top of page

NÊ-HÊ-MI (2)

KINH THÁNH

CỰU-ƯỚC

THỂ LOẠI

Các Sách Lịch Sử (Cựu-ước)



9. ÂN ĐIỂN KỲ DIỆU (Ne 9:1-38)


Giê...

...-hô-va Đức Chúa Trời là chủ đề chính của chương này.Ngài là ai, Ngài làm gì cho dân sự Ngài, dân sự Ngài phải làm gì cho Ngài. Lời cầu nguyện này ôn lại lịch sử Y-sơ-ra-ên và bày tỏ sự uy nghi của Đức Chúa Trời với cả sự hư mất của loài người. Y-sơ-ra-ên đã đáp ứng với “sự nhân từ lớn” (Ne 9:17) “sự thương xót lớn” (c.31) và “ơn lành lớn” (c.25,35) của Đức Chúa Trời bằng những “sự khiêu khích lớn” (c.18,26) đưa đến kết quả “hoạn nạn lớn” (c.37).


Thật thú vị khi ba “lời cầu nguyện lớn” của dân tộc Y-sơ-ra-ên được chép trong Exo 9:1-15; Ne 9:1-38; Đa 9:1-27. Đằng sau những lời cầu nguyện này là lời hứa ở IISu 7:14 cũng như gương Môi-se khi ông cầu thay cho dân sự (Xu 32:1-33:23).


Tiến sĩ Arthur T.Pierson nói: “Lịch sử là lịch sử của Ngài” và chương này xác nhận điều đó. Aldous Huxley viết: “Việc người ta không học nhiều từ những bài học lịch sử là điều quan trọng nhất trong những bài học mà lịch sử phải dạy”. Và theo triết gia George Santayana thì: “Hội thánh ngày nay nhớ đến quá khứ đều bị lên án là làm sống lại quá khứ”. Hội thánh ngày nay có thể học được nhiều điều từ những từng trải của dân Y-sơ-ra-ên, nếu chúng ta sẵn sàng hạ mình và tiếp nhận lẽ thật.


Khi bạn đọc lời cầu nguyện này, hãy để ý rằng nó bày tỏ sự vĩ đại của Đức Chúa Trời (Ne 9:1-6) sự nhơn từ Ngài (c.7-30) và ân điển của Ngài (c.31-38).


1. Sự Vĩ Đại Của Đức Chúa Trời (Ne 9:1-6)

Lễ Lều Tạm đã chấm dứt nhưng dân sự còn nấn ná lại để nghe thêm Lời Đức Chúa Trời. Việc dự lễ đã trở thành sự kiêng ăn khi Lời Chúa đem đen nhận thức cho dân sự và họ bắt đầu xưng tội. Trong hầu hết các Hội thánh ngày nay, lễ thờ phượng 6 tiếng đồng hồ 3 tiếng để giảng dạy và 3 tiếng để cầu nguyện có thể sẽ đưa đến một số đề nghị về những điều phải bỏ bớt; Nhưng đối với dân Do-thái thời bấy giờ, đó là khởi đầu của một đời sống mới cho họ và thành của họ.


Khi tôi còn là một thanh niên Cơ-đốc, không có gì lạ khi những buổi nhóm toàn thành phố kéo dài một tháng hoặc 6 tuần vào mùa hè. Dần dần một sự thay đổi xảy ra khi “những buổi nhóm đặc biệt” được rút ngắn thành một tuần, rồi chỉ còn trong ngày cuối tuần, và giờ đây chúng hầu như không còn nữa.

Trong hoạt động chức vụ của tôi, tôi thường được nhắc nhở canh đồng hồ để buổi thờ phượng có thể đúng giờ. Chúng ta sống trong thời đại của sự tiêu hóa và dùng thức ăn nhanh. Tâm trạng này đã xâm lấn các Hội thánh của chúng ta. Chúng ta hát một cách tin kính rằng “Hãy dành thời gian làm nên thánh” nhưng chúng ta không sẵn sàng trả giá để làm điều đó.


Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời được nhìn thấy trong sự kiện Ngài chấp nhận sự thờ phượng của chúng ta (c.1-5). Sự thờ phượng thật đòi hỏi nhiều yếu tố: nghe Lời Kinh Thánh, ngợi khen Đức Chúa Trời, cầu nguyện xưng tội và biệt mình khỏi điều không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Mỗi yếu tố này được ghi lại trong phân đoạn này.


Sự thờ phượng cần phải có Lời Đức Chúa Trời, vì chính Lời Ngài bày tỏ Ngài cho chúng ta biết. A.W.Tozer: “Bản chất của sự thờ thần tượng là sự giải trí của những tư tưởng về Đức Chúa Trời không xứng đáng cho Ngài”. Càng biết về Lời Kinh Thánh và đáp ứng chúng, chúng ta sẽ càng biết rõ Đức Chúa Trời và trở nên giống Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên đã được Đức Chúa Trời chọn để tiếp nhận luật pháp của Ngài (c.13) và biết ý muốn Ngài. Bất cứ lễ thờ phượng nào bỏ qua Lời Kinh Thánh sẽ không nhận được sự chúc phước của Đức Chúa Trời.


Đức Chúa Trời phán với chúng ta qua Kinh Thánh, còn chúng ta thưa chuyện với Ngài qua lời cầu nguyện và ngợi khen Ngài. “Hãy đứng dậy ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi” (c.5) là một mệnh lệnh mà mọi tín hữu chân thật cần phải vâng theo. Danh của Đức Chúa Trời được tôn cao trên mọi danh (Phi 2:9-11) và chúng ta phải tôn kính danh Ngài khi chúng ta ngợi khen Ngài. Danh Ngài phải được “trổi cao hơn các sự chúc tụng và các lời khen ngợi” (Ne 9:5).


Dân sự cũng dành thời gian để xưng tội (c.2-3) và tìm kiếm sự tha thứ của Chúa. Lễ Chuộc Tội hằng năm đã đi qua, nhưng những người thờ phượng biết rằng họ cần có sự thanh tẩy và sự đổi mới từ Chúa luôn luôn. Chúng ta đừng chăm về tự xét mình đến một phạm vi mà chúng ta bỏ qua Chúa, nhưng chúng ta phải thành thật trong cách đối xử với Ngài (IGi 1:5-10). Bất cứ khi nào bạn nhìn thấy tội lỗi hoặc sự thất bại trong đời sống mình, hãy lập tức nhìn xem Đấng Christ bằng đức tin, tìm kiếm sự tha thứ của Ngài và tiếp tục nhìn xem Ngài. Bạn càng nhìn bản thân, bạn sẽ càng trở nên nản lòng. Hãy chăm nơi những sự hoàn hảo của Ngài chớ không phải những bất toàn của riêng bạn.


Cuối cùng, dân sự đã biệt mình khỏi thế gian khi họ đến gần Chúa (Ne 9:2; Exo 6:21). Sự biệt riêng mà không có sự dâng hiến cho Chúa thì trở thành sự cô lập, nhưng sự dâng hiến mà không có sự biệt riêng là sự giả hình (IICôr 6:14-7:1). Dân tộc Y-sơ-ra-ên đã được Đức Chúa Trời chọn làm một dân đặc biệt, được biệt riêng khỏi các dân tộc vô thần quanh họ. “Đối cùng ta, các ngươi hãy nên thánh, vì ta Đức Giê-hô-va là thánh, Ta đã phân rẽ các ngươi với các dân để các ngươi thuộc về ta” (Le 20:26). Sứ dồ Phi-e-rơ đã ứng dụng những lời này cho các tín hữu Cơ-đốc trong Hội thánh ngày nay (IPhi 1:15; IPhi 2:9-10).


Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời cũng được nhìn thấy qua sự kiện Ngài là Đức Chúa Trời duy nhất (Ne 9:6a). Dân tộc Y-sơ-ra-ên bị vây quanh bởi sự thờ thần tượng và lối sống trụy lạc được liên kết với sự thờ lạy tà thần. Khi đọc và giải thích Luật Pháp, E-xơ-ra chắc chắn đã nhấn mạnh 10 điều răn (Xu 20:1-17; Phuc 5:6-21), bao gồm 2 điều răn đầu tiên tuyên bố sự duy nhất của Đức Chúa Trời và sự nguy hại của việc thờ hình tượng. Thậm chí ngày nay những người Do-thái trung tín vẫn thuộc lòng bài “Shema” (Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe…) (Phuc 6:4-9) như sự tuyên bố đức tin nơi một Đức Chúa Trời chân thật duy nhất.


Một trong những chức vụ của Y-sơ-a-ên đối với thế giới là làm chứng cho Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật. Những người ngoại đạo láng giềng của họ ngạc nhiên rằng những người Do-thái không có thờ thần tượng nào (Thi 115:1-18). Khi Y-sơ-ra-ên hướng về hình tượng như họ đã từng làm, Đức Chúa Trời đã trừng phạt họ. Trong mắt Ngài sự thờ thần tượng giống như tội tà dâm (Gie 3:1-5). Vì Ngài đã “kết hôn” với họ tại núi Si-nai khi Ngài ban cho họ giao ước của Ngài.


Một chứng cớ thứ 3 về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời là sự kiện Ngài đã dựng nên vũ trụ (Ne 9:6b). “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sa 1:1) là một lời tuyên bố chỉ có thể được áp dụng cho Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Bất cứ khi nào Đức Chúa Trời muốn khích lệ dân Ngài, Ngài sẽ chỉ ra sự sáng tạo quanh họ và nhắc nhở họ rằng Ngài đã làm nên mọi vật (Es 40:1-30).

Đức Chúa Trời đã sử dụng cùng một phương cách để nhắc nhở họ về sự dại dột của việc thờ hình tượng (Es 41:1-29). Hãy nhớ Cha chúng ta ở trên trời là Đấng Tạo Hoá của mọi vật, là nguồn sức mạnh và sự bình an lớn lao. Sự thờ thần tượng là thờ lạy và hầu việc tạo vật và sự sáng tạo chứ không phải thờ phượng Đấng Tạo Hóa (Ro 1:25).

Augustine viết: “Vì vậy thế gian thật sự đã quên Ngài, Đấng sáng tạo ho, và họ chỉ yêu những gì Ngài đã tạo dựng thay vì yêu Ngài”.


Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời được nhìn thấy qua sự kiện về sự chăm sóc lo liệu của Ngài đối với tạo vật của Ngài (Ne 9:6c). Ngài không chỉ tạo nên mọi vật và rồi bỏ mặc chúng cho tiến trình của riêng chúng. Ngài có quan tâm đến những công việc của tạo vật Ngài: Ngài nhìn thấy cả khi một con chim sẻ rơi (Mat 10:29), Ngài cũng nghe được một con quạ kêu lên kiếm thức ăn (Thi 147:9). Ngài đến và gọi tên mọi vì sao (Thi 147:4) Ngài còn đếm được số tóc trên đầu bạn (Lu 12:7). “Chúa sè tay ra và làm thỏa nguyện khao khát của mọi loài sống” (Thi 145:6 NKJV).


Cuối cùng, sự vĩ đại của Đức Chúa Trời được nhìn thấy qua sự kiện các cơ binh trên trời thờ phượng Ngài (Ne 9:6d). Bạn và tôi không thể sao y những công việc quyền năng của các thiên sứ, nhưng chúng ta có thể bắt chước sự tận tụy của họ đối với Chúa khi họ thờ phượng trước ngôi Ngài. Và chúng ta có nguyên nhân để ngợi khen Ngài hơn họ có! Chúng ta đã được cứu bởi ân điển Đức Chúa Trời và một ngày nào đó chúng ta sẽ giống Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta không phải chỉ là những tôi tớ; Chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời (IGi 3:1-3) và sẽ ở với Ngài mãi mãi!


Trong sự thờ phượng của chúng ta, thật khôn ngoan để bắt đầu bằng sự vĩ đại của Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta tập trung quá mức vào những điều Ngài ban cho hoặc những việc Ngài muốn chúng ta làm, chúng ta có thể nhận thấy lòng mình trở nên ích ky. Sự thờ phượng thành thật tôn cao Đức Chúa Trời, bất chấp những hoàn cảnh hoặc cảm xúc hay ước muốn.


2. Sự Nhơn Từ Của Đức Chúa Trời (Ne 9:7-30)

Lời cầu nguyện này trình bày lại lịch sử của Y-sơ-ra-ên, bày tỏ sự nhân từ của Đức Chúa Trời đối cùng dân Ngài với việc họ nhiều lần không cảm kích những sự ban cho của Ngài và không vâng theo ý muốn Ngài.Từ “cho” được sử dụng cách này hay cách khác ít nhất 16 lần trong chương này (KJV), vì Đức Chúa Trời của chúng ta thật sự là “Đức Chúa Trời hằng sống” Đấng vui mừng đáp ứng những nhu cầu của dân Ngài (ITi 6:17).

Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sơ-ra-ên một xứ (Ne 9:8,15,35), Luật Pháp (c.19), chức vụ của Thánh Linh (c.20), thức ăn, nước (c.15,20), những đấng giải cứu (c.27) và sự chiến thắng kẻ thù (c.22,24). Họ có thể mong muốn gì hơn nữa?


Nhiều thế kỷ trước, Môi-se đã cảnh cáo dân sự đừng quên Đức Chúa Trời, bàn tay chúc phước nhân từ của Ngài hoặc bàn tay quở phạt yêu thương của Ngài (Phu 8:1-20). Ôi, dân tộc này đã không cảm tạ Đức Chúa Trời trong kỳ phước hạnh, nhưng nhanh chóng quay lại với Đức Chúa Trời để được giúp đỡ trong kỳ hoạn nạn (Thi 105:1-106:48). Chúng ta đừng quá nhanh chóng xét đoán họ, vì một số dân Đức Chúa Trời ngày nay cũng đang đối xử với Ngài theo cách như vậy.


Trong những năm thi hành chức vụ mục sư của tôi, tôi đã gặp những người ít quan tâm đến Đức Chúa Trời hoặc Hội thánh cho đến khi họ có môt người thân yêu phải nằm bệnh viện hoặc có xảy ra sự chết ai đó trong gia đình. Khi ấy mục sư và cả tập thể Hội thánh phải dành ra mọi thứ để giúp đỡ họ! Nhưng ngay khi cơn khủng hoảng qua đi, những người này lại quay về với đời sống cũ, phớt lờ những điều thuộc về Chúa và lại tiếp tục sống cho những điều thuộc thế gian.


Bạn có thể theo dấu kiểu mẫu bi kịch này trong mọi giai đoạn của lịch sử Y-sơ-ra-ên.


Thành lập dân tộc (Ne 9:7-18).

Đó là một hành động của ân điển thánh khi Đức Chúa Trời chọn Áp-ram và tỏ chính Ngài cho ông, vì lúc đó Áp-ram đang là người thờ thần tượng tại một thành ngoại đạo (Gios 24:2-3). Cuối cùng, Đức Chúa Trời đã đổi tên ông từ Áp-ram (“cha cao quý”) thành Áp-ra-ham (“cha của nhiều người”) vì Ngài đã hứa khiến ông trở thành một dân tộc lớn (Sa 12:1-3; Sa 17:1-8).

Dù Áp-ra-ham đôi lúc cũng bị sa ngã đức tin, nhưng ông đã trở lại tin cậy Chúa và bước đi trong sự vâng theo ý Ngài được một thế kỷ. Đức tin vâng lời của ông đặc biệt thể hiện rất rõ ràng khi ông dâng con trai I-sác của mình trên bàn thờ (Sa 22:1-24; He 11:17-19).


Giao-ước Đức Chúa Trời (Sa 12:1-3) là cơ sở của mọi điều Ngài làm cho Áp-ra-ham và con cháu ông. Đó là mục đích của Đức Chúa Trời để cả thế gian được chúc phước qua Y-sơ-ra-ên, và Ngài đã làm điều này qua việc Ngài sai Con Ngài, Chúa Giê-xu Christ đến thế gian (Ga 3:8). Đức Chúa Trời đã ban xứ cho Áp-ra-ham cùng con cháu ông, dù suốt cuộc đời Áp-ra-ham chẳng có gì trong xứ ngoài một hầm mộ để an táng ông lúc qua đời (Sa 23:1-20).


Trong xứ Ê-díp-tô, dân tộc Y-sơ-ra-ên đã sinh sản rất nhiều, họ nhìn thấy quyền năng của Đức Chúa Trời trên các thần ngoại bang, và họ cũng kinh nghiệm được sự giải cứu khỏi ách nô lệ bởi bàn tay toàn năng của Ngài (Xu 1:1-15:27). Đức Chúa Trời đã rẽ biển để đưa dân Y-sơ-ra-ên đi qua rồi lấp biển lại để tiêu diệt đội quân Ê-díp-tô. Đó là một sự giải cứu hoàn hảo. Dân Y-sơ-ra-ên không nên có mối quan hệ nào nữa với Ê-díp-tô.


Đức Chúa Trời đã dẫn dắt dân Ngài ngày và đêm, ban cho họ lương thực để ăn và nước để uống. Ngài cũng ban cho họ Thánh Luật của Ngài hầu cho trong đời sống công dân, cá nhân và tôn giáo, họ biết ý muốn Đức Chúa Trời. Lễ Sa-bát được ban cho như một dấu hiệu đặc biệt giữa Đức Chúa Trời và dân sự Ngài (Xu 31:13-17), nhưng không có chứng cớ nào trong Kinh Thánh cho thấy luật Sa-bát được ban cho bất cứ dân tộc ngoại bang nào.


Trong Ne 9:16-18 Nê-hê-mi cho chúng ta biết dân tộc Y-sơ-ra-ên đã đáp ứng ra sao đối với mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho họ. Họ không chịu quỳ xuống trước quyền phép Ngài (“cứng cổ”) không lắng nghe Lời Ngài (“không nghe”) và không vâng theo ý muốn Ngài. Tại Kadesh-Barnea, họ đòi tự mình xử lý những vấn đề của họ và chỉ định một lãnh đạo mới để đưa họ trở lại Ê-díp-tô (c.17; Dan 14:1-5). Khi Môi-se ở trên núi với Đức Chúa Trời, dân sự đã làm một hình tượng và thờ lạy (Ne 9:18; Xu 32:1-35). Môi-se cầu thay cho dân sự, và Đức Chúa Trời đã tha thứ cho họ.


Những người này làm sao lại có thể quay lưng với Đức Chúa Trời sau mọi điều Ngài đã làm cho họ? Bởi vì họ đã không thật sự yêu mến Ngài. Sự vâng lời của họ chỉ là một hình thức bên ngoài; nó không xuất phát từ trong lòng họ. Còn trong lòng họ, họ vẫn đang sống nơi Ê-díp-tô và muốn trở về nơi ấy. Họ đã không có một đức tin sống động nơi Đức Chúa Trời nhưng sẵn sàng nhận sự giúp đỡ của Ngài và hưởng những sự ban cho từ Ngài. Hãy đọc Thi 78:1-72 để có một tia “X-quang” về lịch sử thuộc linh của Y-sơ-ra-ên.


Dẫn dắt dân tộc (Ne 9:19-22).

Suốt 40 năm, dân Y-sơ-ra-ên bị trừng phạt trong đồng vắng, một thế hệ cũ đã chết và một thế hệ mới ra đời, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ từ bỏ dân sự Ngài. Ngài dẫn dắt họ bằng mây và lửa, dạy họ Lời Ngài, cung cấp cho họ mọi sự cần thiết của đời sống, ban cho họ sự chiến thắng trên kẻ thù, Đức Chúa Trời giữ những lời hứa Ngài và hoàn thành những mục đích của Ngài. Nếu chúng ta vâng lời Ngài, chúng ta sẽ được dự phần trong phước hạnh. Nếu chúng ta bất tuân Ngài, thì chúng ta sẽ đánh mất phước hạnh. Tuy nhiên, những mục đích của Đức Chúa Trời sẽ được hoàn thành và danh Ngài được vinh hiển.


Giống như nhiều người trong dân sự Đức Chúa Trời ngày nay, dân Do-thái đã bị thiển cận: Họ quên những mục đích vinh hiển mà Đức Chúa Trời nghĩ đến cho dân tộc. Nếu họ suy gẫm những lời hứa và mục đích của Đức Chúa Trời (Sa 12:1-3; Xu 19:1-8), thì họ sẽ không muốn trở lại Ê-díp-tô hoặc hoà lẫn vào các dân tộc bất kính quanh họ. Y-sơ-ra-ên là một dân tộc đã sống dưới những đặc quyền của họ và không chấp nhận hoàn toàn ý muốn của Đức Chúa Trời cho đời sống mình.


 Trừng phạt dân tộc (Ne 9:23-30).

Đức Chúa Trời đã hứa làm cho dân Ngài đông lên và Ngài đã giữ lời hứa đó (Sa 22:17). Ngài cũng hứa ban cho họ một xứ tốt đẹp, và Ngài đã giữ lời hứa đó (Sa 13:14-18; Sa 17:7-8). Dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, quân đội Y-sơ-ra-ên đã chiếm lấy Ca-na-an, chinh phục xứ, và có mọi của cải.Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã ban cho họ sự chiến thắng và giúp họ có được các thành, nhà cửa, đất đai với của cải trong xứ Ca-na-nan.


Đó là “một xứ màu mỡ” và Y-sơ-ra-ên trở nên một “dân mập béo” (được no nê, thỏa lòng), và điều này dẫn đến sự sa ngã của họ “Giê-su-run Y-sơ-ra-ên) đã mập mạp và cát đá, người trở nên mập mạp, người trở nên béo tròn, người được che phủ bằng mỡ, rồi người lìa bỏ Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên người” (Phuc 32:15 NKJV). Những lời cảnh cáo của Môi-se đã không được để ý đến (Phuc 8:1-20). Y-sơ-ra-ên vui mừng trong sự nhơn từ lớn của Đức Chúa Trời nhưng họ đã không vui mừng trong Chúa. Giống như người con trai hoang đàng trong (Lu 15:11-24), họ chỉ muốn của cải của Cha chớ không phải ý muốn của Cha.


Thomas Carlyle đã nói: “Cứ 100 người có thể chịu đựng nghịch cảnh, thì chỉ có một người có thể chịu đựng thuận cảnh”. Nhà tiểu thuyết John Steinbeck đã viết: “Nếu bạn muốn hủy diệt một quốc gia, hãy cho nó thật nhiều, hãy khiến nó tham lam, khốn khổ và bệnh hoạn”. Một Hội thánh địa phương có thể trở nên kiêu ngạo về “của cải” mình có và trở nên nghèo nàn trong mắt Đức Chúa Trời (Kh 3:14-22). Hội thánh nào chúng ta nghĩ là nghèo nhưng có thể đó là Hội thánh giàu trong mắt Đức Chúa Trời (Kh 2:8-9).


A-gu-rơ là người khôn ngoan đã cầu nguyện: “Chớ cho tôi nghèo khổ, hoặc sự giàu sang. Hãy nuôi tôi bằng vật thực Ngài ban cho tôi, E khi tôi no đủ, tôi từ chối Chúa mà rằng ‘Đức Giê-hô-va là ai?’ và lại kẻo tôi bị nghèo khổ sẽ đi ăn trộm, và làm ô danh Đức Chúa Trời tôi chăng!” (Ch 30:8-9 NKJV). Nhờ quyền năng của Đấng Christ, Phao-lô đã học bằng kinh nghiệm “cách chịu nghèo hèn” và “cách để dư dật” (Phi 4:12), đó là bài học mà mọi con dân Đức Chúa Trời cần phải học.


Khi ở trong xứ, Y-sơ-ra-ên đã hưởng sự yên nghỉ suốt thời kỳ của Giô-suê và các trưởng lão đồng hầu việc với ông. Nhưng khi những lãnh đạo tin kính này qua đời, thế hệ mới đã quay lưng với Chúa (Cac 2:6-15). Đức Chúa Trời đã trừng phạt họ vì vậy họ khóc lóc xin được cứu giúp; và Đức Chúa Trời đã dấy lên những người giải cứu họ. Sau đó họ bước đi trong đường lối Đức Chúa Trời một thời gian, rồi sa vào tội lỗi trở lại, và chu trình được lặp lại.

Sách Các Quan-xét ghi lại câu chuyện đáng buồn về cách Đức Chúa Trời trừng phạt dân Ngài trong xứ của họ bằng cách để cho những láng giềng ngoại đạo của họ cai trị họ.


Ánh sáng rực rỡ về thành tín của Đức Chúa Trời đã chiếu sáng trên bối cảnh tối tăm do sự bất tín của Y-sơ-ra-ên. Khi dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Ngài, Ngài thành tín chúc phước, khi họ bất tuân Ngài, Ngài thành tín trừng phạt; khi họ cầu xin sự thương xót, Ngài thành tín tha thứ. Đức Chúa Trời sẵn sàng ban cho dân Ngài nhiều đặc quyền, nhưng Ngài sẽ không ban cho họ đặc quyền phạm tội và theo ý riêng. Những mục đích của Đức Chúa Trời quan trọng hơn những ý thích của chúng ta, và Ngài sẽ hoàn thành mục đích của Ngài dù Ngài phải trừng phạt chúng ta để làm điều đó.


Những tội lỗi của Y-sơ-ra-ên cuối cùng trở nên quá kinh tởm đối với Đức Chúa Trời đến nỗi Ngài quyết định trừng phạt đuổi họ ra khỏi xứ của họ. Ngài đã dùng dân A-si-ry hủy diệt Vương quốc phía Bắc, rồi Ngài đem dân Ba-by-lôn đến chiếm luôn Vương quốc phía Nam (Giu-đa) và hủy phá Giê-ru-sa-lem cùng Đền Thờ. Dường như Đức Chúa Trời đã phán với dân Ngài rằng: “Các ngươi hưởng đời sống giống như những kẻ ngoại đạo quá nhiều, cho nên ta sẽ cho các ngươi sống cùng với kẻ ngoại đạo”. 70 năm dân tộc bị bắt giữ ở Ba-by-lôn đã dạy họ đánh giá đúng đắn những phước hạnh mà họ đã xem nhẹ, và từ đó họ chẳng bao giờ trở lại với sự thờ lạy tà thần nữa.


Sự trừng phạt của Đức Chúa Trời như một chứng cớ về tình yêu của Ngài và là sự cung cấp dồi dào của Ngài cho những nhu cầu của chúng ta (He 12:1-11). Chúng ta phải biết ơn rằng Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta quá đỗi nên không cho phép chúng ta trở nên “con cái hư hỏng”. Cha không bao giờ gần với chúng ta khi Ngài đang trừng phạt chúng ta.

“Hỡi Đức Giê-hô-va! Phước cho người nào Ngài sửa phạt và dạy luật pháp Ngài cho, Ngài ban cho người ấy được an nghỉ trong ngày hoạn nạn, cho đến khi hầm đã đào xong cho những kẻ ác” (Thi 94:12-13 NIV).

“Trước khi chưa bị hoạn nạn, thì tôi lầm lạc, nhưng bây giờ tôi gìn giữ Lời Chúa” (Thi 119:67).


3. Ân Điển Của Đức Chúa Trời (Ne 9:31-38)

Đức Chúa Trời tử tế với dân sự Ngài khi dân sự Ngài không tử tế với Ngài, Ngài đã sai đến với họ những tiên tri dạy dỗ họ và cảnh cáo họ, nhưng họ không chịu nghe (IISu 36:14-21). Ngài đầy thương xót tha thứ họ khi họ khóc lóc cầu xin sự giúp đỡ, và Ngài nhẫn nhục với họ khi họ tiếp tục chống nghịch Lời Ngài. Lẽ ra Ngài có thể hủy diệt dân tộc và khởi đầu trở lại (Xu 32:10; Dan 14:11-12), nhưng Ngài nhân từ tha thứ họ. Trong sự thương xót, Đức Chúa Trời không ban cho họ điều họ đáng lãnh, và trong ân điển Ngài ban cho họ điều họ không xứng đáng được.


Khi những người Lê-vi cầu nguyện, họ nhận biết tội lỗi của dân tộc và sự công bình của Đức Chúa Trời trong việc giáng sự trừng phạt. “Trong mọi việc xảy đến cho chúng tôi, Chúa vẫn công bình, Chúa hành động cách thành tín, còn chúng tôi làm sai” (Ne 9:33 NIV). Hãy chú ý rằng những người Lê-vi đã sử dụng đại từ “chúng tôi” chớ không phải “họ”. Khi cầu nguyện, họ đã đồng nhất hoá họ với dân tộc và nhận biết tội lỗi của chính mình. Nê-hê-mi đã cầu nguyện giống như vậy ở phần mở đầu sách (Ne 1:6-7). Thật dễ nhận biết tội lỗi người khác, nhưng Đức Chúa Trời chỉ tha thứ khi chúng ta ăn năn và xưng ra tội lỗi của chính mình.


Trong quá khứ, dù dân tộc này đã hưởng những phước hạnh dư dật, họ vẫn phạm tội nghịch với Đức Chúa Trời là Đấng đã chúc phước cho họ. Giờ đây những phước hạnh này đã bị cất khỏi họ. Họ trở về xứ, nhưng họ không thể hưởng được xứ, vì mọi thứ họ làm ra, giờ đã bị đem cho người khác! Vua Ba-tư điều khiển mọi sự, kể cả thân xác họ.


Khi Đức Chúa Trời làm vua của họ, dân Do-thái đã hưởng sự chúc phước lớn lao. Nhưng họ chống nghịch ý muốn Ngài, họ nhận ra mình bị biến thành nô lệ cho những vua không có lòng thương xót họ. Sa-mu-ên đã cảnh cáo họ (ISa 8:1-22), và Môi-se đã nói tiên tri rằng dân tộc sẽ đánh mất sự giàu có cho những kẻ chinh phục (Phuc 28:15).

Bất cứ điều gì chúng ta không dâng cho Đức Chúa Trời thì chúng ta cũng không thể giữ lại cho mình. Ngài sẽ cất nó đi cách này hay cách khác. Cơ-đốc nhân nào không tôn kính Đức Chúa Trời với tinh thần vui mừng bằng cách trung tín dâng hiến, thì thường người ấy sẽ đi đến chỗ phải tiêu số tiền định dâng hiến đó cách miễn cưỡng vì bắt buộc và có thể bị tổn thất không ngờ vào những khoản như cho toa bác sĩ hoặc cho việc sữa chữa nhà (Ma 3:7-12).


Những người Lê-vi biết sự vĩ đại với sự nhân từ của Đức Chúa Trời và giờ đây, trên cơ sở của ân điển Ngài, họ cầu xin Ngài một khởi đầu mới cho dân tộc. Họ không thể thay đổi cảnh nô lệ mà họ đang lâm vào, nhưng họ có thể dâng mình cho một Chủ vĩ đại hơn và tìm kiếm sự giúp đỡ của Ngài. Cho dù ai thống trị trên chúng ta, nếu chúng ta đầu phục Chúa, thì chúng ta sẽ được tự do trong Ngài (ICo 7:22; Eph 6:5-9). Nếu Đức Chúa Trời đã thương xót Y-sơ-ra-ên trong quá khứ, tha thứ tội lỗi của họ khi họ kêu xin Ngài, thì giờ đây lẽ nào Ngài lại chẳng thương xót họ sao?


Nhưng họ đã hành động nhiều hơn là cầu xin Đức Chúa Trời thương xót, họ cũng lập một giao ước trọng thể với Ngài để vâng theo luật pháp của Ngài và làm theo ý muốn Ngài. Họ đã lập một giao ước với Đức Chúa Trời tại núi Si-nai và rồi họ lại phạm giao-ước (Xu 24:3-8). Họ đã phục hồi giao ước khi họ bước vào Ca-na-an (Gios 8:30-35) sau khi họ chinh phục xứ (Gios 24:14-28), nhưng rồi họ đã chống nghịch Chúa (Cac 2:6-15).


Sa-mu-ên đã dẫn dắt dân sự trong việc phục hồi những hứa nguyện giao ước của họ (ISa 11:14-12:25), nhưng vua Sau-lơ đã dẫn dân sự vào tội lỗi và sự chiến bại. Ngay khi ngôi của ông được an ổn, Đa-vít tìm cách đem dân sự trở lại với Chúa (IISa 6:1-23), và lời cầu nguyện của Sa-lô-môn tại lễ dâng hiến đền thờ cũng là một bước trong phương hướng đó. Nhưng đáng buồn thay, Sa-lô-môn đã phạm tội nghịch với Chúa và gần như hủy hoại vương quốc của mình.


Suốt lịch sử Y-sơ-ra-ên, luôn có một số người trung tín sót lại là những người tin cậy Đức Chúa Trời, vâng theo ý muốn Ngài và cầu nguyện để Ngài thực hiện những lời hứa của Ngài (IVua 19:18; Es 1:9; Lu 2:38). Những người tin kính sót lại này là “đường cách mệnh” của Đức Chúa Trời để duy trì chức vụ của Y-sơ-ra-ên trên thế giới. Họ đã giữ cho ánh sáng của đức tin và hy vọng cháy lên trong xứ, và vì họ, Đức Chúa Trời có thể thực hiện lời hứa của Ngài và đưa Chúa Cứu Thế vào thế gian. Dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem trong thời Nê-hê-mi là một phần của nhóm người sót lại đó, và Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện của họ.


Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời vinh hiển (Ne 9:5).

Ngài đầy quyền năng (c.6), thành tín (c.8) và quan tâm những nhu cầu của dân Ngài (c.9). Ngài là một Đức Chúa Trời tha thứ (c.17-19,31), Đấng nhẫn nhục khi chúng ta phạm tội, Ngài sẽ sửa phạt nếu chúng ta chống nghịch (c.26). Ngài là Đức Chúa Trời rời rộng, hào phóng (c.24-25,35), là Đấng ban cho chúng ta nhiều hơn chúng ta đáng được nhận. Ngài là Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài dù chúng ta bất trung.

Chắc chắn Đức Chúa Trời xứng đáng được sự vâng phục yêu mến của chúng ta!

Có lẽ đã đến lúc cho một khởi đầu mới.



 


10. SAU KHI CHÚNG TA NÓI “A-MEN” (Ne 10:1-39)

Câu chuyện sau đây có thể là chuyện ngụy tác, nhưng nó minh họa cho vấn đề chương này nói đến.


Trong một Hội thánh nọ, có một người luôn kết thúc lời cầu nguyện với những câu: “Và hỡi Chúa, xin hãy xóa những mạng nhện khỏi đời sống con! Hãy xóa những mạng nhện khỏi đời sống con!”


Một thuộc viên của Hội thánh tỏ ra rất bực mình khi nghe lời cầu xin thiếu thành thật ấy cứ lặp đi lặp lại hết tuần này sang tuần khác, vì ông thấy không có gì thay đổi trong đời sống của người cầu nguyện. Vì vậy, lần kế tiếp ông nghe người này cầu rằng: “Lạy Chúa, xin hãy xoá những mạng nhện khỏi đời sống con!”, thì ông liền ngắt lời: “Chúa ơi!, trong khi Ngài hiện diện ở đó, xin hãy giết con nhện!”


Dâng lên Chúa một lời cầu nguyện xưng tội thiết tha, như chúng ta có trong chương 9 là một việc, sống một đời sống vâng phục sau khi chúng ta nói “A-men” lại là một việc khác. Nhưng dân sự trong buổi nhóm tỏ ra rất nghiêm túc về sự cầu nguyện của họ và bởi ân điển Đức Chúa Trời, họ quyết định thực hiện một khởi đầu mới và sống đẹp lòng Chúa.


Alexander Whyte đã nói: “Đời sống Cơ-đốc đắc thắng là một chuỗi những khởi đầu mới”. Chúa có thể giữ chúng ta khỏi vấp ngã (Giu 1:24); nhưng nếu chúng ta vấp ngã, Ngài có thể nâng chúng ta dậy và khiến chúng ta tiếp tục trở lại. “Các bước của người tốt do Đức Giê-hô-va định liệu, và Ngài thích đường lối người ấy. Dù người té, người sẽ không nằm sải dài, vì Đức Giê-hô-va lấy tay Ngài nâng đỡ người” (Thi 37:23-24 NKJV). Cả dân tộc đã phạm tội, nhưng giờ đây họ đang thực hiện những bước mới của sự dâng mình và vâng phục.


Nhưng sự dâng mình của họ có thật không? Có ít nhất 3 chứng cớ được trình bày trong chương này cho thấy những người này thật sự hiểu điều họ cầu nguyện. Những chứng cớ giống như thế sẽ được nhìn thấy trong đời sống chúng ta nếu những lời hứa của chúng ta đối với Chúa là thành thật.


1. Sự Đầu Phục Lời Đức Chúa Trời (Ne 10:1-27,29)

Cùng với tên của Nê-hê-mi dẫn đầu danh sách, 84 người nữa đã đóng dấu họ vào giao ước họ đã lập với Chúa. Danh sách này gồm có các thầy tế lễ (c.2-8 Ne 12:1-7), những người Lê-vi (Ne 10:9-13) và các quan trưởng của dân sự (c.14-27). Những công dân khác đã ghi tên vào giao ước là những người không “đóng dấu của mình” cách cá nhân (c.28), kể cả vợ và con cái họ là những người không có đặc quyền để đóng dấu riêng vào một văn kiện chính thức. Tất cả dân sự đã nghe Lời Đức Chúa Trời được đọc và giải thích, giờ đây đang cam kết vâng theo những điều họ đã nghe.


Ký tên vào văn kiện này là một vấn đề nghiêm túc vì nó có nghĩa là lập một thề nguyện long trọng trước Chúa (c.29 Ne 5:13). Có lẽ họ đã nghe E-xơ-ra đọc đoạn này từ Phục-truyền: “Hết thảy các ngươi ngày nay đứng trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, các trưởng tộc, các chi phái, các trưởng lão, các quan cai, mọi người nam của Y-sơ-ra-ên, những con trẻ và vợ các ngươi… hầu cho các ngươi có thể vào trong giao ước với Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, và vào trong lời thề mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi lập cùng ngươi ngày nay, hầu cho ngày nay Ngài lập ngươi lên làm dân của Ngài, và Ngài làm Đức Chúa Trời ngươi, y như Ngài đã phán cùng ngươi, và y như Ngài đã thề cùng tổ phục ngươi, là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp” (Phuc 29:10-13 NKJV).


Luật pháp cai trị những lời thề và hứa nguyện được tìm thấy trong sách Dân-số ký đoạn 30 và được mở đầu bằng những lời này: “Khi một người nào có hứa nguyện cùng Đức Giê-hô-va hoặc phát thề buộc chính mình bằng một lời hứa, người ấy chớ nên thất tín nhưng phải làm mọi điều mình đã nói” (c.3, NIV). Vì một lời thề có liên quan đến danh Đức chúa Trời và sự xét đoán có thể xảy ra của Ngài thì không nên được thực hiện sơ sài. Chúa Giê-xu đã cảnh cáo lên án việc thề nguyền rỗng tuếch (Mat 5:33-37; Mat 23:16-22) và Sa-lô-môn đã đưa ra một cảnh cáo tương tự (Tr 5:1-7).


Các tín hữu ngày nay có nên tự buộc mình bằng những lời thề khi họ muốn bước đi với Chúa và hầu việc Ngài hay không? Có lẽ là không nên. Mối liên hệ của chúng ta với Chúa là mối liên hệ của con cái với một người Cha, và Cha của chúng ta muốn sự vâng phục của chúng ta được đặt cơ sở trên tình yêu. Tôi không biết có ví dụ nào trong Kinh Thánh Tân-ước đề cập các tín hữu lập lời thề về sự vâng phục trước Chúa. Sự vâng phục của chúng ta phải là một đáp ứng vui mừng với mọi điều Ngài đã làm cho chúng ta trong Đấng Christ (Co 3:1).

Chúng ta thành công với tư cách Cơ-đốc nhân không phải vì chúng ta lập lời hứa với Đức Chúa Trời, nhưng vì chúng ta tin những lời hứa của Ngài và hành động theo những lời hứa ấy. Những lời thề nguyện thường được đặt cơ sở trên sự kính sợ (“Tôi thà làm điều đó nếu không Đức Chúa Trời sẽ xét đoán tôi!”), và sự kính sợ không phải là động cơ cao nhất cho đời sốntg tin kính dù nó đóng vai trò một phần (IICo 7:1).


2. Biệt Riêng Ra Làm Dân Sự Của Đức Chúa Trời (Ne 10:28,30-31)

Những người dân Do-thái còn sót lại bị vây quanh bởi những người ngoại đạo thờ thần tượng là những người muốn dân Do-thái trở thành một phần trong xã hội con người, tôn giáo và thương mại của họ. Nhưng luật Môi-se cấm dân sự Đức Chúa Trời sống như người ngoại bang dù nó không ngăn trở dân Do-thái làm người láng giềng tốt hoặc thậm chí làm những khách hàng tốt (Ne 13:15-22). Chức vụ của các thầy tế lễ là dạy dân sự “phân biệt điều chi là thánh và điều chi là phàm tục và làm cho họ biết phân biệt giữa điều ô uế và điều thánh sạch” (Exe 44:23 NIV).


Sự riêng biệt đơn giản là sự dâng mình hoàn toàn cho Đức Chúa Trời, dù bất cứ giá nào. Khi một người nam hoặc người nữ đã kết hôn, họ biệt mình riêng ra khỏi tất cả những người bạn khác và dâng hiến cho nhau hoàn toàn. Đó là toàn bộ cam kết được thúc đẩy bởi tình yêu, và đó là một quyết định quân bình: Chúng ta biệt riêng khỏi người khác cho người làm bạn đời của chúng ta.


Dân Do-thái đã biệt riêng khỏi các dân quanh họ vì Chúa và Lời Ngài (Ne 10:28 Ne 9:2).

Họ cũng hiệp với anh chị em mình trong việc hứa vâng theo Luật Pháp Đức Chúa Trời (c.29). Sự biệt riêng mà bỏ qua Đức Chúa Trời và các tín hữu khác là sự cô lập và cuối cùng sẽ dẫn đến tội lỗi. Chỉ có Thánh Linh Đức Chúa Trời mới có thể ban cho chúng ta sự quân bình mà chúng ta cần để sống một đời sống tin kính giữa thế gian bất kính này. Người theo chủ nghĩa luật pháp muốn sống bằng những luật lệ, nhưng lối sống đó chỉ làm cho bạn không trưởng thành và lệ thuộc vào lãnh đạo thuộc linh của bạn. Cách duy nhất để tăng trưởng trong một đời sống quân bình là dâng mình hoàn toàn cho Đức Chúa Trời và đi theo Ngài bằng đức tin.


Hai lãnh vực được quan tâm đặc biệt ở đây là hôn nhân và ngày Sa-bát. Hiểm họa trong những cuộc hôn nhân với người ngoại đạo là sự đánh mất đức tin về phần của người chồng hoặc người vợ Do-thái (Xu 34:10-17).

Giả sử có một người Do-thái nào đó đi kết hôn với người ngoại đạo thì người ấy làm sao có thể tuân theo những luật kiêng ăn hoặc tham dự những kỳ lễ hằng năm được? Người ấy sẽ liên tục bị ô uế về mặt nghi thức. Giữa chồng và vợ sẽ có mâu thuẫn thường trực, sau đó là sự thỏa hiệp ngẫu nhiên, cuối cùng là sự thích ứng hoàn toàn, và người bạn đời Do-thái sẽ phải từ bỏ di sản thuộc linh của mình.


Tại sao người Do-thái lại muốn kết hôn với người ngoại đạo? Ngoài ảnh hưởng tác động đến sự khởi đầu, có lẽ họ muốn kết hôn còn vì lý do địa vị xã hội (Ne 13:28) hoặc để tiến triển trong kinh doanh. Giống như một số tín hữu ngày nay kết hôn với người không tin, những người Do-thái này có thể đã lý luận rằng hôn nhân sẽ cho họ cơ hội thay đổi người bạn đời của họ đến đức tin thật, dù đó thường là điều ngược lại. Đức Chúa Trời đã có một mục đích lớn cho dân Y-sơ-ra-ên thực hiện và sự thỏa hiệp của dân Do-thái đối với tội lỗi đã làm ô uế dân tộc (Ma 2:10-16). Đức Chúa Trời muốn một “hạt giống tinh khiết” để qua Y-sơ-ra-ên Ngài có thể sai Con Ngài vào thế gian làm Chúa Cứu Thế, và những hôn nhân với người ngoại đạo chỉ đem đến sự lộn xộn.


“Chúng tôi cứ việc yêu nhau và kết quả ra sao thì ra!” là lý luận mà nhiều mục sư nghe từ các Cơ-đốc nhân muốn kết hôn với người không được cứu. Nhưng vấn đề không phải là “liệu hôn nhân này sẽ tiến triển tới đâu?” nhưng là “Liệu hôn nhân này có hưởng được phước hạnh tốt nhất của Đức Chúa Trời và làm trọn ý muốn Đức Chúa Trời không?”. Thật khó mà hiểu được Đức Chúa Trời có thể chúc phước và sử dụng những người bất tuân Lời Ngài như thế nào (IICo 6:14-7:1; ICo 7:39).


Việc giữ ngày Sa-bát đặc biệt là một thông lệ của dân Do-thái (Ne 9:14; Xu 20:8-11; Xu 30:12-18). Dân ngoại quanh Giê-ru-sa-lem sẽ xem ngày thứ bảy trong tuần như bất cứ ngày nào khác để hoạt động xã hội vào kinh doanh. Mặc dù ngày Sa-bát của Do-thái không phải là một ngày của cảnh nô lệ và sự khốn khổ, đó là ngày được dành để nghỉ ngơi và suy gẫm những điều thuộc linh.

Đó là điều nhắc nhở mỗi tuần đối với dân tộc rằng họ là dân Do-thái và có một sự kêu gọi đặc biệt trong thế gian. Một số thương buôn Do-thái đặc biệt sẽ quan tâm về việc nắm bắt công việc kinh doanh từ dân ngoại và tiến hành kinh doanh vào cái ngày mà người mua sắm dường như lãng phí.


Môi-se đã không cho biết rõ những luật lệ cụ thể của việc tuân giữ ngày Sa-bát, nhưng có một tiền lệ là không nên bận rộn với những việc không cần thiết. Họ không được đốt lửa vào ngày Sa-bát (Xu 35:1-3) và một người đã bị ném đá chỉ vì anh ta nhặt củi vào ngày Sa-bát (Dan 15:32-36). Các tiên tri đã nghiêm khắc quở trách dân Do-thái về việc vi phạm ngày Sa-bát (Gie 17:19-27; Am 8:4-6; Es 56:1-2; Es 58:13-14), vì sự bất tuân của họ là triệu chứng của một vấn đề thuộc linh sâu xa hơn: chống nghịch Chúa.


Sự xác quyết nghiêm túc về đức tin được tường thuật trong chương này cũng bao gồm việc tuân giữ năm Sa-bát (Le 25:1-7,20-22; Phuc 15:1-11). Mỗi năm thứ bảy, dân Do-thái phải cho đất nghỉ ngơi để nó có thể tự phục hồi, một nguyên tắc tuyệt vời của sinh thái học. Dĩ nhiên, dân sự sẽ cần có đức tin lớn để tin cậy vào việc Đức chúa Trời hứa ban thực phẩm cho họ trong hai năm, và Ngài cũng hứa chăm sóc họ. Sau 7 năm Sa-bát họ phải kỷ niệm năm thứ 50 làm “Năm Hân Hỉ” (Le 25:8). Và điều này có nghĩa là sự tin cậy Đức Chúa Trời ban lương thực cho họ trong ba năm.


Bằng chứng đó cho thấy dân tộc đã không trung tín giữ những nghi thức Sa-bát đặc biệt này. Đây là một lý do vì sao Đức Chúa Trời đã phó họ vào sự lưu đày (IISu 36:21), để Ngài có thể cho đất nghỉ 70 năm (Gie 29:10). Điều này sẽ đền bù cho khoảng 500 năm bất tuân của dân tộc (7x70), một năm cho năm Sa-bát hoặc năm Hân Hỉ đã bị bỏ qua.


Đối với những người Do-thái còn sót lại, việc thực hiện lời hứa kỷ niệm năm Sa-bát là một bước lớn của đức tin, vì có nhiều người nghèo khổ và cả dân tộc đã phải đối diện với sự suy sụp liên tục về nông nghiệp và kinh tế. Chỉ cần thiếu sản phẩm phụ cho cả một năm chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ với dân ngoại xung quanh. Thiện ý vâng phục luật lệ này của dân sự là một minh họa đẹp đẽ trong (Mat 6:33).


3. Dân Sự Ủng Hộ Cho Nhà Đức Chúa Trời (Ne 10:32-39)

Nhóm từ “nhà Đức Chúa Trời chúng tôi” được sử dụng 9 lần trong phân đoạn này và chỉ về đền thờ đã được tu sửa. Dân sự hứa với Đức Chúa Trời rằng họ sẽ vâng theo những luật lệ của Ngài và cung cấp những gì cần thiết cho chức vụ ở đền thờ. “Chúng tôi sẽ chẳng lìa bỏ nhà của Đức Chúa Trời chúng tôi đâu” (c.39).


Diễn giả người Anh G.Campbell Morgan đã nói: “Mặc dù nhà Đức Chúa Trời ngày nay không còn mang tính vật chất nữa mà là mang tính thuộc linh, tuy nhiên, vật chất vẫn là một tượng trưng rất thật của những điều thuộc linh. Khi Hội Thánh Đức Chúa Trời ở bất cứ nơi nào trong bất cứ địa phương nào mà không quan tâm về vai trò vật chất của buổi nhóm, nơi thờ phượng và công việc của nó, thì đó là một dấu hiệu và là chứng cớ rằng đời sống của Hội Thánh ấy đang ở mức thấp kém”.


Morgan đã nói đúng. Chắc chắn, Đức Chúa Trời không sống trong những ngôi nhà mà chúng ta nhóm lại để thờ phượng Ngài (Es 60:1-2; Công 7:48-50), nhưng cách chúng ta chăm sóc những toà nhà đó cho thấy điều chúng ta nghĩ về Đức Chúa Trời của mình (Ag 1:1-15). Đền thờ Do-thái được tu sửa lại không mang vẻ tráng lệ của đền thờ Sa-lô-môn đã xây dựng (Exo 3:8-13; Ag 2:1-9), nhưng đó là nhà của Đức Chúa Trời không thay đổi và xứng đáng với sự ủng hộ của dân sự Đức Chúa Trời.


Sự hứa hẹn ủng hộ của họ mang tính cụ thể và bao gồm 4 lĩnh vực khác nhau của chức vụ.


Thuế đền thờ (Ne 10:32-33).

Sự kê khai dân số hằng năm của những người từ 20 tuổi trở lên được hỗ trợ bằng việc đóng thuế nửa siếc-lơ được dùng để giúp cho chức vụ của nhà Đức Chúa Trời (Xu 30:11-16). Thuế là sự nhắc nhở dân sự rằng Đức Chúa Trời đã cứu chuộc họ và đã trả một giá để giải phóng họ, họ phải cư xử như người đã thuộc về Đức Chúa Trời. Khoản thuế trước đây nguyên được sử dụng để làm những lễ trụ đồng và đinh trụ (Xu 38:25-28) nhưng những năm sau đó nó giúp trả những chi phí của chức vụ.


Có những thời kỳ khó khăn, nên những lãnh đạo đã quyết định điều chỉnh khoản thuế và dâng 1/3 siếc-lơ thay vì nửa siếc-lơ (vào thời Chúa chúng ta thi hành chức vụ trên đất, khoản thuế đã trở lại nửa siếc-lơ Mat 17:24-27). Sự thay đổi tạm thời này không thay đổi ý nghĩa của truyền thống hoặc làm giảm đi sự tận hiến của dân sự. Dân sự Đức Chúa Trời phải có ý thức chung khi họ tìm cách vâng lời Đức Chúa Trời. Chúng ta không nên tự đặt cho mình những gánh nặng mà Đức Chúa Trời không bao giờ mong chúng ta mang lấy (Công 15:10), nhưng chúng ta cũng không nên tìm phương cách yêu cầu dễ nhất và ít nhất để hầu việc Chúa.


Ne 10:33 mô tả cách tiền bạc sẽ được sử dụng: để cung cấp những gì cần thiết cho chức vụ thông thường và đặc biệt ở đền thờ, tất cả điều đó thuộc về “công việc của nhà Đức Chúa Trời chúng ta”. Nếu dân tộc phải ở trong một mối liên hệ đúng đắn với Chúa, các thầy tế lễ phải thi hành chức vụ mình cách trung tín.


Chúng ta ngày nay không phải cung cấp thú vật, thóc lúa và những vật chất khác cho nhà thờ để thờ phượng Chúa, nhưng chúng ta phải giúp duy trì công việc của chức vụ. Điều này nghĩa là tín hữu của Hội Thánh phải trả những khoản lương cho mục sư, truyền đạo (Lu 10:7), chia sẻ với người nghèo khó (ICôr 16:1-3), và làm những quản gia nhơn lành của mọi điều mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta (IICôr 8:1-9:15), hầu cho Tin Lành có thể được rao ra khắp thế giới. “Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mat 6:21). Nếu chúng ta bước đi với Chúa, chúng ta sẽ muốn thực hiện phần của mình trong việc hỗ trợ chức vụ của Hội Thánh nơi Đức Chúa Trời đã đặt để chúng ta.


Dâng củi (Ne 10:34).

Vì lửa trên bàn thờ bằng đồng phải được giữ cho cháy luôn luôn (Le 6:12-13) nên nó đòi hỏi một sự cung cấp củi đều đặn; và củi là một nguyên liệu cần. Các lãnh đạo bắt thăm và ấn định cho các thị tộc khác nhau thời gian họ phải đem củi đến dùng cho bàn thờ. Một điều khiêm nhường giống như củi rất quan trọng cho sự hầu việc Đức Chúa Trời và có thể được thánh hoá vì vinh hiển Ngài là một sự khích lệ đối với tôi. Không phải mọi người ở Y-sơ-ra-ên có thể làm thầy tế lễ hoặc người Lê-vi, hay dâng chiên hoặc bò làm của lễ, nhưng mọi người có thể đem đến một ít củi và giúp giữ cho lửa cháy.


Không có những chỉ dẫn đặc biệt nào trong Luật Pháp liên quan đến sự dâng hiến này, nhưng theo lời truyền khẩu rằng có một số ngày nào đó trong năm được biệt ra cho dân sự đem củi đến nơi thánh khi Đức Chúa Trời nhưng ở đây chúng ta có được những chỉ dẫn cụ thể, chúng ta chỉ biết có nhu cầu phải được đáp ứng và phải tìm ra cách để làm công việc. Vì các thầy tế lễ cần củi cho bàn thờ, nên dân sự có thể cung cấp củi, một hệ thống hợp lý đã tiến triển.


Trái đầu mùa (Ne 10:35-37a).

Dân Do-thái được dạy phải dâng cho Đức Chúa Trời những điều ưu tiên và tốt nhất, đây là một gương tốt cho chúng ta noi theo ngày nay. “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con mà tôn vinh Đức Giê-hô-va” (Ch 3:19). Vì Đức Chúa Trời đã cứu những con đầu lòng Do-thái khỏi chết ở đất Ê-díp-tô, nên người và thú vật sinh đầu lòng phải thuộc về Chúa (Xu 14:1-16; Le 27:26-27). Con đầu lòng phải được chuộc bằng một của lễ (Xu 34:19-20; Lu 2:22-24) vì con đó thuộc về Đức Chúa Trời.


Trong Kinh Thánh không có chỗ nào cho chúng ta biết dân sự phải đem đến đền thờ bao nhiêu trái đầu mùa (Xu 23:19; Xu 34:26), nhưng của dâng hiến phải được đem đến trước khi dân sự làm bất cứ công việc gì với vụ mùa của họ. Những của dâng này được dự trữ cho các tôi tớ đền thờ sử dụng (Ne 12:44). Chắc chắn của dâng phải được đo lường bằng ơn phước Đức Chúa Trời đã ban cho dân sự Ngài, cũng như sự tận tâm của họ đối với Ngài.


Phần mười (Ne 10:37b-39).

Dân Do-thái phải dâng 1/10 sản vật của họ cho Chúa mỗi năm để cấp dưỡng cho người Lê-vi (Le 27:30-34). Người Lê-vi sau đó dâng (1/10 của 1/10) cho các thầy tế lễ (Dan 18:25-32).

Dân Do-thái cũng phải trích 1/10 của 90% còn lại và đem đến đền thờ cho những kỳ lễ hằng năm (Phuc 26:1-11). Hai phần mười này được thêm vào phần mười thứ 3 vào mỗi năm thứ 3 dành cho người nghèo (Phuc 26:12-15; Phuc 14:28-29). Khi đời sống thuộc linh trong Y-sơ-ra-ên ở mức độ thấp kém, có rất ít của dâng được dâng cho đền thờ để giúp cho chức vụ, và nhiều người Lê-vi đã phải tìm đến những phương tiện giúp đỡ khác. Còn trong thời kỳ dân sự có đời sống thuộc linh mạnh mẽ, thì họ đã dâng hiến rất nhiều (IISu 31:1-12; Ma 3:8-11).


Mặc dù không có mệnh lệnh cấp bách trong Tân-ước rằng dân sự Đức Chúa Trời phải dâng 1/10 hôm nay, nhưng việc dâng hiến theo tỉ lệ chắc chắn được đề cao (ICo 16:1-3). Chúng ta là quản gia của cải của Đức Chúa Trời và phải sử dụng cách khôn ngoan những gì Ngài chia sẻ với chúng ta (ICo 4:1-2). Nếu dân sự sống dưới Luật Pháp Cựu-ước mà đã có thể dâng 3/10, còn chúng ta ngày nay sống dưới giao ước mới trong ân điển dư dật của Đức Chúa Trời thì lại càng phải dâng nhiều hơn bao nhiêu nữa? (xem IICo 8:1-9:15 và chú ý sự lặp lại từ “ơn”). Việc dâng phần mười có thể là một phước hạnh lớn, nhưng những người dâng phần mười phải tránh ít nhất ba hiểm hoạ:


1. Dâng với động cơ sai lầm, vì ý thức trách nhiệm, vì sự sợ hãi hoặc vì sự tham lam (“Nếu tôi dâng phần mười, Đức Chúa Trời phải cho tôi thịnh vượng!”);

2. Nghĩ rằng như vậy họ sẽ có thể làm điều họ muốn với 90 % còn lại;

3. Chỉ dâng phần mười mà nhưng lại không kính mến Chúa.


Trong ánh sáng của mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng ta, sao chúng ta lại có thể cướp đi của Ngài những của dâng mà đúng ra chúng phải thuộc về Ngài? Đức Chúa Trời đã không từ bỏ dân Ngài khi họ ở trong sự khốn khó (Ne 9:31) và họ đã hứa không từ bỏ nhà của Đức Chúa Trời (Ne 10:39).

Những năm trước đó, tiên tri A-ghê đã quở trách dân sự vì họ quá bận rộn lo cho nhà riêng họ đến nỗi họ không quan tâm nhà của Đức Chúa Trời (Ag 1:4), lời cảnh cáo này cần được rao ra ngày nay. Nơi đâu có sự phục hưng thuộc linh thật thì ở đó sẽ tự bày tỏ qua cách chúng ta hỗ trợ cho công việc Chúa, bắt đầu từ Hội thánh địa phương của chúng ta. Cầu nguyện hoặc thậm chí tự cam kết với “những lời hứa về đức tin” hay những bảo đảm thì chưa đủ. Chúng ta phải yêu mến Chúa đến nỗi việc dâng hiến rời rộng sẽ là một phần bình thường và vui mừng của đời sống mình.

Winston Churchill đã nói: “Chúng ta hãy sống bằng những gìchúng ta nhận được, nhưng hãy tạo ra cuộc sống bằng những gì chúng ta ban cho”. Chúa Giê-xu đã phán “Của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mat 6:21).

“Chúng tôi sẽ chẳng lìa bỏ nhà của Đức Chúa Trời chúng tôi đâu!” (Ne 10:39).



 


11. TIẾNG REO HÒ VANG KHẮP THẾ GIỚI (Ne 11:1-12:47)


Các nhà thần học nhắc nhở chúng ta rằng Đức Chúa Trời đã dựng nên khu vườn đầu tiên (Sa 1:1-2:25), nhưng con người chống nghịch đã xây thành đầu tiên (Sa 4:16-17) cả hai đã mâu thuẫn từ đó trong thế giới cổ đại, các thành là những nơi có của cải và quyền lực. Trong thời hiện đại, mặc cho vẻ tráng lệ của chúng, các thành phố của chúng ta thường là những thể chế phá sản nổi tiếng về sự sa đoạ, nghèo khổ và tội ác. Cách để trợ cấp tài chính và quản lý các thành phố lớn là một vấn đề gây phiền phức cho các nhà chức trách khắp thế giới.

John F.Kennedy đã nói “Chúng ta sẽ bỏ bê các thành phố của chúng ta cho sự nguy hiểm của mình, vì khi bỏ bê chúng, chúng ta sẽ bỏ bê dân tộc”.


Nê-hê-mi đã làm theo triết lý giống như vậy. Ông biết rằng dân tộc Y-sơ-ra-ên không bao giờ có thể mạnh mẽ lên được nếu như Giê-ru-sa-lem cứ còn ở mãi trong tình trạng yếu. Nhưng Giê-ru-sa-lem không thể mạnh mẽ trừ khi dân sự sẵn sàng hy sinh.Nê-hê-mi kêu gọi dân sự dâng bốn của lễ cho Chúa vì cớ thành của họ, những của lễ mà Đức Chúa Trời vẫn kêu gọi dân sự Ngài hãy dâng cho Hội thánh mà Ngài đang xây dựng trên thế gian này.


1. Chúng Ta Phải Dâng Chính Mình Cho Đức Chúa Trời (Ne 11:1-12:26)

Giờ đây vách thành và các cửa của Giê-ru-sa-lem đã được tu sửa, thật quan trọng khi dân Do-thái được sống trong thủ phủ của họ và phát triển dân số. Trước hết, dân sự cần phải bảo vệ thành, vì họ không bao giờ biết được khi nào thì kẻ thù có thể quyết định tấn công họ. Có lẽ những người sống trong những làng nhỏ nằm bên ngoài là nơi không có sự đe doạ nào đối với xã hội người ngoại thì họ sẽ được an toàn hơn, nhưng cũng có người đã mạo hiểm chuyển nhà vô trong thành lớn Giê-ru-sa-lem ở.


Cũng vậy, nếu dân chúng thật sự yêu mến Đức Chúa Trời và thành thánh của mình, thì họ sẽ muốn sống ở đó như một nhân chứng cho những người ngoại nghi ngờ ở quanh họ nhìn thấy. Xét cho cùng, bạn xây lại thành để làm gì nếu như bạn không dự định sống ở đó? Nhưng Đức Chúa Trời đã đem những người sót lại trở về nhà vì Ngài có một công viêc đặc biệt cho họ làm; và từ bỏ thành đã được tu sửa là cản trở việc thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời qua Y-sơ-ra-ên.


Nói cách khác, Đức Chúa Trời cần con người những cơ thể sống ở trong thành thánh. Dân Do-thái được yêu cầu lưu ý đến sự kêu gọi không khác gì sự kêu gọi mà Phao-lô đã viết trong Ro 12:1 “Vậy hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em”.


Đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của việc đơn giản là cần có sự hiện diện về thuộc thể của bạn ở nơi Đức Chúa Trời muốn. Bạn có thể không được yêu cầu thực hiện một chức vụ quan trọng nào đó, nhưng chỉ đơn giản với sự có mặt của bạn ở đó đã là một chức vụ rồi. Đàn ông, đàn bà và trẻ em là những người đã giúp đưa cư dân đến ở thành Giê-ru-sa-lem để hầu việc Đức Chúa Trời, phục vụ dân tộc và những thế hệ tương lai của họ bằng bước đi đức tin của họ.


Một số trong những công dân này đã sẵn sàng tự nguyện trong khi người khác thì được “chọn” (Ne 11:1-2). Dân sự đã hứa dâng 1/10 sản vật của họ (Ne 10:37-38) vì vậy Nê-hê-mi quyết định dâng 1/10 dân sự và 10% số người được chọn bằng cách bắt thăm để đi từ các làng vào trong Giê-ru-sa-lem. Vì trong thành có rất ít cư dân và vì tình trạng nhà ở xấu (Ne 7:4), cho nên không có gì ngạc nhiên khi nhiều người Do-thái đã không muốn đi. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra trong Hội thánh địa phương bình thường nếu 10 % hội chúng được yêu cầu bố trí lại để củng cố và mở rộng công việc Chúa!


Chúng ta đã quen với thông lệ của Nê-hê-mi về việc liệt kê danh sách những người có liên quan trong những dự án của ông. Trong chương 3, ông cho chúng ta biết những người làm việc trên vách thành là ai và họ đã sửa chữa phần nào của vách thành. Chương 7 liệt kê danh sách những người đã trở về với Giê-ru-ba-bên, và chương 8 ghi lại danh sách những lãnh đạo có liên quan trong “Hội nghị Kinh Thánh” tại Cửa Nước. Chương 10 bao gồm danh sách 84 người đã đóng dấu vào giao ước về sự dâng mình.

Khi liệt kê những tên này, Nê-hê-mi đưa ra chứng cớ về sự cảm kích chân thành của ông đối với mỗi cá nhân đã giúp đỡ trong công việc. Nó cũng nhắc nhở chúng ta rằng Cha chúng ta nhìn thấy và ghi lại những gì con cái Ngài làm khi họ hầu việc Ngài. Thậm chí nếu người khác không nhận ra hoặc không đánh giá đúng đắn chức vụ của bạn, thì bạn cứ yên tâm rằng Đức Chúa Trời biết tất cả về các điều ấy và sẽ tuỳ theo đó mà thưởng cho bạn.


Người Giu-đa và người Bên-gia-min sống trong thành Giê-ru-sa-lem được liệt kê trước tiên (Ne 11:4-9). Hai chi phái này tạo thành vương quốc Giu-đa sau khi đất nước bị chia cắt (IVua 11:1-12:33. “Người can đảm” (Ne 11:6) hoặc “người mạnh dạn” (c.14) có thể mang ý nghĩa là “những người chiến đấu can đảm” hoặc “những người giàu có về của cải”, chẳng hạn như Bô-ô (Ru 2:1).


Những thầy tế lễ, người Lê-vi và những người làm việc trong đền thờ được kể tên tiếp theo trong (Ne 11:10-24). Đức Chúa Trời đã biệt riêng những thành đặc biệt cho họ (Gios 21:1-45), vì vậy có thể họ đã sống bên ngoài Giê-ru-sa-lem một cách hợp pháp; nhưng họ quyết định ở lại với dân sự khi họ hầu việc Đức Chúa Trời trong đền thờ. Giống như Giê-rê-mi, họ chọn ở lại với dân sự Ngài, mặc dù ở nơi khác có thể an toàn và tiện nghi hơn (Gie 40:1-6).


Sự đa dạng của dân sự rất cần thiết cho chức vụ đền thờ và nó cũng rất thật quan trọng đối với dân tộc Do-thái. Các thầy tế lễ hành lễ tại bàn thờ, và người Lê-vi giúp đỡ họ. Một số người giám sát công việc ngoài đền thờ (Ne 11:6) trong khi những người khác thi hành chức vụ bằng sự cầu nguyện và ngợi khen (c.17,22).

Và cả hai công việc đều quan trọng. Có gần 300 ngưtời được chỉ định canh giữ đền thờ (c.19). Vì những phần mười và của dâng hiến được cất trong đền thờ và công trình xây dựng này cần được bảo vệ là điều quan trọng . Cũng cần có nhiều người với nhiều kỹ năng để duy trì chức vụ trong thành Giê-ru-sa-lem.


Khi tôi làm mục sư chủ tọa Hội thánh Calvary Baptist ở Covington, Kentucky, vào một Chúa Nhật nọ, tôi bắt đầu liệt kê danh sách nhân sự, tôi đã thấy và không thấy những người đã giúp cho chức vụ trên bục giảng của tôi có thể thực hiện được.Trong khi tôi đang giảng, có 3 kỹ thuật viên vận hành bộ điều khiển trong phòng thu thanh, 6 người tuần tra các bãi đậu xe, những người hướng dẫn chỗ ngồi ở tại cửa và đi xuyên suốt qua những dãy nhà để thấy tất cả đã ổn, những người coi sóc giữ cho sự trang bị được tiến hành và một tập thể mục sư có kết quả đã ủng hộ tôi. Những nhạc công đã hướng dẫn hội chúng trong sự tôn vinh và giúp chuẩn bị cho họ nghe Lời Chúa.


Suốt tuần trước đó, nhiều cộng sự Trường Chúa Nhật đã tiềp xúc hằng trăm người, những thuộc viên Hội thánh đã mời nhiều khách đến các lễ thờ phượng, ban linh vụ đã giữ cho bộ máy tổ chức vận hành trôi chảy, các cộng sự Hội thánh đã khích lệ và khuyên bảo, người ta đã cầu nguyện và tất cả mọi điều này đều nhằm mục đích để mục sư có thể quy vinh hiển cho Đấng Christ bằng cách rao ra Lời Đức Chúa Trời! Hãy tin tôi, đó là một kinh nghiệm khiêm nhường; nó đã khiến tôi muốn làm hết sức cho Chúa và cho những người tuyệt vời đó.


Đức Chúa Trời sử dụng nhiều người với những tài năng và kỹ năng khác nhau để khiến công việc Ngài được thực hiện trên thế giới. Điều quan trọng là chúng ta dâng thân thể mình cho Chúa để Ngài có thể sử dụng chúng ta làm công cụ cho Ngài, nhằm hoàn thành công việc Ngài. Mỗi người đều quan trọng và mỗi nhiệm vụ đều quan trọng. Hãy chú ý rằng Nê-hê-mi liệt còn kê những người khác nữa thi hành chức vụ trong đền thờ ở Ne 12:1-26.


Trong câu 23, Nê-hê-mi xác định vua Ba-tư đã giúp hỗ trợ chức vụ ở đền thờ. Vì vua muốn dân Do Thái cầu nguyện cho ông và gia đình ông. Ông đã dự phần trong những chi phí đền thờ (Exo 6:8-10; Exo 7:20-24). Trong những nền dân chủ của chúng ta ngày nay, nơi có một sự phân cách giữa Hội thánh và quốc gia, kiểu hỗ trợ này sẽ bị nghi ngờ. Nhưng tỉnh Giu-đa là một trong những vùng nhỏ của một đế quốc lớn , được cai trị bởi một vị vua đầy quyền thế. Và vua đã làm cho dân Do-thái những điều ông cũng đã làm cho tất cả các tỉnh khác. Cơ-đốc nhân ngày nay được bảo phải cầu nguyện cho các bậc cầm quyền (ITi 2:1-2; Gie 29:7), điều này phải được thực hiện hằng ngày vào mỗi Chúa Nhật, khi Hội thánh nhóm lại thờ phượng.


Các trưởng tộc (Ne 12:24) là “người của vua”, đại diện cho dân Do-thái tại cung điện. Những người có liên quan trong chính quyền là những người đang thi hành chức vụ của Đức Chúa Trời ủy thác (Ro 13:1-7), cho dù họ có nhận ra điều đó hay không. Và nếu họ trung tín hành sự cách nghiêm minh chính trực, thì có nghĩa là họ cũng đang hầu việc Chúa giống như thầy tế lễ và người Lê-vi trong đền thờ vậy.


Trong Ne 12:25-36 Nê-hê-mi kể tên các làng nơi dân Do-thái đang sống nằm cách xa Giê-ru-sa-lem. Khi các phu tù từ Ba-by-lôn trở về xứ, đương nhiên là họ muốn cư ngụ trong các tỉnh và các làng địa phương của họ. Họ sẽ vẫn ở dưới quyền của Nê-hê-mi và trung thành với vua Ba-tư. Sự trung thành này đối với các thành bổn xứ của họ là điều gây khó khăn cho Nê-hê-mi khi ông đưa dân sự vào cư trú ở Giê-ru-sa-lem. Mặc dù có lòng trung thành đối với địa phương là tốt, nhưng chúng ta còn phải nhớ rằng có những nhiệm vụ lớn lao hơn cũng phải được xem xét. Công việc Chúa lớn hơn bất cứ chức vụ nào của một người hoặc chức vụ của bất kỳ một hội đồng nào.

-Ne 12:1-26; xem giải nghĩa Exo 11:1-36.


2. Chúng Ta Phải Dâng Lên Đức Chúa Trời Sự Ngợi Khen (Ne 12:27-42)

Dân Do-thái đã quen với việc để những người làm việc và người canh gác ở trên các vách thành Giê-ru-sa-lem, nhưng giờ đây Nê-hê-mi và E-xơ-ra chỉ định cả người thờ phượng trên vách thành. Họ hướng dẫn một lễ thờ phượng dâng hiến bằng sự nhiệt huyết đến nỗi tiếng reo hò và bài hát của họ “vang ra rất xa” (c.43).


Dân sự đã dâng mình (chương 8-10), giờ là lúc để dâng công việc dân sự đã làm. Đây là thứ tự đúng, vì tường thành và các cửa đã được dâng có ích gì nếu không có con người được dâng? Hãy chú ý rằng điểm nhấn mạnh là ở sự ngợi khen vui mừngcủa mọi người. Sự ca hát được đề cập 8 lần trong chương này, sự cảm tạ (được đề cập) 6 lần, sự vui mừng 7 lần, và những nhạc cụ thì 3 lần.


Thứ tự cho lễ cảm tạ dâng hiến này thật là có một không hai . Các lãnh đạo và người ca hát được chia làm 2 nhóm, E-xơ-ra hướng dẫn một nhóm và Nê-hê-mi (theo ban hát) chỉ huy nhóm thứ hai. Các đoàn người có lẽ khởi đầu từ Cửa Trũng trên vách thành phía Tây, đi theo các hướng đối lập.

Đoàn người của E-xơ-ra (Ne 12:31-37) đi từ phía Nam trên các thành đến Cửa Phân, rồi đến Cửa Suối và Cửa Nước trên vách thành phía Tây.

Đoàn người của Nê-hê-mi đi hướng Bắc (c.38,39) qua Cửa Cũ, Cửa Ép-ra-im, Cửa Cá, Cửa Chiên và Cửa Ngục (Cửa Gác). Cả hai gặp nhau tại khu vực đền thờ nơi lễ thờ phượng bước vào thì giờ trọng tâm với những của lễ được dâng lên cho Chúa.


Tại sao E-xơ-ra và Nê-hê-mi lại tổ chức một lễ thờ phượng dâng hiến kiểu này? Tại sao họ không gặp nhau ở khu vực đền thờ, để người Lê-vi ca hát và dâng của lễ cho Chúa, rồi sau đó cho mọi người về nhà?


Trước hết, chính các vách thành và các cửa đang được dâng hiến, điều đó chỉ đúng khi dân sự nhìn thấy và chạm vào chúng. Tôi nhớ có lần tôi đã tham dự trong một lễ dâng hiến cho việc xây dựng một tòa nhà của nhà thờ dành cho giáo dục, nhưng buổi lễ được tổ chức trong thánh đường của nhà thờ, chớ không phải trong tòa nhà giáo dục ấy. Ở một điểm nào đó trong lễ thờ phượng này, chúng ta lẽ ra phải rời khỏi thánh đường và đi qua toà nhà mới để ca hát tôn vinh Đức Chúa Trời.

Khi tôi giảng lời Chúa, tôi cảm giác như thể mình đang làm một lễ cưới cho cô dâu và chú rể vắng mặt vậy!


Nhưng còn có lý do khác cho lễ thờ phượng duy nhất này: Dân sự đang làm chứng cho thế giới nhìn thấy Đức Chúa Trời đã thực hiện công việc Ngài, và chỉ mình Ngài phải được quy vinh hiển. Kẻ thù đã nói rằng các vách thành rất yếu đến nỗi một con chồn có thể đánh sập chúng (Ne 4:3), nhưng giờ đây dân sự đang diễn hành trên các vách thành đó! Quả là một lời chứng cho những người ngoại không tin về quyền năng Đức Chúa Trời và hiện thực của đức tin. Đó là một cơ hội nữa để chứng minh cho họ biết rằng “công việc này thành được bởi Đức Chúa Trời của chúng tôi” (Ne 6:16).


Bằng cách diễn hành trên vách thành, dân sự đã có cơ hội để thấy những kết quả công khó của họ và nhận biết cách mới mẽ rằng công việc đã được thực hiện không phải do một người. Thật vậy, Nê-hê-mi là lãnh đạo của họ, và họ cần có ông, nhưng “dân sự chuyên tâm làm công việc” (Ne 4:6). Những người và các gia đình khác nhau đã lao động trên các phần khác nhau của vách thành (chương 3), nhưng không ai “làm chủ” phần mình đã làm. Vách thành thuộc về Đức Chúa Trời.


Bạn có thể ngờ đến những vấn đề nghiêm trọng sau một chương trình xây cất nhà thờ nếu các cá nhân và các nhóm người trong Hội thánh bắt đầu tuyên bố những “quyền lãnh thổ”.

Tôi nghe về một lớp học Trường Chúa Nhật đã thật sự kiện cáo các Hội thánh khi họ được yêu cầu ngừng lớp học hoặc tìm chỗ nào khác trong nhà thờ. Cho dù chúng ta đã góp phần công việc hoặc tiền bạc vào trong một chương trình xây dựng bao nhiêu đi chăng nữa, thì điều này cũng không cho chúng ta quyền đòi hỏi và điều khiển khu vực nào đó trong toà nhà.

Tất cả đều thuộc về Đức Chúa Trời và phải được sử dụng vì vinh hiển Ngài. Khi dân Do-thái diễn hành quanh các vách thành, họ đang nói đến điều đó về mặt tượng trưng: “Vâng, chúng tôi đều có phần trong công việc và có một nơi để hầu việc, nhưng giờ đây chúng tôi đang dâng tất cả cho Chúa để chỉ một mình Ngài có thể được quy vinh hiển !”


Hãy để tôi gợi ý một lý do khác cho cuộc diễn hành này quanh vách thành: Đó là một hành động biểu tượng mà bởi đó họ “bước ra bằng đức tin” để rao ra ơn phước của Đức Chúa Trời. Trong thời ấy, đi trên một phần bất động sản nghĩa là tuyên bố nó như của bạn. Đức Chúa Trời đã phán với Áp-ra-ham: “Hãy đứng dậy đi khắp trong xứ… vì ta sẽ ban cho ngươi xứ này” (Sa 13:17). Và Ngài đã phán với Giô-suê: “Nơi nào bàn chơn ngươi đạp đến, thì ta ban cho các ngươi” (Gios 1:3). Cuộc diễn hành vui mừng này khắp các vách thành là cách họ nói: “Chúng tôi tuyên bố rằng chính Đức Chúa Trời của chúng tôi đã ban cho chúng tôi tất cả mọi điều, giống như tổ tiên chúng tôi cũng từng tuyên bố xứ này bằng đức tin!”


Thường thì, một lễ dâng hiến của Hội thánh sẽ đánh dấu sự kết thúc chớ không phải sự khởi đầu của chức vụ khi hội chúng thở dài khoan khoái và trở lại công việc bình thường. Vance Havner có lần đã mô tả những ấn tượng của ông về một lễ dâng hiến mà tại đó ông đã nói: “Dân sự Hội thánh nghĩ rằng toà nhà mới là một cột mốc, nhưng đối với tôi nó dường như là một cối xay bằng đá!” Nếu chúng ta đóng lại khải tượng phía trước và thôi bước tới bằng đức tin, vậy những gì Đức Chúa Trời đã hoàn thành thật sự sẽ trở nên một chiếc cối xay bằng đá sẽ đè nặng và phá đổ chúng ta.


Nhưng điều quan trọng nhất về lễ dâng hiến này không phải là cuộc diễn hành quanh vách thành. Nó là sự bày tỏ về sự ngợi khen vui mừng xuất phát từ ban hát và dân sự. “Vậy hãy cậy Đức Chúa Giê-xu mà hằng dâng tế lễ bằng lời ngợi khen cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra”. (He 13:15). “Tôi sẽ dùng bài hát mà ngợi khen danh Đừc Chúa Trời, và lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài. Điều ấy sẽ đẹp lòng Đức Giê-hô-va hơn con bò đực, hoặc con bò đực có sừng và móng rẽ ra” (Thi 69:30-31).


Dân sự dâng lên sự ngợi khen với tinh thần cảm tạ (Ne 12:24,27,31,38,46), vui mừng (c.27,43-44) và lớn tiếng (c.42-43), được phụ họa bởi các nhạc cụ khác nhau (c.27,35-36). Đó không phải là giờ để thờ phượng suy gẫm thầm lặng. Nhưng đó là lúc để “dốc hết sức” mà ngợi khen Chúa cách nhiệt tình.


Lễ dâng hiến đặc biệt này sẽ là một thất bại nếu nó không nhờ một người đã qua đời trước đó trên 500 năm. Người ấy là vua Đa-vít. Chính Đa-vít là người đã sắp xếp các thầy tế lễ và người Lê-vi (c.24; ISu 24:7-19) và viết ra nhiều bài hát cho ban hát đền thờ (Ne 12:46). Ông cũng chế ra các nhạc cụ để dùng trong lễ thờ phượng (c.36; IISu 29:26-27).

Và viết ra nhiều bài hát cho ban hát đền thờ (Ne 12:46). Ông cũng chế ra các nhạc cụ để dùng trong lễ thờ phượng (c.36 IISu 29:26-27). Đa-vít đã phục vụ cho thế hệ của ông cách trung tín (Cong 13:36), nhưng khi làm vậy, ông cũng phục vụ cho mọi thế hệ tiếp nối!

Thật ra, chính Đa-vít đã chiếm thành Giê-bu-sít của Giê-ru-sa-lem và khiến nó trở thành thủ đô của ông là thành Đa-vít bấy giờ (IISa 5:6-10). Cũng chính Đa-vít đã cung cấp những bản thiết kế và nhiều của cải cho việc xây cất đền thờ (ISu 28:11-19). “Ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (IGi 2:17).


Không chỉ “những nhạc công chuyên nghiệp” bày tỏ sự ngợi khen cho Đức Chúa Trời, mà cả đàn bà và trẻ em cũng dự phần ca hát (Ne 12:43). Họ đã nghe Lời Chúa tại Cửa Nước (Ne 8:2), vì vậy giờ đây họ cũng dự phần bày tỏ sự thờ phượng của mình và đó là điều hết sức đúng đắn, vì việc học Lời Chúa và sự thờ phượng Chúa phải đi đôi với nhau (Co 3:12).

Chúng ta đừng bao giờ để cho công việc của những người hướng dẫn lễ thờ phượng chiếm hết chỗ của sự ca tụng, ngợi khen Chúa hết lòng về sự nhân từ Ngài của chúng ta. Nếu không, chúng ta sẽ trở thành những khán giả thay vì là người dự phần, và sẽ đánh mất hầu hết phước hạnh.


Sự ngợi khen của dân chúng tuyệt vời đến nỗi “sự vui mừng” của thành Giê-ru-sa-lem vang ra rất xa” (Co 12:43). Đây là lần thứ 3 trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, tiếng reo hò của họ “vang xa”. Các chiến sĩ đã reo lên khi hòm giao ước được rước đi vào trong trại quân (ISa 4:5), nhưng cuối cùng điều đó đã dẫn đến sự thất bại nhục nhã. Khi nền móng đền thờ đã được đặt gần một thế kỷ trước đó, thì những người làm việc đã reo lên vì vui mừng; nhưng sự vui mừng của họ hòa lẫn với sự buồn rầu (Exo 3:8-13). Còn sự reo hò từ Giê-ru-sa-lem suốt lễ dâng hiến này là sự vui mừng không bị pha trộn. Để làm vinh hiển của Chúa, và vì sự ghi chép này trong Lời của Đức Chúa Trời mà tiếng reo hò đó đã vang khắp thế giới!


3. Chúng Ta Phải Dâng Cho Đức Chúa Trời Những Tài Năng Của Mình (Ne 11:44-47)

Dân sự đã lập giao ước với Đức Chúa Trời rằng họ sẽ hỗ trợ cho các chức vụ trong đền thờ (Ne 10:32-39), họ đã giữ lời hứa. Một số người Lê-vi được chỉ định để giám sát việc thu góp sản vật và cất giữ nó trong đền thờ. Hãy nhớ rằng những phần mười và của dâng này đại diện sự hỗ trợ cho những người làm việc trong đền thờ để họ có thể hầu việc Chúa.


Dân sự đem đến phần mười và sản vật làm của dâng hiến, không chỉ vì đó là mạng lệnh của Chúa, nhưng còn là vì họ “vui mừng nhơn những thầy tế lễ và người Lê-vi đứng hầu việc” (Ne 12:44). Những người hầu việc tại đền thờ phải là người thật mẫu mực cả trong sự thánh sạch cá nhân lẫn trong sự vâng phục Lời Đức Chúa Trời (c.30,45).

Họ hướng dẫn lễ thờ phượng không theo ý riêng của họ, nhưng bằng sự vâng theo những chỉ dẫn do Đa-vít và Sa-lô-môn đưa ra. Khi các tín đồ có ai đó sống đời sống tin kính Chúa đang đảm đương chức vụ nhằm tôn cao Chúa và vâng lời Ngài, thì họ quá vui mừng nên họ thường đem đến những phần mười và của lễ dâng để hỗ trợ cho chức vụ của người đó. Một chức vụ trần tục chỉ tìm cách làm trọn những tham vọng riêng của nó thì không xứng đáng được sự hỗ trợ của dân sự Đức Chúa Trời.


Kết quả của lễ dâng hiến vui mừng này là sự chu cấp dư dật sản vật để duy trì công việc của chức vụ. Dân sự đã dâng hiến “không phải miễn cưỡng hay vì sự cần thiết” nhưng dâng với tinh thần vui mừng và biết ơn (IICo 9:7). Nhà lãnh đạo kiêm truyền giáo J.Hudson Taylor thường nói: “Khi công việc của Đức Chúa Trời được thực hiện theo cách của Ngài vì sự vinh hiển Ngài, thì nó sẽ không thiếu sự giúp đỡ của Ngài”.


Những món quà vật chất của chúng ta thật sự là những của lễ thuộc linh cho Chúa nếu chúng được dâng trong tinh thần đúng đắn. Sứ đồ Phao-lô đã gọi những món quà của Hội thánh Phi-líp là “một thứ hương có mùi thơm, một của lễ Đức Chúa Trời đáng nhận và đẹp lòng Ngài” (Phi 4:18). Chúa Giê-xu đã chấp nhận món quà của Ma-ri là sự xức dầu quý giá như một hành động thờ phượng, và He 13:16) nhắc chúng ta rằng làm việc thiện và ban cho người khác là những của lễ đẹp lòng Chúa.


Nhưng trước khi chúng ta có thể đem đến cho Chúa những món quà vật chất thì trước hết chúng ta phải dâng chính mình cho Ngài. Phao-lô khen ngợi các Hội Thánh ở Ma-xê-đoan vì họ “trước hết đã dâng mình cho Chúa” (IICo 8:5), trước khi họ dự phần trong sự dâng hiến cho chức vụ mà ông đang thi hành chăm lo cho các tín hữu nghèo khó ở Giê-ru-sa-lem. Những món quà của chúng ta không thể là sự thay thế cho chính chúng ta.


Đó là một ngày đẹp đẽ và thánh khiết trong Giê-ru-sa-lem, một ngày vui mừng vì công viêc đã được hoàn tất và Đức Chúa Trời đã được quy vinh hiển một cách kỳ diệu. Phước hạnh này có kéo dài không? Không, nó đã không kéo dài, và chúng ta sẽ tìm thấy lý do trong bài học kế tiếp.



 


12. HÃY ĐỨNG VỮNG BẰNG NHỮNG LỜI HỨA CỦA CHÚNG TA (Ne 13:1-31)


Tướng William Booth, người thành lập Đội quân Salvation có lần đã nói với một nhóm sĩ quan mới: “Tôi muốn những người trẻ tuổi các bạn ghi nhớ rằng tắt là bản chất của lửa; Các bạn phải làm cho nó được cháy lên, được duy trì và làm cho tro tàn rớt ra”


Nê-hê-mi khám phá ra rằng những ngọn lửa dấn thân đã tắt ở Giê-ru-sa-lem. Kỳ hạn đầu tiên của ông làm quan tổng trấn kéo dài 12 năm (Ne 5:14). Sau đó ông trở lại cung điện để báo cáo cho vua (Ne 13:6). Ông đã đi có lẽ đã 1 năm, nhưng khi ông trở lại Giê-ru-sa-lem, ông nhận thấy một thực trạng sa đoạ đáng báo động vì dân sự không sống đúng với những hứa nguyện họ đã cam kết (chương 10). Nê-hê-mi lập tức bắt đầu hành động thật dứt khoát để thay đổi hoàn cảnh.


Không có sự lãnh đạo thuộc linh, dân sự Đức Chúa Trời bắt đầu có xu hướng đi lạc như con chiên. Một mục sư thành công đã cho tôi biết: “Nếu chúng ta không để mắt mình vào công việc này 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, thì nó sẽ bị xâm phạm và sớm đổ bể, thất bại”. Môi-se đã xa dân Y-sơ-ra-ên chỉ một thời gian ngắn, vậy mà họ đã trở thành những người thờ thần tượng (Xu 32:1-35). Phao-lô đã thành lập một Hội thánh và giao nó trong tay các trưởng lão, thế nhưng rắc rối đã xảy ra trong Hội thánh ngay sau khi ông ra đi. Sau đó ông phải viết thư cho họ hoặc thăm viếng họ để giải quyết mọi việc (không có gì lạ khi Phao-lô kêu gọi các lãnh đạo Hội thánh Ê-phê-sô như ông đã làm trong Công 20:28-32). Sau khi Nê-hê-mi đi khỏi Giê-ru-sa-lem chỉ một thời gian ngắn, ông trở về nhìn thấy dân sự bị ô uế bởi sự thỏa hiệp.


Nếu bạn so sánh chương này với chương 10, bạn sẽ thấy dân sự đã không giữ 7 lời hứa trong số các lời hứa họ đã lập trước Chúa.


1. Lời Hứa Về Sự Phân Rẽ (Ne 13:1-9,23-31)

Đoàn dân đông hỗn tạp (Ne 13:1-3). Theo Ne 10:28-29 thì dân Do-thái sẵn sàng phân rẽ họ khỏi dân trong xứ và hiệp với anh chị em Do-thái của họ để vâng theo Luật Pháp và bước đi trong con đường của Chúa. Nhưng rõ ràng họ đã phân rẽ không triệt để, hoặc một số người đã tạo những liên minh mới, vì họ khám phá có những người Am-môn và Mô-áp trong hội chúng của họ, điều này trái với luật Môi-se (Phuc 23:3-4).


Am-môn và Mô-áp được sinh ra từ sự kết hợp loạn luân của Lót và hai con gái của ông (Sa 19:30-38), con cháu họ là kẻ thù công khai của dân Do-thái. Bằng cách nào đó “đoàn dân hỗn tạp” này đã thâm nhập vào dân Y-sơ-ra-ên mặc cho đã có những cuộc thanh trừng trước đó (Ne 9:2; Ne 10:28). Chính “đoàn dân hỗn tạp” đã đưa đến cho Môi-se quá nhiều rắc rối (Xu 12:38; Dan 11:4-6) điều này cũng thường đem lại cho Hội thánh ngày nay nhiều sự rắc rối. “Đoàn dân hỗn tạp” bao gồm những người không được cứu muốn thuộc về nhóm thông công của dân sự Đức Chúa Trời nhưng không tin Chúa hoặc đầu phục ý muốn Ngài. Họ muốn nhận được phước hạnh nhưng không muốn thực hiện bổn phận, và sự tham muốn của họ vẫn vì những điều thuộc thế gian.


Ba-la-am là một tiên tri được thuê mướn nên ông ta đã tìm cách rủa sả Y-sơ-ra-ên. Nhưng mỗi lần như vậy người ta đều nhìn thấy sự rủa sả của ông đều trở thành phước hạnh (Đa 22:1-24:25). Tuy nhiên, cuối cùng, ông ta đột nhiên nghĩ ra một mưu kế để đánh bại Y-sơ-ra-ên: Ông khuyến khích dân Mô-áp ra vẻ “thân thiện” và mời dân Do-thái dự phần trong những lễ hội tôn giáo của ho, có liên quan đến sự đồi bại và sự thờ thần tượng (Đa 25:1-18). Ba-la-am biết rằng bản chất con người sẽ đáp ứng với cơ hội dành cho tội lỗi và dân Do-thái sẽ bất tuân Đức Chúa Trời.

Như một kết quả của tội lỗi, Y-sơ-ra-ên đã bị Đức Chúa Trời trừng phạt, và 24.000 người đã phải chết.


“Đoàn dân hỗn tạp” trong Hội thánh ngày nay thúc đẩy chúng ta đi theo triết lý của Ba-la-am và làm điều thế gian muốn chúng ta làm. Tôi nghe kể về một mục sư trẻ tận tuỵ có chức vụ là đem nhiều thanh thiếu niên đến với Đấng Christ và gây dựng họ trong đức tin. Anh không lôi kéo họ bằng sự giải trí. Anh chỉ dạy Lời Chúa, khiến những người trẻ tuổi bận rộn với việc làm chứng và gặp họ thường xuyên để cầu nguyện. Hội thánh đã được giúp đỡ rất nhiều bởi nhóm thanh thiếu niên sốt sắng này.


Nhưng kẻ thù đã làm việc. Các trưởng lão đã mời Mục sư trẻ tuổi kia đến hỏi: “Chương trình của Mục sư về việc dạy dỗ cho thanh thiếu niên yếu đuối trong Hội Thánh là gì vậy?” Mục sư trả lời ông không có chương trình đặc biệt nào cả cho các thanh thiếu niên yếu đuối, nhưng họ được hoan nghênh để tham gia những buổi học Kinh Thánh, buổi nhóm cầu nguyện và những chuyến đi làm chứng. Các trưởng lão đã sa thải Mục sư trẻ vì cho rằng ông đã không chăm sóc những thanh thiếu niên yếu đuối trong Hội thánh!


Khi tôi giảng trên Đài phát thanh chương trình “Hãy trở về với Kinh Thánh”, giám đốc của một đài phát thanh Cơ-đốc đã điện thoại phàn nàn với tôi về những sứ điệp của tôi nói đến Lót và tính trần tục giữa những người tự xưng là Cơ-đốc nhân.

Ông cảm thấy tôi quá khắt khe với các Cơ-đốc nhân trần tục. Ông nói: “Nếu ông cứ như vậy, chúng tôi sẽ bỏ chương trình của ông!”


Khẩu hiệu cũ “Tuổi trẻ cho Đấng Christ” vẫn đúng: Trong chức vụ, chúng ta phải “được hướng về thời giờ, và được neo vào Vầng Đá”. Nếu chúng ta hiểu thời giờ (ISu 12:32), chúng ta có thể liên hệ với con người dễ dàng hơn và áp dụng Lời Chúa khéo léo hơn, nhưng chúng ta không nên bắt chước thế gian để tìm cách làm chứng cho thế gian.

Những năm trước đây, Oswald Chamber đã viết: “Ngày nay thế gian đã lấy khỏi Hội thánh rất nhiều điều, và Hội thánh đã lấy quá nhiều điều khỏi thế gian, đến nỗi khó mà biết bạn ở đâu”. Vance Havner đã nói: “Ngày nay thế gian đã xâm nhập Hội thánh quá nhiều đến nỗi chúng ta bị bao vây bởi những kẻ phản bội bên trong hơn là bởi kẻ thù bên ngoài. Sa-tan không phải đang chiến đấu với các Hội thánh – mà nó đang gia nhập các Hội thánh”.


Kẻ thù xâm nhập (Ne 13:4-9).

Không chỉ có vấn đề một số người Do-thái đã kết hôn với dân Am-môn hoặc dân Mô-áp, mà còn có một người Am-môn cũng đang sống trong đền thờ Do-thái! Tô-bi-gia, người Am-môn (Ne 4:3) đã được thầy tế lễ cả Ê-li-a-síp dành cho một căn phòng trong đền thờ (Ne 13:28). Ê-li-a-síp là người đầu tiên được kể tên trong danh sách những người làm việc (Ne 3:1), nhưng ông đã trở thành kẻ phản bội.

Vì sao? Vì một người bà con của ông đã kết hôn với con gái của San-ba-lát (Ne 13:28), ông và Tô-bi-gia là bạn bè. Họ đều thuộc về phe nhóm bí mật trong Giê-ru-sa-lem kết thân với kẻ thù (Ne 6:17-19).


Có thể một gia đình nào đó đã hoạt động trong Hội Thánh một thời gian dài và giúp xây dựng công trình, nhưng đó không phải là dấu hiệu cho thấy mỗi thế hệ sẽ có tinh thần thuộc linh hay bất kỳ thế hệ nào sẽ duy trì tinh thần thuộc linh.

Con cái và cháu chắt có thể buông trôi đức tin và cố gắng thoát khỏi thực trạng bằng lời chứng của tổ tiên họ, và những người cha người mẹ có thể rời xa đức tin chỉ để làm hài lòng con cái mình. Bà con của Ê-li-a-síp được đặc quyền sinh ra trong gia đình thầy tế lễ, nhưng ông đã quăng bỏ chức vụ tương lai của mình bằng cách kết hôn với người đàn bà tội lỗi (Le 21:14; Phuc 23:3), và Ê-li-a-síp rõ ràng đã chấp nhận điều đó.


Mọi điều này xảy ra trong lúc Nê-hê-mi ở xa tận hoàng cung, cho thấy rằng những người được ông chỉ định để lãnh đạo lúc ông vắng mặt đã thất bại trong sự giám sát của họ. Kẻ thù đã nhanh chóng chiếm lấy chức lãnh đạo, và dân sự thường sẽ mù quáng đi theo các lãnh đạo đó của họ trên, con đường thoả hiệp và bất tuân.


Khi để cho một người Am-môn sống trong đền thờ Do-thái là một điều tệ hại, một thầy tế lễ cả người Do-thái đã đưa ông ta vào, nhưng kẻ xâm phạm đang sử dụng một căn phòng được dâng cho Đức Chúa Trời để cất giữ những của dâng do người Lê-vi sử dụng. Ông ta đã làm ô uế đền thờ bởi sự hiện diện của mình và đồng thời cướp đi Đức Chúa Trời của các tôi tớ. Nê-hê-mi không làm mất thời gian để tống khứ người đàn ông đó và vật dụng của ông ta, dành lại căn phòng cho Chúa, và sử dụng nó trở lại theo mục đích đã định. Giống như Chúa chúng ta, Nê-hê-mi phải dọn sạch đền thờ, và dường như ông phải làm việc đó một mình.


Nhưng đây không phải là một việc dễ làm. Một mục sư mới có thể khám phá những cộng sự hoặc lãnh đạo trong Hội Thánh không phải là người thuộc linh nhưng là người bám chặt vào chức vụ của họ. Ông sẽ làm gì? Ông biết rằng những lãnh đạo này có bà con trong Hội Thánh là những người, giống như Ê-li-a-síp sẽ hợp tác với gia đình họ hơn là đấu tranh vì đức tin. Mục sư có nên tìm cách “dọn sạch nhà” và có thể dẫn đến chia rẽ Hội thánh không? Hoặc ông có nên chờ đợi thời gian, rao giảng Lời Chúa cách yêu thương, và cầu xin Đức Chúa Trời hành động? Với cả hai cách, mục sư đều sẽ cần có sự dạn dĩ và đức tin, vì cuối cùng sự chúc phước của Chúa trên Lời Ngài sẽ khơi dậy sự chống đối của “đám dân hỗn tạp”.


Những cuộc hôn nhân với người ngoại (Ne 13:23-31).

Chúng tôi hứa không gả các con gái chúng tôi cho dân tộc của xứ, và chẳng cưới con gái chúng nó cho con trai chúng tôi!” là lời hứa dân Do-thái đã lập trước Chúa (Ne 10:30). Nhưng họ đã không giữ lời.

Qua sự nghiên cứu Giê-ru-sa-lem của ông, Nê-hê-mi hiểu rằng các phụ nữ ở Ách-đốt (Ne 4:7), Am-môn và Mô-áp đã kết hôn với những người nam Do-thái, và ông nghe con cái họ nói những ngôn ngữ nước ngoài. (Một đứa tre dường như học nói từ người mẹ, nó trải qua nhiều thời gian với mẹ hơn với cha là người luôn xa nhà để đi làm việc mỗi ngày). Nếu những trẻ con này không biết ngôn ngữ Y-sơ-ra-ên, làm sao chúng có thể đọc Luật Pháp hoặc tham dự những thánh lễ? Nếu một thế hệ bị đánh mất đức tin, thì đâu là tương lai của dân tộc?


Dân của Đức Chúa Trời và dân của thế gian có thể được nhận biết bởi lời nói của họ!

“Họ thuộc về thế gian, cho nên họ nói theo quan điểm thế gian, và thế gian nghe họ. Chúng ta thuộc về Đức Chúa Trời: ai nhìn biết Đức Chúa Trời thì nghe chúng ta, còn ai chẳng thuộc về Đức Chúa Trời thì chẳng nghe chúng ta. Ấy bởi đó chúng ta nhận biết thần chơn thật và thần giả dối” (IGi 4:5-6).


Khi giảng dạy ở một hội nghị Kinh Thánh mùa hè, vào một tối nọ, tôi đã dùng cơm tại nhà của con gái một nhạc sĩ Cơ-đốc nổi tiếng với chồng cô ta. Họ đều có thể nói về cha cô ta, là người đã mất, hoặc về nhạc và nhạc sĩ. Nhưng khi cuộc nói chuyện quay sang Lời Đức Chúa Trời, và Chúa, thì họ yên lặng. Tôi tự hỏi liệu họ có thật sự biết Chúa hay không, họ có trải qua những thời gian nói chuyện với Ngài hay không. Họ không có vấn đề gì để nói về những điều thuộc thế gian, nhưng họ cũng không biết “ngôn ngữ của Si-ôn”.


Nê-hê-mi đã đối phó với vấn đề này bằng cách trước tiên bày tỏ sự kinh sợ của ông rằng một việc như vậy phải được thực hiện trong Y-sơ-ra-ên (Ne 13:25). Trong một hoàn cảnh tương tự, E-xơ-ra đã nhổ tóc và râu của chính mình (Exo 9:3). Nhưng thực sự Nê-hê-mi đã nhổ tóc của một số người vi phạm! E-xơ-ra đã huỷ bỏ những cuộc hôn nhân với người ngoại (Exo 10:1-44). Ông quở trách những kẻ vi phạm và khiến họ hứa rằng họ sẽ không tái phạm.


Nê-hê-mi cũng rao giảng một bài giảng, nhắc nhở dân sự rằng, Sa-lô-môn là một trong những vị vua lớn nhất của Y-sơ-ra-ên nhưng đã sai lầm vì cưới những người nữ ngoại bang (Ne 13:26; IVua 11:4-8). Trong trường hợp của Sa-lô-môn, những cuộc hôn nhân của ông với người ngoại là một nguy cơ cho ngôi vua và vương quốc, và trong thời Nê-hê-mi, những cuộc hôn nhân với người ngoại thậm chí đã đe dọa chức tế lễ.

Luật pháp của Môi-se rất rõ ràng nhưng các thầy tế lễ và cả thường dân đã cố tình bất tuân. Nê-hê-mi khi ấy đã thanh tẩy các thầy tế lễ và tuyên bố rằng chỉ những ai có đủ tư cách mới hầu việc (Ne 13:30). Tuy nhiên, vấn đề với các thầy tế lễ không hoàn toàn được giải quyết, tiên tri Ma-la-chi đã phải đối phó với các thầy tế lễ bất tuân trong thời của ông (Ma 1:1-2:17).


Thật vô cùng quan trọng khi chúng ta đứng vững để phân rẽ khỏi tội lỗi “và khi thắng hơn mọi sự rồi, anh em được đứng vững vàng” (Eph 6:13).


2. Lời Hứa Về Sự Hỗ Trợ (Ne 13:10-14)

“Chúng tôi sẽ không từ ở nhà của Đức Chúa Trời chúng tôi” là lời tuyên bố sau cùng được dân Do-thái lập ra trong giao ước với Chúa (Ne 10:39). Điều này nghĩa là đóng thuế đền thờ đầy đủ, cung cấp củi cho bàn thờ và đem đến những phần mười cùng của dâng cần thiết cho các thầy tế lễ và người Lê-vi (c.32-39), không có sự hỗ trợ trung tín của dân sự, chức vụ ở đền thờ sẽ giảm sút, khi ấy người lê-vi sẽ phân tán đến các làng, nơi họ có thể cày ruộng và sinh sống (Ne 13:10).


Nhưng khi Nê-hê-mi trở lại thành, ông khám phá rằng dân sự đã không giữ lời hứa của họ. (Điều này giúp giải thích lý do tại sao lại một trong những phòng kho được dành sẵn cho Tô-bi-gia). Các thầy tế lễ và người Lê-vi không có sự cấp dưỡng nên đã bỏ công việc của họ để kiếm sống. Dân sự đã bỏ qua những lời cảnh cáo của Môi-se “Khá giữ mình để không bỏ bê người Lê-vi bao lâu ngươi sống trong xứ” (Phuc 12:19 NKJV) và “Chớ bỏ bê người Lê-vi ở trong thành ngươi, vì người không có phần, cũng không hưởng cơ nghiệp chi chung với ngươi” (Phuc 14:27; Phuc 18:1-8).


Nê-hê-mi đã “chiến đấu” với họ, nghĩa là ông quở trách các quan trưởng cùng những người quyền quí của Giu-đa (Ne 13:17) và những người nam đã cưới người nữ ngoại bang (c.25). Mặc dù từ này trong tiếng Hê-bơ-rơ có thể chỉ về sự tranh cãi hoặc thậm chí là trận chiến thuộc thể, nhưng nó cũng mang ý nghĩa về mặt tư pháp “bào chữa một vụ kiện”. Vì Nê-hê-mi trình bày vụ kiện của Đức Chúa Trời và biện hộ nó trên nền tảng Luật Pháp, cho nên những người vi phạm phải thừa nhận rằng ông đúng.


Các quan đền thờ đảm trách về những của dâng đã từ bỏ chức vụ vì không có gì thu về hoặc cho đi, vì vậy Nê-hê-mi đã “ổn định họ trong vị trí của họ” (c.11 “đặt họ vào chức vụ của họ”, NIV). Ông nhất định rằng dân sự phải đem đến cho Đức Chúa Trời những của dâng mà đúng ra thuộc về Ngài (Ma 3:7-12). Ông chỉ định 4 người giám sát kho tàng và sắp xếp các phần 10 cùng của dâng hiến. Chú ý rằng những người này đại diện các thầy tế lễ người Lê-vi, thầy thông giáo và thường dân.Nhưng họ đều có một điểm chung: trung tín với Chúa, “Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành” (ICo 4:2).


Khi dân sự Đức Chúa Trời bắt đầu sa sút thuộc linh, một trong những lãnh vực đầu tiên lộ ra ra là trong sự ban cho của ho, “Vì chưng của cải ngươi ở đâu, thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mat 6:21). Tín hữu nào vui mừng trong Chúa và bước đi trong ý muốn Ngài sẽ có một tấm lòng rời rộng và muốn chia sẻ với người khác. Sự ban cho là “máy điều nhiệt” và là “nhiệt kế” của đời sống Cơ-đốc: Nó đo lường “nhiệt độ” thuộc linh của chúng ta và cũng giúp ổn định nhiệt độ ở mức thích hợp.


Lời cầu nguyện trong Ne 13:14 là lời cầu nguyện đầu tiên được ghi lại kể từ Ne 6:14 là lời cầu nguyện thứ 7 trong những lời cầu nguyện “đức tin” của Nê-hê-mi được tìm thấy trong sách. Bạn tìm thấy 3 lời cầu nguyện nữa giống như vậy trong Ne 13:22,29,31.

Ông có thói quen nói chuyện với Đức Chúa Trời khi ông hầu việc Ngài, là một gương tốt cho chúng ta noi theo. Ông nhắc Đức Chúa Trời về sự thành tín của Ngài và cầu nguyện rằng điều Ngài đã làm sẽ không bị hủy phá. Nê-hê-mi không cầu xin những phước hạnh trên cơ sở công lao cá nhân vì ông biết rằng ơn phước Đức Chúa Trời chỉ đến từ sự thương xót của Đức Chúa Trời (c.22). Lời cầu nguyện này tương tự với lời cầu nguyện được chép trong Ne 5:19 nơi Nê-hê-mi chỉ cầu xin Đức Chúa Trời nhớ đến ông và những việc ông đã làm. Ông muốn phần thưởng từ Đức Chúa Trời, chứ không phải từ con người.


Có người đã hỏi Giám mục người Mỹ Philip Brooks rằng ông sẽ làm gì để hồi sinh một Hội Thánh chết, và ông trả lời: “Tôi sẽ áp dụng việc dâng hiến cho chức vụ”. Ban cho người khác là một bí quyết của sự tồn tại sống động và mới mẻ trong đời sống Cơ-đốc. Nếu mọi điều chúng ta làm là nhận lãnh, vậy chúng ta sẽ trở thành những bể chứa, và nước có thể trở nên cũ và ô nhiễm. Nhưng nếu chúng ta vừa nhận lãnh vừa ban cho, thì chúng ta sẽ trở nên như những kênh nước, và khi chúc phước người khác, chúng ta đã tự chúc phước mình.

Bác sĩ tâm thần người Mỹ Karl Menninger đã nói: “Bố thí tiền bạc là một tiêu chuẩn tốt đẹp của sức khoẻ tinh thần một người. Người rời rộng hiếm khi là người bị bệnh tâm thần”. Ai đó đã viết trong tạp chí Modern Maturity thế này: “Thế giới đầy dẫy hai loại người, người ban cho và người nhận lãnh. Người nhận lãnh ăn ngon nhưng người ban cho ngủ ngon”.


3. Lời Hứa Về Ngày Sa-bát (Ne 15:15-22)

Khi ký vào giao ước, dân Do-thái đã hứa không làm việc kinh doanh với dân ngoại vào ngày Sa-bát (Ne 10:31). Nhưng Nê-hê-mi thấy dân sự không chỉ làm việc kinh doanh vào ngày Sa-bát mà còn làm công việc hằng ngày nữa, và như vậy họ đã mang lấy những gánh nặng không cần thiết. Các thương buôn Do-thái không muốn đánh mất cơ hội kiếm tiền từ dân ngoại, và dân ngoại nhanh chóng kiếm lợi từ những láng giềng Do-thái.


Con cái Đức Chúa Trời phải chọn của cải thuộc linh hơn là của cải vật chất và tuyên bố Mat 6:33 “Nhưng trước hết hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa”. Người viết Thi 119:1-176 nói rõ ràng ông chọn Lời Đức Chúa Trời hơn tiền bạc (Thi 119:14,72,127,162). Vua Sau-lơ đã chọn lựa sai (ISa 15:1-35) A-can (Gios 7:1-26) với Đê-ma cũng vậy (IITi 4:10).


Tại một trong những Hội thánh do tôi làm mục sư chủ tọa, có một cặp vợ chồng trẻ dễ thương bắt đầu đến dự nhóm với đứa con trai nhỏ của họ. Sau đó tôi để ý thấy chỉ có người mẹ và đứa con trai dự nhóm, vì vậy tôi ghé qua nhà để xem điều gì xảy ra với người cha.

Tôi biết rằng anh ta đã nhận một công việc phụ vào cuối tuần để có thể dành đủ tiền mua một căn nhà tốt hơn. Người vợ giải thích rằng họ thật sự không cần thêm tiền hay một căn nhà mới, nhưng đó là ý kiến của chồng cô và cô không thể ngăn cản anh ta.

Bi kịch ở chỗ, số tiền dư đã không đi đến một căn nhà mới. Nó đi đến các bác sĩ và các bệnh viện. Đứa con trai nhỏ đã mắc một căn bệnh hiểm nghèo đòi hỏi thuốc men và sự chăm sóc đặc biệt và thu nhập dư thừa của người cha đã giúp trả cho đơn thuốc.


Tôi không gợi ý rằng mọi gia đình có một đứa con bệnh hoạn là không trung tín trong chức quản gia của họ, hoặc Đức Chúa Trời khiến con cái gánh chịu tội lỗi của cha mẹ chúng. Nhưng tôi gợi ý rằng không ai có thể cướp của Đức Chúa Trời và làm lợi từ đó. Nếu những ưu tiên của chúng ta trở nên nhầm lẫn và chúng ta bắt đầu đặt tiền bạc lên trên Đức Chúa Trời, vậy chúng ta phải nghĩ đến việc làm kẻ đánh mất.


Nê-hê-mi thực hiện ba bước để thay đổi hoàn cảnh. Thứ nhất, ông quở trách những người Do-thái làm việc và buôn bán vào ngày Sa-bát, ông bảo họ phải thôi đi (Ne 13: 15). Kế đó, ông quở trách các nhà quý tộc về việc họ đã buôn bán trong ngày Sa-bát, ông nhắc nhở họ rằng sự vi phạm của dân tộc vào ngày Sa-bát trước đây là nguyên nhân đẫn đến tình trạng dân đã sự bị lưu đày (c.16-18; Gie 17:21-27). Lẽ nào bây giờ họ lại muốn có thêm cơn thạnh nộ đến trên dân sự chăng?


Bước thứ ba của ông là một bước rất thực tiễn. Ông ra lệnh đóng cửa các thành vào ngày Sa-bát. Tuy nhiên, các lính canh lại sẵn sàng mở cửa cho các thương buôn người ngoại, chắc có lẽ họ bị mua chuộc. Vì vậy Nê-hê-mi đặt một số tôi tớ của ông làm nhiệm vụ. Ông cũng bảo người Lê-vi nêu gương tốt vào ngày Sa-bát và dạy dỗ dân sự.


Ngày của Chúa, ngày đầu tiên trong tuần, không phải là một “ngày Sa-bát Cơ-đốc”, vì ngày Sa-bát là ngày thứ 7 trong tuần và đặc biệc thuộc về dân Do-thái. Vì vậy, luật Do Thái điều khiển ngày Sa-bát của người Do-thái không áp dụng vào ngày của Chúa. Nhưng Chúa Nhật là một ngày đặc biệt đối với dân Đức Chúa Trời vì nó kỷ niệm sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ từ cõi chết cũng như sự giáng lâm của Đức Thánh Linh vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Chúng ta phải dùng Ngày của Chúa vào mục đích làm sự vinh hiển Ngài.


Càng ngày, đặc biệt trong các thành phố của chúng ta, Chúa Nhật đã trở thành một ngày cho sự mua sắm, thể thao, và làm việc vặt trong nhà. Các bãi đậu xe ở các khu trung tâm thương mại mua sắm luôn chật cứng, đầy ắp xe cộ vào những chiều Chúa Nhật cũng như vào các ngày Thứ Bảy. Có lần, tôi đã phỏng vấn giám đốc của một thương xá mua sắm lớn và hỏi ông rằng ông cảm thấy thế nào về việc mở cửa vào những ngày Chúa Nhật. Ông đáp: “Các nhân công và tôi thích ở nhà hơn. Nhưng đó là một ngày lớn cho công việc kinh doanh, nhất là từ những người đi nhà thờ về ”.


Trong gia đình tôi, vợ tôi và tôi cố gắng sống theo nguyên tắc đơn giản là vào ngày Chúa Nhật sẽ không làm bất cứ việc gì mà có thể làm được vào các ngày nào khác trong tuần như những việc cắt cỏ, rửa xe, mua sắm, v.v… Như thế gia đình sẽ không trở thành một nhà tù, nhưng cũng không trở thành một gánh xiếc, và con cái dường như sẽ khôngbị khổ sở vì nó.


Voltaire triết gia theo thuyết bất khả tri người Pháp, đã nói: “Nếu bạn muốn giết chết Cơ-đốc giáo, bạn phải huỷ bỏ Chúa Nhật”. Tôi không chắc đồng ý với ông, nhưng tôi biết rằng nhiều Cơ-đốc nhân đã giết chết niềm vui, chứng cớ và năng lực thuộc linh của họ bằng cách biến Chúa Nhật thành một ngày bình thường và không đặt Đấng Christ làm đầu trong tuần lễ của họ.


Nê-hê-mi kết thúc bằng hai lời cầu nguyện (Ne 13:29,31) xin Đức Chúa Trời nhớ đến ông vì sự hầu việc trung tín của ông. Lương tâm của ông trong sáng, vì ông biết mình đã làm mọi việc cho ích lợi của dân sự và cho vinh hiển của Đức Chúa Trời. Có thể ông không được dân sự đánh giá đúng đắn mặc dù ông đã hy sinh rất nhiều, nhưng ông biết rằng Đức Chúa Trời sẽ thưởng cho ông đúng mức.

Nguyện những người đến sau chúng ta nhận thấy chúng ta trung tín!



 


13. TÌM KIẾM CÁC LÃNH ĐẠO (Ne 13:1-31)


Suốt cuộc Cách mạng Pháp, người ta thấy có một người thường chạy ra đường theo sau một đám đông, lao nhanh vào nguy hiểm. Ai đó la lên: “Dừng lại! Dừng lại! Đừng đi theo đám đông đó!”

Khi tiếp tục chạy, người đàn ông gọi lại: “Tôi phải theo họ! Tôi là lãnh đạo của họ!”


Nê-hê-mi chắc chắn không phải là loại lãnh đạo đó. Ông không sợ nguy hiểm, nhưng ông khôn ngoan trong những kế hoạch và thận trọng trong những quyết định của mình. Hội thánh ngày nay có thể sử dụng những lãnh đạo như Nê-hê-mi. Chúng ta có nhiều điều vô giá trị phải bỏ đi và xây dựng lại để hoàn thành trước khi thế gian sẽ tin rằng Đức Chúa Trời chúng ta thực hữu và sứ điệp của chúng ta đáng tin.


Đâu là những tính cách của người này để chúng ta phải thi đua? Hãy để tôi liệt kê 12 phẩm chất đã khiến Nê-hê-mi trở thành một lãnh đạo thành công. Theo như bạn đã đọc, hãy cố suy nghĩ về những phân đoạn trong sách Nê-hê-mi minh hoạ những phẩm chất này.


1. Ông biết mình được Đức Chúa Trời kêu gọi.

Khi mọi điều khác thất bại, sự kêu gọi của Đức Chúa Trời sẽ cho bạn sức mạnh và giải pháp bạn cần để khiến công việc được thực hiện. Lúc đầu Môi-se đã chống lại sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, nhưng sau đó ông nhận ra rằng sự kêu gọi của Ngài là sự bảo đảm thành công lớn nhất (Phi 1:6; ITe 5:24).

Biết rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi mình là bí quyết giúp Nê-hê-mi kiên trì khi mọi việc quanh ông suy sụp và dân sự của ông chống nghịch ông. Người làm việc mà không có sự kêu gọi thiêng liêng đối với công việc thì giống như một ngôi nhà không có nền móng hoặc một con tàu không có neo, không được chuẩn bị cho những cơn bão tố của đời sống.


Nê-hê-mi khởi đầu với một gánh nặng đối với Giê-ru-sa-lem, nhưng gánh nặng không phải là sự kêu gọi. Ông khóc cho thảm trạng của thành (Ne 1:4), nhưng những giọt lệ của ông không phải là sự kêu gọi. Chính khi ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời và tìm kiếm sự giúp đỡ thiêng liêng là lúc ông nhận được một sự kêu gọi để từ bỏ công việc tương đối dễ chịu của mình và đi đếnGiê-ru-sa-lem để xây lại vách thành. Vì biết Đức Chúa Trời đã kêu gọi mình, Nê-hê-mi có thể đến gần vua và nhận được sự giúp đỡ; ông càng có thể giành được sự giúp đỡ của dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem.


Trước khi bạn đi nhanh vào một chức vụ, hãy chắc rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi bạn và trang bị cho bạn làm công việc. Bạn không thể nghĩ rằng bạn có thể làm công việc ấy, và người khác có thể có những nghi ngờ của họ, nhưng nếu Đức Chúa Trời kêu gọi bạn đừng sợ, thì Ngài sẽ giúp bạn vượt qua.


2. Ông nhờ vào sự cầu nguyện.

Sách Nê-hê-mi mở đầu và kết thúc bằng lời cầu nguyện. Và ở khoảng giữa, Nê-hê-mi gởi đến thiên đàng những lời cầu nguyện nhanh và cầu xin sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. Nê-hê-mi là quan tổng trấn hoàng gia của tỉnh, có mọi quyền hạn và của cải của vua đằng sau mình, nhưng ông chỉ nhờ cậy Đức Chúa Trời giúp ông hoàn tất công việc.


Người làm việc là con cái Chúa cứ cố xoay sở tìm sự thuận lợi cho công việc mà không có sự cầu nguyện thì ắt sẽ không làm được nhiều việc cho Đức Chúa Trời và chắc chắn sẽ không làm kẻ thù sợ hãi bao nhiêu. Martin Luther đã nói: “Làm một Cơ-đốc nhân mà không có sự cầu nguyện thì có thể cũng không hơn gì sống mà không thở”.


Nê-hê-mi đã đối diện với một nhiệm vụ khổng lồ, một nhiệm vụ quá lớn đối với ông, nhưng không quá lớn đối với Đức Chúa Trời. Phillips Brooks nói: “Đừng cầu xin những nhiệm vụ ngang bằng với năng lực bạn. Hãy cầu xin năng lực ngang bằng với nhiệm vụ của bạn”.

Một đặc điểm của người lãnh đạo thuộc linh thật, là có sự nhận biết thành thật của họ về sự thiếu sót của chính họ và sự tin cậy khiêm nhường của họ nơi quyền năng Đức Chúa Trời.


Chúng ta có những lời cầu nguyện tự phát ngắn gọn của Nê-hê-mi được ghi lại trong sách, nhưng đằng sau những lời cầu nguyện đó là một đời sống cầu nguyện được nhìn thấy trong chương 1. Ông chắc chắn có một đời sống cầu nguyện kỷ luật, vì những lời cầu nguyện “điện tín” của chúng ta không kết quả được gì nếu lòng chúng ta không đồng điệu với Đức Chúa Trời. Đa số Cơ-đốc nhân chưa bao giờ nhận biết giờ giấc mà người lãnh đạo phải trải qua trong sự cầu nguyện để khiến công việc được thực hiện.

Nhà truyền giáo R.A.Torrey đã nói: “Hãy cầu nguyện cho những việc lớn, hãy mong đợi những việc lớn, hãy làm việc vì những việc lớn, nhưng trên hết, hãy cầu nguyện”.

Nê-hê-mi chắc chắn đã làm theo lời khuyên ấy.


3. Ông có khải tượng và nhìn thấy sự lớn lao của công việc.

Chức lãnh đạo đòi hỏi phải có khải tượng, sự xem xét và giám sát; nhưng điều lớn nhất là khải tượng. Người lãnh đạo phải nhìn thấy điều mà người khác không thấy và sau đó thúc giục họ làm theo cho đến khi họ thực sự thấy. “Ta đang làm công việc lớn, nên xuống không được” là lời chứng của Nê-hê-mi (Ne 6:3) và ông không bao giờ đánh mất khải tượng đó.


Đây là một câu chuyện cũ nhưng nó được lặp đi lặp lại. Một người khác nhìn một số người làm việc trên toà nhà và bắt đầu hỏi họ. Ông hỏi một người: “Anh đang làm gì?” người ấy đáp: “Tôi đang làm việc kiếm được 10 đô-la một ngày”. Khi ông hỏi người thứ hai câu hỏi tương tự, anh công nhân đáp: “Tôi đang đặt những viên đá xây tòa nhà này”. Nhưng người thứ ba đáp: “Còn tôi, tôi đang xây dựng một thánh đường”.

Đây chính là người có khải tượng.


Dù Đức Chúa Trời kêu gọi bạn làm việc gì, thì đó đều là một việc lớn vì nó là phần xây dựng Hội Thánh Ngài; và đó là công việc lớn nhất trên thế gian. Tôi thường nói với mọi người: “không có nhà thờ nào nhỏ và không có người rao giảng nào lớn”. Trong vương quốc Đức Chúa Trời, mọi công việc đều là công việc lớn và mọi tôi tớ chẳng là gì cả nếu rời xa đức tin trong Chúa.


Nếu bạn đánh mất sự lớn lao của một khải tượng, bạn sẽ bắt đầu đi tắt vào công việc, ngưng thực hiện những hy sinh và khởi sự tìm kiếm điều gì khác để thách thức mình. Nê-hê-mi nhận ra rằng điều ông đang làm lớn hơn nhiều so với việc đơn giản là sửa chữa các cổng và xây lại các vách thành. Ông đang hầu việc Chúa là Đức Chúa Trời của thiên đàng và chuẩn bị thành thánh sẵn sàng cho sự ngự đến của Đấng Mê-si-a!


4. Ông đầu phục quyền hành.

Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời không phải là lời mời gọi chúng ta đến với tự do mà không quan tâm gì đến chính quyền. Nê-hê-mi tôn trọng vua và đầu phục những kế hoạch của vua đối với ông về sự đồng ý của người trước khi ông đi đến Giê-ru-sa-lem. Ông đã nhận biết như điều Phao-lô viết trong Rô-ma đoạn 13, rằng các quyền thế đời này do Đức Chúa Trời chỉ định vì ích lợi của chúng ta, và chúng ta phải đầu phục các quyền ấy.


Hơn thế nữa, Nê-hê-mi đã đầu phục quyền năng của Lời Đức Chúa Trời. Ông mời E-xơ-ra dạy luật pháp cho dân sự để họ cũng sẽ vâng theo ý muốn Ngài. Một quy luật cơ bản của đời sống là những ai lạm dụng quyền hành ắt sẽ phải tự mình ở duới quyền hành. Nê-hê-mi là một người có thể tin cậy vì ông có trách nhiệm. Những năm gần đây chúng ta đã thấy những hậu quả đáng buồn của những lãnh đạo tôn giáo không đầu phục các nhà cầm quyền và không có trách nhiệm. Khi bạn đọc sách Nê-hê-mi, bạn gặp được một con người có công việc rất phát đạt vì ông đầu phục Đức Chúa Trời, đầu phục Lời Ngài và đầu phục vua.


5. Ông làm việc một cách có tổ chức.

Thay vì hăng hái lao vào nhiệm vụ, Nê-hê-mi bí mật quan sát hoàn cảnh và làm quen với những vụ kiện. Ông nói chuyện với các quan trưởng Do-thái cách riêng tư và cho họ biết kế hoạch của ông. Không có cuộc họp báo hay “đại hội sôi nổi” nào cả. Ông chỉ là một người sẵn sàng chờ đợi sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và sau đó hành động ngay khi đường lối rõ ràng.


Sau khi thực hiện kế hoạch, ông tuyển chọn người làm việc và tìm cách cho họ thấy khải tượng về nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời đã giao cho ông. Ông có từng công việc cho mỗi người làm và từng nơi cho mỗi người làm việc. Ông bày tỏ sự nhận biết cho những cộng sự của mình và khích lệ họ khi tình hình khó khăn. Ông cho họ một cảm giác an toàn dù ở trong hoàn cảnh nguy hiểm.


Những ưu tiên của Nê-hê-mi là đúng đắn: Sau khi vách thành được hoàn tất, ông tổ chức một “lễ thờ phượng phục hưng” cho dân sự và sau đó công khai dâng hiến cho chi phí xây sửa các vách thành. Ông vạch ra kế hoạch công việc rồi thực hiện kế hoạch ấy, và Đức Chúa Trời đã chúc phước cho ông.


6. Ông có khả năng nhận biết âm mưu của kẻ thù.

Mọi chức vụ Cơ-đốc cần có một “bộ phận tinh thông” dám mắt vào kẻ thù và nhận biết khi nào nó hành động. Nê-hê-mi không bị đánh lừa bởi những đề nghị của kẻ thù hoặc khiếp sợ bởi những lời đe doạ của họ. Ông có thể nói như Phao-lô đã nói: “chúng ta chẳng phải là không biết mưu chước của nó (Sa-tan)” (IICo 2:11).


Trong bài học của chúng ta, chúng ta hãy để ý những mưu chước khác nhau do kẻ thù sử dụng tìm cách ngăn trở công việc, và mọi lãnh đạo tốt sẽ cần phải hiểu chúng. Người lãnh đạo phát hiện ra kẻ thù trước khi bất cứ ai khác nhận ra và sẵn sàng đối phố với nó một cách nhanh chóng và hiệu quả. Người lãnh đạo phải nhận biết khi nào Sa-tan đến như sư tử rống, như rắn, cắn xé và dụ dỗ.


7. Ông đã làm việc chăm chỉ.

Đó dường như là một tuyên bố nhàm chán, nhưng không phải vậy. Vì một trong những bí quyết về sự thành công của Nê-hê-mi là sự sẵn sàng hy sinh và làm việc chăm chỉ. Nếu ông ở lại cung điện, phục vụ cho vua Ba-tư, ông sẽ hưởng một đời sống dễ chịu. Nhưng một khi ông đã đến Giê-ru-sa-lem, thì ông bắt đầu đi làm việc. Ông cứ làm việc và ông làm việc chăm chỉ.


Đây là điều Charles Spurgeon đã nói với các sinh viên thần học tại Trường Đại Học Mục Sư của ông ở Luân-đôn: “Đừng sợ công việc khó nhọc vì Đấng Christ, có một sự tính sổ đáng sợ chờ đợi những ai trải qua một thời kỳ dễ chịu trong chức vụ, nhưng một phần thưởng lớn xứng đáng sẽ dành cho những ai chịu đựng mọi sự vì lợi ích của người được chọ. Các bạn sẽ không hối tiếc về sự nghèo nàn của mình khi Đấng Christ đến và gọi các tôi tớ Ngài lại với Ngài. Đó sẽ là một điều ngọt ngào để có thể hy sinh tại chức vụ của bạn, chớ không phải hướng về của cải, hoặc chạy từ Đan đến Bê-e-sê-ba để được một khoản lương khá hơn, nhưng dừng ở nơi Chúa của bạn bảo bạn giữ công sự”.


“Người làm công đáng được tiền lương mình” (Lu 10:7), vì vậy hãy biết chắc chúng ta là những người làm công chớ không phải người đi la cà. Không có chỗ nào trong sự hầu việc Chúa dành cho người lười biếng chỉ biết đứng nhìn người khác làm việc và đưa ra lời khuyên.


8. Ông đã sống đời sống mẫu mực.

Cho dù đang làm việc trên vách thành hoặc đang nuôi ăn hàng trăm vị khách, thì đời sống Nê-hê-mi vẫn không chỗ trách được. Trọn thời gian của ông được dành cho công việc, và ông không cho phép tâm trí mình bị phân tán.

Ông từ chối sự hỗ trợ về tài chính mà theo hợp pháp là của ông và ngược lại ông đã sử dụng tiền của mình để giúp đỡ người khác. Ông đồng nhất hóa bản thân mình với dân sự và đứng với họ, cùng họ xây sửa các vách thành. Kẻ thù sẽ vui mừng khi khám phá ra điều gì đó tệ hại trong đời sống Nê-hê-mi khiến ông bị bối rối và ngăn trở công việc, thế nhưng chúng chẳng tìm được gì. Không phải Nê-hê-mi là người hoàn toàn vô tội, vì chỉ có Chúa Giê-xu Christ mới có thể tuyên bố điều đặc biệt đó, tuy nhiên đời sống của ông không chỗ trách được.

Phao-lô kêu gọi chúng ta hãy trở nên không chỗ trách và không làm hại ai, “hầu cho anh em ở giữa dòng dõi hung ác ngang nghịch, được nên con cái của Đức Chúa Trời, không vít, không tì, không chỗ trách được, lại giữa dòng dõi đó, giữ lấy đạo sự sống, chiếu sáng như đuốc trong thế gian” (Phi 2:15). Phẩm chất thứ nhất dành cho mục sư (trưởng lão, giám mục) phải là người “không chỗ trách” (ITi 3:2 Tit 1:6).


Không có sự thay thế nào cho tính chính trực và lương tâm tốt lành đồng hành với nó. Bạn sẽ không sợ hãi khi phải đối diện với bất cứ kẻ thù nào, nghe bất cứ sự tố cáo nào, hoặc đương đầu với bất cứ sự hiểu lầm nào nếu bạn có tính chính trực và có lương tâm tốt. Bạn không có gì phải che giấu và không có gì phải sợ.

Chính khi con người bắt đầu bước vào đời sống hai mặt là lúc họ vướng vào rắc rối, vì không ai có thể phục vụ hai chủ. Sự giả hình dẫn đến sự lừa dối hơn nữa, cho đến khi những kẻ lừa dối bị vướng vào bẫy của chính mình. Walter Scott đã đúng khi viết:

Ôi, mạng nhện do chúng ta dệt giờ đã rối tung lên

Vì trước đó chúng ta đã quen sống lừa dối!


9. Ông tìm cách quy vinh hiển riêng cho Đức Chúa Trời mà thôi.

Nếu Nê-hê-mi chỉ quan tâm đến việc đề cao bản thân mình thì ông đã ở lại trong cung điện, vì ở đó ông được tôn trọng với tư cách là quan tửu chánh của vua và có một đời sống dễ chịu. Hoặc khi ông đến Giê-ru-sa-lem với vai trò quan tổng trấn chính thức, ông sẽ sử dụng quyền hạn của mình để làm cho đời sống ông thoải mái hơn. Ông có thể “quăng gánh nặng của mình” và tránh nhiều hy sinh cùng sự khó nhọc.


Nhưng ông chẳng làm những điều đó.

Ngược lại, ông đến như một đầy tớ, đồng nhất hoá mình với dân sự và bước ngay vào những gian nan, chung vai san sẻ gánh nặng và nguy hiểm với họ. Trong điều này, ông chắc chắn giống Chúa Giê-xu Christ của chúng (Phi 2:1-11).


Nê-hê-mi nặng lòng vì thành Giê-ru-sa-lem không làm vinh hiển Đức Chúa Trời nữa. Đó là một sự sỉ nhục. Ông quan tâm vì dân sự sống trong Giê-ru-sa-lem là một mục tiêu của sự khinh bỉ đối với những láng giềng người ngoại. Ông quyết định cất bỏ sự sỉ nhục và cho dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem với mục đích đem lại vinh hiển cho Đức Chúa Trời.


Qua sự xây cất vách thành và sữa chữa các cửa, Đức Chúa Trời được vinh hiển. Qua cách Nê-hê-mi và dân sự ông đương đầu và đánh bại kẻ thù, Đức Chúa Trời được vinh hiển. Qua sự nhờ cậy Chúa của họ, Đức Chúa Trời được vinh hiển. Trong lễ dâng hiến lớn, Chúa được ca ngợi. Từ đầu đến cuối, cả hội chúng đã quy vinh hiển cho Chúa.


Tôi sợ rằng Hội thánh ngày nay đang ở trong tình trạng có quá nhiều người nổi tiếng nhưng lại thiếu các tôi tớ. Sự tán dương rất thường đi đến các nhân sự chớ không đi đến Chúa. Đặc biệt ở một số hội nghị tôn giáo, có quá nhiều sự tán dương dành cho con người đến nỗi Chúa bị bỏ ngoài bức tranh đó hoàn toàn. Nếu người làm việc cho Chúa mà không có tinh thần khiêm nhường trong sự hầu việc và không để cho Ngài được vinh hiển thì công việc của người làm chẳng có ích lợi gì.


10. Ông có sự can đảm.

Không có chỗ cho tính nhút nhát trong chức lãnh đạo. Một khi bạn biết Đức Chúa Trời muốn bạn làm gì, bạn phải có can đảm bước ra và làm công việc đó. Bạn phải sẵn sàng chịu một số rủi ro và đôi khi phạm một số sai sót. Bạn phải có khả năng đón nhận những chỉ trích chê bai, bị hiểu lầm, và thậm chí bị vu cáo, nhưng không bỏ cuộc. Như Harry Truman đã nói: “Nếu bạn không thể chịu đựng sức nóng, hãy ra khỏi nhà bếp”.


Nê-hê-mi có can đảm để sống trong một thành phố nguy hiểm và đương đầu với kẻ thù xảo quyệt. Ông có can đảm đối phó với những kẻ phản bội giữa vòng dân sự của ông và kêu gọi họ trở lại trung tín với Chúa. Thậm chí ông đã quăng Tô-bi-gia ra khỏi đền thờ! Mặc dù bạn và tôi tớ với tư cách những cộng sự Cơ-đốc không có quyền hạn để nhổ râu hoặc cưỡng chế trục xuất những kẻ làm công vô ích, nhưng chúng ta cần có cùng loại can đảm mà Nê-hê-mi đã có khi ông làm những việc đó.


Ai đó đã nói rằng sự thành công không bao giờ là cuối cùng và sự thất bại không bao giờ là tiền định cả. Chính sự can đảm mới có giá trị. Những người Hy-lạp cổ đại nghĩ rằng sự can đảm là “đức tính chính” vì nếu không có can đảm bạn sẽ không bao giờ có thể sử dụng những đức tính khác của mình.

Không ngạc nhiên gì khi nhà tiểu thuyết người Tây Ban Nha Cervantes đã viết: “Người đánh mất của cải thì mất nhiều, người mất một người bạn thì mất nhiều hơn; Nhưng người đánh mất can đảm là mất tất cả”.


11. Ông tuyển người làm việc.

Người lãnh đạo thật không cố gắng tự mình làm mọi việc. Họ không chỉ tuyển chọn những người khác, mà họ còn tạo ra hoàn cảnh thích hợp giúp người khác có thể trở thành những lãnh đạo nữa. Người lãnh đạo thật không sợ có những người vây quanh mình là những người có thể làm một số việc tốt hơn mình. Người lãnh đạo không cảm thấy bị đe dọa bởi sự giỏi dang xuất sắc của người khác. Thật ra, họ càng phải khích lệ điều ấy. Công việc của họ là thúc giục người khác làm hết khả năng và giúp công việc được thực hiện.


Trong việc nghiên cứu của tôi về tiểu sử Cơ-đốc, tôi để ý thấy Đức Thánh Linh thỉnh thoảng dấy lên những người nam người nữ giống như nam châm trong cách họ thu hút những lãnh đạo có tiềm năng đến với họ. D.L.Moody là một người như thế, và Paul Rader cũng vậy. Amy Carmichael có tài năng và cố Tiến sĩ Bob Cook cũng thế. Người lãnh đạo phải biết phát triển tài năng các lãnh đạo khác vì họ biết cách phân biệt những tài năng thuộc linh và những tiềm năng khác trong một cuộc đời.


12. Ông rất kiên quyết.

Lech Walesa, một lãnh đạo công nhân Ba-lan can đảm đã trở thành Chủ tịch nước Ba-lan, ông từng nói như về sự lãnh đạo thế này: “Làm một lãnh đạo phải có tính kiên quyết. Nó có nghĩa là cương quyết cả ở nội tâm lẫn ở ngoại vi, kiên quyết với chính mình và với người khác”. Nếu có bất cứ ai đã sống đúng với sự mô tả đó, thì đó là Nê-hê-mi.


Hãy kiên quyết! Đó là một trong những sứ điệp chính của sách Nê-hê-mi.


Hiệu trưởng trường Đại học Wheaton (III) là tấn sĩ V.Raymond Edman thường nhắc nhở các sinh viên của ông: “Đừng bỏ cuộc quá sớm”. Giống như Chúa Giê-xu Christ, Nê-hê-mi đã tỏ ra rất kiên quyết và tiếp tục hành động (Lu 9:51; Es 50:7). Bất cứ ai tra tay cầm cày mà còn quay nhìn lại đàng sau mình thì không xứng để hầu việc Chúa (Lu 9:62).


Tôi đã đọc về câu chuỵện hai cậu con trai đi quanh làng mình để tìm công việc xúc tuyết. Chúng nhìn thấy một người đàn ông đang xúc tuyết trên đường ông sẽ lái xe đi qua và hỏi rằng chúng có thể làm công việc này được chăng.

Ông ta nói: “Các cậu không thấy tôi đã xúc hết một nửa rồi đó sao?”

Các cậu bé giải thích: “Đó là lý do chúng tôi hỏi. Ông biết đấy, chúng tôi nhận hầu hết công việc từ những người đã bắt đầu nhưng không thể hoàn tất”.


Nê-hê-mi kiên quyết vì công việc ông đang làm là một việc lớn và ông đang hầu việc một Đức Chúa Trời vĩ đại. Ông kiên quyết vì thành lúc bấy giờ là một sự sỉ nhục, và ông muốn nó quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời. Ông kiên quyết vì ông là một phần của kế hoạch lớn mà Đức Chúa Trời dành cho thế giới khi Ngài hành động qua dân tộc Do-thái.


Hội thánh ngày nay cần những lãnh đạo, người nam, người nữ và người trẻ tuổi là những người sẽ kiên quyết dưói quyền Đức Chúa Trời để hoàn thành ý muốn Đức Chúa Trời, dù có bất cứ điều gì xảy ra. Hội thánh cần những lãnh đạo sẽ nói những lời như Nê-hê-mi đã nói: “Ta đang làm một công việc lớn, nên ta xuống không đặng!”

Hơn bất cứ điều gì khác, tôi muốn nói lời này vào lúc kết thúc chức vụ và cuộc đời tôi rằng: “Con đã tôn vinh Cha trên đất. Con đã làm xong công việc Cha giao cho làm” (Gi 17:4)


Vậy, khi nào bạn cảm thấy hình như mình sắp bỏ cuộc, thì hãy nhớ đến Nê-hê-mi và tiếp tục công việc cho đến lúc công việc của bạn được hoàn tất quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.


Hãy kiên quyết!



HỘI THÁNH TIN LÀNH TRƯỞNG NHIỆM GARDEN GROVE
Quận Cam-vùng nam California
​11832 South Euclid St, Garden Grove,
CA. 92840
Orange County​-Southern California
​Tel: 714-638-4422    

Email: vpcgg.ca@gmail.com

SUBSCRIBE FOR EMAILS

Thanks for submitting!

Copyright Ⓒ 2023 vpcgg (PC-USA). All rights reserved. 

bottom of page