Thế-gian hỏi chúng ta có bao nhiêu tiền; Đấng Christ hỏi chúng ta sử dụng nó như thế nào...
“Xin lấy cả vàng bạc của con, Con không giữ lại dầu chỉ một đồng nhỏ.”
Không...
...có gì để thử-nghiệm tình yêu của chúng ta đối với Đấng Christ hay đối với kẻ khác một cách thực tiễn hơn là thái-độ chúng ta đối với tiền bạc và của cải chúng ta. Cũng không có gì thử-nghiệm những lời rêu rao được giải thoát khỏi cái thế giới gian ác này tốt hơn chúng. Thái-độ của người chưa tin Chúa đối với tiền bạc thật quá phổ biến nên ai cũng biết rõ. Thế-gian hỏi chúng ta có bao nhiêu tiền; Đấng Christ hỏi chúng ta sử dụng nó như thế nào.
“Thế-gian nghĩ nhiều hơn đến việc làm cho ra tiền; Đấng Christ nghĩ nhiều hơn đến cách ban phát nó. Thế-gian hỏi chúng ta cho gì; Đấng Christ hỏi chúng ta cho như thế nào. Thế-gian nghĩ đến số tiền; Đấng Christ nghĩ đến động-cơ thúc đẩy chúng ta ban-cho. Người ta hỏi chúng ta cho bao nhiêu; Kinh Thánh hỏi chúng ta giữ lại bao nhiêu. Đối với người chưa tin Chúa, tiền bạc là một phương-tiện được thỏa mãn; đối với người tín-đồ, nó là một phương-tiện để an-ủi; đối với người thứ nhất, nó là một cơ-hội để mua sắm tiện nghi, đối với người thứ hai, nó là một cơ-hội để cung hiến.”
Mấy lời nói đầu thẳng thắng của Fred Mitchell, nhà hóa học của Bradford và là một cấp lãnh đạo Cơ-đốc giáo trong quyển sách nhỏ rất đầy đủ và đặc sắc của ông nhan-đề: “Việc quản-lý tiền bạc” là một bài nhập đề rất thích hợp cho chương này.
Tác-giả quyển sách này nhìn nhận rằng mình đã chịu ơn quyển sách nhỏ kể trên và những người mà tấm gương ban tặng rời rộng và đẹp đẽ sẽ được dùng làm thí-dụ soi sáng thực tiễn cho cùng những nguyên-tắc được kể ra dưới đây.
Tiền bạc của bạn thuộc về ai? Khi ra đời, bạn đã mang theo bao nhiêu tiền, và khi qua đời, bạn sẽ mang đi được bao nhiêu? Giữa khoảng thời gian đó, các sổ sách kế toán phải được quân-bình hóa, nhưng tất cả số chi đã được dùng vào việc gì? Chỉ có một điều chắc chắn, ấy là nếu chúng ta gặp gỡ Đấng Chist thì thái-độ của chúng ta đối với tiền bạc và của cải bắt buộc phải thay đổi, hay ít ra cũng phải đặt thành vấn-đề.
Các đoạn từ 16 đến 21 của Phúc-âm Lu-ca hầu như là một bài “Khảo-luận về cách sử dụng tiền bạc của người tín-đồ Đấng Christ”, phần lớn vì nó chứa đựng những lời dạy dỗ thực tiễn về cách sử dụng tiền bạc bằng những lời giáo-huấn trực tiếp, những thí-dụ khuyến khích chúng ta suy gẫm và những tấm gương sống động.
-Chúng ta gặp nhà phú hộ mặc áo tía và vải gai mịn, tiệc tùng linh đình mỗi ngày; và hầu như thản nhiên không bận tâm gì đến gã ăn mày ngồi trước cửa nhà mình.
-Chúng ta gặp chàng trẻ tuổi giàu có làm quan được truyền dạy phải bán hết gia tài để phân phát cho kẻ nghèo hầu được một cơ-nghiệp trên trời, rồi theo Chúa Giê-xu; nhưng chàng ta đã từ chối cuộc thử thách.
-Rồi chúng ta lại gặp một trong số những con người khốn khổ, một người ăn mày khác, lần này lại mù nữa, ngồi trên con đường xuống thành Giê-ri-cô và Đức Chúa Giê-xu đã chữa lành bằng cách mở mắt cho.
-Chúng ta lại gặp một người giàu có khác từ trên cây tụt xuống để mời Đức Chúa Giê-xu vào nhà mình. Vị trưởng phòng thâu thuế này đã trích phân nửa gia tài mình để phân phát cho kẻ nghèo và bồi thường gấp tư những kẻ đã bị mình làm thiệt hại.
-Chắc chắn là người ăn mày đui mù vừa nói trước, hôm đó đã được hưởng ân-huệ đó, và thế là Đức Chúa Giê-xu đã làm cho kẻ nghèo được giàu hơn và kẻ giàu trở thành nghèo hơn. Tuy nhiên, khi làm việc ấy, Ngài đã khiến cho cả hai đều vui lòng.
-Điều mà người nhà giàu không thấy để làm cho người nghèo khó ngồi trước cửa nhà mình, điều mà chàng thanh niên giàu có, làm quan kia không chịu thi hành khi được lưu ý, thì Xa-chê, người thâu thuế, đã tình nguyện làm trong ngày vui mừng chẳng bao giờ quên được, khi Chúa Giê-xu bằng lòng ở lại trong nhà Xa-chê, khiến ông hối hả tụt xuống khỏi ngọn cây để vui vẻ tiếp rước Ngài.
Tất cả những điều đó đều ở trong toàn thể bản văn khi bạn đọc nhiều đoạn Kinh Thánh đồng thời, chớ không phải chỉ mỗi lần đọc vài câu mà thôi. Vì vậy, chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vào toàn thể các khúc sách ấy.
Tiền bạc dành để làm gì.
LuLc 16:1-9 chép một truyện tích thú vị về người quản-lý bất-trung, khi biết mình bị sa thải, đã lợi dụng cơ-hội đang có để bảo-đảm cho tương lai của mình. Bằng một giọng văn phớt tỉnh, Dorothy Sayers đã mô-tả con người vốn hành nghề thâu thuế là Ma-thi-ơ chắc phải biết tất cả các mánh khoé liên-hệ đến vấn-đề sổ sách tiền bạc cũng như cách bôi sửa sổ sách để mỉm cười mai mỉa về việc làm thiếu thận trọng đó.
Chúa Giê-xu khen người quản-gia bất trung kia đã khôn khéo và biết lo xa, tức là đã biết lợi dụng số tiền mình hiện có quyền kiểm soát để lo cho sự an vui tương lai. Ông ta là một con cái của đời này và hoàn toàn bất-lương, đã vi phạm một cách trắng trợn cả hai điều răn thứ tám và thứ chín cùng một lúc. Nhưng dầu là một tên lưu manh, ông ta đã được khen là khôn-ngoan, khéo léo.
Vì hiện giờ và ở đây tiền bạc phải được dùng để thu-phục nhân-tâm, để kết bạn với những kẻ sẽ chào đón chúng ta trên thiên-đàng sau này; nghĩa là chúng ta phải dùng “của bất-nghĩa” (tức là tiền bạc) để làm việc cho Đức Chúa Trời và mở rộng Nước Ngài.
Nếu dùng ngôn ngữ con buôn, thì chúng ta phải biết chắc là khi đến thiên-đàng, sẽ có nhiều bạn bè tiếp đón ta ở đó! Khi chúng ta bước vào cửa thiên-đàng đồng thời với một tiếng kêu lớn, thì sẽ có một đám đông người reo mừng chào đón chúng ta - những người lạ, số đông trong vòng họ, những kẻ phung xưa kia, người thượng du, trẻ con, người từ muôn nước dưới trời - những người được lên thiên-đàng nhờ chúng ta đã sử dụng tiền bạc của mình cách khôn-ngoan.
Tiền bạc chúng ta quyên trợ lúc còn ở thế-gian sẽ là cuộc tiếp đón có thể có lúc mình ở thiên-đàng. Lối giải thích này có vẻ không thuộc-linh chút nào! Nhưng chắc chắn đó là ý nghĩa của câu 9. Đó là phương pháp gởi tiền bạc trần-gian vào ngân hàng thiên-thượng, nghĩa là bằng cách quyên trợ một cách khôn-ngoan và có ý thức cho những kẻ đang thiếu thốn. Không có những chiếc túi nào trong vải liệm xác chết, nhưng vẫn có phương pháp gởi tiền đi, đó là quyên tặng, bố thí, tung tiền ra! Lẽ dĩ nhiên không phải là tung ra bất cứ cách nào, nhưng là tung ra một cách khéo léo, khôn-ngoan như người quản-gia bất-trung đã làm.
Có người nói về John Sargent, bạn thân và là người viết tiểu-sử Henry Martyn rằng dường như ông ta không hề biết niềm vui của vật thuộc về mình trừ ra có thể tặng nó cho kẻ khác.
Đấng Christ đã tiếp tục dạy thêm những bài học sâu xa hơn liên-hệ đến tiền bạc, đến sự trung-tín trong việc nhỏ là dấu hiệu chứng-tỏ sẽ đáng tin-cậy hơn trong việc lớn (đồng thời, cũng làm sáng-tỏ vấn-đề là người quản-gia bất-trung đã không hề được khen vì sự bất lương của mình).
Đấng Christ cũng vạch-rõ rằng nếu chúng ta không thể tin-cậy được trong vấn-đề tiền bạc, thì ai là người dám giao cho chúng ta những của cải đích thực của thiên-đàng? Tác-giả sách Phúc-Âm ghi lại rằng những người Pha-ri-si nghe mấy lời đó vốn “ham tiền tài” (câu 14), nên Đức Chúa Giê-xu đã nghiêm nghị quở-trách họ khi họ chê cười Ngài vì Ngài dạy rằng sự tôn-trọng trước mặt người ta - nghĩa là việc người thế-gian coi trọng sự giàu có, của cải - là gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời.
Chúng ta cần ghi nhớ luôn rằng những thái-độ đối với tiền bạc mà chúng ta đã chịu ảnh hưởng từ khi còn trẻ, cũng như việc theo đuổi những địa-vị xã hội mà mọi người đều chấp nhận như một thước đo mức-độ thành công của chúng ta, đều có thể là những điều gớm ghiếc trước mặt Đức Chúa Trời.
Những bài quảng cáo ngày nay đã lạm dụng điểm đó, gợi ý rằng bất cứ người nào không mua nổi vật mà họ muốn bán, đều là những người không ra gì, và như thế, ý thức tranh đua với người xung quanh đã được “tôn-trọng giữa vòng loài người” (cả nữ giới nữa!).
Các nước giàu mạnh của Tây phương thường tự hào một cách sai lầm rằng mình hơn các nước kém phát triển về phương diện vật chất, thỉnh thoảng chế giễu những người có một mơ ước tầm thường đã sướng như điên khi mua được một vật gì mới, chẳng hạn một đôi giày, một cặp kính đeo mắt hay một chiếc xe máy nhỏ, nhưng lại mù quáng không chịu lưu ý rằng phần lớn những cuộc viếng thăm người khác để so sánh các hệ-thống nấu nướng, máy điều hòa không khí, vật dụng trong nhà cũng chỉ là một lời ngụy biện nông cạn cho cùng một hình thức bắt chước, nô-lệ người khác, của mình.
Lối sống rập khuôn, nô-lệ người khác một cách kỳ cục đó cũng không giới hạn nơi người lớn, mà cả đến những người quả quyết rằng mình là hạng dè dặt cực đoan dường như vẫn bị nô-lệ đối với những thời trang thông thường, cũng như những kẻ vẫn tự xưng là chống quy ước, chống sự rập khuôn theo người khác.
Những sinh-viên bảo là muốn nôn mửa vì cái xã hội giả hình và cứng nhắc này, thấy rõ những cái nông cạn của xã hội mà họ chống lại, rồi cũng bị bắt buộc phải bước xuôi theo những ngông cuồng trong khoảnh khắc. Về phe với nhóm này hay nhóm nọ vẫn là thái độ giống hệt nhau của mọi người thuộc mọi hạng tuổi trong xã hội.
Chiếc túi đầy với con mắt mù.
Nguyên-tắc về việc sử dụng tiền bạc để bảo-đảm rằng chúng ta sẽ được tiếp đón vào các nơi ở trên trời sau đó đã được minh-thị (một cách tiêu cực) bằng truyện tích của người nhà giàu và La-xa-rơ (LuLc 16:19-31). Lẽ dĩ nhiên đây không phải là một loại thí-dụ có tính cách chính trị chứng-minh rằng tất cả những tên tư bản gian ác đều sẽ sa xuống địa-ngục và những người vô sản bị chà đạp sẽ được lên thiên-đàng, bởi vì cả hai vấn-đề đức-tin (Áp-ra-ham là ông tổ của những kẻ tin GaGl 3:7; RôRm 4:16) và sự ăn-năn (câu 30) hoặc thiếu đức-tin và không ăn-năn, đều được ngụ ý.
Điểm thí-dụ này muốn nhấn mạnh không phải là so sánh tiền bạc nhưng là đề-cập đến vấn-đề cứu cánh của sự chết bằng cách xác định những kết quả đời-đời của thái-độ chúng ta trong đời sống. Cũng vậy, rõ ràng là tội của người nhà giàu được nhấn mạnh ở đây là sự ngạo mạn và quá dễ dãi đối với chính mình, cùng với thái-độ lạnh nhạt đối với những sự thiếu thốn của người chung quanh.
Ông ta có chiếc túi đầy tiền để tiêu pha riêng cho mình được sung sướng, với một con mắt đui, đến nỗi không hề nhìn thấy những kẻ mình phải dùng tiền đang có để giúp đỡ cho.
Phần đông chúng ta đều bằng lòng với một chính sách kinh tế giữ được mức sinh hoạt của chúng ta cứ càng ngày càng tăng gia, trong khi biết rằng ở nhiều nơi trên thế giới (và ngay cả nhiều khu vực kém may mắn hơn ở ngay trong xứ chúng ta) nhiều người phải sống rất chật vật. Hãy làm phước cho các dân-tộc ngoại quốc và nuôi sống họ tại đó là thái-độ phải có. Bảo rằng những người không hề biết đến lối sống khá hơn không thể thiếu những gì chúng ta đã được dạy bảo là tối cần thiết có thể cũng đúng phần nào, nhưng phải chăng thí-dụ trên đây đã thách thức chúng ta về điểm đó? Lẽ dĩ nhiên chúng ta nhìn nhận rằng trên phương diện tài năng trí-thức và khả năng làm ra tiền, con người không ngang nhau, nhưng sự bất đồng đó xảy ra phần nhiều là do sự may rủi, quốc tịch và cơ-hội hơn là do các nguyên nhân khác.
Đối với một số người, dường như đó là những hậu quả xã hội chớ không phải tôn-giáo, nhưng ông nhà giàu đã không thuyết phục được Áp-ra-ham về điểm đó, và trong ánh sáng của một viễn tượng đời-đời (khi ông ta đến một chỗ từ đó có thể nhìn thấy một cái gì khác tốt hơn) dường như người ấy đã nhìn nhận tội-lỗi mình và muốn được thấy mặt anh em mình (lẽ dĩ nhiên là lúc đó đang vui hưởng gia tài của người ấy để lại; bởi vì không thể nào người ấy lại để nó cho người nghèo!) thì cũng do cùng một sự đoán-phạt ấy mà có.
Tiền bạc rất khó dứt.
LuLc 18:18-25. Chàng thanh niên nhà giàu và làm quan có lưu tâm đến những giá-trị thuộc-linh; chàng ta muốn hưởng sự sống đời-đời. Chàng đã nhấn mạnh rằng mình vẫn cẩn thận tuân-giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Chúng ta đọc là Chúa rất mến chàng ta (MacMc 10:21) mời chàng ta theo mình để làm môn-đệ, và đưa ra điều-kiện là trước hết hãy bố thí tất cả những gì mình có cho kẻ nghèo, và như thế, sẽ được một gia tài trên thiên-đàng.
Vậy là trước mặt chúng ta có một con người được thúc giục một cách thuộc-linh, có một đời sống thánh-khiết được một lời khuyên mời của chính Đấng Christ, nhưng đến cuối cùng, lại coi trọng những của cải vật chất hơn phần gia tài thuộc-linh, và buồn bã bỏ đi. Chúng ta đừng vội căn cứ vào đó để bảo rằng Đấng Christ truyền cho mọi người phải cho hết những của cải mình có.
Chúng ta biết rằng có lần Ngài và các môn-đệ Ngài đã phải nhờ vào lòng rộng rãi của một số dân chúng, trong đó có Gian-nơ và Su-xan-nơ, “giúp của cải cho Ngài” (LuLc 8:3). Cho nên, dường như những người này đã không phải đương đầu với một lời thách thức như vậy.
Thật ra thì đối với Ngài, của cải đã trở thành một thần-tượng mà mọi người phải dứt bỏ. Đây là một lời cảnh cáo kẻ giàu, bảo rằng một đời sống được mọi người kính trọng chưa phải là đủ nếu của cải đã trở thành một hình-tượng, ngăn cản chúng ta hết lòng bước theo Chúa.
Sau khúc sách này là những lời rất nổi danh bảo rằng xỏ một sợi dây thừng to (chữ Hy-lạp là kamilos, rất giống với chữ kamçlos là con lạc đà) qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu vào được nước thiên-đàng.
-Chàng thanh niên giàu có và làm quan kia đã có cơ-hội.
-Ông phú hộ cũng có gã ăn mày nghèo trước cửa nhà mình như một cơ hội để xỏ sợi chỉ quá to của đời sống mình qua lỗ kim của sự cứu-chuộc.
Nhưng chàng thanh niên đã từ chối lời mời đặc biệt là theo Chúa. Sự chú ý của chàng đã kéo chàng đến chỗ mình phải hành động, nhưng chàng từ chối, không chịu làm. Cho nên không có gì đáng lấy làm lạ, khi trong số những vật làm nghẹt ngòi hột giống là đạo Chúa, ngăn trở không cho nó kết quả, cũng có “sự mê đắm về giàu sang” (Mac Mc 4:19).
Tân-ước hoàn toàn được giao phó nhiệm-vụ đề-cập đến tầm quan trọng của báu vật thiên-đàng. Ở đây, chàng thanh niên giàu có làm quan được nói cho biết rằng nếu anh ta bán gia tài mình và phân phát cho kẻ nghèo, thì sẽ được của cải trên trời.
Trong LuLc 12:1-59, có một trại chủ giàu có cũng xây lại các kho lẫm của mình để có thể chứa nhiều của cải trần gian hơn; và chúng ta được cho biết rằng con người “dại” đó đại diện cho những kẻ