Tuổi tác cũng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về khái-niệm thời gian...
“Xin Chúa hãy nhận lấy cả thì giờ, và ngày tháng của đời sống tôi.”
Thì...
...giờ là một cái gì rất kỳ cục. Những ngày nghỉ hè, một buổi chiều với vị hôn thê, một cuộc đàm đạo sôi nổi với người bạn cũ - và thời gian trôi đi nhanh chóng. Trong khi đó, nhiều việc khác như việc trông-đ ợi vị hôn-thê đã nói ở trên đến, một giờ tập luyện trong trại lính hay mười phút ngồi trên ghế của ông nha sĩ lại qua đi rất chậm chạp. Nếu thời gian chịu đi chậm khi chúng ta vui thú y như lúc chúng ta buồn bã thì hay biết bao nhiêu…
Tuổi tác cũng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận về khái-niệm thời gian. Với trẻ con thì một ngày dường như dài quá, và từ Nô-ên này đến Nô-ên sau, hay chờ đợi cho đến ngày sinh nhật, dường như vô tận vậy. Rồi cuộc sống bắt đầu di chuyển tính theo tuần lễ, vì mỗi cuối tuần trẻ con được nghỉ học; sau đó tính từng tháng, rồi từng mùa, từng năm.
Mọi sự dường như càng tiến nhanh hơn cùng với tuổi tác. Chúng ta đọc Kinh Thánh, thấy chép rằng ngàn năm trước mặt Chúa như một ngày, nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài không hề để ý đến cách sử dụng thì giờ của chúng ta vì trong cùng một khúc Kinh Thánh đó (IIPhi 2Pr 3:8) cũng chép rằng đối với Ngài một ngày cũng như ngàn năm.
Tín-đồ Đấng Christ hầu như có thói quen nói đến việc “quản-trị” thì giờ và tiền bạc. Nghĩa là khi chúng ta tiêu tiền, phung phí tiền bạc, chúng ta cũng dùng cùng một động từ ám chỉ việc phung phí thì giờ. Thì giờ là một phương tiện phổ quát có thể dùng để mua vật này vật nọ.
Ta có thể trực tiếp dùng nó để được tiền; nghĩa là chúng ta đi làm thuế. Nó cũng có thể dùng để theo đuổi học thức, để giáo hóa bè bạn, để vui chơi, để thu thập kinh-nghiệm - những điều mà tiền bạc không mua được, nhưng chúng ta có thể mua được nếu chịu tận dụng thì giờ. Sự khác nhau giữa người này với người khác thường tùy thuộc vào tài khéo léo sử dụng thì giờ của từng người.
Như chúng ta đã thấy, người tín-đồ muốn tỏ-ra là một nô lệ biết ơn trong sự phục-vụ Chúa phải dùng thì giờ của mình thế nào cho Chủ mình đẹp lòng. Thì giờ của người ấy không thuộc riêng về mình, nhưng thuộc về Chúa Giê-xu. Chúng ta là quản-gia, là người quản-lý thì giờ của chúng ta để dùng nó cho Ngài.
Lợi dụng thì giờ.
Tuy nhiên, thoạt nhìn thì dường như việc quản-trị thì giờ không phải là một đề-tài mà Kinh Thánh đã trực tiếp đề-cập đến. Trong Tân-ước, dường như chỉ có 2 chỗ khác nhau trong hai thư tín gởi cho người Ê-phê-sô và người Cô-lô-se (ÊphEp 5:16; CôlCl 4:5) là những câu minh họa về vấn-đề này; nhưng văn mạch và phần liên ý trong hai thư tín dường như lại khác nhau, dầu đều được diễn-tả bằng những lời lẽ giống nhau. Đó là câu “Hãy lợi dụng thì giờ” (Bản AV dịch là “cứu vãn (hay cứu chuộc - redeeming- thì giờ”).
Dầu vậy, đây không phải là một lời khuyến-cáo trực tiếp việc quản-trị thì giờ, vì như các nhà chú-giải Kinh Thánh luôn luôn mau mắn vạch ra, chữ được dùng không phải chronos có nghĩa là thì giờ tính bằng năm, tháng, tuần lễ hay giờ, mà là chữ kairos , ám chỉ một thì giờ đặc thù hay thuận tiện.
Dường như nó có nghĩa là một giai-đoạn nghiêm trọng nào đó, một cơ-hội đặc biệt chóng qua, và lời khuyên là hãy nắm ngay lấy, lợi dụng ngay lấy trong khi vẫn còn có cơ-hội. Từ ngữ Hy-lạp exagorazơ được dịch là “lợi dụng”, thật ra có nghĩa là mua ngoài chợ, do đó, theo Simpson, đúng hơn thì chúng ta nên hiểu là “mua lấy các cơ-hội”.
Ai thấy một người đàn bà giành giựt một món hàng có thể dùng được nhưng bán với giá thật rẻ nhân dịp một cửa hiệu bán đại hạ giá, đắc thắng chợp lấy vật ấy và nhìn quanh để tìm một “dịp may” khác, sẽ có thể hiểu được một phần ý niệm rất linh động câu này gợi lên. Chúng ta phải tìm những dịp may như những cơ-hội đại hạ giá, và giật ngay lấy bất cứ lúc nào có thể, để phục-vụ Đấng Christ và mở mang Nước Ngài.
“Vậy hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em, chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn-ngoan. Hãy lợi dụng thì giờ, vì những ngày là xấu. Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng phải rõ ý muốn của Chúa là thế nào. Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng; nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh. Hãy lấy ca-vịnh, thơ-thánh và bài hát thiêng-liêng mà đối đáp cùng nhau và hết lòng hát mừng ngợi-khen Chúa. Hãy thường thường nhơn danh Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta, vì mọi sự tạ-ơn Đức Chúa Trời, là Cha chúng ta” (ÊphEp 5:15-20).
Cả đoạn văn này dường như chú ý trước nhất đến cách ăn nết ở, phải bước đi (sống) như thế nào, và gợi ý rằng nếu chúng ta có thì giờ rảnh rỗi thì đừng dùng nó để vui chơi phóng túng nhưng hãy dùng nó vào những việc làm thường gọi là “đạo đức” hay muốn cho gần hơn với Cơ-đốc giáo, chúng ta có thể gọi đó là sự thờ-phượng, tức là việc ca tụng Chúa và cầu-nguyện.
Ở thế kỷ thứ nhất, khi đa số tín-đồ Đấng Christ đều là nô-lệ, họ có rất ít thì giờ rỗi rảnh ngoài thì giờ làm việc, và đây là lời chỉ dẫn họ phải dùng những thì giờ ấy như thế nào. Đừng phí phạm thì giờ trong các quán rượu, nhưng nên tìm gặp các tín-đồ khác và lợi dụng những cơ-hội để thông-công nhau trong khi có dịp tiện. Đồng thời Phao-lô cũng dạy là “thường thường và trong mọi sự” (câu 20), thì giờ của họ cũng phải được đánh dấu bằng một ý thức về sự biết ơn Đức Chúa Trời và sau đó, ông tiếp tục đưa ra những lời chỉ dẫn thực tiễn về sinh hoạt và những mối liên-hệ trong gia đình, rồi tiếp theo nữa là thái-độ đối với việc làm và đối với chủ (5:21-6:9).
Trong thư Cô-lô-se, sau khi đề-cập đến những mối liên-hệ trong gia đình và trong việc làm, Phao-lô xin họ cầu-nguyện cho việc ông rao-giảng Tin Lành và tiếp: “lại hầu cho tôi được tỏ cho biết lẽ-thật ấy (một cách rõ ràng) như điều tôi phải nói. Hãy lấy sự khôn-ngoan ăn ở với những người ngoại, và lợi dụng thì giờ. Lời nói anh em phải có ân hậu theo luôn và nêm thêm muối, hầu cho anh em biết nên đối đáp mỗi người là thể nào” (CôlCl 4:4-6). Vậy ở đây, cả đoạn dường như đề cập đến việc rao-giảng Tin Lành, thái-độ mỗi người đối với những kẻ chưa tin Chúa và như thế là hãy n ắm lấy mọi dịp tiện để làm-chứng và cứu-rỗi linh-hồn người ta.
Tuy nhiên, như trường hợp luôn xảy ra, đây không phải là một vấn-đề có thể nghiên-cứu chỉ bằng cách tìm chữ “thì giờ” trong một quyển phù dẫn. Nó vẫn thường được đề-cập đến hơn bằng những lời lẽ liên-hệ đến sự cần thiết phải chăm-chỉ và những lời khuyến cáo phải chống lại sự biếng nhác.
Các ta-lâng và các nén bạc.
Trong những thí-dụ về các ta-lâng và các nén bạc (MatMt 25:14-30; LuLc 19:12-26), có một người đã được một số vốn và “một thời gian dài” (Mat Mt 25:19), nhưng đã không lợi dụng cơ-hội ấy để làm gì hết. Điều khiến người ấy bị quở trách: “Hỡi đầy tớ dữ và biếng nhác kia!” không phải là việc người ấy được một ta-lâng mà là việc người ấy có thì giờ dùng để làm lợi thêm. Dầu chúng ta muốn hiểu là các ta-lâng hay các nén bạc tiêu biểu cho tài năng thiên phú, sự cứu-rỗi hay bất cứ điều gì đi nữa, những người đầy tớ kia đều được mong đợi phải làm một cái gì với điều mình đang có, dầu điều họ có ít hơn người khác.
Và họ được ban cho thì giờ để làm việc. Nếu ông chủ đã trở về ngay ngày hôm sau chắc không ai có thì giờ để làm lợi được gì, cũng không một người nào đáng khen hay đáng trách. Cho nên chính việc sử dụng thì giờ đã trở thành có ý nghĩa trong cả 2 thí-dụ kể trên. Dầu có nhiều chỗ khác nhau, điểm vừa nêu ra vốn giống nhau trong cả 2 thí-dụ, tức là cả hai phải được hiểu là có ý đề-cập đến việc quản-trị thì giờ. Mục đích các thí-dụ đó dường như muốn nhắc nhở chúng ta rằng có một ngày nào đó, chúng ta cũng sẽ phải khai trình, phải tính sổ về công tác quản-lý của chúng ta, về cách chúng ta đã lợi dụng thì giờ và những cơ-hội, và liệu chúng ta là những đầy tớ siêng năng của Chủ hay chỉ là những người thụ động, vô kỷ-luật.
Tính cách bấp bênh của sự sống.
Một điểm nhấn mạnh thường dùng để khích-lệ các tín-đồ Đấng Christ tận dụng thì giờ là tính cách bấp bênh của đời sống. Điều đó có nghĩa là chẳng những mỗi người có thể có tài năng hay số lượng tài năng khác nhau, mà thì giờ dài ngắn của cơ-hội cũng có thể khác nhau. Bản NEB dịch câu “lợi dụng thì giờ” là “tận dụng triệt để cơ hội hiện tại”. Có một số người như David Brainerd, Henry Martyn hay Borden of Yale đã phải qua đời rất sớm, nhưng họ đã hoàn toàn tận dụng thì giờ của mình.
“Hỡi anh em là kẻ nói rằng: Hôm nay hoặc ngày mai, ta sẽ đi đến thành kia, ở đó một năm buôn bán và phát tài - song ngày mai sẽ ra thế nào, anh em chẳng biết! Vì sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay. Anh em phải nói trái lại: Ví bằng Chúa muốn và ta còn sống, thì ta sẽ làm việc nọ, việc kia. Kìa, anh em lấy những lời kiêu ngạo mà khoe mình! Phàm khoe khoang như vậy là xấu. Cho nên, kẻ biết điều lành mà chẳng làm thì phạm-tội” (Gia Gc 4:13-17).
Chẳng những chúng ta được nhắc nhở rằng các chương trình ngày mai của chúng ta đều luôn luôn tùy thuộc vào sự cho phép của Đức Chúa Trời mà đời sống chúng ta cũng chỉ như hơi nước, một làn khói, và ngày mai, chúng ta rất có thể chết đi. Như thế, phần ứng dụng là nếu chúng ta biết việc phải làm mà không làm thì đó là tội. Câu đó ngụ ý rằng chúng ta không nên để lại ngày mai việc phải lẽ, công-nghĩa mà chúng ta phải làm hôm nay.
Người Chủ trở về.
Một điểm nhấn mạnh tương tự thường thấy nhắc đi nhắc lại trong Tân-ước là việc trở về của ông Chủ. Không phải cái chết bất ngờ, nhưng rất có thể là sự tái-lâm của Chúa sẽ thử-nghiệm giá-trị của những điều chúng ta đang làm. Phải chăng cách thức làm việc của tôi sẽ đẹp lòng Chúa? Hay vấn-đề quan-trọng là cách thức nghỉ ngơi, giải trí của tôi?
“Ai là đầy-tớ trung-tín và khôn-ngoan mà người chủ đặt cai trị đầy-tớ mình, đặng cho đồ ăn đúng giờ? Phước cho đầy tớ đó, khi chủ đến, thấy làm như vậy! Quả thật, ta nói cùng các ngươi, chủ sẽ đặt kẻ ấy coi sóc cả gia tài mình. Nếu trái lại, là một đầy tớ xấu, nó nghĩ thầm rằng: Chủ ta đến chậm, bèn đánh kẻ cùng làm việc với mình, và ăn uống với phường say rượu, thì chủ nó sẽ đến trong ngày nó không ngờ và giờ nó không biết. Chủ sẽ đánh xé xương và định phần nó đồng với kẻ giả hình. Đó sẽ là nơi có khóc lóc và nghiến răng” (MatMt 24:45-51).
Người đầy-tớ ở đây là một quản-gia, có trách-nhiệm đối với một số người khác, và đã được chủ cung-cấp vật thực để phân phát lại cho số người kia. Nếu người ấy lạm quyền, bỏ qua cơ-hội phục-vụ những người kia và dùng cho mình những gì đúng ra phải dành cho họ, thì Chủ sẽ trở về thình lình và hình phạt anh ta.
Vì chúng ta không biết được ngày nào Chúa chúng ta sẽ trở lại, chúng ta phải luôn luôn hăng hái làm điều đẹp lòng Ngài. Rõ ràng là ý niệm về việc bị “bắt được quả tang” như một cậu bé xấu bị bà mẹ trở về bắt được đang ăn vụng, chỉ là một phần nằm trong chân-lý này.
Người tín-đồ phải nhớ rằng Đức Chúa Trời thấy hết mọi điều mình làm; đây không phải là vấn-đề bị một ông chủ từ trước đến giờ không biết gì hết bắt gặp quả tang. Cả hai khúc sách liên-hệ đến việc làm trong Ê-phê-sô và Cô-lô-se đều nhấn mạnh điểm là t ất cả chúng ta đều biết rằng Chủ Toàn Tri chúng ta ở trên trời là Đấng chẳng bao giờ bị chúng ta lừa dối. Chúng ta có thể làm việc khi người cai nhìn vào chúng ta và nghỉ tay khi ông ta đi chỗ khác; nhưng Đức Chúa Trời không chịu để chúng ta khinh dể Ngài như vậy.
Tai hại của kẻ lười biếng.
Điểm dị biệt quan trọng giữa một người chậm chạp và một kẻ lười biếng có thể được nhận thấy ngay khi loại người thứ hai làm một việc gì. Trong sách Châm-ngôn, chính người vợ ở trong nhà là gương mẫu của sự chăm chỉ. “Người vợ đảm đang” của đoạn 31 chính là người trọn đời làm cho chồng được ích lợi. Nàng “thức dậy khi trời còn tối”, và “ban đêm, đèn nàng chẳng tắt”. Nàng “không hề ăn bánh của sự biếng nhác”, và chúng ta đã thấy nàng siêng năng, chú ý đến việc nâng cao địa vị cho chồng (câu 23) như thế nào, chú ý đến phước hạnh của kẻ nghèo khó và thiếu thốn (câu 20), đến sức khỏe và thịnh vượng chung cho cả nhà, cho con cái, và tất cả đều chổi dậy, chúc phước cho nàng.
Bí quyết của nàng ấy là “Kính sợ Đức Giê-hô-va” (câu 30) và nàng đã thật sự tận dụng thì giờ mình có. Chúng ta không thấy có một đoạn sách nào tương ứng đề-cập đến người chồng lý tưởng!
Tuy nhiên, ngay trong các Châm-ngôn đầu tiên, chúng ta đã thấy nhiều đoạn mô-tả rõ rệt về nhược điểm của kẻ lười biếng, mà ngược lại họ thường được mô-tả là người thuộc phái nam.
Chúng tôi xin ghi ra đây những đặc-điểm của con người đó:
1. Người ấy không hề đặt kế hoạch trước.
Anh ta “không cày vào mùa thu; trông đợi mùa gặt, nhưng chẳng được gì hết” (ChCn 20:4 theo bản Anh văn).
Loài kiến ra sức làm việc trong mùa hè (6:6 và tt) dự trữ thức ăn cho những ngày khó khăn sắp đến, trong khi kẻ biếng nhác cứ nằm ng ủ cả ngày.
-Anh ta quá buồn ngủ đến nỗi không hề chịu bắt tay vào việc mà chính anh ta biết là mình phải làm.
-Anh ta không biết lo xa, không có sự khôn-ngoan thông thường để biết chuẩn bị cho tương lai. Đây là người đầy-tớ không hề biết chuẩn bị gì hết. Ngày nay, chúng ta thường gặp loại người ấy trong những câu nói như: “Tôi không ngờ là thời gian qua nhanh thế”, và “Tôi không biết tại sao lúc này thì giờ lại qua mau như vậy!”
2. Người ấy không hề chịu làm việc.
“Lòng kẻ biếng nhác mong ước mà chẳng có gì hết; còn lòng người siêng năng sẽ được no nê” (13:4).
Người làm biếng nhìn nhận rằng mình có những nhu-cầu. Anh ta biết rằng muốn cho linh-hồn mình được ích lợi, mình cần đọc Kinh Thánh, cầu-nguyện xin Đức Chúa Trời ban phước cho. Nhưng dầu muốn làm, nhưng vì biếng nhác, anh ta chẳng bao giờ làm được. Người chăm-chỉ là người biết lo lắng hơn, biết hành động ngay, do đó, sẽ được dư dật.
3. Người ấy chú ý đến các vấn-đề nhiều hơn là giải quyết chúng.
“Đường kẻ biếng nhác như một hàng rào gai; còn nẻo người ngay thẳng được ban bằng” (15:19).
Con người khốn khổ ấy cứ bị những khó khăn ám ảnh, đến nỗi chỉ ngồi đó mà rầu rĩ, cũng như bạn bè của anh ta (26:13) không chịu bước ra khỏi cửa vì sợ có con sư tử ở ngoài đường.
Những người như thế tự làm khó cho chính họ. Họ lý-luận để bênh vực sự ù lì bất động của mình. Người tín-đồ Đấng Christ sẽ gặp khó khăn, nhưng luôn luôn lo giải quyết chúng; lẽ dĩ nhiên, đó là điểm chính yếu của sự trưởng-thành và già dặn.
Con người rất thích khi giải quyết các vấn-đề. Nhưng kẻ biếng nhác, ở đây được đặt tương phản với người ngay th ẳng (như thế là câu này cũng nhìn nhận rằng lười biếng là tội), đã tự tạo ra cho mình nhiều vấn-đề. Vì thiếu ngay thẳng, liêm chính, nên người ấy trở thành con người biếng nhác.
4. Người ấy làm trở ngại cho kẻ khác và gây ảnh hưởng tổn hại.
“Kẻ thả trôi trong công việc mình, cũng là anh em của kẻ phá hoại” (18:9).
Chúng ta biết rằng ngày nay có lối làm việc không có giá-trị trong các xưởng chế tạo ô-tô, máy bay, xây cất hay những việc làm tương tự. Lối làm việc này thường gây ra nhiều tai nạn khủng khiếp. Điều này cũng đúng cho một số các công-tác và vấn-đề lãnh đạo trong giáo hội. Buông trôi trách-nhiệm của mình có thể gây đổ vỡ cho mối tương giao. Giáo-hội có thể bị tan rã do sự buông trôi trách-nhiệm hay lười biếng cũng như phải chống lại những cuộc tấn công của Sa-tan.
Ở đây, các cấp lãnh đạo của Ban Thanh Niên phải thực sự chịu trách-nhiệm. Phải chăng các bạn chỉ cần giữ cho chiếc bánh xe chạy đều bằng một chương trình đúng y đường lối cũ, thí-dụ như phải có người giảng tuần sau, tôi sẽ xin ông ta giảng đề-mục gì, và càng ít phải làm việc càng hay? Hay các bạn thực sự phân tích những nhược điểm hiện có và thiết lập một chương trình để giải quyết các nhu-cầu thực sự của tình hình hiện tại.
Có một số các cấp lãnh đạo chỉ biết hưởng thụ ưu thế của mình, điềm nhiên ăn trên ngồi trước - địa-vị mà những người đi trước đã phải khổ công làm việc để tạo ra - thay vì vạch ra một con đường trống, nỗ lực góp thêm phần hoạt động tích cực của mình để đạt đến những mục tiêu đặc biệt. Phần lớn các công-tác lãnh đạo đã vướng vào phần tổ chức suông, thậm chí chỉ với một tổ chức rất nhỏ cũng vậy mà thôi.
Kẻ lười biếng là người không quản-trị thì giờ của mình để làm rạng danh Đức Chúa Trời. Rất có thể là người ấy chẳng bao giờ nghĩ rằng thời gian là một phương tiện quý báu có thể dùng vào việc ấy. Vậy chúng ta hãy chổi dậy và làm việc trong lúc còn có thì giờ, trước khi bóng tối của mùa đông kéo đến.
Một thì giờ dành cho…
Từ sách Châm-ngôn, lẽ tự nhiên chúng ta cũng bước qua sách Truyền-đạo với những lời dạy dỗ về sự khôn-ngoan thông thường của trần-gian, những lời khuyên nhủ người trẻ tuổi hãy phục-vụ Đức Chúa Trời đang khi mình còn có thể làm được (TrGv 12:1) và những lời mô-tả đầy thi-vị, đẹp đẽ, nhưng cũng bi thảm về tuổi già (tạ-ơn Đức Chúa Trời là chúng ta khỏi phải sống đời-đời trong thân thể già nua này, nhưng có thể trông mong được một thân thể mới sau khi đã từng-trải sự cần thiết sinh lý của cái chết), cũng như sự bi quan phải chịu nếu chúng ta không được mặc-khải về cuộc đời hầu đến.
Nhưng chúng ta cũng ghi nhận lời nhắc nhở của nhà Truyền-đạo là có một thì giờ, một kỳ cho mọi sự (3:1 và tt) như một câu trong Cựu-ước có thể dịch là hãy lợi dụng thì giờ, hãy lợi dụng những cơ hội “bán đại hạ giá”, hãy sử dụng thì giờ thế nào cho thích hợp để tôn-vinh Đức Chúa Trời.
Có những thời kỳ thích hợp cho người trẻ và chỉ thích hợp cho họ mà thôi, cũng như có những cơ-hội chỉ cho người già (nhất là bên đông phương) mà giới trẻ và thiếu từng trải không thể nào lợi dụng được. Người trẻ không nên phí thì giờ chờ đợi mình già dặn hơn, cũng như người già đừng than tiếc những ngày tươi đẹp h ồi còn trẻ và muốn mình được trẻ mãi. Thiết tưởng ở vào cả 2i địa-vị, chúng ta phải theo một thứ chủ nghĩa hiện sinh Cơ-đốc giáo, nghĩa là phải biết cái gì thích hợp cho hiện tại.
Biết bao nhiêu người trong chúng ta đã phung phí năm tháng, thì giờ vào những cơ-hội không thích hợp? Thí-dụ như có bao nhiêu người vẫn chơi trò nô đùa với ái tình trong khi còn nhiều năm nữa, họ mới có thể lập gia đình?
Biết bao nhiêu người cứ cay đắng, mong một chức-vị lãnh đạo, trong khi vào tuổi họ thì bước theo sự hướng dẫn của người khác là hợp lý hơn, cho đến khi được từng-trải hơn?
Những năm ở đại học với tư cách sinh-viên rõ ràng là “kỳ học tập” chớ không phải là thì giờ để dùng trước nhất vào việc nghỉ ngơi hay những việc vô ích. Giữa sự giải trí vừa phải, quân-bình với sự buông mình thờ các thần-tượng thể thao như cắm trại, bơi thuyền có rất nhiều dị biệt, cũng y như có chỗ khác nhau giữa việc trực tiếp mở rộng kiến-thức với những giờ tiêu phí một cách vô ích, hời hợt bên những tách cà phê đắt tiền nối tiếp nhau không dứt.
Thì giờ và việc nghiên-cứu các động tác.
Chúng ta đều quen biết với hiệu quả của ngành hướng dẫn chuyên môn, nhằm khám phá ra một sự cố gắng tối thiểu để thu hoạch được những kết quả tốt nhất, tạo ra những con người thời đại với năng suất tối đa. Tất cả những cử động không cần thiết đều bị loại bỏ; những dụng cụ chính yếu phải nằm tại chỗ thuận tiện nhất, những vật liệu chế biến để ở phía bên kia, và vân vân.
Cách hướng dẫn để tận dụng thì giờ như thế thật là hay - cũng như có khả năng phá hủy tâm-hồn con người! Không một phút nào bị bỏ phí giữa lúc này với lúc chúng ta đọc Kinh Thánh, với 22 phút rưỡi chúng ta dùng đọc một quyển sách tiểu-sử sau bữa ăn trưa và v.v… Chúng ta tìm những giờ phút bỏ phí, giống như mù-tạt còn lại trên đĩa, và xác định một phương pháp để dùng nó cho có ích lợi. Loại hướng dẫn đó có một giá-trị, nhất là cho những kẻ có tính hờ hững thất thường. Nhưng nó cũng có giới hạn.
Con người được sinh ra để sống như con người chớ không phải để làm một bộ máy. Chúng ta đồng ý là những người bận rộn có rất ít thì giờ rỗi rảnh, nhưng chúng ta cũng không thích bị đẩy vào một cuộc chen lấn nhau để hiệp với sự sắp đặt chút nào. Sự sắp đặt quá nhiều có thể trở thành một hình tượng nếu chúng ta giận dữ khi có một việc gì đó xảy ra cùng lúc và làm gián đoạn kế hoạch của mình. Chúng ta rất thích gặp những người không hấp tấp vội vàng là kẻ mặc dầu làm rất nhiều công việc nhưng vẫn dành đủ thì giờ để trò chuyện với chúng ta. Có một số người sắp xếp được thời khóa biểu vì tính tình họ thích hợp với việc đó; và lẽ dĩ nhiên, làm được như thế thì tốt hơn là lúc nào cũng bị thúc hối, vội vàng hay sống vô tổ chức, vô trật tự. Đồng thời được thanh thản, thoải mái, vẫn tốt hơn là bị xô đẩy thúc hối luôn.
Phần đông chúng ta đều có thể tổ chức công việc cho có thứ tự hơn, nhưng điều có lẽ còn quan-trọng hơn việc tổ chức đó, điều còn cần thiết hơn là lập ra một thứ tự ưu tiên cho mọi sự.
Thí-dụ như chúng ta phải quyết định nên đọc những tạp chí, nhật báo nào thực sự đáng đọc, và những báo chí nào là không đáng đọc. Chúng ta có thể lãng phí thì giờ vào những giờ đọc báo nhảm nhí, xem vô tuyến truyền hình vô ích, và v.v… Khi nghỉ ngơi thì nghỉ ngơi. Nhưng dường như có một lô những điều đáng sợ mà không nằm về phía nào cả. Chúng ta rất dễ gặp cái tình trạng là ít khi đọc một quyển sách rất hay, và ta có thể suy đoán rằng kẻ phạm lỗi nặng nhất cũng không thèm đọc một tờ lá cải ba xu như sách này!
Giá-trị của đời sống.
Ngày kia, vì muốn tiết kiệm, hầu như tôi đã phải đi vòng hơi xa thay vì trả tiền một cuốc tắc-xi. Một bạn giáo-sĩ thuộc một hội truyền-giáo rất nổi tiếng về sự hy-sinh có một mức sống rất thấp, đã hỏi tôi rằng có phải thật tình thì giờ của tôi chỉ có giá-trị quá ít như vậy không. Ông ta nói: