top of page

I CÔ-RINH-TÔ 1

KINH THÁNH

TÂN-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Thư Phao-lô



1. HÃY KHÔN NGOAN VỀ SỰ KÊU GỌI DÀNH CHO CƠ-ĐỐC NHÂN (ICo 1:1-31)


“Chúa Giê-xu, vâng! Hội Thánh, không! ”


Hãy...

...nhớ khi câu khẩu hiệu này rất phổ biến giữa giới trẻ ở thập niên 60. Chắc chắn có thể họ đã thực sự sử dụng biểu ngữ này tại Cô-rinh-tô vào năm 56 sau Chúa, vì Hội thánh địa phương tại đó đang ở trong tình trạng rắc rối. Tiếc thay, các rắc rối ấy không được giải quyết trong nội bộ Hội thánh; nhưng nhiều người vô tín bên ngoài Hội thánh đã nghe đến.


Trước hết, Hội thánh Cô-rinh-tô là Hội thánh bị ô uế. Một số thuộc viên phạm tội loạn luân; số khác say rượu; số khác nữa lợi dụng ân điển của Đức Chúa Trời để biện hộ cho lối sống trần tục. Cô-rinh-tô cũng là Hội thánh phân rẽ, có ít nhất bốn nhóm tranh giành quyền lãnh đạo (ICo 1:12). Đều này có nghĩa Hội thánh Cô-rinh-tô là một Hội thánh mất phước. Thay vì làm sáng danh Đức Chúa Trời, Hội thánh đang ngăn trở sự phát triển của Phúc-âm.


Điều này đã xảy ra như thế nào? Tín hữu Hội thánh cho phép tội lỗi trong thành phố lan tràn vào hội chúng địa phương. Cô-rinh-tô là một thành phố ô uế, đầy dẫy thói hư tật xấu và các thú vui trần tục. Thời bấy giờ, muốn hạ nhục một ai thì cứ gọi anh ta là “một gã Cô-rinh-tô”. Khi nghe như vậy người ta sẽ hiểu điều bạn muốn nói.


Cô-rinh-tô cũng là thành phố triết học, đầy tự hào, lý trí với nhiều giáo sư đi khắp nơi cổ vũ cho những suy lý của họ. Chẳng may, nhiều tín hữu trong Hội thánh đã ứng dụng triết lý đời này vào trong chân lý Phúc-âm của Chúa và điều này dẫn đến bè phái. Hội chúng được hình thành bởi “các trường phái tư tưởng” khác nhau thay vì được hiệp một bởi sứ điệp của Phúc-âm.


Nếu bạn muốn biết tình trạng thành phố Cô-rinh-tô như thế nào, hãy đọc Ro 1:18-32.Sứ đồ Phao-lô viết thư Rô-ma trong thời gian ở tại Cô-rinh-tô, có thể ông đã nhìn ra ngoài cửa sổ và tận mắt chứng kiến chính những tội lỗi ông đã liệt kê!


Dĩ nhiên, khi gặp phải những người kiêu ngạo, sống dựa theo khôn ngoan con người, hấp thụ lối sống thế gian, bạn sẽ gặp rắc rối. Để giúp họ giải quyết các nan đề, Phao-lô nhắc họ về sự kêu gọi trong Đấng Christ khi mở đầu bức thư của ông.Ông đề cập đến ba khía cạnh quan trọng trong sự kêu gọi này.


1. Được gọi nên thánh (ICo 1:1-9)

Đầu tiên Phao-lô công kích sự ô uế trong Hội Thánh, nhưng ông không nói gì về chính sự ô uế. Thay vào đó, ông đưa ra một giải pháp tích cực và nhắc nhở các tín hữu về địa vị cao trọng và thánh khiết trong Chúa Giê-xu Christ. Trong (ICo 1:1-9)ông mô tả Hội Thánh được Đức Chúa Trời nhìn thấy; trong ICo 1:10-31, ông mô tả Hội Thánh mà con người nhìn thấy. Những gì chúng ta có trong Chúa Giê-xu Christ phải là điều chúng ta thực hành trong đời sống hằng ngày, nhưng chúng ta thường không sống như vậy.


Hãy chú ý các đặc tính của Hội Thánh vì chúng ta được gọi làm thánh đồ trong Chúa Giê-xu Christ.


Được Đức Chúa Trời biệt riêng ra (ICo 1:1-3). Chữ Hội Thánh trong ngôn ngữ Hy Lạp có nghĩa “một dân được gọi ra”. Mỗi Hội Thánh có hai địa chỉ: địa chỉ theo địa lý ("tại thành phố Cô-rinh-tô") và địa chỉ thiêng liêng ("trong Chúa Giê-xu Christ"). Hội Thánh được thành lập bởi các thánh đồ, tức là, những người đã được “nên thánh” hoặc được Đức Chúa Trời “biệt riêng ra”. Một thánh đồ không phải là người đã chết được người còn sống tôn vinh vì cuộc đời thánh khiết của mình. Không phải vậy, Phao-lô viết cho các thánh đồ còn sống, những đời sống nhân đức tin vào Chúa Giê-xu Christ được Đức Chúa Trời đẹp lòng biệt riêng ra và sử dụng cho công việc của Ngài.


Nói cách khác, mọi Cơ Đốc nhân thật đều là thánh nhân vì đã được Đức Chúa Trời biệt riêng ra cho công việc của Ngài.


Một anh bạn Cơ Đốc làm nghề nhiếp ảnh nói với tôi về một tiệc cưới thú vị anh ta “chứng kiến”. Cô dâu và chàng rể ra khỏi nhà thờ tiến về phía xe “cô dâu”, thình lình cô dâu rời khỏi chồng của mình và chạy đến chiếc xe đậu bên kia đường! Máy xe đang nổ và một người đàn ông ngồi sau tay lái, họ lái xe vụt qua mặt chàng rể đứng sững sờ không thốt nên lời. Người lái “chiếc xe chạy trốn”ngoảnh mặt lại nhìn là tình nhân cũ của cô dâu, người đã huênh hoang, “Anh ta có thể lấy cô gái ấy bất cứ lúc nào anh ta muốn”. Chẳng cần phải nói, người chồng đã huỷ bỏ đám cưới.


Khi người nam và người nữ thề nguyện yêu nhau, họ đã biệt riêng cho nhau; và bất cứ liên hệ nào khác ngoài hôn nhân đều là tội lỗi. Cũng vậy, Cơ Đốc nhân hoàn toàn thuộc về Chúa Giê-xu Christ; người đã được biệt riêng cho Ngài và chỉ một mình Ngài. Nhưng người cũng là thành viên trong mối thông công trên thế giới, đó là Hội Thánh, “Những người đã được nên thánh trong Chúa Giê-xu Christ” (ICo 1:2). Một tín hữu xấu xa bất trung không chỉ phạm tội chống lại Chúa, nhưng còn nghịch lại với anh em trong Chúa nữa.


Được giàu có bởi ân điển Đức Chúa Trời (ICo 1:4-6). Sự cứu rỗi là ân điển ban cho nhưng không của Đức Chúa Trời; khi được cứu, bạn cũng được ban cho các ơn thuộc linh. (Phao-lô giải thích điều này cách cặn kẽ trong các chương ICo 12:1-14:40). Chữ đã dịch “được dư dật” theo tiếng Hy Lạp nghĩa là nhà tài phiệt, "một người rất giàu có” theo nghĩa tiếng Anh. Tín hữu Cô-rinh-tô đặc biệt trổi hơn về các ơn phước thuộc linh (IICo 8:7), nhưng họ không dùng những đặc ân này theo cách thiêng liêng. Việc Đức Chúa Trời đã kêu gọi, biệt riêng, và làm cho chúng ta dư dật các ơn thiêng liêng phải khích lệ chúng ta sống cuộc sống thánh khiết.


Trông đợi Chúa Giê-xu tái lâm (ICo 1:7) Phao Lô nói nhiều về chân lý này trong chương (ICo 15:1-58). Cơ Đốc nhân tìm kiếm Đấng Cứu Thế sẽ khao khát gìn giữ cuộc sống của họ không chỗ trách được (IGi 2:28-3:3).


Trông cậy vào sự thành tín của Đức Chúa Trời (ICo 1:8-9). Công tác của Đức Chúa Trời đã được củng cố trong con cái Ngài (ICo 1:6), nhưng được củng cố cho họ qua lời Ngài. Đây là qui định về pháp lý nói đến sự bảo đảm giải quyết một vụ việc. Chúng ta có lời chứng của Đức Thánh Linh trong lòng và nhân chứng của Lời Đức Chúa Trời trước mặt chúng ta, bảo đảm Đức Chúa Trời sẽ giữ “hợp đồng” của Ngài với chúng ta và cứu chúng ta cho đến ngày cuối cùng. Việc đảm bảo này tất nhiên không phải là lời biện hộ cho tội lỗi! Đúng hơn đó là nền tảng cho mối tương giao trong tình yêu, tin cậy và vâng phục không ngừng lớn lên.


Giờ đây dưới ánh sáng của những chân lý lớn lao này, làm thế nào tín hữu Hội Thánh Cô-rinh-tô lại có thể kết giao với tội lỗi của thế gian và xác thịt được? Họ là dân được lựa chọn, được ơn dư dật, và được dựng nên mới. Họ là thánh đồ, được chọn riêng ra làm sáng danh Đức Chúa Trời! Than ôi, họ sống không phù hợp với địa vị cao trọng của họ.


Khi Phao-lô đề cập đến chữ “thông công” trong (ICo 1: 9) ông giới thiệu khía cạnh thứ hai trong sự kêu gọi của Cơ Đốc nhân.


2. Được gọi vào trong mối thông công với Đấng Christ (ICo 1:10-25)

Đề cập xong vấn đề ô uế trong Hội Thánh, bây giờ Phao-lô quay sang vấn đề chia rẽ.Chia rẽ luôn luôn là nan đề giữa vòng con dân Đức Chúa Trời, hầu hết các thư tín Tân Ước đều bàn luận chủ đề này hoặc đề cập đến bằng cách này hay cách khác. Ngay cả 12 vị sứ đồ cũng không luôn luôn hoà thuận với nhau.


Sống trên trời với các thánh đồ chúng ta yêu mến,


Chắc chắn sẽ là sự vinh hiển!


Sống dưới trần với những thánh đồ chúng ta quen biết,


Ồ, đó là chuyện khác!


Trong ICo 1:13, Phao-lô nêu lên cho độc giả ba câu hỏi quan trọng, và ba câu hỏi này là cốt lõi cho đoạn văn dài sau đây.


Đấng Christ có bị phân rẽ chăng? (ICo 1:10-13). Hành động này có nghĩa, "Có phải Đấng Christ đã được chia ra và mỗi người nhận lãnh phần riêng của mình không?”Chính ý tưởng này không thể chấp nhận được và phải bị gạt bỏ. Sứ đồ Phao-lô không rao giảng một Đấng Christ này, A-bô-lô không rao giảng một Đấng Christ khác, và Phi-e-rơ cũng vậy. Chỉ có một Đấng Cứu Rỗi và một Phúc Âm (Ga 1:6-9). Vậy, làm thế nào tín hữu Cô-rinh-tô lại tạo nên sự chia rẽ theo bốn hướng như vậy? Tại sao có sự cãi lẫy ("tranh cạnh") giữa vòng họ?


Câu giải đáp cho biết họ đang nhìn Phúc Âm theo một quan điểm triết lý. Cô-rinh-tô là thành phố đầy dẫy thầy giáo và triết gia, ai nấy đều muốn thể hiện sự “khôn ngoan” riêng của mình.


Cách giải thích thứ hai là do bản chất con người thích chạy theo những người lãnh đạo đời này. Chúng ta có xu hướng gắn bó nhiều hơn với người hướng dẫn thuộc linh giúp đỡ chúng ta và gần gũi với người chúng ta hiểu và ngưỡng mộ chức vụ của họ. Thay vì coi trọng sứ điệp trong Lời Kinh Thánh, người Cô-rinh-tô quan tâm đến sứ giả. Mắt họ xa rời Chúa và tập trung vào tôi tớ của Ngài, điều này dẫn đến sự tranh cạnh.


Trong chương 3 Phao-lô khẳng định giữa vòng các tôi tớ Đức Chúa Trời không thể có sự tranh cạnh. Các con cái Chúa trong Hội Thánh sẽ mắc tội khi so sánh các vị Mục sư Truyền đạo, hoặc chạy theo làm môn đệ của các nhà lãnh đạo chớ không làm môn đệ của Chúa Giê-xu Christ. “Sùng bái cá nhân” trong Hội Thánh ngày nay là không làm theo lời dạy của Đức Chúa Trời. Chỉ có Chúa Giê-xu Christ xứng đáng đứng đầu hàng (Co 1:18).


Phao-lô dùng những chữ quan trọng trong phần này để nhấn mạnh sự hiệp một của thánh đồ trong Đấng Christ. Ông gọi độc giả của ông là anh em, nhắc họ nhớ mình thuộc về một gia đình. Nhóm từ “hiệp một ý một lòng cùng nhau” là một thuật ngữ y học miêu tả các bộ phận của thân thể được gắn chặt lại với nhau. Do đó, họ có một tập thể yêu thương như các chi thể trong thân. Họ cũng được mọi người nhận biết bởi danh của Chúa Giê-xu Christ. Điều này có thể liên quan đến phép báp-tem của họ.


Chúng ta không biết ai là nguời thuộc về “nhà Cơ-lê-ô”, nhưng chúng ta khen ngợi họ vì lòng can đảm và tận hiến. Họ không tìm cách che giấu những nan đề. Các nan đề ấy đè nặng lên họ; họ đem nỗi lòng mình đến với người có thẩm quyền; họ không sợ Phao-lô nhắc đến. Đây không phải là chuyện “dòm ngó” chúng ta thường thấy trong các Hội Thánh - những hành vi thường làm cho vấn đề trở nên tệ hại hơn và không bao giờ tốt đẹp.


Phao-lô là nhà truyền giáo thành lập Hội Thánh vì vậy có lẽ hầu hết tín hữu trong Hội Thánh tin Chúa qua chức vụ của ông. A-bô-lô theo Phao-lô (Cong 18:24-28) và thi hành chức vụ đầy ơn. Ngoài (ICo 9:5) ra thì không có một chỗ nào đề cập đến việc Phi-e-rơ đã viếng thăm Cô-rinh-tô. Mỗi người đều có cá tính khác nhau và cách truyền đạt Lời Kinh Thánh khác nhau; nhưng họ là một (ICo 3:3-8 ICo 4:6).


Có phải bạn đã làm báp-tem trong danh Phao-lô? (ICo 1:13-17). Bạn nhớ rằng phép báp-tem là vấn đề quan trọng trong Hội Thánh thời Tân Ước. Khi một tội nhân tin nhận Đấng Christ và nhận lãnh báp-tem, người đó đoạn tuyệt với đời sống cũ và thường bị gia đình bạn bè xa lánh. Nhận lãnh báp-têm thời đó phải trả một giá.


Y như Chúa Giê-xu không làm báp-tem cho con người (Gi 4:1-2), vì vậy cả Phi- e-rơ (Cong 10:48) và Phao-lô cho phép những cộng sự làm báp-tem cho những người mới trở lại đạo. Mãi cho đến khi Hội Thánh Cô-rinh-tô tăng trưởng, Phao-lô mới làm báp-tem cho một số người; nhưng đó không phải chức vụ chính của Phao-lô. Trong phần này, Phao-lô không có ý đánh giá thấp phép báp-tem, nhưng đúng hơn ông muốn mọi người có cái nhìn đúng đắn về báp-tem, vì tín hữu Cô-rinh-tô coi trọng phép báp-tem. Người này nói, "Tôi được A-bô-lô làm báp-tem”, kẻ khác nói, “Ồ, nhưng tôi nhận báp-tem nơi Phao-lô! ”


Thật sai lầm khi nhân danh bất cứ người nào để nhận báp-tem hơn là nhân danh Chúa Giê-xu Christ. Làm như vậy sẽ gây nên chia rẽ. Tôi đã đọc những chuyện kể về những người đã nhận lãnh báp-tem từ một nhà truyền đạo nọ, ông dùng một thứ nước đặc biệt (thường là nước sông Giô-đanh), vào dịp trọng thể như thể đây là những vấn đề quan trọng lắm! Thay vì tôn vinh Chúa Giê-xu Christ và tăng thêm sự hiệp một trong Hội Thánh, những người này đề cao con người và tạo ra sự bất hoà.


Cơ-rít-bu là chủ nhà hội tại Cô-rinh-tô (Cong 18:8); và Gai-út có thể là người ở với Phao-lô khi ông viết thư Rô-ma (Ro 16:23). “Người nhà Sê-pha-na” (ICo 1:16) có lẽ được mô tả một phần trong ICo 16:15-18. Hình như Phao-lô không mang theo ông bản danh sách những người ông làm báp-tem. Họ được ghi trong sách của Đức Chúa Trời là đầy đủ rồi.


Phao lô có chịu đóng đinh thay cho bạn không? (ICo 1:18-25). Việc nhắc đến thập tự giá trong (ICo 1:17) giới thiệu một phần dài về quyền năng của Phúc Âm đối ngược với sự khôn ngoan yếu kém của con người. Thật thú vị khi thấy cách Phao-lô giải quyết vấn đề chia rẽ trong Hội Thánh. Trước hết, ông đưa ra sự hiệp nhất trong Đấng Christ: có một Đấng Cứu Thế và một thân thể. Tiếp theo ông nhắc họ nhớ phép báp-tem của họ, một bức tranh về báp-tem thuộc linh trong thân thể Đấng Christ (ICo 12:13). Và bây giờ ông dẫn họ đến với thập tự giá.


Đóng đinh trên cây gỗ không chỉ là cái chết kinh sợ; nó còn là cái chết nhục nhã.Theo luật pháp một công dân La Mã không bao giờ bị đóng đinh trên thập tự giá.Trong xã hội trí thức thượng lưu hình án thập tự giá không hề được ai nhắc đến, còn hơn ngày hôm nay chúng ta bàn luận về phòng hơi ngạt hoặc ghế điện ngay trong bữa ăn gia đình.


Chữ chìa khoá trong phân đoạn này là “sự khôn ngoan”; được dùng đến tám lần. Ý tưởng trọng tâm Phao-lô diễn đạt ấy là chúng ta không được phép pha lẫn sự khôn ngoan của con người vào sứ điệp được Đức Chúa Trời mạc khải. Toàn bộ mục nói về sự khôn ngoan (ICo 1:17-2:16) đưa ra một số nét tương phản giữa Lời mạc khải của Đức Chúa Trời với sự khôn ngoan của con người.


Sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được bày tỏ chủ yếu qua thập tự giá của Chúa Giê-xu Christ, nhưng không phải ai ai cũng nhận thấy. Phao-lô vạch ra rằng có ba thái độ khác nhau đối với thập tự giá.


Một số người vấp ngã vì thập tự giá. Đây là thái độ của người Do Thái, vì họ coi trọng các dấu lạ và xem nhẹ thập tự giá. Lịch sử dân Do Thái đầy dẫy những sự kiện lạ lùng, từ khi họ ra khỏi Ai Cập cho đến thời Ê-li và Ê-li-sê. Khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ Ngài trên đất, các nhà lãnh đạo Giu-đa liên tục đòi hỏi Chúa thi hành dấu lạ từ Trời; nhưng Ngài từ chối.


Dân Do Thái không hiểu Kinh Thánh thiêng liêng của họ. Họ tìm kiếm Đấng Mê-si-a giống như vị anh hùng mạnh sức chinh phục và đánh bại mọi kẻ thù. Rồi Người sẽ thiết lập vương quốc của Ngài và đem vinh quang về cho dân Y-sơ-ra-ên. Câu hỏi của sứ đồ trong Cong 1:6 cho thấy hy vọng này trong vòng dân Do Thái mạnh mẽ như thế nào.


Đồng thời các thầy dạy luật lưu ý trong Kinh Thánh Cựu Ước dạy rằng Đấng Mê-si-a sẽ chịu đau đớn và chết. Các chương đoạn như Thi 22:1-31 Es 53:1-12, hướng về một Đấng Mê-si-a loại khác nên các học giả không thể dung hoà hai hình ảnh có vẻ trái ngược này. Họ không hiểu Đấng Mê-si-a của họ phải chịu đau đớn và chết trước khi Ngài có thể vào trong sự vinh hiển của Ngài (Lu 24:13-35), và họ không biết kỷ nguyên Hội Thánh diễn ra trước vương quốc của Đấng Mê-si-a trong tương lai.


Vì người Do Thái tìm kiếm quyền năng và sự vinh hiển, họ bị vấp ngã vì sự yếu đuối của thập tự giá. Làm thế nào người ta có thể đặt đức tin nơi một người thợ mộc thất nghiệp ở Na-xa-rét đã mang lấy cái chết nhục nhã của tên tội phạm được?Nhưng Phúc Âm của Chúa Giê-xu Christ là “quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Ro 1:16). Thay cho lời chứng yếu ớt, thập tự giá là công cụ lạ lùng của quyền năng! Rốt cuộc, “sự yếu đuối của Đức Chúa Trời (trên thập tự giá) là mạnh hơn người ta” (ICo 1:25).


Số người nhạo báng thập tự giá. Đây là phản ứng của người Hy Lạp. Đối với họ, thập tự giá là sự rồ dại. Người Hy Lạp coi trọng sự khôn ngoan; chúng ta vẫn nghiên cưú những bài viết sâu sắc của các triết gia Hy Lạp. Họ không nhìn thấy sự khôn ngoan trên thập tự giá vì họ nhìn thập tự giá theo cách nghĩ của con người. Nếu họ nhìn nhận thập tự giá theo nhãn quan của Đức Chúa Trời, chắc chắn họ sẽ thấy rõ sự khôn ngoan trong kế hoạch cứu rỗi lớn lao của Đức Chúa Trời.


Phao-lô yêu cầu ba người đưa ra lời chứng: những người khôn ngoan (chuyên gia), thầy dạy đạo (ngừơi thông thái và nhà văn), và người biện luận (triết gia và người tranh cãi). Ông hỏi họ: Qua sự học tập khôn ngoan của ngừơi đời, các ông có hiểu biết Đức Chúa Trời theo cách cá nhân không? Tất cả đều trả lời không! Việc họ nhạo báng và xem thập tự giá như rồ dại là bằng chứng cho thấy họ đang chết mất.


Phao-lô trích dẫn lời tiên tri (Es 29:14); ở (ICo 1:19) minh chứng rằng Đức Chúa Trời đã định “sự thất bại” nặng nề trên sự khôn ngoan con người. Trong bài diễn văn trên đồi A-rê-ô-ba (đồi Mars), Phao-lô mạnh mẽ nói với các nhà triết học rằng lịch sử La Mã và Hy Lạp chỉ là “các đời ngu muội” (Cong 17:30). Phao-lô không có ý nói họ không biết gì, vì ông biết quá rõ các nhà tư tưởng Hy Lạp đã đạt được một số thành quả. Tuy nhiên, sự khôn ngoan không giúp họ tìm được Đức Chúa Trời và kinh nghiệm ơn cứu rỗi.


Số người tin, từng trải quyền năng và sự khôn ngoan của thập tự giá. Phao- lô không thay đổi sứ điệp khi ông chuyển từ thính giả Do Thái sang thính giả Hy Lạp: ông giảng Đấng Christ đã bị đóng đinh trên thập giá. “Sự giảng dồ dại” (ICo 1:21) không có nghĩa hành động giảng dạy là dồ dại, đúng hơn là nội dung sứ điệp. Bản Kinh Thánh diễn ý nói, "qua lời truyền giảng khờ dại”, và điều này hoàn toàn đúng.


Những người được gọi bởi ân điển của Đức Chúa Trời, và bởi đức tin xưng nhận danh Ngài (IITe 2:13-14), nhận ra rằng Đấng Christ là quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Không phải Đấng Christ trong máng cỏ, trong đền thờ hay nơi phố chợ - nhưng là Đấng Christ trên thập tự giá. Chính trong sự chết của Đấng Christ, Đức Chúa Trời đã vạch trần sự khôn ngoan con người là khờ dại và sức mạnh của con người là yếu đuối.


Chúng ta được kêu gọi vào trong mối tương giao vì chúng ta hiệp làm một trong Chúa Giê-xu Christ: Ngài chết vì tội lỗi chúng ta; chúng ta nhận lãnh báp-tem trong danh Ngài; đồng chết với Ngài trên thập tự giá. Thật là nền tảng kỳ diệu cho sự hiệp một thiêng liêng!


3. Được gọi để làm vinh hiển Đức Chúa Trời (ICo 1:26-31)

Tín hữu Cô-rinh-tô có khuynh hướng “vênh váo” tự đắc (ICo 4:6,18-19 ICo 5:2). Nhưng Phúc Âm của ân điển Đức Chúa Trời không dung túng sự kiêu ngạo cá nhân. Đức Chúa Trời không chú ý đến bề ngoài, địa vị xã hội, thành đạt, tài sản hoặc khả năng tài chánh của chúng ta. Hãy lưu ý Phao-lô viết “nhiều người” chớ không phải “bất cứ người nào”. Trong Tân Ước, chúng ta có gặp một số tín hữu “có địa vị cao trong xã hội”, nhưng không có nhiều. Phao-lô mô tả về những người trở lại đạo tất nhiên ông không có ý tâng bốc họ (ICo 6:9-11).


Phao lô nhắc họ nhớ lại địa vị của họ. (ICo 1:26). Họ không khôn ngoan, quyền thế, hoặc sang trọng. Đức Chúa Trời kêu gọi họ không phải vì họ là gì, nhưng là dù họ là gì đi nữa. Hội Thánh Cô-rinh-tô bao gồm chủ yếu những người bình thường là những tội nhân đáng ghê tởm. Trước khi trở lại đạo, Phao-lô công bình riêng;ông ta phải từ bỏ tôn giáo của mình để vào thiên đàng! Người Cô-rinh-tô là một hình ảnh ngược lại nhưng đối với Đức Chúa Trời họ không quá tội lỗi đến nỗi Ngài không thể đến cứu họ.


Mục sư Robert Murray McCheyne người Tô-cách-lan khả kính một ngày nọ gởi một truyền đạo đơn cho một phụ nữ, bà này hết sức phản đối."Ông không biết tôi là ai! ” bà ấy nói với giọng giận dữ. Mục sư McCheyne đáp, "Thưa bà, sẽ có ngày phán xét sắp xảy ra, trong ngày đó bà là ai chẳng có gì quan trọng! ”


Phao lô nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ lý do Đức Chuá Trời kêu gọi họ (ICo 1:27-29). Đức Chúa Trời chọn người ngu dại, người yếu đuối, người tầm thường ("xuất thân từ dòng dõi thấp kém"), và người bị khinh bỉ để bày tỏ cho thế gian kiêu ngạo biết nhu cầu của họ và ân điển của Ngài. Thế gian hư mất ngưỡng mộ xuất xứ gia đình, địa vị xã hội, thành đạt về tài chánh, quyền thế và được mọi người công nhận. Nhưng chẳng có điều nào bảo đảm cho sự sống đời đời.


Sứ điệp và phép lạ của ân điển Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-xu Christ hoàn toàn làm cho người sang trọng quyền thế trong thế gian này phải lúng túng ("làm hổ thẹn"). Người khôn ngoan trong thế gian không thể hiểu cách nào Đức Chúa Trời biến đổi tội nhân thành thánh nhân, kẻ quyền thế đời này bất lực khi bắt chước phép lạ. “Sự dồ dại” của Đức Chúa Trời làm hổ thẹn người khôn ngoan;sự “yếu đuối” của Đức Chúa Trời làm xấu hổ những kẻ mạnh!


Các sự kiện hằng năm ghi lại trong lịch sử giáo hội đầy ắp những báo cáo về số tội nhân đã được biến đổi bởi quyền năng của Phúc Âm. Trong chức vụ của tôi, giống như chức vụ của hầu hết quí vị Mục sư Truyền Đạo, tôi đã chứng kiến nhiều việc lạ lùng xảy ra mà các luật gia triết gia không thể hiểu được. Chúng tôi đã thấy những thiếu niên phạm pháp trở nên những sinh viên thành đạt và những công dân có ích cho xã hội. Chúng tôi chứng kiến những cuộc hôn nhân đổ vỡ được hàn gắn lại và gia đình được đoàn tụ, nhiều điều lạ lùng trước sự ngỡ ngàng của toà án.


Tại sao Đức Chúa Trời bày tỏ sự dồ dại và sự yếu đuối của hệ thống tổ chức trong thế gian hiện nay, ngay cả triết lý và tôn giáo? “Để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời” (c.29). Sự cứu rỗi phải là sự trọn vẹn của ân điển; nếu không Đức Chúa Trời không thể nào được vinh hiển.


Phao-lô muốn gởi gắm chân lý này đến cho tín hữu Cô-rinh-tô, bởi vì họ khoe mình về loài người (ICo 3:21). Nếu chúng ta khoe mình về loài người - ngay cả những người tin kính như Phi-e-rơ, Phao-lô và A-bô-lô - chúng ta cướp mất sự vinh hiển mà chỉ một mình Đức Chúa Trời xứng đáng được hưởng. Chính thái độ kiêu ngạo này tạo cơ hội gây nên sự chia rẽ trong Hội Thánh.


Cuối cùng, Phao-lô nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ rằng tất cả họ đều ở trong Chúa Giê-xu Christ (ICo 1:30-31). Vì mọi tín hữu đều “ở trong Đấng Christ”, và hưởng tất cả sự cần dùng, tại sao phải tranh cạnh nhau hoặc tự so sánh mình với kẻ khác? Chính Chúa đã làm tất cả mọi sự! “Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa” (ICo 1:31), trích dẫn trong Gie 9:24, và lại trích dẫn trong IICo 10:17).


Những ơn phước thuộc linh chúng ta cần không phải là những điều trừu tượng đánh lừa sự hiểu biết của chúng ta; chúng có cả trong một Con Người, là Chúa Giê-xu Christ. Ngài là sự khôn ngoan (Co 2:3), sự công nghĩa (IICo 5:21), sự nên thánh (Gi 17:19), và sự cứu chuộc của chúng ta (Ro 3:24).


Thực tế, điều nhấn mạnh ở đây là Đức Chúa Trời bày tỏ sự khôn ngoan của Ngài qua sự công bình, nên thánh và cứu chuộc chúng ta nhận được trong Chúa Giê-xu Christ.Đối với Cơ Đốc nhân mỗi từ thần học này đều mang một ý nghĩa đặc biệt. Công bình có liên quan đến việc chúng ta đứng trước mặt Đức Chúa Trời. Chúng ta được xưng công bình: Đức Chúa Trời xưng công nghĩa chúng ta trong Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta cũng được nên thánh, được biệt riêng thuộc về Đức Chúa Trời và hầu việc Ngài. Cứu chuộc cho biết rõ chúng ta được tự do vì Chúa Giê-xu Christ đã trả giá cho chúng ta trên thập tự giá. Khi Chúa Giê-xu Christ tái lâm chúng ta sẽ hưởng được sự cứu rỗi toàn diện.


Vì vậy, về một ý nghĩa nào đó, chúng ta có ba thì cứu rỗi: chúng ta đã được cứu khỏi án phạt của tội lỗi (được xưng công bình); chúng ta đang được cứu khỏi quyền lực của tội lỗi (được thánh hoá); và chúng ta sẽ được cứu khỏi sự hiện diện của tội lỗi (được cứu rỗi). Và mọi tín hữu đều có tất cả các ơn phước này trong Chúa Giê-xu Christ!


Do đó, tại sao chúng ta khoe mình về loài người? Phao-lô có những gì mà bạn không có? Có phải Phi-e-rơ có Chúa Giê-xu Christ nhiều hơn bạn không ? (Có thể Chúa Giê-xu Christ có nhiều hơn trong Phi-e-rơ nhưng đó là chuyện khác! ) Chúng ta không nên tự khoe về mình hoặc về các bậc lãnh đạo thuộc linh nhưng khoe mình trong Chúa.


Khi ôn lại chương này, bạn có thể nhìn thấy được sai lầm người Cô-rinh-tô mắc phải, sai lầm đã tạo điều kiện gây nên rắc rối trong Hội Thánh của họ. Họ không sống theo tiếng gọi thiêng liêng, nhưng thay vào đó họ làm theo tiêu chuẩn của thế gian. Họ làm ngơ tiếng gọi vào sự tương giao thiêng liêng với Đức Chúa Trời và với nhau. Ngược lại, họ chạy theo các lãnh đạo đời này và gây nên chia rẽ trong Hội Thánh. Thay vì khoe mình về Đức Chúa Trời và ơn thương xót của Ngài, họ làm hài lòng mình và khoe khoang về loài người.


Họ là một Hội Thánh ô uế, chia rẽ và mất phước!


Nhưng, trước khi lên án họ, chúng ta nên xem xét lại Hội Thánh của chúng ta và cuộc sống chúng ta. Giống như họ, chúng ta đã được kêu gọi làm thánh đồ, vào mối thông công và được gọi để làm vinh danh Đức Chúa Trời.


Chúng ta có đang sống đúng với tiếng kêu gọi ấy không?


2. KHÔN NGOAN VỀ SỨ ĐIỆP CƠ ĐỐC (ICo 2:1-16)

Trong hành trình chúng tôi đến thành phố Chicago bằng xe ô-tô, vợ tôi lái xe và tôi ngồi bên cạnh đọc những trang in thử của cuốn sách của một tác giả viết do nhà xuất bản yêu cầu tôi xem lại. Thỉnh thoảng tôi bật ra tiếng lầm bầm rồi càu nhàu và cuối cùng tôi lắc đầu, “Ồ không được! Tôi không thể tin được! ”


Vợ tôi nói, “Em cho rằng anh không thích cuốn sách ấy, có gì không đúng trong sách vậy anh?”


Tôi đáp, "Em nói đúng đấy! Hầu như tất cả nội dung trong sách đều có vấn đề, vì tác giả không biết sứ điệp của Phúc Âm thật sự là gì”


Tuy vậy, có một lần tác giả đã nói đúng Phúc Âm. Nhưng trải qua nhiều năm ông ta bắt đầu dùng triết lý (và tôi sợ rằng ông dùng cả chính trị) để giải thích Phúc Âm. Kết quả chỉ đem lại một thông điệp lai tạp không mang ý nghĩa Phúc Âm chút nào.


Đáng lưu ý lúc Phao-lô thi hành chức vụ tại Cô-rinh-tô, ông vâng theo sứ mạng của Chúa rao giảng Phúc Âm. Có điểm tương đồng đẹp đẽ giữa Mat 28:18-20; và Cong 18:1-11.


* Mệnh lệnh của Đấng Christ (Mat 28:18-20)


-“Vậy hãy đi” Mat 28:19


-“Khiến mọi người trở nên môn đệ” (dạy dỗ) Mat 28:19.


-“Làm báp-tem cho họ” Mat 28:19


-“dạy họ” Mat 28:20


-“Và này, Ta thường ở cùng ngươi” Mat 28:20


* Chức vụ của Phao-lô (Cong 18:1-11)


-Phao-lô đến Cô-rinh-tô Cong 18:1


-Nhiều người nghe và tin Cong 18:8


-và nhận lãnh báp-tem Cong 18:8


-Phao-lô dạy lời Đức Chúa Trời 1 năm 6 tháng Cong 18:11


-“Vì Ta ở với ngươi Cong 18:20


Điều đã xảy ra cho Hội Thánh Cô-rinh-tô cũng đang diễn ra trong Hội Thánh ngày nay:Người ta đang pha trộn triết lý (khôn ngoan của con người) với sứ điệp được Đức Chúa Trời bày tỏ, điều này gây nên sự lộn lạo và chia rẽ. Nhiều thầy thông giáo khác nhau đưa ra “cách” rao giảng sứ điệp của mình, và thậm chí có người còn tạo nên vốn từ vựng riêng cho mình!


Phao-lô giải thích ba phần cơ bản trong sứ điệp của Phúc Âm và ông kêu gọi người đọc quay trở lại với những nguyên tắc này.


1. Phúc Âm tập trung vào sự chết của Chúa Giê-xu Christ (ICo 2:1-5)

Phao lô nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ lại phương cách rao giảng của ông (ICo 2:1-2). Những chữ mở đầu, “và tôi”, có thể dịch là “do đó, dựa vào” theo nền tảng của ICo 1:31 - sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Phao-lô không đến Cô-rinh-tô để người khác tôn vinh hoặc thành lập một “nhóm người ủng hộ” cho tôn giáo. Ông đến để ngợi khen Đức Chúa Trời.


Các triết gia và giáo sư dựa vào sự khôn ngoan và tài năng hùng biện của mình để thu phục đệ tử khi đi thuyết giáo từ nơi này đến nơi kia. Thành phố Cô-rinh-tô “đầy dẫy các giáo sư giả”. Phao-lô không dựa vào tài diễn xuất hoặc lối hùng biện khéo léo; ông chỉ rao giảng lời Đức Chúa Trời trong quyền năng Thánh Linh.Ông là sứ giả của Chúa chớ không phải “kẻ mua bán Cơ Đốc”.


Nếu Phao-lô dùng lời nói và triết lý hoa mỹ, chắc chắn ông đã đề cao bản thân mình và che khuất chính Đấng ông rao giảng! Đức Chúa Trời sai Phao-lô giảng sứ điệp Phúc Âm “không dùng lời nói khôn ngoan kẻo thập tự giá của Đấng Christ ra vô ích” ICo 1:17.


Một Hội Thánh kia lắp một cửa sổ bằng kiếng màu xinh xắn ngay phía sau toà giảng.Tấm kiếng chạm hình Chúa Giê-xu Christ bị treo trên thập tự giá. Chủ nhật nọ Hội Thánh mời một mục sư đến giảng, vị mục sư này thấp hơn mục sư chủ toạ. Một bé gái lắng nghe mục sư diễn giả một lúc rồi em quay sang hỏi mẹ:” Ông Mục sư lâu nay đứng ở vị trí khiến chúng ta không thấy được Chúa Giê-xu đâu rồi mẹ?”


Quá nhiều người rao giảng Phúc Âm tự thổi phồng bản thân và ơn tứ của họ đến nỗi không bày tỏ được vẻ đẹp của Chúa Giê-xu Christ. Phao-lô khoe mình về thập tự giá của Đấng Christ (Ga 6:14) và dùng thập tự giá làm trung tâm điểm trong sứ điệp của ông.


Phao-lô nhắc tín hữu Cô-rinh-tô nhớ lại thái độ của ông (ICo 2:3-4). Dầu là sứ đồ, nhưng Phao-lô đến với họ trong tâm tình của một tôi tớ khiêm nhường. Ông không dựa vào khả năng của mình, ông trở nên vô danh để Đấng Christ có thể được sáng danh. Nhiều năm về sau Phao-lô nhắc lại vấn đề này và tự đối chiếu mình với các giáo sư giả đang lan tràn trong thành phố Cô-rinh-tô (IICo 10:1-12). Phao-lô đã kinh nghiệm khi ông yếu đuối chính là lúc Đức Chúa Trời làm cho ông mạnh mẽ.


Phao-lô nhờ cậy quyền năng của Đức Thánh Linh. Không phải do kinh nghiệm hoặc khả năng đã làm cho chức vụ của ông có năng quyền; nhưng do công việc của Đức Thánh Linh. Lời rao giảng của Phao-lô là “sự chứng minh” chớ không phải “sự phô diễn”. Chữ được dịch là “chứng minh” có nghĩa “chứng cứ hợp pháp biện bạch trước toà”. Đức Thánh Linh dùng lời rao giảng của Phao-lô để biến đổi nhiều cuộc đời và tất cả chứng cớ Phao-lô cần cho sứ điệp của ông đến từ Đức Chúa Trời.Nhiều tội nhân xấu xa được biến đổi bởi quyền năng của Đức Chúa Trời! (ICo 6:9-11).


Tuy nhiên, chúng ta nên lưu ý Phao-lô không có ý bảo những người rao giảng cố tình giảng dạy cách sơ sài hoặc tránh dùng các ân tứ Đức Chúa Trời ban cho. Những người như Charles Spurgeon và George Whitefield đã được ban ân tứ hùng biện mạnh mẽ, nhưng họ không cậy vào khả năng tự có của mình. Họ tin cậy nơi quyền năng Thánh Linh của Dức Chúa Trời hành động trong lòng người nghe và Ngài đã làm việc. Những người rao truyền lời Đức Chúa Trời phải sửa soạn và sử dụng mọi ân tứ Đức Chúa Trời ban cho - nhưng không nên tin vào chính mình (IICo 3:5).


Sau hết Phao lô nhắc họ nhớ lại mục đích của ông (ICo 2:5). Phao-lô muốn họ tin cậy vào Đức Chúa Trời và đừng tin cậy vào sứ giả Đức Chúa Trời sai đến. Nếu ông cậy vào sự khôn ngoan con người để giới thiệu kế hoạch cứu rỗi như một hệ thống triết lý, chắc chắn tín hữu Cô-rinh-tô đã tin vào lời giải thích. Nhưng Phao-lô rao báo lời Đức Chúa Trời bởi quyền năng của Ngài, nên kẻ tin đặt niềm tin mình nơi lời chứng: họ kinh nghiệm Đức Chúa Trời đang hành động trong cuộc đời riêng tư của họ.


Cách đây nhiều năm, một Cơ Đốc nhân khôn ngoan nói với tôi, “khi ông dẫn dắt người khác đến với Đấng Christ, đừng bao giờ nói rằng họ được cứu do làm điều này điều kia. Chính công việc của Đức Thánh Linh làm chứng cho họ biết rằng họ được cứu. Nếu Ngài không hành động, chẳng có ai được cứu cả”. Quả là một lời khuyên khôn ngoan!


Tôi nhớ lại một người đỗ đạt cao trung tín nhóm lại trong Hội Thánh tôi đang hầu việc Chúa - ông ta chưa tin Chúa nhưng không chống lại Phúc Âm của Chúa. Nhiều người trong chúng tôi cầu nguyện cho ông khi ông tiếp tục lắng nghe lời Đức Chúa Trời. Ngày kia một tín hữu bạn ông ta quyết định kêu gọi ông tin Chúa, nếu không sẽ bị hư mất! Người tín hữu kia để nhiều thì giờ đưa ra lý lẽ này chứng cứ kia và sau cùng thuyết phục được người bạn của mình “cầu nguyện tin Chúa”.Sau khi cầu nguyện người đàn ông ấy không đi nhà thờ nữa! Tại sao vậy? vì ông ta đã nghe những “lời thuyết giáo” không thật và biết mình không thể tin theo.Về sau, người đàn ông ấy thật sự tin nhận Chúa Giê-xu và qua Đức Thánh Linh ông ta có sự bảo đảm về ơn cứu rỗi. Mãi cho đến thời điểm ấy, nếu ai hỏi ông ta có được cứu không, ông ta sẽ trả lời, “Ồ có chớ, Anh Tom bảo tôi đã được cứu! ”.Khi Đức Thánh Linh ấn chứng sự cứu rỗi cho chúng ta quả thật khác nhau!


Phúc Âm vẫn là quyền năng của Đức Chúa Trời để biến cải đời sống con người (Ro 1:1). Hiệu quả truyền giáo không tuỳ thuộc vào tài biện luận hoặc mánh lới quảng cáo tài tình của chúng ta, nhưng bởi quyền phép của Đức Chuá Trời hành động trong cuộc sống chúng ta và qua lời Kinh Thánh chúng ta chia sẻ.


2. Phúc Âm là một phần trong kế hoạch đời đời của Đức Chúa Trời (ICo 2:6-9)

Sự cứu rỗi được Đức Chúa Con chuộc mua nhưng do Đức Chúa Cha hoạch định. Những người rao báo về “Phúc Âm đơn sơ” thì vừa đúng lại vừa sai. Đúng vậy, sứ điệp của Phúc Âm đơn giản đủ để người dốt nát hiểu tin nhận và được cứu. Nhưng cũng sâu sắc đến nỗi nhà thần học lỗi lạc nhất cũng không tài nào dò được bề sâu của nó.


Trong Phúc Âm có “sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời” thách thức người có trí tuệ nhạy bén nhất. Tuy nhiên, sự khôn ngoan này không dành cho đa số tội nhân hư mất, cũng không dành cho những tín hữu không trưởng thành. Sự khôn ngoan ấy chỉ dành cho những Cơ Đốc nhân trưởng thành lớn lên trong sự hiểu biết lời Đức Chúa Trời. (Chữ trọn vẹn trong câu 6 có nghĩa “trưởng thành” (ICo 3:1-4). Ở đây có lẽ Phao-lô muốn trả lời cho số tín hữu trong Hội Thánh đề cao A-bô-lô, một nhà truyền đạo uyên bác và sâu nhiệm. (Cong 18:24-28).


Chúng ta hãy chú ý các đặc tính của sự khôn ngoan Đức Chúa Trời.


Sự khôn ngoan đến từ Đức Chúa Trời, không phải từ con người (ICo 2:7). Sự khôn ngoan này bày tỏ cho các thánh đồ biết về kế hoạch vĩ đại đời đời Đức Chúa Trời vạch ra cho dân sự và tạo vật của Ngài. Người khôn ngoan nhất trong “các con cái đời này” không thể nào tìm thấy sự khôn ngoan lạ lùng Phao-lô nhận được từ Đức Chúa Trời.


Sự khôn ngoan đã bị giấu kín (ICo 2:7). Đó là lý do tại sao sự khôn ngoan được gọi là sự mầu nhiệm, vì sự mầu nhiệm trong Tân Ước là “điều bí mật thánh”, chân lý đã giấu kín trải qua các đời xưa kia nhưng bây giờ được bày tỏ cho dân sự Đức Chúa Trời. Chính Phao-lô được Đức Chúa Trời sử dụng cách đặc biệt để ban bố các “lẽ mầu nhiệm” khác nhau liên quan đến Phúc Âm (Eph 3:1-21); nhưng hãy chú ý đến sự lặp lại của đại từ “chúng tôi”. Phao-lô không loại trừ các sứ đồ khác.


Sự khôn ngoan bao hàm sự định sẵn của Đức Chúa Trời (ICo 2:7). Điều này có nghĩa Đức Chúa Trời thiết lập kế hoạch, Ngài thực hiện kế hoạch ấy và bảo đảm chắc chắn sẽ làm trọn những gì Ngài đã định. Kế hoạch cứu rỗi vĩ đại không phải là một ý tưởng vội vàng của Đức Chúa Trời sau khi Ngài thấy những gì con người đã làm. Dù tất cả điều này gây kinh ngạc cho trí hiểu chúng ta nhưng chúng ta phải chấp nhận chân lý Kinh Thánh về sự lựa chọn và tiền định thiên thượng. Ngay cả sự chết của Chúa Giê-xu Christ cũng đã được Ngài định trước (Cong 2:22-23 IPhi 1:18-20), mặc dầu con người phải chịu trách nhiệm cho hành động độc ác của mình. Một trong những bí quyết của đời sống cầu nguyện hiệu quả đó là nắm lấy mục đích của Đức Chúa Trời bằng đức tin (Cong 4:23-31).


Sự khôn ngoan mang lại sự vinh hiển cho con cái Đức Chúa Trời (ICo 2:7). Một trong những lời giải thích quan trọng nhất cho “kế hoạch trải qua các đời” nằm trong Eph 1:4. Trong chương sách ấy ba lần Phao-lô giải thích rằng tất cả việc này được thực hiện vì vinh hiển Đức Chúa Trời (ICo 2:6,12,14). Thật là một ý nghĩ gây bàng hoàng cho nhiều người khi biết rằng một ngày kia chúng ta sẽ dự phần trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời! (Gi 17:22-24 Ro 8:28-30).


Sự khôn ngoan được giấu kín khỏi thế giới không được cứu (ICo 2:8). “Những người cai quản đời này” được Phao-lô đề cập đến là ai? Chắc chắn những bậc cầm quyền lúc Chúa Giê-xu còn tại thế đã không biết Ngài là ai (Cong 3:17 Cong 4:25-28). Lúc Chúa Giê-xu bị treo trên thập tự giá Ngài đã nhắc lại chân lý này khi cầu nguyện “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết mình làm đều gì” (Lu 23:34). Dĩ nhiên họ không khỏi mắc tội vì sự không biết của mình vì Chúa đã bày tỏ cho họ thấy mọi bằng chứng và đáng lý ra họ phải tin lời dạy của Ngài.


Nhưng còn có khả năng khác. Có thể Phao-lô muốn liên hệ đến các quyền cai trị của cõi vô hình và ma quỉ của thời đại hiện nay (Ro 8:38 Co 2:15 Eph 6:12). Điều này sẽ có ý nghĩa hơn trong câu 6, vì chắc chắn người ta không nhận ra Phi-lát, Hê-rốt và những người lãnh đạo khác vì bất cứ sự khôn ngoan đặc biệt nào. Khôn ngoan đời này xuất phát từ các quyền cai trị vô hình của thời này và Sa-tan là vua của thời đại này (Gi 12:31 Gi 14:30 Gi 16:11). Dĩ nhiên, quyền cai trị của cõi vô hình sẽ hành động trong và qua các quyền cai trị của loài người. Vì vậy có lẽ chúng ta không nên cố ép sự khác biệt. (Gi 13:2,27).


Nhưng nếu lời giải thích này đúng, chúng ta có được sự quan tâm mạnh mẽ. Các thế lực thuộc về Sa-tan trong đó có chính Sa-tan không hiểu được kế hoạch lớn lao đời đời của Đức Chúa Trời! Qua Kinh Thánh Cựu Ước chúng có thể hiểu Con Đức Chúa Trời giáng sinh và chịu chết, nhưng chúng không hiểu được ý nghĩa trọn vẹn của thập tự giá vì Đức Chúa Trời đã giấu kín những chân lý này. Thực ra, thông qua Hội Thánh hiện nay những chân lý này được Đức Chúa Trời bày tỏ ra cho các kẻ làm đầu và những người cai trị (Eph 3:10).


Quỉ Sa-tan nghĩ rằng Gô-gô-tha là nỗi thất bại lớn của Đức Chúa Trời; nhưng hoá ra đó là sự đắc thắng lớn lao của Đức Chúa Trời và là sự thất bại của Sa-tan! (Co 2:15). Từ lúc Chúa chúng ta sinh ra trong thế gian, Sa-tan luôn tìm cách hại Ngài, vì Sa-tan không hiểu đầy đủ kết quả vô cùng lớn lao qua sự chết và sống lại của Đấng Christ. Nếu những người cai quản đời này biết được họ đã không “âm mưu” giết Đấng Christ. (Dĩ nhiên, tất cả mọi sự nằm trong kế hoạch của Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời tể trị chớ không phải Sa-tan).


Cuối cùng, sự khôn ngoan này được sắm sẵn cho đời sống Cơ Đốc nhân ngày nay (ICo 2:9). Câu Kinh Thánh này thường được sử dụng trong các tang lễ và ứng dụng cho thiên đàng, nhưng điều ứng dụng căn bản phải dành cho Cơ Đốc nhân ngày nay. Câu Kinh Thánh kế tiếp nói rõ Đức Chúa Trời đang bày tỏ những điều đó cho chúng ta ngay bây giờ.


ICo 2:9 là lời trích (viết lại) từ Es 64:4. Nội dung trực tiếp liên hệ tới dân Y-sơ-ra-ên trong cảnh phu tù trông đợi ơn giải cứu của Đức Chúa Trời. Dân tộc này phạm tội và bị lưu đày qua Ba-by-lôn. Họ khóc lóc kêu xin Đức Chúa Trời giải cứu và Ngài đã nhậm lời cầu xin của họ sau 70 năm sống kiếp nô lệ. Đức Chúa Trời có chương trình cho dân sự của Ngài và họ không phải sợ hãi (Gie 29:11).


Phao-lô đã ứng dụng nguyên tắc này với Hội Thánh. Tương lai chúng ta được bảo đảm trong Chúa Giê-xu Christ cho dù chúng ta có thể ở trong hoàn cảnh nào. Thực ra, kế hoạch của Đức Chúa Trời quá kỳ diệu đến nỗi trí óc chúng ta không thể hiểu nổi hoặc hình dung ra được! Đức Chúa Trời đã hoạch định điều này để làm vinh hiển chúng ta (c.7) Đó là vinh hiển từ đất lên Trời!


Đối với người kính mến Đức Chuá Trời, mỗi ngày đều tốt đẹp (Ro 8:28). Không phải kể như một ngày tốt đẹp hoặc cảm thấy thích ngày ấy; nhưng khi Đức Chúa Trời đang thi hành kế hoạch của Ngài, chúng ta có thể nắm chắc điều tốt đẹp nhất. Chính lúc chúng ta không tin cậy Ngài, không vâng lời Ngài, tình yêu chúng ta đối với Ngài trở nên nguội lạnh, đời sống chúng ta trở thành u buồn tuyệt vọng. Nếu bước đi trong sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, chúng ta sẽ tận hưởng ơn phuớc của Ngài.


Chúng ta đã xem xét hai chân lý quan trọng của Phúc Âm: sứ điệp này đề cập thẳng về sự chết của Chúa Giê-xu Christ và là một phần lớn lao trong chương trình đời đời lớn lao của Đức Chúa Trời. Tín hữu Cô-rinh-tô đã quên công ơn cứu chuộc của Chúa Giê-xu Christ; họ rời mắt khỏi thập tự giá. Họ cũng quan tâm đến những việc nhỏ nhặt - “đồ chơi trẻ con” - bởi vì họ không còn chiêm ngưỡng sự vĩ đại trong chương trình Đức Chúa Trời dành cho họ. Họ cần phải quay lại công việc của Đức Thánh Linh và đây quan điểm kế tiếp của Phao-lô.


3. Đức Thánh Linh bày tỏ về Phúc Âm qua Kinh Thánh (ICo 2:10-16)

Sự cứu rỗi dành cho chúng ta được cả Ba ngôi Đức Chúa Trời thực hiện (IPhi 1:2 Eph 1:3-14). Chúng ta không thể được cứu ngoài ân điển của Đức Chúa Cha, sự hi sinh vì lòng thương xót của Đức Chúa Con và sự cáo trách về tội lỗi và làm nên thánh của Đức Thánh Linh. Nói rằng “Tôi tin Đức Chúa Trời” thì chưa đủ. Đức Chúa Trời nào vậy? Nếu không phải Đức Chúa Trời là Cha Chúa Giê-xu Christ chúng ta (Eph 1:3) thì không thể có sự cứu rỗi nào cả.


Sự cứu rỗi có trong cả ba ngôi Đức Chúa Trời giúp chúng ta hiểu rõ hơn những lẽ mầu nhiệm kín giấu về ơn cứu chuộc của chúng ta. Nhiều người hoang mang (hoặc hoảng sợ) khi nghe về sự chọn lựa và sự định trước: Về phần Đức Chúa Trời, tôi đã được cứu lúc Ngài chọn tôi trong Đấng Christ trước buổi sáng thế (Eph 1:4); nhưng tôi không biết gì về thời điểm tôi được cứu! Đó là một phần giấu kín trong kế hoạch lạ lùng đời đời của Đức Chúa Trời.


Về phần Đức Chúa Con tôi được cứu khi Ngài chết thay tôi trên thập tự giá. Ngài đã chết thay tội lỗi của cả nhân loại, tuy vậy cả nhân loại không được cứu. Đây là lúc Đức Thánh Linh đến: Về phần Đức Thánh Linh, tôi được cứu vào ngày 12 tháng 5 năm 1945 tại một hội đồng của Thanh Niên Tin Lành nơi tôi nghe Tấn sĩ Billy Graham (lúc còn là nhà truyền giáo trẻ tuổi) rao giảng sứ điệp của Phúc Âm. Lúc ấy Đức Thánh Linh cảm động lòng tôi qua lời Thánh Kinh. Tôi tin nhận Chúa và Đức Chúa Trời đã cứu rỗi tôi.


Phao-lô đề cập đến bốn chức vụ quan trọng của Đức Thánh Linh.


Đức Thánh Linh ngự trong lòng kẻ tin (ICo 2:12). Chính giây phút bạn tin nhận Chúa Giê-xu Christ, Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự vào lòng bạn và biến thân thể của bạn nên đền thờ của Ngài (ICo 6:19-20). Đức Thánh Linh ban báp-tem cho bạn (chứng nhận bạn) được gia nhập vào trong thân thể Đấng Christ (ICo 12:13). Ngài ấn chứng cho bạn (Eph 1:13-14) và sẽ ở với bạn (Gi 14:16). Ngài đem đến cho bạn ân tứ của Đức Chúa Trời.


Đức Thánh Linh là Thần của sự tự do (IICo 3:17). Chúng ta không nhận “thần thế gian” vì chúng ta được gọi ra khỏi thế gian này và không thuộc về thế gian nữa (Gi 17:14,16). Chúng ta không còn ở dưới quyền thống trị của quỉ Sa- tan và thế giới tăm tối của nó.


Chúng ta cũng không nhận “thần trí của tôi mọi đặng còn ở trong sự sợ hãi (Ro 8:15). Đức Thánh Linh bày tỏ lòng yêu thương cho chúng ta và cho chúng ta biết rõ về Đức Chúa Cha. Điều này phù hợp với IITi 1:17 - “Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh mẽ, có tình yêu thương và giè giữ”.


Đức Thánh Linh dò xét (ICo 2:10-11). Tôi không biết được điều gì đang diễn ra trong con người của bạn, nhưng thần linh bên trong bạn biết rõ. Tôi cũng không thể biết “Những điều sâu xa của Đức Chúa Trời” nếu như tôi không thể bằng cách nào đó bước vào bản tính của Đức Chúa Trời. Tôi không làm được điều đó - nhưng bởi Thánh Linh, Đức Chúa Trời đã hiểu nhân cách của tôi. Qua Đức Thánh Linh, mỗi tín hữu trở nên người dự phần vào chính sự sống của Đức Chúa Trời.


Đức Thánh Linh biết “Những sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời” và bày tỏ ra cho chúng ta. ICo 2: 10 nói rõ “Những sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời” là cách giải thích khác về “Những điều Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho những người yêu mến Ngài” (ICo 2:9). Ngày nay Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết mọi ơn phước của ân điển Ngài đã dành sẵn cho chúng ta.


Đức Thánh Linh dạy dỗ (ICo 2:13). Chúa Giê-xu phán hứa rằng Đức Thánh Linh sẽ dạy dỗ chúng ta (Gi 14:26) và hướng dẫn chúng ta vào mọi chân lý (Gi 16:13). Nhưng chúng ta nên chú ý cẩn thận chuỗi sự kiện ở đây: Đức Thánh Linh dạy dỗ Phao-lô qua Thánh Kinh, và Phao-lô dạy dỗ những điều học được lại cho tín hữu. Chân lý của Đức Chúa Trời được tìm thấy trong Lời của Ngài. Đáng chú ý các chân lý thuộc linh này được bày tỏ trong từng lời cụ thể của Thánh Kinh. Trong Lời Đức Chúa Trời, chúng ta có nhiều ý tưởng được thần cảm bởi Đức Thánh Linh. “Vì con đã truyền cho họ những lời Cha đã truyền cho con” (Gi 17:8).


Bốn người con chúng tôi đều có nghề nghiệp riêng. Chúng tôi có một con là mục sư, một con là y tá, một con là nhà thiết kế điện tử và một thư ký trong một hãng kinh doanh nhà ở. Mỗi người con đều phải học vốn từ chuyên môn để thành đạt trong công việc. Người con duy nhất tôi thực sự hiểu là người làm mục sư.


Cơ Đốc nhân sống thành công phải học biết vốn từ ngữ của Đức Thánh Linh và sử dụng hằng ngày. Người ấy hiểu biết ý nghĩa của sự xưng công bình, nên thánh, sự nhận làm con nuôi, tha thứ, chọn lựa, thần cảm... Trong khi hiểu được ngôn ngữ của Đức Chúa Trời, chúng ta hiểu được lời Đức Chúa Trời và ý chỉ của Ngài trên đời sống chúng ta. Nếu các sinh viên kỹ thuật nắm được các thuật ngữ hoá học, vật lý hoặc điện tử, tại sao Cơ Đốc nhân được Đức Thánh Linh dạy dỗ lại thấy khó hiểu ngôn ngữ trong chân lý Cơ Đốc?


Tuy nhiên tôi nghe các thành viên Hội Thánh bảo “Đừng giảng giáo lý của Chúa. Hãy cho chúng tôi những lời lẽ thân tình để khích lệ chúng tôi! ” Bài giảng đặt trên nền tảng nào? Nếu lời giảng không căn cứ trên giáo lý, chẳng đem lại kết quả gì! Nhiều người than phiền “Nhưng cứ nói về giáo lý thì chán lắm”. Không đâu nếu như người ta trình bày nó theo cách Kinh Thánh trình bày. Đối với tôi giaó lý thật tuyệt diệu! Thú vị làm sao khi có thể học hỏi lời Kinh Thánh và để Đức Thánh Linh dạy dỗ chúng ta” những điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời” (ICo 2:10).


Đức Thánh Linh dạy dỗ con cái Ngài như thế nào? Ngài ví sánh” những điều thuộc linh với thuộc linh. Ngài nhắc chúng ta nhớ lại lời Ngài phán dạy (Gi 12:26), liên hệ lời dạy dỗ ấy với chân lý mới mẻ và dẫn chúng ta vào sự hiểu biết mới với những ứng dụng mới trong chân lý chúng ta đã nghe. Thật vui biết bao khi ngồi trước những trang Kinh Thánh và được Đức Thánh Linh bày tỏ cho chúng ta hiểu sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. Điều ngăn trở là nhiều Cơ Đốc nhân không có thời gian để ngồi lại yên lặng suy gẫm. Họ đang đánh mất nguồn phước vô tận!


Đức Thánh Linh giống như người chủ nhà “đem những vật mới và cũ trong kho mình ra” (Mat 13:52). Điều mới luôn luôn xuất phát từ điều cũ và giúp chúng ta hiểu rõ hơn điều cũ. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những hiểu biết mới mẻ theo chân lý cũ khi chúng ta đối chiếu phần Kinh Thánh này với phần khác. Chúa đặt lời dạy của Ngài trên nền tảng Cựu Ước, tuy nhiên người nghe lấy làm lạ về lời giảng dạy của Ngài vì nó quá mới mẻ và hấp dẫn.


Tôi đề nghị bạn để thì giờ đọc và suy gẫm Kinh Thánh mỗi ngày. Hãy đọc Kinh Thánh theo một thời gian biểu đều đặn và dành thì giờ cầu nguyện, suy gẫm. Hãy để Đức Thánh Linh dò xét lời Đức Chúa Trời và dạy dỗ bạn. Học và áp dụng giáo lý căn bản của Kinh Thánh có thể biến đổi đời sống bạn.


Đức Thánh Linh khiến đời sống tín hữu trưởng thành (ICo 2:14-16). Ở đây có sự đối nghịch giữa người được cứu (được gọi “có tánh thiêng liêng” vì người có Đức Thánh Linh ngự trong lòng) và người không tin (gọi là “có tánh xác thịt” vì không có Đức Thánh Linh ngự trị bên trong). Trong ICo 3:1-4 Phao-lô nói đến hạng người thứ ba, “người xác thịt”. Người ấy là con đỏ trong Đấng Christ, còn ở trình độ trẻ thơ vì người không ăn nuốt lời Chúa để lớn lên.


Xưa kia, mọi Cơ Đốc nhân đều “ở trong xác thịt” chỉ hướng về những sự thuộc về xác thịt. Khi chúng ta tin nhận Đấng Christ, Đức Thánh Linh đến và đưa chúng ta bước vào “lãnh vực thuộc linh” - có thể sống động trong lãnh vực của Đức Thánh Linh. Sau đó chúng ta phải lớn lên! Người chưa được cứu không thể nhận những sự thuộc về Thánh Linh vì không tin và không hiểu. Nhưng mỗi ngày Cơ Đốc nhân nhận lãnh sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh, người ấy lớn lên và trưởng thành.


Một trong những dấu hiệu của sự trưởng thành đó là sự nhận thức rõ – khả năng thấm nhập dưới bề mặt của cuộc sống và thấy bản chất thật của mọi việc. Người chưa được bước đi với mắt thấy và thật sự không thấy điều gì cả. Họ bị mù thuộc linh. Cơ Đốc nhân trưởng thành lớn lên trong sự thông biết thiêng liêng và phát triển khả năng (có sự vùa giúp của Đức Thánh Linh) để ngày càng hiểu đường lối và ý chỉ của Đức Chúa Trời. Tín hữu Cô-rinh-tô không có sự thông sáng này, họ dốt nát về mặt thuộc linh.


“Có ý của Đấng Christ” không có nghĩa chúng ta không bao giờ thất bại và bắt đầu đóng vai Đức Chúa Trời trong đời sống người khác. Không ai huớng dẫn Đức Chúa Trời cả! (Phao-lô trích dẫn tiên tri Es 40:13 và Ro 11:33-36). “Có ý của Đấng Christ” có nghĩa phải nhìn cuộc sống theo quan điểm của Đấng Cứu Thế , đặt để giá trị và sự khát khao của Ngài vào trong tâm trí. Chúng ta phải suy nghĩ theo cách Đức Chúa Trời chớ không theo cách thế gian.


Người chưa được cứu không hiểu Cơ Đốc nhân; họ sống trong hai thế giới khác nhau.Nhưng Cơ Đốc nhân hiểu người chưa được cứu. Câu 15 không cho rằng người chưa được cứu không thể chỉ ra nhược điểm trong đời sống tín hữu (họ thường làm như vậy), nhưng câu Kinh Thánh cho thấy rằng người không tin thực sự không hiểu hết được cuộc sống của người Cơ Đốc đang diễn ra. Tôi thích lời dịch trong bản Kinh Thánh New American Standard Bible: “Nhưng người có tánh thiêng liêng xử đoán mọi sự, và chính mình không bị ai xử đoán”. “Không ai” cũng bao gồm các Cơ Đốc nhân khác. Chúng ta phải cẩn thận đừng trở nên người cai trị thuộc linh trên đời sống đức tin của người khác (IICo 1:24).


Cơ Đốc nhân tại Cô-rinh-tô quá quan tâm đến các ân tứ của Thánh Linh đến nỗi họ bỏ qua chức vụ quan trọng của Đức Thánh Linh. Và họ cũng không quan tâm đến Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con nữa.


Phước thay cho một đời sống quân bình! Và phước hạnh cho người hiểu biết và bày tỏ “hết thảy ý muốn của Đức Chúa Trời” (Cong 20:27).


3. HÃY KHÔN NGOAN VỀ HỘI THÁNH ĐỊA PHƯƠNG (ICo 3:1-22)

Giáo sư Kinh Thánh người Anh, Tiến sĩ G. Campbel Morgan có bốn con trai; tất cả đều làm mục sư. Có người hỏi một người cháu nội của ông xem thử anh ta có muốn trở thành mục sư không, anh ta đáp, “Ồ không, tôi dự định làm việc để kiếm sống.”


Một mục sư có nhiệm vụ phải làm gì? “Chức vụ hầu việc” thật sự là gì? Nếu không biết rõ, chúng ta sẽ không bao giờ biết cách đánh giá chức vụ của mục sư. Có lẽ chẳng có vấn đề nào gây nên nhiều nan giải trong Hội Thánh địa phương hơn vấn đề này: Chúng ta làm sao biết được khi nào vị mục sư và các chức viên trong Hội Thánh đang thực sự làm công việc của họ?


Phao-lô vẽ ra ba bức tranh về Hội Thánh trong chương này và ông dùng các bức tranh này để vạch ra những công việc mà chức vụ ngừơi hầu việc phải hoàn thành. Hội Thánh là một gia đình và gia đình ấy phải trưởng thành (ICo 3:1-4). Hội Thánh là cánh đồng và cánh đồng phải sinh nhiều bông trái (ICo 3:5-9a). Hội Thánh là đền thờ và mục tiêu Hội Thánh phải đạt đến là chất lượng xây nên đền thờ ấy (ICo 3:9b-23).


1. Gia đình - Sự trưởng thành (ICo 3:1-4)

Phao-lô đã giải thích có hai hạng người trong thế gian - người thiên nhiên (chưa được cứu) và người thiêng liêng (đã được cứu). Nhưng bây giờ ông giải thích có hai hạng người được cứu: người trưởng thành và không trưởng thành (xác thịt). Một Cơ Đốc nhân được lớn lên do người đó bằng lòng để cho Thánh Linh dạy dỗ và điều hướng cuộc đời nhờ nuôi mình bằng lời Đức Chúa Trời. Cơ Đốc nhân chưa trưởng thành sống vì những đều thuộc về xác thịt và ít để tâm vào những việc thiêng liêng. Dĩ nhiên, một số tín hữu vẫn còn ấu trĩ thuộc linh vì mới được cứu chỉ một thời gian ngắn, nhưng đó không phải vấn đề Phao-lô đang bàn ở đây.


Phao-lô là “người cha thuộc linh” đã hình thành nên gia đình này (ICo 4:15). Trong suốt 18 tháng hầu việc Chúa tại Cô-rinh-tô, Phao-lô đã hết lòng nuôi dưỡng con cái thuộc linh của ông và giúp họ trưởng thành trong đức tin. Giống như một gia đình, mọi người đều giúp đỡ em bé phát triển và trưởng thành, trong gia đình Đức Chúa Trời chúng ta nên khích lệ sự trưởng thành thuộc linh.


Dấu hiệu của sự trưởng thành là gì? Trước hết bạn có thể biết rõ một người trưởng thành qua thức ăn thường ngày của người đó. Như tôi đã viết ở chương này, chúng ta đang nhìn các cháu trai và gái chúng ta trưởng thành. Cháu Becky vẫn được mẹ chăm sóc, nhưng cháu Jonathan giờ đang ngồi sử dụng ly tách trên bàn ăn. Khi con cái lớn khôn, chúng học ăn các món khác nhau. Chúng chuyển từ chế độ ăn sữa qua ăn thịt (theo cách dùng từ của Phao-lô).


Có gì khác nhau? Thông thường “sữa” tiêu biểu cho những ý tưởng dễ hiểu trong Kinh Thánh, trong khi “thịt” tiêu biểu cho những giáo lý khó hiểu. Nhưng tôi không đồng ý với lối giải thích truyền thống ấy, và bằng chứng của tôi được chép trong He 5:10-14. Phân đoạn Kinh Thánh dường như muốn dạy rằng “sữa” nói đến những gì Chúa Giê-xu thực hiện ở thế gian, trong khi “thịt” liên quan đến những gì Ngài hiện đang làm trên Trời. Tác giả thư Hê-bơ-rơ muốn dạy cho chúng ta biết về chức vụ tế lễ hiện nay ở trên Trời của Chúa Giê-xu Christ, nhưng chúng ta còn quá sơ học, lời Kinh Thánh không thể soi sáng cho chúng ta. (Lưu ý He 6:1-4).


Lời Đức Chúa Trời là thức ăn thiêng liêng của chúng ta: sữa thiêng liêng (IPhi 2:2), bánh hằng sống (Mat 4:4), đồ ăn đặc (He 5:11-14), và ngay cả mật (Thi 119:103). Như cơ thể con người mỗi ngày cần một chế độ ăn hợp lý để thân thể khoẻ mạnh thì đời sống thuộc linh cũng cần nuôi sống bằng chất dinh dưỡng thiêng liêng thích hợp. Trẻ sơ sinh bắt đầu ăn sữa, nhưng khi lớn khôn, răng phát triển nó cần đồ ăn cứng.


Xác định một tín hữu có đời sống thuộc linh trưởng thành hay chưa không có gì khó khăn nếu chúng ta tìm hiểu anh ta thưởng thức loại “thức ăn” nào. Cơ Đốc nhân ít biết về chức vụ hiện tại của Chúa Giê-xu Christ ở trên Trời. Người ấy biết những sự kiện về cuộc đời và chức vụ của Chúa chúng ta trên thế gian, nhưng không biết những chân lý về chức vụ hiện tại của Ngài ở trên Trời. Người ấy sống dựa trên “Những chuyện kể trong Kinh Thánh” và không biết về giáo lý của Thánh Kinh. Người chẳng có hiểu biết nào về ICo 1:6-7.


Trong chức vụ truyền giáo lưu hành của tôi, tôi đã giảng dạy tại hằng trăm nhà thờ và hội nghị; và tôi luôn vui mừng vì mọi người đều muốn mở mang và hiểu biết về lời Chúa chớ không phải đến để giải trí. Chúng ta rao giảng Phúc Âm cho tội nhân hư mất là công việc quan trọng, nhưng việc cắt nghĩa về Phúc Âm cho người được cứu cũng quan trọng như vậy. Toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước là lời giải thích và ứng dụng của Phúc Âm. Chẳng hạn, Phao-lô không viết thư Rô-ma để nói cho người Rô-ma biết làm thế nào được cứu rỗi - vì họ đã là thánh đồ. Ông viết thư để giải thích cho họ những điều thực sự liên quan đến sự cứu rỗi. Đó là lời cắt nghĩa “Những lẽ mầu nhiệm kín giấu của Đức Chúa Trời” và cách áp dụng trong cuôc sống thường ngày.


Có một phương cách khác để xác định sự trưởng thành thuộc linh: Cơ Đốc nhân trưởng thành bày tỏ lòng yêu thương và tìm cách sống hoà thuận với người khác. Trẻ con thích cãi vả và làm ầm ĩ cả lên. Trẻ con thích đồng nhất hoá với các anh hùng, anh hùng thể thao hoặc anh hùng màn bạc. Các “con đỏ” trong Hội Thánh Cô-rinh-tô đang tranh luận ai là người giảng đạo tài ba nhất - Phao-lô, A-bô-lô, hay Phi-e-rơ. Điều này nghe giống như trẻ con cãi cọ trên sân chơi:“Ba của tớ đánh nhau giỏi hơn bố của cậu! Ba của tôi làm ra nhiều tiền hơn ba của bạn! ”.


Khi các Cơ Đốc nhân không có nhận thức thuộc linh bước vào chức vụ lãnh đạo trong Hội Thánh, kết quả sẽ vô cùng tai hại. Nhiều mục sư buồn bã gọi điện thoại hoặc viết thư cho tôi hỏi họ phải làm gì đối với các chức viên trong Hội Thánh chỉ nói nhiều chớ không làm gương tốt. (Nói cách công bằng, đôi khi tôi phải nói rằng chính các chức viên Hội Thánh lại viết thư hỏi phải đối xử thế nào với một mục sư không trưởng thành! )


Chức vụ của mục sư là giúp đỡ Hội Thánh trưởng thành thuộc linh và lớn lên trong Chúa. Đây là chức vụ đều đặn chắc và quân bình của lời Đức Chúa Trời. Eph 4:1-16 giải thích chức vụ này được thực hiện như thế nào: Mỗi chi thể trong thân đều cần thiết như nhau. Đức Chúa Trời ban cho con cái Ngài các ân tứ thiêng liêng, và Ngài gởi những người có ân tứ này đến các Hội Thánh khác nhau để gây dựng các thánh đồ. Khi các tín hữu lớn mạnh, họ gây dựng Hội Thánh.


Phao-lô cũng nói thêm về các ân tứ thiêng liêng trong ICo 12:1-14:40, nhưng bây giờ chúng ta nên nói điều này: Một Cơ Đốc nhân trưởng thành sử dụng ân tứ làm dụng cụ để xây dựng, trong khi tín hữu chưa trưởng thành sử dụng ân tứ làm đồ chơi hoặc những tặng thưởng để hãnh diện. Nhiều tín hữu trong Hội Thánh Cô-rinh-tô thích “phô trương” ân tứ của họ, trái lại họ không thích phục vụ lẫn nhau và mở mang Hội Thánh.


Tất cả chức vụ nói lên điều gì? Nó bao gồm lòng yêu thương, chăm sóc nuôi dưỡng và rèn luyện gia đình của Đức Chúa Trời để con cái Ngài lớn lên trong đức tin và ngày càng trở nên giống Chúa Giê-xu Christ hơn.


2. Cánh đồng - Số lượng (ICo 3:5-8)

Phao-lô thích những hình ảnh nông nghiệp và thường dùng trong các thư tín của mình.“Anh em là ruộng Đức Chúa Trời cày” chỉ mang nghĩa “Anh em là cánh đồng được Đức Chúa Trời cày xới, vườn của Đức Chúa Trời chăm sóc.” Trong thí dụ về người gieo giống, Chúa Giê-xu ví tấm lòng con người với các loại đất và Lời Đức Chúa Trời là hạt giống (Mat 13:1-9,18-23). Phao-lô dùng hình ảnh cá nhân và diễn tả thành ý nghĩa tập thể: Hội Thánh địa phương là cánh đồng phải sanh bông trái.Công tác truyền giáo là gieo giống, cày xới đất, tưới nước cho cây, và gặt hái kết quả.


Hình ảnh Hội Thánh như một “cánh đồng” ứng dụng như thế nào với các vấn đề đặc biệt của tín hữu Cô-rinh-tô? Trước hết tầm quan trọng nơi Đức Chúa Trời chớ không nơi người làm việc. Phao-lô và A-bô-lô chỉ là những tôi tớ thực hiện trách nhiệm được giao. Chính Đức Chúa Trời ban sức sống cho các nổ lực của họ. Thậm chí đức tin của tín hữu cũng là đặc ân của Đức Chúa Trời (ICo 3:5). Tập trung chú ý vào tôi tớ là điều sai. Thay vào đó hãy trông đợi nơi Chúa của mùa gặt, nguồn của mọi ơn phước.


Hãy chú ý sự nhấn mạnh trong phân đoạn này về sự tăng trưởng và sự trưởng thành. Vì sao con người lại so sánh các nhà truyền giáo hoặc những thành tích đã đạt? Đức Chúa Trời là nguồn năng lực của sự tăng trưởng, không người nào có thể chiếm vị trí ấy. Hơn nữa, không ai thực hiện được toàn vẹn công tác quan trọng này.Phao-lô đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời làm cho lớn lên (ICo 3:6). Hình ảnh này bày tỏ 3 bài học quan trọng:


Thứ nhất, tính đa dạng của chức vụ hầu việc Đức Chúa Trời. Một người làm công cày xới đất, người khác gieo hạt, người thứ ba tưới nước cho hạt nẩy mầm. Thời gian trôi qua, cây lớn lên và sanh hoa kết trái, những người làm công khác tham gia gặt hái. Ý nhấn mạnh về tính đa dạng này cũng được nhắc tới khi Phao-lô ví Hội Thánh với thân thể có nhiều bộ phận khác nhau.


Thứ hai, sự hiệp một trong mục đích. Cho dù ai đang làm công việc gì cho Chúa đi nữa, người đó vẫn là một bộ phận trong mùa gặt."Người trồng, kẻ tưới đều bằng nhau” (c.8). Phao-lô, A-bô-lô, và Phi-e-rơ không tranh đua với nhau. Đúng hơn, mỗi người đang thực hiện nhiệm vụ được giao dưới quyền của chủ là Chúa Giê-xu Christ. Dầu có sự đa dạng trong chức vụ, có sự hiệp một trong mục đích;và phải là sự hiệp một của Thánh Linh.


Thứ ba, cần phải khiêm nhường. Không phải người làm công tạo nên mùa gặt, nhưng chính Chủ mùa gặt. “Đức Chúa Trời làm cho lớn lên...” (ICo 3:6-7). Đức Chúa Trời đã ban lệnh con người làm sứ giả của Ngài tại trần gian; nhưng nếu mọi nổ lực của họ không có ơn của Đức Chúa Trời sẽ dẫn đến thất bại. Người Cô-rinh-tô tự hào về Hội Thánh của mình, nhiều nhóm khác nhau trong Hội Thánh cũng hãnh diện về các nhà lãnh đạo của mình. Nhưng thái độ “dương dương tự đắc” này đang chia rẽ Hội Thánh vì Đức Chúa Trời không được vinh hiển.


Chúa Giê-xu bày tỏ cùng một ý được ghi lại trong Gi 4:34-38. Kẻ gieo giống và người gặt không những cùng làm việc với nhau, nhưng một ngày kia họ cùng vui mừng nhận phần thưởng riêng của mình. Không thể có môt chức vụ cô lập được, vì mỗi người làm công đều nằm trong công việc của người khác. Tôi có đặc ân hướng dẫn người khác đến cùng Đấng Christ là những người hoàn toàn xa lạ với tôi, nhưng nhiều người khác đã gieo mầm và chăm bón bằng tình yêu và lời cầu nguyện.


“Ai nấy sẽ nhận phần thưởng tuỳ theo việc mình đã làm” (ICo 3:8). Những điều con người có thể nghĩ về chức vụ của chúng ta không có gì quan trọng, nhưng những điều Đức Chúa Trời nghĩ là tối quan trọng. Phần thưởng chúng ta không phải là sự khen ngợi của con người, nhưng là lời khen “Được lắm! ” của Chủ mùa gặt.


Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy sản lượng tăng lên trong cánh đồng của Ngài. Ngài muốn mỗi Hội Thánh địa phương phải sanh bông trái Thánh Linh (Ga 5:22-23), kết quả nên thánh (Ro 6:22), có lòng ban cho (Ro 15:26), sinh ra những việc làm tốt lành (Co 1:10), dâng lời ngợi khen Đức Chúa Trời (He 13:15), và chinh phục linh hồn về cho Đấng Christ (Ro 1:13). Cùng với sự phát triển thuộc linh, cũng nên có biện pháp để gia tăng về số lượng. Quả có hạt tốt để sanh nhiều trái hơn.Nếu kết quả của chức vụ chúng ta chắc thật, cuối cùng sẽ sanh “nhiều quả hơn...sai trái hơn” để làm vinh hiển Đức Chúa Trời (Gi 15:1-8).


Những người đứng trong chức vụ phải thường xuyên chăm bón “mảnh đất” Hội Thánh. Đòi hỏi lòng tận tuỵ và chuyên tâm mới làm nên mùa gặt. Người giảng đạo hay giáo viên Trường Chúa Nhật biếng nhác giống như người nông dân kém siêng năng được Sa-lô-môn mô tả trong Ch 24:30-34). Quỉ Sa-tan đang bận rộn gieo rắc sự bất hoà, dối trá và tội lỗi; vì vậy chúng ta phải siêng năng cày xới đất và gieo trồng hạt giống Lời Đức Chuá Trời.


3. Đền thờ - Chất lượng (ICo 3:9-22)

Người ta thường giải thích phân đoạn Kinh Thánh này nói về việc xây dựng của đời sống Cơ Đốc nhân. Tất cả chúng ta xây trên nền Đấng Christ, nhưng một số người dùng vật liệu tốt trong khi những người khác dùng vật liệu xấu. Loại vật liệu bạn dùng để xây quyết định loại phần thưởng bạn sẽ nhận.


Điều này có thể là một ứng dụng giá trị của phân đoạn Kinh Thánh này, nhưng nó không phải là lời giải thích căn bản. Phao-lô đang bàn về việc xây dựng Hội Thánh điạ phương, đền thờ của Đức Chúa Trời. (Trong ICo 6:19-20 cá nhân tín hữu là đền thờ của Đức Chúa Trời; nhưng ở đây đó là Hội Thánh hữu hình tại địa phương.Trong Eph 2:19-20, toàn thể Hội Thánh được ví như là đền thờ của Đức Chúa Trời.) Phao-lô chỉ rõ một ngày kia Đức Chúa Trời sẽ phán xét công việc chúng ta trong mối liên hệ với Hội Thánh địa phương. “Lửa sẽ thầm định chất lượng công việc của mỗi người” (ICo 3:13).


Đức Chúa Trời quan tâm đến chất lượng xây dựng của chúng ta. Hội Thánh không thuộc về người giảng đạo hoặc thuộc về giáo hội. Hội Thánh chính là của Đức Chúa Trời. “Anh em là nhà Đức Chúa Trời xây” (ICo 3:9). Nếu chúng ta đã tính xây Hội Thánh địa phương theo cách thức Đức Chúa Trời muốn, chúng ta phải thoả mãn các điều kiện nhất định.


Thứ nhất, chúng ta phải xây trên nền đã lập (ICo 3:10-11). Nền đó là Chúa Giê-xu Christ. Lúc Phao-lô đến Cô-rinh-tô, ông quyết định chỉ rao giảng về Đấng Christ và Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá (ICo 2:1-2). Ông đã lập nền móng duy nhất còn lại đời đời. Trong hơn 30 năm chức vụ, tôi đã thấy “nhiều Hội Thánh” ra sức xây trên nền một nhà giảng đạo nổi tiếng hoặc theo một phương pháp đặc biệt, hoặc một niềm tin giáo lý họ cảm thấy quan trọng; nhưng những công việc này không còn lại gì. Tín hữu Cô-rinh-tô đang đề cao các cá nhân - Phao-lô, Phi-e-rơ, A-bô-bô - trong khi họ đáng phải ngợi khen Chúa Giê-xu Christ.


Nền móng được lập bởi việc rao báo Phúc Âm của Chúa Giê-xu Christ. Nền móng là phần tối quan trọng trong việc xây dựng, vì nó quyết định kích thước, hình dáng và sức mạnh của cấu trúc bên trên. Một chức vụ có thể thành công một thời gian, nhưng nếu không được đặt trên nền tảng Đấng Christ, cuối cùng nó sẽ sụp đổ và biến mất.


Tôi đang nghĩ đến một mục sư đã “khám phá một chân lý vĩ đại” trong Kinh Thánh (kỳ thực, ông đã đọc thấy trong một vài quyển sách) và ông quyết định xây dựng Hội Thánh của mình trên sự thôi thúc của “chân lý vĩ đại ấy”. Ông ta đã ly khai với Hội Thánh và lôi kéo một nhóm người “trung thành với chân lý” ông ta đã khám phá. Nhưng Hội Thánh mới này chẳng bao giờ kết quả. Nhóm người theo ông bây giờ bị tan rã và ông đi hết nhà thờ này đền Hội Thánh nọ tìm cách lôi kéo tín hữu chạy theo sự nghiệp của mình. Vị mục sư ấy đã xây trên nền móng sai.


- Vàng, Bạc, Bửu Thạch


Vĩnh cữu


Xinh đẹp


Có giá trị


Khó kiếm được


- Gỗ, Cỏ Khô, Rơm Rạ


Chóng qua, tạm thời


Tầm thường, xấu xí


Rẻ tiền


Dễ kiếm được


Thứ hai, chúng ta phải xây dựng bằng vật liệu tốt (ICo 3:12-17). Phao-lô miêu tả hai loại vật liệu trái ngược nhau, như biểu đồ cho thấy.


Phao-lô muốn tượng trưng điều gì qua cách chọn lựa vật liệu của ông? Ông không bàn về con người, vì Cơ Đốc nhân là “Những viên đá sống” làm nên đền thờ của Đức Chúa Trời (IPhi 2:5). Cá nhân tôi tin rằng Phao-lô muốn nói đến nền tảng giáo lý trong Lời Đức Chúa Trời. Trong mỗi phần của chương này, Lời Kinh Thánh được thể hiện ở mức độ phù hợp với hình ảnh Hội Thánh Phao-lô đã mô tả. Lời Kinh Thánh là lương thực cho gia đình, hạt giống cho đồng ruộng, và vật liệu xây dựng đền thờ.


Sách Châm ngôn giới thiệu sự khôn ngoan của lời Đức Chúa Trời như là kho tàng được tìm thấy, bảo vệ, và đầu tư vào đời sống hằng ngày. Hãy nghiên cứu những phân đoạn Kinh Thánh sau đây:


“Người nào tìm đặng sự khôn ngoan,


Và được sự thông sáng có phước thay!


Vì thà được nó hơn là được tiền bạc,


Hoa lợi nó sanh ra tốt hơn vàng ròng.


Sự khôn ngoan quí báu hơn châu ngọc”


(Ch 3:13-15).


“Hỡi con, nếu con tiếp nhận lời ta,


Dành giữ mạng lịnh ta nơi lòng con;


Để lắng tai nghe sự khôn ngoan,


và chuyên lòng con về sự thông sáng;


Phải, nếu con kêu cầu về sự phân biện,


Và cất tiếng lên cầu xin sự thông sáng;


Nếu con tìm nó như tiền bạc,


và kiếm nó như bửu vật ẩn bí;


Bấy giờ con sẽ hiểu biết sự kính sợ Đức-Giê-Hô-va,


và tìm được đều tri thức của Đức Chúa Trời”


(Ch 2:1-5).


“Khá nhận sự khuyên dạy ta, chớ lãnh tiền bạc;


Thà lãnh sự tri thức hơn là vàng chọn lựa.


Vì sự khôn ngoan có giá hơn châu ngọc;


và các vật mình ưa thích hơn hết chẳng sánh bằng nó đặng”


(Ch 8:10-11).


Khi nào bạn nhớ Phao-lô đang viết về sự khôn ngoan trong ba chương đầu của thư Cô-rinh-tô thứ nhất này, bạn có thể dễ dàng hiểu được mối liên hệ. Tín hữu Cô-rinh-tô đang cố xây Hội Thánh của mình trên sự khôn ngoan loài người, sự khôn ngoan của thế gian này, trong khi họ đáng phải trông cậy vào sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời khi tìm kiếm lời Ngài.


Điều này cho tôi biết những người phục vụ lời Chúa phải đào sâu nghiên cứu Lời Chúa và khai quật vàng, bạc, châu ngọc quí giá để rồi xây những chân lý quí báu này vào trong đời sống con cái Chúa. D.L.Moody đã thường nói những người tin đạo phải có chất lượng cũng như số lượng. Đức Chúa Trời quan tâm cả số lượng cũng như chất lượng, và Phao-lô nói rõ chúng ta có thể đạt cả hai. Người phục vụ trung tín có thể làm việc trong đồng ruộng và nhìn thấy sự tăng trưởng, người ấy có thể xây đắp bằng Lời Đức Chúa Trời và ngắm xem vẻ đẹp cùng phước hạnh lâu bền.


Góp phần vào việc xây dựng đền thờ Đức Chúa Trời là một công tác quan trọng. (ICo 3:16-17) cảnh cáo chúng ta, nếu chúng ta phá huỷ ("làm ô uế") đền thờ của Đức Chúa Trời bằng cách dùng những vật liệu rẻ tiền, Đức Chúa Trời sẽ phá huỷ chúng ta! Dĩ nhiên điều này không mang nghĩa sự đoán phạt đời đời vì ICo 3:15) đảm bảo chúng ta rằng mỗi người làm công đều được cứu, cho dù người dó bị mất phần thưởng. Tôi cho rằng Phao-lô muốn bảo rằng mỗi một chúng ta xây dựng vào trong Hội Thánh những gì chúng ta xây dựng vào cuộc sống riêng của chúng ta. Cựu giáo sĩ truyền giáo tại Ấn Độ, Amy Carmichael, thường nói, "Công tác sẽ chẳng bao giờ kết quả nhiều hơn chúng ta tự kết quả.” Vì vậy cuối cùng chúng ta cũng phá huỷ cuộc đời mình nếu không góp phần xây dựng Hội Thánh bằng những giá trị còn lại đời đời. Có thể dường như chúng ta rất thành công với con người nhưng “ngày đến sẽ tỏ tường công việc nó” và trong ngày ấy, một số công việc sẽ tan mất trong mây khói.


So sánh và hơn thua giữa các công việc là điều thiếu khôn ngoan. Phao-lô cảnh cáo trong ICo 4:5, ” Vậy, chớ xét đoán sớm quá.”


Các nhà truyền đạo trẻ thường hỏi Tiến sĩ Campbell Morgan về bí quyết thành công trên bục giảng của ông. Morgan đáp, “Tôi luôn nói với họ một điều - hãy làm việc; làm việc cần mẫn; và làm việc mãi! ” Morgan có mặt trong phòng làm việc của ông lúc 6 giờ mỗi sáng, đào xới kho tàng của Kinh Thánh. Bạn có thể tìm thấy gỗ, cỏ khô, rơm rạ sân sau nhà của bạn, bạn sẽ không tốn nhiều sức lực để nhặt lên. Nhưng nếu bạn muốn có vàng, bạc, châu báu, bạn phải đào mới tìm được chúng. Những nhà truyền đạo và giáo viên Trường Chúa Nhật lười biếng sẽ phải trả lời nhiều câu hỏi tại Ngôi Phán Xét Của Đấng Christ - những người đánh cắp vật liệu của người khác thay vì nghiên cứu và tìm kiếm vật liệu riêng cho mình cũng sẽ như vậy.


Thứ ba, chúng ta phải xây theo đúng kế hoạch của Đức Chúa Trời (ICo 3:18-20). Như là một cú sốc cho một số thành viên Hội Thánh khi bạn không thể cai quản Hội Thánh như cách điều hành một công việc kinh doanh. Điều này không có nghĩa chúng ta không nên làm theo những nguyên tắc tốt trong kinh doanh, nhưng sự hoạt động hoàn toàn khác nhau. Có sự khôn ngoan thế gian để làm việc cho trần gian này nhưng không thể làm việc cho Hội Thánh được.


Thế gian nương cậy vào sự thăng tiến, thanh thế, ảnh hưởng của bạc tiền và những con người quan trọng. Hội Thánh nương cậy vào sự cầu nguyện, quyền phép Thánh Linh, sự khiêm nhường, đức hy sinh và sự phục vụ. Hội Thánh rập khuôn với thế gian dường như thành công đúng lúc nhưng sẽ trở thành tro bụi trong cõi đời đời. Hội Thánh trong sách Công vụ các sứ đồ không có “những bí quyết thành công” được xem như quan trọng ngày hôm nay. Họ không làm chủ của cải; họ không có ảnh hưởng trong chính phủ; họ không có tài sản (Phi-e-rơ nói, "ta không có bạc vàng chi hết"); lãnh đạo họ là những con người bình thường không có học vấn gì đặc biệt trong các trường học được xã hội công nhận; họ không tổ chức tranh đua; họ không tìm kiếm danh tiếng; nhưng họ đã làm xoay chuyển thế giới!


Đức Chúa Trời có chương trình cụ thể cho mỗi Hội Thánh địa phương (Phi 2:12-13). Mỗi mục sư và lãnh đạo Hội Thánh phải tìm kiếm Đức Chúa Trời để có được sự khôn ngoan của Ngài. ICo 3:19 cảnh báo sự khôn ngoan con người chỉ làm họ mắc bẫy (Giop 5:13); và câu 20 cho biết sự khôn ngoan con người chỉ dẫn đến sự hư không và phù phiếm (Thi 94:11). Mặc dù Hội Thánh phải gắn bó với nhu cầu của thế gian, nhưng không được theo khuôn mẫu của thế gian.


Cuối cùng, chúng ta phải xây dựng bằng động cơ đúng đắn (ICo 3:21-23). Động cơ ấy là làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Tín hữu Hội Thánh Cô-rinh-tô đang khen ngợi con người, đây là việc làm sai. Họ so người này với kẻ kia (ICo 4:6) và chia rẽ Hội Thánh bởi chính hành động trẻ con ấy. Nếu họ tìm cách làm vinh hiển một mình Đức Chúa Trời, ắt hẳn đã có sự hoà thuận trong Hội Thánh.


Phao-lô kết thúc lời kêu gọi này bằng cách cho biết mỗi tín bữu đều sở hữu mọi thứ trong Đấng Christ. Mỗi một đầy tớ của Đức Chúa Trời đều thuộc về mỗi tín hữu như nhau. Không tín hữu nào trong Hội Thánh được nói, “Tôi là của Phao-lô! ”hoặc “Tôi là của Phi-e-rơ! ” vì mỗi đầy tớ của Chúa đều thuộc về mọi tín hữu như nhau. Có lẽ chúng ta không tránh khỏi việc thích người này hơn người giữa vòng những người rao giảng lời Chúa. Nhưng chúng ta không được cho phép sự ưa thích cá nhân của mình trở thành những định kiến gây chia rẽ. Thực ra có thể người truyền đạo tôi ít thích nhất lại là người tôi cần nhất!


“Mọi sự đều thuộc về anh em” - Thế gian, sự sống, sự chết, những sự bây giờ, những việc hầu đến! Chúng ta giàu có trong Đấng Christ là dường nào! Nếu tất cả mọi sự đều thuộc về các con cái Chúa, tại sao phải tranh đua và ganh tị? Phao-lô khuyên, ” Hãy rời mắt anh em khỏi những điều thuộc về con người! Hãy nhìn xem Đấng Christ và cùng làm việc với Ngài trong việc xây dựng Hội Thánh! ”


“Anh em thuộc về Đấng Christ” - điều này giữ thăng bằng mọi sự. Tôi có mọi sự trong Chúa Giê-xu Christ, nhưng tôi không được bất cẩn hoặc sử dụng sự tự do cách thiếu khôn ngoan. “Hết thảy mọi sự đều thuộc về anh em” - tức là Cơ Đốc nhân có sự tự do. “Và anh em thuộc về Đấng Christ” - tức là Cơ Đốc nhân có trách nhiệm.Chúng ta cần cả hai nếu muốn Hội Thánh chúng ta xây dựng không biến thành đống tro tàn khi lửa đổ xuống.


Thật chúng ta cần cầu thay cho những người rao truyền lời Đức Chúa Trời biết bao! Họ phải nuôi nấng gia đình và trưỡng dưỡng con cái lớn lên. Họ phải gieo giống vào đồng ruộng và cầu nguyện cho được tăng trưởng. Họ phải khai thác kho tàng lời Chúa và dùng kho tàng này xây dựng Hội Thánh. Chẳng lấy làm lạ khi Phao-lô la lên, "Ai xứng đáng cho những sự này?" Nhưng ông cũng có câu trả lời:“Nhưng tài năng của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời” (IICo 2:16 IICo 3:5).


4. HÃY SỐNG KHÔN NGOAN VỀ CHỨC VỤ CƠ ĐỐC (ICo 4:1-21)

Trong chương 3, Phao-lô đưa ra ba bức tranh về Hội Thánh địa phương. Trong chương này ông giới thiệu ba hình ảnh về người hầu việc Chúa - người quản lý (ICo 4:1-6), người làm trò cười (ICo 4:7-13), và người cha (ICo 4:14-21). Phao-lô muốn mọi người hiểu Đức Chúa Trời đánh giá và cân nhắc sự hầu việc của Cơ Đốc nhân ra làm sao. (ICo 4: 6) lý giải cho mục đích của Phao-lô:“Chớ sanh lòng kiêu ngạo theo phe người này nghịch cùng kẻ khác.”


Chúng ta phải tránh cực đoan khi đánh giá con người và chức vụ của họ. Một mặt chúng ta quá thờ ơ đến nỗi chấp nhận bất cứ ai. Nhưng mặt khác lại quá khắt khe đến nỗi chính Phao-lô cũng không vượt được tiêu chuẩn. “Phải thử các thần” là điều quan trọng (IGi 4:1-6 IIGi 1:1-13), nhưng chúng ta nên thận trọng đừng làm buồn Đức Thánh Linh khi làm điều ấy.


Trong ba hình ảnh về chức vụ này, Phao-lô đưa ra ba đặc tính của một người hầu việc thật của Chúa Giê-xu Christ.


1. Trung thành - Người quản gia (ICo 4:1-6)

Phao-lô trả lời cho lãnh đạo của các bè phái khác nhau trong Hội Thánh khi ông tự xưng chính mình, Phi-e-rơ và A-bô-lô là “đầy tớ của Đấng Christ”. Chữ được dịch là người hầu việc có nghĩa đen là “Những kẻ chèo thuyền ở tầng dưới”. Nó mô tả những nô lệ chèo thuyền trên chiến thuyền khổng lồ của La Mã. Phao-lô nói, “chúng tôi không phải là những thuyền trưởng con tàu, nhưng chỉ là những nô lệ chèo thuyền theo mệnh lệnh. Vậy, một nô lệ có lớn hơn người khác không?”


Tiếp đến Phao-lô giải thích hình ảnh của người quản gia. Quản gia là đầy tớ coi sóc mọi việc cho chủ của mình, nhưng chính mình không sở hữu vật gì. Giô-sép là quản gia trưởng trong gia đình Phô-ti-pha (Sa 39:1-23). Hội Thánh là “anh em trong đức tin” (Ga 6:10), những người hầu việc Chúa là quản gia phân chia tài sản của Đức Chúa Trời cho gia đình (Mat 13:52). Phao-lô gọi tài sản thiêng liêng này là “Những điều kín giấu của Đức Chúa Trời”. Chúng ta gặp chữ mầu nhiệm kín giấu quan trọng này trong ICo 2:7, bạn có thể xem lại nếu bạn muốn.


Trách nhiệm của người quản gia là phải trung thành với chủ. Quản gia không thể làm hài lòng mọi thành viên trong gia đình; thậm chí cũng không chìu theo một số đầy tớ khác; nhưng nếu làm hài lòng chủ, anh ta là quản gia tốt. Ý tưởng này cũng được diễn tả trong Ro 14:4.


Vậy, vấn đề tranh cãi chính yếu không phải “Phao-lô có nổi tiếng không?” hoặc “Có phải A-bô-lô giảng tốt hơn Phao-lô không?”. Nhưng điều cần quan tâm ấy là “Phao-lô, A-bô-lô, và Phi-e-rơ có trung thành với công việc Đức Chúa Trời đã giao cho họ không?” Chúa Giê-xu đã có trong trí sự thử nghiệm giống như vậy khi Ngài phán lời thí dụ ghi lại trong Lu 12:41-48. Nếu tôi tớ Đức Chúa Trời trung tín trong đời sống riêng tư, trong gia đình, và trong chức vụ rao giảng Phúc Âm của mình, người ấy là quản gia tốt và sẽ nhận phần thưởng xứng đáng.


Nhưng người đầy tớ thường xuyên bị phê phán. Lúc nào cũng có người chỉ trích việc làm của anh ta. Phao-lô nói rõ có ba sự xử đoán xảy ra trong cuộc đời của người quản gia.


Con người xét đoán (ICo 4:3a). Phao-lô không buồn khi người ta xử đoán ông, vì ông biết sự xử đoán của chủ còn quan trọng hơn nhiều. Nhóm từ “con người xử đoán”theo nghĩa đen “ngày của con người"”. Điều này tương phản với Ngày đoán phạt của Đức Chúa Trời chưa đến (ICo 1:8 ICo 3:13).


Tôi tớ tự xử đoán mình (ICo 4:3b-4a). Phao-lô không biết có điều gì sai trái trong đời sống và chức vụ của ông, nhưng thậm chí điều đó cũng không buộc tội ông. Thỉnh thoảng chúng ta thực sự không biết chính mình. Có thể có một điểm khó phân biệt giữa lương tâm trong sáng và thái độ tự cho là công bình, vì vậy chúng ta phải thận trọng.


Phán xét quan trọng nhất là phán xét của Đức Chúa Trời (ICo 4:4b). Quả thật Đức Chúa Trời phán xét chúng ta ngày nay qua Lời Ngài (He 4:12) và qua chức vụ của Đức Thánh Linh. Thỉnh thoảng Ngài dùng chức vụ của người bạn yêu thương giúp chúng ta nhìn thấy tội lỗi và ăn năn (Mat 18:15-17). Nhưng điều chính yếu muốn nói đến ở đây là sự phán xét cuối cùng khi mỗi Cơ Đốc nhân đứng trước Ngôi Phán Xét của Đấng Christ (Ro 14:10 IICo 5:10). Lúc ấy sự thật sẽ bày tỏ ra và tôi tớ trung thành sẽ nhận phần thưởng.


Chúng ta không nên dùng những câu Kinh Thánh này để ủng hộ cho sự tự do tự mãn của con người. Hội Thánh là một gia đình, và các thành viên trong gia đình phải giúp nhau cùng lớn lên. Đó là nơi dành cho sự thành thật, yêu thương và xây dựng. Nếu người phê phán đúng, ấy là người đã giúp chúng ta. Nếu người sai, chúng ta có thể giúp đỡ người. Cách này hay cách khác, chân lý cũng được củng cố.


Phao-lô dùng chữ “vậy” trong ICo 4:5 báo động cho chúng ta biết ông sắp ứng dụng cho chân lý vừa bàn. Phao-lô kết thúc phần này với lời quở trách có ba ý.


Trước hết, “anh em xét đoán tôi tớ Đức Chúa Trời không đúng lúc" (ICo 4:5). Chính lúc Chúa trở lại Ngài sẽ đánh giá đời sống và chức vụ của họ, vì vậy hãy đợi đến lúc ấy. Thực ra, chúng ta không thể nhìn thấy bên trong lòng người; chúng ta không thể xét đoán động cơ của họ. Chỉ một mình Đức Chúa Trời mới làm được điều đó. “Loài người nhìn thấy bề ngoài nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng” (ISa 16:7).


Tín hữu Cô-rinh-tô những người đang xét đoán Phao-lô thực sự “đang đóng vai Đức Chúa Trời” và tự nhận lấy quyền hạn chỉ có nơi Đức Chúa Trời. Trong đời sống chức vụ tôi đã vấp phải sai phạm này biết bao nhiêu lần! Hiểu sai một hoàn cảnh và đoán xét nhầm một anh em quả thật dễ dàng.


Thứ hai, “anh em xét đoán sai tiêu chuẩn” (ICo 4:6a). Tín hữu Cô-rinh-tô đang đo lường năng lực con người bởi sở thích riêng và định kiến của mình. Thậm chí họ còn so những người hầu việc Chúa này với những người khác. Nền tảng thật của sự phán xét là “lời đã chép” - Lời Đức Chúa Trời.


Kinh Thánh bày tỏ rõ ràng về cách sống và sự phục vụ mà những người hầu việc Chúa phải có. Chúng ta không cần phải có những tiêu chuẩn mới. Tôi thường nhận nhiều lá thư do các Hội Thánh đang tìm mục sư gởi đến hỏi xem tôi có gợi ý gì về các ứng viên. Rất nhiều lần “đòi hỏi” của họ vượt ra ngoài khuôn khổ của lời Đức Chúa Trời. Hơn nữa, đó là vấn đề Phao-lô đã bàn trong chương 1 và 2 - sự khôn ngoan của con người so với khôn ngoan của Đức Chúa Trời.


Thứ ba, “anh em xét đoán với động cơ sai” (ICo 4:6b). Mỗi nhóm trong Hội Thánh đang phá đổ những người truyền đạo khác để vun đắp người họ ưa thích. Động cơ của họ không thiêng liêng chút nào cả. Họ đang tạo sự chia rẽ trong Hội Thánh bằng cách ủng hộ người này trong khi chống đối người khác. Họ cần phải xem lại tấm lòng của mình và bỏ đi tánh kiêu ngạo làm phá vỡ Hội Thánh.


Đầy tớ Đức Chúa Trời là những quản gia gìn giữ chân lý của Ngài, và tiêu chuần để kiểm chứng là: Họ đã trung thành vâng theo và giảng dạy lời của Đức Chúa Trời không? Không chỉ trung tín trong việc giảng dạy nhưng cũng trung tín thực hiện nữa. Lời làm chứng của tiên tri Sa-mu-ên (ISa 12:1-5) và của Phao-lô (Cong 20:17) sẽ giúp làm sáng tỏ chân lý này.


2. Sự khiêm nhường - Người làm trò cười (ICo 4:7-13)

Khi Phao-lô gọi ông và các sứ đồ khác là “người làm trò cười cho thế gian” (ICo 4:9), ông đang dùng hình ảnh quen thuộc với người dân trong Đế quốc La Mã. Nhà cầm quyền muốn giữ cho dân chúng yên tịnh bằng cách đưa ra nhiều thú tiêu khiển trong các thành phố. Các chốn vui chơi đầy dẫy người tụ tập chờ xem những trận tranh tài và tù nhân chống lại thú dữ. (Thực ra, chữ đã dịch là làm trò cười trong tiếng Hy Lạp có nghĩa trong tiếng Anh là “nhà hát"). Hí trường Cô-li-dê tại La Mã trở thành trung tâm cho những “hoạt động vui chơi giải trí”này.


Khi “Những cuộc so tài chính yếu” kết thúc, các tù nhân nghèo và yếu nhất bị mang ra đấu với thú dữ. Chẳng ai mong đợi xem cuộc biểu diễn của tù nhân này.


Thật là một hình ảnh nói về các sứ đồ Chúa Giê-xu Christ! Nhưng nó đưa ra bối cảnh cho hàng loạt nét tương phản Phao-lô muốn giới thiệu nhằm mục đích hạ lòng tự cao của người Cô-rinh-tô.


Những vị vua - Những tù nhân (c.7-9). Các câu hỏi trong ICo 4:7 buộc tất cả chúng ta phải dừng lại suy nghĩ. Tôi thích câu hỏi thứ nhất trong bản dịch New American Standard Bible: “Ai coi anh em như người cao trọng?” Có lần một truyền đạo trẻ tuổi nói với bạn tôi, "Xin ông vui lòng cầu nguyện để tôi cứ ở trong sự khiêm nhừơng.” Bạn tôi đáp, “Anh hãy cho tôi biết anh phải tự hào về điều gì?”Tại sao người khác coi chúng ta là cao trọng? Có lẽ đó là thiên kiến của chính chúng ta khiến chúng ta cảm thấy quan trọng. Lời giải nghĩa tốt nhất cho câu ICo 4:7 là lời làm chứng của Giăng Báp-tít, "Ví chẳng từ trên Trời ban cho, thì không một người nào có thể lãnh chi được...Ngài (Đấng Christ) phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Gi 3:27,30).


Phao-lô dùng một chút mỉa mai thiêng liêng trong ICo 4:8 khi ông mô tả tín hữu Cô-rinh-tô như những vị vua. Ông viết, “Thật chúng tôi cũng mong anh em lên ngai để chúng tôi cũng cai trị với anh em! ”. “Nhưng thay vào đó, tôi phải đến đấu trường để chịu khổ vì Chúa Giê-xu Christ. Theo mắt loài người anh em là người cao trọng, nhưng các sứ đồ bị coi thường”. Trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, các sứ đồ được coi trọng, nhưng theo đánh giá của con người họ bị xem nhẹ.


Trong chức vụ hầu việc không có chỗ cho sự kiêu ngạo. Nếu một nhà lãnh đạo tài ba như Phao-lô tự xem mình “là người quan trọng trong chương trình”, vậy tất cả chúng ta còn lại sẽ đứng ở đâu? Tín hữu trong Hội Thánh làm sai khi họ đánh giá người hầu việc Chúa khác với tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời đã dạy bảo. Họ cũng sai khi hãnh diện về các nhà truyền đạo họ yêu thích. Điều này không có ý nói rằng chúng ta không thể nhìn nhận và tôn trọng những đầy tớ trung kiên, nhưng trong tất cả mọi việc, Đức Chúa Trời phải được vinh hiển (ITe 5:12-13).


Người khôn ngoan - Kẻ dại dột (c. 10a). Phao-lô là một dụng cụ theo tiêu chuẩn của con người. Nếu ông giữ chức một Ra-bi Do Thái, chắc chắn Phao-lô đã chiếm được vị trí cao trong Do Thái giáo (Ga 1:14). Hoặc nếu ủng hộ những thầy dạy luật Do Thái tại Hội Thánh Giê-ru-sa-lem và không thi hành chức vụ cho dân ngoại, chắc chắn Phao-lô tránh khỏi được nhiều cơn bắt bớ (Cong 15:1-33 Cong 21:17). Nhưng khi Phao-lô hỏi Chúa, “Ngài bảo tôi phải làm chi?” (Cong 9:6) ông thực sự muốn nói đến điều đó.


Tín hữu Cô-rinh-tô khôn ngoan theo mắt của họ, nhưng thực sự họ ngu dại trước mặt Đức Chúa Trời. Họ đang hành động như kẻ dại dột khi dựa vào sự khôn ngoan và tiêu chuẩn của thế gian. Phương cách để được khôn ngoan thiêng liêng là phải trở nên dại đột theo cái nhìn của thế gian (ICo 3:18). Tôi thường trích dẫn lời nói của nhà tuận đạo Jim Elliot:“Phao-lô không phải là một người dại, ông đã cho những điều ông không thể giữ để có được điều không thể mất.”


Người mạnh - Kẻ yếu (c. 10b). Có một lần Phao-lô khen ngợi về những ưu điểm của mình;nhưng khi gặp Chúa Giê-xu Christ ông khám phá ra rằng những gì ông cho là tốt đẹp thực sự chỉ là sự lỗ (Phi 3:4-8). Chính qua kinh nghiệm chịu khổ trong đời sống cá nhân Phao-lô nhận biết sức mạnh thuộc linh của ông là kết quả của sự yếu đuối trong thân thể (IICo 12:7-10). Lúc chúng ta cảm biết mình mạnh mẽ ấy là lúc chúng ta yếu đuối, ngược lại chúng ta cảm biết mình yếu đuối ấy là lúc chúng ta mạnh mẽ.


Tín hữu Cô-rinh-tô tự hào về những thành quả thuộc linh. Các bè phái trong Hội Thánh hãnh diện về những bậc lãnh đạo thuộc thể và các nhà truyền đạo yêu thích của họ. Nhưng tất cả chỉ là sự yếu đuối. Có được sức mạnh chỉ khi Đức Chúa Trời được vinh hiển. “Sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối” (IICo 12:9).


Được quí trọng - Bị khinh hèn (c. 10c-13). Đây là điểm then chốt của toàn bộ vấn đề:Cơ Đốc nhân tại Hội Thánh Cô-rinh-tô muốn có được quí trọng từ con người, chớ không phải đến từ Đức Chúa Trời. Họ đang ra sức “vay mượn” sự quí trọng bằng cách giao du với “Những người nổi tiếng”. Phao-lô trả lời, ” Nếu anh em kết giao với chúng tôi, tốt hơn hết anh em nên chuẩn bị chịu khổ. Sứ đồ chúng tôi không được tôn trọng - chúng tôi bị khinh hèn! ”


Kế đến Phao-lô miêu tả những thiếu thốn, đau đớn ông phải chịu đựng khi làm đầy tớ của Đức Chúa Trời. Sự việc ông đã lao động bằng đôi tay của mình như người may trại chắc chắn đã hạ thấp giá trị của ông dưới cái nhìn của nhiều người, bởi vì người Hy Lạp coi thường lao động chân tay.


Phao-lô cũng mô tả ông phản ứng thế nào với cách người ta đối xử với ông; và chính điều này đã giúp cho ông nên tôn trọng. Cuộc đời đem lại cho chúng ta những gì tuỳ thuộc vào điều có trong chúng ta. Khi Phao-lô bị rủa sả, ông chúc phước - như Chúa Giê-xu đã phán dạy (Mat 5:44). Khi bị bắt bớ, Phao-lô nín chịu bởi ân điển của Đức Chúa Trời và không trả đũa. Khi bị vu oan, Phao-lô tìm cách khuyên dỗ.Trong mọi hành động, Phao-lô tìm cách bày tỏ phản ứng trong tình yêu.


Kết quả được gì? Con người đối đãi Phao-lô “như rác rến của thế gian ...cặn bã của loài người” (ICo 4:13). “Hãy cất người dường ấy khỏi thế gian! Nó chẳng đáng sống đâu! ” (Cong 22:22). Phao-lô và các sứ đồ khác bị đối xử y như Chúa của họ đã trải qua; nhưng Đức Chúa Trời xác nhận họ và làm vinh hiển danh Ngài.


Trung tín hầu việc và tâm tình khiêm nhường: đây là hai đặc tính quan trọng của người hầu việc Chúa Giê-xu Christ. Người hầu việc Đức Chúa Trời phải sẵn lòng làm việc và chịu khổ. Trung tín và được nhiều người yêu mến là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Nhưng có đặc tính thứ ba làm cho quân bình.


3. Sự nhân hậu - Người cha (ICo 4:14-21)

Phao-lô đã ví sánh Hội Thánh địa phương như là một gia đình (ICo 3:1-4). Nhưng bây giờ sự nhấn mạnh nhắm vào người truyền đạo trong vai trò “người cha thuộc linh”.Chẳng có bức thư nào Phao-lô tự gọi mình là “cha” cả. Phao-lô lưu tâm đến lời dạy của Chúa trong Mat 23:8-12. Nhưng để tự ví sánh với “người cha thiêng liêng”, Phao-lô nhắc nhở Hội Thánh nhớ đến các chức vụ quan trọng ông đã thực hiện vì lợi ích của họ.


Trước hết, Phao-lô đã hình thành gia đình (ICo 4:14-15). Tín hữu Cô-rinh-tô là con cái yêu dấu của Phao-lô trong đức tin. Bất cứ khi nào chúng ta chia sẻ Tin lành cho người nào và vui vẻ hướng dẫn họ đến tin nhận Đấng Christ, chúng ta trở nên “người cha thuộc linh” trong cuộc đời người đó. Điều này không đem lại cho chúng ta quyền hạn đặc biệt nào trên niềm tin của người ấy (IICo 1:24), nhưng điều đó tạo nên mối thông công đặc biệt để Đức Chúa Trời dùng giúp ích cho người đó lớn lên. Hội Thánh địa phương là gia đình của Đức Chúa Trời nhằm giúp ích tân tín hữu lớn lên trong Chúa.


Đáng lưu ý, Phao-lô không nhận một “lời khen tặng nào” đối với những người trở lại đạo. Sự sống thuộc linh họ được sinh trưởng trong Đấng Christ và qua Kinh Thánh. Tội nhân được tái sanh qua công việc Thánh Linh Đức Chúa Trời và Lời của Ngài (IPhi 1:23-25 Gi 3:6). Phao-lô là “người cha” ủng hộ và có mặt lúc họ trở nên con cái Đức Chúa Trời.


Có thể một em bé được nhiều người chăm sóc và dạy dỗ, nhưng chỉ có một người cha.Đứa bé có mối quan hệ đặc biệt với người cha của nó mà không ai khác có quyền dành lấy. Trước khi Phao-lô đến Cô-rinh-tô chưa có Hội Thánh nào tại đó, thành thử các tín hữu thế hệ con cháu trong Hội Thánh cũng là kết quả của chức vụ đầy ơn của Phao-lô.


Phao-lô thành lập Hội Thánh và A-bô-lô kế tục dạy dỗ tín hữu. Trong chừng mực nào đó điều này không được nói rõ trong Kinh Thánh, vì Phi-e-rơ cũng hầu việc Chúa tại Hội Thánh Cô-rinh-tô. (Có lẽ cá nhân Phi-e-rơ không đến đó, nhưng các nhà truyền đạo khác ở Giê-ru-sa-lem “đại diện” cho Phi-e-rơ đến thi hành chức vụ tại Cô-rinh-tô). Con cái Đức Chúa Trời cần sự hầu việc của nhiều giáo sư khác nhau, nhưng không nên quên “người cha thuộc linh” đã dẫn dắt họ đến với Đấng Christ.


Thứ hai, Phao-lô là một tấm gương cho gia đình (ICo 4:16-17). Trẻ con có cách bắt chước cha mẹ chúng, cả việc tốt lẫn việc xấu. Các nhà nghiên cứu cho biết các em ở tuổi vị thành niên học cách uống rượu tại nhà không phải từ nơi các bạn cùng trang lứa. Điều ước đoán của tôi là những thói hư tật xấu khác cũng được các em bắt chước theo như vậy.


Chữ “người đi theo” có nghĩa đen là “người bắt chước”. Phao-lô đưa ra lời khuyên giống như vậy trong Phi 3:17, nhưng chúng ta không nên nghĩ rằng ông đang tự đề cao mình. Trẻ nhỏ học bài đầu tiên bằng cách bắt chước, sau đó làm theo lời giải thích. Lúc Phao-lô làm mục sư tại Hội Thánh Cô-rinh-tô, ông làm gương mẫu cho con cái Chúa bằng tình yêu thương, lòng tận tuỵ với Đấng Christ, sự hy sinh và tâm tình phục vụ. “Hãy bắt chước tôi cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy” (ICo 11:1). Phao-lô là một tấm gương tốt vì ông học theo gương lớn lao nhất là Chúa Giê-xu Christ.


Nhưng Phao-lô cũng là một giáo sư tốt. Phải dùng cả việc nêu gương tốt lẫn sự dạy dỗ để nuôi dạy một đứa bé trưởng thành. Phao-lô gởi Ti-mô-thê (cũng là một trong những người con thuộc linh của ông) đến để nhắc nhở Hội Thánh nhớ lại những giáo lý và bài học thực tiễn Phao-lô đã dạy dỗ cho họ. Ti-mô-thê không mang thư đến cho Hội Thánh (ICo 16:10), nhưng hình như người đến trước để mở đường cho bức thư.


Đức Chúa Trời không qui định một tiêu chuẩn cho Hội Thánh này và tiêu chuẩn khác cho Hội Thánh nọ. Có lẽ Ngài thực hiện ý muốn của Ngài bằng nhiều cách khác nhau (Phi 2:12-13), nhưng giáo lý và những nguyên tắc căn bản là một. Bởi vì Hội Thánh đã lìa bỏ sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và lấy sự khôn ngoan của con người làm chuẩn mực, cho nên chúng ta có nhiều khác biệt về giáo lý giữa vòng các Hội Thánh. Con người đã vượt ra ngoài “Những lời đã chép” (ICo 4:6) và điều này gây phân rẽ trong Hội Thánh.


Thứ ba, Phao-lô trung tín giáo huấn gia đình (ICo 4:18-21). Chúng ta phải ngăn chặn ý muốn của trẻ nhưng đừng làm hại nó. Chừng nào con ngựa non chưa được thuần hoá, nó vẫn còn nguy hiểm và chẳng ích lợi gì; nhưng một khi nó học biết vâng lời, nó trở nên đáng yêu và ích lợi. Kiêu ngạo là điều tệ hại trong cuộc đời Cơ Đốc nhân và Hội Thánh. Men tội lỗi (men dùng làm bánh, IICo 5:6-8) đã làm cho tín hữu Cô-rinh-tô “lên mình kiêu ngạo”, thậm chí còn đưa ra lời nói, Phao-lô sẽ không đến với chúng ta đâu! Trông bộ giận dữ thế thôi chớ không có gì phải sợ ông ta! ” (IICo 10:8-11).


Phao-lô đã kiên nhẫn với sự bất tuân của họ, nhưng bây giờ ông cảnh cáo họ rằng giờ sửa phạt đã đến. Phao-lô không giống như người mẹ khoan dung la mắng đứa con hư hỏng của mình, “Đây là lần cuối mẹ bảo con không được vi phạm nữa! ”.


Phụ huynh trung tín phải sửa dạy con cái của mình. Dạy dỗ và làm gương trước mắt chúng không thôi chưa đủ; bậc cha mẹ còn phải trách phạt chúng khi chúng ngang bướng và không chịu vâng lời. Chắc chắn Phao-lô muốn nói đến sự hiền lành và cách giải quyết tội lỗi của họ một cách độ lượng, nhưng thái độ của họ làm cho điều này trở thành khó khăn. Họ kiêu hãnh - và tự hào về tính bất phục tùng của mình! (ICo 5:1-2)


Nét tương phản trong đoạn văn này là giữa lời nói và năng lực, ngôn từ và hành động. Tín hữu Cô-rinh-tô đầy lòng kiêu căng đã không gặp vấn đề “ăn to nói lớn”, như cách trẻ con vẫn thường làm; nhưng họ không thể “hành xử” đúng với những gì đã nói. Tôn giáo của họ chỉ là văn tự. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị Phao-lô bằng quyền năng và công việc của Ngài để tăng thêm sức mạnh cho lời nói của ông nhằm bày tỏ tội lỗi của họ và sự thánh khiết của Đức Chúa Trời.


Phần này mở đường cho hai chương kế tiếp giải quyết kỷ luật trong Hội Thánh địa phương. Trong hội chúng Cô-rinh-tô có nhiều tội lỗi và Phao-lô được Chúa chuẩn bị để giải quyết. Ông đã viết cho họ một thư về vấn đề này (ICo 5:9), nhưng hội chúng không vâng lời ông. Lúc âý một số thành viên yêu mến Chúa liên hệ với Phao-lô (ICo 1:11 ICo 16:17) và chia sẻ gánh nặng với ông. Một số chức viên Hội Thánh đã viết thư xin Phao-lô cho lời khuyên (ICo 7:1), và Phao-lô cầu nguyện để họ có thể làm theo lời khuyên của ông đã viết cho họ.


Một nguyên tắc sống cho thấy những người không tự cai trị mình phải bị người khác cai quản. Các công ty bảo hiểm và các nhà y học kêu gọi người điều khiển xe phải thắt dây an toàn khi lái xe, nhưng nhiều người không chịu làm theo. Vì vậy chính quyền phải ban hành luật định yêu cầu các người lái xe phải buộc dây an toàn. Nếu không tuân theo, họ sẽ bị phạt.


Phao-lô cho Hội Thánh Cô-rinh-tô cơ hội để tổ chức công việc trong Hội Thánh của họ có thứ tự. Trong các chương sau, ông giải thích cách nào Hội Thánh địa phương phải được cai trị trong ý muốn của Đức Chúa Trời. Chẳng may, Hội Thánh không vâng lời ngay. Phao-lô phải nhanh chóng viếng thăm Hội Thánh Cô-rinh-tô và ông thật sự đau buồn trong suốt chuyến thăm viếng đó (IICo 2:1 IICo 12:14 IICo 13:1). Lúc ấy Phao-lô phải viết cho họ một thư với lời lẽ nặng nề (IICo 7:8-12); có thể lá thư này được Tít mang đến.


Vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, hầu hết mọi việc đã được giải quyết. Tuy vẫn còn một số “việc phải thu xếp” (IICo 12:20-13:5), nhưng cơn khủng hoảng đã qua.


Làm người hầu việc Chúa Giê-xu Christ không phải là chuyện dễ dàng. Trong vai trò quản gia, bạn phải trung thành với Chủ của mình cho dù người ta có thể nói hoặc gây khó dễ với bạn bất cứ điều gì. Bạn sẽ bị thế gian ngược đãi chối bỏ. Các con cái thuộc linh của bạn có thể làm tổn thương bạn và phải chịu kỷ luật.


Các tôi tớ trung tín của Đức Chúa Trời xứng đáng cho chúng ta yêu thương, kính trọng, vâng theo, và khích lệ bằng sự cầu nguyện.


5. HÃY KHÔN NGOAN VỀ KỸ CƯƠNG CỦA HỘI THÁNH (ICo 5:1-6:20)

Hội Thánh Cô-rinh-tô không những bị phân rẽ, nhưng còn là một Hội Thánh mất ơn phước. Có tội lỗi ngay trong hội chúng và buồn thay, dầu biết đều đó, nhưng dường như chẳng ai quan tâm đến đều ấy.


Không có Hội Thánh nào hoàn toàn cả, nhưng người ta không được phép dùng sự bất toàn của con người để bào chữa cho tội lỗi. Như cha mẹ phải kỷ luật con cái bằng tình thương, các chi hội địa phương cũng phải thi hành kỷ luật trên các thành viên của Hội Thánh. Kỷ cương trong Hội Thánh không phải là một nhóm “cảnh sát mộ đạo” cố gắng bắt tội phạm. Đúng hơn nó là một nhóm anh em, chị em có tấm lòng cưu mang tìm cách phục hồi lại địa vị của một thành viên trong Hội Thánh.


Vì một số thành viên tại Cô-rinh-tô không muốn đương đầu với hoàn cảnh và thay đổi hoàn cảnh ấy, cho nên Phao-lô giới thiệu cho Hội Thánh ba điều quan trọng phải nghĩ đến.


1. Nghĩ đến Hội Thánh (ICo 5:1-13)

“Tội lỗi này sẽ gây nên điều gì cho Hội Thánh?” chắn chắn là điều quan trọng phải quan tâm đến. Cơ Đốc nhân được “gọi là thánh đồ”, có nghĩa là phải sống thánh khiết để làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Nếu con cái Chúa yêu Hội Thánh, người đó sẽ không nhượng bộ và cho phép tội lỗi làm suy yếu Hội Thánh và có thể làm mất đi lời chứng tốt.


Chúng ta nên hưởng ứng như thế nào? Phao-lô đưa ra ba lời dạy dỗ cụ thể để Hội Thánh noi theo.


Buồn rầu về tội lỗi (ICo 5:1-2). Đây là ngôn từ dùng trong lúc than khóc người chết, có thể là sự đau đớn xót xa nhất trong nỗi buồn riêng tư của con người. Thay vì khóc than, tín hữu Cô-rinh-tô lên mình kiêu ngạo. Họ khoe khoang về việc Hội Thánh của họ “phóng khoáng” đến nỗi ngay cả những người thông dâm cũng có thể là những thành viên có chỗ đứng tốt.


Tội lỗi ở đây là hình thức loạn luân: một người công khai tự nhận là Cơ Đốc nhân (và là thành viên của Hội Thánh) sống chung với người mẹ kế của mình như vợ chồng. Vì Phao-lô không đưa ra phán xét về người phụ nữ (ICo 5:9-13), cho nên chúng ta thừa nhận rằng người phụ nữ này không phải là thuộc viên Hội Thánh và có thể không phải là Cơ Đốc nhân. Loại tội lỗi này đã bị Luật pháp Cựu Ước lên án (Le 18:6-8 Le 20:11) giống như luật pháp của các nước ngoại bang. Phao-lô làm cho Hội Thánh phải hổ thẹn bởi câu nói, “Dẫu người ngoại đạo cũng chẳng giống như vậy! ”


Trong khi thật sự đời sống Cơ Đốc nhân là ngày hội hè vui vẻ (ICo 5:8), nhưng lắm khi nó trở thành đám tang buồn thảm. Bất cứ khi nào một anh em hoặc chị em trong Chúa phạm tội, chính là lúc toàn gia đình Hội Thánh khóc than và tìm cách giúp đỡ anh em bị sa ngã chổi dậy (Ga 6:1-2). Tín hữu tại Cô-rinh-tô phạm tội bị “chết” đối với các công việc của Đức Chúa Trời. Người ấy không còn ở trong mối tương giao với Chúa và với anh em trong Hội Thánh.


Tuyên án người phạm tội (ICo 5:3-5). Mặc dầu Cơ Đốc nhân không được đoán xét lẫn nhau về lý do hành động (Mat 7:1-5) hoặc công việc (ICo 4:5), nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời mong đợi chúng ta phải thành thật về hạnh kiểm của nhau. Trong chức vụ mục sư của tôi, chưa bao giờ tôi thấy thích thú khi phải đề ra biện pháp kỷ luật trong Hội Thánh; nhưng vì Đức Chúa Trời đã ban bố trong Kinh Thánh, cho nên chúng ta phải vâng lời Đức Chúa Trời và bỏ qua một bên tình cảm riêng tư.


Ở đây Phao-lô mô tả một buổi nhóm chính thức của Hội Thánh trong đó người phạm tội được đưa ra xét xử theo sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Tội lỗi công khai phải được xét xử và lên án công minh. (Đối với lời chỉ dạy của Chúa về biện pháp kỷ luật, hãy xem kỹ Mat 18:15-20). Chúng ta không được “che đậy tội lỗi”;vì rốt cuộc mọi người ở khắp nơi đều biết đến ngay cả trong vòng người ngoại đạo nữa.


Hội Thánh phải nhóm hiệp lại và khai trừ kẻ phạm tội ra khỏi Hội Thánh. Hãy lưu ý những từ ngữ mạnh mẽ Phao-lô thường dùng khuyến cáo họ: “bị trừ bỏ khỏi vòng anh em” (ICo 5:2), “một người như thế phải phó cho quỉ Sa-tan” (ICo 5:5), “hãy làm cho sạch” (ICo 5:7), “hãy trừ bỏ” (ICo 5:13). Phao-lô không gợi ý họ nên đối xử với người phạm tội cách nhẹ nhàng. Dĩ nhiên, chúng ta thừa nhận rằng trước tiên những người hướng dẫn thuộc linh trong Hội Thánh đã tìm cách khuyên nhủ người ấy cách riêng tư.


Hội Thánh phải làm điều này trong quyền năng của Chúa Giê-xu Christ - trong danh của Ngài - và không chỉ dựa trên uy quyền của Hội Thánh. Vai trò thuộc viên của Hội Thánh là một việc nghiêm túc không được hành xử cẩu thả và coi thường.


Phó một Cơ Đốc nhân “vào tay quỉ Sa-tan” có nghĩa gì? Điều đó không phải là cất đi sự cứu rỗi khỏi người ấy, vì lúc ban đầu Hội Thánh không ban sự cứu rỗi. Khi Cơ Đốc nhân ở trong mối tương giao với Chúa và với Hội Thánh, người đó hưởng được ơn che chở khỏi sự quấy phá của Sa-tan. Nhưng nếu người đó không còn ở trong sự tương giao với Đức Chúa Trời và bị Hội Thánh dứt phép thông công, người đó dành để cho kẻ thù “nhạo báng”. Đức Chúa Trời có thể cho phép quỉ Sa-tan làm hại thân thể của người phạm tội để tín hữu phạm tội sẽ ăn năn quay trở lại cùng Chúa.


Làm sạch tội lỗi (ICo 5:6-13). Hình ảnh muốn nói ở đây là bữa ăn tối trong lễ Vượt Qua (Xu 12:1-28). Chúa Giê-xu là Chiên Con của Đức Chúa Trời đã đổ huyết Ngài ra để cứu vớt chúng ta khỏi ách tội lỗi (Gi 1:29 IPhi 1:18-25). Dân Do Thái ở Ai Cập đã thoát chết vì bôi huyết chiên con lên ngạch cửa. Sau khi bôi huyết lên ngạch cửa, mỗi gia đình ăn lễ Vượt Qua. Một trong những yêu cầu đó là không được thấy có men trong nơi ở của họ. Ngay cả bánh dùng trong bữa tiệc cũng phải là bánh không men.


Men là hình ảnh của tội lỗi. Tuy nhỏ nhưng nó rất mạnh; men làm việc không thấy được; nó “làm nở” bột nhồi; nó lan rộng ra. Thuộc viên Hội Thánh tại Cô-rinh-tô phạm tội giống như một chút men: người ấy làm dơ bẩn toàn bộ ổ bánh (hội chúng). Nó giống như một ung độc trong cơ thể cần phải giải phẫu để lấy ra.


Hội Thánh phải tự dọn sạch “men cũ” - những công việc thuộc “nếp sống cũ” trước khi tin nhận Đấng Christ. Chúng ta cũng phải từ bỏ sự cộc cằn và độc ác (có nhiều bất hoà giữa các thuộc viên trong Hội Thánh Cô-rinh-tô) và thay vào đó bằng lòng thành thật. Như một ổ bánh (ICo 10:17), Hội Thánh càng phải tinh sạch càng tốt.


Tuy nhiên, Hội Thánh không nên đoán xét và lên án những người ngoại đạo. Sự đoán xét ấy thuộc về tương lai và Đức Chúa Trời sẽ trực tiếp thực hiện. Trong ICo 5:9-13, Phao-lô một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân rẽ khỏi thế gian. Cơ Đốc nhân không sống biệt lập với thế gian nhưng phân rẽ với thế gian. Chúng ta không tránh khỏi tiếp xúc với người chưa tin Chúa, nhưng chúng ta có thể tránh không nhiễm tội lỗi của họ.


Nếu một Cơ Đốc nhân mắc tội được nêu tên ở đây, Hội Thánh phải xử phạt người ấy. Cá nhân các thuộc viên không “làm bạn” với người có tội (ICo 5:9 - “giao du, gắn bó mật thiết"). Họ không được ăn chung với kẻ có tội, có thể nói đến việc tiếp đãi tại nhà riêng hoặc trong lễ Tiệc Thánh của hội chúng (ICo 11:23-34).


Kỷ luật của Hội Thánh không dễ dàng hoặc quen thuộc, nhưng nó rất quan trọng. Nếu chúng ta thi hành cách đúng đắn, Đức Chúa Trời sẽ dùng hình thức kỷ luật để bẻ trách sửa trị tín hữu sai phạm. Thư IICo 2:1-11 cho thấy tội nhân này đã ăn năn và được nối lại mối tương giao với Đức Chúa Trời.


2. Nghĩ đến tội nhân hư mất (ICo 6:1-8)

Hội Thánh Cô-rinh-tô đang nhanh chóng đánh mất lời chứng tốt của họ trong thành phố. Những người ngoại đạo không chỉ biết về sự loạn luân trong hội chúng, nhưng họ còn biết những vụ kiện tụng giữa các thành viên trong Hội Thánh. Không những phạm tội về mặt xác thịt, nhưng cũng mắc tội về phần tâm linh nữa (ICo 7:1).


Người Hy Lạp nói chung, và người A-thên nói riêng, nổi tiếng vì các vụ kiện tụng nơi toà án. Aristophanes, nhà soạn kịch Hy Lạp có cá tính kỳ quặc là nhìn vào bản đồ và hỏi nơi nào người Hy Lạp cư ngụ. Khi người ta chỉ chỗ cho ông ta biết, ông ta đáp chắc chắn có sai sót nào đó - bởi vì không thấy có vụ kiện tụng nào xảy ra ở đó cả! Tuy nhiên, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đang có tiếng đồn tương tự:trên 200.000 vụ kiện tụng dân sự được đệ trình lên toà án liên bang trong khoảng thời gian 12 tháng gần đây. Khoảng 610.000 luật sư (con số này còn đang gia tăng) đang thụ lý các vụ án. Năm 1977, hơn 12 triệu vụ kiện đã được ghi nhận tại các toà án tiểu bang.


Phao-lô khám phá ba thảm kịch trong tình trạng này: Trước tiên, Tín hữu đang phô bày bằng chứng đức tin thấp kém cho người hư mất. Ngay cả những người Do Thái không tin cũng xử các vụ án dân sự tại toà án nhà hội của họ. Đem những rắc rối của con cái Chúa ra bàn luận trước mặt “người không công bình” và “kẻ vô tín” là làm giảm uy tín của Phúc Âm.


Thứ hai, Hội Thánh không sống trọn địa vị trong Đấng Christ. Vì một ngày kia các thánh đồ sẽ tham gia vào phiên toà phán xét thế gian và phán xét cả các thiên sứ sa ngã nữa, cho nên họ phải biết giải quyết các bất hoà của họ khi còn sống trên thế gian. Người Cô-rinh-tô khoe khoang về những ân tứ thuộc linh lớn lao của mình. Vậy tại sao họ không dùng những ơn ấy để giải quyết những khó khăn của mình?


Nhưng người nghiên cứu Kinh Thánh không đồng ý về ý nghĩa của lời Phao-lô nói trong ICo 6:4. Một số người cho rằng ông đang có ý mỉa mai: “Anh em nên yêu cầu một thuộc viên yếu kém nhất trong Hội Thánh giải quyết vấn đề cho anh em hơn là ra trước quan toà ngoại đạo có đủ phẩm chất đức hạnh! ” Những người khác lấy nhóm từ “Những kẻ không kể ra chi trong Hội Thánh” để nói đến những người xử án ngoại đạo. Hoặc có thể Phao-lô có ý nói Đức Chúa Trời có thể dùng cả thành viên yếu kém nhất trong Hội Thánh để nhận biết ý muốn của Ngài. Kết quả vẫn như nhau:Thật sai lầm cho Cơ Đốc nhân khi họ đem các sự việc của mình ra kiện tại toà án.


Dĩ nhiên, thỉnh thoảng vẫn có “Những vụ kiện hữu nghị” do luật pháp yêu cầu để giải quyết những vấn đề nào đó. Đó không phải những gì Phao-lô muốn đề cập đến.Dường như các thành viên trong Hội Thánh thường “lớn tiếng tranh cãi” cố làm sao thắng thế nơi toà án. Tôi vui mừng khi thấy trong Hội Thánh chúng ta ngày nay có xu hướng để cho các luật sư Cơ Đốc làm người phân xử các vụ án dân sự, và giúp giải quyết các vấn đề này bên ngoài toà án.


Bi kịch thứ ba: Các thuộc viên kiện nhau đã thua cuộc. Cho dù số ít thắng kiện, nhưng họ đã mang tai tiếng vì không vâng lời Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh.“Thật vậy, anh em có sự kiện cáo nhau, là phải tội rồi.” (ICo 6:7) có thể dịch là, “Anh em đã hoàn toàn thất bại rồi”. Chắc chắn Phao-lô muốn đề cập đến lời dạy của Chúa trong Mat 5:39-42. Thà mất tiền bạc hoặc của cải hơn là mất một anh em và bên cạnh đó mất luôn lời chứng tốt của mình.


Trải qua nhiều năm trong chức vụ, tôi đã chứng kiến những hậu quả đau buồn của Hội Thánh, các thuộc viên trong Hội Thánh tìm cách giải quyết những vấn đề cá nhân nơi toà án. Thực sự chẳng có người nào thắng kiện cả - ngoại trừ kẻ ác! Tín hữu Cô-rinh-tô ra toà đang làm ô danh Chúa và Hội Thánh chẳng khác gì người đàn ông phạm tội loạn luân, họ cần phải chịu hình thức kỷ luật.


Tôi nhớ lại một sinh viên thần học đã điện thoại cho tôi biết anh ta sắp kiện trường học của anh ta. Dường như ban quản trị nhà trường không cho phép anh ta làm điều gì đó anh ta cho rằng rất quan trọng đối với việc học của mình. Tôi khuyên anh ta nên “bình tĩnh” bày tỏ với giáo sư cố vấn của mình để biết ý kiến ông. Người sinh viên này nghe theo lời khuyên của tôi và trong khi làm như vậy không những tránh được tiếng xấu nhưng đời sống thuộc linh anh ta được lớn lên qua từng trải ấy.


3. Nghĩ đến Đức Chúa Trời (ICo 6:9-20)

Có nhiều buông thả về tình dục trong thành phố Cô-rinh-tô. Đó là một xã hội buông lỏng kỷ cương với triết lý giống như thế giới ngày nay: Tình dục là một sinh hoạt bình thường của thể xác, vì vậy tại sao không dùng nó khi bạn thích?Phao-lô nói rõ Đức Chúa Trời dựng nên tình dục lúc Ngài làm nên người nam và người nữ đầu tiên, vì vậy Ngài có quyền dạy chúng ta cách sử dụng tình dục.Kinh Thánh là “kim chỉ nam” và chúng ta phải vâng theo.


Đức Chúa Trời lên án tội phạm tình dục; Phao-lô liệt kê một số tội phạm trong ICo 6:9. Vào thời đó, tội thờ thần tượng và tội phạm tình dục đi đôi với nhau. “Kẻ làm dáng yểu điệu” và “kẻ đắm nam sắc” nói lên những cá nhân chủ động và thụ động trong quan hệ đồng tính luyến ái. (Phao-lô bàn về vấn đề này và vấn đề đồng dục nữ trong Ro 1:26-27). Trong ICo 6:10, Phao-lô công khai vạch mặt các tín hữu phạm đến Đức Thánh Linh, những người đang kiện cáo nhau vì lòng tham dục.


Nhưng Đức Chúa Trời cũng có thể rửa sạch tội phạm tình dục và khiến tội nhân trở nên con người mới trong Đấng Christ. “Anh em được rửa sạch, được nên thánh, được xưng công bình rồi” (ICo 6:11). Thì của những động từ này cho thấy một sự biến đổi đã được thực hiện hoàn toàn. Do những gì Đức Chúa Trời đã làm cho họ, bây giờ họ phải có bổn phận với Đức Chúa Trời để Ngài dùng thân thể mình trong sự hầu việc Ngài và làm sáng danh Ngài.


Nghĩ đến Đức Chúa Trời là Cha (ICo 6:12-14). Ngài dựng nên thân thể chúng ta và một ngày kia Ngài sẽ làm cho thân thể chúng ta sống lại trong vinh hiển. (Để biết thêm về sự sống lại ICo 15:1-58). Bởi vì thân thể chúng ta có nguồn gốc toàn hảo như vậy và thậm chí trong tương lai còn toàn hảo hơn nữa, làm sao chúng ta có thể sử dụng thân thể chúng ta cho các mục đích xấu xa được?


Tín hữu Cô-rinh-tô có hai lý luận bảo vệ cho sự tham dục của họ. Trước hết, “Mọi sự tôi có phép làm” (ICo 6:12). Đây là câu nói phổ biến tại Cô-rinh-tô dựa trên cách nhìn sai về tự do của Cơ Đốc nhân. Đức Chúa Trời không ban tự do để chúng ta bước vào gông xiềng khác! Làm Cơ Đốc nhân chúng ta nên tự hỏi, “Điều này sẽ biến tôi trở thành nô lệ chăng? Hành động này có thực sự ích lợi cho đời sống thuộc linh của tôi không?”


Lý luận thứ hai, “Đồ ăn vì bụng, bụng vì đồ ăn” (ICo 6:13). Họ xem tình dục như một thức ngon phải được thoả mãn chớ không xem là quà tặng phải nâng niu và sử dụng cách cẩn trọng. Sự đam mê xác thịt đối với tình dục cũng như tính phàm ăn đối với việc ăn uống; cả hai đều là tội lỗi và mang lại hậu quả thảm hại. Chính vì chúng ta có những khao khát bình thường nhất định đã được Đức Chúa Trời ban cho trong buổi sáng thế, điều đó không có nghĩa chúng ta phải nhượng bộ và luôn luôn thoả mãn chúng. Tình dục ngoài hôn nhân là sự huỷ diệt, trong khi đó tình dục trong hôn nhân là sự sáng tạo và là nét đẹp.


Chắc chắn có sự thích thú và hấp dẫn trong kinh nghiệm tình dục ngoài hôn nhân, nhưng không có sự sung mãn. Tình dục ngoài hôn nhân giống như một người đánh cướp ngân hàng: Anh ta lấy một vài thứ không phải của anh ta và một ngày nào đó anh ta sẽ trả giá. Tình dục trong hôn nhân có thể giống như một người bỏ tiền vào ngân hàng: ở đó có sự an toàn, bảo đảm, và anh ta sẽ thu lãi. Tình dục trong hôn nhân xây dựng mối quan hệ đem lại hạnh phúc cho tương lai; nhưng tình dục tách khỏi hôn nhân là một cách làm giảm đi mối tương giao trong tương lai như các cố vấn hôn nhân Cơ Đốc cho chúng ta biết.


Nghĩ đến Đức Chúa Con (ICo 6:15-18). Thân thể tín hữu là một chi thể của Đấng Christ (ICo 12:12). Làm sao chúng ta có thể liên hiệp với Đấng Christ và đồng thời liên hiệp với tội lỗi được? Thật là một ý tưởng khiến chúng ta sửng sốt. Tuy vậy một số tín hữu Cô-rinh-tô không thấy hại gì khi đến thăm những phường điếm đĩ (có 1.000 gái điếm tại đền thờ Áp-phô-đích) và thông dâm tại đó.


Chúa Giê-xu Christ mua chuộc chúng ta bằng giá cao (ICo 6:20), và do đó thân thể chúng ta thuộc về Ngài. Chúng ta hiệp một thể với Chúa và chúng ta phải dâng thân thể chúng ta cho Ngài làm của lễ sống (Ro 12:1-2). Nếu mỗi ngày bạn dâng thân thể mình cho Đấng Christ, điều đó sẽ ảnh hưởng nhiều đến những gì bạn hành động cho thân thể bạn suốt cả ngày.


Phao-lô liên hệ đến câu chuyện sáng tạo (Sa 2:24) để giải thích mức độ nghiêm trọng của tội phạm tình dục. Khi người nam quan hệ thân xác với người nữ, điều này ảnh hưởng đến toàn bộ nhân cách của người đó. Có sự từng trải sâu đậm hơn, “một thịt” mang lại những hậu quả lâu dài và sâu sắc. Phao-lô khuyến cáo tội phạm tình dục là tội nghiêm trọng nhất con người có thể phạm nghịch lại thân thể mình, vì nó liên quan đến cả con người (ICo 6:18). Tình dục không chỉ là một phần của thân thể. Giới tính “nam” và “nữ” đều có liên quan đến toàn thể con người. Do vậy, kinh nghiệm tình dục ắt để lại hậu quả trong toàn bộ tính cách con người.


Phao-lô không cho rằng quan hệ với một cô gái điếm tương đương với hôn nhân, vì hôn nhân liên quan đến sự cam kết. Người nam và nữ lìa khỏi nhà cha mẹ để bắt đầu cuộc sống mới. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao tình dục trong hôn nhân là một kinh nghiệm sung mãn, bởi vì nó đặt nền tảng trên sự cam kết. Khi hai người thề hứa yêu nhau và chung thuỷ với nhau , họ lập một nền tảng vững chắc để tiếp tục xây dựng. Hôn nhân bảo vệ tính dục và có thể làm cho vợ chồng đã cam kết với nhau lớn lên trong kinh nghiệm tốt lành này.


Quan tâm đến Đức Thánh Linh (ICo 6:19-20). Đức Chúa Cha tạo dựng thân thể chúng ta; Đức Chúa Con cứu chuộc và khiến trở nên chi thể trong thân của Ngài; và Đức Thánh Linh ngự trong thân thể chúng ta và khiến trở nên đền thờ của Đức Chúa Trời. Làm thế nào chúng ta có thể làm nhơ bẩn đền thờ của Đức Chúa Trời qua việc dùng thân thể của chúng ta theo cách sống đồi bại?


Từ ngữ “của anh em” ở giống số nhiều, nhưng các chữ thân thể và đền thờ ở số ít (ICo 6:19). Có thể ở đây Phao-lô không những mô tả cá nhân tín hữu nhưng cũng nói đến Hội Thánh địa phương. Mỗi hội chúng địa phương là một “tập thể” dân chúng được hiệp nhất với Chúa Giê-xu Christ. Cách cư xử của cá nhân thuộc viên trong Hội Thánh ảnh hưởng đến cuộc sống tâm linh của toàn thể Hội Thánh.


Trong cả hai trường hợp, bài học dạy dỗ thật rõ ràng: “Hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời! ” Đức Thánh Linh được ban cho chúng ta để làm sáng danh Chúa Giê-xu Christ (Gi 16:14). Đức Thánh Linh có thể dùng thân thể chúng ta làm sáng danh Ngài và chúc tụng Ngài (Phi 1:20-21). Mối tương giao đặc biệt giữa chúng ta với Đức Thánh Linh đem lại cho chúng ta trách nhiệm đặc biệt.


Vì vậy Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh đều có liên quan đến những việc chúng ta làm ra trong thân thể mình. Nếu phạm luật pháp của Đức Chúa Trời, chúng ta phải chịu hình phạt.


Khi ôn lại phần này, bạn sẽ thâý tội phạm tình dục ảnh hưởng đến toàn bộ nhân cách con người. Chúng ảnh hưởng đến mọi xúc cảm, dẫn đến sự nô lệ. Thật kinh sợ khi thấy tính dục chiếm hữu con người và làm hoen ố cả cuộc đời người đó, biến người đó trở thành nô lệ cho những thói quen chết người. Nó còn ảnh hưởng đến chính thân thể người đó (ICo 6:18). Kẻ thông dâm và phạm tội ngoại tình cũng như người đồng tính luyến ái có thể quên tội của họ nhưng tội lỗi họ đã phạm sẽ không lìa khỏi họ.


Trong chức vụ khải đạo của tôi, tôi đã giúp đỡ nhiều đôi vợ chồng ly thân vì hậu quả của tính dục trước hôn nhân, cũng như tính dục ngoài hôn nhân. Mùa gặt giống gieo cho xác thịt đôi khi bị chậm trễ nhưng chắc chắn sẽ đến (Ga 6:7-8). Thật buồn khi sống trong những hậu quả của tội lỗi đã được tha thứ.


Đã bàn đến tất cả mọi điều này, chúng ta cũng cần nhận thấy có những hậu quả đời đời dành cho người cứ mải mê trong thú vui dục tình. Trong ICo 6:9-10, Phao-lô nhắc đến hai lần những người sống trong tội lỗi như vậy sẽ không hưởng được Nước Đức Chúa Trời. Một Cơ Đốc nhân có thể sa vào những tội lỗi này và được thứ tha như vua Đa-vít; nhưng không có Cơ Đốc nhân nào miệt mài trong những tội lỗi như vậy (IGi 3:1-10).


Cuối cùng, công bằng mà nói chúng ta phải nhìn nhận rằng có nhiều tội lỗi khác bên các tội phạm tình dục. Không thể hiểu vì sao Hội Thánh thường tập trung lên án tội lỗi của người con trai hoang đàng và quên đi tội lỗi của người con trai cả (Lu 15:11-32). Có những tội lỗi thuộc về thiêng liêng cũng như tội thuộc về xác thịt - Phao-lô liệt kê các tội âý trong ICo 6:10. Sự tham muốn có thể đưa con người đến địa ngục dễ dàng như tội ngoại tình.


Chúng ta nên nhớ rằng ân điển của Đức Chúa Trời có khả năng biến đổi cuộc đời tội nhân. “Trước kia anh em ít nữa cũng có một đôi người như thế” (ICo 6:11). Lạ lùng thay đức tin nơi Đấng Christ làm thay đổi tội nhân trở nên “con người mới” (IICo 5:17,21). Và quan trọng là chúng ta phải sống như một tạo vật mới của Đức Chúa Trời. Chúng ta không thuộc về riêng mình nữa. Chúng ta thuộc về Đức Chúa Cha Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, Đức Chúa Con Đấng Cứu Chuộc chúng ta và Đức Thánh Linh Đấng ngự trong chúng ta. Chúng ta cũng thuộc về dân sự của Đức Chúa Trời, Hội Thánh Ngài, và tội lỗi chúng ta có thể làm suy giảm lời chứng tốt đẹp của chúng ta và làm băng hoại mối thông công tốt lành.


“Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Thánh” (IPhi 1:16).


6. HÃY KHÔN NGOAN VỀ HÔN NHÂN CƠ ĐỐC (ICo 7:1-40)

Đến đây, Phao-lô đã đề cập tới những tội lỗi xảy ra trong hội chúng Cô-rinh-tô mà mọi người đều biết. Bây giờ ông tiếp tục bàn những vấn đề mà tín hữu đã viết cho ông: hôn nhân (ICo 7:1,25), của cúng thần tượng (ICo 8:1), các ơn tứ thuộc linh (ICo 12:1), sự sống lại của người chết (ICo 15:1), và việc góp tiền cho công cuộc truyền giáo cho người Do Thái (ICo 16:1).


Khi các bạn nghiên cứu I Cô-rinh-tô 7, xin nhớ Phao-lô đang trả lời những vấn đề được xác định rõ. Ông không giải thích tường tận quan điểm “thần học về hôn nhân” đầy đủ trong một chương. Chúng ta cần phải xem xét những phần khác của Kinh Thánh bàn về vấn đề quan trọng này.


Một số nhà phê bình tự do đã lên án Phao-lô chống lại hôn nhân và phụ nữ. Dĩ nhiên những buộc tội này không đúng sự thật. Cũng sai khi lên án ông phủ nhận sự hà hơi của Chúa đối với những gì ông viết trong ICo 7:6,12,25. Đúng hơn, ông muốn nói đến những điều Chúa Giê-xu dạy khi Ngài còn tại thế (Mat 19:1-12 Mat 5:31-32 Mac 10:1-12 Lu 16:18). Phao-lô phải trả lời một số vấn đề Chúa Giê-xu chưa bao giờ bàn đến; nhưng khi một vấn đề phát sinh mà Chúa đã giải quyết, Phao-lô liên hệ ngay đến lời của Ngài. Thay vì phủ nhận sự soi dẫn của Chúa Thánh Linh, Phao-lô tuyên bố những gì ông viết trong thư có năng quyền như những lời dạy của Đấng Christ.


Phao-lô giải thích rằng Đức Chúa Trời quan tâm đến hôn nhân Cơ Đốc, và ông gởi lời khuyên nhủ đến cho ba nhóm tín hữu khác nhau.


1. Cơ Đốc nhân kết hôn với nhau (ICo 7:1-11)

Hình như một trong những vấn đề Hội Thánh muốn hỏi đó là, “Có phải sống độc thân (không lập gia đình) thiêng liêng hơn kết hôn chăng?” Phao-lô đáp rằng thật tốt cho người nam hoặc nữ nhận được ơn sống độc thân, nhưng tình trạng sống độc thân không tốt đẹp hơn có gia đình, cũng không là tình trạng tốt nhất cho mọi người. Tiến sĩ Kenneth Wuest dịch lời đáp của Phao-lô như sau, “Hoàn toàn đúng đắn, vinh dự, phù hợp về đạo đức cho một người sống ngay thẳng trong cảnh độc thân”


Câu 6 cho biết rõ chúng ta được phép sống độc thân, nhưng không phải là mệnh lệnh;c. 7 dạy chúng ta không phải mọi người đều có ơn sống độc thân. Điều này có liên quan đến lời dạy dỗ của Chúa chúng ta trong Mat 19:10-12, cho biết “Những người hoạn” ám chỉ những người từ chối việc lập gia đình. “Loài người sống một mình không tốt” (Sa 2:18) là điều đúng với hầu hết mọi người; nhưng vì lý do này hoặc lý do khác một số người được gọi để sống độc thân. Cuộc sống độc thân của họ không phải “không thiêng liêng” hay “quá thiêng liêng”. Tất cả tuỳ nơi sự định đoạt của Đức Chúa Trời.


Mục tiêu hôn nhân là “tránh tội ngoại tình”. Câu 2 cho thấy rõ rằng Đức Chúa Trời không cho phép chế độ đa thê hoặc “Những cuộc hôn nhân” đồng giới tính. Từ buổi ban đầu người nam kết hiệp với người nữ trong hôn nhân là kiểu mẫu của Đức Chúa Trời. Tuy vậy, vợ chồng không được lạm dụng đặc quyền của tình yêu xác thịt là lẽ thường trong hôn nhân. Thân xác người vợ thuộc về chồng, và thân thể người chồng thuộc về vợ; và mỗi người phải lo nghĩ đến người bạn đời của mình. Tình yêu xác thịt là một công cụ tốt lành để xây dựng chớ không phải vũ khí để chiến đấu. Từ chối nhau là phạm tội ăn cướp (ITe 4:6) và đón rước Sa- tan đến cám dỗ người bạn đời đi tìm sự thoả mãn ở nơi khác.


Trong tất cả mọi việc, tâm linh phải chi phối thể xác; vì thân thể chúng ta là đền thờ của Đức Chúa Trời. Vợ chồng có thể kiêng cử để chuyên việc cầu nguyện và kiêng ăn (ICo 7:5) nhưng họ không được dùng điều này để bào chữa cho việc ly thân kéo dài. Phao-lô muốn khích lệ những cặp vợ chồng Cơ Đốc phải “đồng điệu”với nhau trong mọi vấn đề cả thuộc linh lẫn thuộc thể.


Trong ICo 7:8-9. Phao-lô áp dụng nguyên tắc đã được đề cập trong ICo 7:1 đối với những Cơ Đốc nhân độc thân và bà goá: Nếu anh em không thể giữ mình, thì hãy cưới gả.


Hội Thánh không những hỏi Phao-lô về việc sống độc thân, họ còn hỏi về việc ly dị.Vì Chúa Giê-xu đã giải đáp câu hỏi này, nên Phao-lô trích dẫn lời dạy của Ngài:Chồng vợ không được ly dị nhau. (ICo 7:39). Nếu việc ly dị xảy ra, thì cả hai người nên giữ tình trạng không lập gia đình hoặc tìm cách hoà giải. Dĩ nhiên đây là điều lý tưởng đối với hôn nhân. Chúa Giê-xu đã dạy một điều ngoại lệ: Nếu người chồng hoặc vợ phạm tội ngoại tình, điều này có thể là lý do để ly dị. Tốt hơn hết nên có sự ăn năn, tha thứ và làm hoà; nhưng nếu những điều này không giải quyết được vấn đề, người không phạm tội có thể ly dị. Tuy nhiên, ly dị là giải pháp cuối cùng; trước hết chúng ta nên dùng mọi phương cách để hàn gắn sự đỗ vỡ trong hôn nhân.


Trong chức vụ mục sư, tôi kinh nghiệm rằng khi người chồng và vợ thuận phục Đức Chúa Trời, và tìm cách làm đẹp lòng nhau trong quan hệ hôn nhân, thì họ cảm thấy thoả mãn đến nỗi không ai trong họ nghĩ đến việc tìm kiếm thoả mãn ở nơi khác.Một cố vấn Cơ Đốc có lần nói với tôi, “Không có vấn đề tình dục nào trong hôn nhân cả, chỉ có vấn đề trong nhân cách với tính dục như là một trong những triệu chứng”. Ngày hôm nay xu hướng ly dị gia tăng đang đe doạ trong vòng các Cơ Đốc nhân (ngay cả giữa hàng giáo phẩm) chắc chắn làm Đức Chúa Trời đau lòng.


2. Cơ Đốc nhân lập gia đình với người không tin (ICo 7:12-24)

Một số tín hữu Cô-rinh-tô được cứu sau khi đã lập gia đình, nhưng người bạn đời của họ chưa trở lại đạo. Rất có thể số ít trong những tín hữu này gặp phải khó khăn tại gia đình; và họ hỏi Phao-lô: “Chúng tôi có phải tiếp tục sống với người bạn đời không tin Chúa không? Việc tin Chúa của chúng tôi sao không thay đổi được mọi việc?”.


Phao-lô trả lời rằng họ phải tiếp tục sống với người phối ngẫu của mình miễn là người ấy sẵn lòng sống với họ. Sự cứu rỗi không làm thay đổi tình trạng hôn nhân;ngược lại nó làm phong phú mối quan hệ trong hôn nhân. (Lưu ý lời khuyên của Phi-e-rơ dành cho những người vợ có chồng chưa tin Chúa trong IPhi 3:1-6). Bởi vì hôn nhân là sự dính díu về xác thịt ("họ sẽ trở nên một thịt” - Sa 2:24), cho nên hôn nhân chỉ có thể bị phá vỡ bởi nguyên nhân thuộc về xác thịt. Ngoại tình và sự chết chính là hai nguyên nhân ấy (ICo 7:39).


Một Cơ Đốc nhân hiểu biết Chúa kết hôn với người ngoại là một hành động bất tuân lời Chúa dạy (lưu ý “chỉ theo ý Chúa” trong ICo ICo7:39 và IICo 6:14). Nhưng nếu một người tin Chúa sau khi lập gia đình, anh ta không nên dùng điều đó làm cớ để huỷ bỏ hôn nhân chỉ để tránh mọi rắc rối. Thực ra, Phao-lô nhấn mạnh đến sự việc người chồng hay vợ tin Chúa có thể ảnh hưởng tốt đến người bạn đời chưa tin Chúa. ICo 7:14 không dạy rằng người vợ hoặc chồng chưa được cứu sẽ được cứu vì đức tin của người kia, vì mỗi người phải có quyết định tin nhận Đấng Christ cách riêng tư. Đúng hơn là người tin Chúa có đời sống thuộc linh tác động đến những người khác trong gia đình để có thể dẫn dắt người lạc mất đến với ơn cứu rỗi.


Thế còn con cái thì sao? Hơn nữa điểm nhấn mạnh nhằm vào ảnh hưởng của người chồng hoặc vợ tin kính Chúa. Người chồng hoặc người vợ tin Chúa không nên bỏ cuộc.Trong chức vụ hầu việc Chúa, tôi đã chứng kiến nhiều Cơ Đốc nhân nhiệt thành sống cho Đấng Christ trong những gia đình bị phân ly và cuối cùng tôi chứng kiến những người thân yêu của họ tin nhận Cứu Chúa.


Sự cứu rỗi không làm thay đổi tình trạng hôn nhân. Nếu việc tin Chúa của người vợ phá hỏng cuộc hôn nhân, thì con cái trong gia đình sẽ trở thành con ngoài giá thú! ("chẳng sạch” trong ICo 7:14). Thay vào đó, một ngày kia những đứa con này có thể được cứu nếu người vợ ấy trung tín với Chúa.


Thật khó cho chúng ta những người “quen thuộc” với niềm tin Cơ Đốc hiểu được sự tác động của giáo lý mới mẻ này trên thế giới La Mã. Đây là lời dạy dỗ dành cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc giai cấp xã hội. Có lẽ Hội Thánh chỉ là hội chúng trong đế quốc Rô-ma nơi lớp người nô lệ và người tự chủ, đàn ông đàn bà, người giàu kẻ nghèo có thể thông công trong tinh thần bình đẳng (Ga 3:28). Dầu vậy, tính chất bình đẳng mới lạ này cũng phát sinh một số hiểu lầm và rắc rối; Phao-lô đã giải quyết những khó khăn này trong ICo 7:17-24.


Nguyên tắc Phao-lô xác lập ở đây là: Cho dù các Cơ Đốc nhân hiệp làm một trong Đấng Christ, nhưng mỗi con cái Chúa phải giữ nguyên sự kêu gọi đã có lúc Chúa cứu chuộc. Tín hữu người Do Thái không nên cố trở nên tín hữu dân ngoại (bằng cách xoá bỏ phép cắt bì theo lời hứa), và tín hữu ngoại bang không nên gắng sức trở thành tín hữu Do Thái (bằng cách chịu phép cắt bì). Các nô lệ không nên đòi hỏi tự do khỏi những người chủ Cơ Đốc, chỉ vì sự bình đẳng của họ trong Đấng Christ. Tuy nhiên, Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu nô lệ tìm kiếm sự tự do của họ nếu có thể được, có thể bằng việc mua chuộc sự nô lệ. Nguyên tắc này cũng được áp dụng cho các Cơ Đốc nhân đã lập gia đình với người bạn đời chưa tin Chúa.


Nhưng giả sử người bạn đời không tin Chúa bỏ nhà đi thì sao? c. 15 cho chúng ta câu trả lời: người chồng hoặc vợ tin Chúa không bị bắt buộc phải giữ gia đình lại.Chúng ta đã được gọi cho được bình an, và chúng ta nên làm tất cả những gì có thể làm để sống trong sự bình an (Ro 12:18); nhưng có lúc trong những hoàn cảnh nào đó sự bình an chẳng làm gì được. Nếu người phối ngẫu không tin Chúa phân rẽ người bạn đời tin Chúa của mình, thì người tin Chúa chẳng làm được gì ngoài cầu nguyện và tiếp tục trung tín với Chúa.


Sự phân rẽ có cho người vợ hoặc chồng tin Chúa cái quyền ly dị và lập gia đình khác không? Phao-lô khuyên không nên làm như vậy. Nếu cuối cùng người không tin lấy chồng lấy vợ khác thì sao? Điều đó có nghĩa là ngoại tình và có lý do để ly dị. Nhưng ngay cả lúc ấy, lời Chúa trong ICo 7:10-11 cũng khích lệ sự tha thứ và hàn gắn. Phao-lô không bàn đến mọi tình huống có thể xảy ra. Ông xác lập những nguyên tắc căn bản, chớ không phải một danh sách các qui định.


Chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng sự thay đổi trong mọi hoàn cảnh luôn luôn là câu giải đáp cho vấn đề. Nhưng vấn đề thường thường nằm bên trong chúng ta chớ không ở chung quanh chúng ta. Mấu chốt của mọi nan đề là vấn nạn ở trong lòng.Tôi đã tận mắt nhìn thấy những đôi vợ chồng trải qua cuộc ly hôn và tìm kiếm hạnh phúc trong những hoàn cảnh mới, nhưng họ khám phá ra rằng họ chỉ mang theo bên mình nỗi rối reng họ đã mắc phải. Lần nọ một luật sư con cái Chúa nói với tôi, “Những người duy nhất được lợi qua các cuộc ly dị là các luật sư tranh cãi trong phiên toà! ”


3. Các Cơ Đốc nhân không lập gia đình (ICo 7:25-40)

Phao-lô đã gởi một lời ngắn ngủi cho nhóm người này trong ICo 7:8-9, nhưng trong phần kết thúc chương sách, ông đi vào chi tiết quan trọng hơn. Vấn đề của họ là, “Một Cơ Đốc nhân có nên lập gia đình không? Thế còn người nữ chưa có chồng đã lớn tuổi trong Hội Thánh thì sao?” (ICo 7:36). Có lẽ Phao-lô đã gởi phần này trước tiên cho các cha mẹ của những cô gái có thể lập gia đình. Bởi vì Chúa Giê-xu không có lời dạy dỗ nào về đề tài này, cho nên Phao-lô dùng lời khuyên của ông như lời dạy của Chúa. Phao-lô khuyên họ xem xét một số yếu tố khi họ quyết định về việc hôn nhân.


Trước hết, hãy xem xét hoàn cảnh hiện tại (ICo 7:25-31). Đó là thời gian khốn cùng (c.26) khi thế gian này trải qua sự thay đổi (c.31). Không còn nhiều thời giờ hầu việc Chúa (c.29). Có thể có những áp lực về chính trị và kinh tế tại thành phố Cô-rinh-tô mà chúng ta không được biết. Trong cảnh khó khăn, tốt hơn hết người ta không nên lập gia đình. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa những người đã có gia dình nên tìm cách ly hôn (c.27). Lời khuyên của Phao-lô phải dành cho những người chưa lập gia đình.


Điều này không có nghĩa chẳng có ai nên lập gia đình; nhưng những người lập gia đình phải sẵn sàng chấp nhận sự gian nan cặp theo (c.28). Thực ra, có thể hoàn cảnh trở nên quá khó khăn đến nỗi những người đã lập gia đình sẽ phải sống như thể họ chưa có gia đình (c.29). Có lẽ Phao-lô muốn nói đến những người chồng người vợ đang phân rẽ nhau vì khó khăn về kinh tế hoặc sự bắt bớ.


Xem xét những hoàn cảnh là một lời khuyên tốt cho những người đã hứa hôn ngày nay.Tuổi trung bình đối với cô dâu chú rễ kết hôn lần đầu đang tăng lên, cho thấy rằng các đôi vợ chồng đang đợi chờ lâu hơn trước khi kết hôn. Trong chức vụ cố vấn tiền hôn nhân, tôi thường nhắc nhở các đôi vợ chồng hứa hôn rằng vật rẻ nhất trong một đám cưới đó là tờ giấy kết hôn. Kể từ đó trở đi, giá trị cứ ngày càng tăng cao!


Thứ hai, hãy thành thật đối diện với trách nhiệm (ICo 7:32-35). Điểm nhấn mạnh trong đoạn này nằm ở chữ chăm lo, có nghĩa là “lo lắng, bị lôi kéo theo mọi hướng khác nhau.” Hai người không thể sống với nhau mà không mang gánh nặng này hay gánh nặng khác, nhưng không có đòi hỏi phải gấp rút kết hôn để tạo ra thêm nan đề. Hôn nhân đòi hỏi thước đo của sự trưởng thành, và tuổi tác không đảm bảo cho sự trưởng thành.


Một lần nữa, Phao-lô nhấn mạnh việc sống cho Chúa. Ông không cho rằng một người nam hoặc nữ chấp nhận kết hôn với nhau và hầu việc Đức Chúa Trời là không thể được, vì chúng ta biết quá nhiều người đã làm như vậy. Nhưng người hầu việc Đức Chúa Trời có gia đình phải coi sóc người bạn đời của mình, cũng như con cái mà Đức Chúa Trời có thể ban cho họ; và điều này có thể dẫn đến rối trí. Lịch sử ghi lại sự kiện của John Wesley và George Whitefield, sẽ tốt hơn nếu như họ sống tình trạng độc thân - Vợ của Wesley cuối cùng bỏ ông ta, và Whitefield đi lại quá nhiều đến nỗi vợ ông ta thường sống một mình trong nhiều thời gian dài.


Có thể làm vừa lòng Chúa và người bạn đời của mình nếu bạn thuận phục Đấng Christ và vâng lời Đức Chúa Trời. Nhiều người trong chúng ta đã khám phá ra rằng một gia đình hạnh phúc và một hôn nhân thoả mãn là niềm khích lệ lớn lao qua những khó khăn trong sự hầu việc Chúa. Một nhà truyền đạo nổi tiếng người Tô-cách-lan nếm trải đủ lời chỉ trích từ phía công chúng vì lời giảng dạy của ông ta về một vấn đề nào đó, và hầu như mọi ngày đều có một bài báo đả kích đăng trên báo.Ngày nọ một người bạn gặp ông ta và hỏi: “Làm thế nào ông tiếp tục đối diện với những người chống đối?” Ông ta bình tĩnh trả lời, “Tôi cảm thấy hạnh phúc tại nhà của tôi.”


Những Cơ Đốc nhân chưa lập gia đình cảm nhận tiếng gọi của Đức Chúa Trời bước vào chức vụ nên tra xét lòng mình xem thử hôn nhân sẽ giúp ích hoặc ngăn trở chức vụ của mình. Họ cũng phải cẩn thận chọn người bạn đời cũng nghe được tiếng gọi hầu việc Đức Chúa Trời. Mỗi người nhận lãnh ân tứ và tiếng gọi riêng biệt từ Đức Chúa Trời và phải vâng theo lời chỉ dạy của Ngài.


Thứ ba, mỗi hoàn cảnh là độc nhất (ICo 7:36-38). Ở đây Phao-lô viết cho những người cha có con gái chưa gả chồng. Vào thời đó, chính cha mẹ sắp đặt việc hôn nhân, đặc biệt là người cha (IICo 11:2). Phao-lô đã viết trong (ICo 7:35 rằng ông không có ý đặt ra qui luật bắt buộc mọi người phải tuân theo, không đếm xỉa gì đến mọi cảnh ngộ. Bây giờ ông nói rõ rằng người cha có quyền tự do lựa chọn hoặc gả con gái lấy chồng hoặc không.


Tôi để ý thường thấy trong các Hội Thánh hôn nhân xảy ra “hàng loạt”. Một đôi nam nữ đính hôn với nhau và sau đó không lâu bốn cặp đã làm lễ đính hôn. Nếu tất cả những cặp đính hôn này nằm trong ý muốn của Đức Chúa Trời, có thể là một kinh nghiệm tuyệt diệu và thú vị; nhưng tôi sợ rằng một số bạn nam nữ đính hôn chỉ vì chạy theo số đông. Thỉnh thoảng trong các trường học Cơ Đốc mắc phải tình trạng tôi gọi là “nỗi hoảng sợ vì lớn tuổi” họ đổ xô hứa hôn rồi vội vã kết hôn sau khi tốt nghiệp ra trường, vì sợ bị bỏ lại “phải chờ đợi trong nhà thờ”.Buồn thay, chẳng có cuộc hôn nhân nào kể trên kết thúc tốt đẹp cả.


Cho dù cách hẹn hò và cưới hỏi trong thời hiện đại của chúng ta hoàn toàn xa lạ với người Cô-rinh-tô, thì lời khuyên của Phao-lô dành cho họ vẫn còn thích hợp cho chúng ta ngày nay. Đôi nam nữ làm một việc khôn ngoan khi họ thỉnh ý kiến khuyên dạy của cha mẹ và những bậc lãnh đạo trong Hội Thánh, e rằng vì vội vàng một điều gì đó để sau này phải hối tiếc.


Phao-lô đưa ra một vấn đề quan trọng trong (ICo 7:36) khi nhắc đến “thì xuân sắc của người nữ”. Đây là ý tế nhị nói đến người nữ đang lớn tuổi. Tiến sĩ Kenneth Wuest dịch ý đó là “tuổi xuân của người trôi qua”. Cô gái đang bắt đầu trở thành một trong “những phước hạnh không ai nhận” trong Hội Thánh. Dĩ nhiên điều nguy hiểm là cô ấy vội vã lập gia đình chỉ để tránh trở thành một gái già, và có thể cô ấy đã sai lầm. Một mục sư bạn của tôi thích nói với các cặp vợ chồng, “Thà sống độc thân còn hơn sống dai dẳng trong tình trạng hôn nhân không thoả lòng! ”


Mỗi hoàn cảnh đều không giống nhau, cha mẹ và con cái phải tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời. Cần phải có hơn hai người Cơ Đốc để hình thành một hôn nhân hạnh phúc.


Cuối cùng, hãy nhớ rằng hôn nhân vì cuộc sống (ICo 7:39-40). Ý chỉ của Đức Chúa muốn sự kết hiệp hôn nhân phải vĩnh viễn, một cam kết sống với nhau trọn đời. Trong hôn nhân Cơ Đốc không có chốn dành cho việc “kết hôn thử”, cũng không có chỗ dành cho thái độ “trốn chạy” : “Nếu hôn nhân không thành công, lúc nào chúng ta cũng có thể ly dị.”


Vì lý do này, chúng ta phải xây dựng hôn nhân trên những yếu tố vững vàng hơn là cái nhìn tốt đẹp bên ngoài, tiền bạc, tình cảm lãng mạn và sự thừa nhận của xã hội. Điều cần nói là sự cam kết Cơ Đốc, tính cách và sự trưởng thành. Phải sẵn lòng lớn lên và học hỏi lẫn nhau, tha thứ và quên đi mọi sai phạm của nhau, vui lòng săn sóc nhau. Tình yêu Phao-lô mô tả trong ICo 13:1-13 là chất keo cần thiết để gắn chặt hai tâm hồn lại với nhau.


Để kết thúc phần này Phao-lô nói với các bà goá rằng họ được tự do kết hôn, nhưng “chỉ kết hôn trong Chúa” ((ICo 7:39). Điều này có nghĩa không những họ nên kết hôn với các Cơ Đốc nhân, nhưng còn phải kết hôn trong ý muốn của Chúa nữa.Phao-lô khuyên (vì những lý do đã nêu) họ nên sống trong tình trạng độc thân, nhưng ông để cho họ tự quyết định.


Đức Chúa Trời đã xây “những bức tường thành” xung quanh việc kết hôn, không phải biến hôn nhân trở thành ngục tù, nhưng xây nó thành một pháo đài an toàn. Người nào coi hôn nhân là tù ngục thì không nên lập gia đình. Khi hai người cam kết yêu thương và sống vui thoả với nhau - và với Chúa của họ - thì từng trải hôn nhân là một sự phong phú và lớn lao. Họ lớn lên với nhau trong tình yêu và khám phá ra sự giàu có ngọt ngào trong sự phục vụ Chúa như một “đội ngũ” tại nhà cũng như tại Hội Thánh.


Khi ôn lại chương này, bạn không thể không suy nghĩ cách nghiêm túc về hôn nhân.Phao-lô khuyên rõ rằng Đức Chúa Trời thiết lập hôn nhân cách nghiêm túc, và chắc chắn sẽ gánh chịu hậu quả đau đớn nếu chúng ta không vâng theo lời dạy của Đức Chúa Trời. Trong khi cả Phao-lô lẫn Chúa Giê-xu không bàn đến vấn đề ly dị vì bất kỳ hoàn cành nào, điều này chưa bao giờ là sự chọn lựa đầu tiên của Đức Chúa Trời dành cho một cặp vợ chồng. Đức Chúa Trời ghét sự ly dị (Mat 2:14-16)và chắc chắn không có tín hữu nào nghĩ đến việc ly dị cho đến khi mọi lối hoà giải bế tắc.


Một người thất bại trong hôn nhân có thể bị ngăn trở hầu việc Đức Chúa Trời trong chức vụ mục sư hoặc chấp sự (ITi 3:2,12), thì không nên ngăn trở không cho anh ta hầu việc theo cách khác. Một số người có tài chinh phục linh hồn tội nhân tôi từng quen biết là những người đã trải qua cảnh ly dị đắng cay trước khi tin Chúa. Một người không phải có một chức vụ mới hầu việc Chúa được.


Để tóm tắt, mỗi người phải tự hỏi những câu hỏi dưới đây nếu đang suy nghĩ về hôn nhân:


1.Đặc ân Đức Chúa Trời ban cho tôi là gì?


2.Có phải tôi dự định kết hôn với một con cái Chúa không?


3.Trong những hoàn cảnh nào hôn nhân là đúng ?


4.Hôn nhân sẽ ảnh hưởng thế nào cho sự hầu việc Chúa của tôi?


5.Tôi có được chuẩn bị để bước vào cuộc sống lứa đôi không ?



bottom of page