top of page
Điều...
....lớn nhất có thể xảy ra khi chúng ta kinh nghiệm những thử thách Đức Chúa Trời ban cho đó là chúng ta trở nên gần gũi hơn với Cha chúng ta và trở nên giống Chúa Giê-xu hơn. Đồi Gô-gô-tha không chỉ là nơi Chúa Giê-xu chết thay tội lỗi chúng ta, nhưng nó cũng là nơi Ngài thánh hóa sự chịu khổ và bởi sự phục sinh của Ngài, Ngài biến đổi sự chịu khổ thành vinh hiển.
Hãy tìm cách làm vinh hiển Chúa, và Ngài sẽ làm phần còn lại.
Martin Luther đã nói: “Sự chịu khổ của chúng ta không xứng đáng được gọi là sự chịu khổ. Khi tôi xem xét những thập tự giá hoạn nạn và những cám dỗ của mình, tôi xấu hổ đến chết khi nghĩ rằng chúng là gì khi so sánh với sự chịu khổ của Chúa Giê-xu phước hạnh của tôi”
5. Hãy trông mong đến điều Đức Chúa Trời dành cho bạn (Sa 22:15-24)
Luôn có một “hậu cảnh” đối với những thử nghiệm của đời sống (Hêb 12:11; IPhi 5:10), vì Đức Chúa Trời không bao giờ lãng phí hoạn nạn. “Nhưng Chúa biết con đường tôi đi, khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng” (Giop 23:10). Áp-ra-ham đã nhận nhiều phước hạnh từ Đức Chúa Trời vì đức tin vâng phục của ông.
Trước hết, ông nhận được một sự phê chuẩn mới từ Đức Chúa Trời (Sa 22:12). Áp-ra-ham mô tả toàn bộ từng trải khó khăn này như “sự thờ phượng” (Sa 22:5) vì đối với ông, điều đó là vậy. Ông vâng theo ý muốn Đức Chúa Trời và tìm cách làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời khen ngợi ông. Thật có giá trị để trải qua những thử thách nếu cuối cùng Cha có thể phán với chúng ta “được lắm!”
• Ông đã nhận lại một đứa con mới.
Y-sác và Áp-ra-ham đã cùng ở tại bàn thờ, và Y-sác giờ đây là một “của lễ sống” (Rô 12:1-2). Đức Chúa Trời đã ban Y-sác cho Áp-ra-ham, và Áp-ra-ham đã dâng Y-sác lại cho Đức Chúa Trời. Chúng ta phải cẩn thận để những sự ban cho của Đức Chúa Trời không thay thế Đấng ban cho.
Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham những sự bảo đảm mới (Sa 22:16-18), ông đã nghe những lời hứa này trước đó nhưng giờ đây chúng mang ý nghĩa mới. Charles Spurgeon thường nói rằng những lời hứa của Đức Chúa Trời không bao giờ chiếu sáng hơn trong lò lửa hoạn nạn. Điều mà hai người đã làm trên một bàn thờ vắng vẻ, ngày nào đó sẽ đem phước hạnh đến cho cả thế giới!
Áp-ra-ham cũng biết một danh mới của Đức Chúa Trời (Sa 22:14). Như chúng ta đã hiểu Giê-hô-va Di-rê nghĩa là “Đức Giê-hô-va sẽ được nhìn thấy” hoặc “Đức Giê-hô-va sẽ bảo đảm (chu cấp)”.
Đền thờ Do-thái đã được xây trên núi Mô-ri-a (IISu 3:1) và suốt thời gian chức vụ trên đất của Chúa chúng ta, Ngài được thấy có mặt ở đó. Ngài là Chiên Con thật của Đức Chúa Trời, do Đức Chúa Trời ban để chịu chết thay cho tội lỗi của thế gian.
Người sáng lập hội China Inland Mission (Bây giờ là Hội Overseas “Missionary Fellowship” – Hội truyền giáo Hải ngoại), J. Hudson Taylor, thường treo trong gia đình ông tấm bảng có hai từ Hê-bơ-rơ trên đó “Ebenezer” (Ê-bên-ê-xe) và “Jehovah-jireh” (Giê-hô-va Di-rê). Chúng có nghĩa là: “Đức Giê-hô-va cứu giúp chúng tôi đến bây giờ” (ISa 7:12) và “Đức Giê-hô-va sẽ bảo đảm”. Dù nhìn lại đàng sau hay nhìn đến phía trước, Hudson Taylor biết Chúa đang hành động, và ông không có gì để sợ hãi.
Khi về đến nhà, Áp-ra-ham nghe tên mới khác Rê-bê-ca (Sa 22:23), người nữ Đức Chúa Trời dành cho Y-sác. Danh sách tên trong gia đình của anh em Áp-ra-ham có thể đã làm nản lòng một người chỉ có một con trai, nhưng Áp-ra-ham không phiền muộn. Xét cho cùng, ông có lời hứa của Đức Chúa Trời rằng con cháu của ông sẽ nhiều như sao trên trời và cát bờ biển! (Sa 22:17).
Cuối cùng, Áp-ra-ham đã ra khỏi thử thách này với một tình yêu sâu sắc hơn đối với Chúa. Chúa Giê-xu cho chúng ta biết về tình yêu sâu sắc hơn này trong Gi 14:21-24 và Phao-lô cầu nguyện về điều đó trong Êph 3:14-21. Bạn đã kinh nghiệm tình yêu ấy chưa?
22. KÌA CÔ DÂU ĐẾN! (Sa 24:1-67)
Có vẻ kỳ lạ khi chương dài nhất trong Sáng-thế ký kể câu chuyện về cách một người nam lấy vợ. Mặc dù đó là một chủ đề quan trọng, và đây là một câu chuyện dễ thương, nó có đáng chiếm nhiều chỗ như thế không? Chỉ 31 câu được dành cho câu chuyện sáng tạo trong Sa 1:1-31; 67 câu được cho phép để kể lại cách Rê-bê-ca trở thành vợ Y-sác. Vì sao?
Trước hết, chương này nhấn mạnh sự phân rẽ. Áp-ra-ham cho biết rõ rằng con trai ông không nên cưới một người nữ Ca-na-an (Sa 24:3). Luật-pháp Môi-se không cho phép người nam Do-thái cưới người nữ ngoại đạo (Phuc 7:1-11). Tín-hữu ngày nay cũng không nên lấy những người không tin Chúa (IICôr 6:14-18; ICôr 7:39-40). Sa 24:1-67 là một sự khích lệ lớn cho những ai cần có ý muốn của Đức Chúa Trời trong việc chọn lựa một người bạn đời.
Ngày nay, mặc dù chúng ta không sử dụng cách tương tự như đầy tớ Áp-ra-ham, nhưng những nguyên tắc này vẫn ứng dụng: Chúng ta phải cần có ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta phải cầu nguyện và tìm kiếm sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta phải sẵn sàng vâng lời và chúng ta phải tỉnh táo đối với điều Đức Chúa Trời sắp làm.
Dĩ nhiên, khi người chồng trong câu chuyện là Y-sác, con yêu dấu của Áp-ra-ham, thì câu chuyện mang ý nghĩa lớn hơn. Xét cho cùng, Y-sác là “mắt xích sống động” trong dây xích phước hạnh mà điểm đỉnh là sự giáng sinh của Cứu Chúa, Giê-xu Christ; vì vậy bất cứ điều gì xảy ra cho Y-sác đều thuộc tầm quan trọng cực điểm trong kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa Trời.
Nhưng chương này vượt hơn lịch sử để vào lãnh vực thần học. Nó cho chúng ta một bức tranh về việc Cha trên trời chọn một nàng dâu cho Con Ngài (Mat 22:1-14). Hội thánh được ví sánh với một cô dâu (IICôr 11:2-3; Êph 5:22-23). Và suốt thời đại hiện tại này, Thánh Linh đang kêu gọi con người tin Đấng Christ và “được gả cho Ngài” (Rô 7:4). Những yếu tố có liên quan trong hôn nhân của Y-sác và Rê-bê-ca, cũng có liên quan trong hôn nhân của Đấng Christ và Hội thánh của Ngài. Có 4 yếu tố trong đó.
1. Ý muốn của cha (Sa 24:1-9)
Áp-ra-ham giờ đây được 140 tuổi (Sa 21:5; Sa 25:20) và sẽ sống thêm 35 năm nữa (Sa 25:7). Mối quan tâm lớn của ông là trước khi ông chết, ông sẽ kiếm một người vợ cho Y-sác con một của ông. Chỉ khi đó Đức Chúa Trời mới có thể thực hiện những lời hứa giao-ước của Ngài để chúc phước cho Áp-ra-ham với nhiều con cháu và ban cho họ Ca-na-an làm di sản của họ (Sa 12:1-3; Sa 13:14-17; Sa 15:18; Sa 21:12).
Trong thời đó cha mẹ sắp đặt hôn nhân cho con cái. Người nam với người nữ lấy nhau và sau đó học cách yêu nhau (Sa 24:67). Phần nhiều trên thế giới ngày nay, kiểu mẫu này đã khác.
Chúng ta không biết “đầy tớ lớn tuổi nhất” này là ai. Nếu đó là Ê-li-sê-se (Sa 15:2), vậy ông chắc đã rất già, những sự kiện được ghi lại trong Sa 15:21 xảy ra hơn 50 năm trước đó. Áp-ra-ham khiến ông thề 3 điều: (1). Ông sẽ không chọn một người vợ cho Y-sác trong vòng những người nữ Ca-na-an; (2). Ông sẽ chọn vợ trong những bà con của Áp-ra-ham, và (3). Ông sẽ không dẫn Y-sác trở lại xứ trước đây của Áp-ra-ham.
Sau khi biết rằng mình đã giao cho đầy tớ một nhiệm vụ khó khăn, Áp-ra-ham cũng dành cho người ấy vài lời khích lệ (Sa 24:7, 39-41). Đức Chúa Trời đã hướng dẫn và chúc phước cho Áp-ra-ham trong 65 năm và giờ đây sẽ không từ bỏ ông. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham một lời hứa cụ thể rằng dòng dõi ông sẽ hưởng đất; Vì vậy điều này có nghĩa là con trai ông phải có một người vợ sanh con cho ông. Sau cùng, Thiên-sứ của Đức Chúa Trời sẽ đi trước người đầy tớ và hướng dẫn ông đến đúng người nữ ấy.
Áp-ra-ham là người có đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời và biết cách áp dụng lời ấy vào những hoàn cảnh và những quyết định cụ thể. Ông tìm cách vâng lời Đức Chúa Trời vì đức tin thật trong đó và bạn sẽ càng có sự hướng dẫn từ đó. Điều này áp dụng cho những quyết định về hôn nhân, nghề nghiệp, chức vụ hoặc bất cứ lĩnh vực nào khác trong đời sống. Nếu chúng ta không tin cậy Lời Đức Chúa Trời và vâng theo, Ngài sẽ không hướng dẫn chúng ta (Ch 3:5-6).
Giống như Áp-ra-ham cần một cô dâu cho con trai ông, Đức Chúa Trời là Cha cũng quyết định ban một cô dâu cho Con yêu dấu của Ngài. Vì sao? Không phải vì Chúa Giê-xu cần điều gì, vì Ngài là Con Đời Đời của Đức Chúa Trời Tự Hữu, tự đáp ứng và chẳngcần gì cả. Cô dâu là món quà tình yêu của Cha dành cho Con Ngài. Chúng ta thường nhấn mạnh rằng Con là món quà tình yêu của Cha dành cho thế gian (Gi 3:16) và quên rằng Hội thánh là món quà tình yêu của Cha dành cho Con Ngài (Gi 17:2,6,9,11,12,24).
Trong những dự định thiên thượng về sự vĩnh cửu, Cha quyết định cứu những tội nhân hư mất bởi ân-điển Ngài, Con đồng ý chịu chết vì tội lỗi của thế gian, và Thánh Linh đồng ý áp dụng công việc đó vào đời sống của tất cả những ai sẽ tin. Điều này được bày tỏ trong Êph 1:1-14 nơi bạn thấy công việc của Đức Chúa Cha (Êph 1:3-6). Đức Chúa Con (Êph 1:7-12) và Đức Thánh Linh (Êph 1:13-14).
Hãy đặc biệt chú ý rằng lý do cho kế hoạch cứu rỗi vĩ đại này là vinh hiển của Đức Chúa Trời (Êph 1:6, 12, 14). Những ai tin Đấng Christ sẽ là một dân đặc biệt, cơ nghiệp của Ngài (Êph 1:18) và là cô dâu của Ngài (Êph 5:22-23). Cô dâu của Ngài sẽ đem vinh hiển đến cho Đấng Christ trên đất và suốt cõi vĩnh hằng. Một ngày nào đó Chúa Giê-xu sẽ có niềm vui giới thiệu cô dâu của Ngài trong vinh hiển của Đức Chúa Trời (Hêb 12:2; Giu 1:24).
Lần sau khi bạn có đặc quyền làm chứng cho Chúa Giê-xu, hãy nhớ rằng bạn đang mời người khác đến với tiệc cưới!
2. Chứng cớ của người đầy tớ (Sa 24:10-49)
• Đầy tớ.
Áp-ra-ham và Y-sác đều không đi tìm cô dâu; Nhiệm vụ được giao cho một đầy tớ vô danh, người hoàn toàn tận tụy. Tên mà người đầy tớ này thích dùng để gọi Áp-ra-ham là “chủ tôi”, được ông sử dụng 19 lần trong câu chuyện này. Ông đã sống và phục vụ chỉ để làm hài lòng chủ ông, và đó là một gương tốt cho chúng ta noi theo ngày nay.
Người đầy tớ nhận những mệnh lệnh từ chủ ông và không thay đổi chúng. Khi ông thề vâng phục thì ông thật sự chắc chắn như vậy và giữ nó. Dù nhiệm vụ của ông thành công hay thất bại, người đầy tớ biết mình sẽ phải tường trình với chủ ông, và ông muốn có thể làm như vậy mà không có sự bẽ bàng (Rô 14:10-12; IGi 2:28).
Nhưng làm thế nào ông sẽ đi kiếm đúng người nữ cho con trai của chủ ông? Người đầy tớ đã hành động bằng đức tin nơi Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Y-sác (Sa 24:12). Ông tin lời hứa của Đức Chúa Trời và tin cậy sự định liệu của Đức Chúa Trời để hướng dẫn ông (Sa 24:27). Ông dành thời gian để cầu nguyện và cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ, rồi ông giữ cho mắt mình mở để thấy điều Đức Chúa Trời có thể làm. Thật ra, trong khi ông cầu nguyện, Đức Chúa Trời đã ban sự nhậm lời (Ês 65:24). Người đầy tớ không bốc đồng nhưng chờ đợi Chúa để thấy điều Ngài có thể làm (Sa 24:21). “Ai tin sẽ không hành động gấp rút” (Ês 28:16 NKJV).
• Cô dâu.
Trong sự định liệu của Ngài, Đức Chúa Trời đã đem Rê-bê-ca đến giếng nước ngay khi người đầy tớ đang cầu nguyện, và nàng đã làm chính xác điều mà người đầy tớ đã cầu nguyện. Người đầy tớ đã làm điều mà Ghi-đê-ôn sẽ làm những năm sau đó, “trải lông chiên” (Cac 6:36-40).
Đây không phải là cách tốt nhất để dân sự Đức Chúa Trời xác định ý muốn của Đức Chúa Trời, vì những điều kiện chúng ta đặt ra cho Đức Chúa Trời đáp ứng có thể không ở trong ý muốn Ngài. Chúng ta đang bước đi bởi ngoại cảnh chớ không bởi đức tin, và chúng ta có thể đi đến chỗ thử Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã thích ứng chính Ngài trước những nhu cầu của người đầy tớ (và Ghê-đê-ôn) và hướng dẫn họ khi họ cầu xin.
Rê-bê-ca chẳng biết rằng làm một nhiệm vụ khiêm nhường cho một khách lạ sẽ khiến nàng trở thành cô dâu của một người giàu có là người ở trong mối liên hệ giao-ước với Đức Chúa Trời. Nàng sẽ trở thành mẹ của Gia-cốp và Gia-cốp sẽ trở thành tổ phụ của 12 chi phái Y-sơ-ra-ên! Những năm trước đây, tôi đã đọc một câu trích dẫn của một tác giả được nhận biết chỉ như “Marsden” và nó đã gắn bó với tôi: “Hãy khiến mọi cơ hội trở nên một cơ hội lớn, vì bạn không bao giờ có thể biết khi nào ai đó có thể chọn tiêu chuẩn của bạn cho một vị trí lớn hơn”.
Người đầy tớ đang đánh giá Rê-bê-ca để thấy nàng có phải sẽ trở thành một người vợ tốt đối với Y-sác hay không. Ông có thể thấy rằng nàng tử tế, vui vẻ, khiêm nhường, khỏe mạnh và là một người làm việc siêng năng. Cho 10 con lạc đà uống nước không phải là một công việc dễ dàng! Sau một đoạn đường dài, một con lạc đà khát nước có thể uống 40 ga-lông nước; và Rê-bê-ca đã phải kéo tất cả khoản nước đó bằng tay.
“Nàng là con ai?” (Sa 24:23) là một câu hỏi căn bản cho bất cứ một người cầu hôn để hỏi. Dĩ nhiên, người đầy tớ quan tâm về gia đình nàng, nhưng câu hỏi này có một ứng dụng rộng rãi hơn cho tín-hữu Cơ-đốc ngày nay, cả nam lẫn nữ. “Bạn có phải là con cái Đức Chúa Trời? Bạn đã được tái sinh trong gia đình Đức Chúa Trời chưa?” Quả là một bi kịch khi các tín-hữu lấy những người không tin Chúa và tìm cách lập một gia đình không có phước hạnh trọn vẹn của Đức Chúa Trời.
• Gia đình.
Rê-bê-ca nhận những món quà của nàng và chạy về nhà để kể cho cha, mẹ và anh của nàng là La-ban (người dường như là chủ trong gia đình) biết rằng một người khách rời rộng cần một nơi để họ qua đêm. Sự tiếp khách là luật đầu tiên của Đông phương, vì vậy gia đình này đi ra để đón vị khách. Tính cách của La-ban được bày tỏ trong Sa 24:30.
Ông bị kích thích về những quà tặng đắt giá hơn là đặc quyền bày tỏ sự hiếu khách đối với một khách lạ. Y-sác và con trai của Rê-bê-ca là Gia-cốp những năm sau đó sẽ khám phá La-ban thật sự là một kẻ khôn khéo (Sa 29:1-31:55).
Người đầy tớ không ăn cho đến khi ông đã thực hiện xong nhiệm vụ của mình (Sa 24:33; Gi 4:32). Ông không nói về chính mình, nhưng về Y-sác và của cải lớn của người. (Đoàn lạc đà 10 con giúp cho biết câu chuyện). Ông kể lại kinh nghiệm của mình tại giếng nước, và lần đầu tiên Rê-bê-ca phát hiện rằng nàng đã được “đo lường” cho một phần việc mới và thú vị. Nhưng liệu họ sẽ để nàng đi và nàng sẽ vui lòng đi chăng?
Trước khi chúng ta biết câu trả lời cho những câu hỏi đó, chúng ta phải dừng lại để thấy thế nào người đầy tớ minh họa về công việc của Thánh Linh trên thế giới ngày nay khi Ngài sử dụng chúng ta để làm chứng về Chúa Giê-xu Christ (Công 1:8). Ông đã không nói về chính mình nhưng về chủ của ông và sự giàu có của người (Gi 15:26; Gi 16:13-14). Ông đưa ra những bằng chứng về sự giàu có của chủ ông giống như Thánh Linh ban cho chúng ta “những quả đầu mùa” và “phần thưởng” về sự giàu có thuộc linh của chúng ta trong Đấng Christ (Êph 1:13-14). Nhưng điều tốt nhất sắp xảy đến!
Công việc của người đầy tớ không phải là lý luận hay đút lót nhưng đơn giản là làm chứng về sự cao trọng của chủ mình. Ông không buộc Rê-bê-ca phải lấy Y-sác, ông chỉ trình bày cho nàng những sự thật và cơ hội để thực hiện một quyết định. Mặc dù không có gì sai trái với việc thúc giục người khác được cứu (Công 2:40), nhưng chúng ta phải cẩn thận đừng tìm cách thay thế Thánh Linh là Đấng duy nhất có thể làm công việc lên án trong lòng người (Gi 16:7-11).
3. Sự tự nguyện của cô dâu (Sa 24:50-60)
Mẹ và anh của Rê-bê-ca sẵn sàng để nàng trở thành vợ Y-sác, nhưng họ muốn nàng chờ ít nhất mười ngày trước khi rời gia đình. Đây là một yêu cầu bình thường, vì cha mẹ muốn dành nhiều thời gian có thể được để ở cạnh nàng và thậm chí để mời các láng giềng chung vui với họ (Sa 31:25-27).
Dĩ nhiên, họ vui mừng với của cải người đầy tớ dâng cho họ mà có lẽ là của hồi môn, và chắc chắn họ muốn nghe nhiều hơn về Y-sác và gia đình mà Rê-bê-ca sẽ dự phần với họ.
Như người đầy tớ không trì hoãn trong việc trình bày sự thỉnh cầu của mình (Sa 24:33), ông cũng không trì hoãn trong việc hoàn thành nhiệm vụ mình. Khi Chúa hành động, đó là thời gian cứ đi! Ông đề nghị để họ cho Rê-bê-ca thực hiện sự chọn lựa, và lời đáp của nàng là “Tôi sẽ đi”. Đây là quyết định mà mỗi tội nhân phải thực hiện nếu người đó muốn “được gả cho Đấng Christ” và dự phần gia đình của Ngài trên trời.
Điều gì thúc đẩy Rê-bê-ca thực hiện quyết định đúng đắn? Nàng đã nghe về Y-sác và tin điều đó. Nàng nhìn thấy chứng cớ về sự cao trọng, sự rời rộng và sự giàu có của chàng nên nàng muốn thuộc về chàng trong phần đời còn lại của mình. Nàng chưa từng thấy Y-sác (IPhi 1:3) nhưng điều nàng đã nghe về chàng thuyết phục nàng đi đến Ca-na-an với người đầy tớ.
Cha mẹ, và bè bạn của nàng có thể trình bày cho nàng nhiều lý lẽ để chờ đợi hoặc thậm chí nói “Không”. “Con chưa bao giờ thấy người đàn ông này mà!” “Có thể người đầy tớ này là một kẻ gian!”, “Gần 500 dặm đến nơi Y-sác sống. Đó là một chuyến đi dài!”, “Bạn có thể không bao giờ gặp lại gia đình mình!” Nhưng nàng quyết định thực hiện hành trình dài khó khăn và trở thành vợ của một người mà nàng chỉ biết bởi lời đồn.
• Sự ứng dụng thật rõ ràng cho người chưa được cứu ngày nay.
Họ không nên trì hoãn trong việc thực hiện quyết định của mình đối với Đấng Christ. Đó là một quyết định của đức tin, dựa trên chứng cớ do Thánh Linh cung cấp qua Lời Chúa và sự làm chứng của Hội thánh. Tội nhân nào trì hoãn đều ở trong hiểm họa đánh mất cơ hội thuộc về gia đình Đức Chúa Trời và sống trên Thiên Đàng (Gi 14:1-6).
“Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài, thì chớ cứng lòng” (Hêb 3:7, 15).
“Kìa, hiện nay là thì thuận tiện, kìa hiện nay là ngày cứu rỗi” (IICôr 5:2).
Vào cuối buổi nhóm trong một chiến dịch lớn về truyền giảng Phúc-Âm do ông hướng dẫn ở Fort Worth, Texas, Tiến sĩ George W. Truett, lúc bấy giờ là mục sư của Hội thánh First Baptist ở Dallas, đã nói với một hội chúng đông đảo: “Sa-tan không quan tâm nếu người ta đến nhà của Đức Chúa Trời, và đến với những buổi nhóm chung như vầy, chăm chú, trang nghiêm và cảm động sâu sắc, nếu họ chỉ để cho cơ hội tôn giáo đi qua, và không tăng trưởng. Ôi, khả năng đáng sợ, đó là cơ hội tôn giáo có thể đến rồi đi qua, và những điều cao trọng nhất của linh hồn bị đánh mất và mất mãi mãi” (A Request for Soul –một nhu cầu cho linh hồn, tr.362). Thật là khả năng đáng sợ!
Một thế kỷ rưỡi trước đó, Charles Spurgeon đã nói với hội chúng của ông ở Luân-đôn: “Mười ngày có vẻ không quá dài, nhưng chúng có thể là mười ngày quá trễ. Một ngày dường như không nhiều, nhưng một ngày có thể là một ngày quá trễ, và một ngày quá trễ là quá trễ mãi mãi. Vâng, một phút quá trễ là một cõi vĩnh hằng quá trễ!” (Metropolitan Tabernacle Pulpit, cuốn 13 tr. 533).
Toàn bộ câu chuyện cho thấy rõ Đức Chúa Trời đã chọn Rê-bê-ca cho Y-sác, vì sự dẫn dắt lo liệu của Ngài được nhìn thấy mỗi bước đường. Nhưng Rê-bê-ca đã phải thực hiện sự chọn lựa của nàng về Y-sác, không có mâu thuẫn giữa quyền tối cao thiên thượng (kế hoạch của Đức Chúa Trời) và trách nhiệm của con người (sự chọn lựa của con người). Thật ra, Chúa Giê-xu đã dạy cả hai điều trong một nhận định. “Phàm những kẻ Cha cho Ta sẽ đến cùng Ta (quyền tối cao thiên thượng), kẻ đến cùng Ta (trách nhiệm của loài người) thì Ta không bỏ ra ngoài đâu” (Gi 6:37).
“Tôi có phải là người được chọn của Đức Chúa Trời?” Không phải là câu hỏi mà tội nhân hư mất nên hỏi, lời khuyên “Hãy chú ý cho chắc về sự Chúa kêu gọi và chọn lựa mình” được viết cho các tín-hữu (IIPhi 1:10) không phải cho tội nhân hư mất. Câu hỏi mà tội nhân hư mất nên hỏi là “Tôi phải làm gì để được cứu?” (Công 16:30; Công 2:37). Và câu trả lời là “Hãy tin Đức Chúa Giê-xu” (Công 16:31). Khi Đức Chúa Trời phán với bạn, đó là lúc để đáp ứng và đặt đức tin bạn nơi Đấng Christ (Ês 55:6-7).
Frank Boreham đã viết: “Chúng ta thực hiện những quyết định của mình, rồi sau đó những quyết định của chúng ta trở lại và đặt để chúng ta. Từ giây phút rời gia đình mình (Sa 35:8), Rê-bê-ca ở dưới sự chăm sóc lo liệu đặc biệt của Đức Chúa Trời và giờ đây nàng là một phần trong kế hoạch ly kỳ sẽ đem sự cứu rỗi đến cho cả thế giới (Sa 12:1-3). Nếu nàng ở lại Mê-sô-bô-ta-mi và lấy một trong số những người nam địa phương, chúng ta sẽ không bao giờ nghe về nàng nữa.”
4. Sự nghênh đón của chú rễ (Sa 24:61-67)
Những lạc đà có thể đi khoảng 25 dặm một ngày và có thể đi hết 60 dặm, nếu chúng phải đi, người đi bộ trung bình đi khoảng 20 dặm một ngày. Một đoàn lạc đà mười con với những tùy tùng và bảo vệ, có thể dễ dàng thực hiện chuyến đi từ Hếp-rôn đến Mê-sô-bô-ta-mi và trở về (khoảng 900 dặm) chưa đầy hai tháng. Người đầy tớ là loại người không cho phép sự trì hoãn và nôn nóng hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách thành công. Chắc chắn Áp-ra-ham và Y-sác đang cầu nguyện cho ông và nhiệm vụ của ông, và những lời cầu nguyện của họ đã được nhậm lời.
Y-sác là hình ảnh của Chúa Giê-xu Christ qua sự ra đời kỳ diệu của ông (Sa 21:1-34) qua sự sẵn sàng vâng phục cha và phó sự sống mình (Sa 22:1-24). Chúng ta để ý rằng Sa 22:19 không cho chúng ta biết rằng ông đã cùng cha trở về từ núi Mô-ri-a, mặc dù chắc chắn như vậy (Sa 22:5). Sự bỏ sót này gợi ý sự thăng thiên của Chúa chúng ta: Ngài đã trở về với sự vinh hiển và chờ thời gian tiếp nhận cô dâu của Ngài (ITês 4:13-18).
Y-sác không sống với cha ông vào thời gian đó nhưng ở miền Nam Hếp-rôn, sẵn sàng để lập gia đình riêng của ông. Y-sác được nhận biết bởi những giếng nước (Sa 24:62; Sa 25:11; Sa 26:17-33) giống như Áp-ra-ham được nhận biết bởi những bàn thờ. Nước là một phương tiện quý báu và phải được bảo vệ cẩn thận.
Tên của giếng nước sẽ là một sự khích lệ cho Y-sác khi ông chờ đợi sự trở về của người đầy tớ: “Giếng của Đấng Hằng Sống đoái xem tôi” ( Sa 16:14). Nếu Đức Chúa Trời chăm sóc A-ga và đáp ứng những nhu cầu của bà, chắc chắn Ngài sẽ chăm sóc Y-sác và ban người vợ ông cần để duy trì dòng dõi Mết-si-a. Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời hằng sống Đấng nhìn xem mọi sự và hoạch định mọi điều vì vinh hiển Ngài và vì ích lợi của con cái Ngài.
Sa 24:63 gợi ý rằng Y-sác là một người trầm lặng, hay suy gẫm, người thường suy nghĩ những điều thuộc về Chúa trong nơi vắng vẻ (Thi 1:2). Vợ ông là mẫu người hoạt động, vì vậy sẽ có một sự quân bình tốt đẹp trong gia đình họ. Hai người nhìn nhau từ xa, và Rê-bê-ca đã xuống lạc đà để nàng có thể đi bộ gặp chàng. Vào thời đó, nếu người nữ cỡi con thú trong sự hiện diện của người nam xa lạ, bị xem là vi phạm phép xã giao. Nàng cũng mang mạng che mặt dài, là dấu hiệu về sự thùy mị và đầu phục của nàng.
Thật ý nghĩa khi Y-sác gặp cô dâu của ông “lối chiều” (Sa 24:63), vì khi Chúa Giê-xu đến rước Hội thánh Ngài, đó sẽ là thời kỳ của sự tối tăm thuộc linh (Rô 13:11-14). Giống như một ngày mới hiện ra đối với Rê-bê-ca, sự đến của Chúa Giê-xu Christ cũng sẽ mở ra một ngày mới cho dân sự Ngài (ITês 5:1-11)
Nhưng sự gặp mặt đó có liên quan nhiều hơn là tiếp nhận cô dâu của chàng rễ. Người đầy tớ cũng báo cáo về chính ông trước con trai của chủ ông (Sa 24:66). Khi Chúa Giê-xu Christ đến rước Hội thánh Ngài, sẽ không chỉ có một tiệc cưới vui mừng (Kh 19:1-9) mà cũng có một ngôi xét đoán long trọng (Rô 14:10-13; IICôr 5:9-10) nơi những công việc của chúng ta sẽ được xem xét và những phần thưởng được ban ra (ICôr 3:13-15; ICôr 4:1-5).
Với Y-sác, đó là “tình yêu ở cái nhìn đầu tiên”, nhưng Chúa Giê-xu Christ đã thấy gì nơi chúng ta để Ngài sẽ cần chúng ta làm cô dâu của Ngài? Chúng ta là những tội nhân chống nghịch không có vẻ đẹp hay tài trí gì để khoe khoang, nhưng Chúa Giê-xu đã yêu chúng ta và chết thay chúng ta (Rô 5:6-8).
Rê-bê-ca đã nhận một số quà tặng của Y-sác, nhưng giờ đây nàng là của riêng chàng, nàng có mọi sự chàng có. Đời sống của họ là một, và điều đó cũng vậy đối với Đấng Christ và Hội thánh của Ngài (Êph 5:21-23).
Đây hơn hẳn một câu chuyện tình yêu ngẫu nhiên, bình dị. Nó có thể là câu chuyện tình yêu của bạn hôm nay nếu bạn tin Chúa Giê-xu Christ và nói “Tôi sẽ đi!”
Nếu bạn đã thuộc về Chúa Giê-xu Christ, vậy hãy giống như người đầy tớ trung tín và cho những người khác biết tin mừng về cuộc hôn nhân và lễ cưới vinh hiển sắp đến. Hãy mời họ nói “Tôi sẽ đi!”
23. MỘT KỲ ĐỂ CHẾT! (Sa 23:1-20 Sa 25:1-11)
Vua Sa-lô-môn đã nói: “Danh tiếng hơn dầu quý giá, ngày chết hơn ngày sinh” (Tr 7:1). Ông nói rằng sự chết tốt hơn sự sinh ra; Vì, xét cho cùng, chúng ta phải được sinh ra trước khi chúng ta có thể chết.
Quan điểm của Sa-lô-môn là tên được dành cho bạn lúc sinh ra giống như dầu thơm, và bạn phải gìn giữ nó như thế cho đến khi bạn chết. Khi bạn nhận tên của mình lúc sinh ra, không ai biết bạn sẽ làm nên điều gì từ tên đó; Nhưng lúc chết, tên đó hoặc tỏa hương thơm hoặc hôi thối. Nếu tên ấy tỏa hương thơm lúc chết, thì người ta có thể vui mừng; Vì trước khi chết, không điều gì có thể thay đổi nó. Vì vậy, đối với một người có danh tiếng, ngày chết hơn ngày sinh.
Tên của Áp-ra-ham với Sa-ra đã tỏa hương thơm trong sự sống, sự chết và vẫn tỏa hương thơm hôm nay. Trong những chương này, chúng ta gặp Áp-ra-ham với Sa-ra ở cuối con đường của sự sống, và chúng ta học từ họ ý nghĩa của việc chết trong đức tin.
1. Sự qua đời của một công chúa (Sa 23:1-20)
Sa-ra đã làm một người vợ tốt đối với Áp-ra-ham và một người mẹ tốt đối với Y-sác. Vâng, bà đã có những lỗi lầm, như tất cả chúng ta đều có; Nhưng Đức Chúa Trời đã gọi bà là một công chúa (Sa 17:15) và liệt kê bà cùng với những nam nữ anh hùng đức tin (Hêb 11:11). Sứ-đồ Phi-e-rơ đã kể tên bà như một gương tốt cho những người vợ Cơ-đốc noi theo (IPhi 3:1-6) và Phao-lô đã dùng bà để minh họa ân-điển của Đức Chúa Trời trong đời sống của tín-hữu (Ga 4:21-31).
• Nước mắt của Áp-ra-ham (Sa 23:1-2).
Rất thường trong chức vụ mục sư của tôi, tôi đã nghe những người có thiện ý nhưng thiếu hiểu biết đã nói với những bè bạn hoặc bà con đau buồn. “Nào đừng khóc!” Đó là lời khuyên rất tầm thường, vì Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta có khả năng để khóc và Ngài mong chúng ta khóc. Ngay cả Chúa Giê-xu cũng đã khóc (Gi 11:35).
Sự đau buồn là một trong những sự ban cho của Đức Chúa Trời để giúp chữa lành những tấm lòng tan vỡ khi những người mà chúng ta yêu mến bị cất khỏi chúng ta trong sự qua đời. Phao-lô không bảo các Cơ-đốc nhân Tê-sa-lô-ni-ca đừng khóc; ông cẩn thận bảo họ đừng buồn rầu “như những người khác không có hy vọng” (ITês 4:13-18). Sự đau buồn của một tín-hữu phải khác với sự đau buồn của một người vô tín.
Áp-ra-ham yêu vợ ông, và sự qua đời của bà là một kinh nghiệm đau đớn đối với ông. Ông bày tỏ tình yêu và sự đau buồn của mình bằng cách khóc. Đây là những giọt nước mắt được ghi lại đầu tiên trong Kinh Thánh, và những giọt nước mắt sẽ không chấm dứt cho đến khi Đức Chúa Trời lau chúng trong vinh hiển (Kh 21:4). Dù là một người có đức tin, Áp-ra-ham không cảm thấy những giọt nước mắt của ông là một chứng cớ của sự vô tín.
Sa-ra đã chết trong đức tin (Hêb 11:11, 13), vì vậy Áp-ra-ham biết rằng bà ở trong sự chăm sóc của Chúa. Trong Cựu-ước, rất ít điều được bày tỏ về đời sau, nhưng người thuộc về Đức Chúa Trời biết rằng Đức Chúa Trời sẽ tiếp nhận họ khi họ chết (Thi 73:24).
Vance Havner quá cố có một người vợ tên Sa-ra. Ngay sau cái chết bất ngờ của bà, tôi đã ở cùng với Tiến sĩ Havner tại trường Kinh Thánh Moody, và tôi đã nói lời chia buồn với ông.
Khi chúng tôi gặp nhau trong phòng ăn, tôi nói với ông “Tôi lấy làm tiếc khi nghe ông đã mất người vợ thân yêu”.
Ông cười và đáp: “Con trai ơi, khi anh biết cái gì đó ở đâu, anh không mất nó”.
Đối với tín-hữu, “ra khỏi thân thể” nghĩa là “ở với Chúa” (Phi 1:21-23; IICôr 5:1-8). Vì vậy Cơ-đốc nhân không tiếp cận sự chết bằng nỗi sợ hãi) “Phước thay cho những người chết là người chết trong Chúa… để họ có thể nghỉ ngơi khỏi sự khó nhọc, và việc làm mình theo sau” (Kh 14:13).
Sự chết của kẻ ác được mô tả sống động trong Giop 18:1-21, và đó quả là một bức tranh đáng sợ! Khi kẻ ác chết, điều đó giống như thổi tắt một ngọn đèn (Giop 18:5-6), bẫy một con thú hay một con chim (Giop 18:7-10), bắt một phạm nhân (Giop 18:11-14) hoặc nhổ bỏ một cây (Giop 18:18-21). Quả là một sự khác biệt khi bạn biết Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế của bạn và là “sự sống lại và sự sống” (Gi 11:25-26; IITim 1:10).
• Lời chứng của Áp-ra-ham (Sa 18:15-21).
Chúng ta không thể than khóc mãi về những người đã chết của chúng ta; Có một lúc khi chúng ta phải chấp nhận điều đã xảy ra, đối diện với đời sống, và thực hiện những bổn phận của mình đối với người sống và người chết. Vì không phải là một công dân của đất (Hêb 11:13), Áp-ra-ham phải yêu cầu một nơi chôn vợ ông. Sự thật là Áp-ra-ham đã làm chủ toàn đất. Đức Chúa Trời đã ban đất cho ông, nhưng không có cách nào ông có thể thuyết phục các láng giềng của mình tin về điều đó.
Giống như Áp-ra-ham, dân sự Đức Chúa Trời ngày nay là “người bộ hành và khách lạ” trong đời hiện tại này (IPhi 1:1 2:11). Chúng ta sống trong những “lều” (IICôr 5:1-8), mà ngày nào đó sẽ bị tháo dỡ khi chúng ta đi đến sự vinh hiển. Khi Phao-lô viết “kỳ qua đời của ta gần rồi” (IITim 4:6), ông sử dụng một từ quân đội nghĩa là “hạ trại và di chuyển”. Thân thể hiện tại của chúng ta là tạm thời, nhưng một ngày nào đó chúng ta sẽ nhận một thân thể vinh hiển giống như thân thể Chúa Giê-xu hiện nay đang có ở thiên đàng (Phi 3:20-21; IGi 3:1-3).
Dân trong xứ gọi Áp-ra-ham là “một hoàng tử hùng mạnh” (Sa 23:6) mà theo tiếng Hê-bơ-rơ là “một hoàng tử có Đức Chúa Trời”. Ông có một lời chứng tốt giữa vòng họ, và họ tôn trọng ông. Dù thế gian này không phải là quê hương của chúng ta, chúng ta phải cẩn thận với tư cách người bộ hành và khách lạ để có một lời chứng tốt trước những người ở ngoài đức tin (ITês 4:12; Côl 4:5; IPhi 2:11).
Dân Hếch này không thờ phượng Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, nhưng họ tôn trọng Áp-ra-ham và đức tin của ông. Thật ra, họ đã đề nghị với ông sử dụng một trong những ngôi mộ của họ (Sa 23:6). Nhưng Áp-ra-ham chối từ.
Thật là một điều kỳ diệu trong lúc đau buồn khi con cái Đức Chúa Trời có một chứng cớ mạnh mẽ trước những người hư mất. Có một sự buồn rầu tự nhiên mà mọi người mong chúng ta biểu lộ, nhưng cũng có một ân phước siêu nhiên mà Đức Chúa Trời ban cho để chúng ta có thể có sự vui mừng giữa cơn buồn rầu. Người chưa được cứu có thể xác định sự khác biệt, và điều này cho chúng ta cơ hội chia sẻ tin mừng của Phúc-Âm.
• Cách xử trí của Áp-ra-ham (Sa 23:7-16).
Ở phương Đông thời đó, hầu hết những giao dịch mua bán được thực hiện tại cửa thành (Sa 23:10) có những người làm chứng (Sa 23:7). Việc đi đến một giá cuối cùng cho một mảnh đất thường đòi hỏi nhiều về sự mặc cả và lịch sự cung kính mà đôi khi che đậy sự tham lam và mưu đồ. Nhưng Áp-ra-ham cởi mở và thành thật trong yêu cầu của ông. Ông muốn mua hang đá Mặc-bê-la của Ép-rôn, là người ở trong đám đông lúc bấy giờ.
Theo phong tục của Đông phương, Ép-rôn đề nghị dâng cho Áp-ra-ham không chỉ hang đá mà còn cả cánh đồng nơi có hang đá. Dĩ nhiên, đây chỉ là một thủ đoạn khôn khéo của ông ta, vì ông không có ý định cho đi một mảnh đất quý giá, đặc biệt cho một người giàu có như Áp-ra-ham. Nhưng câu trả lời của Ép-rôn cho Áp-ra-ham hai thông tin: Ép-rôn muốn bán nhưng ông muốn bán cả cánh đồng chớ không chỉ hang đá.
Ép-rôn đã dồn Áp-ra-ham vào góc tường, và ông biết điều đó. Sa-ra phải được chôn sớm, và Ép-rôn biết mình có mảnh đất duy nhất đáp ứng những nhu cầu của Áp-ra-ham. Vì vậy, Áp-ra-ham đồng ý mua hang đá và cả cánh đồng thậm chí trước khi Ép-rôn định giá. Đó thật sự là sống bởi đức tin! Giá của Ép-rôn quá cao, nhưng Áp-ra-ham đã trả giá đó và nhận lấy bất động sản cho chính mình.
Trong Công 7:15-16, Ê-tiên dường như mâu thuẫn với sự ghi chép trong Sáng-thế ký bằng cách nói rằng Áp-ra-ham đã mua mảnh đất này của Hê-mô và nó nằm ở Si-chem hơn là ở Hếp-rôn (Sa 23:19). Nhưng chắc chắn hai mộ địa khác nhau này đều được nhìn thấy ở đây. Dường như Áp-ra-ham đã mua một mộ địa thứ hai của Hê-mô ở Si-chem và Gia-cốp đã phải mua lại nó những năm sau đó (Sa 33:18-19). Vì Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đã đi lại khá nhiều, sẽ khó khăn cho những cư dân của xứ theo dõi họ và tài sản thật sự của gia đình họ.
Trong những giao dịch mua bán của chúng ta với người thế gian, chúng ta phải cẩn thận duy trì sự thành thật với chính trực và đặt sự làm chứng về Chúa trước lợi ích tiền bạc, Áp-ra-ham biết rằng Ép-rôn đã gài bẫy ông và thật dại dột để mặc cả về giá như những người Đông phương thích làm.
• Ngôi mộ của Áp-ra-ham (Sa 23:17-20).
Nhóm từ chính trong chương này, được sử dụng 7 lần, đó là “hãy chôn người chết (của chúa đi)” bà Sa-ra đã qua đời, Áp-ra-ham bày tỏ sự tôn trọng đối với thân xác bà và muốn dành cho nó một sự chôn cất thích đáng. Đây là kiểu mẫu đối với dân sự của Đức Chúa Trời suốt Kinh Thánh. Người Do-thái thời Cựu-ước và Cơ-đốc nhân thời Tân-ước đều không hỏa táng người chết của họ.
Đúng hơn, họ rửa xác, bọc trong vải sạch có hương liệu, và đặt xác dưới đất hay trong mộ. Mặc dù có thể có một số trường hợp khi sự hỏa táng là cách tốt hơn để giải quyết xác chết, đa số Cơ-đốc nhân thích việc chôn cất hơn. Đây là cách thân thể của Chúa chúng ta được giải quyết sau sự chết của Ngài (Mat 27:57-61), và Phao-lô dường như dạy về sự chôn cất trong ICôr 15:35-46.
Khi Áp-ra-ham mua hang đá Mặc-bê-la làm phần mộ, ông đang thực hiện một nhận định về đức tin trước mọi người có mặt ở đó. Ông không đem Sa-ra trở về quê hương trước đó của họ ở U-rơ nhưng chôn bà trong xứ mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông cùng con cháu ông. Ông không lơ là với xác chết nhưng dành cho nó một sự chôn cất thích đáng theo quan điểm về sự sống lại đã được hứa ban. Khi Đức Chúa Trời cứu chúng ta, Ngài cứu cả con người, không chỉ “linh hồn”. Thân thể có một tương lai, và sự chôn cất làm chứng cho đức tin của chúng ta nơi sự tái lâm của Đấng Christ cùng sự sống lại của thân thể.
Tuy nhiên, phải được chỉ rõ ràng sự sống lại không phải là “sự xây dựng lại”. Đức Chúa Trời sẽ không tập hợp lại bụi đất của thân thể và phục hồi thân thể thành trạng thái trước đây của nó. Đức Chúa Trời hứa ban cho chúng ta một thân thể mới! Trong ICôr 15:35-38, Phao-lô cho biết rõ rằng có sự liên tục chớ không phải sự đồng nhất giữa thân thể cũ và thân thể mới.
Ông minh họa phép lạ này bằng việc gieo một hạt giống. Hạt giống chết và hư mất, nhưng từ đó sinh ra một bông hoa xinh đẹp hoặc hạt lúa nào đó. Có sự liên tục chớ không phải sự đồng nhất; cùng một hạt giống không ra từ đất, nhưng cái gì đã ra thì đã ra từ hạt giống đã được gieo. Sự chôn của Cơ-đốc nhân mang chứng cớ rằng chúng ta tin nơi sự sống lại trong tương lai.
Khi bạn đi đến phần kết của Sáng-thế ký, bạn thấy rằng mộ phần ở Mặc-bê-la hoàn toàn đông đủ. Sa-ra được chôn ở đó, và rồi đến Áp-ra-ham, Y-sác, Rê-bê-ca và Lê-a (Sa 49:29-31). Và sau đó Gia-cốp dự phần với họ (Sa 50:13). Sáng-thế ký kết thúc với một ngôi mộ đông đủ, nhưng bốn sách Phúc-Âm kết thúc với một ngôi mộ trống rỗng! Chúa Giê-xu đã chiến thắng sự chết và cất đi cái nọc của nó (ICôr 15:55-58). Bởi chiến thắng của Ngài, chúng ta không phải sợ sự chết hay âm ty.
Áp-ra-ham làm chủ toàn xứ, nhưng mảnh đất duy nhất hợp pháp thuộc về ông là một ngôi mộ. Nếu Chúa Giê-xu không tái lâm để cất chúng ta lên trời, mảnh đất duy nhất mà mỗi chúng ta sẽ làm chủ ở đời này sẽ chỉ là một phần đất trong nghĩa trang! Chúng ta sẽ không đem gì theo; chúng ta sẽ bỏ tất cả ở đằng sau (ITim 6:7). Nhưng nếu chúng ta đang đầu tư vào những điều đời đời chúng ta có thể gởi nó đi trước (Mat 6:19-34). Nếu chúng ta sống bởi đức tin, vậy chúng ta có thể chết bởi đức tin, và khi bạn chết bởi đức tin, bạn có một tương lai tuyệt diệu.
Vào 11/1858 nhà truyền giáo John Paton đã ghé vào quần đảo New Hebrides để thiết lập một công việc phục vụ giữa vòng dân bản xứ. Vào 12/2/1859, vợ ông sinh một con trai, và vào 3/3 vợ ông chết. Mười bảy ngày sau, đứa bé chết. Paton đã nói: “Nếu không có Chúa Giê-xu và mối giao thông mà Ngài đã ban cho tôi ở đó, tôi chắc đã mất trí và chết bên cạnh phần mộ đơn độc đó”.
Nhưng chúng ta không buồn rầu như những người không có hy vọng! Chúng ta đã được tái sinh vào “một sự trông cậy sống bởi sự sống lại của Chúa Giê-xu Christ từ trong kẻ chết” (IPhi 1:3 NKJV) và chúng ta “đang chờ đợi sự trông cậy hạnh phước đó, và sự hiện ra vinh hiển của Đức Chúa Trời lớn và Cứu Chúa Giê-xu Christ của chúng ta” (Tit 2:13).
2. Sự qua đời của một tộc trưởng (Sa 23:1-20) (Sa 25:1-11)
Sau khi một người chết, chúng ta đọc lời cáo phó, và sau sự chôn cất, chúng ta đọc di chúc. Chúng ta hãy làm điều đó với Áp-ra-ham.
• Lời cáo phó của Áp-ra-ham (Sa 25:7-8).
Ông chết ở “tuổi già tốt lành” như Chúa đã hứa với ông (Sa 15:15). Ông đã đồng đi với Đức Chúa Trời một thế kỷ (Sa 12:4) và là “bạn của Đức Chúa Trời” (Gia 2:23). Tuổi cao là “tốt lành” nếu bạn có phước hạnh của Chúa trên đời sống mình (Ch 16:31).
Mặc cho sự hư nát và yếu đuối về thể chất, bạn có thể vui hưởng sự hiện diện của Ngài và làm theo ý muốn Ngài cho đến cuối cùng (IICôr 4:16-5:8).
Giống như Sa-ra trước ông, Áp-ra-ham đã “chết trong đức tin”. Trong 100 năm, ông là một khách lạ và người bộ hành trên đất, tìm kiếm một quê hương trên trời, và giờ đây những khao khát của ông đã được thực hiện (Hêb 13:13-16). Đời sống ông không phải là một đời sống dễ chịu, nhưng ông đã bước đi bởi đức tin từng ngày từng giờ, và Chúa đã giúp ông vượt qua khó khăn. Mỗi khi Áp-ra-ham quên Chúa, ông trở lại với Ngài và bắt đầu lần nữa, và Chúa đã ban cho ông một khởi đầu mới.
• Ông cũng chết ở “tuổi cao tác lớn” (Sa 25:8).
Điều này gợi ý hơn cả một số lượng thời gian; Nó gợi ý một chất lượng của đời sống. James Strahan dịch câu đó là “thỏa mãn với đời sống” (Hebrew Ideals - tr. 197). Áp-ra-ham người có sự thịnh vượng và thành công đến cuối cùng, đã hoàn thành bức tranh về tuổi già được trình bày trong Thi 92:12-15. Thật ít người kinh nghiệm niềm vui và sự thỏa lòng khi họ đến tuổi già! Khi họ nhìn lại, có sự nuối tiếc; khi họ nhìn phía trước với sự sợ hãi; và khi họ nhìn quanh với sự phàn nàn.
Một người dí dỏm vô danh tuyên bố rằng anh ta thích “ở trên ngọn đồi” hơn ở dưới. Nhưng sự chết không phải là mối đe dọa đối với người tin Chúa Giê-xu và sống bởi Lời Ngài. Tuổi già có thể là một thời gian của sự kinh nghiệm phong phú trong Chúa và những cơ hội kỳ diệu để chia sẻ về Ngài với thế hệ kế tiếp (Thi 48:13-14; Thi 78:5-7). Sau đó khi sự chết đến, bạn đi gặp Chúa với sự tin quyết đầy vui mừng.
Đức Chúa Trời hứa rằng: “Áp-ra-ham sẽ qua đời trong bình an” (Sa 15:15) và đúng vậy. Nhà thơ Dylan Thomas người xứ Wales đã viết rằng “Tuổi già sẽ nóng cháy và mê sảng vào cuối ngày”, nhưng đó không phải là con đường của Cơ-đốc nhân đi đến tuổi già hay sự chết. Áp-ra-ham đã được cứu bởi đức tin (Sa 15:6), vì vậy ông đã được “hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Rô 5:1). Ông đã bước đi trong con đường của sự công bình “hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Rô 5:1). Ông đã bước đi trong con đường của sự công bình, nên ông kinh nghiệm sự bình an của Đức Chúa Trời (Ês 32:17). Đức Chúa Trời đã hướng dẫn ông một thế kỷ, sẽ không từ bỏ ông lúc cuối cùng (Sa 46:4).
Giống như mọi điều khác trong đời sống, để thành công trong tuổi già, bạn phải bắt đầu làm việc ngay từ lúc trẻ. Đó là lời khuyên Sa-lô-môn đưa ra trong Tr 12:1-14. Chương này mô tả một số vấn đề thuộc thể không tránh khỏi của tuổi già, nhưng nó cũng nhấn mạnh rằng một đời sống tin kính khởi đầu trong tuổi trẻ là một sự đầu tư có những phần lợi dồi dào khi đời sống đi đến kết thúc.
Nhóm từ “được quy về nơi tổ tông” (Sa 25:8) không có nghĩa là “được chôn với gia đình”, vì thân thể Sa-ra là thân thể duy nhất trong ngôi mộ gia đình. Đây là sự xuất hiện đầu tiên về nhóm từ này trong Kinh Thánh, và nó có nghĩa là đi đến địa phận của người chết, chỉ về số phận của linh hồn chớ không phải thể xác (Gia 2:26). Từ Cựu-ước chỉ về địa phận của người chết là “Shoel” (âm-phủ), từ tương đương trong Tân-ước là “hades” (âm-phủ). Đó là “nhà” tạm của linh hồn người chết đang chờ đợi sự sống lại (Kh 20:11-15).
Nhà vĩnh cửu cho người được cứu là Thiên Đàng, và đối với kẻ hư mất, đó là địa ngục. Lu 16:19-31 cho thấy âm-phủ có hai khu vực vào, được phân cách bởi một vực thẳm lớn, và người được cứu ở trong một nơi phước hạnh trong khi kẻ hư mất ở trong một nơi của sự đau đớn. Có thể Chúa Giê-xu đã cất âm-phủ khỏi địa phận thiên đường khi Ngài trở về trời trong vinh hiển (Êph 4:8-10). Phần hình phạt của âm-phủ sẽ được trút ra tại sự sống lại trước sự xét đoán của tòa lớn trắng (Kh 20:11-16). Đối với kẻ hư mất, âm-phủ là nhà tù, còn địa ngục là trại cải tạo.
Một ngày nào đó, bạn sẽ được “quy về nơi tổ tông mình”. Nếu dân sự Đức Chúa Trời là dân của bạn trong sự sống, vậy bạn sẽ ở cùng họ sau khi qua đời trong gia đình mà Chúa Giê-xu giờ đây đang chuẩn bị (Gi 14:1-6). Nếu gia đình Cơ-đốc không phải là “dân” của bạn, vậy bạn sẽ ở với đám đông đang đi đến địa ngục; Và điều đó được mô tả trong Kh 21:8, 20. Bạn nên thực hiện sự lựa chọn đúng đắn vì cõi vĩnh hằng là đời đời.
• Di chúc của A-ra-ham (Sa 25:1-6).
Áp-ra-ham đã để lại của cải vật chất cho gia đình ông và của cải thuộc linh cho toàn thế giới, tất cả những ai sẽ tin nơi Chúa Giê-xu.
Khi Đức Chúa Trời tái tạo sức lực tự nhiên của Áp-ra-ham để sinh Y-sác, Ngài không cất đi sức lực đó, và Áp-ra-ham đã có thể lấy vợ lần nữa và có gia đình khác. Tuy nhiên, ông đã có một sự phân biệt giữa 6 con trai này với con trai ông là Y-sác; và Y-sác là sự lựa chọn của Đức Chúa Trời để duy trì dòng dõi giao-ước. Những con trai của Kê-tu-ra nhận đươc những quà tặng, nhưng Y-sác nhận của thừa kế và những phước hạnh của giao ước.
Tất cả những ai tin Chúa Giê-xu đều “cũng như Y-sác, là con của lời hứa” (Ga 4:28). Điều này nghĩa là chúng ta có phần trong di chúc của Áp-ra-ham! Ông đã để lại gì cho chúng ta?
Trước hết, Áp-ra-ham để lại cho chúng ta một chứng cớ rõ ràng về sự cứu rỗi bởi đức tin. Phao-lô đã trích dẫn gương của ông trong Rô 4:1-5 liên hệ điều đó với kinh nghiệm của Áp-ra-ham trong Sa 15:1-21. Áp-ra-ham không thể được cứu bằng cách giữ Luật-pháp, vì Luật-pháp vẫn chưa được ban ra.
Ông không thể được cứu bởi nghi thức về phép cắt bì, vì Đức Chúa Trời đã tuyên bố ông là công bình từ trước khi Áp-ra-ham đã được cứu bởi đức tin và chỉ bởi đức tin (Hêb 11:1-40; Ga 3:1-29).
Nhưng Áp-ra-ham cũng để lại cho chúng ta tấm gương về một đời sống trung tín. Gia-cơ đã dùng Áp-ra-ham để minh họa tầm quan trọng của việc chứng tỏ đức tin của chúng ta bằng việc làm của chúng ta (Gia 2:14-26). Bất cứ nơi đâu Áp-ra-ham đi, ông đều cắm trại và xây bàn thờ, và ông đã để cho dân trong xứ biết rằng ông là một người thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. Khi dâng Y-sác trên bàn thờ, Áp-ra-ham đã chứng tỏ đức tin ông nơi Đức Chúa Trời và tình yêu của ông đối với Đức Chúa Trời. Ông được cứu không phải bởi việc làm, nhưng ông đã bày tỏ đức tin của ông bằng việc làm của ông.
Từ Áp-ra-ham, chúng ta học cách bước đi bởi đức tin. Thật vậy, ông đã có những vấp ngã đôi lúc về đức tin. Nhưng bản chất tổng quát của đời sống ông đã chứng minh đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời. “Bởi đức tin, Áp-ra-ham…vâng lời” (Hêb 11:8). Charles Spurgeon đã nói: “Phần cốt lõi, bản chất của đức tin nằm trong điều này: ngã mình trên những lời hứa”.
Nhà soạn nhạc và chỉ huy quá cố Leonard Bernstein đã nói với một người phỏng vấn, “Tôi tin nơi mọi sự, bất cứ điều gì mà bất cứ ai tin, vì tôi tin nơi con người. Nói cách khác, tôi tin nơi niềm tin. Tôi tin nơi đức tin” (Marstro: Encounters With Conductors of today – Nhà soạn nhạc đại tài: những cuộc chạm trán với các chỉ huy của hôm nay – của Helena Matheopoulos: Harper & Row 1982, tr. 7).
Nhưng “đức tin nơi đức tin” không giống như đức tin nơi Đức Chúa Trời, vì nó không có nền tảng. Nó đang xây dựng trên cát (Mat 7:24-27). Đức tin thật là đáp ứng vâng phục của chúng ta đối với Lời Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời phán, chúng ta nghe Ngài và tin và chúng ta làm điều Ngài bảo chúng ta làm. Áp-ra-ham với Sa-ra đã nắm giữ những lời hứa của Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời đã ban thưởng cho đức tin của họ.
Áp-ra-ham đã cho thế giới món quà của dân tộc Do-thái. Và chính nhờ dân Do-thái mà chúng ta có sự hiểu biết về Đức Chúa Trời và Lời Đức Chúa Trời cùng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Gi 4:22). Nó vượt hơn sự hiểu biết của chúng ta về cách thể nào bất cứ ai cũng có thể là anti-xê-mít khi dân Do-thái đã ban cho thế giới quá nhiều và chịu khổ quá nhiều trên thế giới này. Đáng tiếc rằng dân Do-thái nghĩ mối liên hệ của họ với Áp-ra-ham đã cứu họ (Mat 4:7-12; Gi 8:33-59), nhưng họ chẳng khác gì với dân ngoại chưa được cứu, là những người nghĩ mình sẽ đến Thiên Đàng vì cha mẹ hoặc ông bà họ là những Cơ-đốc nhân (Gi 1:11-18).
Cuối cùng, vì cớ Áp-ra-ham, chúng ta có một Chúa Cứu Thế. Trong câu đầu tiên của Tân-ước (Mat 1:1), tên của Áp-ra-ham được nối tiếp với tên của Đa-vít và Chúa Giê-xu Christ! Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng qua ông cả thế giới sẽ được phước (Sa 12:1-3), và Ngài đã giữ lời hứa đó. Vấn đề là Hội thánh không nói cho cả thế giới biết rằng Chúa Giê-xu thật sự là “Cứu Chúa của thế gian” (Gi 4:42). Chúng ta đang giữ tin mừng cho chính mình khi mà chúng ta phải làm mọi việc có thể để cả thế giới biết.
Có thể chỉ có Áp-ra-ham và Sa-ra trong kế hoạch cứu chuộc vĩ đại của Đức Chúa Trời, nhưng bạn và tôi có nhiệm vụ của mình để thực hiện trong ý muốn của Đức Chúa Trời (Êph 2:10). Hôm nay, bạn đang viết lời cáo phó của mình và chuẩn bị “di chúc” của mình về di sản thuộc linh của bạn.
Hôm nay, bạn đang sẵn sàng cho giai đoạn cuối cùng trong hành trình của đời sống.
Có phải bạn đang thực hiện những sự chuẩn bị tốt đẹp?
Có phải bạn đang sống bởi đức tin?
Nếu bạn sống bởi đức tin, vậy giống như Áp-ra-ham bạn sẽ VÂNG LỜI
24. CHA NÀO, CON NẤY – HẦU NHƯ VẬY (Sa 25:1-26:35)
Y-sác là con trai của một người cha nổi tiếng (Áp-ra-ham) và là cha của một con trai nổi tiếng (Gia-cốp), và vì những lý do đó mà ông đôi khi được xem như một người bình thường giữa vòng các trưởng tộc. So với những thành tích của Áp-ra-ham và Gia-cốp, đời sống của Y-sác dường như bình thường và cũ kỹ. Dù Y-sác sống lâu hơn Áp-ra-ham hoặc Gia-cốp, chỉ 6 chương trong sách Sáng-thế ký được dành cho cuộc đời của ông, và chỉ có 1 câu trong Hêb 11:9.
Y-sác là một người yên lặng và trầm tư, thích rút lui và bỏ đi hơn là đối đầu với kẻ thù. Suốt quãng đời dài của mình, ông không đi xa nhà. Áp-ra-ham đã thực hiện cuộc hành trình dài từ Cha-ran đến Ca-na-an, và thậm chí đến Ê-díp-tô, còn Gia-cốp đã đến Ha-ran để cưới vợ, nhưng Y-sác dùng trọn cuộc đời trưởng thành của mình để đi lòng vòng trong xứ Ca-na-an. Nếu có một người Trung Đông xưa tương tự với những người giàu trong thời đại của chúng ta chuyện di chuyển bằng mày bay thì Y-sác sẽ không dự phần với họ.
Tuy nhiên, trên thế giới này có nhiều Y-sác hơn là có những Áp-ra-ham hoặc Gia-cốp, và những người này có những đóng góp quan trọng cho xã hội và cho Hội thánh, dù cho họ không nhìn thấy tên mình trên những hộp đèn hay thậm chí trong tập san Hội thánh. Hơn nữa, Y-sác là một phần sống động trong kế hoạch thiên thượng mà cuối cùng tạo ra dân tộc Do-thái, cống hiến cho chúng ta Kinh Thánh và đem Chúa Giê-xu vào thế gian, và điều đó chẳng có gì phải hổ thẹn.
• Y-sác không phải là một thất bại, ông chỉ khác biệt.
Xét cho cùng, con người trong mỗi thế hệ phải tìm thấy chính mình và là chính mình chớ không phí đời mình để tìm cách bắt chước tổ tiên một cách mù quáng. Bác sĩ tâm thần Erich Fromm đã viết trong tác phẩm “Escape from freedom” (Thoát khỏi tự do): “Con người được sinh ra bình đẳng, nhưng họ cũng được sinh ra khác nhau”. Khám phá sự duy nhất của mình và sử dụng nó cho vinh hiển của Đức Chúa Trời là thử thách tạo nên bản chất đời sống. Tại sao là một sự bắt chước rẻ tiền khi mà bạn có thể là một nguyên gốc có giá trị?
Không thế hệ nào tồn tại một mình, vì mỗi thế hệ mới được tiếp nối với những thế hệ đi trước. Y-sác được tiếp nối với Áp-ra-ham và Sa-ra bởi mối dây ràng buộc không thể bị bỏ qua hay dễ dàng bị phá vỡ. Chúng ta hãy nhìn xem một số mối dây đó và khám phá điều chúng dạy chúng ta về đời sống đức tin của riêng chúng ta hôm nay.
1. Ông nhận gia tài của cha mình (Sa 25:1-18)
Áp-ra-ham nhìn nhận những người con khác của ông bằng cách cho họ những món quà và sai họ đi, bởi đó biết chắc họ không thể hất chân Y-sác với tư cách người thừa kế hợp pháp. Cùng với của cải dư dật của cha mình (Sa 13:2; Sa 23:6), Y-sác cũng thừa hưởng những phước hạnh giao-ước mà Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra (Sa 12:1-3; Sa 13:14-18; Sa 15:1-6). Y-sác có cha mẹ tin nơi Đức Chúa Trời và tìm cách làm đẹp lòng Ngài dù đôi lúc có những lỗi lầm.
Con trai đầu lòng của Áp-ra-ham là Ích-ma-ên (chương 16) không được chọn làm đứa con của lời hứa và người thừa kế những phước hạnh giao-ước. Đức Chúa Trời hứa ban cho Ích-ma-ên và khiến người trở nên một dân tộc lớn, và Ngài đã giữ lời hứa (Sa 17:20-21; Sa 25:12-16). “Nhưng ta sẽ lập giao-ước ta cùng Y-sác” (Sa 17:21 KJV cũng xem Rô 9:6-13). Ích-ma-ên đã có mặt trong tang lễ của cha mình (Sa 25:9), nhưng ông không được kể đến trong di chúc của cha ông.
Ích-ma-ên mô tả người “tự nhiên” hoặc chưa được cứu (ICôr 2:14), là người ở ngoài đức tin và thù địch với những điều thuộc về Đức Chúa Trời. Nhưng Y-sác mô tả những người đã tin cậy Chúa Giê-xu và kinh nghiệm sự tái sinh kỳ diệu bởi quyền năng Đức Chúa Trời (IPhi 1:22-23).
“Hỡi anh em, giờ đây chúng ta cũng như Y-sác, là con của lời hứa” (Ga 4:28 KJV).
Ích-ma-ên sinh ra là một tôi tớ, nhưng Y-sác sinh ra đã tự do (Sa 4:21-31; Sa 5:1-2). Ích-ma-ên sinh ra nghèo nàn, nhưng Y-sác sinh ra đã giàu có. Mọi tín-hữu tin nơi Chúa Giê-xu đều dự phần tất cả những phước hạnh của Thánh Linh trong Đấng Christ (Êph 1:3) và là một phần cơ nghiệp vinh hiển của Đấng Christ (c.11, 18).
Từ lúc sinh ra, chúng ta đều lệ thuộc vào thế hệ trước để chăm sóc chúng ta cho đến khi chúng ta có thể chăm sóc cho mình. Chúng ta cũng mang ơn những thế hệ đi trước đã bảo vệ và truyền lại cho chúng ta tri thức, kỹ năng, truyền thống, và văn hóa là những điều hết sức quan trọng đối với đời sống hằng ngày. Hãy tưởng tượng đời sống sẽ ra sao nếu mỗi thế hệ đều phải nghĩ ra bảng chữ cái, phát minh việc in ấn, khám phá điện năng hoặc thiết kế bánh xe!
Phần quan trọng nhất trong di sản của Y-sác không phải là của cải vật chất dư dật mà cha ông đã để lại cho ông. Di sản quan trọng nhất của Y-sác là của cải thuộc linh từ cha và mẹ ông: Nhận biết và tin cậy Đức Chúa Trời chân thật hằng sống và làm một phần trong những phước hạnh giao-ước mà Đức Chúa Trời đã nhân từ ban cho Áp-ra-ham, Sa-ra và con cháu họ. Bi thảm thay khi con cháu của những tín-hữu Cơ-đốc tin kính quay lưng với di sản thuộc linh vô giá của họ, và giống như Ích-ma-ên với Ê-sau, họ sống cho thế gian và xác thịt thay vì cho Chúa!
2. Ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời của cha mình (Sa 25:19-34)
Sáng-thế ký là một ghi chép về 10 “thế hệ” nối tiếp nhau. Các thế hệ đến rồi đi, nhưng Chúa vẫn tồn tại và không bao giờ thay đổi. “Lạy Chúa Ngài là nơi ở của chúng tôi qua mọi thế hệ” (Thi 90:1 NKJV).
• Một gia đình tận tụy (c.19-20).
Khi Y-sác 40 tuổi, Đức Chúa Trời chọn Rê-bê-ca làm vợ ông (chương 24, Sa 25:20) và chúng ta có mọi lý do để tin rằng họ đều tận tụy cho Chúa và cho nhau. Sự ghi chép cho thấy rằng Rê-bê-ca là người năng nổ hơn trong những việc có liên quan đến vấn đề gia đình, nhưng có thể đó chính là loại người vợ Y-sác cần.
Dù Y-sác có thể phạm lỗi lầm nào với tư cách một người chồng và một người cha; điều này phần nhiều là đúng: khi là một người trẻ tuổi, ông đã vui lòng đặt mình trên bàn thờ để vâng lời cha ông và đề làm đẹp lòng Chúa (Sa 22; Rô 12:1-2).
• Một gia đình thất vọng (Sa 25:21).
Y-sác và Rê-bê-ca đã chờ 20 năm để có một gia đình, nhưng không đứa con nào ra đời. Toàn bộ sách Sáng-thế ký nhấn mạnh quyền tối cao của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan về “những trì hoãn” của Ngài. Áp-ra-ham và Sa-ra đã phải chờ 25 năm để Y-sác ra đời, Gia-cốp đã phải lao động 14 năm để có hai người vợ, và Giô-sép đã phải chờ hơn 20 năm trước khi ông làm hòa với các anh em của mình. Thời gian của chúng ta ở trong tay Ngài (Thi 81:15) và sự định giờ của Ngài chẳng bao giờ sai.
Giống như Áp-ra-ham, Y-sác là một người cầu nguyện: Vì vậy ông cầu nguyện với Chúa thay cho người vợ son sẻ của ông. Y-sác có mọi quyền để cầu xin Đức Chúa Trời cho con cái vì cớ những lời hứa giao-ước mà Chúa đã lập với cha mẹ ông, những lời hứa mà Y-sác đã nghe được lập lại trong nội bộ gia đình và ông tin những lời hứa đó. Nếu Rê-bê-ca vẫn son sẻ, làm sao dòng dõi Áp-ra-ham có thể trở thành một phước hạnh cho cả thế giới? (Sa 12:1-3; Sa 13:16; Sa 15:5; Sa 17:6).
Người ta thường nói rằng mục đích của sự cầu nguyện không phải là để ý muốn của chúng ta được thực hiện trên trời nhưng là để ý muốn Đức Chúa Trời được thực hiện dưới đất. Dù mọi cặp vợ chồng Do-thái đều muốn có con cái, nhưng Y-sác không cầu nguyện cách ích kỷ. Ông quan tâm đến kế hoạch của Đức Chúa Trời về việc thực hiện giao-ước của Ngài và chúc phước cho cả thế giới qua Đấng Mê-si-a được hứa ban (Sa 3:15; Sa 12:1-3). Lời cầu nguyện thật nghĩa là quan tâm đến ý muốn Đức Chúa Trời, không phải những nhu cầu của riêng chúng ta, và tuyên bố những lời hứa của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài. Chúa đã đáp lời cầu nguyện của Y-sác và giúp Rê-bê-ca có thể thụ thai.
• Một gia đình khốn khổ (Sa 25:22-23).
Vấn đề này chẳng bao lâu đã dẫn đến vấn đề khác, vì sự mang thai của Rê-bê-ca là một sự mang thai khó khăn: hai đứa bé trong bụng bà vật lộn với nhau. Từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “xô đẩy hoặc lấn áp”, gợi ý rằng những chuyển động của thai nhi không bình thường. Vì Rê-bê-ca không biết Chúa có tìm cách phán với bà điều gì chăng, nên bà đi dò hỏi, Y-sác may mắn có một người vợ không những biết cách cầu nguyện mà còn muốn hiểu ý chỉ của Đức Chúa Trời cho chính bà và con cái bà.
Trong lịch sử cứu rỗi, việc thụ thai và sinh con là một sự kiện thiên định có những kết quả ý nghĩa. Điều này đúng đối với sự ra đời của Y-sác (chương 18, 21), 12 con trai của Gia-cốp (Sa 29:30; Sa 30:24), Môi-se (Xu 1:1-22), Sa-mu-ên (ISa 1:1-2, 36), Đa-vít (Ru 4:17-22) và Chúa Giê-xu Christ của chúng ta (Ga-la-ti 4:4-5). Sự thụ thai, sự ra đời và sự chết là những chỉ định thiêng liêng, không phải là những tình cờ của con người, là một phần trong kế hoạch khôn ngoan và đầy yêu thương của Đức Chúa Trời đối với dân Ngài (Thi 116:15; Thi 139:13-16).
Hãy hình dung sự ngạc nhiên của Rê-bê-ca khi bà biết rằng hai đứa trẻ sẽ chiến đấu với nhau cả đời chúng! Mỗi đứa con sẽ tạo ra một nước, và hai nước (Ê-đôm và Y-sơ-ra-ên) sẽ tranh chiến, nhưng đứa nhỏ sẽ làm chủ đứa lớn. Giống như Đức Chúa Trời đã chọn Y-sác, đứa con thứ, chớ không phải Ích-ma-ên, con đầu lòng, thì Ngài cũng chọn Gia-cốp, con thứ, chớ không phải Ê-sau, con đầu lòng. Việc đứa nhỏ sẽ cai trị đứa lớn mâu thuẫn với truyền thống và lô-gíc loài người, nhưng Đức Chúa Trời tối cao đã thực hiện sự lựa chọn này (Rô 9:10-12), và Đức Chúa Trời không bao giờ phạm sai lầm.
• Một gia đình chia rẽ (Sa 25:24-28).
Ê-sau có thể nghĩa là “nhiều lông”. Ông cũng có biệt danh là “Ê-đôm” nghĩa là “đỏ”, chỉ về lông đỏ và món canh đậu màu đỏ mà Gia-cốp đã bán cho ông (c.25, 30). Hai cậu bé sinh đôi không chỉ trông khác nhau mà còn khác về nhân cách. Ê-sau là một người hoạt động ngoài trời khoẻ mạnh, một thợ săn thành công, trong khi Gia-cốp là một “cậu ấm”. Bạn sẽ nghĩ rằng Y-sác yêu mến Gia-cốp, vì họ đều thích những công việc trong nhà, nhưng Gia-cốp là người Rê-bê-ca yêu mến. Rê-bê-ca là người mẹ tháo vát biết điều gì sắp xảy ra trong gia đình và có thể xoay sở những cách để đạt được điều bà nghĩ là tốt nhất.
Thật đáng tiếc khi những gia đình chia rẽ vì cha mẹ và con cái đặt những ham muốn cá nhân mình lên trên ý muốn Đức Chúa Trời. Y-sác thích ăn thịt rừng ngon do Ê-sau đem về nhà, một sự việc sẽ quan trọng trong lịch sử gia đình sau đó (chương 27). Y-sác, người trầm lặng, đã thực hiện những ước mơ của ông qua Ê-sau, con người can đảm, và rõ ràng đã bỏ qua sự thật rằng con trai lớn của ông cũng là một người trần tục (3). Liệu Y-sác có biết rằng Ê-sau đã đánh mất quyền trưởng nam?Câu chuyện không cho chúng ta biết. Nhưng ông thật biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn con trai nhỏ lên trên con trai lớn.
Một người bạn của tôi giữ một tấm thiếp dưới mặt kiếng trên bàn làm việc của ông có ghi: “Đức tin là sống mà không vạch kế hoạch”. Gia-cốp có thể đã sử dụng tấm thiếp đó. Trước khi ra đời, ông đã được Đức Chúa Trời chọn để nhận quyền trưởng nam và sự chúc phước; vì vậy ông không cần phải vạch kế hoạch và lợi dụng anh mình. Có lẽ Gia-cốp đã thấy nhiều chứng cớ rằng Ê-sau không quan tâm những điều thuộc linh, một thái độ đã khiến Ê-sau không thích hợp để nhận sự chúc phước và thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời. Có lẽ Gia-cốp và mẹ ông thậm chí đã bàn luận vấn đề này.
Tên “Gia-cốp” đến từ một từ Hê-bơ-rơ (yaaqob) nghĩa là “nguyện Đức Chúa Trời bảo vệ” nhưng vì nó nghe như từ “aqeb” (gót chân) và “aqab” (“quan sát từ phía sau” hoặc “bắt kịp”), nên tên ông trở thành một biệt danh: “nắm gót” hoặc “lừa dối”.
Trước khi ra đời, Gia-cốp và Ê-sau đã chiến đấu, và lúc ra đời, Gia-cốp đã nắm gót chân của anh mình. Hành động sau này được giải thích để có nghĩa rằng Gia-cốp sẽ gây cớ vấp ngã cho anh mình và lợi dụng anh mình. Lời tiên đoán đã đúng.
Việc Đức Chúa Trời quyết định ban những phước hạnh giao-ước cho Gia-cốp không miễn trừ cho bất cứ ai trong gia đình khỏi những bổn phận của họ đối với Chúa. Họ đều chịu trách nhiệm về hành động của mình, vì quyền tối cao thiêng liêng không hủy hoại trách nhiệm của con người. Thật ra, biết rằng chúng ta là những người được chọn của Đức Chúa Trời nghĩa là chúng ta có một trách nhiệm lớn hơn để làm theo ý muốn của Ngài.
3. Ông đối diện với những cám dỗ của cha ông (Sa 26:1-11)
Đức tin thật luôn được thử nghiệm, bởi những cám dỗ trong chúng ta hoặc những thử thách quanh ta (Gia 1:1-18), vì một đức tin mà không thể được thử nghiệm thì không thể tin cậy được. Đức Chúa Trời thử nghiệm chúng ta để đem lại điều tốt nhất trong chúng ta, nhưng Sa-tan cám dỗ chúng ta để đem lại điều tệ hại nhất trong chúng ta.
Ở hình thức này hay hình thức khác, mỗi thế hệ mới phải kinh nghiệm những thử thách tương tự như những thế hệ đi trước, để khám phá rằng kẻ thù không thay đổi và bản chất con người không cải thiện. Áp-ra-ham được đề cập 8 lần trong chương này, và bạn tìm thấy từ “cha” 6 lần. Y-sác là con của cha ông. Abraham Lincoln đã đúng: “Chúng ta không thể thoát khỏi lịch sử”
• Cám dỗ bỏ chạy (Sa 26:1-6).
Khi Áp-ra-ham vào Ca-na-an, ông thấy một cơn đói kém trong xứ và đối diện với cuộc thử nghiệm nghiêm túc đầu tiên về đức tin (Sa 12:10; Sa 13:4). Giải pháp của ông là từ bỏ nơi Đức Chúa Trời đã chọn cho ông, nơi của sự vâng lời, và chạy đến Ê-díp-tô, do đó đã nêu một gương xấu cho con cháu ông là những người có xu hướng bắt chước ông. Nơi an toàn nhất giữa thế gian là ở trong ý muốn của Đức Chúa Trời, vì ý muốn của Đức Chúa Trời bao giờ cũng dẫn chúng ta đến nơi mà ân điển Ngài ban cho chúng ta. Sự vô tín hỏi: “Làm sao tôi có thể thoát ra khỏi điều này?”, trong khi đức tin hỏi: “Tôi có thể rút ra được gì từ điều này?”
Khi Y-sác đối diện với vấn đề về nạn đói, ông quyết định đi đến Ghê-ra, thủ phủ của Phi-li-tin, và nhận sự giúp đỡ từ A-bi-mê-léc. Y-sác và Rê-bê-ca có lẽ sống tại La-chai-roi thời bấy giờ (Sa 25:11) nghĩa là họ đã đi khoảng 75 dặm hướng Đông Bắc để đến Ghê-ra. Thậm chí sau khi đến Ghê-ra, Y-sác và Rê-bê-ca có thể đã bị cám dỗ để đi về phía Nam đến Ê-díp-tô, dù Đức Chúa Trời đã cảnh cáo họ đừng xét đến khả năng đó.
Đức Chúa Trời cho phép Y-sác ở lại trong Phi-li-tin và hứa ban phước cho ông. Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng con cháu ông sẽ thêm lên thật nhiều và ngày nào đó sẽ làm chủ mọi vùng đất đó. Vì vậy Y-sác có quyền ở đó theo như Đức Chúa Trời cho phép (Sa 12:2-3; Sa 13:16; Sa 15:5; Sa 17:3-8; Sa 22:15-18). Đức Chúa Trời đã chúc phước cho Y-sác vì cớ Áp-ra-ham (Sa 25:5, 24), cũng như Ngài đã chúc phước cho các tín-hữu hôm nay vì cớ Chúa Giê-xu Christ.
Chúng ta không bao giờ có thể thành công chạy thoát khỏi những thử thách vì Đức Chúa Trời quyết định rằng con cái Ngài phải học những bài học về đức tin bằng cách chạy khỏi sự khó khăn, vì “hoạn nạn sanh sự nhịn nhục, sự nhịn nhục sanh tính cách” (Rô 5:3-4 NKJV). Giống như Đa-vít, chúng ta có thể ước mong mình có “đôi cánh như bồ câu” để có thể “bay đi và yên nghỉ” (Thi 55:6 NKJV), nhưng nếu chúng ta được vậy, chúng ta hãy luôn là những bồ câu trong khi Đức Chúa Trời muốn chúng ta “bay lên bằng đôi cánh như chim ưng” (Ês 40:31 KJV).
• Cám dỗ nói dối (Sa 26:7-11).
Y-sác có thể chạy trốn khỏi nạn đói, nhưng khi ông đặt mình trong một hoàn cảnh không lối thoát, ông đã phải quay sang sự lừa dối để tự bảo vệ mình. Áp-ra-ham đã phạm tội lỗi tương tự này hai lần, một lần ở Ê-díp-tô (Sa 12:14-20) và một lần ở Phi-li-tin (chương 20). Hãy nhớ, đức tin là sống mà không vạch kế hoạch và việc nói dối dường như là một trong những cách ưa thích của con người để thoát khỏi trách nhiệm.
Y-sác được hỏi về người đàn bà đi cùng ông và giống như Áp-ra-ham cha ông trước đó, ông nói bà là em gái của ông. Nhưng khi A-bi-mê-léc nhìn thấy Y-sác âu yếm Rê-bê-ca, ông biết là vợ của Y-sác. Vì sao Y-sác nói dối? Vì ông sợ đám người ngoại đạo sẽ giết ông để đoạt người vợ xinh đẹp của ông. Sự nói dối của ông là bằng chứng về sự vô tín của ông, vì nếu ông đã tuyên bố lời hứa giao-ước khi ông cầu nguyện xin con cái (Sa 25:21), tại sao ông không thể tuyên bố lời hứa giao-ước tương tự đó để bảo vệ chính ông và vợ ông?
Nhà thơ Anh quốc John Dryden đã viết: “Sự thật là nền móng của mọi tri thức và là chất xi măng của mọi xã hội”. Khi con người không giữ lời nói của mình, những nền móng của xã hội bắt đầu lay động và mọi sự bắt đầu đổ vỡ. Gia đình hạnh phúc, tình bạn bền vững, kinh doanh phát đạt, chính thể vững chắc và Hội thánh hiệu quả đều tùy thuộc vào sự thật vì sự thành công của chúng ta. Nhà truyền giáo người Mỹ Phillips Brooks đã nói: “Sự thật luôn mạnh mẽ, dù nó có vẻ yếu đuối ra sao, và sự giả dối luôn yếu đuối, dù nó có vẻ mạnh mẽ thế nào; Sự thật là xi măng, sự giả dối là nước vôi”.
Khi thấy mình ở trong sự khó khăn, Y-sác bị cám dỗ để chạy trốn và nói dối, và chúng ta ngày nay đối diện sự cám dỗ tương tự này. Y-sác đã chịu thua sự cám dỗ và bị khám phá ra. Thật là một ngày đáng buồn khi những người chưa qui đạo như A-bi-mê-léc đã công khai vạch trần những tôi tớ của Đức Chúa Trời về việc nói dối. Quả là một sự bẽ bàng cho mục đích của sự thật!
4. Ông đào lại những giếng nước của cha ông (Sa 26:12-33)
Y-sác thừa hưởng những bầy chiên và gia súc của cha ông, ông đã sống một đời sống du mục, nhưng giờ đây là người thừa kế giàu có đã định cư và trở nên một nông dân, ở tại Ghê-ra, “một thời gian dài” (c.8).
• Phước hạnh (Sa 26:12-14).
Y-sác với những người láng giềng của ông có quyền sử dụng cùng một vùng đất, và họ phụ thuộc vào cùng ánh sáng mặt trời và mưa, nhưng những mùa gặt của Y-sác nhiều hơn những mùa gặt của họ và bầy chiên cùng bầy gia súc của ông sinh sản dư dật hơn. Bí quyết ư? Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa của Ngài và ban phước cho Y-sác trong mọi việc ông làm (c.3-5). Đức Chúa Trời sẽ ban một phước hạnh tương tự cho Gia-cốp những năm sau đó (chương 31).
Nhưng Y-sác là một người lừa dối! Làm sao Đức Chúa Trời có thể ban phước cho ai đó xưng mình là một tín-hữu nhưng cố tình nói dối với những người láng giềng không tin Chúa? Vì Đức Chúa Trời luôn thành tín với giao-ước Ngài và giữ những lời hứa của Ngài (IITim 2:11-13); và điều kiện duy nhất để Đức Chúa Trời gắn bó với lời hứa của Ngài về sự chúc phước đó là Y-sác ở trong xứ chớ không đi đến Ê-díp-tô.
Đức Chúa Trời cũng chúc phước cho Y-sác vì đời sống và đức tin của Áp-ra-ham (Sa 26:5) cũng như Ngài chúc phước cho chúng ta vì cớ Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta sẽ không bao giờ biết cho đến khi chúng ta đến Thiên Đàng rằng có bao nhiêu phước hạnh của chúng ta đã là “những phần lãi” từ những sự đầu tư thuộc linh được thực hiện bởi những người bạn và dòng dõi tin kính đã đi trước.
• Mâu thuẫn (Sa 26:14-17).
Mặc dù có những phước hạnh về vật chất, Y-sác vẫn chịu khổ vì sự nói dối của ông, vì những phước hạnh ông nhận đã đem đến những gánh nặng và những cuộc chiến cho đời sống ông. Nhìn thấy của cải dư dật của ông, dân Phi-li-tin ghen tị với ông và quả quyết ông là một mối đe dọa cho sự an toàn của họ. Một hoàn cảnh tương tự sẽ xảy ra khi dân Do-thái nhiều lên trong Ê-díp-tô (Xu 1:8). “Phước lành của Đức Giê-hô-va làm cho giàu có, Ngài chẳng thêm sự đau lòng gì lẫn vào” (Ch 10:22).
Nếu Y-sác không nói dối về vợ ông, Đức Chúa Trời sẽ không kỷ luật ông nhưng ban cho ông sự hòa bình với những người láng giềng của ông (Sa 16:7). Tuy nhiên, vì tội lỗi của mình, những phước hạnh vật chất của Y-sác đã gây rắc rối cho ông.
Dân Phi-li-tin tìm cách khiến Y-sác rời khỏi xứ họ và định cư đâu đó, và để khuyến khích điều này, họ đã lấp những cái giếng của Áp-ra-ham và cướp đi khỏi bầy chiên cùng bầy gia súc của Y-sác nguồn nước mà chúng hết sức cần. Nước là một điều quý giá ở vùng Cận Đông, và những cái giếng thích hợp là cần thiết nếu bạn muốn thành công trong xứ. Khủng hoảng xảy đến khi vua ra lệnh cho Y-sác dời đi, và Y-sác vâng lời.
• Sự tìm kiếm (Sa 26:18-22).
Dù Y-sác đi đâu, kẻ thù vẫn theo ông, và tịch thu những giếng nước của cha ông với những giếng mới mà các tôi tớ của Y-sác đã đào. Tìm thấy một cái giếng có “nước mạnh” (c.19) là một phước hạnh đặc biệt, vì nó bảo đảm nước trong luôn luôn, nhưng dân Phi-li-tin cũng giành giếng đó. Tên của những giếng mới do tôi tớ của Y-sác đào bày tỏ những vấn đề ông có với những người láng giềng của mình, vì “Ê-sét” nghĩa là “tranh giành” và “Si-na” nghĩa là căm ghét, nhưng Kê-hô-bốt nghĩa là “rộng rãi” vì Y-sác cuối cùng đã tìm thấy một nơi mà ông được để yên và có đủ chỗ cho trại cùng bầy chiên và bầy gia súc của ông.
Mỗi khi Áp-ra-ham có vấn đề với con người, ông đều can đảm đối diện với họ và giải quyết vấn đề, dù đó là Lót cháu ông (Sa 13:5-18), các vua xâm lấn (chương 14), A-ga và Ích-ma-ên (Sa 21:9) hay dân Phi-li-tin (c.22). Nhưng Y-sác là người khiêm tốn muốn tránh sự chạm trán. Vì là một người hành hương, ông có thể dời trại mình và làm một người hòa giải.
Trong mọi hoàn cảnh khó khăn của đời sống, cần phải có sáng suốt để biết Đức Chúa Trời có muốn chúng ta làm người chạm trán như Áp-ra-ham hay người hòa giải như Y-sác hay không; Vì Đức Chúa Trời có thể chúc phước và sử dụng cả hai trường hợp. “Nếu có thể được, thì hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người”. (Rô 12:18 NKV). Đôi lúc điều đó không thể làm được, nhưng ít nhất chúng ta phải cố gắng, và chúng ta phải nhờ cậy sự khôn ngoan từ trên là sự khôn ngoan “thanh sạch” và “hòa thuận” (Gia 3:17).
Nhìn kinh nghiệm của Y-sác theo một quan điểm thuộc linh, chúng ta có thể học một bài học quan trọng. Trong Kinh Thánh, những giếng nước đôi khi tượng trưng những phước hạnh từ tay Chúa (Sa 16:14; Sa 21:19; Sa 49:22; Xu 15:27; Dân 21:16-18; Ch 5:15; Ch 16:22; Ch 18:4; Nha 4:15; Ês 12:3; Gi 4:14).
Hội thánh cứ tìm kiếm điều gì đó mới mẻ, khi mà tất cả những gì chúng ta cần là đào lại những giếng nước cũ của đời sống thuộc linh mà dân sự Đức Chúa Trời đã nhờ cậy từ đầu Lời Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện, sự thờ phượng, đức tin, quyền năng Thánh Linh, của lễ và sự hầu việc là những giếng nuớc chúng ta đã để kẻ thù lấp kín. Mỗi khi có một sự phục hưng về quyền năng thuộc linh trong lịch sử của Hội thánh, ấy là vì ai đó đã đào lại những giếng nước cũ hầu cho Thánh Linh ban sự sống của Đức Chúa Trời có thể tự do hành động.
• Sự bảo đảm (Sa 26:23-25).
Bê-e-sê-ba là nơi rất đặc biệt đối với Y-sác, vì nơi đó cha của ông đã ký kết một giao-ước với các quan trưởng Phi-li-tin (Sa 21:22). “Bê-e-sê-ba” nghĩa là “giếng thề nguyện”. Chúa đến với chúng ta bằng lời bảo đảm của Ngài chỉ khi chúng ta cần sự khích lệ (Công 18:9-11; Công 23:11; Công 27:23-24; IITim 2:19). Dù ai nghịch với chúng ta, Đức Chúa Trời vẫn ở cùng chúng ta và ủng hộ chúng ta (Sa 28:15; Sa 31:3; Rô 8:31-39), và chúng ta chẳng cần phải sợ hãi. Để đáp ứng với lời hứa nhân từ của Đức Chúa Trời, Y-sác đã lập một bàn thờ và thờ phượng Chúa. Ông sẵn sàng gặp những địch thủ của mình.
Giống như Áp-ra-ham cha mình, Y-sác được nhận biết bởi trại và bàn thờ của ông (Sa 26:25; Sa 12:7-8; Sa 13:3-4, 18). Y-sác giàu có đủ để có thể xây cho mình một ngôi nhà đẹp, nhưng trại của ông cũng chỉ là trại của một người hành hương và khách lạ trong xứ (Hêb 11:8-10, 13-16). Một người trốn chạy sẽ trốn khỏi nhà, một người lang thang không có nhà; một khách lạ xa nhà, nhưng một người hành hương đang hướng về nhà. Trại cho thấy Y-sác như một người hành hương, còn bàn thờ cho biết rằng ông thờ phượng Đức Giê-hô-va và đang hướng về Thiên Quốc.
Giống như Y-sác, tất cả những ai tin nhận Chúa Giê-xu Christ đều là những khách lạ trong thế gian này và người hành hương đang hướng về một thế giới tốt đẹp hơn (IPhi 1:1; IPhi 2:11). Thân thể chúng ta sống là “trại” của chúng ta; Ngày nào đó nó sẽ được tháo dỡ và chúng ta sẽ đi đến Thiên thành (IICôr 5:1-8). Đời sống ở đây ngắn ngủi và tạm bợ, vì trại yếu ớt, nhưng thân thể vinh hiển của chúng ta sẽ là thân thể của chúng ta đời đời (Phi 3:20-21; IGi 3:1-3).Nhưng trong khi chúng ta ở trên đất này, chúng ta hãy biết chắc mình xây bàn thờ và bày tỏ chứng cớ Chúa Giê-xu Christ là Cứu Chúa của thế gian.
• Kết ước (Sa 26:26-33).
Chiến lược của Y-sác đã có hiệu lực, vì các quan trưởng Phi-li-tin đã đến với ông để giải quyết vấn đề về quyền sở hữu của ông (Sa 21:22). Được khích lệ bởi những lời hứa của Đức Chúa Trời, Y-sác dạn dĩ hơn nhiều trong sự tiếp cận của ông và ông đã đương đầu với dân Phi-li-tin bằng những hành động xấu của họ. Đáng chú ý rằng cách cư xử của Y-sác đã tạo một ấn tượng lớn trên họ và họ có thể nói rằng Chúa đã ban phước dư dật cho ông. Quan trọng hơn việc sở hữu những giếng nước của mình là đặc quyền mà Y-sác có về việc chia sẻ chứng cớ của ông với những người láng giềng ngoại đạo (để biết một trường hợp tương phản, hãy xem ICôr 6:1-8).
Y-sác và các quan trưởng đã có thể đi đến một kết ước. Để chứng thực hiệp ước này, Y-sác bày ra một bữa tiệc, vì trong nền văn hóa thời đó, ăn uống với người khác là tạo những mắc xích mạnh mẽ của tình hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau. Cùng ngày đó, những tôi tớ của Y-sác đã tìm thấy một trong những giếng nước của Áp-ra-ham (Sa 21:25-31) và khai thông nó, còn Y-sác cho nó cái tên ban đầu. Bô-e-sê-ba. “Giếng thề nguyện” giờ đây chỉ về hiệp ước của Y-sác cũng như của Áp-ra-ham.
• Mâu thuẫn thêm (Sa 26:34-35).
Y-sác hòa thuận với những người láng giềng, nhưng ông có chiến tranh ở nhà. Ê-sau là con trai trần tục của ông đã cưới hai người vợ ngoại đạo gây ra nỗi đau khổ cho Y-sác và Rê-bê-ca sau đó, để chọc giận cha mẹ mình, ông cưới một người vợ ngoại đạo thứ ba (Sa 29:8-9). Xét về lối sống tội lỗi của Ê-sau, chúng ta ngạc nhiên khi Y-sác muốn ban cho ông sự chúc phước của tộc trưởng (Sa 27:).
Tất cả chúng ta đều muốn tìm thấy “Rê-hô-bốt” của mình (rộng rãi) nơi chúng ta có nhiều chỗ và không có sự cạnh tranh, nhưng Rê-hô-bốt của Y-sác được tìm thấy chỉ sau khi ông đã chịu đựng sự mâu thuẫn. Chính qua những khó khăn, Đức Chúa Trời mở cho chúng ta những nơi rộng rãi hơn mà Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta. “Khi tôi bị gian truân Ngài để tôi trong nơi rộng rãi” (Thi 4:1). Khi những rắc rối của lòng chúng ta tăng lên và chúng ta cứ vững tin nơi Chúa thì ngài đem chúng ta ra nơi rộng rãi. (Thi 18:19)
25. MỘT KIỆT TÁC TRONG CÁC MÃNH NHỎ (Sa 27:1-28:22)
Triết gia George Santayana đã gọi gia đình loài người là “một trong những kiệt tác của thiên nhiên”. Nếu điều đó đúng, thì nhiều kiệt tác trong những kiệt tác này đã trở thành những mảnh nhỏ vì chúng quên chủ nhân Sa 27:1-46 mô tả một gia đình như thế.
Nếu tôi sống suốt thời kỳ trưởng tộc, có lẽ tôi sẽ tiên đoán sự thành công lớn đối với Y-sác và Rê-bê-ca. Y-sác là một người hiến dâng đã đặt mình trên bàn thờ trong sự vâng lời Chúa (Sa 22; Rô 12:1-2). Ông tin cậy Đức Chúa Trời chọn vợ cho ông (Sa 24:1-67), và Y-sác yêu người vợ Đức Chúa Trời đã ban cho (c.67). Cả Y-sác và Rê-bê-ca đều biết cách cầu nguyện và tìm kiếm ý muốn của Chúa cho gia đình họ (Sa 25:19-23).
Nhưng dù có những ưu điểm này, gia đình tự hủy hoại khá nhanh chóng khi Y-sác về già. Vì sao? Vì những người trong gia đình đã vạch kế hoạch thay cho niềm tin để mỗi người có thể theo ý riêng mình. Khi chúng ta xem những cảnh tượng trong bi kịch này, hãy nghiên cứu mỗi người trong gia đình và xem điều họ đóng góp cho vấn đề hoặc cho sự giải đáp.
1. Y-sác: suy yếu (Sa 27:1-4)
Suốt 23 năm làm hiệu trưởng của Học viện Kinh Thánh Moody ở Chicago Tiến sĩ William Culbertson thường cầu xin vào cuối những lần cầu nguyện chung của ông “Lạy Chúa, xin giúp chúng con kết thúc tốt đẹp”. Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của ông, và Tiến sĩ Culberton thật đã kết thúc cuộc đua của ông trong sự chiến thắng, nhưng điều đó không thành sự thật đối với mọi tín-hữu.
Một khởi đầu tốt đẹp không bảo đảm một kết thúc tốt đẹp. Đó là một trong những bài học thường được nhắc lại trong sự dạy dỗ của Kinh Thánh, và nó được khẳng định một cách đáng buồn trong đời sống của những người như Lót, Ghê-đê-ôn, Sam-sôn, vua Sau-lơ, vua Sa-lô-môn, Đê-ma và nhiều người khác. Chúng ta hãy thêm Y-sác vào danh sách đó. Nếu từng có một người được chúc phước với một khởi đầu vĩ đại, đó là Y-sác. Nhưng ông đã kết thúc đời sống mình dưới một đám mây. Hãy xem xét một số tội lỗi của ông.
• Ông đặt mình lên trên Chúa.
Y-sác biết chắc ông sẽ chết, nhưng khao khát lớn nhất của ông là thưởng thức một bữa ăn ngon nơi tay Ê-sau (Sa 25:28), đứa con trai ưa thích của ông và là đầu bếp. Khi Áp-ra-ham cha của Y-sác chuẩn bị chết, mối quan tâm của ông là cưới vợ cho con trai ông và duy trì lời hứa giao-ước. Khi vua Đa-vít đi đến kết thúc của đời mình, ông chuẩn bị cho việc xây đền thờ, và gánh nặng của Phao-lô trước sự tuận đạo của ông là Ti-mô-thê trung tín rao giảng Lời Chúa và bảo vệ đức tin.
Ai đó đã nói có lý: “kết thúc của cuộc đời bày tỏ những mục đích của đời sống”. Khi nhà tài trợ buổi biểu diễn P. T. Barnum hấp hối ông đã hỏi: “Số thu của hôm nay là gì?” Napoleon đã la lên trên giường hấp hối: “Quân đội! Lãnh đạo của quân đội!” Nhà tự nhiên học Henry David Thoreau chỉ nói hai từ: “Con nai…. Người da đỏ”. Nhưng Y-sác, người đã suy gẫm và cầu nguyện ngoài đồng vào chiều tối (Sa 24:63), và là người cầu xin Đức Chúa Trời thay cho vợ mình (Sa 25:21), chỉ muốn một điều: một bữa ăn ngon có thịt nai. Thay vì tìm cách chữa lành mối hận thù gia đình mà ông và Rê-bê-ca đã gây ra bởi sự thiên vị ích kỷ của họ, Y-sác đã kéo dài mối hận thù và hủy hoại gia đình ông.
• Ông bất tuân mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.
Trước khi hai con trai ra đời, Đức Chúa Trời đã bảo Y-sác và Rê-bê-ca rằng Gia-cốp, con trai thứ, phải nhận phước hạnh giao-ước (c.19-23), nhưng Y-sác có kế hoạch ban sự chúc phước cho Ê-sau. Chắc chắn Y-sác biết rằng Ê-sau đã khinh thường quyền trưởng nam của ông rồi bán nó cho Gia-cốp và Ê-sau đã làm bản thân mất tư cách bằng việc cưới những phụ nữ ngoại đạo. Phải chăng Y-sác quên rằng cha ông đã sai một đầy tớ đi 500 dặm đến Cha-ran để cưới cho ông một người vợ thích hợp? Phải chăng Y-sác thật sự nghĩ rằng ông có thể lừa dối Đức Chúa Trời và ban phước cho Ê-sau trần tục, vô tín?
• Ông sống bằng những cảm xúc.
Y-sác làng mắt và rõ ràng không thể ngồi dậy (Sa 27:19, 31), một hoàn cảnh mà bạn nghĩ sẽ khiến ông tin cậy Đức Chúa Trời và tìm kiếm sự giúp đỡ của Ngài. Ngược lại, Y-sác đã chối bỏ con đường đức tin và cậy nơi những giác quan của riêng mình: nếm (c.4, 9, 25), rờ (c.21), nghe (c.22) và ngửi (c.27). ông chọn “phương pháp khoa học” và nó khiến ông thất bại. “Có nhiều kế hoạch trong lòng người, tuy nhiên, ý định của Đức Giê-hô-va sẽ bền vững” (Ch 19:21 NKJV).
Một nhân vật trong tiểu thuyết “cái chết trong buổi chiều” (Death in the afternoon của Ernest Hemingway có lẽ bày tỏ những cách thức riêng của Hemingway khi ông nói: “Tôi chỉ biết rằng điều gì hợp đạo đức là điều bạn cảm thấy dễ chịu sau đó, và điều gì trái đạo đức là điều bạn cảm thấy khó chịu sau đó”. Đa số người ngày nay sẽ tán thành triết lý đó và thực hiện những quyết định của họ một mình trên cơ sở họ cảm nhận ra sao chớ không phải điều Đức Chúa Trời phán trong Lời Ngài. “Nếu điều đó dường như tốt lành, thì nó tốt lành!”
Y-sác là một tín-hữu suy thoái, sống bởi những điều tự nhiên thay vì những điều siêu nhiên, và tin cậy nơi những giác quan của riêng mình thay vì tin và vâng theo Lời Đức Chúa Trời. Ông làng mắt, không ngồi dậy được và tuyên bố sắp chết, nhưng ông vẫn có một sự thèm ăn mạnh mẽ. Có một người cha như thế làm chủ gia đình, có gì lạ khi gia đình đổ vỡ?
2. Rê-bê-ca: Sự lừa dối (Sa 27:5-17)
Ông Walter Scott đã viết trong bài thơ “Marmion” của ông: “Ôi, quả là một lưới nhện rối bời chúng ta dệt khi trước tiên chúng ta tập lừa dối”. Hãy nhớ, đức tin là sống mà không vạch kế hoạch, và đức tin nghĩa là vâng Lời Đức Chúa Trời dù chúng ta cảm thấy thế nào, chúng ta suy nghĩ điều gì hay điều gì có thể xảy ra. Sự vâng phục của đức tin là bí quyết đời sống của Áp-ra-ham (Hêb 11:8), nhưng sự thiếu vắng của đức tin vâng phục đã đem đến rắc rối cho gia đình của Y-sác và Rê-bê-ca.
• Sự nghe trộm (Sa 27:5).
Khi Y-sác cho gọi Ê-sau đến trại ông, Rê-bê-ca để ý điều đó và đến gần để biết điều gì đang xảy ra. Sau đó, khi Ê-sau tiết lộ rằng ông vạch kế hoạch giết em trai mình, Rê-bê-ca cũng nghe điều ấy (Sa 27:42). Vì vậy, bà có lẽ giỏi về nghe trộm và luôn nắm rõ những việc trong gia đình.
Tuy nhiên, thật bi thảm khi người chồng và người vợ, trước kia rất tận tụy cho Chúa và cho nhau, đã rút phép thông công với nhau và không còn bàn luận Lời Đức Chúa Trời hay cùng cầu nguyện nữa.
• Vạch mưu kế (Sa 27:6-10).
Biết rằng Gia-cốp đã được chọn để nhận phước hạnh giao-ước, Rê-bê-ca lập tức xoay sở những vấn đề trong tay bà để chắc chắn con trai yêu quý của bà nhận lấy điều Chúa đã hứa ban cho người. Nếu bà và Gia-cốp nói chuyện với Y-sác trong khi Ê-sau đang săn bắn, ông có lẽ sẽ sáng tỏ và đồng ý với họ. Tuy nhiên, ngược lại, Rê-bê-ca đã chọn cách điều khiển Gia-cốp và lừa dối chồng mình.
Lời bình luận của Tân-ước về bối cảnh này là Gia 3:13-18. Y-sác cậy nơi những giác quan thuộc thể của mình, nhưng Rê-bê-ca cậy nơi sự khôn ngoan của thế gian. Tuy nhiên, sự khôn ngoan của thế gian luôn dẫn đến rắc rối. “Vì ở đâu sự ghen tương và và tư lợi tồn tại, thì sự lộn lạo và mọi điều ác sẽ có ở đó” (Gia 3:16 NKJV).
Rê-bê-ca phác ra kế hoạch của bà nhanh chóng đến nỗi chúng ta nghi ngờ bà chắc đã suy nghĩ điều đó xuyên suốt từ trước. Bà biết rằng Ê-sau là con trai yêu quý của chồng bà và chồng bà không còn là người thuộc linh như trước đây. Rê-bê-ca thậm chí đã có sẵn một công thức nấu ăn, và bà chắc là một đầu bếp xuất sắc để có thể làm cho thịt dê có vị như thịt nai!
• Lời thề (Sa 27:11-17).
Mối quan tâm của Gia-cốp không phải là “Điều đó có đúng không?” nhưng là “điều đó có an toàn không?” Ông lo lắng về điều răn thứ Sa 11: “Ngươi chớ để bị bắt gặp”.
Nhưng Rê-bê-ca có kế hoạch sử dụng da dê cũng như thịt và làm cho Gia-cốp da trơn có vẻ giống như Ê-sau da lông. Bà cũng mặc cho Gia-cốp quần áo của Ê-sau để ông sẽ có mùi như người anh ở ngoài trời của ông. “Con ơi! Xin sự rủa sả giáng trên mẹ” là lời khích lệ của bà đối với Gia-cốp (c.13) nhưng bà chẳng biết mình đang nói gì. Vì sau khi Gia-cốp đi đến Cha-ran, bà không bao giờ gặp lại đứa con yêu quý của mình.
Triết lý của Y-sác là “Nếu điều đó dường như tốt lành, thì nó tốt lành”, nhưng triết lý của Rê-bê-ca là “kết quả biện hộ cho phương tiện”. Bà không thể tin cậy Đức Chúa Trời thực hiện kế hoạch của Ngài, bà phải giúp Đức Chúa Trời bởi đó là vì một mục đích tốt đẹp. Nhưng không có chỗ cho sự lừa dối trong đời sống của tín-hữu, vì Sa-tan là kẻ lừa dối (IICôr 11:3), nhưng Chúa Giê-xu Christ là lẽ thật (Gi 14:6). “Phước thay cho người nào … trong lòng không có sự giả dối” (Thi 32:2).
3. Gia-cốp: Sự bảo vệ (Sa 27:18-29)
Để hợp tác với mưu kế, Gia-cốp chỉ vâng lời mẹ ông, nhưng lẽ ra ông đã có thể từ chối và gợi ý rằng họ chỉ nên đối diện với hoàn cảnh một cách thành thật và đối chất với Y-sác. Nhưng một khi Gia-cốp mặc quần áo của Ê-sau và bưng món ăn ngon trong tay, khuôn đã được đổ và ông vào vai một cách thành công. Hãy xem thể nào sự giả dối này dẫn đến sự giả dối khác, vì sự lừa dối chỉ có thể được bảo vệ bởi sự lừa dối hơn nữa. Gia-cốp đang dệt cái mạng nhện rối bời.
• Ông nói dối về tên mình (Sa 27:18-19).
Phải chăng Y-sác yêu cầu sự nhận diện vì ông nặng tai? Có lẽ không phải (c.22); Dường như ông bắt đầu nghi ngờ vì ông không nghĩ Ê-sau đi săn về quá nhanh như vậy (c.20). Hơn nữa, tiếng nói ông nghe không giống như tiếng của Ê-sau. Đó là lúc Gia-cốp nói dối lần đầu tiên: Ông xưng mình là Ê-sau.
• Ông nói dối về thức ăn và Chúa (Sa 27:19-20).
Ông tuyên bố mình đã vâng theo những ước muốn của cha (lời nói dối thứ hai), và ông gọi thịt dê là “thịt săn của con” (lời nói dối thứ ba). Ông thậm chí ngợi khen Chúa đã giúp ông tìm thấy nó thật nhanh chóng (lời nói dối thứ tư). Ông không chỉ nói dối về bản thân mình, ông còn nói dối về Chúa! Sử dụng Chúa để che đậy tội lỗi là một bước tiến đến tội lộng ngôn.
Ông nói dối lần nữa về nhân dạng của ông và tình yêu của ông (Sa 27:21-27). Miễn cưỡng tin nơi đôi tai của mình, Y-sác sờ soạng hai bàn tay của Gia-cốp và lầm tưởng da dê là lông người, và Gia-cốp bảo đảm với cha lần nữa rằng ông là Ê-sau (lời nói dối thứ năm). Bi thảm thay khi nhìn một đứa con trai quá bất kính với cha mình! Sau khi Y-sác đã dùng bữa, ông bảo Gia-cốp hôn ông, và cái hôn đó là sự giả dối thứ sáu vì đó mang tính giả hình (Lu 22:48). Làm sao Gia-cốp có thể tuyên bố mình yêu mến cha khi ông đang trong hành động lừa dối cha? Vì mùi quần áo cuối cùng khiến Y-sác tin rằng Ê-sau ở đó, sân khấu giờ đây được bố trí cho sự chúc phước.
Y-sác đã chúc phước cho Gia-cốp với sự giàu có về tự nhiên và vật chất, thật quan trọng trước những người trong xứ, nhưng ông thêm vào quyền thế chính trị với sự đề cập đến dân của ông và các dân tộc khác (Sa 27:29). Y-sác tái khẳng định Lời Đức Chúa Trời nói về những con trai (Sa 25:23) và qua việc sử dụng những danh từ số nhiều (“các anh em” và “các con trai”), ông nhìn xa hơn thời đại của Gia-cốp để thấy thời kỳ dòng dõi Áp-ra-ham sẽ nhiều thêm. Suốt triều đại của Đa-vít và Sa-lô-môn, những dân tộc khác chịu sự cai trị của Y-sơ-ra-ên. Ông bảo đảm với Gia-cốp không chỉ về sự chúc phước của Đức Chúa Trời mà còn về sự bảo vệ của Đức Chúa Trời, và ông trích dẫn lời hứa ban đầu của Đức Chúa Trời với Áp-ra-ham (Sa 12:3).
Công việc đã được thực hiện Y-sác không thể rút lại sự chúc phước và không ai trong gia đình có thể thay đổi những hậu quả.
4. Ê-sau: Sự thất vọng (Sa 27:30-40) (Hêb 12:16-17)
Gia-cốp đã có một cuộc viếng thăm kín và suýt gặp Ê-sau đi săn trở về. Gia-cốp sẽ nói dối điều gì để giải thích lý do ông mặc quần áo của Ê-sau? Y-sác và Ê-sau đã không mất thời gian lâu để khám phá âm mưu này, nhưng mỗi người phản ứng một cách khác nhau.
• Y-sác, hết sức xúc động (Sa 27:30-33).
Một học giả Hê-bơ-rơ dịch câu này: “Ông xúc động, nhiều quá mức”. Tại sao Y-sác bị kích động như vậy? Vì ông biết rằng Chúa đã tể trị kế hoạch ích kỷ của ông hầu cho con trai ông yêu quý không nhận được sự chúc phước. Y-sác đã nói dối với A-bi-mê-léc ở Ghê-ra (chương 26) và ông đã tìm cách nói dối với Đức Chúa Trời bằng cách bất tuân Lời Chúa (Sa 25:23), nhưng giờ đây những lời nói dối của ông đã bắt kịp ông.
• Ê-sau, khóc và nài xin một sự chúc phước (Sa 27:34-40).
Người đã khinh thường quyền trưởng nam và cưới hai phụ nữ ngoại đạo giờ đây khóc lóc và cầu xin cha chúc phước cho ông. Dĩ nhiên, đó không phải là lỗi của ông; Đó là lỗi của người em xảo trá của ông. Khi nghi ngờ, luôn trách mắng người khác.
Hêb 12:16-17 là lời bình luận của Đức Chúa Trời về sự kiện này. Ê-sau tìm cách ăn năn, nhưng lòng ông quá cứng cỏi, và ôngkhông thể thay đổi ý muốn của cha ông. Những giọt nước mắt của Ê-sau không phải là nước mắt của sự ăn năn vì đã làm một người bất kính; Đó là những giọt nước mắt hối tiếc vì ông đã đánh mất phước hạnh của giao-ước. Ê-sau muốn sự chúc phước nhưng ông không muốn làm loại người Đức Chúa Trời có thể chúc phước! Chúng ta có thể quên những quyết định của mình nhưng những quyết định của chúng ta không quên chúng ta.
“Sự chúc phước” cho Ê-sau (Sa 27:39-40) đã “gạt bỏ” Ê-sau khỏi những phước hạnh về đất và trời đã được ban cho Gia-cốp. Thay vì cai trị, Ê-sau sẽ sống bởi gươm của mình. Dân Ê-đôm là con cháu của Ê-sau (Ê-đôm) đã lập dân tộc họ tại núi Sê-i-rơ (Sa 36:5-8) ở mũi Nam của Biển Chết, và là kẻ thù thường trực của dân Do-thái. Suốt triều đại của Đa-vít, dân Ê-đôm bị phục dưới Y-sơ-ra-ên, nhưng khi Giô-ram làm vua Giu-đa, dân Ê-đôm đã nổi dậy và giành được tự do (IIVua 8:20-22).
5. Y-sác, Rê-bê-ca và Gia-cốp: Sự ra đi (Sa 27:30-40) (Sa 27:41-28:9)
Cuối cùng, những người tin kính trong gia đình họp lại và thực hiện một số quyết định khôn ngoan. Tuy nhiên, vẫn có một vài sự lừa dối chưa ngã ngũ, vì Gia-cốp rời khỏi nhà với hơn một lý do.
• Để bảo vệ mạng sống của Gia-cốp (Sa 27:40-45).
“Đừng điên cuồng, hãy trả thù” là một triết lý phổ biến, đặc biệt giữa vòng các chính trị gia nhưng Ê-sau thực hành cả hai điều: ông mang một mối hận thù nghịch với em mình và có ý định giết em. Xét cho cùng, nếu Ê-sau không thể hưởng sự chúc phước, thì Gia-cốp cũng sẽ không hưởng được. Người đã được định sống bởi gươm mình sẽ khởi đầu bằng cách sử dụng gươm trước hết tại nhà.
Luôn tiếp cận với thông tin gia đình, Rê-bê-ca đã nghe lời hăm dọa và chuyển sang hành động. Kế hoạch của bà là sai Gia-cốp đi đến Cha-ran để sống với La-ban anh trai của bà và sau đó cho gọi ông khi ông có thể an toàn trở về nhà. Câu hỏi của bà “Tại sao mẹ phải chịu mất cả hai đứa trong một ngày?” ngụ ý rằng bà mong chờ ai đó, có lẽ là Đức Chúa Trời, báo thù việc giết hại Gia-cốp và giết Ê-sau. “Ít ngày” đã trở thành 20 năm, và bà không bao giờ gặp lại Gia-cốp trên đất.
• Để bảo đảm một người vợ thích hợp cho Gia-cốp (Sa 27:46 Sa 28:9).
Vì hai người vợ ngoại đạo của Ê-sau là một sự chọc tức trong gia đình, Rê-bê-ca đã dùng điều này để bàn luận với chồng bà về tương lai của Gia-cốp. Giờ đây Gia-cốp đã có sự chúc phước của giao ước, thật quan trọng để ông cưới người phụ nữ thích hợp chớ không phải một trong những người ngoại đạo ở Ca-na-an.
Y-sác đồng ý và gọi Gia-cốp để cho ông biết quyết định của họ. Khi được gọi đến, có lẽ Gia-cốp nghĩ cha ông mắng ông về điều ông đã làm, nhưng Y-sác không làm vậy. Người già này đã bị vướng trong lưới của mình và biết rằng những kế hoạch của Đức Chúa Trời tốt đẹp hơn kế hoạch của ông. Y-sác không chỉ nói một cách ân cần với con trai mình, ông cũng chúc phước thêm cho con ông khi con ông ra đi để tiếp tục hành trình dài đến Cha-ran. Lần này chính “sự chúc phước của Áp-ra-ham” là quan trọng, sự thực hiện lời hứa của Đức Chúa Trời để chúc phước cho cả thế gian qua con cháu Gia-cốp (Ga 3:14).
Phản ứng của Ê-sau trước tin này là bằng chứng nữa rằng ông đã khinh thường mọi điều thuộc linh, vì ông ra đi và lấy thêm vợ. Vì Gia-cốp kiếm vợ giữa vòng con cái của La-ban chú mình, Ê-sau đã chọn một người vợ từ gia đình của Ích-ma-ên bảo ông. Có lẽ ông nghĩ rằng điều này sẽ khiến ông đủ tư cách nhận sự chúc phước nào đó của Đức Chúa Trời, nhưng điều đó chỉ thêm vào sự bực tức trong gia đình.
-Sa 27:41-46 xem giải nghĩa Sa 27:30-40.
-Sa 28:1-9 xem giải nghĩa Sa 27:30-40.
6. Gia-cốp: Sự tận tụy (Sa 28:10-22)
“Cậu ấm” Gia-cốp giờ đây không có nhà và đang bắt đầu một chuyến đi 500 dặm đến Cha-ran. Ông đang chạy trốn một người anh giận dữ và đối diện với một tương lai chưa biết trước, và tất cả những gì ông phải nhờ cậy là sự chúc phước của cha ông. Từ nay trở đi, cậu ấm sẽ phải trở thành một người hành hương và bước đi bởi đức tin. Đó là một cuộc hành trình ba ngày đến Bê-tên, và ba ngày đầu tiên đó trong cuộc mạo hiểm của ông chắc hẳn rất khó khăn. Ê-sau sẽ theo ông và tìm cách giết ông chăng? Liệu ông sẽ có đủ thức ăn để giúp ông tiếp tục đi chăng? (Sa 32:10). Khi ông quyết định qua đêm tại Bê-tên ông không có ý nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ gặp ông ở đó, và từ đêm ấy, Bê-tên là một nơi rất đặc biệt đối với Gia-cốp (Sa 35:1).
• Một giấc mơ có ý nghĩa (Sa 28:12-13).
Gia-cốp ngủ trên đất với một hòn đá làm “gối đầu” (c.11, 18), một hành động bình thường ở Cận Đông. Hòn đá có thể là một sự bảo vệ hơn là một cái gối. Khi ngủ, ông có một giấc mơ mà trong đó ông thấy một cái thang hoặc một cầu thang với các thiên-sứ đi lên xuống giữa trời và đất. Gia-cốp khám phá rằng ông không ở một mình nhưng Đức Chúa Trời ở cùng ông! Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Y-sác đang dõi theo ông và các thiên-sứ của Ngài có ở đó để bảo vệ và hầu việc ông.
• Một lời tuyên bố ý nghĩa (Sa 28:13-15).
Gia-cốp thấy Chúa ở trên ông và rồi nghe Ngài phán. Chúa không quở trách Gia-cốp vì đã dự phần trong mưu kế của Rê-bê-ca. ngược lại, Ngài phán những lời hứa và sự bảo đảm cho ông. Chính Đức Chúa Trời Đấng đã chăm sóc cha và ông nội của ông hứa chăm sóc ông và ban cho ông xứ mà ông đang nằm. Ngài cũng sẽ làm cho con cháu ông thêm nhiều và thực hiện lời hứa đem phước hạnh đến cho cả thế gian qua họ.
Chúa hứa hiện diện cùng Gia-cốp trong bất cứ hoàn cảnh nào đặt ra trước ông. Vào thời đó, người ta có quan niệm rằng khi bạn rời khỏi gia đình, thì bạn đã rời bỏ thần của bạn ở phía sau. Nhưng Chúa của cả đất đã hứa đồng hành với Gia-cốp, bảo vệ ông và ngày nào đó đem ông trở về nhà. Dù điều gì xảy ra, Ngài sẽ hoàn thành ý muốn Ngài trong và qua Gia-cốp. Lời hứa về sự hiện diện của Đức Chúa Trời với dân Ngài thường được lặp lại trong Kinh Thánh (Phuc 31:6-8; Gios 1:5; ISa 12:22; ISu 28:20; Mat 28:20; Hêb 13:5). Thật vậy “Đức Chúa Trời của Gia-cốp là nơi nương náu của chúng tôi” (Thi 46:7, 11).
Đức Chúa Trời sẽ hiện ra cho Gia-cốp ít nhất năm lần nữa trong những năm kế tiếp, nhưng cuộc gặp gỡ đầu tiên này là một cuộc gặp gỡ quan trọng. Ông biết rằng Đức Chúa Trời quan tâm đến ông và hành động trong đời sống của ông. Từ đêm đó trở đi, bao lâu ông tin cậy Chúa và vâng theo ý muốn Ngài, ông không có gì để sợ hãi.
• Một quyết định ý nghĩa (Sa 28:16-22).
Khi tỉnh dậy, đáp ứng đầu tiên của Gia-cốp là một đáp ứng của sự sợ hãi và ngạc nhiên. Đức Chúa Trời đã hiện diện nơi đó, mà ông không biết điều ấy! Nhưng “sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự tri thức” (Ch 1:7), vì vậy đáp ứng của Gia-cốp là một đáp ứng đúng đắn. Ông khám phá rằng ông có thể tìm thấy Đức Chúa Trời ở những nơi không hứa hẹn và bất cứ nơi đâu cũng là “nhà của Đức Chúa Trời” (Bê-tên) vì Đức Chúa Trời có ở đó. Ông sẽ xa nhà cha ông ít nhất 20 năm, nhưng Chúa sẽ là “nơi ở” của ông dù ông đi đâu (Thi 90:1).
Nhưng quan trọng nhất, Gia-cốp đã dâng mình cho Chúa buổi sáng ấy và tuyên bố những lời hứa mà Đức Chúa Trời đã lập với ông (Sa 28:13-15). Từ “nếu” được tìm thấy trong nhiều bản dịch của câu 20 cũng có thể được đọc là “vì”. Gia-cốp không mặc cả với Đức Chúa Trời; ông đang khẳng định đức tin mình nơi Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời đã hứa chăm sóc ông, ở cùng ông và đem ông về nhà an toàn, vậy Gia-cốp sẽ khẳng định đức tin của ông nơi Đức Chúa Trời và sẽ tìm cách thờ phượng cùng tôn kính chỉ một mình Ngài.
Gia-cốp không có một đời sống dễ chịu trong những năm kế tiếp, vì mặc dù Đức Chúa Trời đã tha thứ những tội lỗi của ông và ở cùng ông trong những hành trình của ông, Gia-cốp vẫn chịu những hậu quả của tội lỗi ông. Đức Chúa Trời tha thứ ông trong ân-điển của Ngài, nhưng Đức Chúa Trời trong thể chế công bình của Ngài nhất định để chúng ta gặt những gì chúng ta gieo.
Gia-cốp đã lừa dối Y-sác, nhưng La-ban cha vợ của ông đã nói dối với Gia-cốp và lừa dối ông. Gia-cốp đã dùng một dê con để lừa dối cha ông, và những con trai của Gia-cốp đã sử dụng một dê con để lừa dối cha của họ (Sa 37:29-35). Suốt những năm làm việc cho La-ban, Gia-cốp đã chịu nhiều thử thách, cả trong địa vị một người chăn chiên lẫn trong địa vị làm chồng của bốn người vợ cùng là cha của nhiều con cái (Sa 31:36). Điều đã giữ ông cứ tồn tại khi sự tồn tại thật gay go, đó là đức tin của ông nơi những lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã hứa ở cùng ông và đó là điều Gia-cốp nhờ cậy (Sa 31:42; Sa 49:24-25).
Và Chúa đã không quên ông, Ngài cũng sẽ không quên chúng ta. “Đức Giê-hô-va vạn quân ở cùng chúng tôi, Đức Chúa Trời Gia-cốp là nơi nương náu của chúng tôi” Thi 46:7).
26. NHỮNG KỶ LUẬT VÀ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH (Sa 29:1-31:55)
Đời sống không dễ dàng, và điều mà đời sống làm cho chúng ta tùy thuộc rất nhiều vào điều mà đời sống tìm thấy trong chúng ta. Gia-cốp lẽ ra có thể để lại đằng sau những vấn đề về gia đình của ông, nhưng ông phải mang lấy vấn đề lớn nhất – bản thân ông. Suốt 20 năm kế tiếp (Sa 31:41), Gia-cốp sẽ kinh nghiệm nhiều thử thách đau đớn trong gia đình của La-ban, nhưng cuối cùng, ông sẽ trở thành người của Đức Chúa Trời để thực hiện ý muốn của Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, đừng đọc những chương này như một câu chuyện cổ xưa về gia đình của một người. Đây là một câu chuyện đương thời về tất cả chúng ta những người đang thực hiện những quyết định quan trọng trên đường đời, những quyết định xác định tính cách và vận mệnh.
1. Hôn nhân: tìm thấy bạn đời của mình (Sa 29:1-30)
Chúa Giê-xu đã cho biết rõ rằng không phải mọi người đều phải lập gia đình (Mat 19:1-12). Nhưng với Gia-cốp, hôn nhân không phải là một sự lựa chọn: đó là một bổn phận. Sự thành công của những lời hứa giao-ước mà Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham (Sa 12:1-3 Sa 28:1-4) tùy thuộc vào việc Gia-cốp tìm thấy một người vợ và cùng nàng xây dựng một gia đình cuối cùng sẽ trở thành dân Y-sơ-ra-ên, dân tộc sẽ đem Đấng Cứu Chuộc đã được hứa ban vào thế gian.
• Cuộc gặp gỡ (Sa 29:1-13).
Được khích lệ bởi những lời hứa nhân từ Đức Chúa Trời đã ban cho ông tại Bê-tên, Gia-cốp thực hiện cuộc hành trình dài đến Pha-đan A-ram. Bối cảnh tại giếng nước nhắc chúng ta về kinh nghiệm mà Gia-cốp chắc chắn đã nghe nhiều lần. Tuy nhiên, không có ghi chép nào cho thấy Gia-cốp cầu nguyện như người đầy tớ của ông nội ông đã làm. Nhưng có lẽ ông đã cầu xin sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời suốt hành trình của mình.
Tôi có cảm tưởng rằng khi Gia-cốp gặp Ra-chên, đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Nếu vậy, điều đó giải thích lý do ông tìm cách để những người chăn chiên cho bầy chiên của họ uống nước và đi, vì ông cần Ra-chên cho mình ngay cuộc gặp mặt đầu tiên. Hòn đá đậy giếng lớn và nặng (Sa 29:2), nhưng Gia-cốp có thể dời nó để ông có thể cho bầy chiên của Ra-chên uống nước. Khi ông tự giới thiệu mình, nàng chạy đi cho La-ban biết tin.
Ở phương Đông thời cổ đại, mối dây gia đình rất mạnh mẽ, và việc thăm viếng bà con, kể cả những người bạn chưa bao giờ gặp trước đó, sẽ được hoan nghênh trong gia đình của máu mủ họ.
Chúng ta thấy sự định liệu của Đức Chúa Trời trong cuộc gặp gỡ này. Gia-cốp có thể mượn lời của người đầy tớ của Y-sác: “Tôi đang trên đường, Chúa đã dẫn dắt tôi” (Sa 24:27 KJV). Những kẻ vô tín có thể gọi sự kiện này là “một sự ngẫu nhiên may mắn”, nhưng người tin Chúa sẽ nhìn thấy qua đó sự dẫn dắt nhân từ của bàn tay Đức Chúa Trời. Trong đời sống của Cơ-đốc nhân tin cậy, không có sự ngẫu nhiên, chỉ có những sự chỉ định.
Nhưng chúng ta cũng nhìn thấy qua sự kiện này sự khởi đầu của một số thay đổi tích cực trong tính cách của Gia-cốp. Trước hết, hãy xem sự dạn dĩ của ông khi ông đối diện với những người chăn chiên, dời hòn đá, và tự giới thiệu mình với Ra-chên. Và hãy xem sự thành thật của ông khi ông kể câu chuyện của mình cho La-ban cha của Ra-chên (Sa 29:18).
Lịch sử gia đình được che giấu bao nhiêu bởi “tất cả những việc này” thì không được bày tỏ trong bản văn, nhưng Gia-cốp chắc chắn đã phải giải thích lý do ông có mặt ở đó và những kế hoạch nào ông có cho tương lai. Nhớ đến của cải mà Rê-bê-ca em gái mình đã nhận từ Y-sác, La-ban có thể hy vọng rằng Gia-cốp cũng sẽ hào phóng.
• Hiệp uớc (Sa 29:14-20).
Suốt tháng đầu tiên ở nhà La-ban, Gia-cốp đã làm phần việc của mình và hạnh phúc về mỗi cơ hội ở cùng Ra-chên. Điều mà Gia-cốp không nhận ra là La-ban là một kẻ mưu kế bậc thầy sẽ điều khiển đời sống ông 20 năm kế tiếp. Trong sự phấn khởi về giây phút quyết định đó, đòi hỏi việc chấp nhận một công việc và được hứa hôn với một phụ nữ xinh đẹp, Gia-cốp không để ý rằng La-ban không lập lời hứa rằng ông sẽ giao Ra-chên cho Gia-cốp lúc kết thúc 7 năm. Ông chỉ đồng ý cho Ra-chên làm vợ Gia-cốp.
Một lần nữa chúng ta thấy sự tiến triển trong tính cách của Gia-cốp khi ông kiên nhẫn phục vụ La-ban 7 năm khó khăn. Chăn chiên không phải là một nghề nghiệp dễ dàng, và 7 năm là một thời gian dài, nhưng tình yêu của Gia-cốp đối với Ra-chên đã cất gánh nặng ra khỏi công việc và khiến thời gian nhanh chóng trôi qua. Người ta thường nói rằng hạnh phúc bao gồm việc có ai đó để yêu, việc gì đó để làm, và điều gì đó để trông đợi; và Gia-cốp có cả 3 điều.
• Sự lừa dối (Sa 29:21-30).
Người lừa dối cha mình đã bị cha vợ lừa dối, và người tự xưng mình là con trưởng nam giờ đây nhận trưởng nữ của La-ban làm vợ. Đó là một luật của đời sống không thể tránh được rằng chúng ta cuối cùng gặt những gì chúng ta gieo (Ga 6:7-8).
Đức Chúa Trời trong ân-điển Ngài tha thứ tội lỗi chúng ta khi chúng ta xưng nhận tội (IGi 1:9), nhưng Đức Chúa Trời trong sự quản trị của Ngài, Ngài để cho chúng ta chịu những hậu quả đau đớn của những tội lỗi đó. Sự thất vọng này chính là khởi đầu mùa gặt cho Gia-cốp.
Phụ nữ Đông phương được giữ khá cách biệt và điều gọi là “sự hẹn hò” không có trong nền văn hóa đó, nhưng chắc chắn Gia-cốp đã biết Ra-chên và Lê-a khá rõ suốt 7 năm đó. Vậy, tại sao ông bị lừa dối quá dễ dàng? Dĩ nhiên, phòng cô dâu tối tăm và cô dâu bị che mặt (Sa 24:65), có lẽ nàng không nói vượt quá một lời thì thầm, nhưng qua sự động phòng, làm sao Gia-cốp không thể biết người nữ này là ai?
Phải chăng Gia-cốp đã dự tiệc quá nhiều? Có lẽ. Hay có thể ông say sưa bởi tình yêu nồng nàn của mình? (Ch 5:19). Lê-a là một người tình nguyện trong thủ đoạn này hay người cha bất lương của nàng đã ép nàng vâng lời ông? Và Ra-chên ở đâu suốt vở kịch này? Chúng ta có thể tưởng tượng nhiều kịch bản có thể xảy ra nhưng không chắc chắn kịch bản nào.
Nếu Lê-a quá khao khát, nàng có thể dễ dàng để lộ âm mưu, nhưng điều đó sẽ làm La-ban bẽ bàng trước mặt khách mời của ông và có thể dẫn đến việc Gia-cốp bị trục xuất khỏi nhà mà không có Ra-chên yêu quý của mình. Vậy trong phần đời còn lại của mình, Lê-a sẽ phải sống với một người em thất vọng và một người cha giận dữ, là người sẽ nghĩ ra phương cách nào đó để trả đũa thậm chí với con gái lớn của ông. Không, việc để lộ âm mưu chỉ không đáng bỏ công.
Tôi cảm thấy Lê-a là một người đồng lõa tự nguyện, vui sướng để lấy một người chồng siêng năng như Gia-cốp, người sẽ thừa kế của cải của Y-sác và hưởng những phước hạnh giao ước của Áp-ra-ham. Chắc chắn nàng biết rằng Ra-chên cũng sẽ là một phần của sự mặc cả, nhưng sẵn sàng liều với bất cứ vấn đề nào có thể xảy ra sau đó. Lê-a có thể đã “mượn” vài bộ quần áo của em mình và thậm chí học cách bắt chước một số kiểu cách riêng của người em. Nếu vậy, nàng đang đối xử với Gia-cốp cách mà ông đã đối xử với cha ông khi ông giả làm Ê-sau.
Nhưng hãy tưởng tượng chú rể thức giấc vào buổi sáng đầu tiên của tuần lễ cưới và khám phá rằng ông đã lấy không đúng người nữ! Giữa vòng dân Xê-mít, 7 ngày sau lễ hôn nhân, cô dâu và chú rễ được xem như vua và hoàng hậu, nhưng Gia-cốp chắc đã cảm thấy giống như chú hề trong cung vua. La-ban đã khiến ông trở thành một kẻ ngu ngốc nhưng Gia-cốp không có thể làm gì, vì người cha trong gia đình nắm quyền điều khiển tối cao. Người cha vợ vô liêm sỉ của ông đã gả hai con gái cho một người có tiềm năng giàu có và bảo đảm được thêm 7 năm phục vụ nữa của con rể như một lợi tức được thêm.
Gia-cốp đã phản kháng cách La-ban đối xử với ông và Ra-chên, nhưng ông nhu mì chấp nhận vận số của mình và trở lại với công việc thêm 7 năm nữa. Dần dần, Gia-cốp đã học cách đầu phục bàn tay kỷ luật yêu thương của Đức Chúa Trời và tăng trưởng trong đức tin cùng tính cách. Vào cuối tuần hôn nhân của Lê-a, Gia-cốp đã lấy Ra-chên, người nữ ông yêu mến, và có một tuần nữa để sống như một vị vua. Nhưng từ lúc đó trở đi, ông sẽ chịu đựng 13 năm gian khổ và xung đột, không chỉ vì cha vợ của ông, mà còn vì những người vợ của ông và những tớ gái của họ.
La-ban chắc đã mãn nguyện về sự thành công của mưu kế mình, nhưng không nhận ra rằng Chúa đang cai trị và tể trị trong toàn bộ sự kiện. “Chẳng só sự khôn ngoan nào, sự thông sáng nào, kế hoạch nào có thể thành công nghịch với Đức Giê-hô-va” (Ch 21:30). Như Giô-sép con trai của Gia-cốp nhiều năm sau sẽ nói: “Các anh toan làm ác nghịch với tôi, nhưng Đức Chúa Trời toan làm điều tốt” (Sa 50:20 NKJV). Cơ-đốc nhân ngày nay sẽ trích dẫn Rô 8:28)...
2. Tư cách cha mẹ: xây dựng gia đình (Sa 29:1-30) (Sa 29:31-30:24)
Sách Nhã-ca nhắc nhở chúng ta rằng dân Do-thái chưa bao giờ đánh giá thấp những niềm vui riêng tư về hôn nhân, nhưng họ cũng nhấn mạnh trách nhiệm có con cái và xây dựng một gia đình kính sợ Đức Chúa Trời. “Nếu Đức Giê-hô-va không cất nhà, thì những thợ xây cất làm uổng công… kìa, con cái là cơ nghiệp từ Đức Giê-hô-va, bông trái của tử cung là phần thưởng của Ngài” (Thi 127:1, 3 NKJV).
Dân Do-thái nhìn tư cách cha mẹ như một chức quản gia trước mặt Đức Chúa Trời, và điều này đặc biệt đúng trong trường hợp của Gia-cốp, mà con cháu ông sẽ nhiều lên “như sao trên trời và như cát trên bờ biển” (Sa 22:17 KJV). Đức Chúa Trời sẽ đề cao ông bằng cách khiến ông trở nên tổ phụ của 12 chi phái Y-sơ-ra-ên, nhưng việc bốn người đàn bà có liên quan trong việc xây dựng gia đình ông sẽ tạo ra cho Gia-cốp vấn đề này đến vấn đề khác. Người đã lớn lên trong một gia đình chia rẽ và cạnh tranh (Sa 25:28) sẽ tự tạo ra một gia đình chia rẽ và cạnh tranh.
• Con cái của Lê-a (Sa 29:31-35; Sa 30:17-21).
Từ “ghét” trong câu 31 không có ý nói đến sự ngược đãi thực sự nào của Gia-cốp; Nó chỉ có nghĩa là ông yêu Ra-chên hơn yêu Lê-a và dành cho Ra-chên sự chú ý và tình cảm nhiều hơn (Phuc 21:15-17 và lời của Chúa chúng ta trong Mat 6:24 với Lu 14:26). Việc Lê-a sanh cho Gia-cốp sáu con trai và một con gái cho thấy rằng ông đã thực hiện những bổn phận hôn nhân đối với nàng, nhưng nàng biết lòng ông thuộc về em gái nàng.
Chúa cũng biết điều này, vì vậy Ngài chúc phước cho Lê-a bằng sự thụ thai. Thật nghịch lý Gia-cốp đã làm việc 14 năm để trả công ông được hai người vợ, nhưng chỉ một người vợ sinh con. Gia-cốp biết rằng con cái là phước hạnh từ Chúa (Sa 30:1-2), vì chính Đức Chúa Trời đã ban Y-sác cho Áp-ra-ham với Sa-ra và ban Gia-cốp với Ê-sau cho Y-sác cùng Rê-bê-ca (Thi 139:13-16).
• Lê-a đặt tên cho con đầu lòng của nàng là Ru-bên, nghĩa là “hãy xem, một con trai!”. Trong ngôn ngữ Hê-bơ-rơ, tên này có vẻ như “Đức Chúa Trời đã nhìn thấy nỗi khổ của tôi”. Vì mọi người cha Do-thái đều muốn có con trai (Thi 127:4-5), Lê-a biết chắc rằng đứa trẻ này sẽ khiến chồng nàng yêu nàng. Tuy nhiên, nàng đã sai lầm. “Si-mê-ôn” nghĩa là “nghe” và gợi ý rằng Lê-a đã nói với Đức Chúa Trời về sự khốn khổ của nàng. Những năm sau, Gia-cốp sẽ thay thế Ru-bên và Si-mê-ôn bằng hai con trai của Giô-sép: Ép-ra-im và Ma-na-se (Sa 48:1-6). Họ được thay thế vì Ru-bên đã phạm tội tình dục (Sa 35:22; Sa 49:3-4; ISu 5:1-2) và Si-mê-ôn đã dự phần vào cuộc tàn sát của dân Si-chem (Sa 34:24-31; Sa 49:5-7).
• “Lê-vi” là tên nàng đặt cho con trai thứ ba, và nó có nghĩa là “dính díu”, vì Lê-a vẫn hy vọng rằng Gia-cốp sẽ yêu nàng bởi cớ những con trai nàng đã sanh cho ông. Hẳn là đau khổ cho nàng khi phải dâng mình cho một người chồng chỉ làm bổn phận chớ không chia sẻ tình cảm của mình. Nhưng sự ra đời của con trai thứ tư của nàng dường như đem đến một niềm vui mới cho đời sống nàng, vì nàng gọi là Giu-đa, đến từ tiếng Hê-bơ-rơ nghĩa là “ngợi khen”. Thay vì phàn nàn với Chúa về người chồng vô cảm của mình, giờ đây nàng ngợi khen Chúa về những phước hạnh của Ngài. “Lần này tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va” (Sa 29:35).
Sau một thời gian son sẻ, Lê-a đã được Đức Chúa Trời giúp có thể sinh hai con trai nữa: Y-sa-ca, nghĩa là “phần thưởng, tiền công” và Sa-bu-lôn, có thể nghĩa là “tôn trọng” (Sa 30:14-21).
Vào thời đó, trái của cây phong già được gọi là “trái táo tình yêu” và được xem là một liều thuốc tình yêu mạnh mẽ. Khi Ra-chên nhìn thấy những trái phong già của Ru-bên, nàng cần chúng để sử dụng riêng và sẵn sàng cho Lê-a một đêm với Gia-cốp như “tiền công” cho những trái đó. Có lẽ Ra-chên nghĩ rằng bằng cách ăn trái phong già nàng sẽ trở nên dễ sinh sản.
Chúng ta nhìn thấy ở tình tiết này chứng cớ nữa về sự tăng trưởng thuộc linh của Gia-cốp, vì không chỉ La-ban bảo ông việc phải làm; mà những người vợ của ông cũng lập những hiệp ước để ông không biết gì cho đến khi ông trở về nhà mệt mỏi vì chăn đàn chiên. Ra-chên và Lê-a đã đối xử với Gia-cốp như một đầy tớ và sử dụng ông như một vật cầm cố trong việc mặc cả về gia đình của họ, và ông kiên nhẫn chịu đựng điều đó.
• Con cái của Bi-la (Sa 30:1-8).
Việc Gia-cốp có thể nổi giận với người vợ yêu quý của ông sẽ không làm chúng ta ngạc nhiên. Thậm chí những cặp vợ chồng yêu thương nhất đôi lúc cũng có những bất đồng, và xét cho cùng, nàng trách cứ ông về điều gì đó mà ông không kiểm soát được. Nhưng điều Ra-chên cần không phải là một bài thuyết trình về thần học hay y học phụ khoa. Nàng cần sự thông hiểu ân cần của chồng và sự khích lệ mà chỉ tình yêu của ông mới có thể cung ứng.
Qua việc cho Bi-la đầy tớ mình để trở thành người mẹ thay thế (chương 16), Ra-chên đã thực hiện quyền lợi của mình theo luật của xứ và đồng ý rằng Bi-la sẽ trở thành vợ của Gia-cốp. Nhóm từ “sinh đẻ trên đầu gối tôi” (Sa 30:3 KJV) chỉ về việc nhận làm con cách hợp pháp đối với bất cứ đứa trẻ nào do Gia-cốp sinh ra và sinh bởi Bi-la (Sa 50:23).
Chúa đã nhậm những lời cầu nguyện của Ra-chên (Sa 30:6), vì Bi-la đã thụ thai và sinh một con trai, đứa con mà Ra-chên tuyên bố là con của mình và đặt tên là Đan, tên này đến từ một từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “sự bào chữa, sự xét đoán”. Nàng gọi con trai thứ hai của Bi-la là Nép-ta-li (“sự đấu địch của tôi”) vì có những cuộc vật lộn nàng đã kinh nghiệm về những phước hạnh mà người chị sinh sản nhiều hơn của nàng đã hưởng. Với sự ra đời của Nép-ta-li, Bi-la thôi thụ thai.
• Xinh-ba (Sa 30:9-13).
Sự son sẻ tạm thời của Lê-a (đối chiếu c.9 với c.14-21) đã thôi thúc nàng cho Gia-cốp một người vợ thứ tư, Xinh-ba đầy tớ gái của nàng, và giống như Ra-chên, để tuyên bố con cái của Xinh-ba là con cái của nàng. Nàng đặt tên con trai thứ nhất là Gát (“may mắn đã đến”) và đứa con trai thứ hai là A-se (“phước, vui mừng”).
• Ra-chên (Sa 30:22-24).
Cuối cùng Ra-chên thụ thai và sinh một con trai mà nàng đặt tên là Giô-sép. Những trái phong già không có liên quan gì đến sự thai nghén. Chính Đức Chúa Trời đã ban phước cho nàng trong sự nhậm lời cầu nguyện của nàng. Từ Hê-bơ-rơ “qsaf” nghĩa là “cất đi” và “ysoef” nghĩa là “chêm vào”.
Đức Chúa Trời đã cất đi sự xấu hổ của nàng về việc không có con và thêm vào những phước hạnh cho nàng. Lời cầu nguyện của nàng “cầu xin Đức Giê-hô-va thêm cho một con trai nữa” (c.24) đã được nhậm qua sự ra đời của Bên-gia-min (“con trai tay hữu của tôi”, nhưng việc sinh đẻ đã dẫn đến cái chết của nàng (Sa 35:16-20). Chính Giô-sép là người Đức Chúa Trời sẽ sử dụng để cứu cả gia đình suốt thời kỳ của nạn đói khủng khiếp.
3. Nghề nghiệp: lập kế sinh nhai của bạn (Sa 29:25-35)
Đã đến lúc để Gia-cốp dời gia đình đông người của ông đến quê hương của ông và ở nơi của chính ông. Giờ đây ông đã có 11 con trai với một con gái, và đã có nhiều hơn phần mặc cả của ông. Ông được quyền tự do. Đó là lúc để ngưng làm việc cho La-ban và bắt đầu xây dựng sự bảo đảm tương lai của ông.
Nhưng La-ban xảo trá không định để mất con rể mình, đặc biệt khi ông biết rằng sự hiện diện của Gia-cốp đã đem đến cho ông sự chúc phước của Đức Chúa Trời (c.27-30). Trong khi đó, La-ban không quan tâm đến Đức Chúa Trời của Gia-cốp: ông chỉ quan tâm đến những phước hạnh ông nhận được vì cớ Đức Chúa Trời của Gia-cốp. La-ban chắc chắn biết đến những lời hứa Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham và con cháu người (Sa 12:3), và ông muốn có hầu hết từ đó.
Tuy nhiên, lần này Gia-cốp đã sẵn sàng đối với cha vợ mình, vì Chúa đã nói với Gia-cốp trong một giấc chiêm bao và cho ông biết chính xác điều phải làm (Sa 31:1-13). Tất cả những gì Gia-cốp cần cho tiền công của ông là đặc quyền gây dựng bầy chiên và dê của ông từ những con vật có vằn và đốm trong bầy của La-ban, những con vật bị xem là yếu kém ở phương diện nào đó. Những con vật này sẽ được tách ra khỏi bầy của La-ban một khoảng cách ba ngày đường, để La-ban có thể kiểm tra bất cứ lúc nào và biết ngay Gia-cốp có lấy trộm của ông hay không.
Những nhành cây lột vỏ của Gia-cốp cùng loại như những trái phong già của Ra-chên. Chúng đều là những sự thực hành dị đoan không có liên quan gì với điều thật sự xảy ra. Chính Đức Chúa Trời Đấng đã điều khiển cấu trúc di truyền của loài vật và làm nhiều thêm chiên với dê có sọc với đốm, do đó làm tăng của cải Gia-cốp rất nhanh chóng. Tại Bê-tên, Đức Chúa Trời đã hứa ban phước cho Gia-cốp, và Ngài đã giữ lời hứa của Ngài (Sa 28:13-15) và vì La-ban đã đồng ý với những điều khoản của Gia-cốp, ông không thể làm gì cho những kết quả này. Tất cả những con vật đó thuộc về Gia-cốp.
Suốt sáu năm tiếp theo, Gia-cốp đã trở nên một người rất giàu có vì cớ đức tin của ông và sự chúc phước của Chúa. Giờ đây ông sẵn sàng bắt đầu một cuộc sống độc lập, trở về xứ và dân của ông, và thực hiện bất cứ mục đích gì Đức Chúa Trời hoạch định cho ông. Khi đến Pha-đan A-ram 20 năm trước đó, tất cả những gì ông có là cây gậy của ông (Sa 32:10). Nhưng ông đã làm việc siêng năng, chịu khổ nhiều và tin cậy Đức Chúa Trời. Giờ đây ông đã có một gia đình đông đúc và làm chủ những bầy lớn chiên với dê khỏe mạnh, cũng như lạc đà, lừa và những đầy tớ chăm sóc cho tất cả những con vật.
-Sa 30:1-24; xem giải nghĩa Sa 29:1-30.
4. Sự tự do: phục hồi nguồn gốc của bạn (Sa 31:1-55)
Gia-cốp đã xa nhà 20 năm, và đó là lúc ông trở về với nguồn cội của mình. Y-sác cha ông và Ê-sau anh ông vẫn còn sống, và Gia-cốp có “việc chưa hoàn thành” nào đó để giải quyết với cả hai người.
• Thoát ra (Sa 31:1-2).
Cách nào Chúa đã cho Gia-cốp biết rằng đó là lúc để ra đi? Cùng một cách Ngài dẫn dắt dân Ngài hôm nay: chứng cớ trong lòng, những hoàn cảnh bên ngoài của đời sống và lẽ thật của Lời Ngài.
Sáu năm trước đó, Đức Chúa Trời đã đặt sự khao khát trong lòng Gia-cốp để trở về quê hương ông (Sa 30:25), và khao khát đó chưa bao giờ rời xa ông. Mặc dù, không phải mọi ao ước trong lòng người nhất thiết là tiếng nói của Đức Chúa Trời (Gie 17:9) và chúng ta phải cẩn thận thực hành sự sáng suốt, nhưng Chúa thường bắt đầu phán với chúng ta cách ấy.
Cùng với khao khát bên trong chúng ta, Đức Chúa Trời cũng hướng dẫn chúng ta như Ngài đã hướng dẫn Gia-cốp qua những hoàn cảnh quanh chúng ta (Sa 31:1-2). Đến cuối sáu năm gay go đó, Gia-cốp để ý rằng cha vợ của ông đã không thân thiện với ông như trước, phần lớn vì sự gia tăng về của cải của ông.
Những hoàn cảnh không phải luôn là ngón tay của Đức Chúa Trời chỉ ra đường lối Ngài (Công 27:1-15), nhưng chúng có thể là những sự bày tỏ ý nghĩa về ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời muốn thay đổi chúng ta, Ngài đôi lúc khiến chúng ta không thoải mái và xáo trộn lung tung (Phuc 32:11).
Cách thứ ba và quan trọng nhất mà Đức Chúa Trời dẫn dắt chúng ta là bởi Lời Ngài. Đức Chúa Trời đã phán với Gia-cốp trong một giấc chiêm bao (Sa 31:10-13), nhưng Gia-cốp đã ở trong Pha-đan A-ram để có được của cải mình. Sau đó Đức Chúa Trời phán với ông: “Hãy trở về xứ của tổ phụ ngươi và bà con ngươi, ta sẽ ở cùng ngươi” (c.3).
Khi câu chuyện của Gia-cốp mở ra, bạn sẽ khám phá rằng Đức Chúa Trời đã phán với ông mỗi khi ông gặp khủng hoảng quan trọng trong đời sống: rời khỏi nhà (Sa 28:12-15); trở về nhà (Sa 31:1-13), gặp Ê-sau (Sa 32:24), đi đến Bê-tên (Sa 35:1) và dời đến Ê-díp-tô (Sa 46:1-4) Đức Chúa Trời dẫn dắt chúng ta trong các nẻo công bình nếu chúng ta sẵn sàng đi theo (Thi 23:3).
Nhưng Gia-cốp đã để thời gian chia sẻ suy nghĩ của ông với Ra-chên và Lê-a: Vì xét cho cùng, ông đang yêu cầu họ rời khỏi dân tộc với quê hương của họ mà đi cùng ông đến xứ khác và dân khác. Mặc dù Lời Đức Chúa Trời là nguồn khôn ngoan chủ yếu của chúng ta trong việc thực hiện những quyết định (Thi 119:105), thật ích lợi để chúng ta hỏi ý kiến người khác và cân nhắc lời khuyên của họ, đặc biệt những người thân nhất với chúng ta. Cả Ra-chên và Lê-a đều đồng ý rằng cha của họ không công bằng với Gia-cốp hay yêu thương họ không đồng đều, và đó là lúc để thực hiện một khởi đầu mới. Ông không chỉ đối xử với chồng họ như một nô lệ tầm thường, ông còn vơ vét của hồi môn của họ (Sa 31:14-15).
Nhưng thay vì đối diện với La-ban một cách thành thật và tin cậy Chúa giữ những lời hứa của Ngài và giải quyết những sự việc, Gia-cốp đã chạy trốn cùng gia đình ông như một tội phạm trốn thoát khỏi công lý. Đây là một hành động sợ hãi và vô tín, chớ không phải một hành động của đức tin, vì “Ai tin sẽ không hành động vội vàng” (Ês 28:16 NKJV).
Thật ra, Gia-cốp sau đó đã thừa nhận với La-ban rằng ông ra đi bí mật và nhanh chóng vì ông sợ hãi (Sa 31:31). Biết và làm theo ý muốn Đức Chúa Trời thì chưa đủ, chúng ta cũng phải làm theo ý muốn Ngài theo cách Ngài muốn nó được thực hiện, cách sẽ làm vinh hiển Ngài nhất.
• Cuộc chạm trán (Sa 31:22-42).
Vì chỗ của La-ban và Gia-cốp cách nhau 3 ngày đường (Sa 30:36), nên mất thời gian lâu để tin này đến với La-ban rằng con rể của ông đã bỏ trốn, và vào lúc La-ban nhận tin, Gia-cốp đã ở xa. Phải mất một tuần để La-ban bắt kịp gia đình chạy trốn, và Gia-cốp với La-ban cuối cùng đã gặp nhau trong vùng đồi Ga-la-át.
La-ban tiếp tục tìm cách kiểm soát tình thế bằng cách quở trách Gia-cốp về cách ông lén trốn khỏi Pha-đan A-ram. Hãy hình dung kẻ mưu mô khôn khéo này hỏi Gia-cốp: “Tại sao cháu chạy trốn và gạt cậu?” (Sa 31:27). Thật sự lừa dối ông ta! La-ban đã trải 20 năm lừa dối Gia-cốp! Nhưng với tất cả sự quát tháo của mình, La-ban vô phương làm hại Gia-cốp vì Chúa đã cảnh cáo ông cẩn thận (c.24, 29). Đức Chúa Trời đã hứa bảo vệ Gia-cốp và Ngài đã giữ lời hứa của Ngài.
Nhưng điều làm La-ban giận dữ nhất là việc ai đó đã đánh cắp những tượng thần trong nhà của ông, và ông biết chắc thủ phạm ở trong gia đình Gia-cốp. Ông đã đúng: chính Ra-chên đã làm việc này (c.19), nhưng Gia-cốp không biết điều đó. Việc La-ban khốn khổ cho thấy rằng đức tin ông đặt ở nơi những hình tượng chớ không ở nơi Đức Chúa Trời chân thật Đấng mà Gia-cốp hầu việc. Bằng cách giả vờ bị ô uế vì cớ kinh nguyệt hằng tháng của mình, Ra-chên đã thoát khỏi sự phát hiện và rắc rối thêm với cha nàng.
Việc nhìn xem người cha vợ thủ đoạn của mình ngạo mạn lục soát tất cả những vật sở hữu của gia đình mình, khiến Gia-cốp giận dữ, và công bằng là vậy; rồi những cảm xúc đã bị chôn suốt 20 năm giờ đây thoát ra từ tấm lòng của ông. Gia-cốp công khai nói về việc làm giấu giếm của La-ban, thể nào ông đã lừa dối Gia-cốp, giao cho ông công việc khó khăn nhất, và thay đổi tiền công của ông nhiều lần. Đức Chúa Trời đã chúc phước cho La-ban vì cớ Gia-cốp, nhưng La-ban chưa bao giờ cảm ơn Chúa hay Gia-cốp, ông cũng không hoàn lại cho Gia-cốp những con vật ông thay thế vào phí tổn của riêng ông.
Nhưng điều quan trọng nhất trong lời nói của Gia-cốp là cách ông dành sự tôn trọng cho Chúa: “Nếu Đức Chúa Trời của cha tôi, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, sự kính sợ của Y-sác, không ở cùng tôi, chắc bây giờ cậu đã đuổi tôi ra tay không. Đức Chúa Trời đã nhìn thấy nỗi đau khổ tôi, cùng công việc hai tay tôi đã làm, nên quở trách cậu đêm qua” (c.42, NKJV). Quả là một lời chứng của một người có ý định nhường nhịn kẻ khác và làm điều mình được bảo!
• Sự đình chiến (Sa 31:43-55).
Lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời trong giấc mơ và sự bảo vệ mạnh mẽ của Gia-cốp cho La-ban biết rằng ông đã bị đánh bại, nhưng kẻ lừa dối già đời đã khoác vào cái bề ngoài can đảm không có gì thay đổi và tìm cách khiến mọi người nghĩ ông ta là một người hòa giải. Cả hai gia đình gom đá lại và cùng dự một bữa ăn trên đống đá đó như một dấu hiệu về hiệp ước họ đã đạt đến. Dùng bữa với nhau là một phong tục Đông phương khi tạo một hiệp ước ràng buộc (Sa 26:26-33).
Đống đá phải đại diện như một nhân chứng cho hiệp ước họ đã lập, nhưng nó cũng phải là một “tháp canh” (Mích-ba) hay ranh giới mà Gia-cốp hay La-ban đều không được vượt qua. Thật ra, “hiệp ước” của họ không phải là một sự tuyên bố về hòa bình. Đó chỉ là một sự đình chiến mà sẽ bị phá vỡ ra nếu mỗi bên vi phạm các điều khoản.
Thật tai hại khi cái gọi là “sự chúc phước ở Mích-ba” vẫn được tìm thấy trong những thánh ca Cơ-đốc (Sa 31:49) vì điều La-ban nói với Gia-cốp chẳng phải là một sự chúc phước gì cả (c.48-49). Xin chú giải lại, ông đã nói: “Chúng ta sẽ phân cách nhau, nhưng Đức Chúa Trời sẽ coi sóc cả hai chúng ta. Nếu cháu ngược đãi các con gái của cậu, cậu sẽ không biết nhưng Đức Chúa Trời sẽ biết. Vì vậy, hãy cẩn thận!”
La-ban không nhìn Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham và Y-sác là một Đức Chúa Trời nhân từ Đấng đã đem họ đến với nhau nhưng là một Quan án trên trời Đấng sẽ giữ họ khỏi làm hại nhau. Mặc cho những lời thề của họ, Gia-cốp và La-ban đã không tin cậy nhau, vì vậy họ phải tin cậy Chúa giữ họ khỏi làm hại nhau. Mích-ba là một đài tưởng niệm sự nghi ngờ và sợ hãi, chớ không phải tình yêu và sự tin cậy.
Gia-cốp kết thúc ngày này bằng việc dâng của lễ cho Chúa và mời bà con ông dự phần trong bữa ăn của lễ. Ông muốn Đức Chúa Trời của tổ phụ ông được tôn trọng trước gia đình ngoại đạo này đã gây cho ông quá nhiều khổ sở? Sáng hôm sau, La-ban tạm biệt ông và trở về nhà, và một chương dài gay cấn trong đời sống Gia-cốp đã đi đến kết thúc, một chương mà trong đó Đức Chúa Trời đã ở cùng ông từ đầu đến cuối (c.5, 24, 29, 42). Nhưng một chương mới chẳng bao lâu sẽ mở ra mà trong đó Ê-sau anh trai ông sẽ đóng một vai trò nổi bật.
Đời sống không dễ chịu, nhưng nếu chúng ta đầu phục những kỷ luật của Đức Chúa Trời và để Ngài hướng dẫn chúng ta trong những quyết định của chúng ta, chúng ta có thể chịu đựng những khó khăn một cách đắc thắng và phát triển loại tính cách làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể chiến thắng bằng cách tuyên bố những lời hứa như IPhi 5:10 “Nhưng nguyện Đức Chúa Trời của mọi ơn, Đấng đã kêu gọi chúng ta đến sự vinh hiển đời đời của Ngài bởi Chúa Giê-xu Christ sẽ làm cho anh em trọn vẹn, gây dựng, thêm sức và ổn định anh em sau khi anh em đã chịu khổ một thời gian” (NKJV).
Đức Chúa Trời của Gia-cốp không bao giờ thất bại.
27. THEO KỊP NGÀY HÔM QUA (Sa 32:1-34:21)
Khẩu hiệu của “Đảng Ingsoc” trong tiểu thuyết “Một ngàn chín trăm tám mươi tư” của George Orwell là “Ai điều khiển quá khứ thì điều khiển tương lai: ai điều khiển hiện tại thì điều khiển quá khứ?”
Khẩu hiệu khôn ngoan đó có thể có hiệu quả đối với các chính trị gia có quyền để viết lại những cuốn sách lịch sử, nhưng không ai có thể thay đổi chính lịch sử? Hai mươi năm trước đó, Gia-cốp đã chạy trốn Ê-sau để đến với La-ban, và giờ đây ông đang chạy trốn La-ban chỉ để trở thành người chạm trán Ê-sau! Sau 20 năm, quá khứ của Gia-cốp đã theo kịp ông, và ông sợ hãi. Thật lạ thể nào chúng ta tự mình tin rằng chúng ta có thể thoát khỏi quá khứ mà không gặt điều mình đã gieo. Điều Gia-cốp đã làm cho cha và anh của ông đã được Đức Chúa Trời tha thứ, nhưng thời gian và địa lý đều không thể thay đổi những hậu quả của những hành động đó.
Khi bạn nghiên cứu những hành động của Gia-cốp suốt thời gian khủng hoảng này trong đời sống ông, bạn thấy được minh họa những mâu thuẫn mà tất cả chúng ta đôi lúc đều kinh nghiệm giữa đức tin và sự sợ hãi, tin cậy Đức Chúa Trời và lập kế hoạch, cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ và sau đó hành động như thể chúng ta thậm chí không biết Đức Chúa Trời, khủng hoảng không tạo nên một con người. Nó bày tỏ bản chất một con người.
1. Nhìn xem (Sa 32:1-8)
Hoàn toàn an tâm rằng La-ban đã rời khỏi mình và Mích-ba đứng ở giữa họ, Gia-cốp hướng đến Bê-tên nơi mà Đức Chúa Trời đã chỉ định cho ông (Sa 31:3,13; Sa 28:15; Sa 35:1). Nhưng Gia-cốp biết rằng cuối cùng ông phải gặp Ê-sau vì trong lúc đi đến Bê-tên, ông sẽ đến gần núi Sê-i-rơ, nơi Ê-sau sống (Sa 33:16)
• Sự chuẩn bị.
“Một anh em bị xúc phạm thì khó hơn chiếm thành kiên cố” (Ch 18:19 NKJV). Thấy trước một sự tái hợp khó khăn với Ê-sau, Gia-cốp sử dụng một phương cách khôn ngoan và sai các sứ-giả đi trước để thông báo cho anh của ông rằng ông sắp đến. Nhưng thay vì giao phó toàn bộ vấn đề cho Chúa, Đấng đã bảo vệ ông khỏi La-ban, Gia-cốp chọn một thái độ hạ mình không có lợi cho người đã được Đức Chúa Trời chọn để thực hiện giao ước Áp-ra-ham. Sai sứ-giả đi là một ý tưởng hay, nhưng gọi Ê-sau là “chúa tôi” và bản thân là “kẻ tôi tớ Chúa”, rồi tìm cách gây ấn tượng cho Ê-sau bằng của cải của mình, là bằng chứng duy nhất rằng Gia-cốp không tin cậy Đức Chúa Trời chăm sóc ông.
• Sự bảo vệ.
Hãy hình dung sự ngạc nhiên của Gia-cốp khi ông thấy một đội quân Thiên-sứ ở “trước mặt ông!” Ông kêu lên: “Đây là đội quân của Đức Chúa Trời!” và ông gọi nơi này là “Ma-ha-na-im” nghĩa là “hai trại quân” trại quân của Gia-cốp và trại quân của Đức Chúa Trời. Hai mươi năm trước, Gia-cốp đã thấy các Thiên-sứ tại Bê-tên và biết rằng Đức Chúa Trời ở cùng ông (Sa 28:10-12).
Nhưng giờ đây ông khám phá rằng đội quân Thiên-sứ của Đức Chúa Trời có mặt ở đó để bảo vệ ông và tranh chiến cho ông. Vì vậy không có lý do gì để sợ hãi. “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì ai có thể nghịch với chúng ta?” (Rô 8:31 KJV).
Thiên-sứ học là một môn học phổ biến ngày nay, và những cửa hàng thế gian bày ra hằng tá sách nói về Thiên-sứ, không phải tất cả các sách có nội dung phù hợp với Kinh Thánh. Thiên-sứ là những vị thần có thật và họ hầu việc dân sự Đức Chúa Trời (Thi 34:7; Thi 46:7,11; Hêb 1:13-14), nhưng chính Đức Chúa Trời ra lệnh cho họ, chớ không chỉ con người. Một ngày nào đó trên trời, chúng ta sẽ thấy mức độ họ đã giúp đỡ gia đình Đức Chúa Trời trong những lúc khó khăn và nguy hiểm. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta sẽ phải để Đức Chúa Trời bảo các thiên-binh điều phải làm.
• Bày kế.
Khi Gia-cốp cùng gia đình ông, các đầy tớ, bầy chiên và bầy gia súc từ từ đi hướng Tây Nam đến Bê-tên, các sứ-giả đi nhanh đến núi Sê-i-rơ. Vào lúc Gia-cốp đến Gia-bốc, một địa phận của Giô-đanh, các sứ-giả trở về với một tin xấu: Ê-sau và 400 người sắp đến gặp Gia-cốp. Nghĩ đến điều xấu nhất, Gia-cốp vội vàng kết luận rằng anh của ông đã đến để trả thù ông và gia đình ông. Một lương tâm tội lỗi thường khiến chúng ta nhìn thấy bức tranh đen tối nhất có thể xảy ra.
Khi đức tin bị tràn ngập sự sợ hãi, chúng ta có xu hướng bắt đầu lập kế hoạch và tin cậy tiềm năng của chính mình. Một phụ nữ đã nói với nhà truyền giáo D. L. Moody “Tôi đã tìm thấy một câu kỳ diệu để giúp tôi thắng hơn sự sợ hãi”, và bà trích dẫn Thi 56:3 “Lúc nào tôi sợ hãi tôi sẽ tin cậy nơi Ngài” (KJV). Moody nói: “Tôi có thể cho bà một lời hứa tốt hơn” và ông trích dẫn Ês 12:2 “Này Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi, tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi”.
Tín-hữu nào bước đi bởi đức tin thì không cần sợ hãi kẻ thù hay bất cứ tin xấu nào có thể cản lối họ. “Người không sợ cái tin hung, lòng người vững bền, tin cậy nơi Đức Giê-hô-va” (Thi 112:7). Nhưng Gia-cốp “rất sợ hãi và sầu não” (Sa 32:7) và do đó trở lại với phương sách cũ của ông là vạch kế hoạch.
Thay vì nhớ đến khải tượng đầy khích lệ về đội quân Thiên-sứ của Đức Chúa Trời, Gia-cốp đã chia trại quân của ông ra hai nhóm hầu cho nếu một nhóm bị tấn công, thì nhóm kia có thể thoát được. Đó là một chiến lược tầm thường chống lại 400 người, và Gia-cốp sẽ trở nên khá hơn khi duy trì hai nhóm ban đầu - nhóm người của ông và đội quân thiên-sứ của Đức Chúa Trời – và tin cậy Đức Chúa Trời giúp ông vượt qua khó khăn.
2. Cầu nguyện (Sa 32:9-12)
Lời cầu nguyện của Gia-cốp là một trong những lời cầu nguyện lớn được ghi lại trong Kinh Thánh, nhưng nó được cầu nguyện bởi một người có đức tin rất yếu đuối. Ông giống như người cha của đứa trẻ bị quỷ ám, đã kêu cầu: “Lạy Chúa, tôi tin, xin hãy giúp đỡ sự vô tín của tôi!” (Mac 9:24 NKJV).
Mỗi câu tuyên bố trong lời cầu nguyện này cho thấy Gia-cốp có một sự hiểu biết sâu sắc về đường lối của Đức Chúa Trời và tính cách của Đức Chúa Trời, nhưng ông đang cầu nguyện trong sự tuyệt vọng chớ không phải trong sự tin quyết. Hãy chú ý những lý luận ông trình bày trước Đức Chúa Trời về lý do Chúa phải giải cứu ông khỏi Ê-sau.
• Giao-ước của Đức Chúa Trời (Sa 32:9a).
Đức Chúa Trời trong ân-điển Ngài đã kêu gọi Áp-ra-ham và lập một giao-ước với ông (Sa 12:1-3), và giao-ước đó đã được tái khẳng định với Y-sác và Gia-cốp. Chính trên cơ sở của giao-ước đó mà Gia-cốp cầu xin Đức Chúa Trời, sự giúp đỡ mà ông hết sức cần. Dân sự Đức Chúa Trời ngày nay đến gần ngôi ơn phước nhờ Chúa Giê-xu trên cơ sở của giao-ước mới Ngài đã lập bởi chính huyết Ngài (Hêb 8:6-13; Hêb 12:22-24).
• Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời (Sa 32:9b).
Gia-cốp chắc chắn sung sướng khi thoát khỏi sự điều khiển của La-ban, nhưng đó là ý định của Đức Chúa Trời để ông rời khỏi Pha-đan A-ram và trở về xứ của mình (Sa 31:13). Gia-cốp đã quên rằng mệnh lệnh của Đức Chúa Trời luôn bao gồm khả năng thực hiện của Đức Chúa Trời, vì ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ dẫn chúng ta đến nơi mà quyền năng Đức Chúa Trời không thể bảo vệ chúng ta và chu cấp cho chúng ta. Nhưng trí tưởng tượng của Gia-cốp đã chạy trước thuyết thần học của ông, và ông chắc chắn Ê-sau sẽ đến tiêu diệt ông.
• Sự chăm sóc của Đức Chúa Trời (Sa 32:10).
Khi Gia-cốp nhìn lại 20 năm quá khứ, ông nhớ lại Đức Chúa Trời về cách kỳ diệu Ngài đã chăm sóc ông. Trong mọi thử thách và gánh nặng đến với Gia-cốp, Đức Chúa Trời thành tín và ân cần chăm sóc ông. Khi Gia-cốp đến nhà La-ban, tất cả những gì ông có là cây gậy hành hương của ông, và giờ đây, bởi sự chúc phước của Đức Chúa Trời, ông là một người giàu có. Vì sao Đức Chúa Trời chăm sóc ông trong 20 năm và sau đó để ông bị anh mình giết hại?
• Những mục đích của Đức Chúa Trời (Sa 32:11).
Gia-cốp không chỉ nghĩ đến bản thân, nhưng ông cũng nghĩ đến gia đình ông và kế hoạch vĩ đại của Đức Chúa Trời. Các con trai của Gia-cốp sẽ nhiều thêm và trở thành dân tộc Y-sơ-ra-ên, và qua Y-sơ-ra-ên Đức Chúa Trời sẽ đem phước hạnh đến cho cả nhân loại. Chúa Cứu Thế sẽ đến từ chi phái Giu-đa và chịu chết thay tội lỗi của thế gian, còn Phao-lô sẽ đến từ chi phái Bên-gia-min và đem Phúc-Âm đến cho dân ngoại. Phải chăng mục đích đời đời này chắc chắn thất bại vì sự giận dữ của một người?
• Lời hứa của Đức Chúa Trời (Sa 32:12).
Gia-cốp nhắc với Chúa về những lời hứa Ngài đã lập với ông tại Bê-tên (Sa 28:12-15), đặc biệt là Ngài sẽ làm ích lợi cho ông và thêm nhiều con cháu ông. Đức Chúa Trời bảo với Gia-cốp rằng Ngài sẽ ở cùng ông và đem ông trở lại Bê-tên, rằng Ngài sẽ thực hiện những mục đích của Ngài trong và qua ông. Nếu Đức Chúa Trời cho phép Ê-sau và thuộc hạ giết Gia-cốp và gia đình ông, không lời hứa nào trong những lời hứa đó sẽ được thực hiện.
Mặc dù chúng ta không muốn bắt chước sự sợ hãi, sự vô tín, việc vạch kế hoạch của Gia-cốp, và xu hướng vội vàng đi đến kết luận của ông, chúng ta sẽ hành động đúng để cầu nguyện cách ông đã cầu nguyện. Ông đã tuyên bố những lời hứa của Đức Chúa Trời, nhớ đến sự nhân từ của Đức Chúa Trời, và tin cậy hoàn toàn nơi tính cách cùng giao-ước của Đức Chúa Trời. Dù hoàn cảnh nào chúng ta có thể đối diện hay nỗi sợ hãi nào có thể làm sững sờ lòng ta, chúng ta có thể tin cậy Đức Chúa Trời thành tín với tính cách của Ngài và Lời Ngài. “Tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi”.
3. Xoa dịu (Sa 32:13-21)
Bạn sẽ nghĩ rằng một lời cầu nguyện có nội dung thần học vững chắc loại đó sẽ đem sự bình an của Đức Chúa Trời đến cho lòng Gia-cốp, nhưng không phải vậy, và trong sự bồn chồn của mình, ông quyết định hành động. Ông nói “Ta sẽ làm người nguôi giận” (c.20) và kết hợp một món quà đắt tiền.
Ngài Robert Walpole, thủ tướng đầu tiên của Anh Quốc, đã nói trong quốc hội Anh “Tất cả những người đó có cái giá của họ”. Nhiều người trên thế giới đi theo triết lý đó (“Mọi người đều có cái giá của mình”), chính cái triết lý mà Gia-cốp đã theo khi ông tập hợp món quà của ông bao gồm 580 con vật quý giá. Ông chia chúng thành những bầy riêng rẽ và bảo những người chăn giữ khoảng cách giữa mỗi bầy để Ê-sau không tránh khỏi bị gây ấn tượng với sự hào phóng của em mình.
Thậm chí hơn nữa, mỗi người chăn bầy phải nói với Ê-sau cùng một lời: “Chúng thuộc về Gia-cốp kẻ tôi tớ Chúa. Ấy là một món quà gởi cho Ê-sau chúa tôi” (c.18). Với những từ như “kẻ tôi tớ chúa” và “chúa tôi”, Gia-cốp tỏ ra quá đê hèn và ông quên việc Đức Chúa Trời đã khiến ông trở thành chúa trên bà con mình, kể cả Ê-sau (Sa 27:29). Gia-cốp thận trọng định theo sau đoàn người cuối cùng, hy vọng rằng ảnh hưởng kết hợp của món quà sẽ sửa soạn cho Ê-sau tha thứ ông và tiếp đón ông khi họ cuối cùng gặp mặt.
Chúng ta đã biết rằng đức tin là sống mà không vạch kế hoạch. Nhưng trước khi chúng ta chỉ trích Gia-cốp, chúng ta cần xét lòng mình để thấy chúng ta có từng phạm tội về việc cầu nguyện một cách tin kính và sau đó cậy nơi những kế hoạch và tiềm lực riêng của mình hay không. Đúng là “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia 2:20 KJV), nhưng món quà của Gia-cốp không phải là một công việc của đức tin vì Đức Chúa Trời không ra lệnh điều ấy. Câu nói của các cụ già “Chúa giúp những ai giúp bản thân mình” hoàn toàn không phù hợp với Kinh Thánh. Đức tin thật đặt cơ sở trên Lời Đức Chúa Trời (Rô 10:17), và bất cứ điều gì chúng ta làm mà không được thúc đẩy bởi đức tin, đều là tội lỗi (Rô 14:23), cho dù điều đó có vẻ thành công ra sao.
Vấn đề thật sự không phải là Ê-sau: đó là Gia-cốp, vì vậy, Đức Chúa Trời giờ đây sẽ giải quyết vấn đề đó.
4. Vật lộn (Sa 32:22-32)
Thật nguy hiểm để lội qua sông vào đêm, nhưng Gia-cốp thích đánh bạo vượt qua hơn là chịu nguy cơ mất những người thân yêu của mình, vì vậy ông dời gia đình đến chỗ ông hy vọng là một nơi an toàn. Quên về đội quân của Đức Chúa Trời, ông muốn cái gì đó giữa gia đình và đội quân của anh ông. Gia-cốp đặt ra “hai trại quân” của riêng ông.
Giờ đây Gia-cốp ở lại một mình, và khi chúng ta trơ trọi ở tận cùng những tiềm lực của mình, khi ấy Đức Chúa Trời có thể đến với chúng ta và làm điều gì đó trong chúng ta và cho chúng ta. Hãy chú ý ba cuộc chạm trán mà Gia-cốp đã kinh nghiệm vào đêm khó khăn đó.
• Gia-cốp gặp Chúa (Sa 32:22-26).
Nhà văn tiểu luận người Anh Walter Savage Landor đã gọi nơi vắng vẻ là “khán phòng của Đức Chúa Trời” và ông nói đúng. Khi chúng ta ở một mình, chúng ta không thể trốn thoát vào trong tấm lòng cùng tâm trí của người khác và bị bối rối; chúng ta phải sống với chính mình và đối diện với chính mình. Hai mươi năm trước, Gia-cốp đã gặp Chúa khi ông ở một mình tại Bê-tên, và giờ đây Đức Chúa Trời nhân từ đến với ông lần nữa trong giờ cần thiết (c.28,30; Ôs 12:2-6).
Đức Chúa Trời gặp chúng ta ở bất cứ mức độ nào mà Ngài tìm thấy chúng ta để nhắc chúng ta lên nơi Ngài muốn chúng ta ở. Đối với Áp-ra-ham người hành hương, Đức Chúa Trời đã đến như một lữ khách (Sa 18:1-33), và với Giô-suê vị tổng chỉ huy, Ngài đến như một chiến sĩ (Giôs 5:13-15). Gia-cốp đã trải qua hầu hết đời sống trưởng thành để vật lộn với con người – Ê-sau, Y-sác, La-ban và cả những người vợ của ông, vì vậy Đức Chúa Trời đã đối với ông như một người vật lộn. “Đối cùng kẻ thanh sạch, Chúa sẽ tỏ mình thanh sạch lại, còn đối cùng kẻ trái nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt nhiệm lại” (Thi 18:26).
Tại Bê-tên, Đức Chúa Trời đã hứa ban phước cho Gia-cốp, và về vật chất, lời hứa đã được thực hiện, vì Gia-cốp giờ đây là một người rất giàu có. Nhưng sự chúc phước của Đức Chúa Trời có nhiều hơn là những bầy chiên, bầy gia súc và các tôi tớ; Cũng có vấn đề về tính cách tin kính và ảnh hưởng thuộc linh. Suốt “đêm tăm tối của linh hồn” đó. Gia-cốp khám phá rằng ông đã dùng đời sống mình chiến đấu với Đức Chúa Trời và chống lại ý muốn Ngài, và con đường duy nhất đi đến chiến thắng là bởi sự đầu phục.
Như A. W. Tozer đã nói: “Chúa không thể chúc phước đầy đủ cho một người cho đến khi Ngài trước hết chinh phục người ấy” (2). Đức Chúa Trời đã chinh phục Gia-cốp bằng cách làm cho ông suy yếu.
• Gia-cốp gặp chính mình (Sa 32:27-32).
Hơn bất cứ điều gì khác, Gia-cốp cần sự chúc phước của Chúa trên đời sống ông, và vì sự khao khát thánh khiết này, ông phải được khen ngợi. Nhưng trước khi chúng ta có thể bắt đầu giống như Chúa, chúng ta phải đối diện với chính mình và thừa nhận chúng ta là gì trong chính mình. Đó là lý do Chúa hỏi ông “Tên ngươi là chi?”. Nói về sự ghi chép ở Sáng-thế ký, lần cuối cùng Gia-cốp được hỏi câu hỏi đó, ông đã nói dối! Cha ông đã hỏi: “Con ơi, con là đứa nào?” và Gia-cốp đã nói với cha mình: “Tôi là Ê-sau, con trưởng nam của cha” (Sa 27:18-19).
Chúa không hỏi câu hỏi này để lấy thông tin, vì Ngài chắc chắn biết tên của Gia-cốp và Gia-cốp có tiếng là một người mưu mẹo và là một người lừa dối. “Tên ngươi là chi” nghĩa là “Ngươi sẽ tiếp tục sống đúng với tên của ngươi, lừa dối bản thân và người khác, hay ngươi sẽ thừa nhận mình là gì và để ta thay đổi ngươi?” Trong Kinh Thánh, nhận một tên mới biểu thị việc tạo một khởi đầu mới (Sa 17:4-5; Dân 13:16; Gi 1:40-42) và đây là cơ hội của Gia-cốp để tạo một khởi đầu mới mẻ trong đời sống.
Tên mới Đức Chúa Trời ban cho ông là “Y-sơ-ra-ên”, từ một từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “đấu tranh”; nhưng các học giả không nhất trí về việc tên này có nghĩa gì. Một số người dịch nó là “người vật lộn với Đức Chúa Trời” hoặc “Đức Chúa Trời đấu tranh” hay “để Đức Chúa Trời cai trị”.
Lời giải thích trong c.28 đó là Gia-cốp đã có sức mạnh vì ông thắng thế. Ông thua cuộc chiến, nhưng ông giành được chiến thắng! Bằng cách tìm kiếm sự chúc phước của Đức Chúa Trời và cuối cùng bị suy yếu rồi bị buộc đầu phục, ông đã trở nên một “hoàng tử được Đức Chúa Trời ban quyền phép”. Giống như Phao-lô, người có cuộc chiến của mình để tranh chiến, Gia-cốp trở nên mạnh mẽ chỉ khi ông trở nên yếu đuối (IICôr 12:1-10).
G. Campbell Morgan đã gọi kinh nghiệm của Gia-cốp là “sự què quặt đội vương miện” và giải thích “Y-sơ-ra-ên” nghĩa là “một người được Đức Chúa Trời cai quản”. Tôi có khuynh hướng đồng ý với ông khi Đức Chúa Trời cai quản đời sống chúng ta, lúc ấy Ngài có thể giao phó cho chúng ta quyền năng Ngài, vì chỉ những ai ở dưới uy quyền của Ngài mới có quyền thực hiện quyền năng của Ngài. Trong lúc ở nhà, Gia-cốp đã hầu việc bản thân mình và tạo ra những vấn đề. Và suốt 20 năm ông đã phục vụ La-ban và tạo ra thêm những vấn đề, nhưng giờ đây ông sẽ hầu việc Đức Chúa Trời và trở thành một phần của câu trả lời.
Một lần nữa Gia-cốp đã đặt một cái tên đặc biệt cho một nơi đầy ý nghĩa, lần này là Phê-ni-ên (Penuel, Sa 32:31), nghĩa là “mặt của Đức Chúa Trời”. Ông đã tưởng rằng thấy mặt Đức Chúa Trời sẽ đem đến sự chết, nhưng việc ấy cuối cùng đem đến cho ông đời sống mới. Đó là bình minh của một ngày mới đối với Y-sơ-ra-ên/Gia-cốp (c.31). Ông đã có một tên mới, ông có một sự bước đi mới (ông đang đi khập khiễng), và ông có một mối liên hệ mới với Đức Chúa Trời sẽ giúp ông đối diện và giải quyết bất cứ vấn đề nào, chỉ khi ông sẽ thực hành đức tin. Cuộc thử nghiệm lớn sắp đến, vì Ê-sau đã đến hiện trường.
Giờ đây Gia-cốp đã sẵn sàng cho cuộc chạm trán thứ 3: gặp Ê-sau.
5. Thất bại (Sa 33:1-16)
Gia-cốp nhướng mắt lên thì thấy các Thiên-sứ (Sa 32:1-2), và ông thậm chí thấy Đức Chúa Trời mặt đối mặt (c.30) nhưng khi ông thấy Ê-sau và 400 thuộc hạ, ông dường như đánh mất mọi điều đã đạt được trong cuộc vật lộn của ông với chính mình và với Chúa. Được chúc phước trên đỉnh núi với Đức Chúa Trời là một việc và đem phước hạnh đó xuống thung lũng hoàn toàn là một việc khác. Gia-cốp đã gây bất lợi cho bản thân, gia đình và Đức Chúa Trời của ông trong nhiều phương diện.
• Bằng cách vạch kế hoạch thay vì tin cậy (Sa 33:1-2).
“Hoàng tử của Đức Chúa Trời” đã thôi cai trị và bắt đầu vạch kế hoạch. Giống như rất nhiều dân sự Đức Chúa Trời ngày nay, ông đã không sống đúng với địa vị mới của mình trong Chúa. Bằng cách để Ra-chên (vợ yêu quý của ông) và Giô-sép (con trai yêu quý của ông) ở phía sau những người khác trong gia đình, ông đã tạo ra một vấn đề mới trong gia đình, và không có gì ngạc nhiên khi các anh của Giô-sép ghét bỏ ông trong những năm sau đó. Bạn chắc chắn đã biết mình đứng đâu trong gia đình Gia-cốp!
• Bằng cách cúi đầu thay vì đi khập khiễng (Sa 33:3-7).
Dân Đông phương vào thời xưa khi gặp nhau, họ thường cúi đầu và trao những lời chào hỏi truyền thống (“Salom” hoặc “Shalom”), Những có nhiều hơn cả truyền thống có liên quan trong cách Gia-cốp và gia đình ông chào Ê-sau, Gia-cốp giờ đây là một “hoàng tử với Đức Chúa Trời” nhưng ông không hành động giống như vậy. Sa-lô-môn đã nói: “Ta đã thấy kẻ tôi tớ ở trên ngựa, trong khi các quan trưởng đi bộ trên đất giống như tôi tớ” (Tr 10:7 NKJV), và Gia-cốp đã là vật trưng bày thượng hạng của bi kịch này. Xét cho cùng người anh (Ê-sau) đã được xem là hầu việc người em (Sa 27:29), vậy tại sao người em phải cúi đầu?
Sức mạnh của Gia-cốp ở sự đi khập khiễng của ông, vì đó là một sự nhắc nhở thường trực rằng Đức Chúa Trời đã chinh phục ông và ông có thể tin cậy Chúa giúp ông vượt qua khó khăn. Nếu Gia-cốp đi khập khiễng, anh ông sẽ để ý điều đó và hỏi nguyên nhân, và đó sẽ là cơ hội vàng của Gia-cốp để cho ông biết điều Đức Chúa Trời đã làm cho mình. Bạn không thấy Ê-sau cúi đầu! Ngược lại, ông chạy đến em mình, ôm lấy cổ và hôn em.
• Bằng cách cầu xin thay vì làm chứng (Sa 33:8-15).
Việc Ê-sau chạy đến em ông, ôm lấy cổ và hôn em, rồi khóc là một bằng chứng rằng một sự thay đổi đã xảy ra trong lòng ông. Gia-cốp được dành cho một cánh cửa mở rộng để nói với Ê-sau về quá khứ và sắp xếp những vấn đề gia đình, vì xét cho cùng quân đội của Đức Chúa Trời đang bay lượn gần bên và Gia-cốp không cần phải sợ hãi. Nhưng thay vì xưng ra tội lỗi mình và làm chứng về ân-điển của Đức Chúa Trời trong đời sống mình, Gia-cốp đã để thời gian nài xin Ê-sau chấp nhận những món quà ông gởi đến.
Gia-cốp nói: “nếu em tìm thấy đặc ân trước mắt anh, xin hãy nhận món quà này từ em. Vì thấy mặt anh giống như thấy mặt Đức Chúa Trời” (c.10). Nhưng Gia-cốp đã thấy mặt Đức Chúa Trời mặt đối mặt, mà ông không nói gì với Ê-sau về điều ấy! Ông nói thêm: “Đức Chúa Trời đã nhân từ với em”, nhưng ông không cho Ê-sau biết những sự việc và quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời, ông đã không cho Ê-sau biết rằng ông có một tên mới, có lẽ vì ông đã không sống đúng với tên này vào lúc đó. Ông được tạo nên là một hoàng tử, nhưng ông hành động giống như một kẻ nghèo túng.
• Bằng cách hứa nhưng không thực hiện (Sa 33:12-17a).
Ê-sau đã làm việc tử tế này và đề nghị đi cùng người em theo hướng nam về nhà ông ở núi Sê-i-rơ, nhưng Gia-cốp không có mong muốn mất nhiều thời gian với Ê-sau. Giống như buổi tạm biệt với La-ban, cuộc gặp mặt của Gia-cốp với Ê-sau là một cuộc đình chiến, không phải là một sự hòa giải thật.
Nhưng Gia-cốp đã gây ấn tượng rằng nơi đến của ông thật sự là núi Sê-i-rơ (c.14), và ông đưa mọi lý do ông có thể nghĩ đến để thuyết phục Ê-sau đi trước ông và để ông tiếp tục theo sau. Sự lặp lại nhóm từ “chúa tôi” trong đoạn này có thể cho biết sự kính trọng và lịch sự của Gia-cốp, nhưng nó cũng gợi ý rằng Gia-cốp đang quỳ lụy lần nữa. Một điều chắc chắn Gia-cốp đang lừa dối lần nữa.
Ê-sau khởi hành trở về núi Sê-i-rơ, đi hướng Nam, còn Gia-cốp đi hướng Tây Bắc đến Su-cốt và đi xa hơn đến Si-chem. Không có ghi chép nào cho thấy Gia-cốp từng thăm viếng anh mình ở núi Sê-i-rơ. Có thể sau khi họ gặp nhau tại lễ tang của Y-sác, họ không bao giờ thấy nhau nữa (Sa 35:27-29).
6. Trì hoãn (Sa 33:1-16) (Sa 33:17b-34:31)
Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời là Gia-cốp phải trở lại Bê-tên (Sa 31:3) và sau đó về nhà ông nơi Y-sác vẫn sống, đó là Hếp-rôn (Sa 35:27). Ngược lại, ông nán lại, trước tiên tại Su-cốt và sau đó định cư gần Si-chem. Tại Su-cốt, người hành hương này lẽ ra phải sống trong lều trại (Hêb 11:9-16) được dựng làm nhà cho ông và chuồng cho bầy chiên với bầy gia súc của ông. (Từ “Su-cốt” nghĩa là “rạp”). Khi đi đến gần Si-chem, Gia-cốp mua một mảnh đất và trở thành một “người nước ngoài cư ngụ” trong xứ. Ông sẽ định cư trong xứ.
Rõ ràng Gia-cốp không vội vã để vâng lời Đức Chúa Trời và trở lại Bê-tên. Chúng ta khen ngợi ông vì đã dựng một bàn thờ và làm chứng công khai đức tin của ông nơi Chúa, nhưng của lễ không phải là vật thay thế cho sự vâng lời (ISa 15:22). Tên mà ông đặt cho bàn thờ (“Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên”) cho thấy ông đã tuyên bố tên mới của mình “Y-sơ-ra-ên”, nhưng ông chắc chắn không sống đúng với tất cả những gì mà tên ông ngụ ý. Vì ông nán lại trong vùng đất đó, Đi-na con gái ông đã bị cưỡng hiếp và hai con trai ông trở thành những kẻ sát nhân. Đó là một đường vòng đắt giá.
• Sự thiếu thận trọng (c.1).
Phải chăng Đi-na khờ khạo, bất trị hay chỉ thiếu hiểu biết về những việc của thế gian? Tại sao việc nàng quen biết những người nữ trong xứ lại rất quan trọng? và tại sao mẹ nàng không khuyên nàng và ai đó đáng tin cậy đi cùng nàng trong chuyến đi tham quan của nàng? (các anh nàng đã ở ngoài đồng với những bầy chiên). Vì vấn đề đó, tại sao Gia-cốp nán lại giữa láng giềng ngoại đạo này và cố tình gây nguy hiểm cho gia đình ông? Lẽ ra ông phải ở Bê-tên để dẫn dắt họ đến gần Chúa hơn.
Danh của Chúa không được đề cập một lần nào trong chương này, và sự khôn ngoan của Chúa chắc chắn cũng vắng mặt. Khi chúng ta bất tuân Chúa, chúng ta đặt chính mình và những người thân yêu của mình trong nguy hiểm. Hãy xem xét điều đã xảy đến với Áp-ra-ham ở Ê-díp-tô (Sa 12:10-20) và Ghê-ra (Sa 20:1), Lót ở Sô-đôm (Sa 19:1), Y-sác ở Ghê-ra (Sa 26:1-6), Sam-sôn ở Phi-li-tin (Cac 14:16). Ê-li-mê-léc với Na-ô-mi ở Mô-áp (Ru 1:1-22), và Phi-e-rơ trong sân của thầy tế lễ cả (Lu 22:54).
• Sự ô uế (c.2-5).
Ba lần bằng lối văn tự thuật từ “ô uế” được sử dụng để mô tả việc gian ác của Si-chem (c.5, 13, 27). Vị hoàng tử trẻ tuyên bố rằng chàng đã làm việc đó vì chàng yêu nàng và muốn nàng làm vợ mình, nhưng phạm tội cưỡng hiếp hung bạo và giam giữ người con gái trong nhà (c.26) là một cách kỳ lạ để tuyên bố tình yêu của chàng.
Nhưng những hành động và lời nói của chàng chỉ làm chứng sự thật, rằng dân sự Đức Chúa Trời và dân Ca-na-an có những tiêu chuẩn đạo đức khác nhau. Đối với dân Do-thái, hành động tình dục vi phạm Luật pháp của Đức Chúa Trời đem sự ô uế đến cho nạn nhân và sự xét đoán cho bên phạm tội. Trong những năm sau đó, luật Môi-se với những hình phạt của nó đã tìm cách bảo vệ con người bằng cách tuyên bố sự bậy bạ về tình dục vừa là một tội lỗi vừa là một tội ác (Le 18:1-30).
Sự im lặng của Gia-cốp khi ông nghe tin bi thảm (Sa 34:5)không chứng tỏ sự thờ ơ hay sự hèn nhát của ông. Vì các con trai của ông ở ngoài đồng với bầy chiên và gia súc, và ông không thể làm gì nếu không có sự giúp đỡ của họ, nên ông khôn ngoan chờ đợi.
• Sự lừa dối (c.6-24).
Khi các con trai của Gia-cốp đuợc cho biết điều đã xảy ra, họ đau khổ khi em gái của họ bị hãm hiếp và giận người đã làm việc đó. Cả hai phản ứng này đều bình thường và đúng đắn. Thay vì nhanh chóng tuyên chiến, họ giả vờ tìm sự hòa bình với các láng giềng và đề nghị làm việc với nhau, thậm chí với thông gia. Tất cả những gì mà những người Si-chem phải làm là đồng ý chịu phép cắt bì. Dĩ nhiên, sẽ cần nhiều hơn phép cắt bì để tạo nên dân Do-thái từ dân Ca-na-an, vì không có điều kiện giao ước nào có liên quan.
Dân Ca-na-an nhìn thấy phương sách này như một cơ hội để thu hút Y-sơ-ra-ên và dần dần chiếm hữu của cải cùng dân sự của họ, nhưng các con trai Gia-cốp sử dụng phương sách đó như một phương tiện để làm suy yếu những người nam và sẵn sàng cho việc tàn sát. Chưa bao giờ nghi ngờ sự nguy hiểm, những người nam trong thành chịu phép cắt bì.
• Sự trả thù (c.25-31).
Vào một thời điểm khi những người nam trong thành Si-chem quá đau đớn nên không thể tự bảo vệ mình, Si-mê-ôn và Lê-vi, hai anh trai của Đi-na tập hợp một số người nam trong trại của Gia-cốp và tấn công dân Si-chem, giết Hê-mô và con trai ông cùng tất cả những người nam trong thành. Sau đó, họ cướp bóc thành và bắt đi phụ nữ cùng trẻ em. Đó là một việc làm gian ác, và khi Gia-cốp nghe về việc ấy, ông giận dữ và sợ hãi. Nhưng suốt cuộc đời ông, vì ông đã dự phần bày mưu và lừa dối cha ông, nên ông không thể quở trách các con trai mình mà không đổ trách nhiệm cho bản thân.
Si-mê-ôn và Lê-vi chắc chắn đã đi quá xa bằng cách tàn sát dân Ca-na-an và cướp bóc thành họ để trả thù cho em gái họ, và Gia-cốp không bao giờ quên điều đó (Sa 49:5-7). Bởi sự lừa dối và sự hủy diệt tàn nhẫn của họ, họ đã phá hỏng lời chứng của Gia-cốp trước dân trong xứ.
Có ích lợi gì cho Gia-cốp để xây một bàn thờ và thờ phượng Đức Chúa Trời chân thật trước những láng giềng ngoại đạo của ông nếu con cái ông sẽ hành động như những kẻ ngoại đạo. Nhưng đáng buồn khi thấy rằng mối quan tâm lớn nhất của Gia-cốp không phải là sự bênh vực cho tính thánh khiết hay thậm chí chứng cớ của ông trong xứ, nhưng đúng hơn là sự an toàn của ông. Nếu Gia-cốp và gia đình ông ở Bê-tên nơi họ thuộc về đó, thì bi kịch này có lẽ đã không xảy ra.
• Nhưng đúng với lời hứa của Ngài (Sa 28:15)
Đức Chúa Trời đã không tuyệt giao với Gia-cốp. Vẫn có những nỗi đau buồn và niềm vui mừng xảy đến, nhưng Đức Chúa Trời của Gia-cốp sẽ chứng minh Ngài thành tín qua mọi điều đó.
-Sa 33:17-19 xem giải nghĩa Sa 33:1-16.
-Sa 34:1-31 xem giải nghĩa Sa 33:1-16.
28. BẠN CÓ THỂ LẠI TRỞ VỀ NHÀ (Sa 35:1-36:43)
Đi từ Sáng-thế ký đoạn 34 đến Sáng-thế ký đoạn 35 giống như đi từ một sa mạc đến một khu vườn hay từ một phòng cấp cứu đến một nơi chiêu đãi tiệc cưới. Không khí ở Sáng-thế ký đoạn 35 là không khí của đức tin và sự vâng lời, còn sự nhấn mạnh là về sự thanh sạch và đổi mới.
Đức Chúa Trời được đề cập 10 lần trong chương 35, và Ngài sử dụng danh Ngài “El Shaddai” nghĩa là “Đức Chúa Trời toàn năng, toàn quyền”. Hay hơn tất cả trong chương 35, bạn thấy những người hành hương của Đức Chúa Trời đang tiến tới lý và đến nơi Đức Chúa Trời chỉ định.
Tuy nhiên, bước đức tin mới của Gia-cốp đã không ngăn trở ông kinh nghiệm những vấn đề và những thử thách mới. Trong giai đoạn đổi mới này, Gia-cốp đã chôn cha ông và người vợ yếu quý của ông; và để thêm gánh nặng vào sự mất mát, con trai trưởng của ông đã phạm một tội lỗi khủng khiếp. Làm một Cơ-đốc nhân đắc thắng không có nghĩa là thoát khỏi những khó khăn của đời sống và chỉ vui hưởng những ngày thảnh thơi. Đúng hơn, nó có nghĩa là bước đi với Đức Chúa Trời bởi đức tin biết rằng Ngài ở cùng cùng ta, và tin cậy Ngài giúp đỡ chúng ta vì ích lợi của chúng ta và vì vinh hiển Ngài dù có những khó khăn Ngài cho phép cản lối chúng ta.
Cơ-đốc nhân trưởng thành không cầu nguyện “làm sao tôi có thể thoát ra khỏi điều này?” nhưng cầu nguyện “Tôi có thể rút ra cái gì từ điều này?”.
Chúng ta hãy để ý những điều mới mẻ xảy đến trong đời sống Gia-cốp.
1. Một khởi đầu mới (Sa 35:1-15)
Tin mừng về Phúc-Âm đó là chúng ta không phải ở con đường mình đang ở. Dù bao nhiêu lần chúng ta quên Chúa, chúng ta vẫn có thể lại trở về nhà nếu chúng ta thật sự ăn năn và vâng lời. Điều đó đã xảy ra cho Áp-ra-ham (Sa 13:1-4), Y-sác (Sa 26:17), Đa-vít (IISa 12:1-31) và Phi-e-rơ (Gi 21:15-19), và giờ đây điều đó đang xảy ra cho Gia-cốp.
• Đức Chúa Trời phán với Gia-cốp (Sa 35:1).
Nhiều năm qua Gia-cốp đã cứ nấn ná tại một nơi cách Bê-tên 30 dặm và đã trả giá đắt cho sự bất tuân của ông. Nhưng giờ đây Chúa phán với ông và bảo ông đi đến Bê-tên để định cư ở đó. Gia-cốp đã biết rằng Bê-tên là nơi Đức Chúa Trời chỉ định cho ông và gia đình ông (Sa 31:1-13), nhưng ông đã chậm chạp vâng lời. “Vậy hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ đâu, hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu” (Kh 2:5).
bottom of page