽ khỏi tội lỗi (ICôr 15:33-34).

Nếu không có sự sống lại, thì những gì chúng ta làm cho thân thể sẽ không có liên quan gì đến tương lai chúng ta.

Đồi bại là cách sống tại Cô-rinh-tô, và một số tín hữu khước từ sự sống lại để thích nghi với tội lỗi của mình. “Đồng bạn với tội lỗi làm suy đồi giá trị đạo đức” là lời trích dẫn trong bài thơ Hy-lạp Menander, một câu nói có thể quen thuộc với các độc giả của Phao-lô.

Thân thể con cái Chúa là đền thờ của Đức Chúa Trời và không được chung đụng với tội lỗi của thế gian (IICôr 6:14-7:1). Giao thông với “Những sự vô ích tối tăm” (Eph 5:6-17) chỉ làm hại đền thờ của Đức Chúa Trời.


Đã đến lúc người Cô-rinh-tô phải thức dậy và làm sạch lòng mình (ITês 5:4-11). Tín hữu đang sống thoả hiệp với tội lỗi không làm chứng tốt cho người hư mất chung quanh mình, những người “không có sự hiểu biết Đức Chúa Trời”. Thật đáng hổ thẹn cho những ai sống ích kỷ trong tội lỗi trong khi vô số người đi vào sự chết mà không biết Đấng Christ!


Sự chết (ICôr 15:49-57).

Nước thiên đàng không dành cho thân thể chúng ta có hiện nay, thân thể gồm thịt và huyết. Vì vậy lúc Chúa Giê-xu trở lại, thân thể của người tin Chúa còn sống sẽ tức khắc được biến hoá giống như Ngài (IGi 3:1-3), và những người chết sẽ sống lại trong thân thể mới vinh hiển. Thân thể mới của chúng ta sẽ không chịu sự hư nát và chết chóc nữa.


Triết gia Sigmund Freud, nhà sáng lập khoa tâm thần học, viết: ”Cuối cùng có sự bí ẩn đau đớn của cái chết, vì chưa tìm được phương thuốc chữa trị, có lẽ cũng sẽ chẳng hề có”. Cơ-đốc nhân đắc thắng trong sự chết và vượt trên sự chết! Tại sao như vậy? Bởi vì Chúa Giê-xu Christ đã đắc thắng sự chết trong sự sống lại của Ngài. Chúa Giê-xu phán: “Vì Ta sống, các ngươi cũng sẽ sống” (Gi 14:29).


Tội lỗi, sự chết, và luật pháp đi chung với nhau. Luật pháp phơi bày tội lỗi, và “tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô 6:23). Chúa Giê-xu gánh thay tội lỗi chúng ta trên thập tự giá (IPhi 2:24), và cũng chuộc chúng ta khỏi sự rủa sả của luật pháp (Ga 3:13).

Chính bởi Ngài chúng ta có được sự đắc thắng này, và ngay hôm nay chúng ta có phần trong sự đắc thắng. (ICôr 15:57) dịch theo nghĩa đen là, “Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời tiếp tục ban cho chúng ta sự thắng trong Chúa Giê-xu Christ”. Chúng ta kinh nghiệm “quyền năng sự sống lại của Ngài trong đời sống khi chúng ta thuận phục Ngài” (Phi 3:10).


ICôr 15:58 là bài hát ca ngợi Chúa của Phao-lô cũng như lời khuyên kết thúc bức thư dành cho Hội thánh. Vì sự chiến thắng sự chết của Đấng Christ đảm bảo, nên chúng ta biết rằng không có điều gì chúng ta làm cho Ngài sẽ vô ích và mất đi.

Chúng ta có thể vững vàng trong sự phục vụ Chúa, không lay chuyển trong sự chịu khổ, rộng rãi trong sự chăm lo đến người khác, vì chúng ta biết công khó chúng ta không ra vô ích. ICôr 15:58 là câu trả lời cho sách Truyền-đạo, trong đó có 38 lần Sa-lô-môn dùng chữ hư không buồn bã. Sa-lô-môn khóc than, “Hư không của sự không, thay thảy đều hư không!” nhưng Phao-lô hát bài ca chiến thắng!


4. Người chết sống lại cách nào? (ICôr 15:35-48)

Là những triết gia, người Hy-lạp lập luận rằng sự sống lại của thân thể con người là điều không thể có được. Chung cuộc, khi thân thể trở về bụi đất, nó trở thành đất cung cấp chất dinh dưỡng cho các cơ thể khác. Tóm lại, Thức ăn chúng ta dùng là một phần trong các yếu tố của thân thể của nhiều thế hệ thời xưa.

Khi thân thể của người sáng lập ra đảo Rhode Island, ông Roger Williams, bị khai quật, người ta khám phá ra rằng các rễ của một cây táo gần đó đã mọc xuyên qua quan tài. Ở một góc độ nào đó, người ăn những quả táo đã ăn một phần thân thể của ông. Vậy thì lúc sống lại, ai sẽ nhắn những yếu tố khác nhau đó.


Lời đáp của Phao-lô cho kiểu lập luận này thật thẳng thừng: “Hỡi kẻ dại!” và rồi ông đưa ra quan điểm quan trọng cho biết sự sống lại không phải là sự tại dựng lại. Trong Kinh Thánh không có chỗ nào dạy chúng ta rằng đến ngày sống lại Đức Chúa Trời sẽ “sắp xếp các mảnh rời lại với nhau” và biến chúng ta trở thành những thân thể như trước kia. Có sự liên tục (đó là thân thể chúng ta), nhưng không có sự đồng nhất (không phải cùng một thân thể).


Phao-lô biết rằng các phép lạ như thế không thể lý giải được, vì vậy ông dùng ba phép so sánh để làm cho giáo lý được rõ ràng.


Hột giống (ICôr 15:35-38,42-48).

Khi bạn gieo hạt giống, bạn không mong đợi nguyên hột giống đó hiển hiện trong mùa gặt. Hột giống chết đi, nhưng từ sự chết đó nẩy mầm sống. (Gi 12:23-28 về cách dùng so sánh giống hệt của Chúa). Bạn có thể gieo một ít hạt giống lúa mì, nhưng bạn sẽ có nhiều hạt lúa mì khi cây trưởng thành. Chúng có phải là những hạt lúa mì đã được trồng không? Không, nhưng vẫn có mối liên kết tiếp nối. Bạn không gieo lúa mì và gặt lúa mạch.


Hơn nữa, những gì lộ ra trong kỳ gặt hái thường thường đẹp đẽ hơn lúc trồng. Điều này đặc biệt đúng với cây hoa tu-líp. Ít có vật nào xấu xí bằng củ hoa tu- líp, nhưng nó sanh ra bông hoa xinh đẹp. Nếu lúc sống lại, tất cả những gì Đức Chúa Trời làm là đặt chúng ta trở lại y như nguyên trạng, thì không có sự thay đổi nào cả. Hơn nữa, thịt và huyết không thể hưởng được Nước Đức Chúa Trời. Cách duy nhất chúng ta có thể vui hưởng vinh hiển của thiên đàng là phải có thân thể phù hợp với cảnh trạng ấy.


Phao-lô bàn đến những chi tiết của sự biến đổi lạ lùng trong ICôr 15:42-48. Thân thể đã được gieo ra (chôn cất) trong sự hư nát, vì nó sẽ mục rửa; nhưng sẽ sống lại trong thể không hư nát được. Trên thiên đàng không có sự hư nát và chết chóc.

Thân thể được chôn cất trong sự khiêm nhường (cho dù được ướp khéo léo bởi những người lo mai táng); nhưng sẽ được sống lại trong vinh hiển. Khi bị chôn, thân thể là yếu ớt; nhưng trong sự sống lại, thân thể có sức mạnh. Chúng ta sẽ giống như Chúa Giê-xu Christ!


Ngày nay, chúng ta có “thân thể tự nhiên”, tức là thân thể phù hợp với môi trường của trái đất. Chúng ta nhận thân thể này từ người cha đầu tiên là A-đam: người đã được dựng nên bằng bụi đất và chúng ta cũng vậy (Sa 2:7).

Nhưng thân thể sống lại phù hợp với môi trường thiêng liêng. Trong thân thể sống lại của Ngài, Chúa Giê-xu có thể di chuyển nhanh chóng từ nơi này đến nơi khác, và ngay cả đi qua những cánh cửa được khoá cẩn thận; tuy nhiên Ngài cũng có thể ăn, và các môn-đệ có thể rờ đến Ngài và cảm nhận Ngài (Gi 20:19-29; Lu 24:33-43).


Quan điểm của Phao-lô đơn giản như vầy: Sự sống lại của thân thể hoàn thành công tác cứu chuộc và ban cho chúng ta hình ảnh của Đấng Cứu rỗi. Chúng ta được dựng nên trong ảnh tượng của Đức Chúa Trời theo nhân tính, nhưng trong ảnh tượng A-đam theo thân xác. Một ngày kia chúng ta sẽ mang lấy ảnh tượng của Đấng Cứu rỗi khi chúng ta đồng hưởng trong vinh quang Ngài.


ICôr 15:46 cho biết một nguyên tắc quan trọng trong Kinh Thánh: thể “huyết khí” (thuộc về đất) đến trước, rồi đến thể “thiêng liêng” (thuộc về Trời). Sự sinh ra đầu tiên cho chúng ta thể huyết khí, nhưng sự sinh ra thứ hai cho chúng ta thể thiêng liêng.

Đức Chúa Trời chối bỏ sự sinh ra thứ nhất, thể huyết khí, Ngài phán, “Các ngươi phải sanh lại!”. Ngài khước từ Ca-in và chọn A-bên.

Ngài khước từ con dầu lòng của Áp-ra-ham là Ích-ma-ên và chọn Y-sác, người con trai thứ hai. Ngài bỏ Ê-sau và chọn Gia-cốp. Nếu chúng ta sống bởi sự sinh ra thứ nhất, chúng ta sẽ bị định tội đời đời; nhưng nếu từng trải sự tái sanh, chúng ta sẽ hưởng phước đời đời.


Xác thịt (ICôr 15:39).

Ở đây Phao-lô đoán trước sự khám phá của khoa học cho biết rằng cấu trúc tế bào của các loại sinh vật khác nhau; do đó, chúng ta không thể tạo nên các loài khác nhau một cách bừa bãi được. Thân thể con người có bản chất của một loài, trong khi đó loài vật, chim muông, cá biển có xác thịt riêng của chúng. Đây là lời kết luận: Nếu Đức Chúa Trời có thể làm ra các cơ thể khác nhau cho con người, loài vật, chim muông, cá biển, thì tại sao Ngài không tạo ra được một thân thể khác cho chúng ta lúc sống lại? (Những người yêu các con vật nuôi lưu ý: Ở đây Phao-lô không dạy rằng loài vật sẽ sống lại. Ông chỉ dùng chúng làm ví dụ).


Hình thể thuộc về trời (ICôr 15:40-41).

Không chỉ có hình thể thuộc về đất, nhưng còn có hình thể thuộc về Trời; và chúng hoàn toàn khác nhau. Thực ra, hình thể thuộc về Trời khác nhau trong sự vinh hiển theo con mắt loài người. Ở đây Phao-lô muốn gợi ý rằng tín hữu này có thể khác tín hữu kia trong sự vinh hiển, cho dù mọi Cơ-đốc nhân đều mặt lấy thân thể vinh hiển. Mọi chén trên thiên đàng sẽ được rót đầy, nhưng một số chén sẽ lớn hơn những cái khác, vì sự trung tín và hy sinh của các thánh đồ khi họ còn sống trên đất.


Những minh họa này có thể không giải đáp được mọi thắc mắc về thân thể sống lại, nhưng chúng cũng giúp chúng ta những đảm bảo cần thiết. Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng ta thân thể vinh hiển phù hợp với cuộc sống mới tại trên Trời. Thân thể ấy sẽ không giống thân thể chúng ta về phẩm chất cũng như của mặt Trời không giống cây nấm trong hầm chứa.

Chúng ta nên nhớ Phao-lô không viết ra những lập luận này chỉ nhằm thoả mãn óc tò mò của người tin Chúa. Ông đã kinh nghiệm một số điều thực tiễn trong cuộc sống và ông đã trình bày rõ trong ICôr 15:29-34. Nếu chúng ta thật sự tin vào sự sống lại của thân thể, chúng ta sẽ dùng thân thể hiện tại để làm sáng danh Đức Chúa Trời (ICôr 6:9-14).


Cuối cùng, những người hư mất sẽ được ban cho thân thể phù hợp với môi trường của họ trong hỏa ngục. Họ sẽ chịu đau khổ đời đời trong cảnh tối tăm và đau đớn (Mat 25:41; IITês 1:7-10; Kh 20:11-15). Phận sự của chúng ta những người được cứu là phải tìm kiếm cứu vớt họ thoát khỏi sự đoán phạt! “Vậy chúng ta biết Chúa đáng kính sợ nên tìm cách làm cho người ta đều tin” (IICôr 5:11).


Nếu bạn chưa hề tin nhận Đấng Cứu Rỗi, hãy tin nhận ngay giờ này - trước khi quá muộn!



 


13. HÃY KHÔN NGOAN VỀ CHỨC VỤ QUẢN GIA CỦA CƠ-ĐỐC NHÂN (ICôr 16:1-24)


Về khoản tiền của tín hữu tại Cô-rinh-tô họ đã viết thư hỏi ông về số tiền quyên được mà ông đã đem giúp những thánh đồ thiếu thốn tại Giê-ru-sa-lem. Phao-lô trả lời câu hỏi của họ và kết thúc bức thư với lời thông báo cùng Hội thánh về kế hoạch lưu hành của cá nhân ông và kế hoạch của những người cùng làm việc với ông trong chức vụ.


Dường như chương này không có liên quan gì đến nhu cầu của chúng ta ngày nay, nhưng thực sự rất có ích trong ba lĩnh vực của chức vụ quản gia: tiền bạc (ICôr 16:1-4), dịp tiện (ICôr 16:5-9) và con người (ICôr 16:10-24). Có lẽ những điều này là nguồn tài nguyên to lớn nhất mà Hội thánh ngày nay có được, chúng ta không được phí phạm.


1. Tiền bạc (ICôr 16:1-4)

Một trong những sứ mạng quan trọng nhất Phao-lô trải qua trong suốt chuyến hành trình thứ ba là gom góp “của dâng tuỳ lòng mình” để giúp những tín hữu nghèo khó tại thành Giê-ru-sa-lem. Ông muốn đạt được một số mục đích trong việc dâng hiến này.

-Trước tiên, người ngoại bang có nghĩa vụ giúp đỡ vật chất cho người Do-thái để đền đáp những ơn phước thiêng liêng người Do-thái đã dành cho họ (Rô 15:25-27).

Tại hội nghị Giê-ru-sa-lem nhiều năm về trước, Phao-lô đồng ý “nhớ đến những người nghèo khó”, vì vậy ông giữ lời thề ước này (Ga 2:10). Phao-lô không chỉ rao giảng Phúc-Âm, nhưng ông cũng cố gắng giúp đỡ những người có nhu cầu về vật chất nữa.


Tại sao có nhu cầu vật chất lớn như vậy tại thành Giê-ru-sa-lem? Có thể nhiều người trong số các tín hữu đã đến thăm Giê-ru-sa-lem vào ngày lễ Ngũ Tuần nghe lời Chúa và được cứu. Điều này có nghĩa họ là những người xa lạ, không có việc làm, và Hội thánh phải săn sóc họ.

Trong những ngày đầu của Hội thánh, các thuộc viên chia sẻ với nhau cách vui vẻ (Công 2:41-47; Công 4:33-37); nhưng nguồn dự trữ của họ có hạn. Cũng có cơn đói kém (Công 11:27-30) và sự tương trợ được gởi đến lúc ấy không thể kéo dài cho một thời gian quá lâu.


Ngoài việc giữ lời hứa và thỏa đáp nhu cầu to lớn, động cơ lớn nhất của Phao-lô trong việc thu góp của dâng là để giúp đỡ các tín hữu Do-thái và ngoại bang hiệp làm một lại với nhau. Phao-lô là giáo sĩ cho dân ngoại, và điều này gây bực tức cho một số tín hữu Do-thái (Công 17:21-25).

Phao-lô hy vọng qua việc thể hiện lòng yêu thương của dân ngoại sẽ giúp hàn gắn sự đổ vỡ và xây dựng những chiếc cầu tương giao giữa các Hội thánh. (Để có thêm thông tin về việc dâng hiến, (IICôr 8:1-9:15)


Dù đây là việc dâng hiến đặc biệt cho việc truyền giáo, nhưng qua lời dạy dỗ của Phao-lô chúng ta có thể học biết một số nguyên tắc căn bản liên quan đến chức vụ quản gia Cơ-đốc.


Ban cho là hành động thờ phượng.

Mỗi thuộc viên đến nhóm lại trong ngày Chúa Nhật (ngày đầu tuần lễ) góp phần mình dành dụm trong tuần đó. Hội thánh đầu tiên gặp nhau vào ngày đầu tuần lễ để kỷ niệm sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ. (Đức Thánh Linh giáng lâm trên Hội thánh trong lễ Ngũ Tuần vào ngày thứ nhất trong tuần lễ).

Thật là bi kịch khi các con cái Chúa trong Hội thánh chỉ góp phần cho xong bổn phận và quên rằng các của dâng phải là “Những của lễ thiêng liêng” dâng cho Chúa (Phi 4:18).

Ban cho phải là hành động thờ phượng Đấng Cứu Thế đã sống lại và thăng thiên về trơì.


Ban cho phải có kế hoạch.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng nhiều người được trả lương vào ngày đầu tuần lễ suốt thời gian ấy trong lịch sử. Nhưng thậm chí nếu họ không được trả, thì mỗi tín hữu cũng để riêng của dâng ra tại nhà và mang đến với Hội thánh vào ngày Chúa nhật. Phao-lô không muốn phải tốn thì giờ để thâu các của gom góp khi ông đến Cô-rinh-tô.

Ông muốn toàn bộ sự đóng góp phải sẵn sàng. Nếu các con cái Chúa của Hội thánh ngày nay có kế hoạch trước trong việc dâng hiến như họ đang quản lý các vấn đề tài chánh khác, thì công việc của Chúa sẽ không bị khó khăn như thỉnh thoảng gặp phải.


Ban cho thuộc về cá nhân riêng tư của mỗi người.

Phao-lô mong mỏi mỗi người dự phần dâng hiến, người giàu cũng như kẻ nghèo. Bất cứ ai có thu nhập đều có bổn phận chia sớt và giúp đỡ người có nhu cầu. Ông muốn tất cả đều được phước.


Ban cho phải tương xứng.

“Tuỳ theo khả năng Chúa cho từng người” (ICôr 16:2) gợi ý rằng tín hữu có nhiều nên ban cho nhiều. Các tín hữu Do-thái trong Hội thánh chắc chắn có thói quen dâng phần mười, nhưng Phao-lô không đề cập đến bất kỳ phần dâng đặc biệt nào. Chắc chắn phần mười (10 phần trăm thu nhập của một người) là cơ hội tốt để bắt đầu chức vụ quản gia của chúng ta, nhưng chúng ta không nên giữ mãi mức dâng ấy. Khi Chúa ban cho chúng ta nhiều hơn, chúng ta nên có kế hoạch dâng nhiều hơn.


Vấn đề là, có quá nhiều thánh-đồ khi kiếm được tiền họ tự buộc mình ngày càng nhiều vào các nhu cầu tài chánh; và rồi họ không có nhiều để dâng cho Chúa. Thay vì tìm một mức dâng phù hợp và dừng lại ở đó, họ lại tiếp tục cố gắng sử dụng nhiều hơn và số thu nhập của họ được tiêu dùng hơn là đầu tư. Như câu nói của người xưa, “Khi số chi ra của bạn trội hơn số thu vào, thì tài sản của bạn suy sụp”.


Phao-lô nói rõ trong IICôr 8:1-9:15 rằng sự ban cho của Cơ-đốc nhân là một phước hạnh, sự tuôn trào ơn phước của Đức Chúa Trời trong đời sống chúng ta và đó không phải là kết quả của sự thúc đẩy hoặc ép buộc. Một tấm lòng rộng rãi không thể nắm chặt tay lại. Nếu chúng ta cảm biết ân điển của Đức Chúa Trời trải rộng cho chúng ta, chúng ta sẽ mong muốn bày tỏ ra ân điển ấy bằng cách chia sẻ cho người khác.


 Tiền bạc phải được quản lý cách thành thật.

Các Hội thánh quan tâm đến việc dâng hiến đặc biệt này đã cử nhiều phái đoàn giúp đỡ Phao-lô quản lý và chuyển tiền dâng ấy đến Giê-ru-sa-lem an toàn (xem IICôr 8:16-24 để biết thêm về “uỷ ban tài chính” giúp đỡ Phao-lô). Thật đáng tiếc nhiều người hầu việc Chúa đánh mất đi tiếng tốt của họ vì quản lý sai khoản tài chánh Hội thánh tin cậy giao cho họ.

Mọi chức vụ phải có hiệu quả trong các vấn đề tài chánh. Phao-lô rất thận trọng không cho phép bất cứ điều gì xảy ra tạo cơ hội cho kẻ thù lên án ông đánh cắp công quỹ (IICôr 8:20-21).


Điều này giải thích vì sao Phao-lô khuyến khích các Hội thánh dự phần trong việc dâng hiến và chọn những đại diện đáng tin cậy để giúp đỡ việc quản lý tiền bạc. Phao-lô không chống lại các cá nhân dâng hiến một cách riêng tư; trong chương này, cũng như trong Rô 16:1-27, ông nêu tên các cá nhân giúp đỡ ông cách riêng tư. Rất có thể điều này bao gồm việc giúp ông các nhu cầu về tài chánh. Nhưng nói chung, sự ban cho Cơ-đốc là trung tâm của Hội thánh. Nhiều Hội thánh khích lệ con cái Chúa dâng của cải vào trong quĩ của Hội thánh.


Thật là thú vị Phao-lô đề cập đến vấn đề dâng hiến ngay sau khi bàn về sự sống lại. Không có “khoảng trống của chương sách” nào trong bản gốc, vì vậy độc giả của Phao-lô đi ngay từ bài ca đắc thắng của Phao-lô vào vấn đề tiền bạc. Giáo lý và bổn phận phải đi đôi với nhau; sự thờ phượng và việc làm cũng vậy. Sự ban cho của chúng ta “không ra vô ích” vì Chúa chúng ta là Đấng Sống. Chính quyền phép sự sống lại của Ngài thúc giục chúng ta ban cho và phục vụ.


2. Cơ hội (ICôr 16:5-9)

“Vậy hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em, chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn ngoan. Hãy lợi dụng thì giờ vì những ngày là xấu” (Eph 5:15-16). Phao-lô cẩn thận sử dụng thì giờ giống như ông sử dụng tiền bạc. Một số người nói rằng giết thì giờ là nghề nghiệp chủ yếu của xã hội hiện đại, nhưng không có Cơ-đốc nhân nào có khả năng giết thì giờ hoặc phung phí dịp tiện.


Phao-lô thông báo cho bạn bè của ông tại Cô-rinh-tô về kế hoạch cho chuyến đi và chức vụ của ông trong tương lai. Đáng chú ý các câu nói của ông rất ngập ngừng: ”Có lẽ thích hợp... có lẽ...bất cứ nơi nào tôi đến...nhưng tôi tin.” 

Dĩ nhiên, toàn bộ kế hoạch đều tuỳ thuộc vào sự dẫn dắt thích hợp của Đức Chúa Trời: “nếu Chúa cho phép”. Thái độ của Phao-lô hướng về tương lai hợp với những mệnh lệnh trong Gia 4:13-17.


Phao-lô ở tại Ê-phê-sô lúc viết bức thư này. Kế hoạch của ông phải đến xứ Ma-xê-đoan để có dịp tiện thi hành chức vụ (ghé qua trong ICôr 16:5 có nghĩa “chuyến đi trong một sứ mạng có hệ thống”), để trú đông tại Cô-rinh-tô , và sau đó mang của gom góp đến xứ Giu-đê. Từ tháng mười một đến tháng giêng, không thể đi bằng đường thuỷ được; vì vậy chắc chắn thuận tiện cho Phao-lô ở lại Cô-rinh-tô và với các bạn của ông. Có một số vấn đề phải giải quyết trong Hội thánh và Phao-lô hứa đến giúp các vị lãnh đạo (ICôr 11:34).


Tuy nhiên, nhiều trường hợp buộc Phao-lô phải sửa lại kế hoạch của ông ít nhất hai lần.

-“Kế hoạch B” phải thăm Cô-rinh-tô, rồi qua xứ Ma-xê-đoan, ghé qua Cô-rinh-tô lần thứ hai trên dường đến xứ Giu-đê (IICôr 1:15-16).

Thay vì một chuyến thăm viếng dài ngày, Phao-lô lập kế hoạch hai chuyến thăm ngắn hơn; nhưng ngay cả kế hoạch này cũng không thực hiện được.

-“Kế hoạch C” hoá ra là chuyến thăm Cô-rinh-tô chớp nhoáng và khó khăn, sau đó ông quay trở lại Ê-phê-sô. Rồi Phao-lô đến thành Trô-ách để đợi Tít (người đã được ông sai đến Cô-rinh-tô, IICôr 2:12-13; IICôr 7:5), viếng thăm Ma-xê-đoan và rồi đi đến xứ Giu-đê. Phao-lô không ở lâu tại Cô-rinh-tô như người hy vọng hoặc mong ước.


Chúng ta học được gì từ từng trải khó khăn của Phao-lô? Trước tiên, một con cái Chúa phải dùng lẽ phải, phải cầu nguyện, nghiên cứu tình hình và tìm cách tốt nhất để có thể quyết định theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Ch 3:5-6 (“chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con”) không nên hiểu là “Hãy để trí óc ở không và đừng suy nghĩ gì cả!”

Đức Chúa Trời ban cho chúng ta tâm trí và Ngài mong mỏi chúng ta suy nghĩ, nhưng Ngài không muốn chúng ta chỉ dựa vào lập luận riêng. Chúng ta phải cầu nguyện, suy gẫm lời Kinh Thánh, và tìm kiếm sự góp ý của những bạn bè Cơ-đốc trưởng thành.


-Thứ hai, có thể những quyết định của chúng ta không luôn luôn theo ý muốn của Chúa.Có thể chúng ta hứa nhiều mà không thể giữ lời hứa và lập nhiều kế hoạch mà không thể làm trọn. Điều đó có nghĩa chúng ta là những kẻ nói dối hoặc những người thất bại sao? (Một số tín hữu tại Hội thánh Cô-rinh-tô nghĩ rằng Phao-lô đánh lừa và không đáng để tin cậy. IICôr 1:12-2:13).

Trong chức vụ của tôi, tôi đã phải thay đổi kế hoạch và hoán đổi lịch trình vì hoàn cảnh mà tôi không làm chủ được. Có phải điều này nghĩa là tôi đi ra ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời trong việc lên kế hoạch chăng? Không hẳn là thế. Ngay cả một vị sứ-đồ (người đã lên Trời và trở lại) thỉnh thoảng cũng phải sửa đổi lịch làm việc.


Có hai thái cực chúng ta nên tránh trong vấn đề quan trọng tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời. Người thì quá sợ phạm sai lầm đến nỗi không dám quyết định điều gì cả. Người khác thì quyết định hấp tấp và vội vã thực hiện, không để thì giờ chờ đợi Chúa. Sau khi đã làm tất cả những gì có thể làm để định rõ sự dẫn dắt của Chúa, chúng ta phải quyết định và hành động, và để phần còn lại cho Chúa.

Nếu chúng ta đi ra ngoài ý muốn của Ngài trong chừng mực nào đó, Ngài sẽ hành động để cuối cùng chúng ta sẽ đi theo hướng dẫn của Ngài. Điều quan trọng đó là chúng ta thành thật muốn làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời (Gi 7:17). Rốt cuộc, Ngài hướng dẫn chúng ta “vì cớ danh Ngài” (Thi 23:3). Nếu Ngài cho phép chúng ta đi lạc đường, chính danh tiếng Ngài bị tổn thương.


Phao-lô đã mở cánh cửa chức vụ tại Ê-phê-sô, và đây là điều quan trọng đối với ông. Ông muốn chinh phục linh hồn hư mất tại Ê-phê-sô, không đến Cô-rinh-tô để nuông chiều những người đã được cứu. (Về vấn đề “mở cửa, xem Công 14:27; IICôr 2:12; Côl 4:3; Kh 3:8). Phao-lô không phải là người lạc quan cũng không bi quan; ông là người thực tế. Ông thấy cả dịp tiện lẫn ngăn trở. Đức Chúa Trời đã “mở cánh cửa lớn cho công việc hiệu quả” và Phao-lô muốn nắm lấy dịp tiện trong khi dịp tiện vẫn còn ở đó.


Một câu ngạn ngữ của La-mã cổ đại nói rằng, “Trong khi chúng ta dừng lại để suy nghĩ, chúng ta thường bỏ lỡ dịp tiện.” Một khi chúng ta biết điều phải làm, chúng ta phải thực hiện và không được chậm trễ. Thường thường chúng ta nghĩ về nhiều lý do (hoặc biện hộ) để không hành động.

Mặc dù Phao-lô đang gặp nguy hiểm tại Ê-phê-sô (ICôr 15:32), ông có kế hoạch ở lại đó trong khi cánh cửa đang mở. Giống như một nhà buôn khôn ngoan, người ấy phải “mua tất cả các cơ hội” trước khi nó biến mất và không bao giờ trở lại.


Quản lý dịp tiện thật là quan trọng. Cá nhân tín hữu và Hội thánh nên thường xuyên hỏi, “Ngày nay Đức Chúa Trời đang ban cho chúng ta những dịp tiện gì?”. Thay vì phàn nàn về những trở ngại, chúng ta nên lợi dụng mọi dịp tiện, và để kết quả cho Chúa.


3. Con người (ICôr 16:10-24)

Thường vào lúc kết thúc các bức thư, Phao-lô nêu tên một số người là một phần trong cuộc sống và chức vụ của ông; và họ thật là đa dạng! Phao-lô không những là người chinh phục linh hồn hư mất, nhưng còn là người kết bạn; và nhiều người trong số bạn bè của ông đã nhận ra con đường dấn thân hầu việc Chúa. Nhà truyền đạo Dwight L.Moody có cùng ân tứ kết bạn như vậy và ông đã tuyển họ vào trong sự hầu việc Chúa. Một số nhà truyền đạo và nhạc sĩ nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 đã được Moody “gầy dựng”, trong đó có Ira Sankey, G. Campbell Morgan, Henry Drummond, và F. B. Meyer.


Tiền bạc và dịp tiện không có giá trị gì nếu không có con người. Tài sản quý giá nhất của Hội thánh là con người, nhưng rất thường Hội thánh xem con người là chuyện đương nhiên. Chúa Giê-xu không cho môn đệ Ngài tiền bạc, nhưng Ngài dành ba năm huấn luyện họ cho sự hầu việc vì vậy họ có thể chiếm lĩnh mọi dịp tiện Ngài ban cho. Nếu con người được chuẩn bị, thì Đức Chúa Trời sẽ cung cấp cả tiền bạc lẫn dịp tiện để công việc của Ngài được thành tựu.


Ti-mô-thê (ICôr 16:10-11), cùng với Tít, là một trong những người giúp đỡ đặc biệt của Phao-lô, họ thường thường được sai đến những nơi khó khăn nhất. Ti-mô-thê đã lớn lên trong một gia đình tin kính Chúa (IITi 1:5), nhưng chính Phao-lô là người hướng dẫn người trẻ tuổi này đến với Đấng Christ.

Phao-lô thường nhắc đến Ti-mô-thê như là “đứa con đức tin của ông” (ITi 1:2). Khi Giăng Mác lìa bỏ Phao-lô và quay trở lại Giê-ru-sa-lem, thì chính Ti-mô-thê được kêu gọi làm người giúp đỡ Phao-lô trong chức vụ (Công 16:1-5).


Ti-mô-thê học được nhiều bài học quý giá và lớn lên trong đời sống Cơ-đốc cũng như trong sự hầu việc (Phi 2:20-22). Cuối cùng, Ti-mô-thê thay thế chức vụ của Phao-lô tại thành Ê-phê-sô, một nơi khó khăn nhất cho sự hầu việc. (Thật không dễ gì trở thành người nối gót Phao-lô! ). Có lúc Ti-mô-thê muốn rời bỏ Ê- phê-sô, nhưng Phao-lô khích lệ ông ở lại (ITi 1:3).


Lời khuyên của Phao-lô gởi cho người Cô-rinh-tô về Ti-mô-thê (ICôr 16:10) cho thấy rằng người trẻ tuổi này đang có nan đề về xúc cảm và sức khoẻ (ITi 5:23; IITi 1:4). Ti-mô-thê cần nhiều lời khích lệ từ phía mọi người. Điểm quan trọng đó là người đang hầu việc Đức Chúa Trời và làm việc với tôi tớ của Ngài. Hội thánh không nên mong mỏi mọi người hầu việc Đức Chúa Trời trở thành sứ-đồ như Phao-lô. Những người trẻ tuổi bắt đầu hầu việc Chúa có nhiều khả năng, và Hội thánh nên khuyến khích động viên họ. “Nên chớ có ai khinh người!”


A-bô-lô (ICôr 16:12-14) là người Do-thái có tài hùng biện được A-qui-la và Bê-rít- sin giúp ông hiểu thấu đạo của Chúa (Công 18:24-28). Ông đã thi hành chức vụ đầy quyền năng tại Cô-rinh-tô, và có một phần Hội thánh tại đó gắn bó với ông (ICôr 1:12; ICôr 3:4-8). Không chắc là A-bô-lô đã xúi giục sự chia rẽ này, vì điều quan tâm hơn hết của ông dường như là được rao giảng về Đấng Christ. Mặc dù có sự chia rẽ (“Những người theo phe A-bô-lô”), Phao-lô cũng không ngần ngại khích lệ A-bô-lô trở lại Cô-rinh-tô để tiếp tục chức vụ. Rõ ràng không có sự đố kỵ về phần Phao-lô hoặc sự hơn thua về phần A-bô-lô.


Phao-lô không có quyền sắp xếp ai vào chỗ họ không muốn. A-bô-lô cảm thấy không nên đi Cô-rinh-tô vào lúc ấy, và Phao-lô phải tán thành quyết định của ông ta. Thật tuyệt vời về cách thức làm việc với nhau của những con người có tính cách khác nhau này.


Có lẽ chính vì sự chia rẽ trong Hội thánh mà Phao-lô đã đưa ra lời khuyến cáo trong (ICôr 16:13-14). Tỉnh thức có nghĩa “Hãy coi chừng! Hãy cảnh giác!” Kẻ thù luôn luôn ở bên cạnh, và chúng ta không bao giờ được an toàn khỏi bị tấn công. Sa-tan chắc chắn tấn công Hội thánh và tìm cách ngăn trở chức vụ của Ti-mô-thê hoặc A-bô-lô.


Vững vàng trong đức tin nghĩa là có sự vững vàng chín chắn. Phao-lô đã khuyến cáo rằng họ là con trẻ non nớt cần phải lớn lên (ICôr 3:1). Không có gì lạ khi Phao-lô nói thêm, hãy dốc chí trượng phu nghĩa là “Hãy hành động như người lớn, chớ không như trẻ con”. Đó là lời kêu gọi sự mạnh mẽ can đảm trong giờ chức vụ lãnh đạo cần đến.


Nhưng ngay cả sự mạnh mẽ can đảm cũng cần được quân bình bởi lòng yêu thương, nếu không chức vụ lãnh đạo trở thành độc tài. Phao-lô đã trình bày chi tiết về giá trị và các đức tính của tình yêu thương trong ICôr 13:1-13. Carl Sandburg, khi đọc diễn văn trước Quốc Hội Mỹ, ông nói rằng Abraham Lincoln là một người đàn ông “thép bọc nhung”. Đó là một hình ảnh tốt đáng cho Cơ-đốc nhân noi theo, vì sự mạnh mẽ cứng rắn thật không loại trừ lòng khoan dung.


Sê-pha-na và nhà người (ICôr 16:15-18) là những người đầu tiên được đưa dắt trở lại với Đấng Christ trong xứ A-chai, thay vì nhờ người giúp đỡ, chính Phao-lô làm báp-têm cho họ (ICôr 1:16). Họ trở nên những nhà lãnh đạo trong Hội thánh, vì họ “hết lòng hầu việc Đấng Christ.” Động từ hết lòng có nghĩa “họ tự đặt mình vào trong công việc” nhưng điều này không nói lên rằng họ tranh giành địa vị.

Hơn nữa, bất cứ khi nào thấy có nhu cầu, họ liền làm việc để thỏa đáp nhu cầu mà không đợi ai yêu cầu. Họ là những người giúp đỡ Phao-lô, và làm việc vì Chúa ("tận lực làm việc"). Thật là điều kỳ diệu khi toàn bộ con dân Chúa phục sự Ngài cách trung tín trong Hội thánh tại địa phương.


Phốt-tu-na và A-chai-cơ tham gia với Sê-pha-na trong uỷ ban chính thức từ thành phố Cô-rinh-tô được cử đến Ê-phê-sô để bàn bạc với Phao-lô về những nan đề trong Hội thánh. Phao-lô nhìn thấy họ đại diện cho toàn Hội thánh; lòng thương yêu của họ đối với Phao-lô bù đắp cho sự vắng mặt của ông tại Cô-rinh-tô. Nhưng những người này đã chia sẻ gánh nặng với Phao-lô; họ cũng làm cho tinh thần của Phao-lô thêm phấn khởi và mang đến cho ông sự phước hạnh.


Đây là điểm tốt để khích lệ con cái Chúa trong Hội thánh khích lệ và nâng đỡ vị mục sư của họ. Quá nhiều lần, tín hữu chỉ san sẻ gánh nặng và khó khăn với vị lãnh đạo thuộc linh của họ, và hiếm khi chia sẻ những ơn phước. Ai là mục sư của vị mục sư? Mục sư đến với ai để được khích lệ và làm tươi mới tâm linh? Mọi con cái Chúa trong Hội thánh, nếu sẵn lòng đều có thể giúp đỡ yên ủi mục sư và làm vơi đi gánh nặng của ông.


Phao-lô khích lệ Hội thánh quý trọng chính gia đình đặc biệt này và kính phục chức vụ lãnh đạo thuộc linh của họ. Thật đúng để kính trọng những Cơ-đốc nhân trung tín nếu như Đức Chúa Trời được sáng danh qua họ.


A-qui-la và Bê-rít-sin (ICôr 16:19) là đôi vợ chồng tận tuỵ mà cuộc đời và chức vụ của họ gắn bó gần gũi với Phao-lô. Sứ đồ Phao-lô gặp họ tại Cô-rinh-tô vì giống như Phao-lô họ cũng làm nghề may trại (Công 18:1-3). Cặp vợ chồng này đã bị trục xuất khỏi Rô-ma vì A-qui-la là người Do-thái; nhưng đó cũng là một phần trong sự tể trị của Đức Chúa Trời Đấng muốn sai họ đến Cô-rinh-tô để có thể giúp đỡ Phao-lô.


Chắc chắn Bê-rít-sin là một phụ nữ xuất sắc. Tên tuổi của cặp vợ chồng này xuất hiện sáu lần trong Kinh thánh Tân-ước, và trong bốn trường hợp này, tên của bà Bê-rít-sin đứng đầu tiên. (phần Kinh Thánh đặt Bê-rít-sin ở đầu là Cong 18:26). Chúng ta có ấn tượng rằng bà ta là người mạnh mẽ hơn trong hai người, một nhà lãnh đạo và một chứng nhân tận tâm. Họ làm việc với nhau trong sự hầu việc Chúa và giúp đỡ Phao-lô.


Khi Phao-lô từ thành Cô-rinh-tô đến Ê-phê-sô, A-qui-la và Bê-rít-sin sắp xếp và dời công việc của họ theo Phao-lô để giúp đỡ Phao-lô thành lập Hội thánh tại thành phố có nhu cầu này (Công 18:18). Vì vậy có khả năng Phao-lô để họ trông coi công việc Hội thánh trong khi ông trở lại An-ti-ốt. Trong thời gian ở lại Ê-phê-sô họ giúp đỡ A-bô-lô hiểu biết kỹ lưỡng về chân lý của Phúc-Âm.


Mỗi Hội thánh địa phương có thể cám ơn những cặp vợ chồng như A-qui-la và Bê-rít-sin, những người chung sức chung lòng hầu việc Chúa và giúp đỡ người rao giảng Phúc-Âm. Sự việc vợ của ông là người lãnh đạo tốt hơn không làm ngăn trở A-qui-la đứng chung với vợ mình trong sự hiệp một trong chức vụ hầu việc Chúa. (Tôi chắc rằng Bê-rít-sin kính phục chồng của bà và không tìm cách tỏ mình là quan trọng).

Hội thánh Ê-phê-sô đang nhóm họp trong nhà của họ, cho thấy họ là những người hiếu khách. Rô 16:4 cho biết rằng có lúc cặp vợ chồng tận tuỵ này đã liều mình để cứu sống Phao-lô. (Xem Công 19:29-30; Công 20:19 để biết những tình huống có thể có sự giải cứu này).


Nhưng Bê-rít-sin và A-qui-la không lưu lại Ê-phê-sô; vì khi Phao-lô viết thư cho các thánh đồ tại Rô-ma, ông đã chào hai vợ chồng này tại đó (Rô 16:3). Một lần nữa, họ để cho Hội thánh nhóm lại trong nhà của mình (Rô 16:5). Trong chức vụ lưu hành của tôi, hơn một lần tôi đã giảng cho Hội thánh nhóm lại nơi phòng khách của một tín đồ.


Trong thư cuối của Phao-lô, ông gởi lời chào thăm đến Bơ-rít-ca (phát âm thay đổi) và A-qui-la qua Ti-mô-thê, lúc ấy Ti-mô-thê đang coi sóc công việc Chúa tại Ê-phê-sô (IITi 4:19). Hai vợ chồng đáng chú ý này đã rời khỏi Rô-ma và bây giờ trở lại Ê-phê-sô, lần này họ giúp Ti-mô-thê như họ đã giúp đỡ Phao-lô.


Ngày nay có bao nhiêu vợ chồng đi lại như A-qui-la và Bê-rít-sin, chỉ để có thể hầu việc Chúa tốt hơn? Và bất cứ lúc nào họ di chuyển, họ cũng phải di chuyển cả công việc làm ăn của họ. Những người có tinh thần hy sinh tận tuỵ như vậy thật không dễ tìm kiếm, nhưng họ là những tài sản quí giá đối với Hội thánh nhà.


Lời kết thúc bức thư của Phao-lô không cần phải chiếm nhiều thì giờ chúng ta. Cái “hôn thánh” (IITi 16:20) là một cách chào hỏi thông thường, người đàn ông hôn người đàn ông và phụ nữ hôn phụ nữ (Rô 16:16; IICôr 13:12; ITês 5:26; IPhi 5:14). Nếu Phao-lô viết thư cho các Hội thánh Phương Tây, ông chắc sẽ viết, “Hãy bắt tay lẫn nhau.”


Phao-lô thường thường đọc cho thư ký chép thư và rồi đặt bút ký tên của mình vào. Ông cũng thêm lời “chúc phước lành” của mình vào bức thư như là dấu chỉ rằng lá thư đáng tin cậy. (Ga 6:11; IITês 3:17).


Chữ a-na-them là từ ngữ A-ram có nghĩa là “đáng bị nguyền rủa” (ICôr 12:3). Không kính mến Đấng Christ có nghĩa là không tin nhận Ngài, và những kẻ không tin phải bị rủa sả (Gi 3:16-21). Chữ Ma-ra-na-tha là từ ngữ Hy-lạp có nghĩa “Chúa chúng tôi đến” hoặc (như một lời cầu nguyện) “Hỡi Chúa chúng tôi, xin hãy đến!” (Kh 22:20). Nếu một người kính mến Chúa Giê-xu Christ, người ấy cũng sẽ yêu mến sự hiện đến của Ngài (IITi 4:8).


Phao-lô nghiêm khắc với tín hữu Cô-rinh-tô, nhưng ông làm cho họ tin chắc về tình yêu thương của ông đối với họ lúc kết thúc bức thư. Dẫu sao “Bạn hữu làm cho thương tích ấy bởi lòng thành tín” (Ch 27:6).


Phao-lô đã chia sẻ nhiều về sự khôn ngoan thiêng liêng cho chúng ta. Nguyện xin Chúa cho chúng ta nhận lãnh với lòng khiêm nhường nhu mì và thực hành vì cớ danh vinh hiển của Đức Chúa Trời!



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023-2025 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page