top of page

HungT
Jun 18, 2025
Ba Ngôi Thiên Chúa
Tác giả: Viện Thần Học Việt Nam

Chương 7: THẦN TÍNH CỦA CHÚA CỨU THẾ GIÊ-XU
(The Deity of Christ)
Người...
...ta kể rằng khi Thống chế Ney trình diện hoàng đế Napoleon sau khi điều khiển cuộc triệt thoái thành công khỏi Moscow, hoàng đế đã ôm chầm lấy ông mà kêu lên rằng: “Người can đảm hơn hết trong nhưng người can đảm”.
Nhưng người can đảm nhất phải là người Ga-li-lê quê mùa đã bình tĩnh ký bản án tử hình cho mình trước mặt Hội đồng tôn-giáo Do-thái khi nhìn nhận mình là Con Thượng Đế. Hội đồng Do-thái giáo đã lên án xử tử Chúa vì họ tin Ngài là kẻ phạm thượng và là tên bịp bợm. Ngài bị đóng đinh vì tuyên-bố mình là con Thượng Đế, nghĩa là khẳng định thần-tính của mình. Họ nói với tổng trấn Phi lát, “Chúng tôi có luật, theo đó hắn phải chết vì tự xưng mình là Con Đức Chúa Trời” (GiGa 19:7).
Chúa Giê-xu có thể đã giữ được mạng sống nếu Ngài không một mực quả quyết rằng Ngài là con Thượng Đế, nhưng Ngài không chịu chối bỏ sự thật, dầu cho phải chịu đau đớn và chết cái chết nhục nhã của tên phạm-nhân trên thập-tự giá.
Lời xưng nhận của Ngài là môt xưng nhận quan-trọng hơn hết. Trước đó một năm, Phi-e-rơ đã từng xưng-nhận như vậy, nhưng bây giờ ông đang ở ngoài kia chối Chúa mình, vì mạng sống ông bị đe dọa. Nếu được hỏi ý kiến, chắn hẳn Phi-e-rơ đã khuyên Chúa Giê-xu nên tạm giấu tông tích mình trong đêm hãi hùng đó. Nhưng Chúa Giê-xu không chịu thỏa hiệp. Ngài xưng mình là Con Thượng Đế, và không chút nao núng khi bị đem ra thử thách. Quả thật Ngài là vị anh hùng trên tất cả mọi anh hùng.
Chúa Giê-xu chết vì đã xưng mình là Con Thượng Đế, có bằng chứng nào hậu thuẫn cho lời tuyên-bố đó, một lời tuyên-bố nếu không dối trá thì cũng là táo bạo? Các tác-giả Phúc-Âm đã xác minh điều này.
MỘT ĐẤNG SIÊU PHÀM
(Jesus, a Supernatural Person)
• Do Trinh Nữ Sinh Ra (MatMt 1:22, LuLc 1:34,35)
Chung quanh sự ra đời của Đấng Cứu Thế có một cái gì siêu nhiên mà chúng ta không thể làm ngơ được. Lời tiên-tri nói Ngài là “dòng giống của người nữ”, không phải người nam (SaSt 3:15, LuLc 1:34).
Không có luật di truyền nào có thể giải thích trường hợp này được. Điều này thật phi thường và ý nghĩa đến nỗi trước đó 700 năm, nhà tiên-tri Ê-sai đã tuyên-bố rằng dấu-hiệu chứng cho Đấng Thiên-Sai sẽ là, Ngài sẽ do một trinh nữ sinh ra (ÊsIs 7:14).
Chúa do một người nữ đồng trinh sinh ra, sự-kiện này đã được Thánh Kinh, truyền thống, các bản tín-điều xác nhận, nó lại hoàn toàn phù hợp với những mặt khác của đời sống phi thường của Ngài, điều này đủ chứng-tỏ đó là sự thật.
• Có Sự Hiểu Biết Phi Thường (GiGa 2:24,25,4:16-19, 7:45,46,16:30)
Chúng ta đã biết cha mẹ Chúa Giê-xu rất nghèo, không đủ sức cho Ngài ăn học như người khác. Vậy mà Ngài biết còn nhiều hơn những nhà thông-thái, những học-giả giỏi giang lúc bấy giờ. Khi các vị chính-tế sai người đến bắt Ngài, những người này rất ngạc nhiên trước những lời lẽ khôn-ngoan của Ngài đến nỗi họ ngần ngại không dám bắt Ngài.
Khi người Pha-ri-si hỏi họ tại sao trở về tay không, thì họ đáp rằng “Chưa hề có ai nói như người này” (7:45,46). Người đàn bà Sa-ma-ri rất phục Ngài vì Ngài biết hết đời tư của bà đến nỗi bà bảo bạn bè, “Hãy đến xem ông này, ông ta kể hết mọi chuyện tôi làm, chắc là Đấng Cứu Thế chớ còn ai nữa?” (4:29).
Các môn-đệ của Chúa, những người biết Ngài rõ hơn ai hết, đã thưa với Ngài trong đêm cuối cùng Ngài còn ở với họ, “Bây giờ chúng tôi biết thầy biết hết mọi việc” (16:30).
• Có Quyền Năng Phi Thường
Chúa Giê-xu trưng những phép-lạ Ngài làm để minh-chứng Ngài là Đấng siêu phàm. Ngài nói: “những việc ta đã nhân danh Cha mà làm, chúng làm-chứng về ta… Nếu ta không là công việc của Cha ta, thì đừng tin ta. Nhưng nếu ta đã làm, thì dù các ngươi không tin ta, cũng hãy tin việc của ta” (GiGa 10:25,37,38).
Phúc-Âm ghi lại không dưới 36 phép-lạ. Còn bao nhiêu phép-lạ nữa không có chép thì chúng ta không biết, nhưng bao nhiêu đó cũng đủ chứng-tỏ quyền-năng phi thường của Ngài.
-Quyền Năng Trên Bệnh Tật (LuLc 4:39)
Ngài chữa lành bệnh tật, kể cả những chứng nan y như phung cùi. Ngài khiến kẻ điếc được nghe, kẻ câm được nói, kẻ què được đi.
-Quyền Năng Trên Thiên Nhiên (MatMt 8:26,27,14:25, LuLc 24:51)
Sóng gió đều vâng lệnh Ngài. Ngài vượt luật trọng lực mà bước đi trên mặt nước, và cuối cùng, Ngài đã thăng-thiên lên khỏi các đám mây.
-Quyền Năng Trên Ma Quỷ (MacMc 5:8-13, LuLc 4:31-36)
Cả thế giới thần-linh cũng phải phục-tùng lời Ngài. Ngài đã đuổi cả một đoàn quân quỷ ra khỏi một người khốn khổ, và cho chúng nhập vào bầy heo 2000 con khiến chúng phóng xuống biển chết chìm hết.
-Quyền Năng Trên Sự Chết (MacMc 3:35,41-42, LuLc 7:12-15, GiGa 11:32,43,44)
Kinh Thánh ghi lại ba trường hợp Chúa khiến người chết sống lại: Con gái Giai-ru, mới chết có vài giờ, con trai bà góa ở Na-in, trong lúc đám tang đang đưa quan tài cậu ta đến phần mộ, và La-xa-rơ, môn-đệ yêu quý của Ngài, đã chôn được bốn ngày.
• Sự Chết Và Phục Sinh Của Ngài (GiGa 10:18)
Khi người ta xin Chúa một dấu lạ để chứng-tỏ Ngài là Con Thượng Đế, Ngài lấy hình-ảnh Giô-na để biểu minh cho sự chết và phục-sinh của Ngài (Mat Mt 12:38-40). Ngài chẳng những có thể nói trước sự phục-sinh của Ngài mà còn thực hiện được. Điều đó chứng-minh hùng hồn rằng Ngài có quyền-năng thắng vượt cái chết và phần mộ, là môt điều chưa từng được chứng-kiến giữa nhân-loại.
• Thẩm Quyền Lạ Lùng Của Ngài (Mat Mt 7:29)
Nhiều lần Kinh Thánh nói rằng người ta ngạc nhiên vì thấy Chúa “nói có thẩm-quyền, chớ không như các thầy thông-giáo”.
Thẩm-quyền đó ở đâu ra, nó khác các thầy thông-giáo thế nào?
Có 4 nguồn thẩm-quyền:
(1) Thẩm-quyền của lời-chứng (testimony) do sự việc đã được kinh-nghiệm.
(2) Thẩm-quyền của ý kiến (opinion) do học nhiều biết rộng.
(3) Thẩm-quyền của địa-vị (position) do được công nhận.
(4) Thẩm-quyền của cảm-thúc (inspiration) - do trực giác.
Đôi khi không có sẵn sự-kiện và kinh-nghiệm để làm bằng-chứng trực tiếp, người ta lấy ý kiến của chuyên viên làm bằng-chứng (Circumstantial evidence). Chứng đó đúng hay sai là tùy phẩm tính của người chứng. Bằng-chứng tùy cơ có thể tăng phần giá-trị tùy theo địa-vị của người chứng. Người đó có thể là nhân viên công-quyền hay thành viên ban giảng-huấn của một trường đại học nổi tiếng.
-Thẩm-quyền của các thầy thông-giáo tùy thuộc phần lớn vào học vấn của họ khiến họ thành những chuyên viên về luật-pháp. Họ cũng được công-nhận vì là thành-viên của Hội đồng Tôn-giáo và giữ những chức-vị cao.
-Thẩm-quyền của Chúa Giê-xu không lệ thuộc vào ý kiến hay địa-vị của người ta. Ngài không được công nhận là học-giả, chẳng hề được cử giữ chức-vụ nào. Như vậy, thẩm-quyền của Ngài chỉ do lời vô ngộ của Thượng Đế và Thánh Linh là Đấng cảm-thúc lời ấy làm-chứng cho.
Điều này khiến cho lời Ngài nói có trọng lượng hơn là thẩm-quyền của một học-giả, hay uy tín của một nhân viên Công Hội. Người ta đã công kích thẩm-quyền đó khi Ngài tuyên-bố mình có quyền tha-tội. Người Pha-ri-si đã chủ trương rất đúng rằng chỉ Thượng Đế mới có quyền tha-tội. Như vậy Chúa Giê-xu phải là Thượng Đế, bằng không Ngài chỉ là tên đại bịp.
* Thẩm-quyền siêu nhiên của Chúa tỏ ra trong:
** Cuộc Đàm Luận Với Các Học Giả (LuLc 2:46-49)
Ngay từ lúc 12 tuổi, Ngài đã biết Ngài phải lo việc Cha Ngài. Những lời đầu tiên của Ngài được ghi lại ở đây cho thấy Ngài đã ý thức được mối liên-hệ mật thiết với Cha thiên-thượng của Ngài.
Cần để ý điểm khác với phong tục thường thấy ở Do-thái: ở đây Ma-ri chớ không phải Giô-sép là người hỏi câu “Tại sao con làm cho hai ta thể này? Này, cha con và mẹ đây lo âu tìm kiếm con.”
Điều đáng chú ý là trong câu trả lời, Chúa không nhắc tới Giô-sép; sau này cũng vậy, Ngài đã không dùng chữ “cha” khi nói về cha mẹ mình (MatMt 12:48, MacMc 3:33,34). Trong câu chuyện này, Chúa cho thấy rằng cha Ngài không phải là Giô-sép mà là Thượng Đế, và Ngài đã dùng thẩm-quyền đó để biện bác với các học-giả.
**Buổi Hóa Hình (LuLc 9:30-35)
Ở trên núi, các môn-đệ thân cận của Chúa vui sướng vì được đặc ân nhìn thấy Môi-se và Ê-li, những nhân vật được tôn-vinh trong thời Cựu-ước.
Đây là dịp hiếm có để họ hỏi 2 vị thánh đã được chuyển dịch thẳng về cõi trời và nghe chính miệng các vị ấy tiết-lộ cái bí mật họ đã biến mất như thế nào. Nhưng sự tò mò của họ đã bị đánh tan khi có tiếng từ trời tuyên-bố một điều tối trọng. “Đây là Con yêu dấu của ta: hãy nghe lời Người.”
Dù Môi-se và Ê-li là những nhân vật lỗi lạc, tiếng nói của họ vẫn chỉ có thẩm quyền của loài người, chỉ có Chúa Giê-xu mới có thể nói bằng thẩm-quyền siêu nhiên.
**Ủy Nhiệm Mười Hai Sứ Đồ (MacMc 3:13-19)
Khi Chúa sai 12 môn-đệ ra đi, Ngài đã chứng-tỏ thần tính cũng như thẩm-quyền của Ngài, khi Ngài ban quyền-phép cho môn-đệ để trị các thứ tật bệnh và ma quỷ. Dĩ nhiên, chỉ có Thượng Đế mới có khả năng và thẩm-quyền để ban thứ quyền-phép đó cho con người.
Điều đó xác nhận cho lời Ngài tuyên-bố mình là “Đấng Christ Con Đức Chúa Trời hằng sống” (MatMt 16:15, GiGa 20:31).
CHÚA GIÊ-XU ĐƯỢC THỜ LẠY NHƯ THƯỢNG ĐẾ
(Jesus Worshiped as God)
Nếu Chúa Giê-xu chỉ là người, tại sao Ngài cho phép người ta thờ-lạy Ngài? Nếu Chúa Giê-xu không phải là Thượng Đế, thì sự tôn-thờ Ngài không gì khác hơn là thờ thần-tượng xúc phạm Thượng Đế.
• Được Tôn Thờ Khi Ngài Ra Đời (MatMt 2:8-11)
Những vị học-giả từ phương đông, với bao nhiêu nghi vệ và những món quà đắt giá, đã không thẹn thùng quỳ xuống trước Ngài trong căn nhà tồi tàn của Ngài. Ngay cả vua Hê-rốt cũng công nhận đó là thái-độ chính đáng để tiếp rước Ngài.
• Những Người Phung Thờ Lạy Ngài (Mat Mt 8:2)
Đây là lần đầu tiên trong thánh-vụ của Chúa có ghi lại Ngài được thờ-lạy. Tại sao Ngài không quở trách hành động thờ-lạy đó và cho biết rằng Ngài chỉ là người, như Phi-e-rơ say này đã làm (CôngCv 10:25,26)?
• Người Mù Bẩm Sinh Thờ Lạy Ngài (GiGa 9:32,35-38)
Điều đáng chú ý trong câu chuyện này là trước khi người mù sấp mình dưới chân Chúa tạ ơn quyền-năng chữa lành của Ngài, thì Chúa đã tỏ cho người ấy biết Ngài là Con Thượng Đế.
• Người Đàn Bà Si-rô Phê-ni-xi Thờ Lạy Ngài (MacMc 7:25-30)
Khi xin Chúa chữa cho con gái mình bị quỷ ám, bà này chẳng những nhìn nhận Chúa là Đấng Thiên-Sai khi bà gọi Ngài là “Con Vua Đa-vít” (MatMt 15:22), mà bà còn gọi Ngài là Chúa và quỳ lạy Ngài. Không lạ gì Chúa đã tỏ ra ngạc nhiên về đức-tin của bà, Ngài đã tôn-vinh đức-tin ấy và chữa lành cho con bà.
• Các Môn Đồ Thờ Lạy Ngài
Có rất nhiều trường hợp ghi lại các môn-đồ thờ-lạy Chúa Giê-xu nhưng ở đây chỉ cử ra một số trường hợp. Hầu hết các trường hợp này xảy ra sau khi Phi-e-rơ xưng Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế (16:16);
Sau Khi Bão Lặng (14:33)
Chỉ trong vòng mấy phút, các môn-đồ được chứng-kiến 3 phép-lạ.
Thứ nhất, Chúa đi bộ trên mặt nước; thứ hai, Ngài cứu Phi-e-rơ khi ông lảo đảo suýt chìm; thứ ba họ thấy cơn gió dữ thình lình lặng yên. Họ kinh ngạc thán phục và thờ-lạy Ngài.
• Khi Các Con Xê-bê-đê Xin Chỗ Danh Dự Trong Nước Trời (Mat Mt 20:20)
Bà mẹ của những người này thật là nhiều tham vọng. Bà muốn thấy các con mình ngồi bên cạnh Chúa trong ngôi nước Ngài. Có lẽ vì lời cầu-xin táo bạo và ước mong tha thiết đã khiến họ thờ-lạy Ngài. Trong lời cầu-xin đó họ nhìn nhận nước Ngài sẽ đến thật, và Chúa đã nhìn nhận vương quyền của Ngài trong lời đáp của Ngài.
• Khi Các Bà Nhận Ra Chúa Phục Sinh (28:5,9)
Đây là những người ở lại sau cùng tại thập-tự giá và có mặt trước nhất ở ngôi mộ Ngài. Họ thờ-lạy Ngài vì nhận biết Ngài đã sống lại, đồng thời cũng nhìn nhận Ngài là Thượng Đế.
• Khi Chúa Hiện Ra Cho Các Môn Đệ Trên Núi (28:16, 17)
Chúa phục-sinh truyền cho các bà báo môn-đệ Ngài biết rằng Ngài sẽ qua Ga-li-lê trước họ và gặp họ tại trên núi. Khi các môn-đệ tụ họp lại tại chỗ hẹn và nhìn thấy Chúa phục-sinh thì họ thờ-lạy Ngài.
• Khi Chúa Thăng Thiên (LuLc 24:51,52)
Hành động cuối cùng của Chúa là thân yêu chúc phước cho các môn-đệ, và hành động cuối cùng của các môn-đệ khi thấy Chúa thăng-thiên là thán phục thờ-lạy Ngài.
ĐƯỢC NHÌN NHẬN LÀ THƯỢNG ĐẾ
(Jesus Recognized as God)
Có 4 nhóm khác nhau tuyên-bố Chúa Giê-xu là Thượng Đế. Những người không công-nhận Chúa Giê-xu là Thượng Đế lý-luận rằng ngày xưa nay người ta thường thần-thánh hóa những kẻ nào thu phục được sự thán phục và cảm tình của người ta.
Nhưng Chúa không phải do người ta dàn dựng rồi đề cao lên. Số người công-nhận quyền-uy của Chúa rất đông, không phải chỉ thu hẹp trong vòng các môn-đệ. Những lời nhìn nhận thần-tính của Chúa cũng công nhận sự tiền hiện hữu của Ngài, không phải chỉ dựa vào sự sùng-kính của con người mà đưa Ngài lên.
• Những Lời Chứng Của Người
-Giăng Báp-tít (GiGa 1:29, 30)
Nhà thuyết-giáo vĩ đại này làm-chứng cho sự hiện hữu tiền lịch-sử của Chúa Giê-xu, và kế hoạch của Thượng Đế đưa Ngài đến làm Đấng Cứu Thế. Chúa chúng ta trong khi biện-luận với người Do-thái đã lưu ý họ về lời-chứng này để chứng-tỏ thần-tính của Ngài (GiGa 5:33-35).
-Na-tha-na-ên (GiGa 1:49)
Trước khi đi theo Chúa, Na-tha-na-ên đã xưng nhận vị Giáo-sư mà người ta bàn tán nhiều đó chẳng những là Đấng Thiên-Sai mà còn là Con Thượng Đế nữa.
-Phi-e-rơ (MatMt 16:16)
Phi-e-rơ là phát-ngôn viên cho Mười Hai Sứ-đồ, cho nên trong lời xưng nhận của ông, ông cũng nói lên niềm tin của các vị sứ-đồ khác.
-Thô-ma (GiGa 20:28)
Thô-ma đã vội vàng thờ-lạy Chúa Giê-xu khi ông nhận ra rằng người bị đóng đinh trên thập-tự giá chính là Thượng Đế hằng sống.
-Đội Trưởng La-mã (MacMc 15:39)
Cả viên đội trưởng toán hành quyết Chúa cũng xác nhận lời chứng của những môn-đồ Ngài rằng người đang chịu cái chết của một tên trọng phạm đó thật chính là Con Thượng Đế.
• Lời Chứng Của Thiên Sứ (LuLc 2:10,11)
Vị thiên-sứ xuất hiện cho Ma-ri và cho Giô-sép xác nhận với họ rằng Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế. Thông-điệp của các vị thiên-sứ trong đêm Chúa giáng trần cũng tuyên-bố điều đó.
• Lời Chứng Của Ma Quỷ (MatMt 4:3, LuLc 4:41)
Sa-tan 3 lần nhìn nhận Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế khi nó cám-dỗ Ngài phô trương quyền-năng của chức-vị đó.
Những người bị quỷ ám gặp Ngài đều kêu lên rằng Ngài là Con Thượng Đế vì quỷ trong họ biết Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế. Dầu lời-chứng của chúng là đúng, Chúa không cho phép chúng nói ra vì Ngài muốn người ta tự mình khám phá ra chân-lý ấy.
• Lời Chứng Của Thượng Đế
Ba lần có tiếng từ trời vọng xuống trong khi Chúa Giê-xu thi hành thánh-vụ, mỗi lần đều xác-nhận rằng Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế:
(1) Lúc Chúa chịu báp-têm (MatMt 3:13-17, LuLc 3:22)
(2) Khi Chúa hóa hình (MatMt 17:5, LuLc 9:35)
(3) Trong lễ Vượt Qua cuối cùng (GiGa 12:27,28)
Cả Giăng và Phi-e-rơ khi viết cho các tín-hữu, đều lưu ý họ về ý nghĩa trọng đại của sự hóa hình, không những chỉ vì có tiếng xác nhận thần-tính của Chúa, mà còn vì danh-dự và vinh-quang của thiên-đàng dành cho Ngài lúc ấy (GiGa 1:4, IIPhi 2Pr 1:16-18).
Giăng còn nhấn mạnh giá-trị của lời-chứng ấy: “Nếu chúng ta nhận lời-chứng của con người thì lời-chứng của Đức Chúa Trời còn trọng hơn, và đây là lời-chứng của Đức Chúa Trời làm-chứng về con Ngài” (IGi1Ga 5:9).
CHÚA GIÊ-XU XƯNG MÌNH LÀ THƯỢNG ĐẾ
(Jesus Claimed to be God)
Nếu Chúa Giê-xu không phải là con Thượng Đế thì Ngài chẳng quả là tên lừa bịp, vì nhiều lần Ngài tuyên-bố rõ ràng rằng Ngài là Thượng Đế. Chúng ta hãy xem xét lời-chứng của Ngài trước 3 nhóm người khác nhau.
• Trước Các Vị Sứ-Đồ (GiGa 14:7-11)
Khi nói chuyện với các môn-đệ, Chúa thường xuyên nói về Cha thiên-thượng của Ngài. Trong bài nói chuyện từ giả, Ngài khuyên các môn-đệ hãy tin nhận những lời Ngài tuyên-bố về liên-hệ giữa Ngài với Đức Chúa Cha, hoặc ít ra cũng hãy tin Ngài vì những phép-lạ Ngài đã làm.
“Khi ta nói rằng ta ở trong Cha, Cha ở trong ta, thì hãy tin ta, bằng không, hãy tin bởi công việc ta” (GiGa 14:11).
• Trước Người Do-Thái (GiGa 10:22-25,30-33)
Vào lễ Khánh Thành đền thờ, người Do-thái hỏi Chúa một câu quan-trọng.
“Thầy để chúng tôi nghĩ vơ vẫn mãi cho đến khi nào? Nếu thầy là Đấng Christ hãy nói rõ cho chúng tôi.” Ngài lưu ý họ về lời Ngài tuyên-bố và những phép-lạ Ngài làm, “Ta đã bảo các ngươi mà các ngươi không tin; những việc ta nhân danh Cha ta mà làm đều làm-chứng cho ta.”
Một lát sau đó Ngài lại nói, “Ta với Cha là một”.
Người Do-thái đã nghĩ sao về lời nói đó? Đối với họ, chẳng cần gì phải bàn cãi nữa, họ lượm đá liệng Ngài vì tội lộng ngôn, như họ đã nhận, “vì ngươi là người, mà tự xưng là Đức Chúa Trời.”
• Trước Công Hội (LuLc 22:66-71)
Chúng ta đã thấy vị anh hùng của mọi anh hùng đã khước từ cơ-hội được tự-do, vì không chịu nói một điều giả dối. Khi Ngài một mực khẳng định Ngài là con Thượng Đế, thì người Do-thái tuyên-bố rằng Ngài đã tự lên án cho mình vì lời xưng-nhận đó, và thật đáng tội chết. Lời-chứng đó trước viên Thượng tế là tột điểm của những lời Ngài tuyên-bố mình chính là Thượng Đế.

Chương 8 : SỰ CHẾT HY SINH CỦA CHÚA CỨU THẾ (The Sacrificial Death of Christ)
Chúa...
...Giê-xu chết trên thập-tự giá là giáo-lý nền-tảng của Hội thánh Ngài. Thập-tự giá là biểu-hiện (insignia) cho đức-tin chúng ta. Giá-trị của các vĩ nhân thường căn cứ vào đời sống của họ. Nhưng với Chúa Giê-xu thì sự chết của Ngài mới đem lại cho loài người những phước hạnh lớn lao hơn hết.
• Thập-tự giá thấm nhập toàn bộ Kinh Thánh.
Những giáo-huấn của Môi-se nói trước ý nghĩa của nó. Các sách lịch-sử cho thấy nó là cần thiết. Các sách Thi-thiên vẽ ra thực tại của nó. Các vị tiên-tri mô tả nó sẽ đến như thế nào. Các sách Phúc-Âm công-bố sự hiện diện của nó.
Sách Công-vụ rao-giảng quyền-năng của nó. Các thư tín giải thích mục đích của nó. Sách Khải-huyền cho thấy kết cuộc phước hạnh của nó.
Người ta thường nói rằng, “Cắt Kinh Thánh ở bất cứ chỗ nào cũng thấy máu chảy, chân-lý về sự cứu-chuộc nhuộm đỏ Kinh Thánh.” Cứ 44 câu Kinh Tân-ước thì có một câu đề-cập đến sự chết hy-sinh của Chúa Cứu Thế. Nó được nhắc đến 175 lần tất cả.
Nếu sự giáng sinh của Chúa chia đôi thời gian, thì thập-tự giá của Ngài chia đôi cõi đời-đời. Chúa Cứu Thế là Chiên con đã được định từ trước khi sáng tạo thế giới là sẽ bị giết (IPhi 1Pr 1:19,20). Sau khi Chiên con bị giết, Ngài trở thành đề-tài của những lời ca ngợi không bao giờ chấm dứt (KhKh 5:13).
Theo lý-luận thông thường thì không thể nào tiên-đoán rằng đấng Thiên-Sai sẽ bị xử-tử bằng thập hình. Phương pháp xử-tử thông dụng của người Do-thái là ném đá (LêLv 20:2, PhucDnl 13:6-10,17:2-5) và Cựu-ước kể lại nhiều trường hợp áp dụng hình án đó. (LêLv 24:11-14, DânDs 15:32-36, IVua 1V 12:18,21:13, IISu 2Sb 24:20, 21)
Luật Môi-se quy định hình phạt ném đá dành cho những kẻ gian dâm và phạm thượng. Có lần người Do-thái xin Chúa cho phép ném đá một người đàn bà có tội (GiGa 8:4, 5), lần khác người ta lượm đá ném Chúa vì Ngài tuyên-bố mình bình-đẳng với Thượng Đế (GiGa 10:30-33).
Khi những lời tiên-tri đầu tiên về sự chết của Chúa được chép ra thì người Do-thái chưa hề biết đến thập hình. Lúc ấy hầu như là chưa có người La-mã, dân-tộc đầu tiên sử dụng hình án man rợ này. Một chuỗi biến cố lịch-sử đã xảy ra, đưa dân tộc La tinh lên thống trị thế giới.
Vào thời của Chúa, dân tộc Do-thái cũng như nhiều dân-tộc khác phải thần phục Hoàng đế La-mã (Xê-da). Các dân thuộc địa của La-mã không còn được phép xử-tử các phạm nhân của mình. Vì vậy người Do-thái phải nhờ đến tay tổng trấn La-mã để xử-tử các tội-phạm của họ.
Chính vì hoàn cảnh lạ lùng bất ngờ đó mà Chúa bị người La-mã xử thập hình thay vì bị người Do-thái ném đá chết.
Chúa Giê-xu nói “Chẳng có sự yêu thương nào lớn hơn là vì bạn hữu mà phó sự sống mình” (GiGa 15:13).
“Nhưng Đức Chúa Trời bày tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (RôRm 5:8).
Có người đã bỏ mạng sống vì bạn hữu mình, nhưng tình yêu lạ lùng của Chúa đã vươn đến cả những kẻ thù của Ngài. Ngài từ trời cao muôn trùng xuống đến thập-tự giá thấp hèn, gục đầu chịu cái chết hổ nhục, đau đớn. Đó là một của lễ hy-sinh lớn nhất cho nhân-loại. Thượng Đế đã ban Con yêu dấu của Ngài làm sinh tế “hầu cho hễ ai tin Ngài thì không bị hư-mất mà được sự sống đời-đời.” (GiGa 3:16).
VAI TRÒ NỔI BẬT CỦA SINH TẾ
(Prominence of the Sacrifice)
• Mục Đích Của Sự Thập Thể (Incarnation)
Chúa Giê-xu ra đời để làm gì? Tên mà Giô-sép đã đặt cho Ngài theo lệnh Thượng Đế cho biết Ngài là vị Cứu tinh của dân Ngài (MatMt 1:21). Chính Ngài tuyên-bố rằng Ngài đến để cống hiến mạng sống Ngài làm giá chuộc cho nhiều người (MatMt 20:28).
Từ lúc khởi đầu thánh-vụ, Ngài đã biết rằng thập-tự giá sẽ kết liễu mạng sống Ngài.
• Bí Mật Đối Với Các Vị Tiên-Tri Thời Cựu-Ước
Một trong những bằng-chứng Kinh Thánh được thần cảm là người viết nhiều lúc không hiểu được những điều Thượng Đế khiến họ viết ra. Sự chết của Chúa dầu đã được tiên báo từ nhiều thế kỷ trước khi Ngài xuất hiện, vẫn là một điều bí mật đối với các vị tiên-tri (IPhi1Pr IPhi1:10-12).
Ngay cả các thiên-sứ cũng không được thông báo đầy đủ về kế hoạch và mục đích của biến cố đau thương hơn hết này, nhưng nó vô cùng quan-trọng đến nỗi họ ước ao được biết rõ hơn.
• Bí Mật Đối Với Các Môn-Đệ
Sự chết của Chúa được các tác giả Thi-thiên và các nhà tiên-tri mô-tả rõ ràng từ nhiều thế kỷ trước khi sự việc xảy ra, điều đó chứng-tỏ Kinh Thánh là lời Thượng Đế. Chính Chúa Giê-xu đã lưu ý môn-đệ về sự-kiện này (LuLc 24:44).
Có điều lạ là các môn-đệ không hiểu nổi những khúc Kinh Thánh Cựu-ước tiên báo về lịch-sử của Chúa Giê-xu và mô-tả chi-tiết về sự đau khổ và vinh-quang của Ngài. Điểm đáng lưu ý về các khúc Kinh Thánh này là người Do-thái không hề nghĩ rằng Đấng Thiên-Sai mà họ mong đợi sẽ bị giết chết, mà chỉ tin rằng Ngài sẽ được lên ngôi Vua.
Ngay cả các môn-đệ cũng không hiểu được những lời Chúa đề cập đến sự chết của Ngài. Sự thật là Cựu-ước nói nhiều về vị vua sẽ đến cũng như tiên-báo về Đấng Cứu Thế bị đóng định trên thập-tự giá. Vị thiên-sứ báo tin cho Ma-ri về sự ra đời của Chúa cũng không nói gì về sự chết Ngài mà chỉ cho biết rằng Ngài “Sẽ được tôn-trọng, được xưng là Con của Đấng Rất Cao, và Chúa là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ-phụ Ngài: Ngài sẽ trị vì đời-đời nhà Gia cốp, nước Ngài vô cùng” (LuLc 1:32, 33).
Không lạ gì mà lòng Ma-ri cứ vấn vương suy nghĩ về những lời đó, và tim bà như bị lưỡi gươm đâm xuyên qua khi bà đứng tại chân thập-tự giá nhìn con mình chưa hề được tôn vương mà lại phải chịu khổ hình.
• Vị Trí Trong Sách Phúc-Âm
Nghiên-cứu kỹ sách Phúc-Âm ta thấy sách không nhắc nhiều tới những năm trong đời Chúa, nhưng lại nói rất nhiều về tuần lễ cuối cùng của Ngài. Nếu đúng như một số người cho rằng không phải sự chết của Chúa, mà là đời sống Ngài, mới là đề-tài quan-trọng, thì các tác-giả sách Phúc-Âm đã làm một chuyện ngược đời khi họ kể rất vắn tắt các biến-cố trong đời sống của Chúa, nhưng lại mô-tả rất chi tiết các sự việc liên quan đến sự chết Ngài.
Tác-giả Phúc-âm Giăng, sau khi ghi lại những câu chuyện và lời đàm thoại không có ghi trong Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca, đã dành ra 10 chương trong 21 chương sách của ông mô-tả những biến-cố dẫn đến thập-tự giá và sự sống lại của Chúa.
Phao-lô lấy thập-tự giá làm chủ-đề cho bài giảng đầu tiên và các bài giảng khác của ông (ICôr1Cr 15:1-3). Cũng như Phi-e-rơ vào ngày lễ Ngũ Tuần, Phao-lô nhấn mạnh rằng sự chết của Chúa là “Theo lời Kinh Thánh”.
TIÊN-TRI VỀ SINH TẾ
(Prophecy Concering the Sacrifice)
Hơn một phần ba Kinh Thánh là lời tiên-tri lấy Đấng Cứu thế làm chủ-đề trung tâm. Hãy để ý tương quan giữa Cựu-ước và sách cuối cùng của Tân-ước: một bên nói tiên-tri về Đấng Cứu Thế và Vua sẽ đến; bên kia nói về Đấng Cứu Thế và vua đã được vinh-quang.
Có 3 phương thức tiên-tri về công-tác của Đấng Cứu thế.
(1) Bằng Biểu Tượng (By symbol)
Khi Phao-lô nói rằng “luật-pháp là thầy giáo dẫn chúng ta đến cùng Đấng Christ” (GaGl 3:24), ông kể luôn cả những nghi lễ trong luật-pháp. Sự đổ huyết một con vật hy-sinh dâng lên để chuộc tội-lỗi, là biểu-hiệu cho Sinh tế Vĩ Đại (LêLv 1:2,11,15,8:15) và là một nhắc nhở thường xuyên một chân-lý đối trọng là “không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (HêbDt 9:1-14,19-22).
Chức-vụ thượng tế được lập ra là để thay mặt dân mà dâng sinh tế. Vị Thượng Đế vĩ đại là Chúa chúng ta dã dâng chính mình Ngài làm sinh tế chuộc-tội một lần đủ cả.
(2) Bằng Kiểu Mẫu (By type)
Người ta nói rằng có 333 hình-ảnh về sự chết hy-sinh của Chúa được ghi trong Cựu-ước. Từ buổi đầu của lịch-sử nhân-loại, chỉ những của lễ hy-sinh có đổ huyết mới được Thượng Đế chấp nhận. Của lễ của Ca-in vì không biểu trưng cho sự hy-sinh mạng sống nên không được chấp nhận (HêbDt 9:22,11:4). Chúng ta hãy xét đến 2 tiêu-biểu nổi bật:
-Chiên Con Lễ Vượt Qua
Con chiên con bị giết trong Lễ Vượt Qua (XuXh 12:5-7,13) là biểu-tượng thích hợp cho Sinh Tế Vĩ Đại, tượng trưng cho Chiên con vô-tội của Thượng Đế đổ huyết để cứu người khỏi sự chết đời-đời. Khi thay thế lễ Vượt Qua bằng lễ Tiệc Thánh, chính Chúa Cứu Thế trở thành Chiên con Lễ Vượt Qua.
-Con Rắn Bằng Đồng
Những con rắn xâm nhập các lều trại Y-sơ-ra-ên tượng trưng cho tội-lỗi và những hậu quả chết chóc của nó. Con rắn bằng đồng do Môi-se dựng lên (DânDs 21:9) tượng-trưng cho Đấng mang tội-lỗi đã “trở nên tội-lỗi vì chúng ta” hầu cất đi hình phạt của tội-lỗi chúng ta. Chúa Giê-xu cho thấy rằng đó là hình-ảnh của thập-tự giá khi Ngài bị treo lên (GiGa 3:14,15).
(3) Bằng Ngôn Từ (By Word)
Lời tiên-tri cũng là một thứ Phúc-Âm nữa bổ túc cho bốn sách Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Trong Tân-ước chúng ta chỉ thấy sơ qua những xung đột khủng khiếp của Chúa trên thập-tự giá, trong Cựu-ước chúng ta thấy được tất cả nỗi bi thống của Ngài.
Phúc-Âm kể cho chúng ta những điều Chúa nói và làm và những sự xảy đến cho Ngài; lời tiên-tri cho chúng ta thấy cả nội tâm của Ngài - những tư tưởng, tình cảm của Ngài, và cách Ngài sống như thế nào trước mặt Thượng Đế là Cha Ngài.
-Đấng Cứu Thế Bị Đâm (ThiTv 22:16, XaDr 12:10, LuLc 24:40, GiGa 19:34)
Ở đây vẽ ra hình ảnh linh động của một đám đông kéo đến chân thập-tự giá. Họ vây tứ phía, giống như bầy chó dữ ở xứ Palestine gầm gừ vây quanh con mồi của chúng. Tại nơi trung tâm là Đấng Cứu Thế với chân tay bị đâm lủng. Nhưng đôi bàn tay mang vết sẹo đó đã giúp cho các môn-đệ nhận diện được Chúa mình khi Ngài sống lại.
Và rồi một ngày kia sẽ đến lúc người Do-thái dù xưa nay vẫn không nhìn nhận Ngài là Đấng Thiên-Sai, nhận biết Ngài là Đấng họ đã đâm. Khi biết mình đã lầm qua bao nhiêu thế kỷ, “Chúng nó sẽ thương khóc, như là thương khóc con trai một, sẽ ở trong sự cay đắng, như là người ta ở trong sự cay đắng vì cớ con đầu lòng” (XaDr 12:10,11).
-Đấng Cứu Thế Khát (ThiTv 22:14,15,69:21, MatMt 27:34,38, GiGa 19:28,29)
Giăng kể, “Đức Chúa Giê-xu biết mọi việc đã được trọn rồi, hầu cho lời Kinh Thánh được ứng-nghiệm, thì phán rằng: Ta khát” (GiGa 19:28). Ngài không thốt ra một tiếng nào về sự đau đớn của Ngài cho đến khi Ngài biết rằng những gì Ngài phải làm cho sự cứu-rỗi nhân-loại đã được hoàn tất. Rồi cả lời tiên-tri cũng như lịch sử đều ghi lại một ân huệ duy nhất được ban-cho Chúa khi Ngài bị treo trên thập-tự giá. Khi Ngài kêu khát, có người đưa cho Ngài một loại ma túy có thể làm giảm cơn đau. Nhưng Chúa đã không chịu uống chất dấm pha mật đắng đó. Ngài đã mang trọn vẹn hình phạt của tội-lỗi cho đến cuối cùng.
-Đấng Cứu Thế Bị Lột Trần (ThiTv 22:17,18,34:20, LuLc 23:34, GiGa 19:23,24,32-27)
Quân lính La-mã, một giai cấp thấp hèn của dân La-mã chuyên nghề đánh cá, đâm chém, ngồi quây quần trước thập tự giá, đánh cá nhau để lấy áo xống Ngài. Dầu những người này chẳng kể gì đến Thượng Đế và Lời Ngài, việc họ làm hôm ấy đã làm ứng-nghiệm Lời ấy, và lời tiên-tri đã nói rằng, “Chúng đã chia nhau áo xống ta, lại bắt thăm lấy áo dài ta”.
Ấy vậy mà quyền lực vô hình để họ bắt thăm lấy áo dài Ngài đã ngăn chặn những nhát búa không cho chúng giáng xuống đánh gãy chân Ngài. Không phải chỉ có vị tiên-tri tuyên bố sẽ chẳng có xương nào của Ngài bị gãy, mà từ nhiều năm về trước, khi dân Do-thái mới ra khỏi Ai-cập, chiên con của lễ Vượt Qua cũng không gãy một xương nào.
Khi Chiên con bị giết từ buổi sáng thế trở thành Chiên con lễ Vượt qua, Ngài cần được dâng lên giống như vậy. Ở đây chúng ta lại thấy sự thần-hựu của Thượng Đế, vì nếu Chúa bị ném đá chết, hay chỉ cần một cục đá mà người Do-thái lượm lên để đe dọa Ngài gây thương tích cho Ngài, thì Ngài không còn là Chiên con sinh tế trọn vẹn cho lễ Vượt Qua nữa. Như vậy, nhờ thay hình phạt ném đá bằng thập-tự giá, mà sự chết của Chúa trở thành tiêu-biểu trọn-vẹn cho Chiên Con lễ Vượt Qua.
-Đấng Cứu Thế Bị Lăng Mạ (ÊsIs 53:12, MacMc 15:27, 28, LuLc 22:37,23:34)
Trong ÊsIs 53:1-12 có ít nhất 10 lời tiên-báo về Vua vinh-hiển bị lăng nhục. Con Thượng Đế bị kể vào hàng kẻ dữ, chịu số phận của những phạm-nhân. Thế giới chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có một vụ hạ nhục lớn lao như vậy. Nhưng trong nỗi nhục nhã ấy, Ngài đã trở thành Chúa Cứu Thế của những phạm-nhân mà Ngài chung chịu số phận.
DỰ BỊ SINH TẾ (Provision of the Sacrifice)
• Chiên Con Dự Bị Cho Áp-ra-ham
Một buổi sáng kia, vị thánh-tổ râu dài dậy sớm đánh thức cậu con trai, và hai cha con cùng lên đường đi đến ngọn núi Thượng Đế đã chỉ định (SaSt 22:1-13). Thượng Đế đã ra lệnh cho Áp-ra-ham giết đứa con trai một của mình làm sinh tế dâng lên bàn thờ trên núi. Cuối cùng họ đến nơi.
Thử tượng tượng lòng người cha quặn đau như thế nào khi nghe câu hỏi ngây thơ của đứa con, “Cha ơi, củi đây, lửa đây, nhưng chiên con ở đâu để dâng của lễ thiêu?” Áp-ra-ham đã nghẹn ngào đến thế nào khi ông trả lời đứt đoạn, “Con ơi, chính Đức Chúa Trời sẽ dự bị chiên con.”
• Chiên Con Dự Bị Cho Thế Gian
Áp-ra-ham đã nói một lời có tính cách tiên-tri (GiGa 8:56). Con dê đực thay cho Y-sác là tiêu-biểu (type) cho Chiên con của Thượng Đế được cung-cấp sau hai mươi thế kỷ (1:29). Con trai của Áp-ra-ham đã thoát chết. Nhưng khi Thượng Đế đưa Con yêu dấu Ngài đến thập-tự giá, Ngài đã không giải thoát Con mình khỏi sự chết. Còn có tình yêu-thương nào cao cả hơn khi Cha đời đời hy-sinh chính Con duy nhất mình trên bàn thờ để chuộc-tội cho chúng ta là tội-nhân?
MỤC ĐÍCH CỦA SINH TẾ (Purpose of the Sacrifice)
Tại sao con Áp-ra-ham được thoát chết, mà Con Thượng Đế lại bị hy-sinh? Tại sao Chúa Giê-xu cần phải nhận chịu cái chết đau đớn và nhục nhã?
• Làm Ứng Nghiệm Lời Kinh Thánh (LuLc 24:25,26, ICôr1Cr 15:3)
Sự hy sinh của Chúa Cứu Thế là cần thiết để làm ứng-nghiệm lời Kinh Thánh. Chúa đã tuyên-bố như vậy với những người bạn đồng hành trên đường về Em-ma-út. Đó điều Phao-lô viết cho Hội thánh Cô-rinh-tô. Lời Thượng Đế không thể bị bôi xóa, vì vậy “Chiên con bị giết từ buổi sáng thế” đến kỳ đã hiện ra để thi hành thánh chỉ bất di bất dịch.
• Tính Thánh Khiết Của Thượng Đế (ThiTv 47:8, 24:3; ÊsIs 6:3)
Trong một bài học trước, chúng ta thấy Thượng Đế là Đấng thánh-khiết trọn vẹn, đối với Thượng Đế, tội-lỗi dù ở mức-độ nào cũng đều ghê khiếp, đen tối, sa đọa. Toàn thể bản-tính Ngài đều kinh tởm tội-lỗi đến tột cùng. Kinh Thánh dạy-rõ rằng những người tội-lỗi mà dám mạo hiểm vào trước sự hiện diện thánh của Ngài thì sẽ bị án chết. Một Thượng Đế chính-trực không thể bỏ qua tội-lỗi. Làm vậy là đi ngược lại tính thánh-khiết của Ngài và sẽ tạo nên rối loạn đạo đức trên thế-gian.
• Tình Trạng Tội Lỗi Của Con Người (RôRm 3:10-20, GaGl 3:13, 14)
-Mọi người đều phạm-tội.
Kinh Thánh dạy rõ ràng như vậy. Mọi người đều dự phần trong sự vi phạm của thủy-tổ loài người, vì bất tuân lời Thượng Đế, đã sa ngã khỏi tình trạng thánh khiết khi họ được dựng nên mà đưa cả hậu tự mình vào tình trạng tội-lỗi, khốn cùng, đó là nguyên-tội. Vì tình trạng tội-lỗi của con người mà luật-pháp được ban hành.
Luật-pháp Thượng Đế không giải trừ tội-lỗi mà làm cho nó nổi bật hơn. Khi nhìn vào sự thánh khiết của Thượng Đế và tình trạng tội-lỗi của con người, một câu hỏi được nêu lên: Thượng Đế có thể bày-tỏ tình yêu Ngài cách nào để tính thánh-khiết của Ngài không bị chiết giảm khi Ngài ban ơn tha-thứ cho tội-nhân? Nếu muốn đem con người đến gần Thượng Đế thì phải có cách nào giải trừ tội-lỗi, vì dầu rằng Thượng Đế yêu thương tội-nhân, Ngài vẫn luôn ghét tội-lỗi.
SINH TẾ ĐỀN TỘI (RôRm 3:25, IGi1Ga 2:2,4:10) (Propitiation Through Sacrifice)
Đền-chuộc tức là làm thỏa mãn. Ngai thương-xót (Mercy seat) che phủ hòm giao-ước là tiêu-biểu cho Đấng Cứu Thế.
Tân-ước gọi đó là nơi chuộc-tội (XuXh 25:22, HêbDt 9:5, RôRm 3:25). Đấng Cứu Thế chết thay cho tội-lỗi con người là hành động làm thỏa mãn những đòi hỏi thánh-khiết cho công-bình của Thượng Đế đối với tội-lỗi và tội-nhân.
Bởi vậy, tất cả những ai đến với Thượng Đế nhờ vào hồng-ân của thập-tự giá đều được tha-thứ tội-lỗi, được hưởng sự sống đời-đời, và được địa-vị trọn vẹn trước mặt Thượng Đế (công-chính hóa).
Sự chết của Chúa Cứu Thế là lý-do chính đáng để Thượng Đế công-chính có thể công-chính hóa tội-nhân mà không phải chước giảm sự thánh-khiết và công-chính của Ngài. Hãy luôn luôn nhớ rằng “Chăm về xác thịt nghịch với Đức Chúa Trời” và “chăm về xác thịt sanh ra sự chết” (RôRm 8:6, 7).
Thượng Đế không thể nào tiếp xúc với con người trước khi họ được tẩy trừ tội-lỗi, và chỉ có huyết Chúa Cứu Thế mới đủ sức làm việc đó.
• Đủ Cho Mọi Người (HêbDt 2:9)
Chúa nếm sự chết vì mọi người, và mọi tội-nhân dù hạng nào, mức-độ nào, điều kiện nào cũng đều có thể dự phần hưởng phước lành của công cuộc cứu-chuộc. Người Hy-lạp chỉ mời những kẻ có văn hóa, người La-mã chỉ kêu-gọi những kẻ mạnh, người Do-thái tin rằng chỉ những kẻ có đạo mới được cứu-rỗi. Chúa Cứu Thế kêu gọi mọi người hãy đến.
“Kẻ nào muốn, hãy nhận lấy nước sự sống cách miễn phí” (KhKh 22:17).
Lời mời dự phần phước lành của sự chết của Chúa có tính cách phổ cập cho mọi người.
• Có Hiệu Quả Cho Người Tin
Thượng Đế tối tôn ban lệnh ân-xá cho tội-nhân bất xứng, có quyền đặt điều kiện cho ai muốn được hưởng. Cần phải nhận lấy ơn ban của Thượng Đế mới được. Sự cứu-rỗi do sự chết hy-sinh của Chúa Cứu Thế đem lại là vô giới hạn, nhưng chỉ kẻ nào tin và nhận lấy thì mới được cứu (GiGa 3:18,5:40).
QUYỀN NĂNG CỦA SINH TẾ
(The Power of the Sacrifice)
Hầu như không thể nào đo-lường hết kết quả sâu xa của sự chuộc-tội. Mọi phước lành vật chất cũng như tinh thần đến với con người trong lịch-sử thế giới đều do sự chết của Chúa đem lại. Không có nó, Thượng Đế không thể ban phước, vì rằng con người, do tội-lỗi họ, đã đánh mất quyền hưởng phước của Thượng Đế. Phải dành cả cõi đời-đời tìm hiểu mới thấy hết ý nghĩa của sự hy-sinh vĩ đại.
Hãy quan sát quyền-năng của nó trên tội-lỗi.
• Cứu Khỏi Hình Án Tội Lỗi (RôRm 3:24,5:1,8:1, TitTt 2:14)
Chúa Cứu Thế đã chết thay chúng ta trên đồi Can-va-ry, chịu hình phạt tương xứng với tội-lỗi chúng ta, hầu cho chúng ta được cứu khỏi tội và hình phạt của tội nhờ lòng tin nơi Ngài.
• Bảo Vệ Khỏi Quyền Lực Của Tội-Lỗi (RôRm 6:6-18, 8:12)
Dầu Sa-tan không thể thay đổi vận-mạng của người tin, nó vẫn có thể cám-dỗ họ phạm-tội. Nhưng có “quyền trong huyết” Chúa Giê-xu để giúp cho người tin thắng hơn sự cám-dỗ (HêbDt 2:18).
Tội-lỗi không còn quyền thống trị trên người nữa (RôRm 6:12-18).
• Phân Cách Khỏi Sự Hiện Diện Của Tội Lỗi (KhKh 21:27)
Người tin Chúa có thể vững vàng trông-đợi được vào ở thánh-khiết, hạnh phúc, nơi tội ác không thể đến gần được. Có được một chỗ ở mà họ chẳng đáng được như vậy là nhờ sự chết của Chúa Cứu Thế.

Chương 9: SỰ PHỤC-SINH CỦA CHÚA CỨU THẾ
(The Resurrection of Christ)
Sự...
...phục-sinh của Chúa Cứu Thế là một sự-kiện lịch-sử có nhiều bằng-chứng xác thực hỗ trợ.
Mọi người dân Anh đều tin rằng vào năm 80 trước Chúa, Hoàng Đế La-mã Julius đã mang 2 đạo quân đến đổ bộ tại bờ biển Kent nước Anh. Không ai nghi ngờ gì về điều đó cả. Nếu bảo rằng hễ ai tin những sự-kiện đó sẽ được cứu-rỗi đời-đời, thì các nhà sử-học sẽ chịu ngay.
Thế mà bằng-chứng lịch-sử của nó vẫn chưa đầy đủ, thuyết phục mạnh mẽ cho bằng chứng-cớ cho biết Chúa đã chết và sống lại.
Mọi người Mỹ đều tin rằng phải có cái gọi là bản “Tuyên Ngôn Độc Lập”. Tại sao? Bởi vì George Washington, Thomas Jefferson và những người đồng thời của họ đều nói như vậy. Kể từ năm 1776, mọi người Mỹ đều ăn mừng lễ độc lập vào ngày 4 tháng 7.
Dầu sự Phục-sinh của Chúa Giê-xu xảy ra từ nhiều thế kỷ trước khi ký kết Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, ngày nay lễ Phục-sinh được nhiều người giữ hơn là lễ Độc lập.
Điều ý nghĩa hơn hết là không hề có một lời tiên-tri nào nói về Hoàng đế Julius xâm chiếm Anh Quốc, hay Hoa Kỳ giành được độc lập. Lời tiên-báo về sự phục-sinh của Chúa Giê xu, cùng với nhiều bằng-chứng hùng hồn, như lời-chứng của những người được thấy tận mắt và những bối-cảnh quan-trọng, đã khiến cho nó trở thành một sự-kiện được xác minh hơn hết trong lịch-sử.
BẰNG CHỨNG VỀ LỜI TIÊN TRI ĐƯỢC ỨNG NGHIỆM
(The Evidence of Fulfilled Prophecy)
• Những Lời Tiên Báo Trong Cựu-Ước
Không có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh được chú ý nhiều bằng lời tiên-tri về sự chết và phục-sinh của Chúa. Có ít nhất 25 lời tiên-tri Cựu-ước được ứng-nghiệm trong một ngày.
• Những Lời Tiên Báo Đặc Biệt (ThiTv 16:10, ÊsIs 53:9)
Ê-sai nhận được một khải-tượng về sự chôn Chúa. Dầu Ngài chết với kẻ ác, và theo diễn biến thông thường thì Ngài bị chôn chung với họ tại nơi đóng đinh, nhưng lạ thay vị tiên-tri lại tuyên-bố Chúa Cứu Thế được hưởng nghi thức đám tang của nhà giàu.
Sau khi Giu-đa phản Chúa, ông ta ăn-năn và đem tiền thưởng trả lại cho các viên chính-tế. Dầu số tiền đó đã được dùng để mua một đám đất dành chôn những kẻ vô thừa nhận (Mat Mt 27:3-8), nhưng xác Chúa đã không được đem chôn tại đó.
Giô-sép người làng A-ri-ma-thê là một kẻ giàu có, đã đến với Phi-lát xin lãnh xác Chúa, và đã sắm sửa nghi thức tống táng chỉ dành cho bậc danh vọng quyền quý. Người môn-đệ thế lực giàu có này đã lo cho Ngài y như là lo cho con ruột mình vậy (MatMt 27:57-60).
Từ lâu trước khi Ê-sai thấy Chúa chết chung với kẻ ác và được chôn với kẻ giàu, Đa-vít đã nói rõ về sự phục-sinh của Ngài: “Vì Ngài chẳng để linh-hồn tôi trong âm-phủ, cũng chẳng để cho Đấng Thánh Ngài thấy sự hư-nát đâu” (Thi Tv 16:10).
Chúa chúng ta phải vào âm-phủ (Sheol: nơi người chết), nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Thân xác Ngài bị tạm giam nơi phần mộ nhưng không bị hư-nát. Sự chết và cõi chết không thể giữ được Ngài. Nói cách khác, Chúa Giê-xu phải bị chôn một thời gian đủ lâu để xác quyết rằng Ngài đã chết thật, nhưng không quá lâu để xác Ngài phải “Thấy sự hư-nát”.
Chữ “ngày thứ ba” thường được nhắc tới là một chữ rất có ý nghĩa ở đây. Nên nhớ rằng, La-xa-rơ được Chúa kêu sống lại sau khi nằm trong mộ bốn ngày và bắt đầu rửa-nát (GiGa 11:39). Nhưng Chúa đã ra khỏi mộ sau ba ngày, trước khi thể xác Ngài có những dấu hiệu tan rã.
• Những Tiêu Biểu Của Kinh Nghiệm Cá Nhân (Types of Personal experience) (MatMt 12:40, HêbDt 11:17-19)
Kinh nghiệm của Y-sác không tiêu-biểu cho sự chuộc-tội mà tiêu-biểu cho sự phục-sinh của Chúa Giê-xu. Từ lúc Áp-ra-ham vâng lệnh Thượng Đế dâng Y-sác lên làm sinh tế, thì Y-sác coi như đã chết. Người cha quyết ý vâng thiên-mệnh, vì tin rằng “Đức Chúa Trời có quyền khiến kẻ chết sống lại; cũng giống như từ trong kẻ chết người được lại con mình”.
Vào “ngày thứ ba” (SaSt 22:4) Thượng Đế đã can thiệp đương lúc Áp-ra-ham dâng tế, và ban một chiên con thay thế để hoàn lại người con cho cha chàng.
-Kinh-nghiệm của Giô-na còn tiêu-biểu cho sự phục-sinh của Chúa nhiều hơn nữa. Khi người Pha-ri-si và Sa-đu-sê đòi một phép-lạ đặc biệt để cho thấy Ngài là Đấng Thiên-Sai, Chúa Giê-xu đã tuyên-bố rằng “như Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm, thì Con người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm”.
Vị giáo-sư thông minh bậc nhất đã áp-dụng phương pháp gián tri (apperception), dùng cái đã biết để dạy cái chưa biết. Chúa không thể nào dùng một huyền thoại phổ thông mà thuyết phục được những người Do-thái vô-tín kia chịu tin rằng Ngài sẽ bị chôn và sống lại. Theo ký thuật của các sách Phúc-Âm thì cả các môn-đệ và người Do-thái đều tin chuyện Giô-na là có thật, nhưng họ lại không muốn tin rằng Chúa sẽ sống lại.
• Những Lời Tiên Báo Trong Tân-Ước
Tất cả những lời này đều do Chúa nói ra. Lời đầu tiên Chúa nói từ lúc khởi đầu thánh-vụ, lời cuối cùng nói ra trong cuộc hành trình về Giê-ru-sa-lem chỉ vài tuần trước vụ xử thập hình.
-Lời Tiên Tri Đầu Tiên (GiGa 2:18-22)
Vào dịp lễ Vượt Qua của dân Do-thái, Chúa đã nổi giận đuổi những kẻ đem hàng hóa vào trong cổng Đền thờ bán cho khách thập phương về dự lễ. Khi người Do-thái đòi Chúa cho một dấu lạ để chứng-tỏ Ngài có quyền hành động như vậy, thì Ngài tuyên-bố rằng Ngài có quyền sống lại từ trong cõi chết: “Hãy phá hủy đền thờ này đi, trong ba ngày ta sẽ dựng nó lại”.
Ngay lúc đó, không ai hiểu Ngài nói gì, nhưng sau khi Ngài sống lại, các môn-đệ nhớ lại chuyện này và biết rằng “Ngài nói về đền thờ của thân thể mình.”
-Lời Tiên-Tri Thứ Hai (Mat Mt 16:21, Mac Mc 8:31, LuLc 9:22)
Sau đó khoảng một năm, lúc thanh danh Chúa đang nổi như cồn, Chúa mới vừa cho 5000 người ăn và dân chúng muốn ép Ngài làm vua, Ngài đã nói ngay lời tiên-tri này. Thử tưởng tượng các môn-đệ sửng sốt đến bực nào khi nghe vị lãnh tụ lừng danh của mình “Sẽ chịu đau đớn dưới tay các trưởng-lão, các thầy-tế lễ cả và các thầy thông-giáo, và sẽ bị họ giết chết”.
Không lạ gì Phi-e-rơ đã phản đối. Họ quá buồn và hoang mang khi nghĩ đến cái chết của Chúa đến nỗi chẳng còn để tâm tới Lời Chúa quả quyết Ngài sẽ sống lại nữa.
-Lời Tiên Tri Thứ Ba (MatMt 17:9, LuLc 28:31)
Sau lời tuyên-bố về sự chết đau buồn của Ngài, Chúa đã làm phấn chấn tinh thần ba môn-đệ mình khi Ngài hé cho họ thấy vinh-quang của Ngài trên Núi Hóa Hình. Môi-se và Ê-li đã hiện ra đàm đạo với Chúa, và lạ thay, đề-tài là “Sự chết Ngài sẽ chịu tại Giê-ru-sa-lem” (LuLc 9:31), một đề-tài mà các môn-đệ chẳng ưa chút nào. Cuộc hội nghị ly kỳ đó chẳng những để nhắc lại lời tiên-tri về sự chết Ngài, mà còn cho Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ thấy được tầm quan-trọng của thập-tự giá trong chương trình của Thượng Đế.
Khi họ xuống núi, Chúa nhắc cho môn-đệ biết rằng Ngài sẽ sống lại từ cõi chết khi Ngài dặn họ đừng nói cho ai biết câu chuyện cho đến khi Ngài phục-sinh (Mat Mt 17:9).
-Lời Tiên Tri Thứ Tư (MatMt 17:22,23, MacMc 9:31, LuLc 9:43-45)
Mặc dầu đã chứng-kiến những điều ly kỳ trên núi, các môn-đệ vẫn chưa sẵn lòng chấp nhận lời tuyên-bố của Chúa. Một lần nữa Chúa buộc lòng phải nói trắng ra những biến cố sẽ xảy đến. Nhưng các môn-đệ lại cũng chẳng chịu hiểu hết. Khi họ hiểu ra rằng Chúa phải chịu chết, thì “họ buồn rầu hết sức” nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài muốn nói gì khi nói Ngài “sẽ sống lại”.
-Lời Tiên Tri Thứ Năm (MatMt 20:18,19, MacMc 10:34, LuLc 18:33)
Bây giờ đã sắp đến lúc biến-cố tối quan-trọng sẽ xảy ra. Ngài chuẩn bị dự lễ Vượt Qua tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng không như những lần lễ khác, lần này đưa Ngài đến sự chết và sống lại.
Một lần nữa Ngài đề-cập đến vấn-đề nầy, nhưng môn-đệ cũng vẫn chưa thấu triệt được. Ngài gần như không nói gì về thập-tự giá và ngôi mộ trống, khi bà mẹ của Gia-cơ và Giăng xin cho các con mình được giữ ngôi vị hàng đầu trong thiên-quốc.
Tâm trí họ chỉ nghĩ đến ngôi vua và uy quyền của Ngài. Họ muốn chung hưởng phần thưởng với Chúa nhưng lại không hiểu rằng họ phải dự phần đau đớn với Ngài.
LỜI CHỨNG CỦA NHỮNG NGƯỜI THÂN CẬN (The Testimony of the Astonished Friends)
Những bạn thân nhất của Chúa cũng không ngờ rằng Chúa sẽ sống lại. Họ cho rằng lý tưởng của mình đã chấm dứt nơi thập-tự giá.
• Các Bà (MacMc 16:1-11, LuLc 24:1-11, GiGa 20:11-18)
Bà Ma-ri Ma-đơ-len đi ra mộ là để khóc Chúa, không phải để đón Ngài. Các bà hỏi mau, “Ai lăn tảng đá cho chúng ta bây giờ?” Họ ngạc nhiên vì thấy nó đã lăn đi mà ngôi mộ thì trống trơn. Chỉ sau khi Chúa hiện ra cho Ma-ri Ma-đơ-len, và thiên-sứ nhắc cho các bà nhớ lại lời Chúa thường nói trước cho các bà rằng Ngài sẽ sống lại, các bà mới chịu tin là chẳng có ai đến ăn cắp xác Ngài cả.
• Các Môn Đồ (LuLc 24:13-31, GiGa 20:1-10:24-38)
Sau khi tin rồi, các bà vội chạy đến báo cho các môn-đệ khác, nhưng “các sứ-đồ không tin, cho lời ấy là hư không” (LuLc 24:11).
-Chỉ sau khi Phi-e-rơ và Giăng chạy đến ngôi mộ trống thấy vải liệm bỏ lại, họ mới tin là không thể có việc lấy cắp xác được.
-Hai người đồng hành với Chúa trên đường về Em-ma-út đã không hề ngờ là Ngài đi với mình cho đến khi họ mở mắt thấy Ngài lúc Ngài bẻ bánh rồi biến mất.
-Ngay cả khi Chúa xuất hiện giữa vòng các môn-đồ, con người đa nghi Thô-ma cũng tưởng mình thấy ảo giác. Nhưng khi Chúa bảo ông hãy đặt ngón tay lên dấu đinh Ngài và bàn tay lên sườn Ngài, ông đã kêu lên, “Lạy Chúa tôi và Đức Chúa Trời tôi”.
Thái-độ không tin của các môn-đệ đã đánh đổ lý-thuyết cho rằng việc Chúa sống lại chỉ là sản phẩm tưởng tượng của những môn-đệ quá mong đợi bồn chồn. Khi nghe các bà báo tin, các sứ-đồ đã không ngần ngại cho đó là chuyện hão huyền. Đã không hề nghĩ tới thì làm sao họ có thể tưởng tượng ra được?
Phi-e-rơ từng sợ sệt một cô đầy tớ gái trước khi Chúa bị đóng đinh, đã trở thành can-đảm như sư tử vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Chắc chắn phải có một cái gì phi thường xảy ra trong khoảng thời gian đó. Lòng nhiệt thành của các môn-đệ khiến họ không chịu lùi bước trước mọi hãm hại giết chóc, không thể nào dựa trên một chuyện họ bịa đặt ra. Chúa phục-sinh đã trở thành đề-tài giảng dạy chính yếu của họ.
• Một Học Giả Lỗi Lạc (ICôr1Cr 15:1-9)
Có một học-giả lỗi lạc thời đó đã không chịu chấp nhận những lời-chứng nhiệt thành của các sứ-đồ. Ông cho chuyện Chúa phục-sinh chỉ là trò dối trá. Ông còn đi xa hơn, bắt bớ những người rao-giảng chuyện đó. Nhưng một ngày kia, thái độ ông bỗng thay đổi hoàn toàn.
Từ trên trời, Chúa phục-sinh đã gọi ông hỏi vì lý-do gì mà ông thù ghét hãm hại Ngài như vậy. Vị học-giả người Tạt-sơ biết ngay rằng Chúa đã sống lại. Ông đã thấy vinh-quang Ngài, đã nghe tiếng Ngài, và rồi từ đó trở đi ông hiến trọn đời mình ra đi làm-chứng lại điều mình đã nghe và thấy.
Nhưng vị sứ-đồ mới này không chỉ bằng lòng nhắc lại những điều mình đã nghe và thấy. Bộ óc học-giả của ông đòi hỏi ông điều tra mọi bằng-chứng về sự sống lại của Chúa để viết thành những luận-chứng không thể phi bác được cho mai hậu. Ông phỏng-vấn Phi-e-rơ và Giăng cùng Gia-cơ, em của Chúa. Ông gặp các bà đã từng đi theo Ngài. Ông viếng thăm Hội thánh Giê-ru-sa-lem, những người Chúa đã tập họp lại sau khi Ngài sống lại.
Những bằng-chứng ông sưu tập được rất là hùng hồn đến nỗi khi ông đem trưng ra trước một số nhà trí-thức ở các thành phố dân ngoại, họ đã chấp nhận. Hàng ngàn người trong số những người tin lời giảng của Phao-lô đã có thể kiểm-chứng lại lời ông, và cũng như ông, họ có thể phỏng-vấn những người chứng-kiến Chúa phục-sinh vẫn còn sống lúc bấy giờ.
BẰNG CHỨNG CỦA NHỮNG KẺ THÙ CỦA CHÚA (The Evidence of Christ’s Enemies)
• Biện Pháp Bảo Đảm Chúa Đã Chết Thật (GiGa 19:31-37)
Khi bị xử thập hình, nạn nhân chết từ từ, đôi khi thoi thóp suốt 38 tới 40 tiếng đồng hồ mới tắt thở. Sử-gia Josephus của Do-thái có kể lại chuyện một trong ba người bạn của ông bị treo trên thập-tự giá một thời gian, sau khi được ông xin tha cho, đã bình phục trở lại. Trường hợp này khiến cho nhiều người lý-luận rằng Chúa chỉ ngất đi thôi, sau đó đã sống lại nhờ hơi mát trong hang mộ.
Người Do-thái lúc bấy giờ không muốn thấy ba phạm nhận vẫn bị treo trên thập-tự giá vào ngày Sa-bát. Theo luật của họ, họ buộc phải chôn phạm-nhân cùng trong ngày xử-tử. Chính vì lý-do đó, vào buổi chiều trước ngày Sa-bát, họ đã xin Phi-lát cho lính hoàn tất cuộc hành quyết.
Lập tức hai tên trộm bị đưa về bên kia thế giới, nhưng đến Chúa Giê-xu, bọn lính La-mã thấy Ngài đã chết, và để cho chắc ăn, họ đâm vào hông Ngài một mũi giáo. Như vậy, sự chết của Ngài đã được kẻ thù khẳng định, và những người chứng không hề có định kiến trước, vì nhiệm-vụ của họ chỉ là thi hành mệnh-lệnh.
• Biện Pháp Canh Gác Ngôi Mộ (Mat Mt 27:62-66)
Bằng-chứng mạnh mẽ nhất của Chúa sống lại là xác Ngài không còn nữa. Xác đó đi đâu? Các môn-đệ không lấy đi. Họ không thể nào lấy được. Họ không hề nghĩ đến chuyện đó. Người Do-thái cũng không lấy đi.
Trái lại, họ làm hết cách để ngăn ngừa xác Ngài bị lấy cắp, vì họ nhớ Chúa có nói rằng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Để cho các môn-đệ hết đường phao đồn bậy bạ, những viên chánh tế và người Pha-ri-si đã thỉnh cầu Phi-lát cho niêm phong ngôi mộ và đặt lính canh gác. Mục đích là để ngăn chặn không cho môn-đệ đụng tới xác Ngài. Nhưng chúng ta đã thấy, các môn-đệ không hề có ý định đó.
• Biện Pháp Hối Lộ Nhà Chức Trách (Mat Mt 28:11-15)
Thử tưởng tượng bọn thù nghịch sửng sốt ra sao khi nghe đám lính kể lại vụ động đất và có nhân vật siêu nhiên xuất hiện lăn tảng đá khổng lồ đi như mở cánh cửa, khiến họ hoảng sợ bỏ chạy trốn.
Kẻ thù của Chúa bây giờ chỉ còn có thể làm được một việc. Họ hối lộ đám chức quyền La-mã, dặn họ “hãy nói rằng: Môn-đồ nó đã đến lúc ban đêm, mà lấy trộm nó đi. Nếu điều ấy thấu tai quan tổng đốc, thì chúng ta sẽ khuyên giải người, và làm cho các ngươi khỏi lo sợ. Mấy tên lính đó lấy bạc, và làm theo như lời.”
Các chức sắc tôn giáo đã tung tin đó ra để giải thích sự phục-sinh của Chúa bằng cách đổ cho môn-đệ đến lấy xác Ngài đi. Hành động của họ đã ứng với Lời Chúa đã nói, “dầu có kẻ chết sống lại” đến nói, họ không tin (LuLc 16:31).
BẰNG CHỨNG CỦA NHỮNG NHÂN CHỨNG VÔ TƯ (The Evidence of the Impartial Witnesses)
• Lời Chứng Của Ga-ma-li-ên (CôngCv 5:34-40)
Lời giảng về Chúa phục-sinh đã tác động mạnh mẽ trên dân chúng Giê-ru-sa-lem đến nỗi Ga-ma-li-ên, một vị luật sư nổi tiếng, đã bảo nhà cầm quyền “để mặc họ đi. Vì nếu mưu luận và công cuộc này bởi tay người ta, thì sẽ tự hư đi, nhưng nếu bởi Đức Chúa Trời mà ra, thì các ngươi phá diệt những người đó chẳng nổi, và lại là liều mình đánh giặc cùng Đức Chúa Trời.”
Nhưng người ta chẳng để mặc các sứ-đồ, cứ tiếp tục săn đuổi, hãm hại, và giết chết họ. Dầu vậy công việc họ không tự hư đi. Hàng triệu người nam nữ già trẻ đã được phước nhờ niềm tin nơi sự phục-sinh của Chúa Giê-xu.
• Hội Thánh Là Chứng Cớ
Hội thánh Chúa là một bằng-chứng lớn lao cho sự phục-sinh của Chúa. Sưc sống truyền-giáo của họ do đâu mà có? Ho đã nhận được nơi Chúa phục-sinh, Đấng đã truyền cho họ, “hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người.” Họ đã đem cho thế-gian tin-mừng gì? Tin-Mừng của sự phục-sinh: “Nếu miệng ngươi xưng Chúa Giê-xu là Chúa… ngươi sẽ được cứu” (RôRm 10:9).
Hội thánh Chúa đã được thiết lập trên nền-tảng tín-điều đó.
• Ngày Chúa Nhật Là Chứng Cớ
Tại sao thờ-phượng Chúa vào ngày đầu của tuần lễ lại là bằng-chứng cho sự phục-sinh của Chúa? Từ nhiều thế kỷ, dân Do-thái công nhận ngày thứ bảy trong tuần (sa-bát) là ngày nghỉ ngơi và thờ-phượng. Nhưng khi Hội thánh được thành lập, các tín-hữu bắt đầu thờ-phượng vào ngày đầu tuần lễ để kỷ niệm sự phục-sinh của Chúa, và từ đó họ giữ ngày Chúa nhật thay thế cho ngày thứ bảy.
• Lễ Phục Sinh Là Chứng Cớ
Ở khắp mọi nơi, từ Âu Châu, Mỹ Úc Châu, cho đến Á Châu, Phi Châu, nơi có hàng triệu người không thù chẳng bạn gì với Chúa, đều giữ lễ Phục-sinh. Đó là chứng-cớ hiển nhiên nhất cho sự phục-sinh.
Nếu Chúa không sống lại, nếu chẳng có hy-vọng sống lại, thì người ta làm rầm rộ lễ này lên để làm gì? Tất cả thế giới văn minh khi viết đến năm này đều đề là 19…. được hiểu là 19.... năm sau Chúa. Tại sao không ghi năm sau Alexander Đại đế, hay Julius Ceasar, những vĩ nhân đã từng làm thay đổi dòng lịch-sử và tạo ra cuốn lịch-sử cho thế giới.
Chỉ có một giải thích là Chúa Giê-xu chính là con Thượng Đế, và Ngài đã từ cõi chết sống lại, đúng như lời những nhân chứng đáng tin đã thuật lại. Mỗi lần đề ngày là một lần nhắc lại chứng-cớ Ngài phục-sinh.

Chương 10: SỰ TÁI-LÂM VÀ NGỰ TRỊ CỦA CHÚA CỨU THẾ
(The Return and Reign of Christ)
Khi...
...nhấn mạnh về sự chết hy-sinh của Chúa Cứu Thế, nhiều người đã giảm bớt tầm quan-trọng của việc Chúa tái lâm để ngự-trị trên đất. Có người cho rằng Chúa sinh ra để làm vua dân Do-thái, nhưng đã bị dân Ngài khước từ, nên Hội thánh đã thế chỗ cho họ. Người khác thì cho rằng vương quốc Ngài chính là Hội thánh.
Những quan-điểm đó không đúng với lời dạy của Kinh Thánh. Chúa là Đấng Cứu Thế và cũng là vua. Sau khi đã dâng Đại Tế Lễ Chuộc tội, vị Thượng tế hiện nay đang ở thiên-đàng.
Chúng ta chờ đợi Ngài đến với nước Ngài trong tương lai để làm vua. Phi-e-rơ cho chúng ta biết rằng các vị tiên-tri Cựu-ước rất hoang mang, vì Đức Thánh Linh cho họ biết về “sự đau đớn của Đấng Christ và về sự vinh hiển sẽ theo sau” (IPhi 1Pr 1:10, 11).
Họ không thể hiểu làm sao Đấng Thiên-Sai lại có thể vừa là Sinh tế vừa là vua. Họ không thể tưởng tượng nổi sẽ có một khoảng thời gian dài xen vào từ lúc Chúa bị đóng đinh cho đến khi Ngài được tôn vương, lúc ấy Hội thánh -- một bí mật chưa hề tỏ-ra cho các vị tiên-tri -- sẽ hành động để hoàn thành mục đích của mình. Mãi cho đến lúc Chúa hóa hình mới có tia sáng đầu tiên cho thắc mắc đó.
Sau khi Chúa tiết-lộ cho môn-đệ biết Ngài sẽ chết, Ngài đã cho ba người được đặc ân hé thấy “sự vinh-hiển theo sau”, trên đỉnh Núi Hóa Hình. Chúa cho biết quang cảnh đó là viễn tượng của “nhân tử (Con người) đến trong nước mình.” (MatMt 16:28).
Về sau Phi-e-rơ đã liên kết biến-cố đó với “sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” là biến-cố còn ở trong tương lai (IIPhi 2Pr 1:16-18).
SỰ TÁI LÂM CỦA CHÚA (The Return of Christ)
Chắc Chắn Chúa Sẽ Đến (MatMt 24:29, 30, MacMc 14:62, LuLc 17:24, 25, 21:25, 27, ITês1Tx 4:13-18, HêbDt 9:28)
Không dưới 300 chỗ trong Tân-ước đề cập đến sự tái-lâm của Chúa Cứu Thế. Chính Chúa nói rõ ràng, và các tác-giả Tân-ước đều có nói đến, còn sách Khải-huyền “vén màn” cho thấy vinh-quang của Ngài.
Các lời tiên-tri cho biết chắc sẽ có cơn đại nạn và những biến cố khác xảy ra để dọn đường cho Chúa tái-lâm, nhưng không cho biết đích xác Chúa sẽ đến ngày giờ nào. Chữ “thức canh” thường được dùng trong Tân-ước dạy cho chúng ta lúc nào cũng phải coi như Chúa tái-lâm đến nơi.
• Chúa Sẽ Đích Thân Đến (XaDr 14:4, CôngCv 1:11, KhKh 1:7)
Bốn mươi ngày sau khi Chúa sống lại, Ngài nói chuyện với một nhóm môn-đệ. Đang khi họ còn nhìn Ngài, thì thình lình Ngài được cất lên trời, và được một đám mây tiếp đi khuất mắt. Trong lúc các môn-đồ còn nhìn lên trời ngơ ngẩn, thì có hai thiên-sứ đến nói với họ, “Hỡi người Ga-li-lê, sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Jêsus này đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi thấy Ngài lên trời vậy?” (CôngCv 1:11).
Khi các môn-đệ cảm thấy bơ vơ mất mát, lời-hứa này đã đến với họ. Nó cũng đến với chúng ta và những kẻ tin ở mọi thời đại, như một lời đoan-quyết rằng Chúa sẽ thật sự trở lại. Ngài đã thăng-thiên từ trái đất, thì Ngài sẽ trở lại trên trái đất: “Trong ngày đó, chơn Ngài sẽ đứng trên núi Ô-li-ve, là núi đối ngang Giê-ru-sa-lem về phía đông”. (XaDr 14:4)
Chúa đã lìa họ trong một thân thể thật, thì Ngài sẽ trở lại trong một thân thể thật, một thân thể phục-sinh, vinh-hiển. Chúng ta có thể nhận ra Ngài cũng như Thô-ma đã nhận ra Ngài khi Ngài đưa cho ông xem dấu đinh trên bàn tay Ngài.
Mọi mắt sẽ trông thấy Ngài rõ ràng khi Ngài giáng-lâm từ trời. “Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trông thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài cũng trông thấy, hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài” (KhKh 1:7).
• Ngài Đến Với Các Thánh (Giu Gd 1:14,15, KhKh 19:14)
Khi Nhân tử (Con Người) ngự đến trên mây trời với uy nghi vinh-hiển, Ngài không đến một mình đâu. “Kìa, Ngài ngự đến với muôn vàn thánh”, (GiuGd 1:14). Giăng đã thấy điều đó và viết, “các đạo binh trên trời đều mặc vải gai mịn, trắng và sạch, cỡi ngựa bạch theo Ngài” (KhKh 19:14).
Đạo binh đó chắc phải là các thánh gồm cả thời Tân-ước và Cựu-ước, và những người bị Con Thú giết trong Cơn đại nạn. Tất cả đều theo chân Đấng chiến thắng khải hoàn, khi Ngài vĩnh viễn triệt hạ Sa-tan và bè lũ a tòng theo nó, để cai-trị trong công-chính.
Vị chủ soái cỡi trên lưng ngựa bạch, và các thánh cũng đều cỡi ngựa bạch, vì họ đã nhờ Ngài được công-chính, nên họ cũng dự phần chiến thắng, phán-xét và cai-trị với Ngài. họ không mặc áo giáp, vì họ là bất tử, nhưng mặc vải gai mịn, trắng và sạch, vì áo họ đã được phiếu trắng trong huyết Chiên Con.
Có bao giờ bạn nẩy ra ý nghĩ ngộ nghĩnh mình đang thả bước rong chơi trên các đường phố lát vàng hay đang gãy thụ cầm bên giòng sông pha-lê ở thiên-đàng? Chúng ta được cứu không phải để được ở không đời-đời, cũng không phải để làm việc tối tăm mặt mũi như ở đây.
Nhưng Thượng Đế có chương trình cho mỗi chúng ta trong cõi đời-đời. Chúng ta không thể nhìn thấu suốt tới lúc đó, nhưng Kinh Thánh cho chúng ta biết các thánh sẽ thi hành những công tác quan-trọng trong nước thiên-đàng.
Ở đây Giăng cho thấy họ dự phần trong cuộc chiến đấu và toàn thắng của nước Chúa. Phao-lô cho biết những người được cứu sẽ được dự phần trong cuộc phán-xét thế-gian (ICôr1Cr 6:2), Khải-huyền cũng cho biết các thánh sẽ ngự-trị với Ngài (KhKh 20:6) và các tôi-tớ Ngài sẽ phụng-sự Ngài (22:3).
• Ngài Đến Trong Uy Quyền Và Vinh Quang (MatMt 24:29-31, 26:64, MacMc 8:38, LuLc 21:25-27)
Trên kia chúng ta đã nhắc đến một số đoạn Kinh Thánh nói về sự tái-lâm vinh-hiển uy nghi của Chúa. Ở đây ta lại xét đến một số đoạn khác. Ma-thi-ơ, Mác và Lu-ca đều ghi lại lời tiên-tri của Chúa cho biết Ngài sẽ trở lại trái đất sau thời kỳ đại nạn, trong vinh-quang và uy-quyền.
Trở lại buổi xét-xử từng đưa Con Thượng Đế lên thập-tự giá, thầy tế-lễ thượng phẩm tìm cách tra gạn, buộc Chúa phải trả lời Ngài có phải là Chúa Cứu Thế Con Thượng Đế không, Chúa đã bảo họ, “Về sau, các ngươi sẽ thấy Nhân Tử ngồi xuống” (MatMt 26:64).
Phi-e-rơ nói đến buổi hóa hình đã hé mở cho thấy “quyền phép và sự đến của Chúa Jêsus Christ chúng ta” (IIPhi 2Pr 1:16). Tất cả uy quyền vinh-quang đó tương phản hẳn với lần đầu tiên Ngài đến trái đất như là Con Loài người.
Thử tưởng-tượng những kẻ đã từng coi nhẹ Chúa Cứu Thế bấy giờ sẽ có cảm tưởng ra sao! Thử tưởng-tượng nỗi sầu thảm của những kẻ từng mắng nhiếc Ngài khi Ngài bị treo trên thập-tự giá. Giăng nói rằng cả những kẻ đâm Ngài cũng sẽ nhìn thấy Ngài trong giờ phút khải-hoàn của Ngài (KhKh 1:7).
Chẳng những loài người run rẩy sợ sệt trước oai nghi hiển hách của Ngài mà cả vũ trụ cũng rúng động. Núi Ô-li-ve bị chẻ làm đôi, đồi núi bị dời đi, các ngôi sao dời chỗ, mặt trời và mặt trăng cũng giấu mặt.
• Ngài Đến Để Phán Xét (ThiTv 2:1-12, SoXp 1:14-18, MatMt 16:27, IITês2Tx 1:7-10, GiuGd 1:15)
Tại sao các dân-tộc than khóc khi thấy Ngài hiện ra? Tại sao Thượng Đế cười khi “các ngoại bang náo loạn, các vua thế-gian nổi dậy, các quan trưởng bàn nghị nghịch cùng nhau, nghịch Đức Giê-hô-va và nghịch Đấng chịu xức dầu của Ngài?”
Bởi vì Ngài đến trong oai-nghi vinh-hiển để xét-đoán thế-gian. Ngài sẽ đập bể những kẻ phản loạn bằng “cây gậy sắt” của Ngài, và “làm vỡ nát” những kẻ vô đạo “khác nào bình gốm” như tác-giả Thi-thiên đã diễn-tả trong lời tiên-tri về đấng Thiên-Sai đến để lập nước Ngài.
Hãy đọc thư Giu-đe để thấy những lời mô tả linh động lúc Chúa đến “đặng phán-xét mọi người, đặng trách hết thảy những người không tin kính về mọi việc không tin kính họ đã phạm, cùng mọi lời sỉ hổ mà những kẻ có tội không tin kính đó đã nói nghịch cùng Ngài” (GiuGd 1:15).
Phao-lô viết cho thư tín-hữu Tê-sa-lô-ni-ca, nói rằng “Đức Chúa Giê-xu từ trời hiện đến… giữa ngọn lửa hừng, báo thù những kẻ chẳng hề nhận biết Đức Chúa Trời, và không vâng-phục Tin-Lành của Đức Chúa Giê-xu Christ chúng ta. Họ sẽ bị hình phạt hư-mất đời đời, xa cách mặt Chúa và sự vinh-hiển của quyền phép Ngài” (IITês2Tx 1:7-9).
Không phải mọi người đều chấp nhận giáo-lý về Chúa tái-lâm. Người ta ưa nói về người Ga-li-lê hiền từ đã từng sống cuộc đời cao quý trên đất, nhưng không thích nhắc đến vị Đại Thẩm Phán trở lại trong uy-quyền để trút đổ cơn phẫn nộ và báo thù thiên-thượng trên thế giới tội-lỗi.
Đấng Cứu Thế sẽ đến để khôi-phục mọi phước lành đã bị đánh mất từ khi loài người sa ngã, và mở màn cho thiên hi niên, nhưng trước khi có phước lành thì phải có sự phán xét, và sự công-chính sẽ không thể nào phổ cập trên đất khi mà Sa-tan và bè lũ của nó chưa bị triệt hạ hoàn toàn.
ĐẤNG CỨU THẾ TRỊ VÌ
(The Reign of Christ)
-Ngôi Vua Của Chúa Cứu Thế
-Ngôi Vua Đa-Vít (IISa2Sm 7:10-17, ThiTv 89:3, EsIs 9:6, GiêGr 23:5, AmAm 9:11, LuLc 1:32, 33, GiGa 18:37, 19:19-22)
Không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rõ cho bằng lời thiên-sứ nói với và Ma-ri rằng Con trẻ “sẽ được xưng là con của Đấng Rất Cao, và Chúa, là Đức Chúa Trời, sẽ ban cho Ngài ngôi Đa-vít là tổ phụ Ngài”.
Một ngàn năm trước đó, Thượng Đế đã lập giao-ước với vua Đa-vít rằng Ngài sẽ lập nước vua đời-đời bởi một lãnh tụ thuộc dòng họ của vua. Các vị tiên-tri cũng xác nhận giao ước đó.
A-mốt còn nói đến việc khôi phục nhà Đa-vít ngay trong lúc đó đang lung lay sụp đổ. Khi vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt cả vương quốc Giu-đa làm phu tù, ông ta không hề ngờ rằng trong vòng các con cháu hoàng tộc còn sống sót sẽ có một người sinh ra một vị vua còn vĩ đại hơn ông ta.
Trong nhà Đa-vít không có ai xứng đáng kế vị vua hơn Chúa Giê-xu, Mat Mt 1:1-16 kể lại tông hệ từ vua Đa-vít đến Giô-sép. Người đáng nối ngôi vua lúc bấy giờ là Giô-sép, người thợ mộc. Nhưng Giô-sép không phải là cha của vị Vua thiên-thượng, cho nên không thể xưng quyền nối ngôi qua Giô-sép được.
Tuy nhiên, LuLc 3:23-31 có cho ta biết gia-phả ông của Giô-sép, tức là chồng của bà Ma-ri. Ông cũng là trực hệ của Đa-vít qua Na-than là em của Sa-lô-môn. Như vậy, việc Chúa Giê-xu nối ngôi Đa-vít là danh chánh ngôn thuận và đúng như lời tiên-tri đã nói.
Khi Chúa ra đời, các nhà thông-thái ở Phương Đông đến hỏi, “Vua dân Do-thái mới sanh ra tại đâu?” Vua Hê-rốt lo sợ em bé vương tử sẽ đoạt ngôi mình, nên đã tàn sát tất cả hài-nhi vô-tội tại thành Bết-lê-hem (MatMt 2:1-8,16).
Ít lâu sau, Giăng Báp-tít tuyên-bố rằng “nước thiên-đàng đã đến gần”. Chính vị Vua đã dùng từ ngữ đó khi công-khai khởi sự thánh-vụ, và cũng truyền-bảo môn-đệ giảng dạy như vậy. Tám lần Ngài được xưng là “con vua Đa-vít” và vương quyền của Ngài được xác nhận rõ rệt hơn hết vào tuần lễ cuối cùng của Ngài. Ngài công-nhận với Phi-lát rằng Ngài sinh ra là để làm vua, và vị tổng trấn La-mã đã viết tước-hiệu ấy bằng ba thứ tiếng, làm vậy ông đã tuyên-bố với cả thế giới rằng Chúa Cứu Thế là Vua.
Mọi lời phản đối của dân Do-thái về tấm bảng ấy đều vô hiệu. Ngay cả khi chết, Ngài cũng được công-nhận là Vua.
• Ngôi Vua Tại Giê-ru-sa-lem (ÊsIs 24:23, GiêGr 3:17, GioGe 3:16, AmAm 1:2, MiMk 4:7)
Một số bản thánh ca và bài giảng ngày nay cho ta cảm-tưởng rằng Si-ôn đồng nghĩa với thiên-đàng. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, chỗ nào nhắc tới Si-ôn đều xem nó như đồng nghĩa với Giê-ru-sa-lem.
Kể từ khi Đa-vít chiếm giữ đồn lũy ở Si-ôn (IISa 2Sm 5:7), rồi đặt hòm giao-ước ở đó, tên núi Si-ôn và thành Giê-ru-sa-lem xây trên đó thường được dùng thay cho nhau (ThiTv 135:21, ÊsIs 30:19, XaDr 1:1-14).
Thiên sứ báo tin cho bà Ma-ri biết rằng con bà sẽ kế tục ngôi vua Đa-vít. Ai cũng biết rằng ngôi vua Đa-vít được đặt tại Giê-ru-sa-lem. Các vị tiên-tri đã tuyên-bố như thế, và dân chúng đều tin như thế. Sau khi Chúa hóa bánh cho 5000 người ăn, dân chúng tin quả-quyết rằng Ngài là Đấng Thiên-Sai phải đến, nên cố ép Ngài lên làm vua (GiGa 6:14,15).
NƯỚC CỦA CHÚA
(The Kingdom of Christ)
• Nước Phổ Thông (Universal Kingdom) (ThiTv 72:8-11, ĐaDn 2:44, 7:14, XaDr 14:9, KhKh 11:15)
Nước này không bị giới hạn trong lãnh thổ của vua Sa-lô-môn. Chúa không phải chỉ cai-trị một dân-tộc Do-thái thôi, “người sẽ quản hạt từ biển này đến biển kia… Các vua Tê-rê-si và những cù lao sẽ cống thuế cho người. Vua Sa-ba và vua Sê-ba sẽ cống lễ cho người… Hết thảy các vua sẽ sấp mình trước mặt người; các nước sẽ phục-sự người.”
Các đế quốc Ba-by-lôn, Ba-tư, Hy-lạp, La-mã thiết lập những vương quốc thế giới, nhưng mấy chục thế kỷ trôi qua, không một nước nào kiểm soát được cả thế giới. Ma-hô-mét và Nã-phá-luân đều đã thử nhưng chưa ai có thể chinh-phục được cả thế giới.
Những lời tiên-tri rải rác trong Kinh Thánh cho biết trước rằng Thượng Đế trên trời sẽ dựng nên một nước không một ai tiêu diệt hay chiếm hữu được, trái lại nó sẽ gồm thâu tất cả mọi nước.
• Nước Bình An (Peaceful Kingdom)
Vua hòa bình sẽ ngự trên ngai, và kết quả sẽ là:
-Giải Trừ Vũ Khí (ÊsIs 2:4, MiMk 4:3)
Thế giới không thể nào tránh được hiểm họa chiến tranh khi các quốc gia cứ tiếp tục tích vũ khí để tiêu diệt lẫn nhau. Vua hòa bình sẽ đoán-định các nước mạnh ở phương xa, và họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm và người sẽ không còn xâu xé bắn giết nhau, tập luyện chiến tranh nữa.
-Mọi Người Đều Hiểu Biết Thượng Đế (GiêGr 31:34, HaKb 2:14)
Trong thời đại Chúa trị vì, người ta sẽ nhận biết Ngài và hiểu Ngài thật trọn-vẹn, do đó mọi người sẽ hiểu biết Thượng Đế. “Sau những ngày đó, ta sẽ đặt luật-pháp ta trong bụng nó và chép vào lòng. Ta sẽ là Đức Chúa Trời chúng nó, chúng nói sẽ làm dân ta… Chúng nó thảy đều sẽ biết ta, kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn.” (GiêGr 31:33,34).
Trong Tân-ước, sứ-đồ Phao-lô cũng nói tới ngày này, khi “nghe đến danh Đức Chúa Jêsus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quỳ xuống, và mọi lưỡi thảy đều xưng Jêsus Christ là Chúa và tôn-vinh Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Cha” (Phi Pl 2:10,11).
• An Ninh Cá Nhân (IVua1V 4:25, MiMk 4:4)
Trong thời vua Sa-lô-môn, dân Do-thái được hưởng một thời kỳ thịnh vượng, an ổn. Sự trị-vì của vua Sa-lô-môn tiêu-biểu cho thời đại hoàng kim sắp đến. Dưới sự cai-trị của vị Thẩm phán vô tư, đất đai sẽ được chia đều và mọi người đều sẽ là sở hữu chủ. Mạng sống cũng như tài sản của mọi người đều sẽ được bảo-toàn. Lời tiên-tri nói tới cây nho cây vả mà không nói tới nhà cửa, chứng-tỏ rằng người ta sẽ không cần chỗ ở. Dầu ở ngoài đồng trống, người ta vẫn được an-toàn.
• Một Nước Công Chính (ThiTv 72:2-4, ÊsIs 11:1, 61:11, GiêGr 23:5)
Trong thời đại này, không thể nào có chính quyền hay nhà cai-trị công-chính được. Tòa án của chúng ta không thể nào thu thập hết mọi dữ kiện, dù cho mọi phe liên-hệ đều thành thật muốn làm như vậy.
Nhiều khi nhân-chứng dối toa rập với luật-sư man trá, có khi cả thẩm phán bất-lương cũng thông-đồng để bẻ cong công-lý. Thế lực thường làm nên lẽ phải, và tiền bạc che đậy được tội ác.
Nhưng vị Vua nước ngàn năm có tất cả khôn-ngoan để biết hết mọi sự, và tất cả quyền lực để làm được mọi sự. Ngài sẽ chẳng cần nghe bằng-chứng hoặc dựa vào nhân-chứng, cũng chẳng cần đến quân đội hay cảnh sát để thi hành công-lý (ÊsIs 11:3,4).
Bất cứ ai vi phạm luật-pháp sẽ bị phán-xét ngay không chút chậm trễ. “Ngài sẽ dùng sự công-bình xét-đoán kẻ nghèo, và xử lẽ ngay thẳng cho kẻ nhu mì trên đất.”
Chúng ta là những người tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công-chính của Ngài, và thường cầu-nguyện “Xin nước Ngài mau đến” có hình dung ra niềm vui được sống trong hòa bình chăng? Sự cai-trị của một vị vua tuyệt đối khôn-ngoan không thể lầm lẫn, rất nhân từ không thể nào hung ác, nhưng cũng rất uy-quyền để bắt buộc mọi người phục tùng tuyệt đối, hẳn sẽ là vô cùng toàn-hảo.

Chương 11: NGÔI VỊ VÀ QUYỀN NĂNG CỦA ĐỨC THÁNH LINH
(The Personality and Power of the Holy Spirit)
Có...
...nhiều thứ chúng ta không thấy được nhưng chúng ta tin chắc là có. Thật ra, có một số sự-kiện được một trong 5 giác-quan xác nhận nhưng 4 giác-quan kia lại không nhận ra.
Không ai thấy, nghe, hay ngửi được sự đau đớn, nhưng ai cũng có thể “cảm thấy” đau đớn. Không ai thấy được gió, nhưng chúng ta biết nó bẻ cong cây cối và tung sóng biển lên. Không ai thấy được điện, nhưng chúng ta biết nó có, vì ta thấy năng lực của nó khắp nơi quanh ta.
NGÔI VỊ CỦA ĐỨC THÁNH LINH (The Personality of the Holy Spirit)
Chưa hề có ai thấy Đức Thánh Linh. Nhưng những ai sẵn lòng dẹp mọi định-kiến mà suy xét về những hiện tượng do sự hiện diện của Ngài đem lại, thì sẽ thấy có nhiều bằng chứng hùng hồn về quyền-năng của Ngài.
Chúng ta đã học biết rằng Ba Ngôi-vị của Thượng Đế đều có quyền-năng và vinh-hiển như nhau.
Chúng ta đã học về những thuộc-tính chung của Ba Ngôi, như vậy chúng ta chỉ cần học những thuộc-tính riêng của Đức Thánh Linh có liên quan đến những người tin Chúa. Vì có nhiều người không những chỉ chối thần-tánh mà còn chối luôn “Ngôi-vị của thánh Linh” nên chúng ta cần bắt đầu ngay từ điểm này.
Những bài học về công tác sáng tạo và quan-phòng giúp ta hiểu được ngôi-vị của Đức Chúa Cha. Sự nhập thể, các phép-lạ, và sự phục-sinh là bằng-chứng then chốt cho ngôi-vị của Đức Chúa Con. Nhưng các công tác và hành động của Đức Thánh Linh thật là kỳ bí đó là nói về ảnh hưởng và quyền-năng của Ngài -- đến nỗi có người cho rằng Ngài chỉ là biểu-hiện hay là ảnh hưởng của thần-tánh Thượng Đế chớ không phải là một ngôi-vị.
Ngài thường được gọi là “hơi thở”, “gió”, “năng lực” và thường được liên kết với những biểu hiện như “dầu”, “lửa”, và “nước” khiến cho một số người lầm tưởng rằng Ngài là một ảnh hưởng vô ngã phát xuất từ Thượng Đế.
Có cần phải biết Thánh Linh là một ngôi-vị hay không? Nếu Thánh Linh là một ngôi-vị thì Ngài đáng được tôn-thờ, tin-cậy, và yêu mến, và người tín-đồ của Chúa không được quyền rút bỏ vinh dự đáng dành cho Ngài. Nếu Thánh Linh là một ngôi-vị vô cùng khôn-ngoan, thánh-khiết, và yêu-thương, thì chúng ta phải làm sao để được Ngài chiếm hữu và sử dụng để tôn-vinh Ngài. Việc chúng ta được Đức Thánh Linh chiếm hữu, khác hẳn việc chúng ta ra sức chiếm hữu Đức Thánh Linh.
• Ba Ngôi Vị
“Vinh quang thuộc về Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh.” Bài ca Gloria công bố thần-tính và ngôi-vị của Đức Thánh Linh. Nếu chúng ta đã cho rằng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con có ngôi-vị, thì bắt buộc Đức Thánh Linh cũng phải như vậy. Kinh Thánh cho ta những bằng-chứng trong:
-Công Cuộc Sáng Tạo (SaSt 1:26)
Khi Thượng Đế sáng tạo con người, Ngài không nói “ta” hãy làm nên con người, mà nói “chúng ta” hãy làm nên con người. Nghĩa là cả Ba Ngôi Thượng Đế cùng nói, “chúng ta hãy cùng làm Đấng Tạo Hóa của con người”.
Trong kế hoạch cứu-chuộc, cả Ba Ngôi cũng cùng thỏa thuận, “chúng ta hãy cứu-rỗi loài người”. Thật là một niềm an ủi ngọt ngào khi chúng ta nghĩ rằng không phải chỉ một ngôi vị mà cả Ba Ngôi vinh-hiển cùng tuyên-bố, “chúng ta” sẽ cứu-rỗi con người.
-Lễ Báp Têm (Mat Mt 28:19)
Lễ Báp-têm được cử hành nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh. Ở đây không ai có thể nghĩ rằng Đức Thánh Linh chỉ là một năng lực. Ngài là một ngôi-vị.
-Lời Chúc Phước (IICôr2Cr 13:14)
Chúng ta rất quen thuộc với lời chúc phước trích từ Kinh Thánh để kết thúc buổi thờ-phượng. Trong lời này, Đức Thánh Linh cũng giữ địa-vị ngang hàng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. “Nguyền xin ơn của Đức Chúa Jêsus Christ, sự yêu-thương của Đức Chúa Trời, và sự giao-thông của Đức Thánh Linh ở với anh em hết thảy.”
• Những Thuộc Tính Của Thượng Đế
Kinh Thánh không những chỉ nói về vị phẩm của Ngài tương đương với hai ngôi-vị khác trong Thượng Đế, mà còn ghi lại những thuộc-tính của Thượng Đế nơi Ngài nữa.
-Đấng Vĩnh Cửu (HêbDt 9:14)
Cần nên nhớ rằng người tin Chúa được sống đời-đời, nhưng họ có một khởi đầu. Thật ra mọi người dù bắt đầu lúc nào trong thời gian, cũng đều tồn tại mãi mãi hoặc trong cõi cực lạc hay trong nơi phán-xét. Tuy nhiên, Thượng Đế không có khởi đầu hay chấm dứt, mà tồn tại vĩnh cửu.
-Đấng Toàn Tại (Thi Tv 139:7-10)
Thánh Linh hiện diện khắp mọi nơi, “Tôi sẽ đi đâu xa thần Chúa? Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Ngài?”
-Đấng Toàn Năng
Chúa chúng ta do một trinh nữ sinh ra (LuLc 1:35), đó là công việc quyền-năng của Đức Thánh Linh, Ngài là
Đấng Toàn Năng.
Chúng ta ngạc nhiên trước nhóm người được Chúa chọn để tiếp nối công việc của Ngài khi Ngài ra đi. Đây là những con người thất học, không tiền, không thế lực. Hơn nữa, họ lại thiếu niềm tin và can-đảm đến nỗi bỏ Ngài chạy trốn khi Ngài bị bắt đưa đi xét xử.
Thế mà những Người này đã gây chấn động, không những tại Giê-ru-sa-lem, mà còn cả Châu Á và Châu Âu, đến nỗi chúng ta nói, “những tên làm đảo lộn thế giới này, cũng đến đây”. Không phải những người đó đã biến cải thế giới, mà là quyền-năng vô hạn của Đức Thánh Linh đã hành động qua họ (CôngCv 4:31-33,17:6).
-Đấng Toàn Tri (GiGa 16:12,13, ICôr1Cr 2:10,11)
Phao-lô, một học-giả có đầy đủ kiến-thức để đương đầu với những bộ óc khôn-sáng của người Hy-lạp, đã khiêm nhường nhìn nhận với họ rằng sự giảng dạy của ông “Chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự khôn-ngoan, nhưng tại sự tỏ-ra Thánh Linh và quyền-phép” (ICôr1Cr 2:1-11).
• Những Đặc Điểm Của Một Ngôi Vị
-Dùng Đại Danh Từ Chỉ Ngôi Vị.
Trong tiếng Hy-lạp, chữ “thần-linh” là trung tính và cần phải đi với một đại danh từ trung tính. Tuy nhiên, trái với cách dùng thông thường, GiGa 16:7, 8, 13, 14 đã dùng đại danh từ giống đực đến 12 lần. Đây không phải là nhân cách hóa, mà là một xác quyết về ngôi-vị của Đức Thánh Linh.
Nói vậy không có nghĩa là ngôi thứ ba của Thượng Đế có tay chân như người. Cần phân biệt ngôi-vị và thể dạng. Một ngôi-vị có thể cảm nghĩ và thực thi năng lực. Tất cả những chức năng đó của Đức Thánh Linh đều đã được Kinh Thánh đề-cập đến.
• Có Những Thuộc Tính Của Một Ngôi Vị.
-Trí Tuệ
Đức Thánh Linh có tâm-trí (RôRm 8:27) - một đặc-điểm của ngôi-vị. Ngài dò xét những chân-lý sâu nhiệm nhứt của Thượng Đế, biết những điều Ngài truyền dạy để hiểu được mục đích của Ngài (ICôr1Cr 2:10, 11). Một ảnh hưởng đơn thuần có thể làm điều đó chăng?
-Tình Cảm (RôRm 15:30, Êph Ep 4:30)
Có bao giờ bạn nghĩ đến “Tình yêu của Đức Thánh Linh?” Tình yêu của Đức Chúa Cha thật vô hạn, nó rộng đến bao trùm cả thế-gian, nó lớn đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài để cứu-rỗi họ. Tình yêu của Đức Chúa Con cũng không thể nào quan-niệm nổi, nó khiến Ngài lìa bỏ vinh-quang của thiên-đàng để đến chịu chết cho tội-nhân.
Dầu vậy, tình yêu của Đức Chúa Cha cũng vô ích, sự hy-sinh của Đức Chúa Con cũng chẳng đến đâu, nếu không có tình yêu kiên nhẫn vĩ đại của Đức Thánh Linh hành động trong lòng chúng ta. Tình yêu của Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Thánh Linh bày-tỏ trong chương trình cứu rỗi nhân loại.
-Êph Ep 4:30 nói Đức Thánh Linh buồn.
Chúng ta không thể làm buồn lòng Đức Thánh Linh nếu Ngài chỉ là một năng lực hay ảnh hưởng. Chúng ta có thể làm Ngài đau lòng. Mỗi một lời nói độc ác, mỗi một hành động ích kỷ, mỗi một tư tưởng ô uế đều làm buồn lòng Đức Thánh Linh.
-Ý Chí
Đức Thánh Linh có ý muốn riêng của Ngài (ICôr1Cr 2:11, CôngCv 16:6, 7). Khác với các thiên-sứ chỉ làm theo mạng-lịnh của Thượng Đế, “vâng theo tiếng Ngài” (ThiTv 103:20).
Sứ đồ Phao-lô muốn giảng trong tỉnh A-si, nhưng Đức Thánh Linh muốn khác. Bởi vậy, sau đó ông đã được đặc ân phục-vụ hai năm tại Ê-phê-sô, một thành phố trung tâm tại đó (CôngCv 19:10).
QUYỀN-NĂNG CỦA ĐỨC THÁNH LINH
(The Power of the Holy Spirit)
Trong các sách Phúc-Âm, các môn-đồ của Chúa là những kẻ nhút nhát. Trong sách Công-vụ, họ là những anh hùng. Phi-e-rơ đã từng run sợ trước một cô tớ gái, nhưng chỉ mấy ngày sau ông đã mạnh dạn như sư tử. Ông đã can-đảm đứng trước đám đông 3000 người tố cáo họ đã đóng đinh Chúa Cứu Thế Giê-xu trên thập-tự giá. Cái gì đã làm ông thay đổi?
Quyền-năng của Đức Thánh Linh.
Khi từ giã môn-đệ để về trời, Chúa Giê-xu đã phán bảo họ, “Khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, các ngươi sẽ nhận lấy quyền-phép” (CôngCv 1:8).
Quyền-năng ấy thể hiện rõ trên đời sống Phi-e-rơ, đến nỗi thuật-sĩ Si-môn đến đưa tiền cho ông và nói “Cũng hãy cho tôi quyền-năng đó”. Phi-e-rơ đã trả lời, “Tiền bạc ngươi hãy hư-mất với ngươi, vì ngươi tưởng rằng có thể lấy tiền bạc mua được ơn ban của Đức Chúa Trời” (CôngCv 8:18-20).
• Trong Công Cuộc Sáng Tạo (SaSt 1:2,3,2:7, GiopG 26:13, ThiTv 104:30)
Đức Thánh Linh dự phần trong công cuộc sáng tạo trời đất. Tất cả ngôi sao trên trời đã được Thánh Linh đặt vào vị-trí. Chúng ta không biết thời gian sáng tạo dài bao lâu, và các hành tinh đã tiến triển qua những giai đoạn nào, nhưng chúng ta biết rằng lúc khởi đầu công cuộc sáng tạo, “đất vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực” (SaSt 1:26).
Lúc đó, “Thần của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” (SaSt 1:2) tạo ra trật tự từ cõi hỗn mang và khiến cho bóng tối biến mất. Mọi điều đó xảy ra trước khi sáng tạo loài người. Chính Thần Linh của Thượng Đế đã thổi hơi sống vào con người để họ tồn tại, chính Thần Linh ấy tạo nên mọi loài sống và “làm mới lại trái đất”.
• Trong Công Cuộc Tái Tạo (Regeneration) (GiGa 3:3-5, ÊphEp 3:16, Tit Tt 3:5)
Ni-cô-đem là một người giàu sang danh vọng, có giáo dục, địa-vị. Nhưng ông thiếu một điều: sự sống của Thượng Đế. Trong sự sinh thành tự nhiên, ông ra đời để rồi chết. Tại sao? Vì rằng bởi một người là A-đam, “tội-lỗi đã vào thế-gian, và bởi tội-lỗi mà có sự chết và sự chết đã trải qua trên hết mọi người là như vậy, vì mọi người đều đã phạm-tội” (RôRm 5:12).
Nếu công cuộc sáng tạo là của Đức Thánh Linh, thì không lạ gì khi cho rằng sự tái tạo cũng là công việc của Ngài. Con người không thể nào tự tạo hay tự tái tạo được. Chỉ có quyền-năng Đức Thánh Linh mới làm nỗi điều đó.
Chúng ta phải phân biệt công biệt Chúa Cứu Thế làm “cho” chúng ta và công việc Đức Thánh Linh làm “trong” chúng ta. Nếu không có sự hy-sinh ở Gô-gô-tha, con người không thể nào được cứu. Nếu không có công việc của Đức Thánh Linh, con người cũng vô phương vậy. Đức Thánh Linh tạo nên đức-tin trong lòng chúng ta, nhờ đó chúng ta tiếp nhận sự cứu-rỗi.
-Sự tái tạo không bao giờ tách rời đức-tin.
Ngay lúc một người thật sự tin nhận Chúa, dầu yếu ớt đến đâu, cũng đã được Đức Thánh Linh tái tạo. Đức tin yếu ớt khiến họ không nhận thấy sự thay đổi, cũng như em bé sơ sinh biết rất ít hay không biết gì về chính mình cả. Nhưng nơi nào có đức-tin, nơi đó có sự sanh lại, còn nơi nào không có đức-tin thì không thể có sự sanh lại.
• Trong Sự Linh Cảm (Inspiration)
Vì Đức Thánh Linh là tác-giả của Kinh Thánh, nên không lạ gì khi thấy Kinh Thánh có một quyền-năng mà không một sách vở nào có được (GiêGr 5:14, 23:29, IICôr2Cr 3:6, ITês1Tx 1:5, HêbDt 4:12).
Hàng ngàn người quy cải vì đọc Lời Thượng Đế, chính điều đó đã khiến cho Martin Luther đóng 95 đề nghị trên cửa đại giáo đường Wittenburg thách thức giáo quyền La-mã.
• Trong Sự Làm Chứng (Witnessing)
Đức Thánh Linh giáng xuống trên Chúa Giê-xu lúc Ngài chịu báp-têm để làm-chứng rằng Ngài là Con Thượng Đế. Về sau, Chúa dẹp yên bão tố, chữa lành người bịnh, đuổi quỷ, khiến kẻ chết sống lại, đều là bởi quyền-năng Thánh Linh (ÊsIs 61:1, XaDr 4:6, LuLc 4:16-21). Đây là những công việc làm chứng cho quyền năng của Ngài.
Khi Chúa giảng bài từ giã môn-đệ, Ngài tuyên-bố rằng các môn-đệ Ngài sẽ làm việc lớn hơn Ngài từng làm (GiGa 14:12). Đó là bởi vì chính Thánh linh Đấng ban quyền-năng cho Ngài, sẽ ngự trên họ. Ngay trước khi Ngài lìa họ, Ngài tuyên-bố rằng Đức Thánh Linh sẽ giáng trên họ, và họ sẽ nhận lãnh quyền phép và làm-chứng về Ngài (CôngCv 1:8).
Mười ngày sau, Đức Thánh Linh đã đến như gió thổi ào ạt, và Ngài đã tỏ rõ quyền-năng của Ngài, không phải chỉ riêng ở Giê-ru-sa-lem mà còn cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri và các vùng xung quanh nữa.
“Các sứ-đồ lại lấy quyền-phép rất lớn mà làm-chứng về sự sống lại của Đức Chúa Giê-xu Christ” (4:33). Các sứ-đồ biết rõ bí quyết của quyền-phép đó và không ngại ngùng tiết-lộ ra. “Chúng ta đây là kẻ làm-chứng về việc đó, cũng như Đức Thánh Linh mà Đức Chúa Trời đã ban cho kẻ vâng-lời Ngài vậy” (CôngCv 5:32). Như lời Chúa đã tiên-báo, Đức Thánh Linh đã thuyết phục đám đông trong ngày lễ Ngũ tuần về “tội-lỗi, về sự công-chính, và về sự phán-xét”.
Đức Thánh Linh chứng-thực cho lời-giảng và thánh-vụ của các sứ-đồ bằng những công việc lạ lùng (HêbDt 2:4). Không phải các sứ-đồ chỉ nói được mười mấy thứ tiếng tại lễ Ngũ Tuần, mà sau đó còn có những phép-lạ chữa lành và cứu sống nữa.
Phi-e-rơ chữa lành Ê-nê, khiến Đô-ca sống lại. Nhiều người bịnh được chữa lành đến nỗi những kẻ tật nguyền sắp hàng trên đường nơi Phi-e-rơ đi qua, để bóng của ông ngả trên một số người chữa lành cho họ (CôngCv 5:12-16).
Cửa tù mở để cho tù nhân thoát ra làm nhà cầm quyền kinh ngạc, vì họ đã làm đủ cách để ngăn ngừa vượt ngục. Phao-lô và những người đồng hành đã được cứu nhiều lần khỏi chết vì bị ném đá, tù ngục, và chìm tàu (RôRm 15:18, 19). Đó không phải là công tác của các sứ-đồ mà là của Đức Thánh Linh, là quyền-năng và phép-lạ của Hội thánh ban đầu.
• Trong Sự Phục-Sinh
Sự phục-sinh của Chúa cũng được xem là công việc của Đức Thánh Linh. Chúng ta có thể thắc mắc khi thấy có lúc Kinh Thánh cho sự phục-sinh là việc của Chúa Cứu Thế: bởi quyền-năng Ngài không thể bị dây sự chết trói buộc.
Ngài tự ý phó sự sống mình và Ngài có quyền lấy lại (GiGa 10:17). Ở chỗ khác, Kinh Thánh lại cho rằng sự phục-sinh của Chúa là do Đức Chúa Cha “Chúa của sự sống mà Đức Chúa Trời đã khiến từ chết sống lại” (CôngCv 3:15).
“Đức Chúa Trời đã đem Đấng ấy lên” (5:31).
Kinh Thánh cũng dạy rằng Chúa được Đức Thánh Linh làm cho sống lại (RôRm 1:4,8:11, IPhi1Pr 3:18). Những khác biệt trong lời ghi của Sách Thánh chẳng những không làm mâu thuẫn mà trái lại xác nhận chân-lý ấy.
Giáo-lý Ba Ngôi sẽ khiến cho điểm khó khăn trở thành dễ hiểu, bởi vì Ba Ngôi-vị của Thượng Đế đều cùng bản thể và có quyền-năng vinh-hiển như nhau.

Chương 12: ĐỨC THÁNH LINH VÀ NGƯỜI TIN
(The Holy Spirit and the Believer)
Chúa...
...Cứu Thế sắp về trời. Đây là giờ cuối cùng với các môn-đệ. Ngài sẽ rời trái đất và không còn làm Giáo-sư và Tiên-tri ở đó nữa. Nhưng trước khi đi, Ngài muốn môn-đệ làm quen với Đấng sẽ đến, Ngài nói “Ta đi là ích lợi cho các ngươi, vì nếu ta không đi, Đấng Yên-Ủi sẽ không đến cùng các ngươi đâu, song nếu ta đi thì ta sẽ sai Ngài đến” (GiGa 16:7).
“Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-Ủi khác để ở với các ngươi đời-đời” (GiGa 14:16).
Chữ “Đấng Yên-Ủi” tuy rất thích hợp với hoàn cảnh các môn-đồ ở đây, không diễn-tả được hết tất cả công tác mà Đức Thánh Linh làm. Không một chữ dịch nào có thể lột được hết ý nghĩa của chữ “Paraclete” trong tiếng Hy-lạp. Chữ này còn có nghĩa là trạng-sư, và được dùng để chỉ chức-dịch của Chúa Cứu Thế ở trên trời: “Chúng ta có Đấng cầu-thay (biện-hộ ) ở nơi Đức Chúa Cha” (IGi1Ga 2:1).
Nhưng Đức Thánh Linh không phải chỉ là một trạng sư đáng tin-cậy của các môn-đồ thôi đâu, Ngài cũng là Giáo-sư, người Đồng Công, Đồng Hành của họ, là tất cả những gì mà Chúa Giê-xu làm cho họ.
ĐỨC THÁNH LINH DẠY DỖ NGƯỜI TIN (The Believer Taught by the Holy Spirit)
Chúa Giê-xu là giáo-sư chính thức của 12 sứ-đồ. Họ không ngồi học hỏi với các thầy dạy luật hay người Pha-ri-si, mà lắng nghe lời giáo-huấn của Đấng đến từ trời.
Ngài bảo họ, “Bây giờ ta đi, các ngươi sẽ tìm đâu ra một Giáo-sư vô ngộ (không thể sai lầm) thay thế cho ta? Ta sẽ phái đến cho các ngươi một Giáo-sư khác, Ngài sẽ truyền lời thẩm quyền của Thượng Đế. Ngài sẽ dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật.”
Lời-hứa đó lúc đầu dành cho các sứ-đồ, nhưng về sau cũng áp-dụng cho mọi người tin. Mỗi người tin đều không phải lệ thuộc vào các giáo-sư trần gian. Mỗi người tin đều có đặc ân “được Đức Chúa Trời dạy dỗ”. Người được Đức Chúa Trời dạy dỗ đầy đủ hơn hết chính là người sẵn sàng nghe theo những điều Chúa đã dạy người khác. Lý-do nào cho biết Đức Thánh Linh là vị Giáo-sư vô ngộ, siêu việt ?
• Ngài Là Tác Giả Của Kinh Thánh (GiGa 16:13, IITim 2Tm 3:16, IIPhi 2Pr 1:20,21, KhKh 2:7)
Phi-e-rơ cho ta biết rằng những người viết Kinh Thánh đã được Đức Thánh Linh “cảm-động” mà nói ra. Phao-lô tuyên-bố rằng Kinh Thánh là do “Đức Chúa Trời soi dẫn”, nguyên văn “Đức Chúa Trời hà hơi”.
Như Thượng Đế đã hà hơi sống để ban sự sống cho loài người, Đức Thánh Linh cũng hà hơi cho con người để hiểu biết những điều thuộc về Thượng Đế. Giăng đã được lịnh nghe và ghi chép lại những điều “Đức Thánh Linh phán cùng các Hội Thánh”. Cũng chính Đức Thánh Linh đã dẫn dắt các sứ-đồ vào mọi lẽ thật và cho họ biết những điều sẽ xảy đến.
• Ngài Là Đấng Thông Giải Kinh Thánh (GiGa 16:13, 14, ICo1Cr 2:10)
-Là tác-giả của Kinh Thánh, chắc chắn Thánh Linh phải hiểu và giải thích Kinh Thánh được. Đem Kinh Thánh chú giải Kinh Thánh là tốt nhất. Lấy Kinh Thánh so sánh Kinh Thánh ta có thể thông giải được mọi lời thần-cảm mà không sợ sai lầm.
-Ngài Là Bạn Đồng Hành Của Chúa Cứu Thế
Chúa Giê-xu không những do Thánh Linh sanh ra (LuLc 1:35), và sống lại bởi quyền-năng Đức Thánh Linh (RôRm 1:4, 8:11) mà Ngài còn:
-Được Đức Thánh Linh Xức Dầu (CôngCv 10:38)
Trước khi Ngài thi hành thánh-vụ, Chúa chúng ta được Đức Thánh Linh xức dầu để phục-vụ.
-Được Đức Thánh Linh Hướng Dẫn (CôngCv 10:38)
Sau khi Chúa chịu Báp-têm, Đức Thánh Linh lấy hình chim bồ câu ngự trên Ngài, và đưa Ngài vào đồng vắng để chịu Sa-tan cám-dỗ.
• Ngài Dạy Dỗ Người Tin
• Về Chúa Cứu Thế (GiGa 15:26, 16:13-15)
Không ai có thể giải-bày và tôn-vinh Chúa Cứu Thế cho bằng Đức Thánh Linh. Các môn-đệ chỉ biết Chúa Giê xu như biết một con người. Đức Thánh Linh bày-tỏ Chúa Giê-xu một cách lớn lao hơn vô cùng. Họ chỉ biết Ngài qua khuôn mặt sắc diện, nhưng Đức Thánh Linh cho họ biết về chính bản-thể Ngài.
• Về Những Điều Thuộc Tâm Linh (ICôr1Cr 2:9-14)
Ta đã biết Đức Thánh Linh là tác-giả và Đấng thông giải Lời Thượng Đế. Nhờ Đức Thánh Linh soi sáng tâm tư, con người mới được lời Chúa. Cố dùng kiến thức tự nhiên để hiểu sự mặc-khải tâm-linh là một điều lầm lẫn.
Không phải chỉ cần đọc được Kinh Thánh là người ta có thể hiểu được những mặc khải trong đó, cũng như không phải chỉ cần phân biệt được màu sắc, mà một người không biết chút gì về thẩm mỹ có thể đánh giá được bức họa La Joconde.
Tất cả sự khôn-ngoan của Hy-lạp không giúp cho người Cô-rinh-tô hiểu được vấn đề tâm-linh; tất cả những nhà thông-thái ở các viện đại học lớn cũng không thể nào hiểu được chân-lý tâm-linh nếu không có sự dạy dỗ của Đức Thánh Linh.
• Ngài Cáo Trách Thế Gian (GiGa 16:7-11)
Thế gian không thể nhận Đức Thánh Linh và biết Ngài, vì Ngài chỉ ở với người tin. Tuy nhiên, Đức Thánh Linh hành động qua người tin để cáo-trách thế-gian.
• Về Tội Lỗi (GiGa 16:9)
Không phải về tất cả tội-lỗi như tham lam, trộm cướp, dối trá nhưng về “một tội đặc biệt”- tội chối bỏ Chúa Giê-xu là Đấng cứu-chuộc cả thế-gian. Tội-lỗi mang một ý nghĩa đặc biệt khi Chúa đã đến thế-gian.
Đức Thánh Linh khiến cho người ta thấy rằng không tin Chúa Cứu Thế là một tội hàng đầu, vì như vậy cũng như cho rằng Thượng Đế là kẻ nói dối. Không tin Chúa Giê-xu là chối bỏ sự thương-xót của Thượng Đế và khinh thường ân-huệ của Ngài.
• Về Sự Công Chính
Chúa Cứu Thế là người công-chính duy nhất. Những người Pha-ri-si và các thầy thông-giáo nhấn mạnh việc giữ luật-pháp và tưởng họ là những kẻ toàn hảo, nhưng Chúa bảo môn-đệ Ngài, “nếu sự công-bình của các ngươi không trổi hơn các thầy thông-giáo và người Pha-ri-si thì các ngươi sẽ không vào được nước thiên-đàng đâu”.
Sau khi đấng công-chính duy nhất đã lìa khỏi thế-gian, Đức Thánh Linh sẽ đến, thuyết phục cho người đời thấy Chúa Giê-xu là Đấng công-chính và mọi người khác đều bất-chính (GiGa 16:10).
• Về Sự Phán Xét
Sự chết của Chúa Cứu Thế đã tuyên bản án trên Sa-tan, nó biết rằng nước của nó cuối cùng sẽ bị lật đổ. Chúa chúng ta biết Sa-tan là chúa của thế gian này và Ngài thấy nó vờn đàng sau Giu-đa, Phi-e-rơ, và người Pha-ri-si. Chúa đến để tiêu diệt “Công việc” của Sa-tan, và giải phóng những thần dân của nó đang sợ chết.
-Thập-tự giá là chiến trường quyết định.
Sa-tan bị phán-xét và kết án. Bây giờ nó đang đợi bản án thi hành khi các nước trên thế-gian này trở thành vương quốc của Chúa Giê-xu. Đức Thánh Linh sẽ thuyết phục thế-gian rằng “vua chúa thế-gian này” đã bị phán-xét cùng với thần dân nó (GiGa 16:11).
NGƯỜI TIN ĐƯỢC ĐỨC THÁNH LINH HƯỚNG DẪN (The Believer Guided by the Holy Spirit)
Cũng như Chúa Giê-xu biện-hộ cho người tin trước mặt Thượng Đế, thì Đức Thánh Linh cũng biện luận cho Thượng Đế trước loài người như vậy. Bạn có bao giờ thấy một mục-sư nước mắt ràn rụa xúc động kêu gọi người tin? Phải chăng ông đã nhận được khả năng và quyền-lực ấy trong viện thần-học? Không đâu, chính Đức Thánh Linh trong ông biện-hộ cho chính nghĩa của Ngài.
• Hướng Dẫn Trong Sự Thờ Phượng
Sự thờ-phượng chân-thật và được Thượng Đế chấp nhận là sự thờ-phượng do Đức Thánh Linh cảm-thúc và hướng dẫn (GiGa 4:23, Phi Pl 3:3). Một người có thể thờ-phượng rất thành khẩn, mà vẫn chưa phục-tùng sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Chúng ta hãy gieo mình vào lòng Đức Thánh Linh với lòng tin-cậy hoàn toàn, để Ngài dẫn dắt chúng ta trong:
• Sự Cầu Nguyện
Chúng ta không biết phải cầu-nguyện sao cho phải lẽ, nhưng chúng ta có Đấng Paraclete sẵn sàng để giúp chúng ta (RôRm 8:26, ÊphEp 6:18, GiuGd 1:20).
Khi chúng ta phó mình hoàn toàn cho vị biện hộ, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta cầu-nguyện, chỉ đường dẫn lối cho những ước vọng của chúng ta, dìu dắt lời nói của chúng ta: “lời cầu-nguyện được Đức Chúa Thánh Linh (God the Holy Spirit) cảm thúc là lời cầu-nguyện được Đức Chúa Cha (God the Father) phúc đáp”.
• Ca Ngợi
Đặc tính nổi bật của cuộc sống đầy-dẫy Đức Thánh Linh là cảm-tạ (ÊphEp 5:18-20). Cũng như sự cầu-nguyện, sự ca ngợi nếu muốn được Thượng Đế chấp nhận, phải do Đức Thánh Linh hướng dẫn. Những bài thánh vịnh khi hát lên với tấm-lòng chân-thành là sự thờ-phượng được Thượng Đế chấp nhận, vì Đức Thánh Linh là tác-giả của những bài hát ca ngợi bất hủ đó.
• Hướng Dẫn Mọi Công Việc Của Đời Sống
Đức Thánh Linh chọn địa bàn hoạt động cho chúng ta và đưa chúng ta vào đó (CôngCv 8:26-29, 13:2,4,16:6, 7). Ngài mở cửa ở những nơi nào Ngài muốn chúng ta vào làm việc, và đóng cửa những công việc có khi do chính chúng ta chọn lựa.
Ngài hướng dẫn chúng ta đến gặp người mà Thượng Đế muốn chúng ta nói chuyện với. Có rất nhiều việc chúng ta phải làm, và nhiều người chúng ta phải gặp để nói về Ngài. Nhưng khả năng thể chất chúng ta rất hạn chế. Vậy chúng ta làm sao để biết mình phải làm những gì và không làm những gì?
Đức Thánh Linh sẽ hướng dẫn chúng ta đi tới nhưng nơi nào và gặp những người nào. Nếu chúng ta vâng theo Lời Chúa, Đức Thánh Linh sẽ sắp đặt cho chúng ta tiếp xúc với chính người có lòng sẵn sàng tiếp nhận Phúc-Âm, và tiếp xúc đúng lúc nữa.
• Trong Giờ Phút Thử Thách
Các môn-đồ không phải lo tìm luật-sư khi họ bị xét-xử. Đức Thánh Linh sẽ biện-hộ cho họ khi họ bị điệu ra trước các vua, các tổng trấn.
Làm sao Ê-tiên có thể tranh biện hùng hồn trước một công hội đầy thành kiến đã nhất định phải xử-tử ông? Câu trả lời là họ không thể chống trả sự khôn-ngoan của Đức Thánh Linh là Đấng hướng dẫn lời nói ông. Người Do-thái đã mượn một luật-sư La-mã nỗi tiếng tên là Tẹt-tu-lu để đưa đơn khiếu tố Phao-lô, nhưng vô hiệu (CôngCv 24:1, 22).
Làm thế nào mà người tù đang mang xiềng-xích này có thể biện-giải hùng hồn trước vị tổng trấn La-mã đến nỗi Phê-lít run sợ, vội vàng đứng dậy để giải tán vụ xử? (CôngCv 24:25). Đó không phải là người nói đâu, mà là Thượng Đế Thánh Linh đã biện-hộ qua Phao-lô.
NGƯỜI TIN CHÚA ĐƯỢC THÁNH LINH KIỂM SOÁT (The Believer Controlled by the Holy Spirit)
Chúng ta biết rằng nếu không phải bởi Đức Thánh Linh thì không ai có thể xưng Đức Giê-xu là Chúa (ICôr1Cr 12:3). Công tác hướng dẫn người tin nhận biết quyền chủ tể của Chúa Giê-xu trong đời sống mình là công tác Đức Thánh Linh mong muốn thực hiện trong đời sống của mỗi con cái Thượng Đế.
Thật ra, có nhiều người đã tin nhận Chúa Giê-xu là Đấng cứu-chuộc mình, nhưng chưa để Ngài làm chủ cuộc đời mình. Nhiều người đã được giải thoát khỏi tội-lỗi, nhưng chưa nếm được phước lành có Chúa tể-trị đời mình. Chúa chết “cho” chúng ta trên thập-tự giá, nhưng chỉ biết bấy nhiêu thì chưa đủ, vì Ngài còn phải làm một cái gì “trong” chúng ta.
Cuộc Sống Được Thánh Linh Chiếm Hữu - Thánh Thiện
• Hội Thánh Cô-rinh-tô có chuyện lục đục.
Tinh thần bè phái chia-rẽ Hội thánh. Người ta tin theo Phi-e-rơ, Phao-lô, và A-bô-lô, chớ không phải theo Chúa Cứu Thế (ICôr1Cr 1:12). Tội-lỗi và vô-luân lan rộng. Hầu hết tín-hữu chỉ chú tâm đến chuyện thế-gian. Nguyên nhân vì đâu? Vì họ đã không để cho Thánh Linh thực thi quyền-năng Ngài.
Phao-lô không nói những tín-hữu này không có Đức Thánh Linh, vì nhờ Ngài, họ mới có thể công-khai bày-tỏ đức-tin mình, và xưng Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế (ICôr1Cr 12:3). Họ không thể nào làm tín-đồ của Chúa nếu không có Đức Thánh Linh (RôRm 8:9).
Chẳng qua vì họ không nhận biết Ngài hiện diện trong họ (ICôr1Cr 3:16, 6:19) và không chịu để Ngài làm chủ cuộc đời họ. Giữa bầu không khí hôi thối của một thành phố ngoại giáo, người tín-đồ phải đương đầu với bao nhiêu cám-dỗ đáng sợ, nếu không có một quyền lực siêu nhiên, họ không thể nào giữ mình trong sạch được.
Còn gì vinh dự cho cái thể xác hư-nát này cho bằng được chọn làm nơi ngự của Đức Thánh Linh. Thân thể của người tín-đồ đã được Thượng Đế cứu-chuộc và chiếm ngự, bởi vậy cần phải đối xử nó với một niềm tôn-kính giống như người Do-thái đối với Nơi Chí Thánh vậy.
Người tín-đồ cần phải giữ đôi mắt cẩn thận để khỏi nhìn những điều uế tục, phải canh chừng lưỡi mình thận trọng để khỏi nói những lời xấu xa, phải giữ gìn ý tưởng tình cảm mình cần mẫn để khỏi nghĩ tới điều xấu, vì Thượng Đế đã chọn họ để họ thuộc về Ngài, và Ngài bảo họ dâng hiến mọi sự cho Ngài.
• Cuộc Sống Được Đức Thánh Linh Bảo Chứng
Sự hiện diện của Đức Thánh Linh chẳng những cho ta quyền-năng để sống cuộc đời thánh-thiện, đẹp lòng Thượng Đế, mà Ngài còn nắm tay dẫn ta vào cuộc sống ấy (RôRm 8:14, 16, ÊphEp 1:13, 4:30). Đó là bằng-chứng mạnh mẽ nhất về gia tài trên trời của người tín-đồ.
Một vị tu-ân đạo kia sắp lên giàn hỏa, hàng ngàn nhà tuận-đạo đã bị chết cách đó. Đám đông theo sau chế nhạo, nhưng ông vẫn can-đảm bước tới. Rồi người ta dùng xiềng mà xích ngang ngực ông. Họ chất củi lên xung quanh ông, rồi đốt lửa. Nhưng ông nói: “Hỡi linh hồn ta, hãy chúc tụng Chúa”. Lửa cháy đến chân ông, nhưng ông đưa tay lên kêu to, “Tôi biết Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, dù cho lửa thiêu nuốt thân tôi, nhưng trong xác thịt tôi, tôi sẽ thấy Thượng Đế”.
Thân thể ông bị thiêu hóa, nhưng trong cơn đau đớn quằn quại, ông vẫn hát, và cuối cùng kêu lên đắc thắng “Con xin giao linh-hồn con trong tay Cha”.
Cái gì đã cho ông bảo-chứng đó? (IITim2Tm 2:19-21) Đó là do Đức Thánh Linh làm-chứng trong ông rằng ông là con Thượng Đế (GaGl 4:6).
• Cuộc Sống Đầy-Dẫy Đức Thánh Linh -- Phục-Vụ
Từ ngữ “đầy-dẫy Đức Thánh Linh” rất quen thuộc trong Tân-ước. Chúa Giê-xu được đầy-dẫy Đức Thánh Linh trong khi thi hành thánh-vụ. Nhiều chỗ ghi lại các môn-đồ được đầy-dẫy Đức Thánh Linh.
Vào lễ Ngũ Tuần, 120 môn-đồ “tất cả đều được đầy-dẫy Đức Thánh Linh” (CôngCv 2:4).
Biến cố này chuẩn bị họ cho công tác thiết lập Hội Thánh. Phi-e-rơ đối diện với đám đông thù nghịch kêu gọi họ, và 3000 người đã được biến-cải trong một ngày. Ít lâu sau, sự chống đối nổi lên, các môn-đồ bị đưa ra công hội, Phi-e-rơ “được đầy-dẫy Đức Thánh Linh” đã đưa ra những lời biện-luận hùng hồn, kết cuộc là họ được thả ra. Trong buổi nhóm cầu-nguyện sau đó, “nơi nhóm lại rúng động, ai nấy đều được đầy-dẫy Đức Thánh Linh” (CôngCv 4:31).
Phao-lô, trong thơ gởi cho người Ê-phê-sô (ÊphEp 5:18) đã đặt trách-nhiệm đó trên mỗi người tin khi ông nói, “Đừng say rượu, vì rượu xui cho luông tuồng, nhưng phải đầy dẫy Đức Thánh Linh”. Như vậy mỗi người tin Chúa, chẳng những được đặc ân có Đức Thánh Linh ngự trong mình, và cũng cần phải đầy-dẫy Thánh Linh nữa.
Chúa đã hứa, “kẻ nào tin ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng người đó, như Kinh Thánh đã chép” (Điều này nói về Đức Thánh Linh, mà những kẻ tin Ngài sẽ nhận được”) (GiGa 7:38,39). Ở đây, Thánh Linh của Thượng Đế được hình dung như con sông tìm một ống dẫn để truyền sự sống và tình yêu thiên-thượng đến cho người khác trong thánh-vụ thực tiễn hàng ngày. Hễ bao lâu ống dẫn vẫn còn khai thông thì nước vẫn còn chảy.
• Cuộc Sống Đắc Thắng - Kết Quả (RôRm 5:5,8:2,9-13,14:17, GaGl 5:17,22,23)
Khi người tin được sanh lại và Đức Thánh Linh ngự vào thân thể người đó, người sẽ khám phá ra mình có 2 bản-tính: nhục-tánh (bodily nature) và linh-tánh (spiritual nature). Người sẽ thấy thân thể mình vẫn bị phục dưới sự cám-dỗ của xác thịt.
Cuộc tranh đấu giữa thiện và ác bên trong con người được mô-tả rất linh động trong chương bảy của sách Rô-ma: “Vì tôi biết điều lành chẳng ở trong tôi nghĩa là trong xác thịt tôi, bởi tôi có ý muốn làm điều lành, nhưng không có quyền làm trọn” (RôRm 7:18).
Trong cuộc xung đột kinh khủng này ở chương bảy, Đức Thánh Linh không được đề-cập tới, nhưng trong phần mô-tả cuộc sống đắc thắng ở chương tám, Ngài được nhắc tới 19 lần. Đức Thánh Linh ngự-trị trong đời sống người tin là bí quyết đắc thắng tội-lỗi.
Địa-vị mà người tin dành cho Đức Thánh Linh trong đời sống mình quyết định tâm-tánh của họ. Tâm-tánh con người không phải là cố định. Đó là kết quả của thói quen, tức là những hành động lặp đi lặp lại nhiều lần. Tâm-tánh của con người thiên nhiên, hạng người sống để thỏa mãn thân xác mình, là một bức tranh đau buồn. Bảng danh sách những công việc của xác thịt thật trái ngược hẳn những trái của Thánh linh (GaGl 5:19-21).
Tâm-tánh của con người tâm-linh, hạng người để cho Đức Thánh Linh hướng dẫn đời sống thì hoàn toàn khác hẳn. Người sản sinh ra những trái lành của cuộc sống theo Chúa. Theo 5:22, ta có 3 nhóm trái:
(1) Yêu-Thương, Vui-Mừng, Bình-An
Đây là kinh-nghiệm của người tín-đồ trong tương quan với Thượng Đế, chỉ khi nào ta sống trong sự đầu-phục Đức Thánh Linh, thì tình yêu của Thượng Đế mới tuôn đổ vào lòng chúng ta (RôRm 5:5), chúng ta được chia-xẻ niềm tin của Thánh linh (CôngCv 13:52) và “sự bình-an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết” (Phi Pl 4:7).
(2) Nhịn Nhục, Nhơn-Từ, Hiền-Lành
Đây là kinh-nghiệm của người tín-đồ trong tương quan với đồng loại. Đức Thánh Linh giúp chúng ta chịu đựng. Trước hết, chúng ta hiến mình cho Chúa, rồi sau là cho những người xung quanh ta. Chúng ta đối-xử tử-tế và lịch-sự với mọi người.
(3) Trung-Tín, Mềm-Mại, Tiết-Độ
Đây là kinh-nghiệm Cơ-đốc trong tương quan với chính chúng ta. Hễ chúng ta bước đi trong thánh Linh, thì chúng ta sẽ trung-tín khiêm-nhường làm mọi bổn-phận của chúng ta, và kiềm chế mọi tư tưởng hành động của chúng ta. Tội-lỗi sẽ không còn cai trị trên anh em (RôRm 6:14).
Trang 1: Tựa
Trang 3: Mục lục
Trang 2,4,6,152: Trắn
bottom of page
