top of page

II SỬ-KÝ (1)

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Lịch Sử (Cựu-ước)



1. GẶT LẤY HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI (IISu 21:1-22:9; IIVua 8:1-9:37)


Ê-li-pha...

...đã nói một điều ngu ngốc với Gióp, người bạn đang đau khổ của mình, nhưng ông cũng nói đến một vài nguyên tắc đời đời, một trong số đó là, “Theo điều tôi đã thấy, ai cày sự gian ác, và gieo điều khuấy rối, thì lại gặt lấy nó” (Giop 4:8). Sa-lô-môn lập lại lẽ thật nầy trong Ch 22:8, “Kẻ nào gieo sự bất công sẽ gặt điều tai họa;” và tiên tri Ô-sê nói về nó một cách sinh động, “Vì chúng nó đã gieo gió và sẽ gặt bão lốc” (Os 8:7).


Giê-rô-bô-am, Ôm-ri và A-háp đã dẫn vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên vào sự thờ lạy thần tượng, Giê-hô-ra, là người cưới con gái của A-háp, đã đem thần Ba-anh vào vương quốc Giu-đa. Cả hai nước đều chống nghịch Đức Giê-hô-va và bị ô uế vì tội thờ thần tượng, nhưng đây là lúc sự đoán phạt sẽ xảy đến trên triều đại của A-háp, cái ngày mà Ê-li đã tiên báo (IVua 21:21,29)


1. Sự cao cả của Đức Chúa Trời (IISu 21:1-20)(IIVua 8:1-6)

Rõ ràng sự kiện nầy phải xảy ra trước khi Na-a-man được chữa lành (IIVua 5:1-27), vì vua sẽ không nghênh tiếp người bệnh phung bước vào cung, mà sau sự kiện đó Ghê-ha-xi đã là một người phung (IIVua 5:27).

Tác giả sách II Các-vua không viết theo trật tự thời gian, chúng ta không chắc Ghê-ha-xi đang kể chuyện của thầy mình cho vua nào nghe. Có lẽ sự kiện nầy xảy ra vào những ngày đầu trong thời trị vì của vua Giô-ram.

Phần nầy nhắc chúng ta sự cao cả của Đức Giê-hô-va. Những sự kiện sau đó cho thấy tình trạng tội lỗi của dân sự, nhưng phần nầy nhắc chúng ta rằng Đức Chúa Trời thật vĩ đại và sẽ làm thành những mục đích của Ngài dù con người phạm tội, hoặc nặng hoặc nhẹ.


• Đức Chúa Trời cai trị thiên nhiên (IIVua 8:1-2). Chúng ta được giới thiệu người đàn bà Su-nem giàu có và gia đình của bà trong IIVua 4:8-37. Đức Chúa Trời thường dùng nạn đói kém để trừng phạt dân sự Ngài khi họ không vâng lời và để nhắc họ nhớ những điều khoản trong giao ước của Ngài (Phuc 28:17,48). Nạn đói kém nầy có thể là nạn được đề cập trong Phuc 4:38.

Tiên tri báo trước cho người đàn bà ấy về nạn đói kém để bà và gia đình lánh nạn sang Phi-li-tin và kiều ngụ ở đó một thời gian. Nhờ biết trước nạn đói kém, bà có thể tìm được một chỗ tạm trú ở Phi-li-tin trước những người Y-sơ-ra-ên khác.

Lưu ý chồng bà không được nhắc đến ở đây; nhưng vì ông già hơn bà (Phuc 4:14), có lẽ ông đã qua đời.


Nạn đói kém xảy ra vì Đức Chúa Trời đã cho nó xảy ra, Ngài có thể ra lệnh cho nó vì Ngài là Chúa của tất cả.

“Ngài khiến cơn đói kém giáng trong xứ, và cất hết cả lương thực” (Thi 105:16).

Trong buổi sáng thế, Đức Chúa Trời phán và mọi tạo vật được dựng nên (Sa 1:1-31), ngày nay Đức Chúa Trời phán và mọi tạo vật phải vâng theo ý nuốn của Ngài (Thi 148:1-14).

Trong khoảng thời gian bị trừng phạt và khốn khổ, nếu dân sự của Đức Chúa Trời cầu nguyện và ăn năn tội lỗi mình, Đức Chúa Trời sẽ giải cứu họ (IISu 7:14). Khi dân sự quên Lời Đức Chúa Trời, Ngài có thể phán quan tạo vật của Ngài và nhắc họ nhớ ai đang cai trị họ.


• Đức Chúa Trời cai trị sự sống và sự chết (IIVua 8:3-5).

Khúc Kinh Thánh thuật lại những phép lạ xảy ra trong cuộc đời của người đàn bà Su-nem mặc khải quyền phép đáng kinh sợ của Đức Chúa Trời. Bà chưa có con và chồng bà đã già, nhưng giống như trường hợp của Áp-ra-ham và Sa-ra (Sa 17:1-27), Đức Giê-hô-va đã ban cho họ một đời sống mới và bà đã mang thai, sinh một con trai. Nhưng đứa bé ấy bị bệnh và chết, rồi Đức Giê-hô-va đã gọi cậu bé sống lại. Đức Chúa Trời cho chúng ta được sống động trên thế gian (Thi 66:9), và “Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, và hơi thở của cả loài người” (Giop 12:10).

“Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và có” (Công 17:28). Những nạn đói nhắc chúng ta rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời có thể làm cho thiên nhiên sinh kết quả, sự chết nhắc chúng ta rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời ban sự sống và có quyền cất đi sự sống. “Chẳng có ai cai trị được sanh khí để cầm sanh khí lại; lại chẳng ai có quyền về ngày chết” (Tr 8:8).


• Đức Chúa Trời trong ơn thần hựu cai trị mọi sự trên đất (IIVua 8:5-6).

Ngay giây phút Ghê-ha-xi thuật lại phép lạ đứa trẻ sống lại, mẹ của đứa trẻ đang gặp khó khăn! Bà trở về quê và thấy rằng kẻ lạ đang chiếm đoạt đất đai của bà và hoa lợi của nó trong 7 năm bà vắng mặt. Trong thời đó, dân chúng thường đến gặp trực tiếp vua khi họ gặp những vấn đề tương tự, và vua sẽ quyết định nên phân xử thế nào. Việc Ghê-ha-xi đứng ra làm chứng giúp vua dễ dàng xét xử. Nhiều năm trước, khi con trai bà chết, người mẹ ấy không biết rằng sẽ có một ngày chuyện buồn đó giúp bà giữ được tài sản mình.


Từ “thần hựu” trong tiếng Anh là “providence”, nó xuất xứ từ 2 từ La-tinh, pro và video, hai từ này cùng có nghĩa là “thấy trước, biết trước”. Đức Chúa Trời không chỉ biết chuyện gì sẽ xảy ra; Ngài còn định trước chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai và thực hiện ý định Ngài một cách hoàn hảo. Có lẽ một từ chính xác hơn là “prearrangement” (sắp đặt trước). Không cáh nào thần hựu của Đức Chúa Trời can thiệp vào quyền chọn lựa của chúng ta hoặc trách nhiệm của chúng ta đối với sự chọn lựa của mình và hậu quả của nó. (ISu 29:11; Giop 41:11; Thi 95:3-5; Thi 135:6; Thi 139:13-18; Đa 4:35; Gia 4:13-15).


Tình tiết đáng vui mừng xảy ra trong cung vua nầy mặc khải cho chúng ta bản tánh của Đức Chúa Trời và chuẩn bị chúng ta đối diện với những sự kiện rắc rối xảy ra tiếp theo.

Ha-xa-ên sẽ giết Ben-ha-đát và trở thành vua của Sy-ri. Giê-hu sẽ quét qua xứ và giết vua, các hoàng tử và những thầy tế lễ ngoại đạo khi ông xóa sổ nhà A-háp và sự thờ lạy thần Ba-anh. Hoàng hậu Giê-sa-bên gian ác, Hoàng thái hậu A-tha-li đều sẽ chết và trả giá cho những việc làm gian ác của họ. Một thời điểm rối ren trong lich sử! Tuy vật, Đức Giê-hô-va vẫn trên ngôi của Ngài, trừng trị tội lỗi và làm thành Lời Ngài.

Dù lịch sử xảy ra gì đi chăng nữa, Đức Chúa Trời vẫn nắm quyền kiểm soát. Ngài biết mọi sự và có thể làm mọi sự. Ngài có ở khắp mọi nơi, thực hiện ý muốn của Ngài. Ngài là Đức Chúa Trời thánh khiết, Đấng nhẫn nhịn với tội lỗi nhưng trừng phạt những ai không vâng lời Ngài. Thế gian của chúng ta đang dao động (He 12:25-29), nhưng Đức Chúa Trời của chúng ta là chốn để chúng ta nương cậy mà làm những việc phải lẽ.


2. Sự gian ác của lòng người (IISu 21:1-20) (IIVua 8:7-15)

Khi Đức Giê-hô-va gặp tiên tri Ê-li trên Núi Hô-rếp (IVua 19:8-18), Ngài ban cho ông nhiệm mạng ba trong một: xức dầu cho Ha-xa-ên làm vua Sy-ri, cho Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên, và cho Ê-li-sê làm tiên tri kế nhiệm ông (IVua 19:15-16). Trước khi ông về trời, Ê-li đã làm trọn được một phần trong nhiệm mạng đó, xức dầu cho Ê-li-sê (IVua 19:19-21), nên chúng ta đoán rằng Ê-li-sê sẽ lãnh trách nhiệm làm thành 2 phần còn lại. Giê-hu sẽ trở thành cây roi được Đức Chúa Trời xức dầu để trừng phạt đất nước của các con cháu gian ác và tôn giáo sai lạc của A-háp.


• Sứ mệnh của Ê-li-sê (c.7-13).

Ê-li-sê cần phải có đức tin và lòng can đảm để đi đến Đa-mách. Dù sao, ông cũng từng nhiều lần ngăn trở Sy-ri tấn công các thành biên giới của Y-sơ-ra-ên (IIVua 6:9-12) ông từng sỉ nhục đội quân Sy-ri khi dẫn họ đến Sa-ma-ri và dân Do-thái đã có thể cướp bóc trại quân của họ (IIVua 7:1). Nhưng Ê-li-sê cũng đã chữa lành bệnh phung cho Na-a-man, là một người Sy-ri (IIVua 5:1), khi Ê-li-sê dẫn đoàn quân Sy-ri vào thành Sa-ma-ri, ông đã tỏ lòng nhân từ khoan dung đối với họ và cứu mạng sống họ.


Việc Bên-Ha-đát vua Sy-ri lâm bệnh và muốn được Đức Giê-hô-va giúp đỡ làm cho sự đến của Ê-li-sê càng có ý nghĩa hơn. Một vị vua ngoại bang vô thần đang cần tiên tri của Đức Giê-hô-va giúp đỡ. Hơn nữa, Bên-Ha-đát đã sai Ha-xa-ên, một trong những quan lớn trong triều, đến gặp Ê-li-sê và tặng lễ vật quý giá cho người. Những lễ vật nầy giống như “của hối lộ” và vua hy vọng rằng sự rời rộng của ông sẽ khiến Ê-li-sê cho ông một câu trả lời tốt đẹp.

Nhưng giống như thầy mình, Ê-li-sê không nhận những lễ vật đó (IIVua 5:14-16). Gọi vua Sy-ri là “con trai ông” khi nói chuyện với Ê-li-sê, Ha-xa-ên muốn tỏ lòng tôn kính Ê-li-sê nhiều hơn (IIVua 6:21). Sau đó ông đã hỏi đến vấn đề chính: vua Sy-ri có được khỏi bệnh không?


Dường như Ê-li-sê cố tình trả lời không rõ ràng, vì bản tiếng hy-ba-lai có thể được hiểu là, “Vua chắc sẽ lành bệnh” hoặc “Vua chắc sẽ không lành bệnh” (xem chú thích ngoài lề của bàn NIV). Tiên tri có lẽ muốn nói rằng, “Căn bệnh đó sẽ không làm vua chết, nhưng vua sẽ chết vì một lý do khác”. Nói cách khác, căn bệnh không làm chết người, nhưng vua sắp phải chết.

Là một quan lớn bên cạnh vua, Ha-xa-ên muốn đem tin vui về cho vua, nên ông không nói ra vế sau của thông điệp. Ê-li-sê không nói đối với Ha-xa-ên. Câu hỏi của Ha-xa-ên, “Vua có lành bệnh không?” là câu hỏi “có-không”. Không, bệnh sẽ không giết chết vua, nhưng, có, một điều khác nào đó sẽ giết chết ông. Tuy nhiên, Ê-li-sê không cho biết, “điều khác” đó là gì và khi nào nó xảy ra.


Ê-li-sê nhìn chăm vào Ha-xa-ên, như thể đọc được tâm trí và tấm lòng của ông ta, sau đó tiên tri cất tiếng khóc. Đức Giê-hô-va cho Ê-li-sê thấy bạo lực và máu đổ mà Ha-xa-ên gây ra, những hành động tàn bạo nầy không xa lạ gì trong những cuộc chiến ngày xưa (IIVua 15:16; Os 13:16; Am 1:3-5). Câu trả lời của Ha-xa-ên cho thấy rằng ông nhận biết thân phận thấp kém của mình trong chính quyền và tự hỏi phải nhờ vào đâu ông có quyền làm những việc đó.[1].

Khi tự nhận mình là “một con chó”, ông ta không muốn ám chỉ bản tính xấu xa – “Nhưng kẻ tôi tớ ông là ai, chẳng qua là một con chó đó thôi; sao làm nổi công sự lớn dường ấy?” –nhưng đúng ra ông ta là người tầm thường, một đầy tớ hèn mọn của vua, một người không có quyền hạn lớn như vậy. Câu trả lời của Ê-li-sê làm ông ta kinh ngạc: Ha-xa-ên sẽ có mọi quyền hạn mà ông ta muốn vì ông ta sẽ là vua của Sy-ri. Kinh Thánh không chép, nhưng có thể đây là lúc Ê-li-sê xức dầu thánh cho Ha-xa-ên.

Nếu đúng như vậy, Ha-xa-ên là vua duy nhất của Y-sơ-ra-ên, Vương Quốc phía Bắc, được xức dầu của Đức Giê-hô-va.


Trước khi Ê-li-sê tuyên bố Ha-xa-ên sẽ được làm vua, Ê-li-sê có lẽ đã nhìn thấy âm mưu giết vua trong lòng Ha-xa-ên. Hay lời của tiên tri đã kích động lòng Ha-xa-ên? Dù thế nào đi nữa, Ê-li-sê cũng không trách ha-xa-ên vì những gì Ha-xa-ên quyết định thực hiện.

Ha-xa-ên chấp nhận việc mình sẽ làm vua kế vị, nhưng ông không hỏi bằng cách nào ông được làm vua. Ê-li-sê nói rõ rằng vua đương nhiệm sẽ chết, nhưng không vì căn bệnh của mình. Ha-xa-ên có thể lý luận, “Nếu vua sẽ chết, thì tại sao phải chờ đợi thêm? Tại sao không lấy mạng vua và lên làm vua sớm khi nào tốt khi ấy?”

Khi lòng người nuôi ý tưởng gian ác, nó có thể có mọi cách biện hộ cho mình.

“Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?” (Gie 17:9)


3. Sự thỏa hiệp ngu dại (IISu 21:1-20) (IIVua 8:16-29)

Tác giả lại xây qua nói về Giu-đa, vương quốc phía nam và cho chúng ta biết vua Giô-ram (để tránh nhầm lẫn ta gọi là Giê-hô-ram) đã làm cho dân sự bội đạo và gánh chịu sự trừng phạt của Đức Chúa Trời. Trong vòng 5 năm, Giê-hô-ram cùng nhiếp chính với Cha mình, Giô-sa-phát, khi Giô-sa-phát băng hà, Giê-hô-ram lên ngôi. Giê-hô-ram đã cưới A-tha-li, con gái A-háp, Giô-sa-phát đã hiệp với A-háp đánh dân Mô-áp tại Ra-mốt Ga-la-át (IVua 22:1-54).

Nói cách khác, bức tường ngăn cách giữa triều đại Đa-vít ở Giu-đa và con cháu A-háp ở Y-sơ-ra-ên dần dần sụp đổ.Tương lai của kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời dựa vào sự tồn tại của triều đại Đa-vít, như vậy Giê-hô-ram đang nằm trong tay của kẻ thù. Vì thỏa hiệp với vua gian ác của Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-ram không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời là làm đất nước suy yếu.


• Một vương triều kinh hoàng (c.16-22).

Khi được làm vua, Giê-hô-ram theo gương Giê-sa-bên giết chết hết các anh em mình và tất cả những ai đe dọa đến quyền lực của ông ta (IISu 21:1-7). Cha của ông dành cho mỗi người con mình một thành kiên cố để cai quản, và Giê-hô-ram không muốn họ liên kết chống lại ông. Thay vì kêu gọi các anh cùng cầu nguyện và thờ phượng Đức Chúa Trời tại đền thờ tìm kiếm ơn phước Ngài, ông đã theo cách của A-háp và Giê-sa-bên dùng guơm để cai trị dân sự. Giê-hô-ram muốn gạt các anh mình sang một bên để họ không thể chống đối chính sách thờ thần Ba-anh của ông.Giê-sa-bên đã thắng một lần nữa.


Đức Chúa Trời có thể tiêu diệt vua và nước của vua, nhưng vì Đa-vít, Ngài đã giữ triều đại ấy tồn tại (c.19; IVua 11:36; IVua 15:4; Thi 89:29-37; Thi 132:17). Nhưng Đức Giê-hô-va làm cho Giu-đa gặp nhiều thất bại, kể cả cuộc nổi dậy của dân Ê-đôm và Líp-na (c.20-22; IISu 21:8-11). Đa-vít đã từng đánh bại Ê-đôm (IISa 8:13-14 IVua 11:15-17) nhưng giờ đây họ được tự do và có vua của riêng mình. Lực lượng của Giô-ram đã xâm lấn Ê-đôm nhưng lại bị quân Ê-đôm bao vây và may mắn phá được vòng vây để thoát thân.


• Lời cảnh cáo (IISu 21:12-15).

Chúng ta đã biết rằng tác giả II Các-vua không viết theo trật tự thời gian, đây là một ví dụ.

Tình tiết Ê-li được cất lên trời được ghi lại trong IIVua 2:11, nhưng vua Giê-hô-ram của Giu-đa, con trai Giô-sa-phát, được đề cập trong IIVua 1:17. Điều nầy có nghĩa là Ê-li còn sống và thi hành chức vụ trong những năm đầu thời trị vì của Giê-hô-ram. Chúng ta không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên lên ngôi cho đến những sự kiện được ghi lại trong IIVua 2:1-24, trong đó có sự cất lên trời của Ê-li. Viết thư nầy cho vua Giu-đa có lẽ là một trong những nhiệm vụ cuối cùng của Ê-li. [2]


Tiên tri nhắc Giê-hô-ram nhớ 3 vị vua vĩ đại của Giu-đa:Đa-vít, người đã lập vượng triều, A-sa vị vua tin kính Chúa đã thanh trừ xứ xở gian ác (IVua 15:9-24; IISu 14:1-16:14) và Giô-sa-phát, cha của Giê-hô-ram [3] Thay vì theo gương ba vị vua nầy, Giê-hô-ram đã bắt chước A-háp.

Kết quả, dân sự đã theo gương xấu của ông ta và không khó khăn để ông ta làm cho sự thờ phượng thần Ba-anh trở nên phổ biến ở Giu-đa, là nơi phải thờ phượng một mình Giê-hô-va mà không có sự thỏa hiệp nào.


Giê-hô-ram không chỉ thờ thần tượng, ông còn giết người; ông đã giết chính các anh em mình; nên đã đến lúc Đức Giê-hô-va bắt ông ta phải gặt những gì ông ta đã gieo. Kẻ thù sẽ xâm lấn và cướp phà nước Giu-đa, chiếm đoạt của cải, vợ con của Giê-hô-ram. Sau đó, vua sẽ bị đau đớn vì một căn bệnh nan y và cuối cùng đã chết.

Cả hai điều được tiên báo nầy đều trở thành sự thật. Dân Phi-li-tin và Ả-rập đã xâm chiến Giu-đa, cướp cung điện với những kho của cải của nó, bắt vợ và các con trai của Giê-hô-ram trừ đứa con nhỏ A-ha-xia, còn được biết là Giô-a-cha.

Vua bị bệnh gan ruột rất nặng và qua đời sau đó 2 năm. Nhưng dân chúng không đau buồn vì cái chết của ông ta, họ cũng không tổ chức lễ tang theo truyền thống hoàng gia để tôn vinh ông. Có lẽ điều sỉ nhục nhất là xác của ông không được chôn trong lăng của hoàng gia, dù được chôn ở trong thành Đa-vít. [4]


Sự thỏa hiệp của Giê-hô-ram có đáng bỏ công không? Dĩ nhiên không!

“Có một con đường coi dường chánh đáng cho loài người; Nhưng cuối cùng nó thành ra cái nẻo sự chết” (Ch 16:25).


Thật tiếc thay A-cha-xia, con trai ông, đã theo gương ông, A-cha-xia nầy cũng là hậu duệ của nhà A-háp, vì mẹ ông, A-tha-li là con gái của A-háp. [5] A-cha-xia hiệp với cậu mình, Vua Giô-ram, để chiếm Ra-mốt Ga-la-át khỏi tay Ha-xa-ên, vua Sy-ri, và ở đó Giô-ram đã bị thương. Ông đến cung điện của mình tại Gít-rê-ên để dưỡng thương, vua A-cha-xia đến đó tăm viếng và động viên cậu của mình.

Tại sao tác giả viết lại những chi tiết có vẻ rất bình thường nầy? Để chúng ta biết rằng Đức Giê-hô-va đang tập trung lại những người sẽ bị giết chết vì tỗi lỗi của chính mình. “Việc A-cha-xia đi đến cùng Giô-ram bởi ý Đức Chúa Trời, và gây cho người bị bại hoại” (IISu 22:7). Vua Giu-đa và vua Y-sơ-ra-ên cùng có mặt ở một nơi sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho Giê-hu vâng theo mạng lệnh của Đức Giê-hô-va.


4. Cơ hội bất ngờ (IISu 21:1-20) (IIVua 9:1-13)

Bối cảnh chuyển sang Ra-mốt Ga-la-át, nơi Giu-đa và Y-sơ-ra-ên tập trung lực lượng để chiếm lại thành từ tay người Sy-ri. Một trong những quan tổng binh chủ chốt của Y-sơ-ra-ên là Giê-hu, con trai của Giô-sa-phát, nhưng không phải Giô-sa-phát từng làm vua Giu-đa và là cha của Giê-hô-ram.

Giê-hu không hề hay biết tiên tri Ê-li-sê đã sai một học trò trẻ tuổi của các tiên tri đến xức dầu cho ông làm vua Y-sơ-ra-ên. Đây là nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời giao cho Ê-li (IVua 19:15-16) Thay vì tự mình ra chiến trường, Ê-li-sê đã khôn ngoan giao cho một người trẻ tuổi quyền xức dầu cho Giê-hu nơi riêng tư.Ê-li-sê khuyên người học trò nầy sau khi xong phận sự phải trốn khỏi chỗ đó càng nhanh càng tốt, vì sẽ có một trận chiến lớn xảy ra ở đó.


Giê-hu trong họp với các quan tướng khác khi người học trò ấy đến và xin được gặp riêng ông. Họ đi vào phòng riêng và người học trò đã xức dầu lập Giê-hu làm vua mới cho Y-sơ-ra-ên. Điều gây chú ý là người học trò đã gọi dân Y-sơ-ra-ên là “dân sự của Đức Giê-hô-va” (IIVua 9:6). Dù Y-sơ-ra-ên và Giu-đa là hai nước riêng biệt và đều không vâng theo giao ước, dân sự hai nước vẫn còn là tuyển dân của Đức Chúa Trời và là con cháu Áp-ra-ham. Những giao-ước của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3) và với Đa-vít (IISa 7:1-29) vẫn còn hiệu lực. Dân sự đã xây bỏ Đức Chúa Trời, nhưng Ngài không lìa bỏ họ.


Người học trò không chỉ xức dầu cho Giê-hu, anh ta còn giải thích cho Giê-hu nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời muốn Giê-hu thực hiện. Nhiệm vụ chính của Giê-hu là quét sạch nhà A-háp ở Y-sơ-ra-ên và thi hành ánh phạt của Đức Chúa Trời trên họ vì những người vô tội đã bị họ giết chết. Người học trò ấy còn nhắc đến những tội ác của Giê-sa-bên và án phạt dành cho bà ta, và đề cập những lời mà tiên tri Ê-li nói khi ông đối mặt với A-háp (IVua 21:21-24). Có lẽ các con cháu của A-háp đã quên lời tiên tri nầy, nhưng Đức Chúa Trời không quên, và đã đến lúc lời ấy được ứng nghiệm. Đức Chúa Trời đã diệt trừ nhà Giê-rô-bô-am và Ba-ê-sa thế nào (IVua 15:25-16:7), Ngài sẽ dùng Giê-hu tiêu diệt nhà A-háp y như vậy.


Các quan tướng đang họp lại hôm ấy chắc rắt thắc mắc về người học trò ấy; anh ta là ai và tại sao nói chuyện với Giê-hu cách bí mật như vậy. Có phải anh ta về từ mặt trận? Có thay đổi gì trong kế hoạch chiến đấu không? Khi người học trò ấy rời khỏi đó và chạy vội đi, các quan tướng nghĩ rằng anh ta chắc đã mất trí. Có nhiều đầy tớ của Đức Chúa Trời bị người ta cho là điên rồ, kể cả Phao-lô (Cong 26:24; IICo 5:13) và Chúa Giê-xu (Mac 3:20-21,31-35; Gi 10:20). Thật ra, thế gian hư mất nầy đang điên rồ và dân sự của Đức Chúa Trời là những người tỉnh táo.


Có phải Giê-hu khiêm nhường vì đã không tuyên bố ngay rằng mình là vua? Các quan tướng phải dò hỏi ông, khi họ biết được sự thật, họ đã tán thành và công khai thừa nhận nó. trong phạm vi Kinh Thánh cho biết, Giê-hu là vua Y-sơ-ra-ên duy nhất được xức dầu bởi đầy tớ được xức dầu của Đức Chúa Trời. Cơ hội của Giê-hu đến rất bất ngờ, nhưng ông chấp nhận nó bởi đức tin và ngay tức khắc bắt tay vào hầu việc Chúa.

Một câu ngạn ngữ Trung Hoa nói rằng, “Cơ hội không dễ nắm bắt. Khi nó trôi qua, ta không thể nào bắt kịp”. Là vua thứ mưới của Y-sơ-ra-ên, Giê-hu bắt đầu một triều đại mới và trị vị khoảng 28 năm (IIVua 10:36).


5. Sự đoán phạt chớp nhoáng của Đức Chúa Trời (IISu 22:1-9) (IIVua 9:14-37)

Đây là tình huống khi Giê-hu bắt đầu chiến dịch của mình. A-cha-xia đang trị vì ở Giu-đa và nghe theo lời khuyên của người mẹ gian ác của mình và những lãnh đạo trong nhà A-háp tại Y-sơ-ra-ên. Ba-anh là thần của ông và ông không hề quan tâm đết luật pháp của Đức Giê-hô-va. A-cha-xia đi đến Gít-rê-ên thăm vua Giô-ram đang dưỡng thương sau trận chiến tại Ra-mốt Ga-la-át và không biết rằng Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên một vị vua mới. Giê-hu muốn kẻ thù mình bất ngờ, nên ông và các quan tướng của mình không truyền ra tin ông đã được làm vua.


• Cái chết của Giô-ram (c.16-26).

Gít-rê- ên cách Ra-mốt Ga-la-át khoảng 45 dặm, nhưng Giê-hu có tài cỡi ngựa rất nhanh và lính của ông cũng quen tiến quân với tốc độ báo động trong thời đó. Từ “bình an” được lập lại 8 lần trong phân đoạn nầy (c.17-19,22,31), nhưng tình thế thật là một sự tuyên chiến. Không hề chùn bước, Giê-hu tiếp hai sứ giả và ra lệnh cho họ nhập chung với đoàn quân của mình, và họ đã nghe theo. Tuy nhiên, khi hai sứ giả đều không trở về, Giô-ram bắt đầu nghi ngờ và ra lệnh thắng xe cho ông để dễ bề trốn thoát.


Giô-ram và A-cha-xia mỗi người một xe kéo ra đón đầu Giê-hu. Có lẽ hai vị vua nầy hy vọng rằng Giê-hu đem tin vui từ mặt trận về. Câu hỏi của Giô-ram, “Hỡi Giê-hu, bình an chăng?” hoặc có nghĩa là “Có phải chúng ta thắng trận tại Ra-mốt chăng?” hoặc “Công việc của người ổn thỏa không?” Nếu là vế sau, nó gợi ý rằng Giê-hu có thể đang lơi lõng nhiệm vụ mình trong quân đội, và Giô-ram đang nghi ngờ ông có ý đinh soán ngôi.

Câu trả lời của Giê-hu [6] liền cho vua biết tình hình đang rất căng thẳng, và vua đã tìm cách chạy trốn. Giô-ram cấp báo để A-cha-xia nhanh chân chạy thoát, nhưng sau đó A-cha-xia cũng bị đuổi kịp, còn Giô-ram bỏ mạng vì một mũi tên chính xác của Giê-hu. Những vết thương của Giô-ram vừa hồi phục, nên ông ta không thể mặc áo giáp. Ý Chúa sắp đặt, ông đã chết trên miếng đất của Na-bốt mà A-háp và Giê-sa-bên đã chiếm đoạt sau khi giết chết Na-bốt và các con trai của Na-bốt. Như vậy Đức Giê-hô-va đã làm thành lời tiên tri mà Ngài phán cho Ê-li (IVua 21:18-24).


Giê-hu không chỉ giết chết vua Y-sơ-ra-ên, ông còn giết tất cả các hoàng tử (IISu 22:8).


• Cái chết của A-cha-xia (c.27-29; IISu 22:1-9).

Những phân đoạn Kinh Thánh thuật lại cái chết của A-cha-xia trong IIVua 9:27-29 và IISu 22:7-9 khó tương đồng với nhau, nhưng chúng ta nghĩ ra một viễn cảnh.

A-cha-xia đã bị thương ông ta chạy trốn khỏi Gít-rê-ên (c.27). Ông chạy đến Beth-hag-gan và sau đó rẽ theo hướng tây bắc đến dốc Gu-rơ và thẳng tiến Mê-ghi-đô tìm chỗ trốn Giê-hu. Người của Giê-hu bắt kịp và giết ông ta chết tại Mê-ghi-đô. Các đầy tớ của A-cha-xia đem xác ông về Giê-ru-sa-lem và chôn xác ông chung với các vua, vì ông là một hậu duệ của Đa-vít. Nếu ông không thỏa hiệp, thờ phượng thần Ba-anh, và nghe theo lời khuyên của A-tha-li, mẹ mình, ông sẽ tránh được sự nhục nhã và thất bại nầy.


• Cái chết của Giê-sa-bên (c.30-37).

Không lâu sau Giê-sa-bên và những người trong cung nghe tin Giê-hu đang ở Gít-rê-ên, ông ta làm vua và đã giết chết Giô-ram, con trai bà. Bà giồi phấn, “trang điểm đầu”, và đứng nơi cửa sổ, và đợi Giê-hu lộ diện.

Khi bà thấy Giê-hu bước ra cửa thành, bà gọi, “Hỡi Xim-ri, kẻ giết chúa mình! Bình an chăng?” (c.31). Khoảng 50 năm trước, Xim-ri đã giết chết vua Ê-la chiếm ngôi vua và sau đó tiếp tục tiêu diệt cả nhà Ba-ê-sa (IVua 16:8-20). Vì Xim-ri chỉ trị vì được 7 ngày và chết do tự vẫn, Giê-sa-bên đang muốn cảnh cáo Giê-hu rằng quyền lực của ông sẽ non yếu và sớm kết thúc. Bà cũng muốn gợi ý rằng Giê-hu nên thiết lập liên minh với bà để củng cố ngôi vị của mình.


Nhưng Giê-hu biết nhiệm vụ của ông được Đức Chúa Trời ủy thác. Khi ông muốn thấy lòng trung thành của những người trong cung, có vài người hưởng ứng, họ đã ném Giê-sa-bên qua cửa sổ.

Giê-hu cỡi ngựa giẫm trên xác bà cho đến khi ông biết chắc rằng bà đã chết. Vì bấy giờ ông là vua, Giê-hu đi vào cung và ra lệnh dọn đồ ăn. Khi Giê-hu đang ăn tối, ông nhớ rằng dù là người gian ác, nhưng Giê-sa-bên là một hoàng hậu, con gái của Ết-ba-anh, vua dân Si-đôn (IVua 16:29-31); nên ông ra lệnh đem chôn xác bà.

Nhưng đã quá trễ. Mùi máu người bốc lên kéo lũ chó hoang đến và cắn xé xác của bà, để lại hộp sọ, hai chân, và hai bàn tay. Cảnh tượng thật kinh khủng, nhưng đó là điều tiên tri Ê-li đã tiên báo (IVua 21:21-24). Lời của Đức Chúa Trời không bao giờ qua đi nhưng làm thành mục đích của Ngài trên đất (Es 55:10-11).



 



2. THANH GƯƠM VÀ VƯƠNG MIỆN (IISu 22:10-23:21 IIVua 10:1-11:21)


Nghiên cứu hai chương nầy chúng ta có cảm giác như đang đọc báo buổi sáng hay xem tin tức buổi trưa trên tivi vậy. Bạn sẽ gặp hai người lãnh đạo Giê-hu, một quan tổng binh trong quân đội và giờ đây là người cai trị Y-sơ-ra-ên, vương quốc phía bắc; và Giê-hô-gia-đa, thầy tế lễ cả trong đền thờ Giê-ru-sa-lem ở Vương Quốc Phía Nam.

Khi gặp hai người nầy, bạn sẽ nhận ra một điều là những lực lượng tốt và xấu đang tồn tại trong thế giới của họ cũng đang tồn tại trong thế giới của chúng ta ngày nay.


Bạn cũng nhận ra sự khác nhau giữa những lãnh đạo được thúc đẩy bởi tham vọng ích kỷ và những lãnh đạo được thúc đẩy bởi sự hết lòng vì Chúa. Giê-hu tự hào vì “lòng sốt sắng đối với Đức Giê-hô-va” của ông (IIVua 10:16), nhưng “lòng sốt sắng” là một lớp áo giả hình che giấu tính tự cao và cơn nóng giận thật sự đang thúc đẩy ông. Đức Chúa Trời giao cho Giê-hu một nhiệm vụ quan trọng, nhưng vua đã vượt quá giới hạn cho phép.

Đức Giê-hô-va khen ngợi Giê-hu vì những gì ông ta làm được (IIVua 10:30), nhưng Ngài cũng trừng trị ông ta vì tính kiêu ngạo và thỏa hiệp. Nói đúng ra, nếu không vì tinh thần can đảm phục vụ Chúa của thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa và vợ của ông, Giô-sê-ba, triều đại của Đa-vít đã đi đến chỗ kết thúc. Tương lai của lời hứa Đức Chúa Trời lập với Đa-vít, về kế hoạch cứu rỗi của Ngài, được bao bọc trong một bé sơ sinh có tên Giô-ách.


Chúng ta hãy nhận diện những lực lượng nào đang hành động trong thời đó, những lực lượng ấy cũng đang hành động trong thời đại chúng ta ngày nay.


1. Sự sợ hãi và lời nói nước đôi (IISu 22:10-12) (IIVua 10:1-10)

Nhiều năm trước, Ê-li đã tiên báo rằng dòng dõi của vua gian ác A-háp sẽ bị tận diệt không còn một ai (IVua 21:20-29). Đức Giê-hô-va giao nhiệm vụ nầy cho Giê-hu khi Ngài xức dầu cho ông làm vua Y-sơ-ra-ên (IIVua 9:6-10).

Dù dân tộc bị chia cắt thành hai nước riêng biệt, dân Do-thái vẫn là dân giao-ước của Đức Chúa Trời và các vua của họ không thể làm bất cứ gì mà các vua ấy muốn. A-háp và Giê-sa-bên đưa thần Ba-anh vào thờ lạy trong xứ Y-sơ-ra-ên, khi Giê-hô-ram, vua Giu-đa cưới A-tha-li, con gái của A-háp, ông đã ủng hộ việc thờ lạy thần Ba-anh ở Giu-đa (IIVua 8:16-18). Bởi cuộc hôn nhân tai hại nầy, Giê-hô-ram không chỉ làm Giu-đa suy đồi vì thờ thần tượng, mà còn làm dòng dõi Đa-vít hư mất và gây nguy hại cho sự ứng nghiệm những lời hứa về Đấng Mê-si-a.


Giê-hu đã giết chết Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên và A-cha-xia, vua Giu-đa (IIVua 9:14-29) ông cũng đã giết Giê-sa-bên, vợ gian ác của A-háp (IIVua 9:30-37). Bấy giờ Giê-hu đang thi hành nhiệm vụ “đánh giết” để tìm và giết hết con cháu của A-háp. Thách thức đầu tiên của ông là nắm được quyền kiểm soát thủ đô Sa-ma-ri nơi các con trai của A-háp đang được bảo vệ và dành sẳn ghế trong bộ máy chính quyền. Giê-hu biết rằng lực lượng của ông không dễ gì chiếm được thành có tường bao quanh như thành Sa-ma-ri, nhưng là một nhà chiến lược sắc sảo, ông biết cách để kẻ thù mình phải đầu hàng. Một khi ông chiếm được Sa-ma-ri, những thành phố lớn trong xứ cũng sẽ đầu hàng.


• Sa-ma-ri tiếp nhận vai trò lãnh đạo của Giê-hu (c.1-5).

Giê-hu đang ở Giê-sa-bên (IIVua 9:30) cách bắc Sa-ma-ri khoảng 25 dặm, từ đó, ông liên lạc với các lãnh đạo ở Sa-ma-ri – những viên quan trong cung, tướng lãnh trong quân đội, những học sĩ và các giám hộ của các hoàng tử. Giê-hu biết nếu ông có thể đe dọa những lãnh đạo đáng kính nầy, ông có thể chiếm được thành mà không cần chiến tranh.

Thử thách đầu tiên của ông là bảo họ chọn trong những con cháu của A-háp một người, lập người đó lên ngôi vua và sau đó ra sức bảo vệ vua ấy. Đây có thể là một đề nghị rằng vị vua mới đó hoặc người được chọn đó sẽ chiến đấu với Giê-hu một chọi một, ai thắng sẽ được tất cả (ISa 17:8; IISa 2:9).


Giê-hu còn chỉ ra những thuận lợi của họ: họ đang ở trong thành có tường bao bọc, họ còn có áo giáp và vũ khí cũng như chiến xa và ngựa. Giê-hu đang dùng một xảo thuật mà những cuộc cách mạng đã dùng thành công trong nhiều thế kỷ: lập một kế hoạch táo bạo và làm cho trí tưởng tượng của các lãnh đạo khiến lòng họ lo sợ.

Adoft Hitlerđã viết, “Sự bối rối trong tâm trí, sự mâu thuẩn trong cảm giác, sự hoang mang và do sự: đây là những vũ khí của chúng ta.” Có ba nhóm lãnh đạo khác nhau phải thống nhất trong quyết định nầy, và họ biết rằng Giê-hu đã giết hai vị vua và diệt trừ Giê-sa-bên. Hơn nữa, ông dường như bất bại, vì không ai cản trở bước tiến của ông ta. Thông điệp mà họ gởi đến cho Giê-hu ở Gít-rê-ên là lời xin hàng cách vô điều kiện. Họ hứa làm bất cứ gì Giê-hu yêu cầu và họ đồng ý không chọn vua mới cho mình. Tóm lại, họ chấp nhận Giê-hu làm vua của họ.


• Sa-ma-ri nghe theo lệnh của Giê-hu (c.6-10).

Bấy giờ Giê-hu tỏ ra mình là người hay nói nước đôi. Ông chấp thuận sự đầu hàng của họ và ra lệnh cho họ “cắt đầu” 70 con cháu của A-háp đem đến Gít-rê-ên. Điều nầy có nghĩa là “dẫn tất cả những lãnh đạo trong nhóm ấy đến với ta và chúng ta sẽ thảo lận vấn đề”. Nó có thể có nghĩa là, “hãy chém đầu tất cả 70 người đó và đem đầu họ đến cho ta”.

Các lãnh đạo hiểu theo nghĩa thứ hai, nên họ liền giết chết con cháu A-háp và sai sứ giả đem đầu của những người đó đến Gít-rê-ên. Họ đến đó vào ban đêm và Giê-hu bảo các sứ giả chất các đầu lâu ấy thành đống ở lối vào thành, chắc chắn để cảnh cáo dân Gít-rê-ên rằng đừng nên cản trở Giê-hu.


Nhưng sáng hôm sau, Giê-hu lại tỏ mình là một nhà chính trị bậc thầy khi phủi tay trước mọi tội lỗi! Ông thừa nhận mình đã giết Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên, nhưng vì ông không rời Gít-rê-ên nửa bước, nên ông không thể giết 70 người nầy. Sau đó ông nhắc họ về lời hứa rằng tất cả con cháu của A-háp sẽ bị tận diệt, nên trách nhiệm đặt trên Đức Giê-hô-va và tiên tri Ê-li. Trong một câu nói ngắn gọn, Giê-hu đã phủi tay trước vụ thảm sát ấy và liên kết mình với Đức Chúa Trời và tiên tri Ê-li!


Giê-hu đã làm cái việc mà ngày nay gọi là “nói nước đôi”. Các loại thuế được gọi là “sự tăng thu nhập” và những ổ gà trên mặt đường chỉ là “những thiếu sót nhỏ”. Người ta không còn nghèo khổ nữa, nhưng họ chỉ “hơi túng quẫn” . Những thầy thuốc cho người mẹ sắp sinh uống lầm thuốc rồi làm chết cả mẹ và con. Họ gọi thảm kịch ấy là “sự rủi ro”. Những người nghèo bây giờ chỉ là “những người ít tiền” và binh lính không phải đi giết kẻ thù, họ “đi làm nghĩa vụ”. Đa-vít đã đúng khi viết, “Chúng đều dùng lời dối trá mà nói lẫn nhau, lấy môi dua nịnh và hai lòng mà trò chuyện nhau” (Thi 12:2).


2. Tham vọng ích kỷ (IISu 22:10-12) (IIVua 10:11-17)

Thánh chức của Giê-hu đã trở thành một chiến dịch vì lợi ích cá nhân, bị thúc đẩy bởi tham vọng ích kỷ của ông ta.

Tiểu thyết gia Joseph Conrad đã viết trong lời tựa cho quyển Some Reminiscence, “Tất cả những tham vọng đều hợp pháp trừ phi chúng giày đạp trên những nổi thống khổ và sự nhẹ dạ của con người”. Tham vọng hợp pháp dùng lẽ thật và dựa trên quá khứ, trong khi tham vọng không hợp pháp dùng lời dối trá và hủy hoại quá khứ. Những kẻ độc tài tiêu diệt kẻ thù mình để được an toàn, nhưng khi làm như vậy, họ đã phá hủy quá khứ và thông tin và sự trợ giúp mà họ cần để bước vào tương lai. Cách ngôn Đức có câu, “Mọi con cá chình đều ao ước trở thành con cá với”, và Giê-hu đang tiến trên con đường đó.


• Ông vượt quá giới hạn (c.11-14).

Để chứng tỏ mình có ý muốn vâng theo Đức Chúa Trời và thanh trừ nhà A-háp, Giê-hu đã tiến hành giết hết con cháu của A-háp mà ông ta thấy ở Gít-rê-ên.Nhưng ông không dừng lại ở đó; ông đã vượt quá thánh chức của mình và đã giết những người bạn thân của A-háp, những quan trưởng, những thầy tế lễ phục sự trong cung vua.

Cuộc thảm sát trên quy mô lớn này dựa vào “tội kết giao”. Đức Giê-hô-va muốn xóa sổ nhà A-háp để không còn một ai có thể chiếm lại ngôi vua, nhưng Giê-hu giết chết các bạn của A-háp, các quan chức và các thầy tế lễ là việc hoàn toàn không cần thiết.

Thật vậy, sau nầy Giê-hu đã gặp vấn đề lớn với dân Sy-ri (IIVua 10:22-23) và có thể sử dụng sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những quan chức mà ông ta đã giết chết. Qua sự tàn sát những lãnh đạo cũ, Giê-hu đã tiêu diệt những nguồn nhân lực rất quan trọng với tài năng và sự khôn ngoan về mặt chính trị.


Sau đó ông ta rời Gít-rê-ên và đi đến Sa-ma-ri để công bố vương quyền của mình. Trên đường đi, ông gặp một nhóm người đang đến Giê-ru-sa-lem để thăm vua A-cha-xia, những bà con của họ. Họ không biết rằng vua A-cha-xia, vua Giô-ram và hoàng hậu Giê-sa-bên đã bị Giê-hu giết chết và hiện tại Giê-hu đang nắm quyền. Vì A-cha-xia là con rễ của nhà A-háp (IIVua 8:18), có lẽ cũng hợp lý khi Giê-hu nghĩ rằng bất kỳ người nào có liên quan với A-cha-xia là kẻ thù của ông, nên ông đã giết chết 42 người họ. Nhưng những người nầy không có quan hệ huyết thống với A-háp; họ là con cháu Đa-vít!Giê-hu bấy giờ đang tấn công vào triều đại! (IISu 22:8).


• Ông thu nhận một người bạn (c.15-17).

Giê-hu gặp một đồng minh, Giô-na-đáp người Rê-cáp, và sử dụng người ấy để làm cho những tham vọng của chính mình đáng trân trọng hơn. Người Rê-cáp là một dân tộc thuộc người Kê-nít, con cháu của Hô-báp, anh em vợ của Môi-se (Cac 4:11). Họ được đồng nhất với chi phái Giu-đa (Cac 1:16) nhưng họ vững lòng và vâng giữ những truyền thống mà các tổ phụ của họ để lại (Gie 35:1-19). Họ được người Do-thái kính trọng, nhưng là dân du mục và sống trong lều, người Rê-cáp tách biệt với nếp sống thành thị và những chính sách của dân Do-thái.


Giô-na-đáp là loại người mà Giê-hu cần để cho chiến dịch của ông ta trở nên đáng tin cậy. Khi Giô-na-đáp nắm tay Giê-hu và bước lên xe, ông đã thừa nhận rằng ông hết lòng ủng hộ cho vua. Chắc chắn Giô-na-đáp không tán thành việc thờ lạy thần Ba-anh và vui mừng khi nghe nói nhà A-háp bị diệt trừ. Tuy nhiên, khi ông ta gặp Giê-hu, Giô-na-đáp không biết những động lực đang thúc đẩy vua và những cách làm tàn nhẫn mà ông đang sử dụng.


Người lãnh đạo tham vọng nào cũng cần một người đáng kính bên cạnh để giúp “giới thiệu” những chính sách và kế hoạch của ông cho công chúng. Giê-hu đã giết nhiều người vô tội, giờ đây ông ta còn “lợi dụng” một người vô tội để biến tội lỗi mình trở thành một công việc của Đức Giê-hô-va, thật quá tồi tệ! Nhưng đây lại là cách mà nhiều nhà lãnh đạo vô liêm sĩ thường làm. Câu phát biểu của Giê-hu “xem lòng sốt sắng tôi đối với Đức Giê-hô-va” (c.16) nhắc chúng ta nhớ lời của Ê-li khi ông chạy khỏi Gít-rê-ên đến trốn trong hàng đá (IVua 19:10,14). Tiếng Hy-bá-lai có thể được dịch là “ganh tị” hoặc “sốt sắng”.


Khi Giê-hu và Giô-na-đáp đến Sa-ma-ri cùng với đoàn tùy tùng, Giê-hu xưng mình là vua và dân sự tôn phục ông. Giê-hu đã đe dọa những quan chức trong thành, nên họ không chống đối gì khi ông đi qua cổng thành. Các quan chức trong thành giao cho Giê-hu những người bà con còn lại của A-háp, và Giê-hu đã giết tất cả.


3. Sự dối trá (IISu 22:10-12) (IIVua 10:18-28)

Giê-hu hoàn tất việc trừ khử nhà A-háp khỏi dân sự, như vậy không còn một người nào trong dòng dõi A-háp có thể gây trở ngại cho ngai vàng của ông. Nhưng vấn đề thờ thần Ba-anh trong xứ thì thế nào? Đó là trách nhiệm tiếp theo và ông quyết định dùng sự dối trá làm vũ khí chính cho mình.


Là vua của Y-sơ-ra-ên, Giê-hu phải xử lý những người thờ thần Ba-anh qua một trong ba cách. Ông có thể đuổi họ ra khỏi xứ, hoặc có thể vâng theo Phuc 13:1-18 và giết chết họ. Ông có thể làm cho họ thay đổi, mặc dù sẽ dễ dàng cho họ “cải đạo” nếu để gươm kề cổ họ. Ông cũng có thể ra lệnh phá hủy các đền thờ của thần Ba-anh. Giê-hu được sự ủng hộ như đã hứa của những người lãnh đạo ở Sa-ma-ri (c.5), vậy tại sao ông lại nói dối dân sự và sau đó đã giết chết họ? Đầy tớ của Đức Chúa Trời không được phép “làm sự dữ cho được sự lành” (Ro 3:8 ITe 2:3), nhưng đó lại là cách Giê-hu đã làm. Ông có quyền giết chết những người thờ thần tượng theo luật pháp Môi-se; nhưng tại sao ông nói dối với họ trước khi giết họ?


Ông đã nói dối họ về chính mình, nói rằng ông phụng sự thần Ba-anh nhiều hơn A-háp từng phụng sự. Ông cũng nói dối về sự thờ phượng trong đền thờ thần Ba-anh. Tuy nhiên, đây có lẽ là một trường hợp khác Giê-hu “nói nước đôi”, vì có một “một của tế lễ lớn” cho Ba-anh tức là mạng sống của các tiên tri và những người thờ thần tượng trong đền thờ của Ba-anh!

Giê-hu là một nhà quân sự, cuộc đời ông dành để vạch ra những chiến lược và những cuộc chinh phạt, không giống như Đa-vít, ông không thể đem theo mình đức tin và mục đích làm vinh hiển Đức Chúa Trời trong những cuộc chiến của mình. Giê-hu có lẽ là một người khát máu và thích nổi trội hơn các kẻ thù mình, chúng ta không bao giờ thấy ông tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời trong bất kỳ nổ lực nào của ông.


Trước nhất, ông triệu tập các tiên tri, các đầy tớ và những thầy tế lễ của Ba-anh và ra lệnh cho họ báo tin về một tế lễ lớn cho thần Ba-anh. Đến từ vua thông qua các lãnh đạo tôn giáo, thông báo ấy rất quan trọng và đáng tin cậy. Giê-hu sai sứ giả đi khắp xứ báo tin cho những người thờ thần Ba-anh tham dự buổi dâng tế lễ lớn tại Sa-ma-ri.

Đền thờ của Ba-anh ở Sa-ma-ri được A-háp xây tại Gít-rê-ên (IVua 16:31-32), nên Giê-hu tiêu diệt “nhà A-háp” trong hai nghĩa: “nhà” theo nghĩa tự nhiên hoặc còn gọi là dòng dõi và nhà là đền thờ mà ông xây cho thần Ba-anh.


Khi dân chúng có mặt trong đền thờ, Giê-hu kiểm tra để bảo đảm rằng không có người nào thờ phượng Đức Giê-hô-va lẫn trong đám người thờ thần Ba-anh. Ông bảo những người thờ Ba-anh mặc lễ phục, và ông cùng Giô-na-đáp dặn các thầy tế lễ không được phép cho bất kỳ ai ra khỏi đó (c.23). Giê-hu làm cho dân chúng tin rằng ông muốn có một “buổi thờ phượng trang trọng” để dâng của lễ lớn. Khi những người thờ thần Ba-anh đứng hết trong đến thờ, Giê-hu sai 80 binh lính từ ngoài ùa vào giết chết tất cả ngay sau khi dâng của lễ xong.


Trong bản tiếng Anh, từ “he” ở câu 25 có thể chỉ Giê-hu (như bản tiếng Việt đã dịch) hay chỉ một thầy tế lễ của Ba-anh? Bản NASB và NIV đều cho là Giê-hu, nhưng không biết cách bố trí đền thờ của họ như thế nào và không biết thứ tự buổi thờ phương của họ ra sao, thật khó xác định chính xác “he” nầy chỉ về ai. Làm sao vua đang đứng tại bàn thờ và có thể lẻn ra ngoài ra lệnh mà không bị nghi ngờ? Có thể Giê-hu đã đem các con vật đếm làm tế lễ hôm đó, nếu như vậy, ông ta đã “dâng tế lễ cho thần Ba-anh” dù có dừng trước bàn thờ hay không. Các binh lính giết tất cả những người thờ thần Ba-anh trong đền thờ và ném xác họ ra ngoài. Sau đó binh lính trở vào đền đập phá hết các tượng thần Ba-anh. Nơi thờ lạy thần Ba-anh đã trở thành nhà vệ sinh công cộng.


Kế hoạch của Giê-hu được thực hiện và trong một ngày ông đã xóa sạch sự thờ thần tượng Ba-anh trong xứ. Khi nói dối với dân sự, ông tiêu diệt được nhiều người thờ thần Ba-anh hơn là đi tìm giết từng người một, nhưng đáng tiếc hành động đầu tiên ngay sau khi ra mắt dân chúng ở Sa-ma-ri với cương vị là vua lại là một hành động dối trá. Sau nầy ai còn tin ông nữa?


4. Sự thỏa hiệp (IISu 22:10-12) (IIVua 10:29-36)

Khi mọi chuyện lắng lại, Giê-hu đã trị vị 28 năm, một thời gian khá dài; nhưng ông đã theo gương xấu của Giê-rô-bô-am thờ tượng bò vàng tại Đan và Bê-tên. Bò con được cho là những biều tượng cho Giê-hô-va, nhưng nó cũng chỉ là những thần tượng. Dù ông có lòng sốt sắng cho Đức Giê-hô-va, nhưng trong lòng ông ta, Giê-hu là người thờ thần tượng; ông đã lấy danh Đức Chúa Trời để che lấp những tội lỗi của mình. Với nhiệm vụ mang tín tôn giáo, Giê-hu đã thống nhất được dân tộc và được dân chúng tôn trọng. Giê-hu là một nhà chính trị tài giỏi.


Đức Giê-hô-va khen ngợi về những việc Giê-hu đã làm và thưởng cho ông bằng một triều đại lâu dài nhất trong lịch sử của Vương Quốc phía Bắc hơn 100 năm. Nối tiếp ông có các vua Giê-hô-a-cha, Giô-ách, Giê-rô-bô-am II và Xa-cha-ri, tất cả những vua nầy đều không tốt.Nhưng tiên tri Ô-sê đã công bố rằng Đức Giê-hô-va không đẹp lòng vì Giê-hu đã giết nhiều người vô tội (Os 1:4; Os 2:21).

Giê-hu thiết lập triều đại của mình bằng cách giết vua Giô-ram tại Gít-rê-ên (IIVua 9:15), vì điều nầy Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt ông. “Gít-rê-ên” có nghĩa là “Đức Chúa Trời làm tản lạc” và Ngài sẽ làm tản lạc Vương Quốc phía Bắc khi cho phép dân A-si-ri đánh chiếm họ năm 722 T.C. Chắt của Giê-hu, Xa-cha-ri trì vì chỉ trong 6 tháng và bị Sa-lum ám sát, Sa-lum chiếm ngôi nhưng chỉ trị vì được một thánh. Một triều đại bắt đầu bằng một vụ giết người và kết thúc cũng bằng một vụ giết người.


Trong cuộc đời của Giê-hu, Đức Giê-hô-va đã trừng phạt ông ta. Ngài cho phép dân Sy-ri (A-ram), một kẻ thù lâu đời của Y-sơ-ra-ên chiếm được phần lãnh thổ của các chi phái phía tây sông Giô-đanh. Có kẻ thù sống ngay bên kia sông Giô-đanh, dân Y-sơ-ra-ên chắc gặp nhiều phiền phức. Giê-hu là một binh sĩ tài giỏi nhưng ông phải là người sáng lập giỏi, người ta chỉ nhớ đến ông vì những người ông đã giết chết. Ông có thể triệu tập nhóm người có tài để giúp ông tạo lòng tin trong xứ, nhưng ông giải quyết bằng cách nghe theo đám đông và thờ tượng bò con vàng.


5. Sự trả thù (IISu 22:10) (IIVua 11:1-2)

Chúng ta lại nói về vương quốc Giu-đa ở phía nam, nơi đó ngai vàng đang bỏ trống vì Giê-hu đã giết vua A-cha-xia ở gần Gít-rê-ên (IIVua 9:27-28). Hoàng thái hậu A-tha-li, con gái của A-háp, thừa cơ hội đó đã chiếm ngôi, trị vì được 6 năm. Là người sáng lập ra sự thờ phụng thần Ba-anh ở Giu-đa, bà không muốn nhìn thấy nhà Đa-vít tiếp tục kế vị. Bà tìm cách giết tất cả hoàng tử, nhưng một người còn sống sót. Nhà Đa-vít nhanh chóng bị tiêu diệt.

Khi Giê-rô-bô-am làm vua Giu-đa, ông đã giết tất cả anh em mình và một số hoàng tử của Y-sơ-ra-ên để họ không thể lật đổ ông (IISu 21:4), quân xâm lược Ả-rập đã giết các con trai lớn của Giê-rô-bô-am (IISu 22:1). Giê-hu đã giết một số con cháu của Đa-vít (IISu 22:8), và giờ đây A-tha-li ra lệnh giết hết “dòng dõi vua”. Sa-tan chắc chắn vận hết công lực để ngăn cản Đấng Mê-si-a như đã hứa sinh ra trong dòng dõi Đa-vít tại Bết-lê-hem!


A-tha-li đang trả thù vì tất cả những gì Giê-hu đã làm cho nhà A-háp và những người thờ lạy thần Ba-anh ở Y-sơ-ra-ên. Lấy ác trả thiện là ma quỷ, lấy thiện trả ác là thánh, lấy ác trả ác và thiện trả thiện là con người. Trong thế gian nầy ở đâu có xung đột, bạn sẽ luôn thấy lòng oán giận và sự trả thù.

Như những người thường đọ sức tay đôi để bảo vệ danh dự của mình, các nước cũng đánh nhau để bảo vệ danh dự của họ.Nhưng khi giết hết “dòng dõi vua”, A-tha-li đang chống nghịch Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng đã hứa với Đa-vít rằng từ ông sẽ có một người ngồi trên ngôi ở Giê-ru-sa-lem.


Hầu hết chúng ta không hành động quá đáng như vậy để trả đũa kẻ thù mình, nhưng sự trả thù không phải là chuyện hiếm thấy trong vòng dân sự Đức Chúa Trời. Trong luật pháp, Môi-se căn dặn dân sự không được trả thù (Le 19:18), Sa-lô-môn cũng khuyên tương tự (Ch 20:22; Ch 24:29).

Chúa Giê-xu đã phản đối sự trả thù cá nhân (Mat 5:38-48), Phao-lô cũng vậy (Ro 12:17-21) và Phi-e-rơ (IPhi 3:8-9). Lên kế hoạch trả thù và tiến hành trả thù gây tổn thương cho người trả thù nhiều hơn cho người bị trả thù. Nhiều tác giả nổi tiếng viết về “sự trả thù ngọt ngào”, nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng trả thù rất cay đắng. Một câu châm ngôn Do-thái có nói, “Sự trả thù, dù nhỏ nhất, sẽ đầu độc linh hồn”. Nếu bạn có ý định trả đũa kẻ thù mình, hãy suy nghĩ lại, vì trả đũa kẻ thù là một sự rất xa xỉ.


6. Đức tin và sự can đảm (IISu 22:11-23:11) (IIVua 11:2-12)

Trong khi A-tha-li gian ác giết những người kế vị ngôi Đa-vít, những người trung tín còn sót lại trong Giu-đa chắc đang tự hỏi Đức Chúa Trời đang ở đâu và Ngài đang làm gì. Tại sao Ngài lập giao-ước với Đa-vít mà không giữ nó? Sao Ngài để cho bà hoàng thái hậu nầy làm những việc gian ác và gây nguy hiểm cho tương lai của dòng dõi Đấng Mê-si-a?

Nhưng Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi và các tôi tớ Ngài chuẩn bị hành động. Trong một thế giới mà dường như sự giả dối và tham vọng ích kỷ đang cai trị, vẫn còn có những người như Giê-hô-gia-đa và Giô-sê-ba; họ tin Lời Đức Chúa Trời và can đảm làm theo ý muốn Ngài.


• Sự bảo vệ (c.2-3 IIVua 22:11-12).

Giê-hô-gia-đa là thầy tế lễ cả và Giô-sê-ba, vợ người, là một công chúa, con gái của vua Giê-hô-ram và là chị của vua A-cha-xia, người bị giê-hu giết chết. Một người tin kính Chúa như vậy lại xuất thân từ gia đình ấy là một phép lạ của ân điển Đức Chúa Trời. Biết kế hoạch của A-tha-li, thầy tế lễ và vợ mình bắt trộm hoàng tử Giô-ách, lúc đó mới một tuổi giấu hoàng tử trong phòng cùng với vú nuôi, ban đầu ở trong một căn phòng cũ kỹ và sau đó là trong phòng của đến thờ.

Khi Giô-ách lớn hơn, cậu bé hòa nhập và chơi chung với những trẻ em khác trong khuôn viên đền thờ và không ai nhận ra câu bé Giô-ách ấy là người kế vị ngôi vua [7]


• Sự trình diện (c.4-12; IIVua 23:1-11).

Giê-hô-gia-đa, Giô-sê-ba và người vú nuôi kiên nhẫn chờ đợi thời cơ mà Đức Chúa Trời quyết định, vì đức tin và sự kiên nhẫn luôn đi chung với nhau (He 6:12). “Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Es 28:16). Trong ơn thần hựu của Ngài, Đức Giê-hô-va đã gìn giữ đứa trẻ cũng như 3 người biết Ngài là ai và Ngài đang ở đâu; vì nếu hoàng thái hậu A-tha-li biết việc họ làm, bà ta sẽ giết họ chung với hoàng tử.


Trong thời gian 6 năm chờ đợi đó, thầy tế lễ cả ấy suy nghĩ và cầu nguyện và Đức Giê-hô-va chỉ cho ông cách để lật đổ A-tha-li khỏi ngai vàng đưa Giô-ách lên thay. Trước hết, ông gọi 5 quan cai của những người coi sóc đền thờ đến, rồi đưa hoàng tử ra cho họ gặp mặt và bảo họ thề sẽ vâng theo lệnh của ông và giữ bí mật việc nầy. Sau khi vạch ra kế hoạch, ông sai họ đi khắp nước Giu-đa để truyền lệnh cho tất cả người lê-vi sống xa Giê-ru-sa-lem và các trưởng tộc trong các gia đình Do-thái phải đến Giê-ru-sa-lem trong một ngày lễ Sa-bát đặc biệt. Họ tập trung tại đền thờ như đang thờ phượng Đức Giê-hô-va.


Kế hoạch của Giê-hô-gia-đa thật đơn giản nhưng hiệu quả. Mỗi quan cai chỉ huy nhóm 100 người. Hai nhóm canh gác thường ngày sẽ được thay thế trong ngày Sa-bát, nhưng trong ngày Sa-bát đặc biệt nầy họ vẫn làm nhiệm vụ và bảo vệ vua. Nhóm thứ ba sẽ canh gác cung vua nơi A-tha-li đang sống, như vậy để bà tưởng rằng mình đang được an toàn.

Nhóm thứ tư có nhiệm vụ canh cửa Su-rơ, lối đi từ khuôn viên cung điện đến khu vực đền thờ. Nhóm thứ năm tập trung tại cửa phía sau nhà của lính canh. Không một ai có mặt tại đền thờ có thể nghi ngờ rằng có chuyện lớn sắp xảy ra. Họ thấy những lính canh đi tời đi lui như thường nhật, và điều khác thường là người đến đền thờ đông hơn moi khi.


Cả vua Đa-vít cũng liên quan trong kế hoạch nầy! Thầy tế lễ cả phân phát cho những lính canh vũ khí mà Đa-vít đã thu được trong những trận thắng của mình, với vũ khí ấy lính canh đang bảo vệ người thừa tự của Đa-vít. Chính Đa-vít đã mua miếng đất để xây đền thờ nầy (IISa 24:18) và chính Đa-vít đã cung cấp của cải cho Sa-lô-môn để xây nên đền thờ nầy. Một số của cải xuất từ kho tàng riêng của Đa-vít, phần còn lại là những chiến lợi phẩm thu được từ những cuộc chiến mà ông đánh trận cho Đức Giê-hô-va (ISu 28:1-29:30). Ông đã viết nhiều bài ca cho người lê-vi hát trong giờ thờ phượng, giờ đây ông đang trang bị vũ khí để bảo vệ triều đại của mình.

Đa-vít không chỉ phục vụ cho thời đại của mình (Cong 13:36) mà còn cho mọi thời đại tiếp theo sau. Đây là tấm gương cho chúng ta noi theo.


Khi mọi người ổn định vị trí, Giê-hô-gia-đa dẫn vua 7 tuổi ra trình diện mọi người. Giê-hô-gia-đa đội vương miện trên đầu Giô-ách và trao cho Giô-ách bản sao luật pháp của Đức Chúa Trời mà vua phải vâng theo (Phuc 17:14-20; Phuc 31:26). Thầy tế lễ cả xức dầu cho Giô-ách và dân sự vui mừng chào đón vua của mình. Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa Ngài và đã lập một trong con cháu Đa-vit

1-11 xem giải nghĩa IISu 22:10-12


7. Sự vâng lời (IISu 23:12-21) (IIVua 11:13-21)

Đức Chúa Trời đã bảo vệ vị vua trẻ, giúp Giê-hô-gia-đa và các quan cai có thể đưa vua ra trình diện trước dân chúng, nhưng công việc chưa dừng lại ở đó.


• Sự hành hình A-tha-li (c.13-16; IIVua 23:12-15).

Tiếng tung hô “Vua vạn tuế!” làm A-tha-li bàng hoàng và bà chạy vội ra khỏi cung để xem chuyện gì xảy ra. Điều đầu tiên bà phát hiện là mình đang bị mắc bẫy. Có nhiều lính canh xung quanh cung điện và từ cung điện đến khu vực điền thờ, nên không có cơ hội để bà trốn thoát hoặc để binh lính của bà đến giải cứu bà. Bà vội vã đến sân đền thờ và thấy vị vua trẻ đứng gần cây trụ ở cửa hiên (IVua 7:21), xung quanh có các quan cai bảo vệ. Bà cũng thấy ở đó những thẩy tế lễ, người Lê-vi, binh lính, và cả “dân sự của xứ”, đó là tất cả những cư dân mà của cải, sức lực và tầm ảnh hưởng của họ giữ vai trò rất quan trọng đối với đất nước.


Thật ngược đời khi bà la lên “Phản ngụy! Phản ngụy!” trong khi chính bà là người tạo phản. Giô-ách là hậu duệ của Đa-vít và có quyền lên ngôi, trong khi A-tha-li đã đoạt ngôi và không bất cứ quyền hạn gì với nó. Giê-hô-gia-đa cho 5 quan cai kéo bà ra khỏi khu vực đền thờ và ra lệnh cho các lính canh được quyền giết chết những kẻ nào theo bà.

Khi họ đến khuôn viên cung điện, gần Cửa Ngựa, họ đã giết bà bằng gươm.


• Lòng tận tuỵ của dân sự (c.17 IISu 23:16).

Giê-hô-gia-đa đã trao bản giao ước thành cho vua mới (cầu), nhưng cần cho cả dân sự và vua xác nhận lòng trung thành với nhau và với Đức Chúa Trời.

Y-sơ-ra-ên là một thể chế thần quyền và Đức Chúa Trời là Vua của họ. Vua cai trị họ là đại diện của Đức Chúa Trời, dân sự phải vâng phục vua như họ vâng phục Đức Chúa Trời, vì luật pháp của Y-sơ-ra-ên là luật pháp của Đức Chúa Trời.Y-sơ-ra-ên là dân giao ước, vì tại núi Sa-na-i, các tổ phụ của họ đã thề vâng phục Đức Chúa Trời và Lời Ngài (Xu 18:1-19:25). Không nước nào trên thế gian có mối thông công giao ước với Đức Chúa Trời giống như vậy (Thi 147:19-20).


• Diệt trừ sự thờ lạy thần Ba-anh (c.18-21; IISu 23:17).

Giê-hu đã làm ở Sa-ma-ri thể nào, Giê-hô-gia-đa cũng làm như vậy ở Giê-ru-sa-lem: ông và dân sự phá hủy đền thờ Ba-anh và giết các thầy tế lễ của Ba-anh trước bàn thờ của thần Ba-anh [8] Chắc chắn họ cũng giết những người hướng dẫn trong buổi thờ phượng thần Ba-anh. Họ còn phá đền thờ và đập hết các hình tượng trong nó. Vì A-tha-li và Giê-hô-ram, người chồng thỏa hiệp của bà, con trai họ là A-cha-xia, mà nước Giu-đa đã bị tiêm nhiễm thói thờ thần tượng ít nhất trong 15 năm, giờ đây sự tiêm nhiễm ấy bị vạch trần và xoá sạch.


• Sự phục hồi vương triều Đa-vít (IIVua 11:19-21; IISu 23:20-21).

Đám đông vui mừng hộ tống vua từ đền thờ về cung điện, họ đặt vua lên ngai vàng. Sa-tan nổ lực diệt trừ dòng dõi Đa-vít nhưng nó đã thất bại, và lời hứa về Đấng Mê-si-a vẫn còn hiệu lực. Dân sự đã làm theo ý Đức Chúa Trời và vâng phục Lời Ngài, đây là lần đầu tiên trong nhiều năm qua, sự công bình và bình an ngự trị trong xứ.


• Sắp xếp các chức việc trong đền thờ (IIVua 11:18b IISu 23:18-19).

Qua IIVua 12:1-21 chúng ta thấy rằng đền thờ của Đức Giê-hô-va bị bỏ bê và sỉ nhục trong thời A-tha-li nắm quyền. Giê-hô-gia-đa lập tức bắt tay vào cứu chữa tình trạng nầy theo như thứ tự mà Đa-vít đã làm (ISu 23:1-26:32) sắp đặt những thầy tế lễ và người Lê-vi vào từng vị trí thích hợp.

Điều quan trọng là họ giữ việc dâng của lễ mỗi ngày choĐức Giê-hô-va và dâng lời ca ngợi Ngài. Cũng cần phải cho người canh gác các cửa đền thờ để không có người ô uế nào được bước vào đền thờ và làm vẩn đục những người thờ phượng khác. Sự phục hưng đơn giản là sự vâng theo Lời Đức Chúa Trời và làm theo những gì Ngài phán dặn cho các tổ phụ chúng ta. Chúng ta không cần những điều mới lạ trong hiện tại, chúng ta cần những điều thực tế trong quá khứ.


Khi Đức Chúa Trời bắt đầu khôi phục sự thờ phượng chân chính tại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, Ngài bắt đầu ở cặp vợ chồng tận tâm với người thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa và Giô-sê-ba, vợ người. Họ thu nhận người vú nuôi để chăm sóc cho Giô-ách, Đức Chúa Trời bảo vệ 4 người họ trong 6 năm. Sau đó Giê-hô-gia-đa tuyển một thêm 5 quan cai, và 5 người nầy đã tập trung được 500 binh lính của họ. Những thầy tế lễ sống rải rác, người Lê-vi, dân sự trong xứ đã hiệp làm một vì sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va và một lòng vâng theo Lời Ngài. Tội lỗi được thanh trừ, ý muốn Đức Chúa Trời được thành tựu và danh Đức Giê-hô-va được cả sáng!


Đức Chúa Trời có thể làm lúc ấy, Ngài cũng có thể làm ngày hôm nay nhưng chúng ta phải tin rằng Ngài có cách của Ngài.



 



3. NHẤN MẠNH VÀO ĐỨC TIN (IISu 24:1-27 IIVua 12:1-13:25)


Có một nguyên tắt được nhiều người biết đến đó là điều người ta tin sẽ quyết định cách người ta cư xử. Ê-va tin lời nói dối của ma quỉ rằng bà sẽ không chết; bà ăn trái cấm, và cuối cùng đã chết. Với cái nhìn của mình, A-đam tin rằng mình nên bắt chước vợ, nên ông ta đã cầm lấy trái cấm và ăn nó; ông đã nhấn cả nhân loại vào tội lỗi và sự chết (Sa 3:1-24; Ro 5:12-21; ITi 2:14).

Khi chúng ta tin lẽ thật, Đức Chúa Trời ủng hộ chúng ta, nhưng khi chúng ta tin nơi sự dối trá, ma quỷ sẽ chống lại chúng ta. Khi Chúa Giê-xu bị ma quỷ cám dỗ, Ngài đối chiếu lời dối trá của Sa-tan với lẽ thật của Đức Chúa Trời và nói rằng, “có lời chép rằng” (Mat 4:1-11). Ba vị vua được nhắc đến trong hai đoạn nầy minh họa cho những loại đức tin khác nhau, mà dân sự Đức Chúa Trời ngày nay không nên có loại nào trong số đó.


1. Giô-ách - đức tin nông cạn (IISu 23:1-27) (IIVua 12:1-21)

Trong thí dụ về người gieo giống (Mat 13:1-9 18-23), Chúa Giê-xu giải thích rằng, theo quan điểm thuộc linh, có 4 loại tấm lòng, chúng đáp ứng hạt giống là Lời Đức Chúa Trời theo 4 cách khác nhau. Khi người có tấm lòng khô cằn nghe lời Chúa, hạt giống không thể len vào, nên Sa-tan lấy nó đi. Người có tấm lòng nông cạn nhận lãnh Lời Chúa nhưng không có chỗ cho nó bám rễ, nên mầm mọc lên nhưng không sống được lâu. Cây không thể mọc và sinh bông trái nếu nó không bám rễ.

Những người có tấm lòng chật hẹp nhận hạt giống nhưng mầm của nó chết ngạt vì cỏ dại um tùm mà lẽ ra phải bị nhổ đi. Người có tấm lòng sinh bông trái là người lương thiện, biết ăn năn, hiểu Lời Đức Chúa Trời và bám chặt Lời Ngài bằng đức tin. Khi nói về đức tin, Giô-ách là người có đức tin nông cạn. Chúng ta cùng xem qua những giai đoạn trong trải nghiệm thuộc linh của Giô-ách.


• Vâng phục (c.1-3 IISu 24:1-3).

Giô-ách lên ngôi vua khi mới được 7 tuổi (IIVua 11:4), cai trị một thời gian dài 40 năm. Dĩ nhiên một đứa trẻ 7 tuổi không thể nào cai trị cả một đất nước, nên thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa làm người giám sát và cố vấn cho vua. Giô-ách là một học trò chăm chỉ, và suốt những năm được Giê-hô-gia-đa dạy bảo, vua vâng phục Đức Giê-hô-va.

Khi vua trưởng thành và kết hôn, chính Giê-hô-gia-đa đã cưới cho Giô-ách hai người vợ. Cả Đa-vít và Sa-lô-môn đều đã gặp nhiều vấn đề phức tạp vì có quá nhiều người vợ thiếu khôn ngoan, nên thầy tế lễ cả chỉ cho Giô-ách cưới hai vợ.Điều quan trọng là Giô-ách đã xây dựng lại dòng dõi Đa-vít, vì nhà Đa-vít gần như bị tiêu diệt hết bởi Giê-hô-ram (IISu 21:4), Giê-hu (IIVua 10:12-14), quân A-rập xâm lược (IISu 22:1), và Hoàng hậu A-tha-li (IIVua 11:1).


Điều duy nhất mà Giô-ách và Giê-hô-gia-đa không làm là dẹp những nơi cao ở Giu-đa, các điện thờ ở địa phương mà dân sự đến thờ phượng Đức Giê-hô-va. Họ phải di đến đền thờ để thờ phượng (Phuc 12:1-32), nhưng trong những ngày tăm tối dưới sự cai trị của A-tha-li, đền thờ bị bỏ bê và gần như đổ nát. Tuy nhiên, Giê-hô-gia-đa và vua Giô-ách sẽ hướng dẫn dân sự sửa chữa đền thờ để họ có một nơi tốt thờ phượng Đức Giê-hô-va.

Những người tin kính ở Giu-đa chắc chắn rất vui mừng khi có một hậu duệ biết vâng lời của Đa-vít lên ngôi. Điều họ không biết là đức tin của Giô-ách rất nông cạn, ông vâng lời Đức Chúa Trời chỉ vì muốn làm vui lòng Giê-hô-gia-đa. Giô-ách là một môn đồ xuất sắc nhưng không phải là một lãnh đạo giỏi. Khi Giê-hô-gia-đa qua đời, Giô-ách đã đi theo conđược mình và không vâng phục Đức Giê-hô-va nữa.


• Tranh chiến (c.4-16; IISu 24:4-14).

Rõ ràng dân Giu-đa thấy Giê-hô-gia-đa tin kính đứng đằng sau ngai vàng, điều nầy đã cho họ có cảm giác an ninh. Nhưng khi vua trưởng thành trong tuổi tác và kinh nghiệm, vua chắc chắn rất bất mãn vì sự sắp đặt nầy. Người trẻ tuổi thường muốn tự do và tự ý quyết định, mong muốn nầy ắt hẳn rất mãnh liệt trong Giô-ách bởi quyền lực mà ông đang nắm giữ. Nhưng với sự điều hành của Giê-hô-gia-đa, Giô-ách có thể nói như vua Đa-vít, “Ngày nay hãy còn yếu, dẫu rằng ta đã chịu xức dầu lập làm vua” (IISa 3:39).


Thật không dễ dàng cố vấn cho vị vua trẻ và biết khi nào cần nới lỏng và xiết chặt dây cương. Ba mẹ biết điều nầy khi nuôi dạy con mình từ khi chúng còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Có lẽ Giê-hô-gia-đa nhận quá nhiều trách nhiệm và không giao nhiệm vụ cho Giô-ách dần dần.

Nói cách khác, có lẽ Giê-hô-gia-đa nắm dây cương lâu như vậy vì ông nhận thấy sự yếu kém trong tư cách của Giô-ách và muốn dành thời gian cho Giô-ách sửa chữa. Có thể đây chỉ là “vấn đề phát sinh”. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra, vua quyết định thoát khỏi sự điều khiển của thầy tế lễ cả và bắt đầu khẳng định quyền hành của mình. Sự tu sửa đền thờ là trọng điểm trong kế hoạch đòi tự do của Giô-ách.


Chắn chắn Giô-ách và Giê-hô-gia-đa đã bàn luận với nhau về nhu cầu tu sửa đền thờ, nhưng vì lý do nào đó, thầy tế lễ cả nầy không nhiệt tình xúc tiến công việc ấy. Tuổi già có thể là một yếu tố. Chúng ta không biết Giô-ách bao nhiêu tuổi khi Giê-hô-gia-đa truyền lệnh sung những khoảng dâng cho đền thờ vào quỹ xây sửa đền thờ (c.4-5). Khoảng dâng nầy bao gồm tiền thu được từ cuộc tu bộ (Xu 30:11-16; Dan 2:32), tiền khấn nguyện của cá nhân (Le 22:18-23; Le 27:1), và tiền từ những của lễ chuộc sự mắc lỗi (c.17 Le 5:14-6:17). Nhưng kế hoạch nầy không thành, có lẽ vì các thầy tế lễ đã lấy những nguồn tài chính nầy làm quỹ mà họ cần để duy trì các tổ chức trong đền thờ và để đáp ứng nhu cầu riêng của họ. Về vấn đề tu bộ, các thầy tế lễ và người Lêvi có lẽ vẫn nhớ cuộc tu bộ của Đa-vít đã làm cho cả xứ bị trừng phạt (ISu 22:1-19).


Kinh Thánh không cho chúng ta biết Giô-ách phải chờ đợi bao lâu để Giê-hô-gia-đa hành động, nhưng khi ông được 30 tuổi và trị vì 23 năm, vua đã quyết định tự mình hành động. Ông triệu tập Giê-hô-gia-đa và thận trọng khiển trách các thầy tế lễ vì không làm tròn công việc. Ông cũng nói với thầy tế lễ cả rằng chính ông sẽ trực tiếp lo việc xây lại đền thờ.

Các thầy tế lễ có thể giữ khoảng tiền của họ theo đúng Luật Pháp Môi-se, vì nguồn quỹ cho dự án xây dựng nầy sẽ là những khoản dâng tự nguyện từ dân chúng. Giê-hô-gia-đa cho những thầy tế lễ và người Lê-vi, những người đang vui mừng, biết rằng thu nhập của họ sẽ không được dùng trong việc khác và rằng họ không phải lo gì cho việc tu sửa đền thờ nữa. Từng trải qua những chương trình xây dựng đền thờ, tôi có thể thông cảm với họ!


Sự sắp xếp rất đơn giản và nó được thực hiện. Giô-hô-gia-đa chuẩn bị một thùng lạc hiến lớn, đặt nó trong đền thờ gần bàn thờ cạnh lối vào, và kêu gọi dân sự đóng góp cho việc tu sửa đền thờ. Dĩ nhiên có người canh gác để mắt đến hộp tiền đó. Khi người ta thấy dự án nầy được vua giám sát và được giao cho các tín hữu thực hiện, người ta sẽ được khích lệ và dâng nhiều hơn. Họ biết rằng tiền họ dâng sẽ được trực tiếp dùng vào việc tu sửa đền thờ, không phải được dùng vào những việc khác, nên họ dâng rời rộng. Vua Giô-si-a đã bắt chước theo cách nầy khi ông tu sửa đền thờ khoảng gần 200 năm sau đó (IIVua 22:1-7).


Tuy nhiên, Giô-ách không loại các thầy tế lễ ra khỏi dự án nầy, vì việc đếm tiền và phân phối tiền là trách nhiệm của những đại diện của vua và thầy tế lễ cả (c.10). Dù ông không biết, nhưng Giô-ách đang làm theo nguyên tắc về con người của Phao-lô và đảm bảo mọi việc được tiến hành công khai và thẳng thắn (IICo 8:16-24). Những nhân công phải trung thực và ngay thẳng để không ai dùng tiền sai mục đích và phí phạm, một điều gây khó khăn cho những người kiểm tra sổ sách. Dự án duy nhất mà họ tính là thay thế những đồ dùng bằng vàng và bạc trong đền thờ (IISu 24:7), nhưng đủ tiền để dùng cho nhu cầu đó (IISu 24:14).


Những tín hữu ngày nay biết rằng Đức Giê-hô-va không ở trong những tòa nhà thờ hay trong bất kỳ công trình kiến trúc nào (Gi 4:23-24; Công 7:48-50; Công 17:24), nhưng điều nầy không có nghĩa là cung hiến những công trình xây dựng để làm nơi thờ phượng Đức Chúa Trời và làm vinh hiển danh Ngài là việc làm sai trái.

Những Hội thánh đầu tiên không có nhà thờ riêng nhưng nhóm họp tại nhà và những nơi công cộng gần nhất như đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Một số thánh đồ ngày nay chống đối việc xây dựng đền thờ và cho rằng việc ấy rất lãng phí, trong khi những người khác lại tôn sùng ngôi nhà thờ của mình và làm cho trật tự ưu tiên của họ bị đảo lộn. Campbell Morgan nêu bật vấn đề nầy trong lời nhắc nhở:


Trong khi nhà của Đức Chúa Trời ngày nay không còn mang tính vật chất nhưng mang tính thuộc linh, vật chất vẫn còn là một biểu tượng rất thật của thuộc linh. Khi Hội thánh Đức Chúa Trời được xây dựng tuỳ tiện không chú ý đến chỗ nào nhóm họp, chỗ nào thờ phượng và chỗ nào sinh hoạt, đó là bằng chứng cho thấy đời sống của nó đang trong thời kỳ suy tàn. [9]


Tôi nhớ có một tối Chúa nhật tôi đang giảng cho một Hội thánh đang nhóm hiệp trong một nhà thờ hư nát đến nỗi nó gây cảm giác ngượng ngùng cho các tín hữu và cả những khách mời mà họ dẫn đến. Tôi không biết nhà riêng của tín hữu ở đó như thế nào, có nhà ai tồi tàn như vậy không (Ag 1:1-6).

Tôi hỏi một trong các lãnh đạo Hội thánh tại sao họ không tu sửa nhà thờ, và anh ta trả lời với giọng nói mỉa mai, “À, hầu hết ngân sách của chúng tôi được đổ vào những hội truyền giáo ở nước ngoài. Và ông biết những nhà truyền giáo đã làm gì với số tiền chúng tôi dâng vào không? Họ sửa chữa những ngôi nhà thờ của họ!” Đó không phải là vấn đề cho quê nhà hay cho nước ngoài, nhưng là vấn đề về sự cân đối.

Như tiến sĩ Oswald J. Smith từng nói, “Ánh sáng chiếu ra xa nhất sẽ chiếu sáng nhất ở nhà mình”. Một chủ tịch hội truyền giáo ở nước ngoài nói với tôi, “Tôi mất đến 10 năm để biết rằng Công 1:8 không dùng từ hoặc nhưng dùng từ và. Đức Chúa Trời không đánh đổ mọi thứ ở quê nhà để xây dựng cho nước ngoài”. Thật có phước cho những người biếi cân đối!


• Sự từ bỏ (c.17-18 IISu 24:15-22).

Giê-hô-gia-đa đã qua đời ở tuổi 130. Ông được dân chúng yêu quý và được chôn chung trong lăng mộ của các vua (IISu 24:15-16). Nhưng khi Giê-hô-gia-đa không còn, vua Giô-ách đã bộc lộ con người thật của mình và chối bỏ đức tin. Sự bội đạo của ông không phải là lỗi của Giê-hô-gia-đa, vì thầy tế lễ cả nầy đã trung tín dạy Lời Chúa cho Giô-ách.

Vấn đề là đức tin của Giô-ách nông cạn và ông ta muốn làm vui lòng những người lãnh đạo trong nước, “các quan trưởng Giu-đa”, là những người đến thăm Giô-ách yêu cầu ông nhân nhượng hơn trong vấn đề tôn giáo (IISu 24:17-18). Ông đã nhẹ dạ nghe theo họ, một lần nữa sự thờ thần tượng lại du nhập vào Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.


Sự bội đạo của Giô-ách là tội cố ý chống nghịch Đức Chúa Trời, vì vua biết Luật pháp Môi-se dạy gì về sự thờ lạy thần tượng. Nhưng nó cũng là tội vô ơn đối với tất cả những gì Giê-hô-gia-đa đã làm cho ông. Giê-hô-gia-đa và vợ đã cứu mạng sống vua! Thầy tế lễ cả nầy đã dạy vua lẽ thật của Lới Đức Chúa Trời và luôn bên cạnh vua từ những ngày vua tập tành cai trị đất nước. Nhưng vua không bao giờ để lẽ thật ấy vào trong lòng mình và cho nó đâm rễ. Tấm lòng ông là miếng đất nông và ông vâng luật pháp của Đức Chúa Trời chỉ vì có người giám sát đang theo dõi ông. Ông còn lấy của cải của đềnthờ mà ông sửa chữa để mua chuộc vua ngoại bang!


Giô-ách là một bài học cảnh giác cho chúng ta ngày nay. Biết lẽ thật của Đức Chúa Trời thôi không đủ; chúng ta phải tận tâm vâng phục lẽ thật đó (Eph 6:6). Lẽ thật trong trí có thể sinh ra sự vâng lời, nhưng lẽ thật trong lòng và sự vâng phục từ lòng sẽ sinh ra bản tánh tin kính. Lời Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài phải được tiếp nhận ăn sâu vào trong lòng (Thi 119:9-11) nếu không chúng ta không thể nào tăng trưởng phẩm chất Cơ-đốc phù hợp. Trước khi bổn phận và sự rèn thử trở thành niềm vui, chúng ta chỉ là những đầy tớ miễn cưỡng, vâng phục Đức Chúa Trời chỉ vì chúng ta phải làm chứ không phải vì chúng ta muốn làm. Giê-hô-gia-đa là một “cột trụ” mà vua dựa vào. Khi chỗ dựa ấy không còn, vua sa ngã.


Trong suốt hơn 50 năm chức vụ, tôi thường chứng kiến “thảm kịch của Giô-ách”. Một người vợ tin kính qua đời, người chồng liền bỏ sự nhóm lại và bắt đầu cuộc sống rất đời. Các con trai và con gái họ bỏ học và dần dần chối bỏ đức tin vì ba và mẹ không ở bên cạnh để khuyên răn và dạy bảo. Tôi biết một vài người lãnh đạo Cơ-đốc “dùng” các con họ trong chức vụ, nhưng khi chúng bắt đầu cuộc sống độc lập, chúng xây lưng với ba mẹ chúng và Đức Chúa Trời. Một khởi đầu tốt không đảm bảo cho một kết cuộc tốt.

Vua Giô-ách có sự ủng hộ bên cạnh để sống tin kính, nhưng ông không tận dụng những cơ hội của mình để đặt để lẽ thật của Đức Chúa Trời trong lòng. Khi Đức Giê-hô-va sai tiên tri đến cảnh tỉnh ông, ông không chịu nghe. Ông còn âm mưu với các quan tướng của mình để khiến Xa-cha-ri, con trai Giê-hô-gia-đa, bị ném đá đến chết với tội dám quở trách vua vì tội lỗi của vua. [10] Giô-ách đã giết con trai của người đã cứu mạng mình!


• Sự khốn khổ (c.19-21; IISu 24:23-27).

Khi vua Giu-đa thờ thần tượng và giết người, Đức Giê-hô-va bắt đầu trừng phạt ông. Đầu tiên Đức Chúa Trời sai các tiên tri đến cảnh cáo Giô-ách, nhưng ông không nghe. Sau đó Ngài sai dân Sy-ri, kẻ thù lâu đời của Giu-đa, tranh chiến với Giu-đa (IIVua 8:7-15; IIVua 10:32-33; IIVua 13:3,22), và Giô-ách bị thương nặng trên chiến trường. Cuối cùng Giô-ách phải lấy của cải của đền thờ để hối lộ cho Ha-xa-ên để ông ta không tấn công Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, Giô-ách không hồi phục vết thương, vì hai trong số những quan tướng của ông đã ám sát ông vì ông đã ra lệnh giết chết Xa-cha-ri, con trai Giê-hô-gia-đa [11] IIVua 24:26 cho chúng ta biết rằng hai người nầy là các con trai của hai người đàn bà ngoại bang, một người Mô-áp và một người Am-môn. Dân Mô-áp và Am-môn là con cháu của Lót qua mối quan hệ loạn luân với hai con gái ông (Sa 19:30-48). Người ta chôn Giô-ách ở Giê-ru-sa-lem nhưng không phải trong lăng mộ của các vua mà thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa đã được chôn (IISu 24:25,26).


Giô-ách có một khởi đầu tốt đẹp nhưng có kết thúc đáng buồn chính vì ông từ bỏ đường lối của Đức Giê-hô-va.Chúng ta không biết tiên tri Ê-xê-chi-ên có nghĩ đến Giô-ách hay không khi ông viết câu Kinh Thánh trong Exe 18:24-32.


2. Giô-a-cha - đức tin dao động (IISu 23:1-27) (IIVua 13:1-9)

Đoạn Kinh Thánh nầy chuyển bối cảnh sang Y-sơ-ra-ên với thời trị vì của con trai Giê-hu là Giô-a-cha. Không có gì ngạc nhiên khi ông chọn Giê-rô-bô-am làm tấm gương cho mình, vì cha của ông cũng tương tự như vậy (IIVua 10:29). Giô-a-cha thờ tượng bò vàng thay vì thờ Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng khi ông thấy mình gặp khó khăn, ông đã xây lại nhờ Đức Giê-hô-va cứu giúp.


Dân Y-sơ-ra-ên không bất ngờ khi Đức Giê-hô-va sai quân Sy-ri đến tấn công họ, vì dân sự biết rõ những điều khoản trong giao ước của Đức Chúa Trời đã lập với họ trước khi họ vào đất hứa Ca-na-an. Nếu họ vâng lời Chúa, Ngài sẽ giúp họ đánh thắng các kẻ thù, nhưng nếu họ không vâng theo Chúa, Ngài sẽ khiến họ thất bại trước kẻ thù (Le 26:17,25,33,36-39; Phuc 28:25-26,49-52). Dân sự vẫn tin lời dối trá của Sa-tan, “Ngươi chẳng chết đâu” (Sa 3:4). Kẻ thù dụ dỗ, “Hãy làm bất cứ những gì ngươi thích, vì tội lỗi không gây ra hậu quả nghiêm trọng gì đâu”. Nhưng hoặc trừng phạt, hoặc ban thưởng, Đức Chúa Trời luôn làm đúng theo Lời Ngài phán ra.


Tình hình trở nên khó khăn đến nỗi Giô-a-cha phải kêu cầu Đức Chúa Trời giúp đỡ, y như cách Y-sơ-ra-ên thường làm trong thời các quan xét (Cac 2:10-23). Đức Chúa Trời trong sự nhân từ Ngài đã nghe và nhậm lời cầu xin của vua và hứa sẽ sai người đến giải cứu nhưng chỉ sau khi Giô-a-cha không còn nữa (c.22).

Ha-xa-ên qua đời và con trai ông là Bên-Ha-đát lên thay, vua mới nầy không mạnh như cha mình, nên Y-sơ-ra-ên đã thoát được sự kìm kẹp của Sy-ri.

Những sử gia không thống nhất với nhau về vấn đề ai là người giải cứu nầy. Một số người cho rằng đó là dân A-si-ri, vì họ đã tấn công Sy-ri trong thời Bên-Ha-đát và làm suy yếu sức mạnh của ông ta. Những người khác thì nghĩ rằng người giải cứu nầy là một hoặc cả hai người kế vị của Giô-a-cha, Giô-ách (c.25) và Giê-rô-bô-am II (IIVua 14:25-27). Câu “Y-sơ-ra-ên được ở lại trong trại mình” (c.5) có nghĩa là “họ sống trong hoà bình và không phải tìm chỗ ẩn núp trong các thành có tường bao bọc”.


Có phải ơn phước mà Đức Chúa Trời hứa ban đã làm vua thay đổi? Có thể không, vì ông không dẹp bỏ các thần tượng ra khỏi xứ mình (c.6 IVua 16:33) cũng không khuyên dân sự trở về với Đức Giê-hô-va. Đức tin dao động không sâu sắc cũng không tồn tại được lâu dài. Một khi người ta thấy được hy vọng phía trước và nỗi đau của họ được xoa dịu, họ liền quên Đức Chúa Trời và trở về với con đường cũ của mình cho đến khi khó khăn khác xảy đến. Dân Sy-ri bỏ Giô-a-cha lại với một đội quân tan rã, đáng xấu hổ hơn là đáng khích lệ. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa rằng nếu dân sự Ngài tin cậy Ngài và vâng theo Lời Ngài, các kẻ thù của họ sẽ phải tan tác trước họ (Phuc 28:7; Phuc 32:30; Le 26:8).


• Nhưng đức tin dao động thật không đáng tin cậy.

Rất nhiều lần tôi nghe những bệnh nhân nằm viện nói, “Mục sư ơi, nếu Đức Chúa Trời chữa lành cho tôi và đem tôi khỏi đây, tôi sẽ là một Cơ-đốc nhân tốt nhất mà ông từng gặp”. Đức Chúa Trời chữa lành cho họ và cho họ về nhà, nhưng tôi không bao giờ gặp mặt họ lần nào trong nhà thờ. Đúng vậy, có những kiểu “tin Chúa trong khó khăn” và “tin Chúa khi hấp hối”, chúng ta không muốn làm nản lòng những người muốn quay về với Đức Chúa Trời trong những lúc khốn khó. Sử gia người Anh, William Camden đã viết, ”Giữa những lúc nguy khốn, tôi cầu xin cứu giúp, tôi tìm kiếm ơn lành.”


Nhưng đã bao nhiêu lần chúng ta kêu cầu Chúa trong hoạn nạn và quên Ngài khi đã bình an? Người nào dựa vào đức tin hay dao động nên lưu ý những lời cảnh tỉnh trong Ch 1:24-33; Es 55:6-7, đừng nên nghĩ rằng vì Đức Chúa Trời nghe và cứu giúp họ, thì tất nhiên họ sẽ được lên thiên đàng.


3. Giô-ách (vua Y-sơ-ra-ên) - đức tin ngu muội (IISu 23:1-27) (IIVua 13:10-25)

Vì lý do nào đó mà cái chết của Giô-ách được đề cập hai lần, một lần trước khi sử gia thuật lại cuộc đời của ông (c.12-13) và lần thứ hai ở cuối câu chuyện (IIVua 14:15-16). Chiến thắng của ông trước A-ma-xia, vua Giu-đa, cũng được đề cập trước khi nó được mô tả chi tiết hơn (IIVua 14:8-14; IISu 25:1-28). Nhưng điều quan trọng nhất về Giô-ách là ông đủ hiểu biết để đến thăm Tiên tri Ê-li-sê và được ông chúc phước. Chúng ta cũng xem qua 5 sự kiện về Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên.


• Ông theo gương xấu (c.10-13).

Giống như cha mình, ông đã theo gương xấu của Giô-rô-bô-am I, vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên. Điều nầy có nghĩa là ông đã thờ tượng bò con vàng. Và, giống như cha mình, ông trở về với Đức Giê-hô-va chỉ khi ông gặp khó khăn. Dân Sy-ri vẫn đang nắm quyền kiểm soát và tiên tri Ê-li-sê đang bệnh nặng sắp về với Chúa.


• Ông có một quyết định khôn ngoan (c.14).

Chúng ta không được biết gì về Ê-li-sê từ IIVua 9:1, khi ông sai một môn đồ của các tiên tri đến xức dầu cho Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên. Như vậy có nghĩa là hơn 40 năm im lặng kể từ lần cuối Ê-li-sê được nhắc đến, tuy nhiên Ê-li-sê vẫn thi hành chức vụ trong xứ và Đức Giê-hô-va đồng hành với ông. Giờ đây ông đã già và sắp qua đời, vua Y-sơ-ra-ên đến thăm ông.

Ít nhất chúng ta cũng có lòng tin nơi Giô-ách khi ông ta viếng thăm tiên tri và tìm kiếm sự giúp đỡ của ông. Ê-li-sê có nói cho Giô-a-cha rằng Đức Chúa Trời sẽ sai đến một người giải cứu (c.4-5) không? Giô-ách con trai ông có phải là người giải cứu đó? Chỉ một mình Ê-li-sê biết kế hoạch của Đức Chúa Trời và vua đã khôn ngoan khi đến viếng thăm ông.


Thật đáng tiếc khi không đánh giá đúng giá trị của người lãnh đạo thuộc linh nhưng tán dương họ sau khi họ qua đời. Người Pha-ri-si thà xây mồ đẹp cho người chết hơn là tỏ lòng biết ơn người đang sống (Mat 23:29-32). Những đầy tớ trung thành của Đức Chúa Trời không bao giờ “bỏ cuộc” dù cho họ có thể từ bỏ năng khiếu cả đời của mình và xây lưng khỏi những hoạt động công khai. Ngay trên giường hấp hối, Ê-li-sê vẫn đang phục sự Đức Chúa Trời và dân sự Ngài. Miễn là Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sức lực và sự khôn ngoan, chúng ta sẽ hầu việc Ngài hết sức mình trong đường lối mà Ngài mở ra cho chúng ta.

Tôi thật biết ơn vì “những tôi tớ dày dạn” luôn cố vấn và khuyến khích tôi, và những ký ức về cuộc đời và chức vụ của họ vẫn là một ơn phước đối với tôi (He 13:7-8).


Vua tỏ lòng kính trọng tiên tri và còn xưng hô với ông bằng chính từ mà Ê-li-sê dùng để xưng hô với Ê-li trước khi Ê-li được cất lên trời (IIVua 2:12). Ê-li-sê giống như một người cha của dân tộc và còn quan trọng hơn tất cả các đội quân của họ! Ê-li-sê biết rằng Giô-ách đang gặp khó khăn vì quân Sy-ri và đã dùng tất cả sức lực còn lại của mình để giúp vua. Thật, Giô-ách là vị vua thỏa hiệp, không vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng Giê-hô-va là “Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực” (Xu 34:6). Ngài hứa giải cứu dân sự Ngài và Ngài sẽ giữ lời. Nhưng Ê-li-sê cho Giô-ách biết lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được thành tựu khi vua biết thể hiện một đức tin khôn ngoan.


• Ông phạm một lỗi lớn (c.15-19).

Vua Giô-ách không phải là người có đức tin, nhưng ông có thể nghe theo những chỉ dẫn. Tuy nhiên, ông thiếu nhận thức và sự khôn ngoan thuộc linh mà con người phải có khi sống trong thế gian nầy và bước đi bằng đức tin. Khi tiên tri Ê-li-sê đặt tay mình trên tay vua, đây là dấu hiệu cho thấy ông đang truyền sức mạnh từ Đức Chúa Trời cho vua. Khi Ê-li-sê bảo vua giương cung bắn về vùng đất người Sy-ri đang kiểm soát, ông muốn nói đến sự chiến thắng trên kẻ thù đó (Phuc 32:42; Thi 120:4). Rất có thể vua hiểu rõ điều nầy vì Ê-li-sê cho ông biết một lời hứa rõ ràng về sự chiến thắng.


Nhưng khi Ê-li-sê bảo vua lấy mũi tên đập xuống đất, ông ta không có sự am hiểu thuộc linh mà ông cần để thực hiện trọn việc ấy. Nếu ông ta là người trung tín thờ phượng Đức Chúa Trời hằng sống, ông ta sẽ hiểu lẽ thật nhưng ông mù quáng giống như những thần tượng hay chết mà ông ta đã thờ lạy (Thi 115:3-8)

Bắn một mũi tên bảo đảm sự chiến thắng, nhưng số lần ông đập mũi tên xuống đất là số lần Đức Chúa Trời ban cho ông chiến thắng. Vì Giô-ách có một đức tin ngu muội, ông đã tự giới hạn mình để rồi chỉ thắng quân Sy-ri ba lần.


Dù đang bệnh nặng, tiên tri Ê-li-sê đã nổi giận với vua vì sự ngu dốt và vô tín của vua. Giô-ách đã đánh mất cơ hội tiêu diệt hoàn toàn các kẻ thù mình!

“Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy” (Mat 9:29)

Chỉ biết và vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hiểu ý muốn và đường lối của Ngài (Eph 5:17; Thi 103:7). Những điều răn và việc làm của Đức Chúa Trời mặc khải cho chúng ta bản tánh của Đức Chúa Trời nếu đôi mắt thuộc linh chúng ta mở ra (Eph 1:17-20). Đây là cách chúng ta hiểu được đường lối của Đức Chúa Trời và biết cách hầu việc Ngài tốt hơn, đây là cách Đức Chúa Trời làm đức tin chúng ta lớn mạnh.


• Ông nhận được sự khích lệ lớn (c.20-21).

Khi Ê-li-sê qua đời, vua lo lắng vì sợ lời hứa của ông sẽ chết theo ông. Để động viên vua, Đức Giê-hô-va đã làm một phép lạ sau khi Ê-li-sê qua đời. Người Do-thái không ướp xác như người Ê-díp-tô. Họ chỉ tắm cho xác và bọc nó trong vải liệm chung với hương liệu.

Một ngày kia, khi quân Mô-áp tiến đến, đoàn quân gặp phải một đám tang chắn lối. Thấy quân Mô-áp, tang quyến liền liệng xác chết vào mồ của Ê-li-sê và bỏ chạy. Nhưng Đức Chúa Trời nhân dịp đó để khiến người chết ấy sống lại! Chắc chắn phép lạ nầy được truyền miệng trong dân chúng và có thể vua được nghe người chúng kiến tận mắt kể lại. Phép lạ nầy muốn nói với vua rằng dù tiên tri Ê-li-sê đã chết, Giê-hô-va vẫn là Đức Chúa Trời hằng sống và là Đức Chúa Trời quyền năng. Lời hứa của Ngài chắc chắn thành tựu.


Tiên tri Ê-li không bao giờ chết nhưng được cất lên trời (IIVua 2:11-12), nhưng tiên tri Ê-li-sê đã chết và được chôn. Tuy nhiên Ê-li-sê đã làm phép lạ dù đã chết. Đức Chúa Trời có những kế hoạch khác nhau cho mỗi tôi tớ Ngài và việc của chúng ta không phải là đi so sánh người này với người khác hoặc nghi ngờ việc làm của Đức Chúa Trời (Gi 21:19-23).


• Ông chiến thắng ba trận (c.22-25).

Quân Sy-ri quyết tâm tiêu diệt Y-sơ-ra-ên và biến nó thành một phần trong đế quốc của họ, nhưng Đức Giê-hô-va có những chương trình khác. Giao-ước Ngài với các tổ phụ (Sa 12:1-3) ân điển Ngài dành cho con cháu họ đã khiến Ngài đoán xem sự đau đớn của Y-sơ-ra-ên và giải cứu họ khỏi các kẻ thù. Chỉ khi dân sự phạm tội quá mức đến nỗi họ báng bổ danh Đức Giê-hô-va và làm ô uế đất của Ngài, thì Đức Chúa Trời cho phép cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa thất trận và làm nô lệ cho kẻ thù. Năm 722, quân A-si-ri chiếm vương quốc Y-sơ-ra-ên ở phía bắc, và năm 586, Giê-ru-sa-lem sụp đổ dưới tay người Ba-by-lôn. Dân Giu-đa trở về xứ mình sau 70 năm lưu đày, nhưng Y-sơ-ra-ên vẫn còn bị đồng hóa trong đế quốc A-si-ri.


Vua Giô-ách thắng ba trận lớn trước quân Sy-ri, điều nầy đủ để ông có thể lấy lại các thành đã bị Ha-xa-ên và Bên-Ha-đát chiếm, sau đó Giê-rô-bô-am II lấy lại được toàn bộ xứ. Đức Giê-hô-va giúp Giô-ách nâng cao sức mạnh quân sự của mình (c.7) và thắng hơng quân Sy-ri dưới sự lãnh đạo của Bên-Ha-đát III.

Lời hứa của Đức Chúa Trời trở thành sự thật và dân sự của Đức Chúa Trời được dung thứ. Suốt thời trị vì của Giô-ách và Giê-rô-bô-am II, nước Y-sơ-ra-ên đạt đến đỉnh điểm của nó và trong xứ được thành vượng. Nhưng, với tất cả những thành tựu và sự giàu có của nó, nó vẫn là xứ đầy dẫy thần tượng và tội lỗi. Suốt thời trị vì của Giê-rô-bô-am II, tiên tri Ô-sê và A-mốt chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên. Khi chúng ta đọc các sách của họ, chúng ta sẽ thấy tình trạng thật của đất nước.



 



4. CHÍN VỊ VUA – NĂM CUỘC MƯU SÁT (IISu 25:1-27:9 IIVua 14:1-15:38)


“Lịch sử chính trị đầy sự gian ác và bệnh hoạn, nên không phải là một đề tài nghiên cứu thích hợp cho thanh niên” lời của nhà thơ W. H. Auden. Edward Gibbon, tác giả quyển The Decline and Fall of the Roman Empire, định nghĩa lịch sử “không gì hơn một quyển sách ghi lại những tội ác, những hành động ngu dại, và những bất hạnh của nhân loại”. [12]


Lịch sử được ghi nhận trong 5 đoạn nầy có vẻ nhất trí với Anden và Gibbon, vì trong nó đầy dẫy những âm mưu, sự chém giết, sự suy đồi đạo đức và sự chống nghịch luật pháp Đức Chúa Trời. Y-sơ-ra-ên ngày xưa không khác gì với xã hội ngày nay. Không một vua nào của Y-sơ-ra-ên khuyên dân sự mình ăn năn và tìm kiếm Đức Chúa Trời; ở Giu-đa, A-ma-xia và A-xa-ria đều chạy theo tham vọng mình, điều đó làm Đức Chúa Trời giận và trừng phạt dân sự.

Khi Giê-rô-bô-am II trở thành vua Y-sơ-ra-ên năm 782 T.C, dân sự mới nhận ra một chút ít rằng trong 60 năm, vương quốc của họ sẽ không còn nữa. Khi chúng ta theo dõi 9 vị vua nầy, chúng ta có thể biết được ý muốn và đường lối của Đức Chúa Trời cũng như cái giá kinh khủng của tội lỗi.


1. A-ma-xia, vua kiêu ngạo (IISu 25:1-28) (IIVua 14:1-20)

A-ma-xia là vua thứ chín của Giu-đa [13] và là con trai của Giô-ách, vị vua lên ngôi khi còn nhỏ, về sau đã xây bỏ Đức Chúa Trời, giết tiên tri của Đức Chúa Trời, và cuối cùng bị ám sát (IIVua 24:15-16). A-ma-xia đã có một khởi đầu tuyệt với, nhưng về sau ông từ bỏ Đức Chúa Trời và cũng bị ám sát (IIVua 14:17-20) [14] Ông đã xử tử những người đã giết vua cha mình, và vâng theo Phuc 24:16, ông chỉ giết người người có liên quan không giết hết gia đình họ [15] Ông tiếp tục vâng theo Lời Đức Chúa Trời, cuộc đời và vương triều của ông chắc đã có nhiều khác biệt. Chúng ta cùng xem một vài tội lỗi của ông.


• Vô tín (IIVua 14:7 IISu 25:5-13).

A-ma-xia quyết định tấn công Ê-đôm và chiếm lại những vùng lãnh thổ đã bị mất (IIVua 8:20-22). Kế hoạch không tồi, nhưng cách ông thực hiện có sự sai sót nhất định. Ông kiểm tra quân số mình và đếm được 300.000 quân, thay vì tin cậy Đức Chúa Trời sử dụng lính của mình, ông đã mướn 100.000 lính đánh thuê từ Y-sơ-ra-ên để tăng cường lực lượng.

Đức tin của ông đặt nơi số lượng quân lính không phải nơi Đức Chúa Trời (Thi 20:7), nhưng tệ hơn nữa là những binh lính mà ông mướn là những người Y-sơ-ra-ên bội đạo, một dân tộc thờ tượng bò con vàng.Đức Chúa Trời sai một tiên tri đến quở trách vua và cảnh cáo rằng Đức Chúa Trời không ở cùng nước Y-sơ-ra-ên, nên các lính thuê nầy chỉ mang về thất bại. 

“Còn nếu vua muốn đi, thì hãy đi đi, khá làm cho mình mạnh mẽ mà chinh chiến đi; Đức Chúa Trời sẽ khiến vua ngã trước mặt quân thù; vì Đức Chúa Trời có quyền giúp cho thắng và cũng có quyền làm cho sa bại” (IISu 25:8).

Tiên tri nầy nói giọng mỉa mai nhưng ông đã nêu rõ ý chính của mình.


Một trong những chủ đề lập đi lập lại trong lịch sử Y-sơ-ra-ên là tội lỗi của họ vì liên minh với các dân ngoại đạo bởi họ không tin nơi Đức Chúa Trời. Sa-lô-môn đã cưới những người vợ ngoại đạo và bởi đó lập giao ước với các láng giềng, nhưng những người vợ nầy đã dẫn dụ ông thờ lạy thần tượng (IVua 1:1-53). Vua A-háp cưới Giê-sa-bên, một công chúa nước Phê-ni-xi và là người thờ thần Ba-anh (IVua 16:30-33), việc nầy đã đưa thần Ba-anh vào thờ lạy trong nước. Vua Giô-sa-phát liên kết với A-háp tấn công Sy-ri và suýt chết. Giô-sa-phát cũng giao dịch mua bán với vua A-cha-xia, nhưng Đức Giê-hô-va đã đánh vỡ tàu của Giô-sa-phát để bẻ gãy mối quan hệ đó.

“Chớ mang ách chung với kẻ chẳng tin” (IICo 6:14) là lời nhắc nhở mà chúng ta phải lưu tâm và làm theo. Để phát lộ quyền năng và ân điển của Đức Chúa Trời và làm thành ý muốn của Ngài, chúng ta phải khác với thế gian không phải bắt chước thế gian và hợp nhất với thế gian.


Theo IISu 25:2, A-ma-xia không hết lòng trong mối tương giao của ông với Đức Giê-hô-va, điều nầy được bộc lộc trong cách ông tranh luận với tiên tri về ý muốn của Đức Chúa Trời (IIVua 25:9). Vua không muốn trả các lính thuê về vì như vậy xem như ông mất không 100 ta-lâng bạc cho vua Y-sơ-ra-ên. Số lượng nầy tương đương với 4 tấn bạc.A-ma-xia đang “toan tính thiệt hơn”, điều chỉnh thứ tự ưu tiên của mình, và hy vọng ông có thể thay đổi được ý định của Đức Chúa Trời. Tiên tri đối đáp khôn ngoan rằng Đức Chúa Trời có thể ban cho vua nhiều hơn nếu vua chỉ tin cậy một mình Ngài và vâng phục ý muốn Ngài (Mat 6:33).


Nếu chúng ta tìm kiếm ý muốn Đức Giê-hô-va trước khi chúng ta vội vã không vâng lời, chúng ta sẽ tránh được nhiều rắc rối; nhưng dù sau đó chúng ta thay đổi quyết định và vâng theo Chúa, thì thường vẫn có hậu quả đáng buồn mà chúng ta phải chịu. Những binh lính trở về Y-sơ-ra-ên trong giận dữ vì bị đối xử như vậy. Tại sao họ nổi giận?

-Thứ nhất, họ đánh mất cơ hội làm lợi cho mình từ những chiến lợi phẩm. Hơn nữa, vua Giu-đa là ai nói rằng Đức Chúa Trời xem trọng quân đội Giu-đa hơn quân đội của Sa-ma-ri? Lính đánh thuê trở về quê hương với hai tay trắng là một điều đáng xấu hổ, và chưa bao giờ xảy ra! Làm thế nào họ có thể giải thích với vua và người thân ở quê nhà rằng đội quân của họ bị khước từ? Để giải tỏa cơn giận ấy họ quyết định tấn công vào một số thành ở vùng biên giới phía bắc Giu-đa. Họ đã giết chết hàng ngàn người và cướp bóc của cải ở đó như một sự đền bù (IIVua 25:13) [16]


-Vì cuối cùng vua A-ma-xia đã vâng theo lời Đức Chúa Trời, quân đội của vua đã đánh bại dân Ê-đôm. Họ giết chết mưới ngàn người trong trũng Muối, nơi Đa-vít từng thắng một trận lớn (ISu 18:12), Sau đó họ tiêu diệt mười ngàn tù nhân chiến tranh bằng cách ném họ xuống từ các đỉnh cao của thành Sê-la (Petra), là một thành cắt ngang một ngọn núi (Obad. 1-4). Quá phấn khởi với chiến công của mình, vua đã đặt tên lại cho thành nầy là “Giốc-then” có nghĩa là “Đức Chúa Trời tiêu diệt” (IIVua 14:7).


• Thờ thần tượng (IIVua 25:14-16).

Andrew Bonar, người Xcốt-len nói, “Chúng ta phải cảnh giác sau thắng lợi giống như trước khi bước vào trận chiến”, đây là lời nhắc mà vua A-ma-xia cần phải lưu ý. Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho đầy tớ Ngài một chiến thắng vang dội trước kẻ thù hùng mạnh ở trong một địa điểm khó khăn, nhưng A-ma-xia đem những thần tượng của kẻ chiến bại về Giu-đa (IISu 25:14-16)! Chắc chắn vua Giu-đa không nghĩ rằng việc lấy đi những thần tượng nầy sẽ làm tê liệt dânÊ-đôm và ngăn chặn những cuộc chiến trong tương lai! Mọi người Do-thái đều được dạy rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống duy nhất, như vậy các thần tượng của các nước là hư không (Phu 6:4-5 Thi 115:1-18).

Thờ lạy thần tượng là vi phạm đến Luật pháp Môi-se (Xu 20:1-6), và việc thờ những thần tượng của kẻ chiến bại thật quá vô lý. Xét cho cùng, các thần tượng ấy đã làm gì được cho người Ê-đôm? Tuy nhiên A-ma-xia bắt đầu thờ các thần của Ê-đôm, dâng của lễ cho họ và cầu vấn họ.


Khi Đức Giê-hô-va sai sứ giả Ngài đến cảnh cáo vua, A-ma-xia đã ngắt lời và dọa giết chết tiên tri nếu ông còn dám mở miệng. Nhưng tiên tri nói một lời cuối: Đức Chúa Trời sẽ diệt trừ vua vì tội lỗi vua. Thật ra, Đức Chúa Trời sẽ để cho vua tự diệt mình! Hình phạt lớn nhất mà Đức Chúa Trời có thể giáng trên con người là cho họ tự ý đi theo con đường riêng của mình.


• Kiêu ngạo (IIVua 14:8-14; IISu 25:17-24).

A-ma-xia đánh thắng dân Ê-đôm vì đã vâng theo Đức Chúa Trời, nhưng sau đó Ê-đôm đã đánh bại A-ma-xia khi ông đem các thần tượng của họ về xứ mình. Tự hào vì chiến thắng mà không để ý gì đến tội lỗi mình, vua A-ma-xia tìm các nước khác để tiếp tục chinh phục và ông quyết định thách thức Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên. Ông không chỉ bỏ ngoài tai lời cảnh cáo của tiên tri mà Đức Chúa Trời sai đến, ông còn quên luôn lời của Sa-lô-môn, tổ phụ mình, ”Trước khi sự bại hoại, lòng người vẫn tự cao; Song sự khiêm nhượng đi trước sự tôn trọng” (Ch 18:12).

Ngay cả vua Giô-ách cũng cảnh cáo ông rằng sự kiêu ngạo của ông sẽ hủy diệt ông (IIVua 14:10), nhưng A-ma-xia nhất định tiến đánh Y-sơ-ra-ên và muốn trở thành vua của một nước thống nhất.


Câu trả lời của Giô-ách (IIVua 14:9; IISu 25:18) nhắc chúng ta nhớ câu chuyện mà Giô-tham đã kể (Cac 9:7-20), cả hai đều đối diện với tính kiêu ngạo và sự trừng phạt. Vấn đề của A-ma-xia là kiêu ngạo:ông tự thấy mình là cây tùng vững chãi, trong khi thực tế ông chỉ là một cây dại yếu ớt dẽ dàng bị thú rừng giày xéo. Người thật sự hạ mình nhìn nhận mọi việc như Đức Chúa Trời nhìn nhận và không sống trong những ảo tưởng của nó.Kiêu ngạo làm mù tâm trí, bóp méo tầm nhìn và như vậy thổi phồng cái tôi mà người ta không thể nói ra lẽ thật từ sự tưởng tượng.


Không nghe theo lời cảnh cáo thứ hai của Đức Chúa Trời, A-ma-xia tiến quân xâm chiếm Y-sơ-ra-ên và quân đội của ông đã thất bại hoàn toàn ở đó. Ông bị bắt dẫn đi đoạn đường 50 dăm từ Giê-ru-sa-lem xuống cung điện và đến nhà tù. Quân Y-sơ-ra-ên chiếm Giu-đa và phá huỷ 600 feet tường thành Giê-ru-sa-lem, bỏ lại thành ấy trong cảnh suy yếu để dành cho những cuộc tấn công sau nầy.

Họ cũng cướp các kho tàng của cung điện và của đền thờ Đức Chúa Trời, họ còn bắt các lãnh đạo làm con tin. Vua A-ma-xia bị lưu đày đến Sa-ma-ri khoảng 15 năm (IIVua 14:17) sau đó trở về Giê-ru-sa-lem cùng nhiếp chính với con trai mình (IIVua 14:21; IISu 26:1,3). Nhưng sự thờ lạy thần tượng của ông đã gây rắc rối cho các lãnh đạo và họ lập mưu ám sát ông. A-ma-xia trốn đến La-ki rồi bị bắt và giết chết ở đó (IIVua 14:18-20; IISu 25:27).


A-ma-xia là một hình ảnh buồn của lịch sử Do-thái. Ông có được nhiều cơ hội và kinh nghiệm nhiều về sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, nhưng ông là người hai lòng, không toàn tâm toàn ý hầu việc Đức Chúa Trời. Ông tự có chương trình riêng và không để thời gian tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời. “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Ch 16:18).


2. Giê-rô-bô-am, vua thịnh vượng (IISu 25:1-28) (IIVua 14:23-29)

Đến đây Kinh Thánh chuyển hướng sang Y-sơ-ra-ên và vua Giê-rô-bô-am II. Vua có triều đại lâu nhất của Y-sơ-ra-ên, 41 năm. Ông không phải là vị vua tốt khi nói về những vấ đề thuộc linh, nhưng ông đã làm cho đất nước hưng thịnh và đánh đuổi được nhiều kẻ thù. Ngày xưa, người dân bình thường không quan tâm đến tính cách của những người lãnh đạo đất nước miễn là dân chúng có cái ăn, có tiền trong túi, và không sợ bị kẻ thù xâm lược.


Nhờ những chiến thắng của A-si-ri trên Sy-ri, cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa được thoát khỏi sự kìm kẹp của kẻ thù lâu đời, cả hai có cơ hội nguồn tái chánh và nhân lực của mình vào những công trình xây dựng thay vì vào những cuộc chiến. Y-sơ-ra-ên có thể đuổi quân Sy-ri ra khỏi các đơn vị đóng quân dọc biên giới và cũng lấy lại được phần lãnh thổ bị mất vào tay Sy-ri. Nước Y-sơ-ra-ên lại có được diện tích như thời Sa-lô-môn (c.25,28 IVua 8:65). Đức Giê-hô-va cho họ được thành công như vậy không phải vì dân sự hay vua của họ xứng đáng, nhưng vì Ngài thương xót dân sự Ngài đang phải chịu sự cai trị của người Sy-ri (IIVua 14:26; IIVua 2:23-25).


Nhưng sự hưng thịnh của Y-sơ-ra-ên chỉ là một lớp áo che giấu những tội lỗi và tội ác ghê tởm trong mắt Đức Chúa Trời. Các tiên tri A-mốt (Am 1:1) và Ô-sê (Os 1:1) thi hành chức vụ trong thời Giê-rô-bô-am cảnh cáo rằng sự trừng phạt sắp xảy đến cho dân sự. Sự trừng phạt thật đã xảy đến vào năm 722 T.C., khi quân A-si-ri xâm lược Y-sơ-ra-ên, bắt nhiều người Do-thái đi lưu đày và đen người Ngoại bang từ các nước khác vào sống trà trộn chung với dân Y-sơ-ra-ên.

Việc làm nầy đã sinh ra một chủng tộc hổn tạp, nửa Y-sơ-ra-ên nửa Ngoại bang, cũng như một tôn giáo ngoại lai có đền thờ và hội đồng tế lễ riêng của nó đặt trên núi Gerizim (Gi 4:20-22). Sau thời gian bị lưu đày đến Ba-by-lôn, dân Do-thái chính thống, là những người trở về Giu-đa, sẽ không có quan hệ gì với người Sa-ma-ri (Exo 4:1-4; Ne 2:19-20; Gi 4:9).


Những tội lỗi của người thịnh vượng nầy là gì? Trước hết, người giàu luôn muốn giàu hơn bằng mồ hôi nước mắt của người nghèo. Những địa chủ giàu có ít khi nào quan tâm đến những đầy tớ của mình, các quan tòa không vâng theo luật pháp và thường thiên vị kẻ giàu, đối xử bất công với người nghèo. Ở giữa sự tham nhũng suy đồi đó, những người lãnh đạo sinh hoạt tôn giáo, tham gia các buổi thờ phượng, và dâng của lễ (Am 2:1-8; Am 4:1-5). Trong khi người giàu và vợ con họ sống xa hoa, người nghèo bị chà đạp và bị cướp đi quyền công dân (Am 6:1-7; Os 12:8). Những người “mộ đạo” chờ đợi “ngày Đức Giê-hô-va”, và nghĩ rằng biến cố quan trọng ấy sẽ càng đem vinh quang về cho Y-sơ-ra-ên (Am 5:18-27). Dân sự không biết thật ra “ngày Đức Giê-hô-va” có nghĩa là sự đoán phạt thành sẽ giáng trên đất nước, vì sự đoán phạt của Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu ở chính dân sự của Ngài (IPhi 4:17).

Y-sơ-ra-ên bị dẫn dụ vào con đường thờ thần tượng, vì vậy đạo đức họ suy đồi và đời sống họ tha hóa (Os 6:4; Os 7:8; Os 9:9; Os 11:7; Os 13:2) [17] Giê-rô-bô-am II cai trị từ 793 đến 753, và năm 722 T.C. dân A-si-ri xâm lược Y-sơ-ra-ên và đặt dấu chấm hết cho nước Y-sơ-ra-ên.


Nhà văn và nhà soạn kịch người Anh, Oliver Goldsmith nói trong bài thơ The Deserted Village của mình

Ill fares the land, to hast’ning ills a prey,

Where weath accumulates, and the men decay…

(Đất xấu không làm lòng người trở nên xấu; Nhưng nơi nào có sự dư dật, con người lại suy đồi…)


3. Ô-xia (A-xa-ria), vua nổi danh (IISu 26:1-23) (IIVua 15:1-7).

Tên A-xa-ria có nghĩa là “Giê-hô-va hằng giúp đỡ”, nhưng khi ông lên ngôi năm 16 tuổi, ông lấy tên là Ô-xia, có nghĩa là “Giê-hô-va là sức mạnh”. Dân sự lập ông làm vua sau khi cha ông là A-ma-xia bị bắt đến Sa-ma-ri sau khi dại dột gây chiến với Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên (IIVua 14:13).


Suốt 15 năm cha mình bị cầm tù ở Sa-ma-ri, Ô-xia cai trị Y-sơ-ra-ên và tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời. Sau khi vua cha băng hà, Ô-xia tiếp tục ngồi trên ngôi cho đến khi ông dại dột muốn làm thầy tế lễ và Đức Chúa Trời giáng bệnh phung trên ông để trừng phạt ông.

Theo ghi nhận Ô-xia là vua Giu-đa trong 52 năm (IISu 26:3), kể cả thời gian đồng nhiếp chính với A-ma-xia, cha ông (15 năm) và với Giô-tham, con trai ông (khoảng 10 năm).


Từ ngày đầu mới lên ngôi, Ô-xia tỏ ra là người trung tín thờ phượng Đức Giê-hô-va, dù ông không nổ lực dẹp bỏ những “nơi cao”, những ngôi đền mà dân sự đã thờ phượng. Họ phải đến đền thờ với những lễ vật và của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va, nhưng sẽ thuận lợi hơn khi đến một ngôi đền gần nhà. Một số nơi cao vẫn còn dành cho các thần tượng của dân ngoại, như thần Ba-anh (IISu 27:2), và mãi cho đến thời của Ê-xê-chia và Giô-si-anhững nơi cao ấy mới được dẹp bỏ (IISu 31:1; IIVua 23:1-36).


Những thành tựu của Ô -xia (IIVua 14:22; IISu 26:2,6-15). Ô-xia rất thành công về mặt quân sự. Ông lấy lại phần đất từ Ê-đôm đến Ê-lát, dù sau đó nó bị mất vào tay Sy-ri và Y-sơ-ra-ên (IIVua 16:5-6; IISu 28:17). Việc chiếm được Ê-lát giúp nước Giu-đa mở rộng về phía biển, và điều nầy giúp ích nhiều trong sự buôn bán với các nước khác. Ô-xia có Xa-cha-ri làm cố vấn và muốn làm đep lòng Đức Chúa Trời. “Người tìm kiếm bao lâu, thì Đức Chúa Trời khiến cho người đặng may mắn bấy lâu” (IISu 26:5).


Đức Chúa Trời làm quân đội ông thêm hùng mạnh để chiếm xứ Phi-li-tin, A-rập và Am-môn. Sau khi đánh bại Phi-li-tin, Ô-xia phá hủy các bức tường bao bọc các thành của họ. Chiến thắng nầy đã giúp đất nước mở thêm ra gần biển hơn. Để giữ quyền kiểm soát trên những lãnh thổ vừa chiếm được, Ô-xia xây các thành ở Phi-li-tin, cho binh lính và các quan chức Do-thái đến đó trấn giữ.

Sau khi chinh phục Am-môn, danh tiếng của Ô-xia càng nổi lên. Nhưng những chiến công với các nước ngoại bang không làm ông quên kiến thiết nước nhà. Ông xây các tháp canh trên các vách tường Giê-ru-sa-lem và sửa lại những chỗ hư hỏng mà quân Y-sơ-ra-ên đã gây ra (IIVua 14:13). Ông có một đội quân được huấn luyện tốt, trang bị cho họ nhiều vũ khí và áo giáp cần thiết, [18] và ông cũng khuyến khích chế tạo những cái máy bắn tên và đá (IISu 26:11-15).


Nhưng Ô-xia không chỉ là một người lính tài giỏi và người kiến thiết chu đáo; ông cũng là người có lòng với nghề nông. Ông cải thiện đất bằng cách cho xây những hồ chứa nước và phân bổ người chăn bầy, người làm ruộng là kẻ trồng nho. Ông xây những tháp canh giữa đồng và cho người canh gác để bảo vệ dân chúng và tài sản của họ. “Ai lao động trên đất ấy là những người được chọn của Đức Chúa Trời”, Thomas Jefferson đã viết trong quyển Notes on the State of Virginia. Dù là một người lính, một nhà xây dựng, và một quốc vương, Ô-xia là người của ruộng đồng. Ông sẽ đồng ý với câu nói của Booker T.Washington, ” Cày ruộng và làm thơ đều có giá trị như nhau”.


• Sự kiêu ngạo của Ô-xia (IIVua 15:5; IISu 26:16-21).

Thật đáng tiếc, Ô-xia đã bắt chước cha mình và để cho những thành tựu của mình khiến mình tự cao. A-ma-xia muốn nổi danh như một quan tổng binh vĩ đại, nhưng Ô-xia muốn được vừa làm vua vừa làm thầy tế lễ. Trong cơ cấu tổ chức thời Cựu-ước, Đức Giê-hô-va phân biệt vua với thầy tế lễ, và trong khi thầy tế lễ có thể trở thành một tiên tri (như Ê-xê-chi-ên, Xa-cha-ri. Giăng Báp-tít), nhưng không có 1 tiên tri hoặc vua nào có thể trở thành thầy tế lễ.

Chỉ trong Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta mới thấy được cả các chức tiên tri , thầy tế lễ, nhà vua kết hợp với nhau, và chức tế lễ của Ngài “tùy theo ban Mên-chi-xê-đéc” (Thi 110:4; Sa 14:18-20; He 5:1-7:28). Với Ô-xia, tham chức tế lễ là sự ngu dại, vì ông biết Luật pháp Môi-se; và cố tâm theo đuổi nó bằng quyền lực là sự kiêu ngạo, vì ông biết kết quả của những kẻ nổ lực giành lấy những gì đúng lý không thuộc về mình (Le 10:1-20; Dan 12:1-16; Dan 16:1-49).


“Song khi người được trở nên cường thạnh, lòng bèn kiêu ngạo, đến nỗi làm điều ác” (IISu 26:16). Chắc chắn Ô-xia là vua có danh tiếng (IISu 26:15) nhưng với những gì Đức Chúa Trời làm cho ông lẽ ra phải ông nên hạ mình chứ không kiêu ngạo. Ô-xia nên nói như Đa-vít, “Lạy Chúa Giê-hô-va, tôi là ai, họ hàng tôi là gì, mà Chúa đã đem tôi đến nơi nầy?” (IISa 7:18). Nhưng ông tự tin rằng mình xử người đáng để vừa làm thầy tế lễ và vừa làm vua. Ông biết rằng thầy tế lễ cả thường dâng hương trên bàn thờ dát vàng mỗi sáng và mỗi chiều (Xu 30:7-8), nên ông đem hương vào bên trong đền thờ, nơi chỉ có thầy tế lễ mới được phép vào (Dan 16:40; Dan 18:7).


Thầy tế lễ A-xa-ria và 80 người khác đứng chặn đường không cho vua Ô-xia vào bên trong đền thờ. Họ phải can đảm lắm mới dám cản đường vua, nhưng đồng minh đầu tiên của họ là Đức Giê-hô-va.Chắc họ từng được vua kính nể, nhưng họ có một mong muốn duy nhất là vâng phục và làm vinh hiển Đức Giê-hô-va. Vua nổi giận cùng các thầy tế lễ vì sự can ngăn của họ. Từ Hy-ba-lai có nghĩa là “nổi giận” trong IISu 26:19 ngụ ý “nổi cơn thịnh nộ”.


Nếu vua rời đền thờ ngay lập tức và ăn năn những tội của mình. Đức Giê-hô-va chắc đã tha thứ cho ông, nhưng Ô-xia cứng lòng và nhất quyết làm theo ý mình. Ngay lúc đó Đức Giê-hô-va can thiệp khiến bệnh phung xuất hiện trên trán ông và các thầy tế lễ đều nhìn thấy. Họ biết rằng người phung phải bị cách ly ngoài trại, không được ở trong đền thờ (Le 13:45-46), họ vội vàng buộc vua phải ra khỏi đền thánh.

Vua ô-xia không thể nhìn thấy phung nổi lên trên trán mình, nên có lẽ lúc nầy nó đã lan xuống những chỗ khác trong cơ thể và ông biết mình đã bị nhiễm bệnh. Luật pháp qui định rằng những người nào tùy tiện vào đền thánh sẽ phải chết (Dan 18:7), nhưng Đức Chúa Trời nhân từ đã giáng bệnh phung trên vua và tha mạng sống cho ông, “tình trạng dở sống dở chết”.


Mắc bệnh phung, vua không thể xuất hiện trước công chúng hay sống trong cung điện. Ông bị cách ly trong một ngôi nhà biệt lập, trong thời gian đó con trai ông là Giô-tham cai trị như một người đồng nhiếp chính. Khi Ô-xia băng hà, ông được chôn trong nghĩa trang của hoàng gia, nhưng chắc chắn không được chôn chung trong lăng mộ của các vua. Ông có một khởi đầu hết sức tốt đẹp, nhưng có kết thúc bi thảm, điều nầy cảnh tỉnh chúng ta rằng chúng ta phải cảnh giác và cầu xin Đức Giê-hô-va giúp đỡ để sống tốt cho Chúa đến trọn đời.

Một khởi đầu tốt không đảm bảo được cho một kết cuộc tốt, tham vọng bất khiết đã hủy hoại nhiều đầy tớ của Đức Chúa Trời. Người lính Ô-xia đã gục ngã trước tính kiêu ngạo của mình; nhà kiến thiết Ô-xia đã phá hủy chức vụ của ông; và nhà nông Ô-xia đã gặt trái đắng từ những gì mình đã gieo. Ông là bài học cảnh cáo cho tất cả những ai đang nuôi trong mình những tham vọng bất khiết để tự tiện bước vào những vị trí mà Đức Chúa Trời không dành cho họ (Thi-thiên 131).


4. Năm vị vua xấu xa (IISu 26:1-23) (IIVua 15:8-31)

Từ Giê-rô-bô-am II, vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, đến Ô-sê, vua cuối cùng của Y-sơ-ra-ên, không có vua nào được gọi là “tốt”.

Tuy nhiên, nước Giu-đa cũng không hơn gì, vì trong số 20 vua cai trị sau khi đất nước bị chia cắt, chỉ có 8 vua được gọi là “tốt” [19] Trong phần nầy của sách II Các-vua, chúng ta sẽ gặp 5 vị vua của Y-sơ-ra-ên, sẽ biết bản tính xấu xa và những việc làm gian ác của họ. 4 vua trong số đó bị ám sát! Sa-lum chỉ cai trị được một tháng, Xa-cha-ri được 6 tháng, và Phê-ca-hia được khoảng 2 năm. Mê-na-hem, vua gian ác nhất, cai trị được khoảng 10 năm, và Phê-ca được 12 năm. Khi Vương Quốc phía Bắc sa chân vào chỗ hủy diệt, các vua của nó đã đẩy ngày đoán phạt của Đức Chúa Trời càng nhanh đến. Đức Chúa Trời thường ban cho một đất nước những người lãnh đạo mà nó đáng nhận được.


• Xa-cha-ri (c.8-12).

Có 19 người trong Kinh Thánh có tên là Xa-cha-ri; người nầy là con trai của Giê-rô-bọ-am II, vua vĩ đại cuối cùng của nước Y-sơ-ra-ên ở phía bắc. Xa-cha-ri không có tài chính trị như cha mình và ông quyết định theo gương xấu của người cùng tên với cha mình, Giê-rô-bô-am I.

Xa-cha-ri là chắt của Giê-hu và vì vậy là người cuối cùng của triều đại đó. Đức Chúa Trời hứa với Giê-hu rằng con cháu ông sẽ cai trị trên ngôi trong 4 đời (IIVua 10:30), và lời hứa nầy đã thành hiện thực. Xa-cha-ri là vua, không phải vì tính lương thiện, tài năng hay sự nổi tiếng, nhưng vì ông được may mắn sinh ra trong một gia đình của vua. Chỉ có hai điều được ghi lại về ông: ông gian ác trong mặt Đức Chúa Trời, và bị Sa-lum ám sát nơi công khai, sau đó Sa-lum chiếm ngôi vua. Xa-cha-ri lên ngôi chỉ được 6 tháng, và cái chết của ông đã kết thúc triều đại Giê-hu.


• Sa-lum (c.13-15).

Chúng ta biết rất ít về người nầy.Ông đã tổ chức mưu sát Xa-cha-ri; ông cai trị chỉ được 1 tháng; và ông là nạn nhân của một âm mưu lật đổ và ám sát khác. “Ai đào hầm sẽ té xuống đó; Kẻ nào lăn đá, đá sẽ trở đè lại nó” (Ch 26:27). Sa-lum bị Mê-na-hem giết chết; Mê-na-hem là một trong quan tổng binh của Sa-lum tại Tiệt-sa, thủ đô ban đầu của Sa-ma-ri (IVua 14:17; IVua 15:21,33). Nếu Sa-lum có concháu, chúng sẽ không thể chấp nhận việc đó. Về Sa-lum có gì để tự hào?


• Mê-na-hem (c.6-22)

Vì ông là người được dân chúng kính sợ và có quân đội riêng, Mê-na-hem cai trị được khoảng 10 năm và chết tự nhiên. Vì dân ở Típ-sắc (một thành không thể xác định) không thừa nhận vương quyền của ông, ông đã tiến đánh thành ấy và giết chết những kẻ thù. Ông là người tàn bạo, bắt chước theo tập tục của người Sy-ri, mổ bụng những người đàn bà có nghén (c.16 IIVua 8:12), điều nầy đã được tiên tri Ô-sê cảnh báo (Os 13:16).

Khi quân A-si-ri xâm lược xứ. Mê-na-hem thu thuế tất cả những người giàu mỗi người năm mươi siếc-lơ bạc và nộp cống cho vua A-si-ri (Tiếc-la-Phi-lê-se) 37 tấn bạc.Quân A-si-ri rút lui nhưng 20 năm sau họ trở lại và chiếm toàn bộ xứ. Trong trường hợp đó, chắc chắn Đa-vít đã tin cậy Đức Chúa Trời và chiến đấu với A-si-ri và giành chiến thắng; nhưng chính sách của Mê-na-hem là thoả hiệp và giảng hòa.


• Phê-ca-hia (c.23-26).

Con trai của mê-na-hem lên kế vị ngai vàng nhưng chỉ trị vì được 2 năm. Cha ông từng là một quan tổng binh và đã ám sát vua Sa-lum, Phê-ni-ca lại bị giết chết ngay trong cung điện bởi Phê-ca, cũng là một quan tổng binh, rồi phê-ca nầy lên làm vua. Chi tiết Phê-ca được 50 người từ Ga-la-át hỗ trợcho thấy ông từng là một chỉ huy quân đội ở phía tây sông Giô-đanh. [20]

Rất có thể Phê-ca-hia và Phê-ca không thống nhất với nhau về chính sách mà Y-sơ-ra-ên phải theo liên quan đến dân A-si-ri, Phê-ca-hia, giống như Mê-na-hem cha mình, muốn làm dân A-si-ri hài lòng và cống nộp cho họ bất cứ gì họ muốn, trong khi Phê-ca, một nhà quân sự, cứng rắn với dân A-si-ri và có thiện ý với dân Sy-ri.


• Phê-ca (c.27-31).

Nhờ sự bảo vệ của quân đội mình Phê-ca có thể cai trị 20 năm. Khi một nhà quân sự kế vị, rất khó lật đổ được ông ta. Dù Mê-na-hem luôn làm vừa lòng dân A-si-ri, họ vẫn xâm lược Y-sơ-ra-ên với 4 chiến dịch (738,734,733 và 732) không chỉ thu phục được nhiều thành phố quan trọng mà còn chiếm được nhiều phần lãnh thổ từ Ha-mát đến Nép-ta-li ở phương bắc đến Ga-la-át và Ga-li-lê. Dân A-si-ri cũng chiếm luôn Phi-li-tin đến nam dãi Ga-za, và Đa-mách ở Sy-ri. Nhiều người Do-thái và Phi-li-tin bị lưu đày đến A-si-ri. Phê-ca bị Ô-sê, con của Ê-la, giết chết; ô-sê là người ủng hô A-si-ri trong quan điểm chính trị. Chúng ta sẽ biết nhiều hơn về Ô-sê trong IIVua 17:1-41. Ông cai trị khoảng 9 năm và có thể đã bị lưu đày đếnA-si-ri và quan đời ở đó (IIVua 17:1; IIVua 18:10-11) [21]


5. Giô-tham, vị vua đạo đức (IISu 27:1-9) (IIVua 15:32-38).

Giô-tham, con trai Ô-xia, lên ngôi khi được 25 tuổi và cai trị trong 16 năm (IIVua 27:1). Ông đồng nhiếp chính với cha sau khi Ô-xia mắc bệnh phung vì tội bước vào bên trong đền thánh. Giô-tham được xem là vua tốt, dù A-cha con trai ông là vua xấu xa.

Thật ra, từ Giô-tham, vua thứ 11 của Giu-đa, đến Xê-đê-kia, vua thứ 20 và là vua cuối cùng của Giu-đa, chỉ có Giô-tham, Ê-xê-chia và Giô-si-a có thể được gọi là các vua tốt. Đó là 3 trong số 10 vị vua.

Đức Giê-hô-va giữ cho ngọn đèn Đa-vít chiếu sáng ở Giê-ru-sa-lem trong những năm đó, nhưng có lúc Ngài phải phó dân sự Ngài vào tay ba-by-lôn để trừng phạt họ vì những tội lỗi họ đã phạm. Giống như Ô-xia, Giô-tham vừa là nhà xây dựng vừa là một chiến binh. Ông cho sửa lại các tường thành Giê-ru-sa-lem và Cửa Thượng của đền thờ. Ông cũng xây các thành ở các ngọn núi thuộc vùng Giu-đê, những đồn luỹ và tháp canh trong những khu vực rừng rậm. Quân đội của ông đối mặt với quân Y-sơ-ra-ên và Sy-ri, ông đã đại thắng trước dân Am-môn và bắt họ phải cống nộp hàng năm gần 4 tấn bạc và 62 giạ lúa mạch và cũng chừng ấy lúa mì (IIVua 27:5).

“Vậy, Giô-tham trở nên cường thạnh, bởi vì người đi đường chánh đáng trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời mình” (IIVua 27:6). Chúng ta không biết ông còn làm được bao nhiêu điều tốt nữa nếu ông được sống lâu hơn.


Trong lịch sử Do-thái chúng ta thường bắt gặp người cha tin kính sinh ra đứa con bất kính và người cha bất kính lại sinh được đứa con tin kính. Vua tốt Giô-sa-phát sinh ra vua xấu Giô-ram, nhưng vua bất kính Giô-ách lại giao đất nước cho đứa con trai (A-ma-xia), cháu nội (Ô-xia), và cháu cố (Giô-tham), là những người tin kính.

Tuy nhiên, con trai của Giô-tham là A-cha không phải là vua tốt và tin kính Chúa, nhưng ông đã sinh ra vua tốt Ê-xê-chia; Ê-xê-chia nầy sinh ra Ma-na-se, lại là vua gian ác hơn hết và ông có thời gian cai trị dài 55 năm! Tiên tri Ê-xê-chi-ên ở Ba-by-lôn đã đối diện với tình huống nầy trong đoạn 18 của lời tiên tri của ông.


Đức Chúa Trời tể trị trong những ân tứ Ngài ban cho các cá nhân và các nước. Đức Giê-hô-va nhẫn nhịn dân sự Ngài suốt trong những ngày gian ác và khó khăn, Ngài thành tín giữ những lời hứa của Ngài với Đa-vít. Nhưng thời gian đó đã qua. Sau khi A-cha qua đời, chỉ Ê-xê-chia và Giô-si-a tôn trọng Lời Đức Chúa Trời và vâng phục ý muốn Ngài. Nhưng dù con người nhiều lần phạm tội và thất bại, Đức Giê-hô-va vẫn bảo vệ những người tin kính còn sót lại trong đất nước, và từ những dân sót đó, Đấng Mê-si-a sẽ bước vào thế gian.

“Từ trước vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó” (Cong 15:18).



 



5. CÂU CHUYỆN VỀ HAI VƯƠNG QUỐC (IISu 28:1-27 IIVua 16:1-17:41)


Một câu châm ngôn của người Anh nói, “Hãy lưu ý bạn là ai, từ đâu đến, bạn làm gì và sẽ đi đâu.” Hai điều đầu tiên cần lưu ý thật dễ trả lời đối với Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, vì cả hai nước nầy đều nói, “Chúng tôi là tuyển dân của Đức Chúa Trời, con cháu của tổ phụ Áp-ra-ham”.

Đến ý thứ 3, cả hai vua sẽ phải thừa nhận, “Chúng tôi đã làm theo những gì người tiền nhiệm gian ác của chúng tôi đã làm”. Vua A-cha của Giu-đa không theo gương tốt của Đa-vít, Ô-sê, vua Y-sơ-ra-ên, mà bắt chước các vua xấu xa đi trước. Họ có quyền tự do quyết định, nhưng họ không thể tự thay đổi hậu quả của những quyết định đó”, điều nầy dẫn chúng ta đến ý thứ 4, “Bạn sẽ đi đâu?”. 

Đối với cả hai vua, câu trả lời của Đức Chúa Trời rất rõ: “Ngươi và dân sự ngươi đang tiến nhanh đến sự đoán phạt và đổ nát”. Những lời của Sa-lô-môn sắp được chứng minh trong cả hai nước: “Sự công bình làm cho nước cao trọng; song tội lỗi là sự hổ thẹn cho các dân tộc” (Ch 14:34).


1. Giu-đa, một nước thoả hiệp (IISu 28:1-27) (IIVua 16:1-20)

A-cha là con trai của Giô-tham, vị vua tốt, và là cha của Ê-xê-chia, một vị vua rất tốt, nhưng chính ông không phải là một người tốt và tin kính Chúa. Thay vì tìm kiếm và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, A-cha bắt chước các vua gian ác của Y-sơ-ra-ên và cả những tập tục của dân ngoại bang A-si-ri [22] Ông còn làm theo những cách thờ phượng kinh khủng của dâng ngoại và đem dâng chính con trai mình làm của lễ (IIVua 23:3 viết từ “con cái” ở số nhiều) cho thần ngoại bang, Ba-anh hoặc Mô-lóc, một tập tục bị Luật pháp Môi-se ngăn cấm (Le 18:21; Phuc 18:10).

Mỗi con trai Do-thái phải được chuộc bằng một của lễ và vì vậy thuộc về Đức Giê-hô-va (Xu 13:1-22; Dan 18:14-16). Làm sao con trai thuộc về Đức Chúa Trời lại bị làm tế lễ cho thần tượng? Nhưng A-cha là người thỏa hiệp cả trong các sinh hoạt tôn giáo và mối quan hệ chính trị của ông.


• Thỏa hiệp chính trị (c.5-9; IISu 28:5-21).

Phê-ca, vua Y-sơ-ra-ên, và Rê-xin, vua Sy-ri, muốn A-cha hiệp với họ chống lại A-si-ri, nhưng A-cha từ chối vì ông là người ủng hộ A-si-ri. Thật ra, ông nhờ cậy A-sa-ri thay vì tin Đức Giê-hô-va. Để trả thù, Sy-ri và Y-sơ-ra-ên lên kế hoạch lật đổ A-cha khỏi ngai vàng và đem một vua bù nhìn khác lên thay, nhưng Đức Giê-hô-va bảo vệ ngai Đa-vít, dù A-cha không đáng được như vậy (Về toàn bộ câu chuyện nầy, xin đọc Es 7:1-9:20).


Theo IISu 28:5-8, chính Đức Giê-hô-va đã sai hai vua nầy chống nghịch Giu-đa, để trừng phạt A-cha vì tội lỗi của ông ta. Phê-ca và Rê-xin gây nhiều thiệt hại cho Giu-đa nhưng họ không thể chiếm được Giê-ru-sa-lem. Một trong các con trai A-cha bị giết chết, cùng với hai quan chức quan trọng khác. Những kẻ thù xâm lược đã giết hàng ngàn binh lính và bắt hàng ngàn tù binh về Sa-ma-ri. Gần như Y-sơ-ra-ên đang nuốt chửng Giu-đa!


Đức Giê-hô-va dấy lên một tiên trong Y-sơ-ra-ên [23] để cảnh cáo quân Sa-ma-ri rằng việc đặt người Giu-đa làm phu tù như vậy là vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời và Ngài sẽ trừng phạt họ. Dù thế nào thì dân Giu-đa và dân Sa-ma-ri đều có chung một dòng dõi, dòng dõi của Áp-ra-ham.Tiên tri Ô-bết (không phải là người trong IIVua 15:8) chỉ ra 3 lỗi mà quân Y-sơ-ra-ên đã vi phạm.

-Thứ nhất, họ đã nổi giận với dân Giu-đa và tùy tiện bắt và giết chết họ.

-Thứ hai, họ bắt các anh chị em mình làm nô lệ và điều nầy đã đi ngược với luật pháp Đức Chúa Trời (Le 25:39).

Khi làm như vậy, họ tỏ ra không kính sợ Đức Chúa Trời và như vậy buộc Ngài phải trừng phạt họ (IISu 28:9-11). Đúng, Đức Chúa Trời đã nổi giận với Giu-đa (IISu 28:9,25), nhưng có nguy cơ Ngài sẽ nổi giận với Y-sơ-ra-ên vì cách họ đối đãi với Giu-đa (IISu 28:11-13). Sau sứ điệp của Ô-bết, một số lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên đã dừng lại và xác nhận lời tiên tri nói và khuyên quân lính không phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời và các anh chị em của họ.


Một điều đặc biệt đã xảy ra: Dân sự chấp nhận sứ điệp của Đức Chúa Trời, ăn năn và thay đổi cách cư xử đối với những tù nhân. Dân Y-sơ-ra-ên không chỉ cho họ đồ ăn, áo mặc, săn sóc người bị thương và suy nhược, mà họ còn trả lại những của cải đã cướp được từ Giu-đa.Đây là một ví dụ của “người Sa-ma-ri nhân lành” trên cấp độ quốc gia (Lu 10:25-37), nó nhắc chúng ta nhớ sự nhân từ của của Ê-li-sê đối với các binh lính Sy-ri đến bắt ông (IIVua 6:15-23). Khi các tù nhân (cùng với những của cải)được trở về Giu-đa, họ là nhân chứng sống về ân điển và sự tốt lành của Đức Giê-hô-va, nhưng không thấy chép rằng A-cha đã hướng dẫn dân sự thờ phượng, ngợi khen và tạ ơn Đức Giê-hô-va.


Sự kiện nầy còn mang một thông điệp khác cho người Giu-đa: sẽ đến lúc dân Ba-by-lôn xâm lược xứ và bắt hàng ngàn người lưu đày đến Ba-by-lôn. Kinh nghiệm nầy với Y-sơ-ra-ên có gì đó giống như “một sự diễn tập” đối với dân Giu-đa, nhưng Ba-by-lôn không đối đãi với họ như Y-sơ-ra-ên đã làm. Hầu hết những những bị lưu đày đến Ba-by-lôn đều đã chết tại đó, và sau 70 năm, chỉ một nhóm người yếu đuối còn sót lại sẽ trở về xây sửa đền thờ và nổ lực dựng lại đất nước.


Đức Giê-hô-va vẫn trừng phạt các nước ngày nay như Ngài đã làm ngày xưa không? Dĩ nhiên dân Do-thái thuộc về dân giao ước, dù giờ đây nó bị chia cắt thành hai nước; và họ có bổn phân phải vâng giữ giao-ước của Đức Giê-hô-va. Nhưng về các nước không có mối quan hệ giao ước với Đức Giê-hô-va thì sao?

Tiên tri A-mốt nói rõ rằng Đức Chúa Trời biết tội lỗi của các dân ngoại và bắt họ phải chịu trách nhiệm (Am 1:1-2:16). Đức Chúa Trời không bao giờ ban luật pháp Ngài với các dân ngoại (Thi 147:19-20), nhưng những điều khoản của luật pháp đó được ghi khắc trong lòng của tất cả loài người (Ro 2:12-16), vì vậy người Ngoại bang không biết vâng lời là phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời.

Khi bạn đọc Cựu-ước, bạn thấy Đức Chúa Trời trừng phạt Sô-đôm và Gô-mô-rơ (Sa 18:1-19:38), Ê-díp-tô (Xu 1:1-14:31), các nước Ngoại bang ở trong và xung quanh Ca-na-an (Dan 31:1-32:42; Gios 1:1-12:24), và cả Ba-by-lôn (Gie 50:1-51:64). Tuy nhiên, vì dân Do-thái biết Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống, họ còn có chứng nhân của luật pháp Ngài, họ càng chịu trách nhiệm nhiều hơn.

Thật buồn cho Y-sơ-ra-ên bội đạo và Giu-đa không thể là ánh sáng cho các nước, giờ đây họ tỏ ra quan tâm đến việc vâng theo sứ điệp của Đức Chúa Trời. Giu-đa có đền thờ, luật pháp, và chức tế lễ, nhưng họ không có Đức Giê-hô-va. “Nước nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình, dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ nghiệp mình có phước thay!” (Thi 33:12).


• Thỏa hiệp tôn giáo (IIVua 16:10-18; IISu 28:22-25). Không những Y-sơ-ra-ên và Sy-ri tấn công Giu-đa, Đức Chúa Trời còn đem Ê-đôm và Phi-li-tin chống nghịch Giê-ru-sa-lem. A-cha sai sứ giả đến cầu viện vua A-si-ri. Lời lẽ trong thư của ông đầy xu nịnh và tâng bốc mà ngày nay chúng ta sẽ gọi là “bợ đỡ”. Ông tự nhận mình là “tôi tớ”, là “con trai” của Tiếc-la-Phi-lê-se, một thái độ chưa từng thấy ở dòng dõi Đa-vít đối cùng vua ngoại bang.

Để tâng bốc vua A-si-ri hơn, A-cha lấy của cải của đền thờ, cung điện và của các hoàng tử để dâng cho vua A-si-ri. Thật sự A-cha đã biến Giu-đa thành một nước chư hầu chịu dưới sự kiểm soát và bảo vệ của A-si-ri. A-cha không có đức tin sống động nơi Đức Giê-hô-va và đặt lòng tin của mình nơi quân đội của A-si-ri, và vì điều nầy ông đã phải trả giá rất đắt. Đúng là A-si-ri đã đánh bại Sy-ri, nhưng sau đó tiếc-la-Phi-lê-se triệu tập “con trai” và là “đầy tớ” của ông đến Đa-mách để khai trình và nhận lệnh. Qua những ngày đó, các nước rất e ngại các vua Giu-đa và quân đội của họ!


Vua Ô-xia đã cố tình xen vào việc của đền thờ và Đức Giê-hô-va đã phạt ông bệnh phung, nhưng thầy tế lễ U-ri lại làm theo tất cả những gì vua ra lệnh, dù như vậy là bất tuân luật pháp Môi-se. Chúng ta không biết chắc việc bắt chước kiểu bàn thờ của dân ngoại hoàn toàn là ý của A-cha hay là lệnh của vua A-si-ri. Có lẽ Tiếc-la-Phi-lê-se muốn bàn thờ nầy được đặt trong đền thờ của người Do-thái để nhắc vua và cả dân Giu-đa nhớ rằng giờ đây họ phải chịu phục dưới quyền lực của A-si-ri. A-cha không hết lòng thờ phượng Đức Giê-hô-va, vì chắc chắn bàn thờ nầy được dựng lên chỉ để thỏa mãn tính kiêu ngạo của ông. Ông sẽ có một bàn thờ của vua giống như bàn thờ ở Đa-mách! Cuối cùng bàn thờ theo ý của Đức Chúa Trời bị đẩy sang một bên.


Tất cả điều nầy là một bức tranh mô tả những gì thường xảy ra trong cộng đồng Cơ-đốc ngày nay: một vài người nhìn thấy có điều gì đó ngoài thế gian “phù hợp” với công việc của Đức Chúa Trời, và Hội thánh bắt đầu bắt chước thế gian. Môi-se được lệnh phải dựng đền tạm theo lời Đức Chúa Trời chỉ dẫn ông trên núi (Xu 25:40; Xu 26:30; He 8:5) và cũng như vậy đền thờ phải được xây theo những kế hoạch mà Đức Chúa Trời vẽ ra cho Đa-vít (IISu 28:11,12,19). Người Do-thái không bầu ra một ban xây dựng và trưng cầu ý kiến cho dự án. Nhưng ngày nay, Hội thánh trở nên giống thế gian đến nỗi thật khó phân biệt được họ.


A.W.Tozer đã viết, Ngoài một số tội lỗi gớm ghiếc, ngày nay những tội của thế gian không ăn năn lại được phần đông những Cơ-đốc nhân “được tái sanh” chấp nhận. Những Cơ-đốc nhân trẻ chọn cho mình những mẫu thần tượng đáng ghê tởm và cố bắt chước cho càng giống họ càng tốt.

Những lãnh đạo tôn giáo chấp nhận những kỷ sảo quảng cáo, nói khoát, lừa phỉnh và phóng đại không biết xấu hổ ngày nay được đem vào như một thủ tục bình thường trong nhà thờ. Xu hướng đạo đức không phải là xu hướng của Tân-ước nhưng là xu hướng của Hoollywood và Broadway. [24]


A-cha nghĩ rằng Đức Giê-hô-va sẽ đẹp lòng với những của lễ được dâng trên bàn thờ mới lộng lẫy nầy, nhưng ông đã sai. Đức Giê-hô-va không muốn của lễ; Ngài cần sự vâng lời (ISa 15:22-23) và A-cha thờ phượng các thần của dân ngoại (IISu 28:23). Không có lửa từ trời thiêu các của lễ trên bàn thờ của dân ngoại (Le 9:24), vì Đức Giê-hô-va khước từ nó.

Những vật trang trí lạ mắt trong nhà thờ ngày nay có thể làm giáo dân thích thú và hoan nghênh, nhưng chúng không khai trí cho hội chúng và tôn vinh Đức Chúa Trời. Nhà thờ trở thành một rạp hát, sự thờ phượng thành ra buổi trình diễn, bài giảng là một tiết mục biểu diễn, và hội chúng trở thành khán giả. Tất cả những điều nầy không làm vinh hiển Đức Chúa Trời nhưng làm hài lòng người ta.


Nhưng thay bàn thờ của Đức Chúa Trời thành bàn thờ của người ngoại chỉ là bước khởi đầu. Vua A-cha còn “dời” biển bằng đồng và 10 táng đồng dùng để kê mười cái chậu rửa các của lễ (ISu 28:17; IVua 7:23-40). Ông ta cần nhiều kim loại quý giá cho mục đích riêng của mình, nên ông lấy của Đức Chúa Trời. Nhưng để làm vui lòng vua A-sa-ri. A-cha đã dời lối vào cho riêng ông trong đền thờ và đặt những bệ cho ngai của ông trong đền thờ. Lúc bấy giờ Tiêc-la-Phi-lê-se đang điều khiển, không phải vua A-cha.


Tuy nhiên, vua không bao giờ có thể thay đổi cách bố trí đền thờ theo ý mình nếu không có sự hợp tác của thầy tế lễ cả U-ri (IIVua 16:10,11,15,16). Khi vua Ô-xia chống lại Lời Đức Chúa Trời và bước vào đền thờ, thầy tế lễ cả A-xa-ria cùng 80 thầy tế lễ khác đã bắt ông ta dừng lại được (IISu 16:16); nhưng U-ra và các thầy tế lễ của ông đã thỏa hiệp, không vâng theo Luật pháp của Môi-se và nhượng bộ vua.

Khi thỏa hiệp được lần đầu, sẽ có lần thứ hai và hơn nữa; vì những người yếu đuối như U-ri đã cho những lãnh đạo mình tùy tiện hành động, cái ác có cơ hội chiến thắng. A-cha không chỉ thay chỗ bàn thờ và lấy đi miếng trám bằng kim loại khỏi các vật dụng, ông còn lấy tất cả chén, đóng của đền thờ, và lập các bàn thờ ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem (IISu 28:24-25). “Anh em há chẳng biết rằng một chút men làm cho cả đống bột dậy lên sao?” (ICo 5:6; Ga 5:9).

Một khi chúng ta để cho thế gian xâm nhập vào mối thông công trong Hội thánh, nó sẽ bành trướng, làm ô uế mối thông công đó và cuối cùng biến mất. Mãi cho đến khi con trai ông là Ê-xê-chia lên ngôi, đền thờ mà A-cha là ô uế mới được mở cửa trở lại cho sự thờ phượng Đức Chúa Trời (IISu 29:1-29).


Khi A-cha băng hà, ông được chôn ở Giê-ru-sa-lem nhưng không được chôn chung trong các lăng mộ của các vua (IIVua 16:19-20; IISu 28:26-27). Về mặt nầy, ông đi chung với Giô-ram (IISu 21:20), Giô-ách (IISu 24:25), và Ô-xia (IISu 26:23), còn có Ma-na-se sẽ cùng với họ (IISu 33:20). Sự vô tín và bất trung của A-cha đã gây nhiều thiệt hại cho nước Giu-đa, và Ê-xê-chia, con trai ông, đã sửa chữa được một vài thứ.


2. Y-sơ-ra-ên, một nước bị đánh chiếm (IISu 28:1-27) (IIVua 17:1-41 IIVua 18:9-12)

Ô-sê là vua cuối cùng của vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên, vì trong thời của ông (722 T.C.), quân A-si-ri xâm chiếm xứ, bắt nhiều người đi lưu đày và đưa người Ngoại bang thuộc các nước A-si-ri từng chinh phục vào sống ở Y-sơ-ra-ên. Nước Y-sơ-ra-ên trở thành nước Sa-ma-ri, lấy tên của thủ đô, dân cư của nó không còn là dân Do-thái thuần chủng nhưng là dân pha tạp giữa nhiều dân tộc.


Đức Chúa Trời đã ban nhiều ơn phước cho dân sự Ngài, nhưng giờ đây những ơn phước đó đã rơi vào tay của A-si-ri và Ba-by-lôn. Dân Do-thái có một Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng họ thay Ngài bằng những thần tượng hay chết. Xứ xở giàu có của họ bị các nước thù địch chiếm giữ, dân sự bị lưu đày, cuối cùng Giê-ru-sa-lem và đền thờ cũng bị phá hủy (586 T.C). Đức Chúa Trời trong sự nhân từ của Ngài vẫn gìn giữ số dân trung tín còn sót lại để ngọn đuốc luôn chiếu sáng và Ngài có thể làm trọn những lời Ngài đã hứa với dân sự Ngài.


• Y-sơ-ra-ên mất người lãnh đạo (IIVua 17:1-5).

Ô-sê đã ám sát Phê-ca và chiếm ngôi (IIVua 15:29-31). Tiếc-la-Phi-lê-se đã qua đời và bấy giờ Sanh-ma-na-sa V làm vua A-si-ri, Ô-sê phục tùng và nộp cống cho vua A-si-ri ấy. Tuy nhiên, Ô-sê bí mật kết ước với Ê-díp-tô để chiêu mộ họ đánh trận cho Y-sơ-ra-ên và giúp Y-sơ-ra-ên bẻ gãy sự kìm kẹp của A-si-ri. [25] Ngay cả khi Áp-ra-ham lánh sang Ê-díp-tô vì cơn đói kém, ông và vợ ông chỉ chuốc lấy phiền phức (Sa 12:10), những lãnh đạo khác của Do-thái cũng nhờ Ê-díp-tô giúp đỡ nhưng vô ích. (Sa 26:2; Dan 14:1-4; Phuc 17:16; Es 30:1-2 Es 31:1). Các tín hữu ngày nay cũng vậy, họ xây sang nhờ thế gian giúp đỡ thay vì chờ đợi Đức Giê-hô-va và tin cậy Ngài.

Khi Sanh-ma-na-sa phát hiện được âm mưu đó, ông đã bắt giam Ô-sê và ngai vàng của Y-sơ-ra-ên phải bỏ trống.[26]


Vào năm 725, Sanh-ma-na-sa tiến hành vây hãm Sa-ma-ri. Nhưng sau đó ông băng hà (hoặc bị giết chết) và quan tổng binh của ông, Sa-gôn lên thay. Cuộc bao vây nầy kéo dài 3 năm, và năm 722, thành Sa-ma-ri đành phải đầu hàng. A-si-ri đã chiếm được các chi phái ở bờ tây sông Giô-đanh rồi (ISu 5:24-26), nên giờ đây họ chiếm được toàn bộ đất nước ngoại trừ Giu-đa, và Giu-đa rồi cũng rơi vào tay Ba-by-lôn.


• Y-sơ-ra-ên mất đất (c.6 IIVua 18:9-12).

Như chúng ta đã biết, chính sách của A-si-ri là bắt dân Y-sơ-ra-ên đi lưu đày và thay vào đó là những tù binh của các nước khác.[27] Giao-ước của Đức Chúa Trời với dân sự Ngài nói rõ rằng sự không vâng lời của họ sẽ khiến họ thất bại trong chiến tranh (Phuc 28:25,49-50,52), bị đàn áp, làm nô lệ (Phuc 28:29,33,48,68), bị giam cầm (Phuc 28:36,43,63-68).

Tất cả điếu đó đã xảy ra cho Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Đất của họ thuộc về Đức Chúa Trời (Le 25:2,23,38) và dân sự là “quản gia” của Ngài. Không chỉ đất thuộc về Đức Chúa Trời, con người cũng thuộc về Ngài (Le 25:55). Họ sẽ có được đất và hưởng những ơn phước của nó miễn là họ gìn giữ những điều khoản trong giao ước của Ngài, nhưng sự bất tuân nhiều lần của họ đã khiến cho đất của họ bị trừng phạt. Đó chính xác là những gì đã xảy ra.

Vì tội lỗi của dân sự trong suốt thờ các quan xét, 7 nước khác nhau đã xâm chiếm xứ, cướp sản vật, bắt dân sự làm nô lệ ngay trên đất nước của chính mình. Sau khi đất nước chia cắt, Y-sơ-ra-ên bị A-si-ri chiếm đóng và Giu-đa rơi vào tay Ba-by-lôn. Đức Chúa Trời luôn giữ những điều khoản trong giao ước của Ngài.


• Y-sơ-ra-ên không vâng giữ luật pháp (c.7-17).

Những câu Kinh Thánh nầy giống như một bảng cáo trạng mà bị cáo của nó là nước Y-sơ-ra-ên ở phía bắc. Luập pháp là một đặc ân Đức Chúa Trời ban cho dân Do-thái, vâng giữ luật pháp tức làm theo ý muốn của Ngài, họ sẽ được Đức Chúa Trời ban phước và bảo vệ. Nhưng họ đã quên Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi Ê-díp-tô và cho họ được tự do thể nào.

Họ quên rằng luập pháp Môi-se dạy họ không được thờ thần tượng mà phải phá huỷ các thần tượng, đền miễu và những nơi cao (Phuc 7,13). Y-sơ-ra-ên bắt đầu thờ các thần tượng nơi bí mật (c.9), nhưng dần dần việc đó trở nên công khai, và Giê-hô-va được xem như một trong số nhiều các thần đó. Đức Giê-hô-va sai các tiên tri khuyên bảo và cảnh cáo dân sự, nhưng ít ai chịu quan tâm.


Như các tổ phụ của họ, dân Do-thái cứng cổ và cứng lòng; họ không vâng theo Đức Chúa Trời (Phuc 9:6,13; Phuc 10:12-22; Ne 9:16,17,29; Thi 106:1-48). Vì chúng ta có xu hướng giống chúa mà mình thờ phượng (Thi 115:8), dân sự đã trở nên “hư không” (rỗng tuyếch, vô ích) vì họ thờ các thần hư không (c.5). Thật vậy, họ đã xây sang các thần tượng và làm tượng bò con vàng trong khi Môi-se trò chuyện với Đức Chúa Trời trên núi Si-nai (Xu 32:1-35). Sau khi đất nước bị chia cắt, vua Giê-rô-bô-am làm 2 tượng bò vàng cho dân chúng thờ lạy (IVua 12:25). Thường thường, chính con cái là người phải chịu khổ vì tội lỗi của cha mẹ chúng, vì những người cha Do-thái đã đưa con trai và con gái mình qua lửa để dâng cho các thần ngoại bang.


• Y-sơ-ra-ên oán giận Đức Chúa Trời của họ (c.18-33).

Cơn giận của Đức Giê-hô-va là cơn giận thánh; không nên so sánh cơn giận của Ngài với tính nóng giận của một con trẻ. Đức Chúa Trời đã nín chịu dân sự Ngài quá lâu và Ngài ban ơn dư dật để đem họ trở về với Ngài, nhưng họ cứng lòng không chịu.

Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời xuất phát từ tình yêu thương, sự đau lòng. Chính là sự đau lòng của người cha khi muốn điều tốt nhất cho con cái mình, nhưng họ thích đi theo ý riêng. Những câu Kinh Thánh nầy cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đã chia cắt dân sự Ngài thành hai nước Y-sơ-ra-ên và Giu-đa vì Ngài muốn bảo vệ triều đại Đa-vít trước sự thờ thần tượng trong Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, tôn giáo giả hình và do con người nghĩ ra của Giê-rô-bô-am đã tiêm nhiễn vào Giu-đa, chỉ bởi ân điển của Đức Chúa Trời số dân sót trung tín được gìn giữ.


Cụm từ “kính sợ Đức Giê-hô-va” có nghĩa là “thờ phựơng Đức Giê-hô-va theo Luật pháp Môi-se” (c.25,28,32,34). Sự pha trộn tôn giáo giữa nhiều dân tộc đã sinh ra một thuyết mà chúng ta ngày nay gọi là ”Đa nguyên luận”.

-Thứ nhất, dân Do-thái không thờ phượng Đức Chúa Trời, và Ngài trừng phạt họ vì sự bất tín của họ (c.25).

-Dân Do-thái thờ Đức Giê-hô-va chung với các thần của các người khác. Đức Chúa Trời không chia xẻ sự thờ phượng với các thần giả khác, vì vậy dĩ nhiên Đức Chúa Trời nổi giận.

Mọi dân trên đất phải ăn năn, xây bỏ các thần giả và trở về củng Đức Giê-hô-va; nhưng thay vì vậy, dân sự của Đức Chúa Trời chấp nhận các thần giả của các nước khác.


Vua A-si-ri tin rằng mỗi vị thần có liên hệ với một xứ xở mà dân tộc đó xuất thân, và như vậy, những cư dân mới không biết cách thờ phượng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Họ không thể nào học tập người Y-sơ-ra-ên còn để lại vì những người đó đang thờ tượng bò vàng từ thờ Giê-rô-bô-am. Vua A-si-ri bắt một trong các thầy tế lễ Do-thái gởi về Y-sơ-ra-ên dạy cho người ta biết cách thờ phượng “thần của xứ”. Nhưng thầy tế lễ nầy đi đến Bê-tên, nơi có đền thờ tượng bò con vàng! Chúng ta không rõ thầy tế lễ nầy ta biết bao nhiêu về đức tin thật của người Do-thái và ông ta đã dạy những gì, nhưng tình hình dường như không chút sáng sủa.


Ngày nay nhiều người hoan nghênh “liên hiệp các tôn giáo trên thế giới” nhưng Đức Giê-hô-va ghê tởm nó. Trong chế độ quân chủ, chúng ta học chấp nhận “đa nguyên luận”, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta tán thành nó hoặc tin rằng tất cả tôn giáo đều ngang hàng nhau.

Ở Mỹ, tất cả tôn giáo đều bình đẳng trước luật pháp và có thể tự do sinh hoạt tôn giáo, nhưng Cơ-đốc nhân vẫn tin rằng “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Cong 4:12). Chúa Giê-xu không chấp nhận tôn giáo của người Sa-ma-ri vì “sự cứu sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:19-24).

Những người Do-thái được ở lại xứ mình đã tự chọn cho mình những thầy tế lễ và bỏ qua những tiêu chuẩn được Đức Chúa Trời thiết lập qua Môi-se (c.32).

Dân chúng lập ra những cơ cấu tổ chức tôn giáo và hội nhập với cơ cấu mới trong tín nguỡng của những người láng giềng mới xung quanh họ. Có một kiều gì đó chung cho mọi người, không kể ban tin gì và thờ phượng như thế nào, miễn là bạn có tôn giáo (c.29-33). Ban có thấy điều nầy quen thuộc không?


• Y-sơ-ra-ên không thuộc bài học của mình (c.34-41). Người ta thường nói rằng một điều chúng ta học được từ lịch sử đó là chúng ta đừng học theo lịch sử. Dù Đức Chúa Trời có dùng cách gì để trừng phạt và cảnh tỉnh họ, dân sự vẫn thờ phượng Đức Chúa Trời chung với các thần khác, và làm theo ý riêng của mình. Họ quên lịch sử của họ, dân sự Đức Chúa Trời được giải phóng khỏi ách nô lệ của người Ê-díp-tô. Họ quên những luật pháp và giao ước của Đức Chúa Trời, đặc biệt những điều răn của Ngài về sự thờ thần tượng (Xu 20:1-6). Giống nhiều Cơ-đốc nhân tự xưng ngày nay, dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Chúa khi nào họ thấy vui, nhưng họ cũng dành sự tôn kính cho các thần giả của các dân tộc khác nữa.


Cuối cùng điều gì đã xảy ra cho 10 chi phái không biết vâng lời nầy? Chúng ta nghe nói về “mười chi phái lạc mất của Y-sơ-ra-ên”, nhưng Kinh Thánh không bao giờ dùng cụm từ nầy. Nhiều người trong 10 chi phái đó đã đồng hóa với các dân được người A-si-ri đem vào xứ, và việc ấy đã sinh ra dân Sa-ma-ri. Nhưng trong Kinh Thánh không có bằng chứng cho thấy 10 chi Y-sơ-ra-ên “lạc mất”.

Từ lâu trước khi A-si-ri chiếm được Vương Quốc Phía Bắc, những người tín kính Chúa trong 10 chi phái ấy đã chuyển đến Giu-đa và vẫn giữ lòng trung kiên với Đức Giê-hô-va (IVua 12:1-33; IVua 16:20; IISu 11:5-16; IISu 19:4-10). Vua Ê-xê-chia tin kính đã mời những tín hữu chân chính đến Giu-đa và thờ phượng Đức Chúa Trời theo như Kinh Thánh dạy, nhiều người đã đáp ứng lời mới đó (IISu 30:1-14,25-27). Những cải cách của Giô-si-ac-1o những ảnh hưởng lớn đến ng Do-thái (IISu 34:1-7,33; IISu 35:17-19).


Dù Chúa Giê-xu có nói, “những con chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Mat 10:5-6), Tân-ước không biết gì về “chi phái lạc mất của Y-sơ-ra-ên”. (Mat 4:12-16; Lu 2:36-38) Phao-lô nói về “mười hai chi phái chúng tôi” (Cong 26:7) và Gia-cơ viết thư “cho mười hai chi phái ở tan lạc” (Gia 1:1). Nếu chúng ta hiểu Kh 7:1-8 theo nghĩa đen, thì trong những ngày sau rốt, Đức Giê-hô-va sẽ tìm được dân sự từ những chi phái Y-sơ-ra-ên.


Sứ điệp chính của đoạn Kinh Thánh bi kịch nầy đó là sự thờ phượng thần tượng dẫn đến những hành vi suy đồi, những hành vi suy đồi đó kéo theo sự xử phạt của Đức Chúa Trời. Những lãnh đạo không vâng lời và thỏa hiệp cả các vua và những thầy tế lễ không thể nào dạy người ta Lời Đức Chúa Trời, và mỗi thế hệ mới sinh ra, dân tộc càng đi xa khỏi Đức Chúa Trời. Rồi đến một ngày, cơn giận Đức Chúa Trời giáng trên dân sự Ngài, đó là lúc kết thúc một thể chế chính trị được biết với cái tên Y-sơ-ra-ên, Vương Quốc Phía Bắc.



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page